Tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác mua hàng tại công ty bách hóa số 5 Nam Bộ: Luận văn
Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện công tác mua hàng tại
công ty bách hóa số 5 Nam
Bộ
Luận văn tốt nghiệp
Khoa Quản trị doanh nghiệp 1 Nguyễn Thị
Hương
Lớp K36A4
MỞ ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển hoá mạnh mẽ
sang cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà
nước.
Trong cơ chế thị trường, để thực hiện chiến lược phát triển của nền kinh tế,
các doanh nghiệp đã và đang khắc phục những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại
của của chế cũ. Từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp bước sang cơ chế
quản trị kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường. Sau hơn mười năm đổi mới nền
kinh tế, nước ta đã có những thành tựu lớn tạo nên một bước ngoặt lịch sử trong sự
phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị
trờng thì phải nắm vững được thị hiếu của người tiêu dùng, giảm chi phí, hạ giá
thành, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu, thị hi...
78 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác mua hàng tại công ty bách hóa số 5 Nam Bộ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện công tác mua hàng tại
công ty bách hóa số 5 Nam
Bộ
Luận văn tốt nghiệp
Khoa Quản trị doanh nghiệp 1 Nguyễn Thị
Hương
Lớp K36A4
MỞ ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển hoá mạnh mẽ
sang cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà
nước.
Trong cơ chế thị trường, để thực hiện chiến lược phát triển của nền kinh tế,
các doanh nghiệp đã và đang khắc phục những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại
của của chế cũ. Từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp bước sang cơ chế
quản trị kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường. Sau hơn mười năm đổi mới nền
kinh tế, nước ta đã có những thành tựu lớn tạo nên một bước ngoặt lịch sử trong sự
phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị
trờng thì phải nắm vững được thị hiếu của người tiêu dùng, giảm chi phí, hạ giá
thành, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu đó.
Tuy nhiên không phải ngẫu nhiên mà có được sự phát triển như vậy, nó đòi
hỏi phải có sự tư duy, lề lối và phong cách làm việc trong nền kinh tế thị trường.
Đối với mỗi doanh nghiệp vai trò của người lao động là rất quan trọng, đây là điều
kiện để có thể tồn tại và phát triển. Một người lãnh đạo tài năng, quyết đoán có thể
dẫn tới doanh nghiệp vượt qua mọi khó khăn đồng thời có thể doanh nghiệp phát
triển, toàn diện. Chính vì vậy mà việc nâng cao hiệu quả trong công tác quản trị là
vô cùng quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại công ty bách hoá số 5 Nam Bộ em nhận thấy
công ty này là công ty nhà nước vốn cũng chuyển mình từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, để theo kịp với nhịp độ phát triển của thời
đại công ty cũng đã có rất nhiều sự thay đổi về phương thức kinh doanh của mình,
thay đổi về phương thức bán hàng, phương thức tiêu thụ ... tuy nhiên hoạt động
mua hàng vẫn chưa đựơc quan tâm thực sự. Đây là vấn đề mà không chỉ của công
ty này mà gần như nó tồn tại trong hầu hết các doanh nghiệp quốc doanh. Hoạt
động mua hàng rất ít được quan tâm đến như hoạt động bán hàng. Các doanh
nghiệp quan tâm đến việc mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp hơn là quan tâm
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
2
đến tiết kiệm chi phí mua hàng. Việc mua hàng chưa được đánh giá tương xứng
với vị trí của nó. Trong khi mua hàng lại là khâu tiên, cơ bản của hoạt động kinh
doanh, là điều kiện để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Mua hàng nhằm tạo tiền đề vật chất cho hoạt động bán hàng, hoạt đông bán hàng
có được tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động mua hàng. Hơn nữa mua
hàng tốt tạo điều kiện tăng lợi nhuận. Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài “Nâng
cao chất lượng công tác quản trị mua hàng” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của
mình. Đây là một dịp tốt để em có thể hiểu rõ ơn về hoạt động quản trị mua hàng
trong doanh nghiệp không chỉ trên lý thuyết mà còn thông qua thực tế.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài gồm ba chung lớn:
Chung 1: cơ sở lý luận chung về quản trị mua hàng trong doanh nghiệp thng
mại.
Chung 2: Khảo sát và đánh giá về công tác quản trị mua hàng tại công ty
bách hoá số 5 Nam Bộ.
Chung3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị mua hàng tại
công ty bách hoá số 5 Nam Bộ.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
3
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA QUẢN TRỊ MUA HÀNG
TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG MUA HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG
MẠI
1.1.1 Tầm quan trọng của hoạt động mua hàng trong doanh nghiệp thương
mại
Mua hàng là hoạt động đầu tiên nhằm tạo ra yếu tố đầu vào ( đối với doanh
nghiệp thương mại yếu tố đầu vào là nguồn hàng ) một cách đầy đủ, kịp thời, đồng
bộ, đúng quy cách chủng loại, chất lượng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng và
kế hoạch bán ra của doanh nghiệp.
Dưới góc độ của nhà quản trị thì mua hàng hoàn toàn trái ngựơc với bán
hàng. Nếu bán hàng có nghĩa là tạo ra một nhu cầu về sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ một cách có hệ thống và tìm cách làm tăng ý thức về nhu cầu đó thì mua hàng
là phủ nhận hoặc đình hoãn nhu cầu đó cho tới khi tìm ra được điều kiện mua hàng
tốt. Thực chất, mua hàng biểu hiện mối quan hệ giữa người với người
Mua hàng là các hoạt động nghiệp vụ của các doanh nghiệp sau khi xem xét,
tìm hiểu về chủ hàng và cùng với chủ hàng bàn bạc, thoả thuận điều kiện mua bán,
thực hiện các thủ tục mua bán, thanh toán và các nghiệp vụ giao nhận, vận chuyển
nhằm tạo nên lực lượng hàng hoá tại doanh nghiệp với số lượng, chất lợng, cu cấu
đáp ứng các nhu cầu của dự trữ, bán hàng phục vụ cho khách hàng với chi phí thấp
nhất.
Vị trí của hoạt động mua hàng trong doanh nghiệp thương mại
Mua hàng là nghiệp vụ mở đầu cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
đây là khâu mở đầu cho lưu chuyển hàng hoá, mua đúng chủng loại, mẫu mã, số
lượng, và chất lượng thì dẫn đến mua và bán tốt hơn. Trong cơ chế thị trường thì
bán hàng là khâu quan trọng nhưng mua hàng là tiền đề tạo ra lợng hàng ban đầu
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
4
để triển khai toàn bộ hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy nên mua hàng là
nghiệp vụ mở đầu quy trình kinh doanh của doanh nghiệp, mua là tiền đề để bán và
đạt được lợi nhuận. Trên thực tế khâu bán hàng khó hơn mua hàng nhưng hàng vi
hay bị mắc sai lầm nhất lại là hành vi mua hàng và nghiệp vụ mua hàng có vị trí rất
quan trọng đối với các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh.
Mua hàng có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp ở chỗ:
- Mua hàng nhằm tạo tiền đề vật chất cho hoạt động bán hàng. Các doanh
nghiệp muốn bán hàng ra thị trường thì phải có tiền đề vật chất tức là phải có yếu
tố đầu vào. Các yếu tố đầu vào chính là hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu của doanh
nghiệp. Mua hàng sẽ giúp cho doanh nghiệp có hàng hoá trong tay từ đó bán ra thị
trường. Với chức năng mua đi bán lại doanh nghiệp luôn mong muốn phấn đấu để
mua được hàng hoá với chi phí thấp nhất, có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của
khách hàng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng để thu hút khách
hàng về phía mình. Mục đích kinh doanh của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận
tối đa do đó phải tính đến mua hàng với số lượng và giá cả hợp lý tránh tình trạng
hàng thừa hay thiếu đều không tốt cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Mua hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị
trường. Điều này thể hiện chi phí mua hàng của doanh nghiệp (bao gồm cả giá
mua hàng của doanh nghiệp và những chi phí phát sinh trong quá trình mua hàng
cuả doanh nghiệp nh chi phí đặt hàng, chi phí vận chuyển ... ) sẽ làm cho giá đầu
vào trên một đơn vị cao và từ đó làm cho giá bán cao. Trên thị trường hiện nay
việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thực chất là cạnh tranh về giá. Cùng một
loại sản phẩm doanh nghiệp nào có giá thấp hơn dù chỉ rất ít song cũng đã thu hút
được khách hàng về phía mình. Mà muốn có giá bán thấp hơn thì doanh nghiệp
phải mua được hàng tốt hơn với chi phí thấp hơn. Doanh nghiệp muốn bán được
hàng tốt thì phải bắt đầu từ việc mua tốt. Việc mua hàng tốt của doanh nghiệp sẽ
giúp cho doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường .
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
5
- Mua hàng đảm bảo có đủ lượng hàng bán ra cho khách hàng theo đúng yêu
cầu của họ. Đối với doanh nghiệp thương mại khi mua hàng nếu mua phải hàng
kém chất lượng, kém phẩm chất, mẫu mã, chủng loại, kích cỡ không phù hợp, lỗi
mốt thì khách hàng sẽ không chấp nhận những sản phẩm đó. Mà khách hàng đã
không chấp nhận những sản phẩm đó thì hoạt động kinh doanh không đạt hiệu quả.
Mục đích của doanh nghiệp là phải làm sao để khách hàng cảm thấy hài lòng về
sản phẩm của mình để thu hút khách hàng. Khách hàng là ngươì cuối cùng bỏ tiền
túi ra để mua sản phẩm của doanh nghiệp, là ngươì quyết định sự tồn tại của doanh
nghiệp hay không. Cho nên có khách hàng thì doanh nghiệp mới có được doanh
thu và thu được lợi nhuận. Mua hàng phù hợp với yêu cầu của khách hàng, phù
hợp với yêu cầu kinh doanh giúp cho hoạt động kinh doanh thương mại tiến hành
thuận lợi, kịp thời, đẩy nhanh được tốc độ lưu chuyển hàng hoá, tạo điều kiện giữ
chứ tín và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Mua hàng là một trong những khâu quan
trọng nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, tạo ra lợi nhuận trong
kinh doanh, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện tiếp thu khoa
học kỹ thuật của thế giới.
1.1.2 Các phương pháp và quy tắc mua hàng trong doanh nghiệp thương
mại
1.1.2.1 Các phương pháp mua hàng trong doanh nghiệp thương mại.
a) Căn cứ vào quy mô mua hàng
Mua hàng theo nhu cầu:
Là hình thức mua hàng trong của doanh nghiệp thương mại trong đó khi
doanh nghiệp cần mua hàng với số lượng bao nhiêu thì sẽ tiến hành mua bấy nhiêu
tức là mỗi lần mua hàng chỉ mua vừa đủ nhu cầu bán ra của doanh nghiệp trong
một thời gian nhất định. Để có đuợc quyết định lượng hàng sẽ mua trong từng lẫn,
doanh nghiệp phải căn cứ vào diễn biến thị trường, tốc độ tiêu thụ sản phẩm và
xem xét lượng hàng thực tế của doanh nghiệp .
Lượng bán hàng dự kiến + tồn đầu kỳ + tồn cuối kì
Lượng hàng thích hợp =
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
6
một lần mua số vòng chu chuyển hàng hoá dự kiến
Phương pháp này có ưu điểm sau :
+ Cơ sở để xác định nhu cầu mua hàng đơn giản. Nhu cầu mua hàng được
xác định xuất phát từ kế hoạch bán ra của doanh nghiệp hay của các bộ phận,
lượng hàng hoá dự trữ thực tế đầu kì và kế hoạch dự trữ cho kì bán tiếp theo.
+ Lựơng tiền bỏ ra cho từng lần mua hàng là không lớn lắm nên giúp cho doanh
nghiệp thu hồi vốn nhanh và do mua bao nhiêu bán hết bấy nhiêu nên lựơng hàng
hoá dự trữ ít. Do vậy sẽ tránh được tình trạng ứ đọng vốn, tiết kiệm đựơc chi phí
bảo quản, giữ gìn hàng hoá và các chi phí khác. Điều đó làm tăng nhanh tốc độ
chu chuyển của vốn
+ Quá trình mua hàng diễn ra nhanh chóng, thuận lợi nên giúp cho doanh nghiệp
tránh đựơc những rủi ro do biến động về giá hay do nhu cầu về hàng hoá thay đổi,
giảm thiểu những thiệt hại do thiên tai ( hoả hoạn, lũ lụt ...) hay chiến tranh gây ra.
Bên cạnh đó mua hàng theo nhu cầu còn có nhựơc điểm cần lưu ý :
+ Vì lựơng hàng mua về ít chỉ đủ bán ra ở mức độ bình thường nên nếu việc
nhập hàng bị trễ hay hàng bán chạy hơn mức bình thừơng thì doanh nghiệp có
nguy cơ thiếu hàng.
+ Chi phí mua hàng thừơng cao, doanh nghiệp không đựơc hưởng các ưu đãi mà
người bán hàng dành cho. Doanh nghiệp bị mất cơ hội kinh doanh trên thị trường
khi trên thị trường có cơn sốt về hàng hoá mà doanh nghiệp đang kinh doanh, lúc
đó mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ không đạt đựơc, doanh nghiệp sẽ không
thể thu được lợi nhuận “siêu ngạch ”.
Mua hàng theo lô lớn:
Mua hàng theo lô lớn là lựơng hàng mua một lần nhiều hơn nhu cầu bán ra
của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. Trên cơ sở dự đoán nhu cầu trong
một khoản thời gian nhất định nào đó. Dựa vào một số luận cứ ta có thể xác định
được số lượng hàng tối ưu cần nhập bởi vậy ta biết rằng tổng chi phí cho việc nhâp
hàng sẽ nhỏ nhất khi chi phí lưu trữ hàng hoá bằng với chi phí mua hàng .
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
7
Nếu ta gọi :
C-Tổng chi phí
1C - Chi phí một lần mua hàng
2C - Chi phí bảo quản đơn vị hàng hoá trong một đơn vị thời gian
C - Số lượng đơn vị hàng hoá cần thiết trong một đơn vị thời gian
Q - Số lượng hàng hoá thu mua một lần
Giả thiết Q không đổi và số lượng hàng hoá dự trữ trong kho bằng Q/2 thì ta có:
Q= 2
1 **2
C
DC
C= 2C * (Q/2) + 1C *Q/D)
Công thức này cho ta thấy lượng hàng nhập tối u với tổng chi phí thu mua,
bảo quản là thấp nhất.
Từ đó có thể thấy mua theo lô có những ưu điểm sau :
+ Chi phí mua hàng có thể giảm được và doanh nghiệp có thể nhận được những
ưu đãi của các nhà cung cấp.
+ Chủ động chọn được các nhà cung cấp uy tín nên ít gặp rủi ro khi nhập hàng
+ Có thể chớp được thời cơ nếu có những “ cơn sốt ” thị trường, do đó có thể thu
được lợi nhuận “ siêu ngạch ”.
Song nó cũng không tránh được những nhược điểm phát sinh nhất định đó là :
+ Phải sử dụng một lượng vốn hàng hoá lớn điều này gây ra những khó khăn tài
chính cho doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
+ Chi phí bảo quản, bảo hiểm hàng hoá lớn .
+ Rủi ro ( thiên tai, mất cắp, lạc mốt, hạ giá ) cao .
b) Căn cứ vào hình thức mua
Tập trung thu mua :
Những doanh nghiệp có quy mô lớn thường có những bộ phận chuyên trách
thu mua theo nhóm hàng, mặt hàng. Phương pháp thu mua này có ưu điểm là tiết
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
8
kiệm được chi phí nhưng nó có nhược điểm là mua bán tách rời nhau, nhiều khi
mua hàng về không bán được vì không phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Phân tán thu mua :
Trong điều kiện doanh nghiệp khoán cho từng quầy hàng, họ phải tự lo vốn
và nguồn hàng kinh doanh. Ưu điểm của phương pháp này là nắm chắc được nhu
cầu, thị trường mua và bán gắn liền nhau. Nhược điểm là số lượng mua bán ít, giá
cả cao, chi phí kí kết tăng.
Liên kết thu mua phân tán tiêu thụ :
Đây là hình thức mà các doanh nghiệp nhỏ thường áp dụng do điều kiện vốn
ít, một số cửa hàng liên kết với nhau cùng thu mua hàng hoá, sau đó phân phối lại
cho các cửa hàng tiêu thụ. Ưu điểm của hình thức mua hàng này là do mua nhiều
nên mua được giá thấp, tiết kiệm được chi phí vận chuyển trên một đơn vị hàng
hoá, chi phí đi lại của cán bộ thu mua và một số chi phí khác liên quan. Nhưng
cũng có nhược điểm là do mua nhiều nên phải chi phí bảo quản, hao hụt tăng, tốc
độ chu chuyển vốn chậm .
c) Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Mua đến đâu thanh toán đến đó ( mua thanh toán ngay ) theo phương thức
này thì khi nhận được hàng hoá do bên bán giao thì doanh nghiệp phải làm thủ tục
cho bên bán
Mua giao hàng trước : sau khi bên bán giao hàng cho doanh nghiệp, doanh
nghiệp đã nhận đợc hàng hoá sau một thời gian doanh nghiệp mới phải thanh toán
lô hàng đó .
Mua đặt tiền trước nhận hàng sau : sau khi kí hợp đồng mua bán hàng hoá
với nhà cung cấp doanh nghiệp phải trả một khoản tiền ( có thể là một phần lô
hàng hay toàn bộ giá trị của lô hàng ) đến thời hạn giao hàng bên bán sẽ tiến hành
giao hàng cho bên mua .
d) Căn cứ theo nguồn hàng:
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
9
Mua trong nước:Đây là hình thức mua mà mọi hoạt động mua của doanh
nghiệp được tiến hành trong phạm vi một quốc gia. Nguồn hàng đó được sản xuất
trong nước.
Mua từ nước ngoài(nhập khẩu):Đây là hình thức doanh nghiệp mua hàng từ
nước ngoài về để phục vụ cho việc kinh doanh ở trong nước. Trong đó có hai hình
thức nhập khẩu:
+ Nhập khẩu uỷ thác là hình thức nhập khẩu trong đó công ty đóng vai
trò làm trung gian để tiến hành các nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá và máy móc
thiết bị từ nước ngoài vào Việt Nam theo yêu cầu của các doanh nghiệp trong n-
ước. Trong hoạt động dịch vụ này công ty không cần phải sử dụng vốn của mình
và được hưởng một khoản gọi là phí uỷ thác.
+ Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu trong đó công ty thực hiện từ
khâu đầu đến khâu cuối tức là từ việc tìm hiểu thị trường để mua đến khi bán đợc
hàng và thu tiền về bằng vốn của chính mình. Với hình thức này công ty sẽ xem
xét nguồn hàng và tính toán mọi chi phí phát sinh trong quá trình nhập khẩu. Đồng
thời công ty cũng phải tính toán giá thành thực tế khi hàng hoá được chuyển tới tay
người mua để từ đó biết được kết quả của việc nhập hàng
Cùng với cách thức phân loại như trên còn có nhiều cách phân loại khác nh-
ư: phân loại theo phương thức mua theo hợp đồng, phương thức mua trực tiếp hay
gián tiếp, phương thức mua theo hợp đồng hay mua theo đơn hàng, mua buôn hay
mua lẻ ... Mỗi phương pháp trên đều có những ưu và nhược điểm riêng nên các
doanh nghiệp tuỳ vào thực trạng của mình trong từng thời điểm, từng giai đoạn
nhất định để quyết định xem mình nên theo phương thức nào là thuận tiện nhất và
tốt nhất.
1.1.2.2) Các quy tắc đảm bảo mua hàng có hiệu quả.
+ Quy tắc mua hàng của nhiều nhà cung cấp : doanh nghiệp nên lựa chọn cho
mình một số lợng nhà cung cấp nhất định. Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp phân
tán đợc rủi ro bởi hoạt động mua hàng có thể gặp nhiều rủi ro từ phía nhà cung
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
10
cấp. Nếu như doanh nghiệp chỉ mua hàng của một nhà cung cấp duy nhất hoặc
một số ít thì khi rủi ro xảy ra doanh nghiệp phải gánh chịu tất cả và rất khó khắc
phục. Những rủi ro xảy ra trong mua hàng là rất đa dạng : nó có thể xảy ra do thất
bại trong kinh doanh hay rủi ro khác mà bản thân các nhà cung cấp gặp phải như
thiếu nguyên vật liệu, công nhân đình công, chiến tranh ,do những trục trặc trong
quá trình vận chuyển hay do sự bất tín của các nhà cung cấp. Với ý nghĩ phân tán
rủi ro, nhiều người gọi nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc “không bỏ tiền vào một
túi ”. Ngoài ra nguyên tắc này còn tạo sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Nếu
hàng hoá đầu vào của doanh nghiệp chỉ được mua từ một hay một số rất ít nhà
cung cấp thì những nhà cung cấp này có thể ép giá và áp đặt các điều kiện mua bán
hàng cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tỏ ý định mua hàng của nhiều người thì
bản thân các nhà cung cấp sẽ đưa ra những điều kiện hấp dẫn về giá cả, giao nhận,
thanh toán để thu hút người mua về phía mình.
Tuy nhiên khi thực hiện nguyên tắc này các doanh nghiệp cần lưu ý là trong
số các nhà cung cấp của mình nên chọn ra một nhà cung cấp chính để xây dựng
mối quan hệ làm ăn lâu dài, bền vững dựa trên cơ sở tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau.
Nhà cung cấp chính là nhà cung cấp mà doanh nghiệp mua hàng của họ nhiều hơn
và thường xuyên. Vì vậy doanh nghiệp có thể dễ dàng nhận được nhiều ưu đãi từ
phía nhà cung cấp này hơn so với những khách hàng khác, thậm chí còn được họ
giúp đỡ khi doanh nghiệp gặp khó khăn ( được hưởng tín dụng mại khi thiếu vốn,
được ưu tiên mua hàng khi hàng hoá khan hiếm ,...) và doanh nghiệp thường trở
thành khách hàng truyền thống của các nhà cung cấp. Ngược lại doanh nghiệp
cũng cần phải giúp đỡ nhà cung cấp khi họ gặp khó khăn.
+ Quy tắc luôn giữ thế chủ động trước các nhà cung cấp : nếu người bán
hàng cần phải tạo ra một nhu cầu về sản phẩm hay dịch vụ một cách có hệ thống và
tìm cách phát triển nhu cầu đó ở các khách hàng của mình, thì người mua hàng lại
phải làm điều ngược lại, tức là phải tìm cách phủ nhận hay đình hoãn nhu cầu đó
một cách có ý thức cho đến khi tìm được những điều kiện mua hàng tốt hơn. Đi
mua hàng là giải một số bài toán với vô số ràng buộc khác nhau. Có những “ ràng
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
11
buộc chặt ” ( điều kiện không thể nhân nhợng được ) và có những “ ràng buộc
lỏng ” ( điều kiện có thể nhân nhợng được ). Trong khi đó các nhà cung cấp luôn
luôn đa ra những thông tin phong phú và hấp dẫn về giá cả, chất lượng, điều kiện
vận chuyển và thanh toán, các dịch vụ sau bán ...nếu không tỉnh táo, quyền chủ
động của doanh nghiệp với tư cách là người mua sẽ mất dần và sẽ tự nguyện trở
thành nô lệ cho nhà cung cấp mà quên đi những “ràng buộc chặt ” để rồi phải lo
đối phó với các rủi ro. Vì vậy để không trở thành nô lệ cho nhà cung cấpvì vậy
cách đơn giản nhất là ghi đầy đủ tất cả các lời hứa của người bán hàng, sau đó tổng
hợp chúng vào trong một hợp đồng và bắt người bán kí vào đấy. Lúc này ta sẽ
buộc người bán hàng thương lượng với mình một cách chủ động với những điều
kiện có lợi
+ Quy tắc đảm bảo “sự hợp lý ” trong tương quan quyền lợi giữa doanh
nghiệp với nhà cung cấp: nếu doanh nghiệp khi mua hàng chấp nhận những điều
kiện bất lợi cho mình thì sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả mua hàng và có nguy cơ
bị giảm đáng kể về lợi nhuận kinh doanh. Ngợc lại, nếu doanh nghiệp cố tình “ép
” nhà cung cấp để đạt được lợi ích của mình mà không quan tâm đến lợi ích của
nhà cung cấp thì dễ gặp trục trặc trong việc thoả thuận ( không đạt được sự thoả
thuận ) và thực hiện hợp đồng ( hợp đồng có nguy cơ không thực hiện được ).
Đảm bảo sự “ hợp lý ” về lợi ích không chỉ là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp và
nhà cung cấp gặp được nhau và cùng nhau thực hiện hợp đồng, tạo chữ tín trong
quan hệ làm ăn lâu dài, mà còn giúp cho doanh nghiệp giữ được sự tỉnh táo, sáng
suốt trong đàm phán, tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra.
1.2 )Vai trò của quản trị mua hàng trong doanh nghiệp thương mại.
1.2.1.) Mục tiêu và vai trò của quản trị mua hàng trong doanh nghiệp thương
mại.
+) Khái niệm:
Quản trị mua hàng là quá trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo điều hành và
kiểm soát hoạt động mua hàng của doanh nghiệp thương mại nhằm thực hiện mục
tiêu bán hàng.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
12
Quá trình mua hàng là quá trình phân tích để đi đến quyết định mua hàng gì?
của ai, với số lợng và gí cả như thế nào. Đây là một quá trình phức tạp đợc lặp đi,
lặp lại thành một chu kì, nó liên quan đến việc sử dụng các kết quả phân tích các
yếu tố trong quản lí, cung ứng.
+Mục tiêu của quản trị mua hàng trong doanh nghiệp thương mại:
Do mua hàng là khâu đầu tiên, cơ bản của hoạt động kinh doanh, là điều
kiện để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tồn tại và phát triển, để công tác
quản trị mua hàng có hiệu quả thì mục tiêu cơ bản của hoạt động mua hàng là đảm
bảo an toàn cho bán ra, đảm bảo chất lượng mua hàng, và mua hàng với chi phí
thấp nhất .
- Đảm bảo an toàn cho bán ra thể hiện trước hết là hàng mua phải đủ về số
lượng và cơ cấu tránh tình trạng thừa hay thiếu dẫn đến ứ đọng hàng hoá hay gián
đoạn kinh doanh làm ảnh hưởng đến lưu thông hàng hoá. Mặt khác hàng mua phải
phù hợp với nhu cầu của khách hàng vì khách hàng là người tiêu dùng sản phẩm
do công ty bán ra. Công ty có tồn tại hay không phụ thuộc vào khách hàng. Cuối
cùng là đảm bảo sao cho việc mua hàng, vận chuyển ít gặp rủi ro ( do giao hàng
chậm, ách tắc trong khâu vận chuyển ... ). Chẳng hạn như đúng vào thời điểm nào
đó, một mặt hàng đang lên” cơn sốt ” mà theo đúng tính toán của doanh nghiệp
hàng sẽ về đúng vào thời điểm đó nhưng do việc giao hàng chậm doanh nghiệp sẽ
mất đi cơ hội thu được lợi nhuận “siêu ngạch ” và có thể sẽ dẫn đến tình huống
doanh nghiệp mất khách hàng do uy tín của họ bị giảm sút.
- Đảm bảo chất lượng hàng mua vào thể hiện ở chỗ hàng phải có chất l-
ượng mà khách hàng có thể chấp nhận được. Quan điểm phổ biến hiện nay trong
cả sản xuất, lưu thông và tiêu dùng là cần có những hàng hoá có chất lượng tối ưu
chứ không phải có chất lượng tối đa. Chất lượng tối đa là mức chất lượng mà tại
đó hàng hoá đáp ứng tốt nhất một nhu cầu nào đó của người mua và như vậy người
bán hay người sản xuất có thể thu được nhiều lợi nhuận nhất. Còn chất lượng tối
đa là mức chất lượng đạt được cao nhất của doanh nghiệp khi sử dụng các yếu tố
đầu vào để tạo ra sản phẩm, mức chất lượng này có thể cao hơn hoặc thấp hơn chất
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
13
lượng tối ưu nhưng trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp chưa tối
ưu
- Đảm bảo mua hàng với chi phí thấp nhất nhằm tạo những điều kiện thuận lợi
cho việc xác định giá bán hàng. Doanh nghiệp có thể hạ giá bán thấp hơn các đối
thủ cạnh tranh để kéo khách hàng về phía mình. Chi phí mua hàng không chỉ thể
hiện ở giá bán mà còn thể hiện ở chỗ mua hàng ở đâu, của ai, số lượng là bao nhiêu
...để chi phí giao dịch, đặt hàng, chi phí vận chuyển là thấp nhất. Các mục tiêu trên
không phải lúc nào cũng thống nhất nhau được vì thông thường để đạt được cái
này con người sẽ phải hy sinh cái khác hay mất đi một thứ khác. Chẳng hạn thư-
ờng xảy ra mâu thuẫn giữa chất lượng và giá cả, chất lượng tốt thì giá cao và ng-
ược lại. Ngoài ra mục tiêu mua hàng còn mâu thuẫn với các mục tiêu của các chức
năng khác. Vì vậy khi xác định mục tiêu mua hàng cần đặt chúng trong tổng thể
các mục tiêu của doanh nghiệp và tuỳ từng điều kiện cụ thể mà xắp xếp thứ tự ưu
tiên giữa các mục tiêu mua hàng đảm bảo sao cho hoạt động mua hàng đóng góp
tích cực nhất vào việc hoàn thành các mục tiêu chung của doanh nghiệp.
+) Vai trò của quản trị mua hàng
Quản trị mua hàng có ý nghĩa quan trọng đối với một doanh nghiệp thể hiện
ở chỗ phải tổ chức, chỉ đạo, kiểm soát hoạt động mua hàng sao cho mua đợc hàng
thường xuyên, đều đặn và kịp thời, cung cấp hàng hoá phù hợp với nhu cầu về số l-
ượng, cơ cấu, chủng loại với chất lượng tốt, giá cả hợp lí. Quản trị mua hàng đợưc
phản ánh thông qua việc phân tích các bước của quá trình mua hàng đó là việc
phân tích, lựa chọn để đi đến quyết định mua hàng. Đây là quá trình phức tạp được
lặp đi, lặp lại thành một chu kì. Nó liên quan đến việc sử dụng các kết quả phân
tích các yếu tố trong quản lí cung ứng như: đánh giá môi trường chung hiện tại và
tương lai; thực trạng về cung cầu hàng hoá đó trên thị trường; cu cấu thị trường của
sản phẩm; giá cả hiện hành và dự báo; thời hạn giao hàng và các điều kiện, điều
khoản; tình hình tài chính; lãi suất trong nước và ngoài; chi phí lưu kho và hàng
loạt các vấn đề khác. Tổ chức tốt việc mua hàng là cơ sở để thực hiện các mục tiêu
của quản trị mua hàng và nói rộng ra là của doanh nghiệp.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
14
1.2.2) Nội dung của quản trị mua hàng trong doanh nghiệp thương mại
Để triển khai có hiệu quả hoạt động mua hàng, khai thác tốt nhất nguồn hàng
phục vụ cho nhu cầu kinh doanh, các nhà quản trị mua hàng cần thực hiện tốt công
tác quản trị mua hàng. Quản trị mua hàng là quá trình phân tích, lựa chọn và đi
đến quyết định mua, mua cái gì ?, mua bao nhiêu ?, mua của ai ?, giá cả và các
điều kiện thanh toán như thế nào ? ... Một người tiêu dùng khi mua hàng cũng có
quyết định như vậy song quá trình mua hàng của doanh nghiệp bao gồm các khâu
được đặt trong sự lựa chọn lớn hơn ở góc độ của các nhà doanh nghiệp với nhau.
Đây là một quá trình phức tạp được lặp đi, lặp lại thành một chu kì, nó liên quan
đến việc sử dụng các kết quả phân tích, các yếu tố trong quản lí cung ứng như đánh
giá môi trường chung, hiện tại và triển vọng, thực trạng về cung - cầu hàng hoá
trên thị trường cơ cấu thị trường của sản phẩm với thực trạng và thực tiễn thương
mại, giá cả hiện hành và dự báo, thời hạn giao hàng và các điều khoản, tình hình
vận tải và chi phí vận chuyển, chi phí đặt hàng lại, tình hình tài chính, lãi suất trong
nớc và ngoài ước, chi phí lưu kho ... và hàng loạt các vấn đề khác. Để quá trình
mua hàng được tốt các nhà quản trị mua hàng cần thực hiện tốt quá trình mua hàng
Sơ đồ quá trình mua hàng trong doanh nghiệp
Thoả mãn không thoả mãn
Xác định
nhu cầu
Tìm và
lựa chọn
nhà cung
cấp
Thương
lượng và
đặt hàng
Theo dõi và
thực hiện
giao hàng
Đánh giá kết quả mua hàng
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
15
a ) Xác định nhu cầu mua hàng:
Mua hàng là hoạt động xuất phát từ nhu cầu do vậy trước khi mua hàng nhà quản
trị phải xác định được nhu cầu mua hàng của doanh nghiệp trong mỗi thời kì. Thực
chất của giai đoạn này là trả lời cho câu trả lời là mua cái gì và mua bao nhiêu.
Để xác định xem mình cần mua cái gì thì doanh nghiệp phải đi nghiên cứu tìm
hiểu xem khách hàng cần gì, nắm chắc nhu cầu của khách hàng để thoả mãn.
Nghiên cứu thị trường giúp cho các doanh nghiệp xác định được nhu cầu, từ đó xác
định được tổng cung hàng hoá, đây là kế hoạch tạo nguồn và mua hàng. Đồng thời
xác định cụ thể lượng cung của từng khu vực, từng chủng loại để lựa chọn chủ
hàng, phương thức mua hàng phù hợp, đảm bảo số lượng, loại hàng mua, thời gian
mua phù hợp với kế hoạch bán ra của doanh nghiệp, tạo ra lợi nhuận hợp pháp,
hiệu quả.
Nhu cầu mua hàng được xác định trước hết là căn cứ vào nhu cầu bán ra của
doanh nghiệp trong kì kinh doanh. Trên thực tế ngời ta thường dựa vào công thức
cân đối
M + D dk = B + D ck + Dhh
Trong đó :
M- Lượng hàng hoá cần mua vào trong toàn bộ kì kinh doanh
B – Lượng hàng bán ra ( theo kế hoạch ) của doanh nghiệp trong kì
D dk- Lợng hàng hoá tồn kho của doanh nghiệp đầu kì kinh doanh
D ck – Lượng hàng hoá dự trữ cuối kì ( kế hoạch ) để chuẩn bị cho kì kinh doanh
tiếp theo.
Dhh: Định mức hao hụt ( nếu có )
Từ công thức cân đối có thể xác định được nhu cầu mua vào trong kì nh sau:
M = B + D ck – D dk
Công thức trên được dùng để xác định nhu cầu mua vào của từng mặt hàng.
Tổng lượng hàng mua vào của doanh nghiệp bằng tổng các lượng hàng mua vào
của từng mặt hàng
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
16
Việc xác định nhu cầu mua hàng sẽ giúp doanh nghiệp có đợc lượng hàng
tối u mà doanh nghiệp sẽ mua từ đó mới có thể tìm và lựa chọn nhà cung cấp cho
phù hợp .
b ) Tìm và lựa chọn nhà cung cấp.
Thực chất là để trả lời câu hỏi mua của ai. Để thực hiện được mục tiêu trên
doanh nghiệp phải đi tìm và lựa chọn nhà cung cấp. Câu hỏi đặt ra là doanh nghiệp
sẽ tìm ở đâu và như thế nào. Có rất nhiều cách mà doanh nghiệp thương mại có thể
tìm kiếm những nhà cung cấp tiềm tàng. Doanh nghiệp có thể tìm kiếm các nhà
cung ứng thông qua các bạn hàng, hội chợ, triển lãm, các tạp chí, các phương tiện
truyền thông, qua mạng ... Khi lựa chọn các nhà cung cấp cần vận dụng một cách
sáng tạo nguyên tắc “ không nên chỉ có một nhà cung cấp ”. Muốn vậy phải
nghiên cứu toàn diện và kĩ các nhà cung cấp trước khi đưa ra quyết định chọn lựa,
phải đánh giá được khả năng hiện tại và tiềm ẩn của họ trong việc cung ứng hàng
hoá cho doanh nghiệp. Việc lựa chọn nhà cung cấp với giá rẻ nhất cũng như với
chi phí vận tải nhỏ nhất ảnh hưởng không nhỏ tới giá thành sản phẩm, làm tăng lợi
nhuận. Vì vậy việc lựa chọn nhà cung cấp có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà
quản trị.
Có nhiều quan điểm khác nhau về lựa chọn nhà cung cấp. Quan điểm truyền
thống cho rằng phải thường xuyên chọn nhà cung cấp vì có như thế mớicó thể lựa
chọn được nhà cung cấp với giá cả đem lại với chi phí thấp nhất. Họ thường thay
đổi nhà cung cấp bằng các biện pháp: thường xuyên tính toán lựa chọn người cấp
hàng, tổ chức đấu thầu cho mỗi lần cấp hàng...
Có quan điểm hoàn toàn ngược lại: thông qua marketing lựa chọn người cấp
hàng thường xuyên cấp hàng với độ tin cậy cao, chất lượng đảm bảo và giá cả hợp
lý...
Để xác định và lựa chọn nhà cấp hàng phải có số liệu về số lượng người, giá
cả, chất lượng, chủng loại, điều kiện thanh toán, hình thức tiền tệ thanh toán, giảm
giá... của từng người cung cấp cụ thể đồng thời phải thu thập, phân tích các số liệu
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
17
về quãng đờng, phương thức thanh toán và phương tiện vận chuyển, hệ thống kho
tàng, phương thức kiểm tra, giao nhận hàng hoá ...
Ngoài ra cần phải xem xét về kỹ thuật của nguyên vật liệu cung ứng, tuổi thọ
của nguyên vật liệu, sự tin cậy đối với ngời cấp hàng, tính rõ ràng minh bạch của
người cung cấp ... từ đấy tìm kiếm nhà cung cấp tối ưu.
Có hai loại nhà cung cấp chủ yếu: người cung cấp đã sẵn có trên thị trường
và người cung cấp mới xuất hiện.
Những người cung cấp mới xuất hiện thường tự tìm đến giới thiệu xin được
cung cấp hàng hoá mà doanh nghiệp đang có nhu cầu. Con đường tìm đến của nhà
cung cấp có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Doanh nghiệp cũng có thể tự tìm đến nhà
cung cấp thông qua hội chợ triển lãm, qua giới thiệu, qua tạp chí, qua niêm qiám,
qua gọi thầu ...
Qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến cung ứng so sánh và cân nhắc
những người cấp hàng, doanh nghiệp có thể chọn người cấp hàng cho mình. Các
nguyên tắc lựa chọn được đặt ra cân nhắc là:
+ Nếu lựa chọn quá ít nhà cung cấp mà doanh nghiệp mua hàng với số lượng mua
nhiều doanh nghiệp có lợi thế mua hàng với giá ưu đãi, về lâu dài có thể trở thành
khách hàng truyền thống... nhưng lại có hạn chế là rủi ro cao khi nhà cung cấp gặp
rắc rối không có đủ hàng hoặc không có hàng cung cấp cho doanh nghiệp trong
trường hợp đó doanh nghiệp sẽ không kịp chuẩn bị đủ hàng để bán, đôi khi bị ép
giá ...
+ Ngược lại nếu lựa chọn nhiều nhà cung cấp cho mình có ưu điểm là giảm được
độ rủi ro, tránh đợc sự ép giá ... nhưng lại có hạn chế là không được giảm giá do
mua ít, doanh nghiệp khó trở thành bạn hàng truyền thống, tính ổn định về giá cả
và chất lượng không cao ... các nhà quản trị cần có sự lựa chọn hợp lý. Ngoài ra
các nhà quản trị cần chú ý đến vấn đề sau:
+ Đối với những mặt hàng mà doanh nghiệp đang sẵn có nhà cung ứng ( tức là
những mặt hàng doanh nghiệp đang kinh doanh ) thì việc có cần phải tìm kiếm các
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
18
nhà cung cấp mới hay không cần phải dựa trên nguyên tắc “ nếu các nhà cung cấp
còn làm cho chúng ta hài lòng thì còn tiếp tục mua hàng của họ ”
+ Đối với những hàng hoá mới được đưa vào danh mục mặt hàng kinh doanh của
doanh nghiệp hoặc trong trường hợp phải tìm kiếm nhà cung cấp mới thì cần phải
tiến hành nghiên cứu kĩ các nhà cung cấp trên các mặt sau.
Sự đánh giá được thực hiện bằng các tiêu chuẩn theo thứ tự ưu tiên mà doanh
nghiệp quy định, phương pháp này còn được dùng để đánh giá thường xuyên nhà
cung cấp hiện tại của doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào từng mặt hàng, vị trí của nó
trên thang sản phẩm mà doanh nghiệp quyết định có phải lựa chọn kĩ các nhà cung
cấp hay không, ở mức độ nào. Sau khi lựa chọn đợc nhà cung cấp tốt nhất doanh
nghiệp nên tiến hành thương lượng và đặt hàng.
C ) Thương lượng và đặt hàng.
Sau khi đã có trong tay nhà cung cấp doanh nghiệp tiến hành thương lượng
và đặt hàng để đi đến kí kết hợp đồng mua bán với nhà cung cấp.
Trong đó, thương luợng giữ một vị trí quan trọng ảnh hưởng tới quyết định
mua hàng. Mục tiêu của quá trình thương lượng bao gồm:
- Các tiêu chuẩn kĩ thuật của hàng hoá cần mua về mẫu mã, chất lượng, phương
tiện và phương pháp kiểm tra.
- Giá cả và sự giao động về gía cả khi giá cả trên thị trường lúc giao hàng có biến
động
- Xác định phương thức thanh toán ngay, chuyển khoản, tín dụng chứng từ… và
xác định thời hạn thanh toán.
Khi đã tham gia đàm phán thương lượng với các đối tác, doanh nghiệp phải lựa
chọn những nhân viên có trình độ chuyên môn cao, khả năng giao tiếp tốt. Có như
vậy, doanh nghiệp mới đạt được các mục đích của mình trong đàm phán.
Sau khi đã thoả thuận các điều kiện trong bước thương lượng nếu chấp nhận,
doanh nghiệp cần tiến hành kí kết hợp đồng hay đơn hàng bằng văn bản. Đây là cơ
sở để các bên cùng thực hiện theo và khi xảy ra tranh chấp thì nó là bằng chứng để
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
19
đưa ra trọng tài kinh tế. Hợp đồng đơn hàng phải được lập thành nhiều bản ( ít
nhất là hai bản) . Hợp đồng mua hàng phải thể hiện những nội dung sau:
Tên, địa chỉ của các bên mua- bán hoặc người đại diện cho các bên.
Tên, số lượng, quy cách, phẩm chất của hàng hoá.
Đơn giá và phương định giá.
Phương pháp và điều kiện giao nhận.
Điều kiện vận chuyển.
Phung thức và điều kiện thanh toán( thời hạn thanh toán, hình thức và phương
thức thanh toán, các điều kiện ưu đãi trong thanh toán nếu có)
d) Theo dõi và kiểm tra giao nhận hàng:
Việc giao nhận hàng đợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng tuy nhiên cần đôn
đốc, thúc giục các nhà cung cấp nhanh chóng chuyển hàng để tránh tình trạng hàng
đến chậm làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, làm gián
đoạn quá trình lưu thông. Cần giám sát, theo dõi toàn bộ quá trình giao hàng xem
bên cung cấp có thực hiện đúng các điều kiện ghi trong hợp đồng không. Cụ thể :
+ Hàng hoá nhập kho phải nghiệm thu cẩn thận : làm tốt khâu này hay không sẽ
ảnh hởng đến kinh doanh sau này của doanh nghiệp, ngăn ngừa thất thoát
tài sản, ngăn chặn các hàng hoá kém phẩm chất vào tay người tiêu dùng nhằm
nâng cao uy tín của công ty .
+ Kiểm tra số lượng : căn cứ vào hợp đồng thu mua, đối chiếu chứng từ, kiểm tra
kiện hàng, kiểm kê số lượng. Nếu không có gì sai sót kí vào biên bản nhận hàng .
+ Kiểm tra chất lượng : căn cứ vào hợp đồng mua hàng và đơn hàng kiểm tra tên
hàng hoá, mẫu mã, chất lượng. Nếu phát hiện hàng hoá và đơn hàng không phù
hợp như hàng bị hỏng, bao bì bị thủng, từ chối nhận hàng đồng thời lập biên bản và
báo ngay cho người cung cấp .
Sau khi làm thủ tục nhập hàng hoá xong người quản lí kho hàng kí vào biên
bản nhập hàng, kho giữ một bản, kế toán giữ một bản, gửi một bản cho người cung
cấp, đến đây quá trình thu mua kết thúc .
e) Đánh giá kết quả thu mua:
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
20
Sau mỗi lần kết thúc hợp đồng mua hàng, doanh nghiệp cần tổ chức đánh giá
kết quả và hiệu quả mua hàng. Cơ sở của việc đánh giá là những mục tiêu mua
hàng được xác định ngay từ đầu cũng như mức độ phù hợp của hoạt động mua
hàng với mục tiêu bán hàng và mục tiêu tài chính của doanh nghiệp. Có thể xảy ra
hai trờng hợp :
+ Trờng hợp 1 : Nếu thoả mãn nhu cầu nghĩa là người cung cấp đáp ứng được các
cho nhu cầu sản xuất kinh doanh để cho đầu vào được ổn định. Như vậy quyết
định mua hàng của doanh nghiệp là có kết quả và có hiệu quả .
+ Trờng hợp 2 : Nếu không thoả mãn thì quyết định mua hàng của doanh nghiệp
là sai lầm, doanh nghiệp phải tiếp tục tìm kiếm lại nhà cung cấp mới, tìm ra và
khắc phục những sai sót để tránh phạm phải sai lầm đó .
Việc đánh giá kết quả mua hàng phải làm rõ những thành công cũng như
những mặt tồn tại của hoạt động mua hàng, đo lường sự đóng góp của các thành
viên, từng bộ phận có liên quan, đồng thời làm rõ trách nhiệm của mỗi cá nhân và
mỗi bộ phận.
Trên đây là tất cả quá trình mua hàng của doanh nghiệp, hoạt động quản trị
luôn gắn liền với từng bước của quá trình này từ khâu khởi điểm đến khâu kếtthúc.
Bất kể một sai sót nào của nhà quản trị cũng đều ảnh hưởng đến kết quả mua hàng,
từ đó ảnh hưởng đến kết quả bán ra của doanh nghiệp .
1.3 Sự cần thiết và phương hướng cơ bản nhằm nâng cao công tác
quản trị mua hàng.
1.3.1 Sự cần thiết phải nâng cao công tác quản trị mua hàng trong doanh
nghiệp thương mại.
Trong điều kiện kinh doanh ngày nay các doanh nghiệp luôn phải chịu sức
ép cạnh tranh rất nhiều chính vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm cách làm
sao duy trì được hoạt động kinh doanh trong điều kiện đó đồng thời doanh nghiệp
phát triển đi lên. Hơn nữa đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao luôn có sự thay
đổi trong mua bán hàng hoá. Chính vì vậy việc nâng cao công tác quản trị mua
hàng là một trong các giải pháp giúp doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh doanh
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
21
của mình. Hơn nữa việc tạo nguồn hàng là nghiệp vụ đầu tiên mở đầu cho hoạt
động trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn có sản phẩm đem bán
trên thị trường thì phải có hàng hoá đầu vào. Tuy nhiên không phải lúc nào doanh
nghiệp cũng có đủ hàng để bán. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp có thể
không mua được hàng để bán .
- Nâng cao chất lượng công tác quản trị mua hàng góp phần nâng hiệu quả
hoạt động kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp
trên thị thị trường. Việc lập kế hoạch mua hàng chính xác giúp cho doanh nghiệp
có thể tăng nhanh vòng chu chuyển vốn, đem lại hiệu quả sử dụng vốn. Sở dĩ như
vậy vì việc lập kế hoạch mua hàng được căn cứ trên mức tiêu thụ sản phẩm, do đó
sản phẩm mua hàng sẽ được cung ứng hết không còn tình trạng ứ đọng hàng hoá,
đồng vốn lưu động được lưu chuyển nhanh. Mặt khác khi doanh nghiệp có mối
quan hệ tốt với nhà cung ứng, doanh nghiệp có thể mua hàng với giá rẻ hơn, như
vậy giá thành sẽ thấp và doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh so với các đối thủ
cạnh tranh qua giá thành. Hơn nữa quản trị tốt mua hàng còn giúp cho doanh
nghiệp giảm thiểu chi phí phát sinh do hàng hoá kém phẩm chất, chi phí bảo quản,
chi phí kho bãi, chi phí hao hụt ngoài định mức … khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp còn thể hiện ở uy tín của doanh nghiệp trong việc kịp thời cung ứng ra thị
trường khi có nhu cầu, mà muốn làm được điều đó thì bắt buộc các doanh nghiệp
phải quản lí tốt hoạt động mua hàng.
- Nâng cao chất lượng công tác quản trị mua hàng còn giúp cho doanh
nghiệp đảm bảo tính thường xuyên, đều đặn của hoạt động kinh doanh. Ngay từ
khâu đầu tiên của hoạt động mua hàng nếu doanh nghiệp không quản lí tốt hoạt
động mua hàng sẽ bị chậm trễ. Chẳng hạn khi mua hàng doanh nghiệp không thúc
giục bên bán chuẩn bị giao hàng đúng hẹn, có thể hàng hoá sẽ bị giao chậm so với
dự kiến. Hoặc doanh nghiệp không tổ chức kiểm tra kĩ lưỡng số lượng và chất l-
ượng hàng hoá trước khi giao nhận, sau khi giao nhận về kho doanh nghiệp mới
phát hiện ra thiếu hàng, hàng hóa kém phẩm chất doanh nghiệp mới trả cho bên
bán làm lỡ hàng hoá để bán ra cho khách hàng, doanh nghịêp sẽ mất đi lợi nhuận
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
22
và uy tín của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể phải mất công tìm kiếm nhà
cung ứng mới. Khi quản lí dự trữ, nhân viên kho sẽ ảnh hởng đến khối lượng hàng
hoá dự trữ cho chu kì kinh doanh tiếp theo hoặc không làm tốt khâu nghiệp vụ về
khâu dự trữ làm hàng hoá bị hỏng hóc, không giữ được chất lượng, gây mất mát
hàng hoá làm tổn thất lớn cho doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động mua hàng vì
mục tiêu chung của doanh nghiệp.
- Nâng cao chất lượng công tác quản trị mua hàng giúp cho hoạt động tài
chính của doanh thuận lợi như việc thu hồi vốn nhanh…Do đó khi lập kế hoạch
mua hàng doanh nghiệp dựa trên cơ sở mức tiêu thụ sản phẩm, do đó sản phẩm
cung ứng sẽ được tiêu thụ hết không còn tình trạng hàng hoá bị ứ đọng nếu có thì
không đáng kể. Đồng vốn quay vòng nhanh. Mặt khác khi doanh nghiệp có mối
quan hệ tốt với nhà cung ứng có thể mua được hàng hoá với giá rẻ hơn, được ưu
tiên trong trường hợp hàng hóa khan hiếm hay nên cơn sốt như vậy doanh nghiệp
sẽ tiết kiệm được chi phí kinh doanh hay có thể thu đợc lợi nhuận.
- Nâng cao chất lượng công tác quản trị mua hàng có tác dụng đối với lĩnh
vực sản xuất hay nhập khẩu. Nó đảm bảo thị trường cho doanh nghiệp có hàng hoá
để cung ứng tạo điều kiện để ổn định nguồn hàng cung ứng với các đơn vị kinh
doanh.
1.3.2) Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản trị mua hàng .
Để hoạt động mua hàng đạt hiệu quả cao thì các nhà quản trị không chỉ hiểu
rõ về quá trình quản trị mua hàng mà còn cần phải nắm rõ các nhân tố ảnh hưởng
tới quá trình quản trị mua hàng cũng như các quy tắc để đảm bảo mua hàng có hiệu
quả. Để hoạt động bán hàng được tốt thì quá trình mua hàng phải theo sát nhu cầu
người tiêu dùng dưới góc độ cơ hội được lựa chọn ngươì mua, số lượng của người
mua, sự quan tâm của người bán với người mua đối với hàng hoá của doanh
nghiệp cơ cấu tiêu dùng của người mua đối với chi phí của doanh nghiệp, nhu cầu
tăng giảm hàng hoá tiêu dùng, sự khác lạ của hàng hoá, sự nhạy cảm về giá của
người mua, sự liên quan về giá đối với doanh thu của doanh nghiệp, lợi ích của ng-
ười mua và vai trò quyết định của người mua sắm. Bên cạnh đó còn có một loạt
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
23
các tác nhân gây ảnh hưởng đối với mua hàng, cường độ cạnh tranh của các doanh
nghiệp hiện tại, sức ép do các nhà cạnh tranh mới và ngay trong nội tại của hoạt
động mua hàng. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới kết quả hoạt động mua hàng.
Sau đây là một số nhân tố chính :
a ) Các nhân tố bên trong ảnh hưởng tới công tác quản trị mua hàng .
- Kế hoạch và tình hình tiêu thụ hàng hoá :
+ Chiến lược kinh doanh:
Chiến lược kinh doanh có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đặc biệt coi trọng quản lí hoạt động kinh doanh
của mình theo chiến lược. Bởi vì chiến lược kinh doanh giúp doanh nghiệp thấy rõ
mục đích, hướng đi của mình. Chiến lược kinh doanh giúp doanh nghiệp nắm bắt
được cơ hội trên thị trường và tạo được lợi thế cạnh tranh trên thương trường bằng
các nguồn lực có hạn cho doanh nghiệp với kết quả cao nhằm đạt được mục tiêu đề
ra. Do đó chiến lược kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình mua hàng do
đó quản trị mua hàng cũng phải phụ thuộc vào chiến lược, tuỳ theo chiến lược
trong từng giai đoạn mà các nhà quản trị mua hàng đưa ra kế hoạch mua hàng hợp
lí.
+ Chính sách sản phẩm :
Câu hỏi đầu tiên khi doanh nghiệp bắt tay vào kinh doanh là doanh nghiệp
sẽ bán cái gì? cho đối tượng tiêu dùng nào? Lựa chọn đúng mặt hàng kinh doanh,
có chính sách mặt hàng đúng đảm bảo cho tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp.
Muốn đạt được kết quả trong kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chính
sách sản phẩm hợp lí nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạn chế rủi ro
đến mức thấp nhất. Khi có chính sách sản phẩm doanh nghiệp sẽ hình thành được
phương hướng kinh doanh, đầu tư nghiên cứu đúng hướng. Với mỗi sản phẩm
luôn gắn liền với một chu kì sống nhất định nên để có một chính sách sản phẩm
đúng đắn thì doanh nghiệp phải đi nghiên cứu chu kì sống của sản phẩm nhằm xác
định xem sản phẩm đó đang ở giai đoạn nào của chu kì sống. Mặt khác với mỗi
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
24
sản phẩm doanh nghiệp phải đi nghiên cứu xem tình hình tiêu thụ của sản phẩm đó
trên thị trường và của bản thân doanh nghiệp đó nh nào.
+ Kế hoạch chi tiết :
Sau khi xác định nhu cầu trong công tác hoạch định mua hàng nhà quản trị
phải đưa ra được một kế hoạch mua hàng chi tiết, phải lựa chọn được mặt hàng
cung ứng. Kế hoạch mua hàng chi tiết hợp lí phải đảm bảo làm sao có đủ lượng
hàng dự trữ nhất định phù hợp với nhu cầu bán ra. Nếu kế hoạch không hợp lí sẽ
dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu hàng dự trữ gây ứ đọng về vốn.
Trong hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp thường kinh doanh nhiều mặt
hàng. Mỗi mặt hàng lại chiếm vai trò, vị trí nhất định. Có những mặt hàng giữ vị trí
chủ đạo và cũng có những mặt hàng giữ vị trí thứ yếu. Những mặt hàng chủ đạo là
những mặt hàng đem lại doanh thu và lợi nhuận lớn mặc dù thậm chí số lượng của
chúng chiếm tỷ trọng nhỏ trong mặt hàng kinh doanh, nếu thiếu những mặt hàng
này sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy
doanh nghiệp cần phải có chính sách mặt hàng có sự chọn lựa .
Để có một kế hoạch mua hàng chi tiết, hợp lí, đúng đắn doanh nghiệp cần phải
trả lời câu hỏi :
Mua cái gì ? để trả lời đợc câu hỏi này doanh nghiệp cần phải biết được nhu
cầu của khách hàng cần gì bởi doanh nghiệp là người bán cái khách hàng cần mua
chứ không phải cái doanh nghiệp có.
Mua khi nào? xác định thời điểm mua hàng, mua khi nào là hợp lí nhất và
đúng thời điểm nhất.
Mua của ai? Xác định nguồn cung ứng về sản phẩm hàng hoá mà doanh
nghiệp cần. Thông thường doanh nghiệp chọn một nhà cung cấp chính và một số
nhà cung cấp phụ. Mua của ai và khi nào tuỳ thuộc vào thị trường và giá cả.
Mua với giá bao nhiêu? Vì giá không cố định luôn có sự biến đổi theo tình
hình thị trường. Nếu mua được hàng với chi phí thấp hơn có thể thì sẽ tăng doanh
thu cho doanh nghiệp.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
25
Mua với số lượng bao nhiêu? doanh nghiệp cần phải tính toán được chính
xác mức tiêu thụ về loại hàng hoá để nên kế hoạch mua sao cho với số lượng hợp lí
không thừa cũng không nên thiếu .
Những mục tiêu trên có lúc, có mâu thuẫn nhau. Ví dụ giữa giá cả và chất l-
ượng, cho nên tuỳ vào mục tiêu của doanh nghiệp để có được thứ tự ưu tiên. Chính
sách mua hàng với mục tiêu của nó là tiền đề, là hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình
thực hiện kế hoạch mua hàng.
+ Kết quả tiêu thụ:
Có ảnh hưởng lớn đến công tác quản trị mua hàng vì để xây dựng nên một
kế hoạch mua hàng hợp lí phải dựa trên kết quả tiêu thụ kì trước. Với mỗi một mặt
hàng, doanh nghiệp có thể dựa trên kết quả tiêu thụ để xác định xem mặt hàng đó
khả năng tiêu thụ như thế nào, và nếu có được kết quả đó thì nguyên nhân do đâu
để từ đó xây dựng được một kế hoạch hợp lí hơn.
+ Các nguồn lực của doanh nghiệp .
- Vốn:
Là điều kiện tiền đề vật chất cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
đặc biệt là trong mua hàng. Đây là nhân tố quan trọng ảnh hởng đến công tác mua
hàng của doanh nghiệp. Khi có vốn đầy đủ thì hoạt động mua hàng được tiến hành
nhanh chóng, thuận lợi, tránh tình trạng dây dưa trong mua hàng, giảm được chi
phí trong khâu mua. Mặt khác việc đảm bảo tiền vốn cho doanh nghiệp giúp doanh
nghiệp chớp được các cơ hội trong các thương vụ kinh doanh.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật:
Nó là cơ sở phản ánh thực lực của doanh nghiệp. Cơ sở vật chất kĩ thuật tốt,
hiện đại tạo điều kiện tốt trong mua hàng bởi nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất
hiện đại thì doanh nghiệp sẽ nhanh chóng nắm bắt được thông tin, có nhiều cơ hội
chớp lấy thời cơ để mua được hàng nhanh hơn, tốt hơn … điều đó làm tăng sức
cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh. Nhưng nếu cơ sở vật
chất của doanh nghiệp mà kém sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của mình.
- Nhân viên mua hàng:
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
26
Trong hoạt động mua hàng của doanh nghiệp thương mại hành vi dễ sai lầm
nhất là mua hàng. Mua không đảm bảo sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy việc mua hàng phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động của con người. Cho nên việc tuyển chọn nhân viên làm công tác thu mua
là một khâu rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp không thể
giao hàng tuỳ ý cho bất cứ ai và ai mua cũng được mà doanh nghiệp phải có sự lựa
chọn. Một nhân viên thu mua giỏi phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
Kiến thức phong phú: Người nhân viên thu mua phải có kiến thức hiểu biết về
hàng hoá kinh doanh có sự hiểu biết sâu rộng về hàng hoá mà mình có trách nhiệm
đảm nhận, phải nắm được các hoạt động và mục tiêu của doanh nghiệp, hiểu về thị
trường và biết phân tích ảnh hưởng của thị trường, nắm được chính sách kinh tế
của nhà nước, hiểu biết pháp luật, có kinh nghiệm trong thu mua.
Năng động, tỉnh táo: Giỏi khai thác thông tin, nắm kịp thời tình hình biến động
trên thị trường về nhu cầu và giá cả.
Có khả năng giao tiếp :Khả năng giao tiếp tốt là một trong những yếu tố có lợi
cho đàm phán kinh doanh.
Việc tuyển nhân viên mua hàng là một khâu rất quan trọng. Chọn được một
nhân viên mua hàng chuyên nghiệp, có kinh nghiệp là một lợi thế thực sự của
doanh nghiệp.
+ Năng lực của nhà quản trị mua hàng:
Nhà quản trị có vai trò quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại
của quá trình mua hàng. Nhà quản trị là người chỉ đạo cho nhân viên mua hàng nên
họ phải nắm rõ được về nhân viên, phải nắm rõ được khả năng của từng người, biết
được người nào có khả năng đảm nhận việc mua hàng, khả năng thành công hay
thất bại cao hơn để từ đó có sự lựa đúng đắn
- Vị thế của doanh nghiệp trên thương trường:
Nếu doanh nghiệp có vị thế, uy tín trên thương trường thì việc đặt mua hàng sẽ
dẽ dàng hơn, doanh nghiệp sẽ được các nhà cung ứng ưu tiên hơn trong việc chào
hàng, các nhà cung ứng cũng chủ động đến chào hàng và dành nhiều điều khoản -
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
27
ưu đãi cho doanh nghiệp hơn, việc mua hàng nhiều khi tránh được tình trạng thủ
tục rườm rà… Do đó với uy tín, vị thế doanh nghiệp trên thị trường có ảnh hưởng
lớn đến công tác quản trị mua.
Ngoài ra còn có các nhân tố khác như tình hình sản xuất kinh doanh, trình độ
tiến bộ khoa học kĩ thuật…đều có ảnh hởng đến công tác mua hàng.
b) Nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến quá trình quản trị mua hàng .
- Nhà cung cấp:
Đây là yếu tố khách quan ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả mua hàng của doanh
nghiệp vì nếu lựa chọn không đúng nhà cung cấp sẽ không đảm bảo khả năng mua
hàng của doanh nghiệp, không đảm bảo được số lượng hàng bán ra. Bởi đối với
doanh nghiệp thương mại thường kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau. Mỗi mặt
hàng có thể có một hoặc nhiều nhà cung ứng. Trong trường hợp như vậy sẽ có sự
cạnh tranh của các nhà cung ứng .
Để lựa chọn người cung ứng cho doanh nghiệp cần dựa vào nguyên tắc:
+ Không hoàn toàn lệ thuộc vào một nhà cung cấp để tạo ra sự lựa chọn tối ưu và
để tránh bị ép giá.
+ Cần theo dõi thường xuyên về tình hình tài chính, khả năng sản xuất và khả
năng cung ứng của người cung ứng .
- Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng:
Doanh nghiệp mua hàng phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng vì trong mọi
hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp luôn lấy khách hàng làm nhân vật trung
tâm, nhu cầu của khách hàng sẽ là mục tiêu để doanh nghiệp xây dựng nên kế
hoạch mua hàng cho nên nhu cầu tiêu dùng ảnh hưởng đến quá trình mua hàng
như: sự thay đổi về nhu cầu tiêu dùng sẽ làm tốc độ bán hàng biến đổi dẫn đến sự
biến đổi trong mua hàng .
- Đối thủ cạnh tranh:
Đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng lớn đến mua hàng trong doanh nghiệp ở cả
mua và bán. Đối thủ cạnh tranh trong mua hàng thể hiện ở chỗ doanh nghiệp luôn
phải đối phó với hàng loạt các đối thủ cạnh tranh, sự cạnh tranh trên thị trường là
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
28
sự cạnh tranh về giá nên để thắng được đối thủ cạnh tranh doanh nghiệp phải thư-
ờng xuyên theo dõi chính sách giá của đối thủ cạnh tranh, đưa ra được mức giá
khách hàng chấp nhận được mà có mức giá nhỏ hơn hoặc bằng giá của đối thủ
cạnh tranh nhưng phải đảm bảo có lãi. Muốn đưa ra được một mức giá thấp hơn
giá của đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp phải đặc biệt chú trọng đến công tác
mua hàng. Mua hàng làm sao để đảm bảo bán được với giá thấp mà vẫn đảm bảo
có lãi. Cạnh tranh không chỉ thể hiện ở các doanh nghiệp thương mại mà còn thể
hiện ở sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Sự cạnh tranh này doanh nghiệp có
nhiều lợi hun bởi vì các nhà cung cấp luôn tìm cách đưa ra các điều khoản ưu đãi
nhằm thu hút khách hàng là các doanh nghiệp trở thành khách hàng của mình. Cho
nên doanh nghiệp để đảm bảo thắng các đối thủ thì luôn tìm kiếm các nhà cung cấp
khác nhau để làm sao mua đợc hàng với giá rẻ hơn các nhà cung cấp khác. Có như
thế mới đảm bảo thắng được các đối thủ cạnh tranh thông qua giá. Vì thế nếu nhà
cung cấp nào đưa ra giá cả hay các điều khoản ưu đãi thì họ sẽ dễ dàng thu hút đ-
ược các doanh nghiệp quan tâm đến hàng của mình.
- Các cơ quan nhà nước:
Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương đều có ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh và hoạt động mua hàng của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều
có các cơ quan nhà nước và cơ quan địa phương theo dõi, kiểm tra và giám sát theo
dõi các hoạt động có liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình. Một nhà quản
trị giỏi không nên tìm cách né tránh sự kiểm soát của cơ quan nhà nước mà ngược
lại cần phải biết tận dụng các mối quan hệ quen biết của họ về các vấn đề có liên
quan tới mình đặc biệt là trong mua hàng. Thông qua hệ thống cơ quan nhà nước,
nhà quản trị sẽ tìm được nguồn cung ứng tốt đảm bảo được mục tiêu mua hàng của
mình. Hơn nữa cơ quan nhà nước còn ảnh hưởng đến việc mua hàng của doanh
nghiệp thông qua các cơ chế, chính sách nh thuế … Ví dụ nếu thuế cao chi phí mua
hàng sẽ tăng làm cho giá cả cao và ngược lại. Lúc đó doanh phải điều chỉnh giá cả
cho hợp lí.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
29
Đó là một số các nhân tố ảnh hưởng tới nghiệp vụ mua hàng của doanh nghiệp,
có những nhân tố chủ quan doanh nghiệp có thể điều chỉnh được nhưng cũng có
những nhân tố khách quan nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp mà doanh
nghiệp không thể điều chỉnh được. Đối với những nhân tố khách quan doanh
nghiệp không nên tìm cách né tránh mà phải biết chấp nhận nó. Một chính sách
mua hàng tốt làm nhiệm vụ tiên phong mở đường cho việc hoàn thành nghiệp vụ
mua hàng. Bởi một chính sách mua hàng tốt sẽ cân nhắc đúng và chỉ rõ người cung
ứng và nhân viên mua hàng. Để có một chính sách mua hàng đúng không chỉ đơn
thuần là kết quả khó nhọc của hoạt động marketing trong doanh nghiệp mà quan
điểm của marketing là lấy khách hàng và thị trường làm trung tâm. Bởi doanh
nghiệp chỉ có thể bán đợc cái mà khách hàng cần chứ không phải là cái mà doanh
nghiệp có.
3.3.3 ) Phương hướng cơ bản nhằm nâng cao công tác quản trị mua hàng trong
doanh nghiệp thương mại.
Mua hàng là khâu quan trọng không kém gì khâu tiêu thụ hàng hoá vì nếu đầu
vào không tốt thì khó có thể nói đến có hiệu quả ở đầu ra. Vì vậy doanh nghiệp có
thể đưa ra phương hướng nhằm nâng cao chất lượng công tác quản trị mua hàng.
Thực chất nâng cao công tác quản trị mua hàng là việc doanh nghiệp phải đưa ra đ-
ược các quyết định chính xác hơn nữa và việc thực hiện mang lại kết quả cao hơn
trước đây đã làm. Nhà quản trị phải luôn đảm bảo cho quá trình mua hàng theo
đúng chương trình, mục tiêu đã định một cách chủ động, ổn định lâu dài, phong
phú sao cho doanh nghiệp có đủ hàng. Doang nghiệp phải đưa ra quá trình mua
hàng bao gồm: quá trình phân tích, lựa chọn và đi đến quyết định mua, mua cái gì?
mua của ai? Giá cả và các điều kiện thanh toán như thế nào?…Phương hướng cơ
bản nhằm nâng cao công tác quản trị mua hàng là:
- Không ngừng củng cố và hoàn thiện từng bước trong quy trình mua hàng bằng
cách:
+ Nhà quản trị phải lập kế hoạch mua hàng một cách chi tiết, chính xác để quá
trình mua hàng được thực hiện dễ dàng, không bị nhầm lẫn. Xác định chính xác số
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
30
lượng, chủng loại, giá cả hàng hoá và nhà cung cấp hàng hoá cần mua. Lên kế
hoạch chi tiết cho việc dự trữ như: chuẩn bị kho tàng, chi phí và lượng hàng hoá
dự trữ.
+ Nhà quản trị mua hàng phải luôn đảm bảo cho quá trình mua hàng diễn ra theo
đúng kế hoạch, mục tiêu đã xác định một cách chủ động, đảm bảo nguồn hàng ổn
định lâu dài, phong phú sao cho doanh nghiệp có đủ hàng hoá phục vụ cho hoạt
động kinh doanh của mình. Từ đó có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
+ Nhà quản trị phải luôn tìm kiếm, tạo ra nguồn hàng tốt nhất để đảm bảo cung
cấp cho quá trình kinh doanh được tiến hành một cách thường xuyên liên tục và
không ngừng nâng cao chất lượng nguồn hàng.
+ Quản lí tốt nguồn hàng tạo nên sự am hiểu và vận dụng một cách có khoa học
các hình thức, phương thức mua hàng sao cho phù hợp với từng loại hàng, với
nguồn lực của doanh nghiệp.
+ Tăng cường công tác quản lí kho hàng, bảo quản tốt hàng hoá tránh tình trạng
hàng hoá bị thất thoát, giảm tỷ lệ hao hụt hàng hoá. Xây dựng những kho chuyên
dùng cho từng loại hàng hoá.
+ Nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ các nhà quản trị.
Nhà quản trị phải biết nâng cao chất lượng mua hàng bằng cách thông qua đào tạo
và đãi ngộ nhân sự. Cần phải đầu tư cơ sở vật chất, kho tàng, bến bãi một cách có
khoa học sao cho phù hợp với ngành hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
31
CHƯƠNG 2:
KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ MUA HÀNG
TẠI CÔNG TY BÁCH HOÁ SỐ 5 NAM BỘ.
2.1 Vài nét sơ lược về công ty bách hoá số 5 Nam Bộ
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty:
Công ty bách hóa số 5 Nam Bộ là một công ty kinh doanh tổng hợp, nguyên
là cửa hàng Bách Hóa Cửa Nam cũ. Công ty được thành lập tháng 5 năm 1954
trong nền cơ chế kế hoạch hóa tập trung, hoạt động kinh doanh theo phưung thức
hạch toán báo số. Nhiều năm liền cửa hàng bách hóa Cửa Nam là lá cờ đầu trong
ngành thương nghiệp quốc doanh của thủ đô.
Sau khi nền kinh tế nước ta có sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước. Để phù hợp với sự chuyển đổi đó ngày 30/3/1993, cửa
hàng Bách hóa Cửa Nam được phép tách ra thành một doanh nghiệp độc lập theo
quyết định số 853/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội. Với tư cách là một pháp
nhân kinh tế, Công ty Bách hóa số 5 Nam Bộ có giấy phép kinh doanh số 1050
(UBND), có vốn điều lệ là 530.000.000 VNĐ. Có trụ sở, con dấu riêng và cơ sở
vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty. Công ty hoạt động và hạch
toán độc lập, tự chủ và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật khi
tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty đã tìm hiểu và nắm bắt xu
hướng phát triển, hành vi mua bán của khách hàng và công ty nhạy bén mở ra hai
gian hàng siêu thị và một quầy thời trang tự chọn. Chỉ qua vài năm hoạt động, siêu
thị số 5 Nam Bộ đã rất phát triển và được đánh giá là một trong những siêu thị lớn
nhất Hà Nội.
Hiện nay, công ty Bách hóa số 5 Nam Bộ đã có một bề dày truyền thống
hoạt động kinh doanh, tổ chức lãnh đạo. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của công
ty ngày càng được nâng lên, thể hiện thông qua việc đóng góp ngân sách nhà nước
ngày càng tăng. Công ty đã lập được nhiều thành tích suất sắc và được nhà nước
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
32
tặng thưởng nhiều huân chưung bằng khen, cờ thi đua của thành phố và sở thưung
mại
2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của công ty:
Chức năng của công ty:
Chức năng nguyên thủy của công ty khi mới thành lập là thực hiện các hoạt
động bán buôn, bán lẻ các loại hàng hóa vật phẩm tiêu dùng, ngày nay công ty
bách hóa hoạt động trong nền kinh tế thị trường nên chức năng của công ty có sự
thay đổi để phù hợp với cơ chế mới.
Chức năng rất quan trọng của công ty đó là: công ty là nhân tố trung gian
kết nối giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng, cung cấp cho khách hàng những sản
phẩm cần thiết phù hợp với nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng qua đó thực
hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa.
Chức năng thứ hai của công ty là hình thành hàng hóa dự trữ để góp phần
bình ổn thị trường, cân bằng cung cầu giá cả, kết nối nhà sản xuất và người tiêu
dùng cả về mặt không gian, thời gian, bảo vệ và quản lí chất lượng hàng hóa.
Chức năng thứ ba: là một mắt xích quan trọng trong mạng lưới thưung mại
phân phối bán buôn và bán lẻ, do đó công ty còn có chức năng giao tiếp phối thuộc
với các bạn hàng, tạo nên nguồn thông tin về nguồn hàng thị trường khách hàng,
đồng thời phản hồi lại những thông tin từ thị trường tới nhà sản xuất, để họ hoàn
thiện sản phẩm và đưa ra sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu thị trường và đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng.
Nhiệm vụ của công ty :
Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thương mại, Công
ty Bách hóa số 5 Nam Bộ có nhiệm vụ tiêu thụ hàng hóa, thúc đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển hàng hóa và dịch vụ tạo ra hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh
Công ty phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà nhà nước giao cho như: góp
phần bình ổn thị trường hàng hóa giá cả, không để xảy ra các “cơn sốt”, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng .
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
33
Ngoài ra công ty còn có một số nhiệm vụ rất quan trọng đó là phải có nhiệm
vụ bảo toàn và phát triển tài sản và nguồn vốn mà nhà nước giao cho, thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước về nhà nước về quản lí tài chính, kế toán
đóng góp đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
34
2.1.3. Cơ cấu tổ chức:
Chịu trách nhiệm lãnh đạo tổ chức quản lí điều hành mọi hoạt động của
công ty là Ban giám đốc đứng đầu là ông Lê Thanh Thủy, công ty còn có hai phó
giám đốc giúp việc.Một phó giám đốc phụ trách bán buôn, còn một phó giám đốc
phụ trách siêu thị. Giám đốc công ty do ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
ủynhiệm. Giám đốc là người tổ chức điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty, vạch chiến lược sản xuất kinh doanh và ra các quyết định cuối cùng
thay mặt đại diện cho mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công ty trước pháp luật và cu
quan quản lí nhà nước. Phó giám đốc công ty là người giúp việc giám đốc công ty
GIÁM ĐỐC
Phó GĐ
phụ trách siêu thị
Phó GĐ
phụ trách bán buôn
Tổ chức
hành chính
Kế hoạch
nghiệp vụ Kế toán
tài vụ
Bảo
vệ
Hành
chính
Văn
thư
Khai
thác
hàn
g
Kho
vận
Kế
toán
kép
Kế
toán
đơn
Siêu thị Quầy
hàng gian
ngoài
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
35
và chịu trách nhiệm thực hiện các công việc được phân công, ủy nhiệm và báo cáo
kết quả các công việc được giao.
Các bộ phận nghiệp vụ chức năng:
-Phòng kế toán tài vụ : có nhiệm vụ hạch toán toàn bộ quá trình kinh doanh
của công ty, theo dõi tình hình tài chính, phân tích thẹo dõi đánh giá lập kết quả
hoạt động tài chính để báo cáo với ban giám đốc công ty.
-Phòng kế hoạch nghiệp vụ: có nhiệm vụ lập kế hoạch, chiến lược kinh
doanh sao cho có hiệu quả, phù hợp với thực tế thị trường. Nghiên cứu đánh giá thị
trường đối thủ cạnh tranh... để giám đốc đưa ra những quyết định kinh doanh đúng
đắn.
Riêng bộ phận kho vận : có nhiệm vụ tiếp nhận bảo quản, dự trữ hàng hóa
để hoạt động bán hàng của công ty có thể diễn ra thường xuyên liên tục.
-Phòng tổ chức hành chính tổng hợp: chịu trách nhiệm quản lí về khâu nhân
sự, tuyển dụng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ nhân viên, bố
trí sắp xếp vị trí công tác phù hợp năng lực của từng người.Phòng tổ chức hành
chính gồm 5 người:
01 trưởng phòng tổ chức duyệt lao động tiền lương.
01phó phòng làm công tác lao động tiền lương.
01chủ tịch đoàn làm công tác bảo hộ lao động, thi đua khen thưởng, chăm sóc
sức khỏe cán bộ công nhân viên.
01 làm công tác kế toán hành chính.
01 làm công tác văn thư lưu trữ .
- Tổ bán hàng: chịu trách nhiệm kinh doanh ở các quầy siêu thị. Đây là
những bộ phận đóng vai trò rất quan trọng vào sự thành công của công ty. Họ là
những người bán hàng, thu tiền, trực tiếp tiếp xúc với khách hàng tạo ra doanh thu
và lợi nhuận cho công ty. Họ là bộ mặt của công ty, là nền móng văn hóa tổ chức
công ty. Bên cạnh đó, những nhân viên của tổ bán hàng còn có nhiệm vụ tiếp nhận
những thông tin từ khách hàng và phản hồi lại cho ban giám đốc công ty để có
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
36
những kế hoạch, chính sách,quyết định kịp thời với nhu cầu người tiêu dùng và
tình hình thị trường nhằm mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Đây là mô hình quản lí theo kiểu trực tuyến, nó tạo ra sự năng động tự chủ
trong kinh doanh, các mệnh lệnh chỉ thị của ban giám đốc được sự truyền đạt một
cách nhanh chóng tới các bộ phận có liên quan.
2.1.4 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty .
Đặc điểm về môi trường kinh doanh bên ngoài của công ty.
-Điều kiện tự nhiên:
Công ty bách hóa số 5 Nam Bộ là một đun vị kinh doanh bán buôn, bán lẻ
của thủ đô Hà Nội. Công ty có một vị trí hết sức thuận lợi, nằm ở hai mặt tiền của
phố Nguyễn Thái Học và Lê Duẩn ở giữa trung tâm thủ đô.Vị trí này đã tạo điều
kiện hết sức thuận lợi cho việc kinh doanh của công ty.
-Điều kiện kinh tế:
Đây là điều kiện thuận lợi cho công ty bách hóa số 5 Nam Bộ nói riêng và
các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn Hà Nội nói chung đó là trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội của cả nước, là địa phưung có tốc độ phát triển cao với tốc
độ tăng trưởng bình quân đạt gần 10%/ năm. Thu nhập của người dân Hà Nội đứng
thứ hai trong cả nước, chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh, điều này rất quan trọng bởi
nó sẽ làm tăng đáng kể sức cạnh tranh của thị trường, sức tiêu thụ của hàng hóa.
Mặt khác, các yếu tố khác như: lạm phát, thất nghiệp, sự phát triển của các hoạt
động kinh tế đối ngoại, ...ở mức lí tưởng tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
thưung mại.
Phải nói rằng, công ty đang hoạt động trong một môi trường kinh tế đầy
thuận lợi hun hẳn các địa phưung khác. Tuy nhiên, nền kinh tế đầy phát triển đó đã
đem lại cho công ty không ít khó khăn nhất định. Do sức mua của thị trường lớn,
khả năng thanh toán của người tiêu dùng cao nên công ty luôn phải tìm kiếm
những nguồn cung ứng có chất lượng cao phong phú đồng thời công ty luôn gặp
căn bệnh muôn thưở thiếuvốn kinh doanh, đặc biệt là vốn lưu động.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
37
Ngoài ra, công ty còn phải đối mặt với những hoạt động kinh doanh không
lành mạnh như: các hoạt động buôn lậu trốn thuế, kinh doanh hàng giả...
-Điều kiện chính trị xã hội:
Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của nhà nước với số
dân gần 3 triệu người. Các trung tâm ngoại giao, các văn phòng đại diện, các tổ
chức kinh tế,văn hóa, xã hội đều có trụ sở đặt tại Hà Nội. Hà Nội còn là một địa
điểm du lịch hấp dẫn, hàng năm thu hút hàng chục vạn lượt khách du lịch trong và
ngoài nước tới tham gia, học tập, công tác...Đây là khả năng tiềm tàng to lớn về
khách hàng có nhu cầu tiêu dùng đối với thị trường Hà Nội. Vì vậy, đối với các
doanh nghiệp nói chung và Công ty bách hóa số 5 Nam Bộ nói riêng nên biết khai
thác tiềm năng to lớn này thì sẽ tạo nên doanh thu đáng kể.
Ngoài ra các chính sách khá thông thoáng và cởi mở của Hà Nội cũng tạo
điều kiện thuận lợi cho công ty hoạt động.
- Đối thủ cạnh tranh: Hoạt động trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành
phần tham gia nên công ty gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các thành phần kinh
tế Nhà nước và tư nhân.
Đặc điểm môi trường kinh doanh bên trong của doanh nghiệp:
-Điều kiện tài chính:
Khi mới thành lập tổng số vốn ban đầu của công ty là 530.000.000 VNĐ.
Trong đó :
+ Vốn cố định: 230.000.000 VNĐ
+Vốn lưu động: 300.000.000 VNĐ
So với thực tế kinh doanh thì đây là số vốn nhỏ bé, không đáp ứng đủ yêu
cầu kinh doanh nên công ty luôn phải tìm cách huy độngvốn từ nhiều nguồn khác
nhau như vốn vay từ các tổ chức tín dụng, vốn góp của cán bộ công nhân viên
trong công ty, ngoài ra còn vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm của công ty.
Ngoài việc kinh doanh thưung mại, công ty còn đầu tư vốn để cải tạo, nâng cấp,
mua sắm, sửa chữa trang thiết bị nội thất trong công ty để từng bước chuyển sang
hoạt động kinh doanh với quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
38
hàng. Nhìn chung trong những năm gần dây bằng một loạt các biện pháp trên, công
ty đã bảo toàn và sử dụng tốt nguồn vốn của mình, đảm bảo thu nhâp cá nhân cho
người lao động, thưc hiện tốt nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước và hoàn thành
các nghĩa vụ mà sở thương mại giao cho. Đến năm 2000, nguồn vốn kinh doanh
của công ty dần dần lớn lên nhanh chóng đáp ứng nhu cầu kinh doanh và nâng cao
khả năng tự chủ tài chính của công ty. Vốn cố định đã là 1.500.000.000 VNĐ và
vốn lưu dộng là 3.000.000.000 VNĐ..
-Nhân sự :
Hiện nay, Công ty bách hóa số 5 Nam Bộ có 155 lao động. Đây là công ty
thưung mại nên lao động nữ chiếm tỉ lệ rất cao 83,5% do đặc thù hoạt động mang
tính chất thưung mại, dịch vụ của công ty hoạt động bán hàng đòi hỏi sự khéo léo,
mềm mỏng. Lao động nam nằm chủ yếu ở bộ phận bảo vệ, kho vận, khai thác
hàng. Số lao động có trình độ đại học là 49 người chiếm 31,61%; số lao động có
trình độ trung cấp là 81 người, chiếm tỉ lệ 52,26%. Số lao động su cấp là 18 người,
chiếm 11.61%. Còn lại là chưa qua đào tạo.
Về trình độ chính trị, số Đảng viên là 36 người chiếm 23,2%, trung cấp
chính trị là 12 người, su cấp chính trị là 28 người. Công ty thành lập từ rất lâu đời,
nên đội ngũ lao động hoạt dộng từ thời bao cấp còn khá lớn do vậy đội ngũ lao
động đang bị già hóa cụ thể số lao động dưới 30 tuổi là 32 người chiếm tỉ lệ
20,64% và từ 30 đến trên 50 tuổi là 123 người ,chiếm tỉ lệ 79,35%. Như vậy số lao
động của công ty đang bị già hóa, số lao động đứng tuổi là khá lớn với tuổi trung
bìnhlà 38 - 40 tuổi.
Hàng năm, lượng sinh viên các trường trung cấp và đại học đến công ty
thực tập khá đông, đặc biệt là vào các dịp trước Tết. Những sinh viên này đã đáp
ứng khá lớn cho công ty về bộ phận lao động mềm, lao động thời vụ. Hơn nữa, lao
động này lại rất trẻ, có sức khỏe, nhiệt tình nên đã tiết kiệm chi phí tiền công
không nhỏ cho công ty. Đây là lượng lao động không chính thức chiếm tỉ trọng lớn
làm gia tăng đáng kể số lao động của công ty nhưng đều là lao động ngắn hạn.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
39
Nhìn chung, công ty rất chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ nhân viên. Công ty thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tổ
chức đào tạo và đào tạo lại cho CBCNV toàn công ty. Tuy nhiên, số lao động
trẻ có trình độ chuyên môn còn chiếm tỉ trọng nhỏ là do công ty phải kế thừa đội
ngũ lao động từ thời bao cấp để lại và để giải quyết thấu đáo vấn đề này không
phải là dễ. Công ty đã rất nỗ lực đa dạng hóa các loại hình dịch vụ để có thể bố trí
công việc cho tất cả các lao động trong công ty, không để trường hợp nào phải
nghỉ chờ việc.
Mặc dù kể từ khi thành lập công ty đã thu được những kết quả đáng kể tạo
được tiếng tăm trên thị trường, nhưng trong công ty hiện nay, người lao động thiếu
khả năng sáng tạo, đa số đều chịu sự điều hành làm việc theo những qui định sẵn
có. Công ty chưa có biện pháp cụ thể khuyến khích tính sáng tạo trong lao động.
Các vấn đề kích thích chưa được quan tâm, đặc biệt là vấn đề kích thích vật chất
cho người lao động. Điều này thể hiện ở mức thu nhập bình quân của mỗi người so
nới mặt bằng chung còn thấp. Mỗi lao động tiến trong công ty mỗi kì chỉ được
thưởng 60.000 đồng một con số quá ít ỏi nên chưa kích thích được sự hăng say,
phấn đấu của người lao động. Các mức khoán của công ty cho các quầy còn cao so
với khả năng thực hiện của nó nên khả năng đạt được hay vượt mức đặt ra là thấp.
Vấn đề bố trí lao động chưa có tính khoa học. Các phòng ban bộ phận vẫn
có nui thừa thiếu lao động.VD: phòng kế toán có năm lên tới 15 người.
Công tác đào tạo và phát triển nhân sự đã được thực hiện nhưng chỉ tập
trung ở một số bộ phận, chưa nhân rộng ra toàn công ty. Công việc tuyển dụng
nhân sự tuy không được làm thường xuyên nhưng nó ảnh hưởng không nhỏ tới kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc này công ty làm còn chưa tốt.
Trong khâu tuyển dụng nhân sự công ty bỏ qua việc phỏng vấn, mặc dù có thể tiết
kiệm được thời gian và chi phí nhưng không xác định rõ đựợc năng lực, sở trường,
nguyện vọng của người lao động .
Nhìn chung qua hệ thống các chỉ tiêu trên ta thấy hiệu quả sử dụng lao động
của công ty tăng rõ rệt, nó góp phần đưa công ty không ngừng lớn mạnh. Lợi thế
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
40
của công ty, đó là lực lượng nhân sự có mối liên kết khá chặt chẽ, có sự hiểu biết
và mối quan hệ tốt, có ý chí vưun lên.Tuy nhiên để công ty đứng vững trong cu chế
thị trường và ngày càng phát triển thì công ty cần phải có những thay đổi đáng kể
trong chính sách nhân sự. Các chỉ tiêu đều có những ưu và nhựơc điểm riêng, công
ty cần tìm cách phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm của những chỉ tiêu đó.
-Loại hình, ngành nghề và mặt hàng kinh doanh của công ty:
Là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tổng hợp nhiều loại hàng hóa
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của người dân và các tổ chức kinh tế xã hội. Hoạt
động chính của công ty là thực hiện công tác bán buôn bán lẻ hàng hóa. Bên cạnh
đó, công ty còn là đại lý nhận bán hàng ủy thác cho các doanh nghiệp, công ty
khác như Unilever, công ty đồ hộp Hạ Long, nhà máy thuốc láThăng Long, nhà
máy rượu vang Thăng Long, các hãng bánh kẹo khác.
Là công ty kinh doanh tổng hợp, nên ngành hàng, mặt hàng kinh doanh rất
đa dạng phong phú và cũng rất phức tạp. Có thể chia thành một số ngành hàng như
sau:
+Lương thực, thực phẩm: đồ uống, đồ hộp, bánh kẹo đường sữa, cà phê chè,
thuốc lá, ha,ng đông lạnh, hàng chế biến, hàng tưui sống, rau quả
+Hàng may mặc: quần áo, mũ, tất, chăn bông gối đệm....
+Đồ gia dụng: điện gia dụng, đồ dùng gia đình....
+Đồ điện tử: đồng hồ, máy tính, đài cassette, máy ảnh, tai nghe...
+Văn hóa, văn phòng phẩm: bút, sách, giấy..
+Hàng da giày, túi sách, ví cặp, balô...
+Các loại kim, cu khí và các loại khác
Các mặt hàng trên của công ty đều là những hàng có chất lượng cao, được
lấy trực tiếp từ những nhà sản xuất, đại lí nhập khẩu từ nước ngoài. Sau khi nghiên
cứu thu thập thông tin về khách hàng tình hình biến động của thị trường, công ty sẽ
có kế hoạch khai thác nguồn hàng cũng như kế hoạch mua bán cho người mua
hàng của khách hàng, hàng hóa trong siêu thị của công ty chủ yếu phục vụ nhu cầu
thông thường cho người tiêu dùng, trong đó hàng thực phẩm chiếm từ 80 – 88%
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
41
phổ mặt hàng, còn hàng phi thực phẩm chiếm 15 –20% (thường là các mặt hàng
thuộc sản phẩm công nghiệp nhẹ phục vụ tiêu dùng như giầy dép đồ gia dụng.....)
Do kinh doanh nhiều mặt hàng kinh doanh rộng lớn nên công ty khó tránh
khỏi sự trùng lặp trong cu cấu và mặt hàng kinh doanhvới các đun vị trong và
ngoài quốc doanh. Điều này làm cho tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay
gắt và mặt hàng đầu tư không có chiều sâu.
Để đáp ứng nhu cầu hàng hóa cho kinh doanh của mình, công ty đã chủ
động tìm kiếm và kiếm hợp đồng mua hàng hóa tận nguồn tại các đơn vị sản xuất
nên giá mua rẻ, giảm nhiều được trong chi phí mua hàng. Bên cạnh đó công ty còn
được cung ứng sản phẩm bởi các nguồn hàng đáng tin cậy như các bạn hàng truyền
thống, các cu sở tự tìm đến giới thiệu hàng hóa, đặt quan hệ kí kết hợp đồng mua
bán hay kí gửi hàng hóa, đề nghị công ty làm đại lí. Ngoài ra, một phần hàng hóa
là do mua từ nguồn nhập khẩu theo con đường tiểu ngạch, nguồn hàng trôi nổi trên
thị trường. Nhưng cho dù hàng hóa được cung ứng từ các nguồn nào, theo con
đường nào thì vấn đề chất lượng và giá cả hàng hóa được công ty đặc biệt quan
tâm, đảm bảo chất lượng phù hợp với giá cả, và đảm bảo chữ tín trong kinh doanh.
Ngoài phương thức bán hàng tự phục vụ cửa hàng còn áp dụng phưung thức
bán hàng tại quầy. Đây là những gian hàng như nằm ngoài siêu thị, mỗi mặt hàng
chuyên bán thành nhóm hàng nhất định như quầy bán đồng hồ, đồ điện gia dụng,
quầy kính mắt ... Các mặt hàng bán tại quầy thường là hàng phi thực phẩm (chỉ có
duy nhất một hàng quầy bán bánh kẹo), không phải là những mặt hàng nhật dụng
mà đây là những mặt hàng hàng có kỹ thuật cao, trị giá lớn.
-Đặc điểm thị trường tiêu thụ:
Công ty kinh doanh tổng hợp nhiều loại mặt hàng kinh doanh khác nhau đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và các tổ chức kinh tế xã hội trong khu vực
thành phố Hà Nội nhất là người dân nơi đặt cửa hàng của công ty. Trong cu chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, mọi hoạt động của công ty đều thực hiện theo kế
hoạch mệnh lệnh của nhà nước do đó công ty không chú trọng đến thị trường. Khi
chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, công ty phải tự
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
42
hạch toán kinh doanh độc lập và tự chịu trách nhiệm trước nhà nước về việc bảo
toàn và phát triển nguồn vốn được giao thì vấn đề đặt ra là phải quan tâm đến thị
trường, doanh thu, lợi nhuận. Nếu hàng hóa mà công ty kinh doanh đươc thị trường
chấp nhận thì công ty sẽ tồn tại và có điều kiện thúc đẩy hơn nữa hoạt động kinh
doanh của mình và ngược lại thì công ty sẽ không thể đứng vững hơn trên thị
trường, cuối cùng sẽ bị đào thải. Nhận thức được điều này, ban lãnh đạo công ty đã
rất chú trọng đến thị trường tiêu thụ của mình, hoạt động kinh doanh của công ty
đều hướng vào thị trường, công ty không chỉ kinh doanh những gì mà mình thích,
mà đã đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh trên cơ sở nhu cầu của người tiêu thụ.
Trong điều kiện hiện nay, thị trường tiêu thụ của công ty Bách hóa số 5 Nam
Bộ vẫn còn hạn hẹp chủ yếu phục vụ người dân thị trường lân cận. Điều này chủ
yếu là do có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường, các đối thủ cạnh tranh của công ty xuất hiện ngày càng nhiều với nhiều
hình thức khác nhau trong đó có những đối thủ có tiềm lực rất lớn về tài chính.
Các đối thủ cạnh tranh này có thể là các doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân, các liên doanh hay các hộ tiểu thương. Hàng hóa của họ rất phong
phú đa dạng, nhiều chủng loại kích cỡ, nhiều màu sắc phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng rất đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng. Một điều bất lợi nữa là các
cửa hàng kinh doanh của họ lại nằm đan xen với cửa hàng của công ty, có mặt ở tất
cả các ngõ ngách trong thành phố, tập trung thành những dãy phố thương mại
chuyên kinh doanh một nhóm hàng hóa và rất thuận tiện cho việc giao thông đi lại,
chuyên chở hàng hóa. Về phía công ty, mặc dù trải qua một thời gian khá dài kể từ
khi hoạt động kinh doanh trong cơ chế mới nhưng khi nhắc đến cửa hàng bách hóa
người ta lại liên tưởng đến thời kì mua bán theo tem phiếu nhất là người cao tuổi
và người dân Việt Nam đã sống qua thời kì bao cấp thì cửa hàng bách hóa dù lớn
hay nhỏ thì thay cho việc mặc cả mức giá theo ý muốn của mình thì khách hàng lại
phải mua theo một mức giá ấn định trước không biết là đắt hay rẻ. Đúng về mặt
tâm lý thì bao giờ người mua cũng muốn mua hàng rẻ hơn một chút dù rằng phần
chênh lệch giá đó chẳng đáng bao nhiêu. Điều này khó có thể thực hiện được ở các
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
43
cửa hàng bách hóa nhưng ở các cửa hàng kinh doanh bên ngoài thì dễ dàng thực
hiện được. Hơn nữa người tiêu dùng luôn mong muốn sự thuận tiện vì họ còn phải
kèm theo phương tiện, bởi vậy họ - đặc biệt là những người trẻ tuổi và những
người làm công sở -rất ngại phải gửi xe để vào mua một mặt hàng, thậm chí có thể
sẽ chẳng mua được gì mà lại phải mất tiền gửi xe. Do đó tất nhiên là họ sẽ lựa chọn
sự thuận tiện ở các cửa hàng bán lẻ rải rác khắp dọc đường hay nhiều thời gian hơn
thì có thể tìm đến các dãy phố thương mại nơi tập trung đầy đủ các hàng hóa mà
họ cần để tự do lựa chọn hàng hóa hay đi khảo giá với sự phục vụ tận tình của
những người bán hàng. Đồng thời cửa hàng của công ty là cố định tại một điểm,
nguồn lực tài chính là có hạn nên công ty không thể mở cửa hàng kinh doanh ở các
khu vực năng động khác để chiếm lĩnh thị trường. Do đó thị trường tiêu thụ chính
của công ty là các khu vực lân cận xung quanh cửa hàng của công ty.
Tuy nhiên công ty Bách hóa số 5 Nam Bộ có lợi thế mà ít doanh nghiệp
khác có được đó là công ty đã kinh doanh hun 40 năm, có nhiều bạn hàng và
khách hàng truyền thống, có mối quan hệ tốt với chính quyền địa phương, có đội
ngũ lãnh đạo nhiều kinh nghiệm và trưởng thành trong kinh doanh. Là một doanh
nghiệp nhà nước do đó chất lượng và giá bán ra của công ty là tin cậy. Thêm vào
đó, công ty có cửa hàng kinh doanh rộng rãi bề thế được phân thành nhiều quầy
nằm tại nơi giao nhau của hai trục đường chính là đường Lê Duẩn và Nguyễn Thái
Học, do đó thuận tiện cho giao thông đi lại mua sắm hàng hóa của khách hàng
cũng như cho việc quảng cáo của công ty...
-Đặc điểm bộ máy tiêu thụ hàng hóa của công ty:
- Bộ máy tiêu thụ của công ty gồm nhiều quầy hàng và gian hàng của siêu
thị được tập trung trong cửa hàng lớn nằm tại ngã tư có trụ sở giao dịch chính tại
số 5 Lê Duẩn. Mỗi quầy hàng trong cửa hàng kinh doanh chuyên doanh một hay
một vài mặt hàng nhất định như quầy hàng gia dày, quầy túi sách vali, đồng hồ,
máy tính, mĩ phẩm, điện tử, cu khí, xe đạp, quầy ngoài gian hàng, quầy hàng thủ
công mĩ nghệ, quầy hàng thời trang...Tuy mỗi quầy hàng chỉ kinh doanh một số
mặt hàng nhưng chủng loại và phẩm cấp của các mặt hàng này rất đa dạng, phong
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
44
phú đảm bảo cho sự tự do lựa chọn của khách hàng. Mỗi quầy hàng có sự phân
công và chuyên môn hóa cao độ đảm bảo việc kinh doanh quầy không bị chồng
chéo giữa các quầy hàng tạo ra một sự liên kết các quầy hàng thành một thể thống
nhất phục vụ nhiều loại hàng hóa. Mỗi một quầy hàng có một của hàng trưởng và
các nhân viên bán hàng theo ca. Kết quả bán hàng được phản ánh trên các thẻ quầy
hàng, hóa đơn bán hàng và cuối tuần, tháng tập trung lại cho phòng kế toán.
- Mọi hoạt động tiêu thụ hàng hóa của công ty đều được theo dõi và thông
qua bởi phòng kế hoạch nghiệp vụ của công ty. Đây là một phòng quan trọng của
công ty có chức năng chính là lập kế hoạch hoạt động, tổ chức khai thác nguồn
hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh về thực hiện bán buôn hàng hóa. Trong
phòng kế hoạch kinh doanh có một bộ phận chuyên lo việc các việc nhạy bén luôn
theo dõi và nắm chắc tình hình thị trường cũng như sự thay đổi nhu cầu, thói quen
mua sắm của khách hàng, do đó khai thác và cung ứng tốt nguồn hàng, các loại
hàng hóa có chất lượng cao với giá cả phù hợp đã phục vụ một cách tốt nhất nhu
cầu của người tiêu dùng. Việc phân chia trong cơ sở kinh doanh thành các gian
hàng quầy hàng mà tại đó mỗi gian hàng, quầy hàng là một cu sở kinh doanh
thương mại trực tiếp được liên kết với nhau và có sự phân công chuyên môn hóa
cao độ giữa các gian hàng và quầy hàng đã phục vụ và đáp ứng tối đa nhu cầu
đồng bộ của khách hàng trên thị trường và tối đa hóa các mục tiêu kinh tế xã hội
theo phong tục thói quen mua hàng. Đây cũng chínhlà một ưu điểm khác như tạo
ra sự năng động, tự chủ kinh doanh nắm bắt một cách nhanh chóng và chính xác
các nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, giúp công ty có những biện pháp phù hợp
đặc biệt hoạt động kinh doanh của mình.
- Về cơ sở vật chất: công ty bách hóa số 5 Nam Bộ được thừa hưởng một hệ
thống cơ sở vật chất rât lớn có giá trị từ thời kì trước để lại. Trước tiên phải kể đến
đó là 3.500 m2 diện tích mặt bằng dược sử dụng phục vụ cho viêc kinh doanh nằm
ở vị trí ngay trên hai trục đường chính tại trung tâm thủ đô là Lê Duẩn và đường
Nguyễn Thái Học. Trong đó 1.500m2 ở tầng một dành cho siêu thị và quầy hàng
kho hàng. Tầng hai dược ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội mượn làm văn phòng
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
45
trưng bầy, triển lãm và giới thiệu sản phẩm như sản phẩm của công ty trách nhiệm
hữu hạn Tân Hoàng Minh. Còn lại 1.000m2 ở tầng ba dùng làm văn phòng, bếp ăn
và cho công ty thể dục thẩm mỹ Hồng Mẫu Đơn thuê 400m2 .
- Các thiết bị dùng trong công ty trong thời gian qua có nhiều thay đổi, nâng
cấp cho phù hợp với tình hình kinh doanh. Các trang thiết bị được công ty trang bị
cho việc bán hàng như tủ, giá đựng hàng, máy tính tiền hiện đại, thùng lạnh ... Các
văn phòng làm việc được trang bị đầy đủ bàn ghế làm việc mới tủ đựng tài liệu,
máy diện thoại, máy vi tính, máy photocopy....tạo điều kiện cho công việc được
thực hiện nhanh chóng thuận tiện. Trong năm vừa qua, công ty đã phải làm mới
sửa chữa lớn trong cửa hàng nên tình trạng chi phí tăng ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả kinh doanh của công ty.
2.1.5 ) Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 3 năm qua ( 2001,
2002, 2003)
Tổng doanh thu bán hàng của công ty đều tăng trong 3 năm. Năm 2002 tăng
5253985 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 15.94%. Sang năm 2003 tỷ lệ
doanh thu tăng 18.07% tương ứng với số tiền tăng là 6883065 nghìn đồng. Tỷ lệ
tăng của doanh thu năm 2003 so với năm 2002 tăng lớn hơn tỷ lệ tăng của doanh
thu năm 2002 so với năm 2001 điều này ghi nhận hiệu quả hoạt động kinh doanh
của công ty trong thời gian qua.
Doanh thu thuần của công ty năm 2002 cũng tăng lên so với năm 2001là
15.92% tương ứng với số tiền tăng lên là 8197185 nghìn đồng. Điều này do các
khoản giảm trừ của công ty( chủ yếu là giảm trừ do giảm giá hàng bán, khuyến
mại, còn giảm trừ do hàng bán bị trả lại thì chiếm tỷ lệ không đáng kể) tăng nhưng
tỷ lệ tăng của các khoản giảm trừ(10.21%) nhỏ hơn tỷ lệ tăng của doanh thu thuần.
Năm 2003 tỷ lệ tăng của doanh thu thuần là 17.92% nhưng nhỏ hơn tỷ lệ tăng của
các khoản giảm trừ chứng tỏ doanh thu thuần tăng chủ yếu là do doanh thu tăng.
Công ty cần quan tâm hơn nữa đến công tác quản lí các khoả giảm trừ đặc biệt là
trong trường hợp hàng bán bị trả lại.
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
46
Lãi gộp của công ty năm 2002 sovới năm 2001 tăng 721675 nghìn đồng
tưung ứng với tỷ lệ tăng là 21.84%. Điều này là do trong năm 2002 công ty đã chú
trọng đến tìm kiếm nguồn hàng do đó công ty mua được hàng với giá rẻ. Năm
2003 tỷ lệ tăng của lợi nhuận gộp là 21.23% lớn hơn tỷ lệ tăng của doanh thu.
Tỷ lệ lãi gộp trên doanh thu thuần của công ty trong 3 năm đều tăng lên với
tỷ lệ tương ứng là 10.12%, 10.63%, 10.94% điều này được đáng giá là tốt.
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của công ty năm 2002 giảm so với năm
2001 là 1.14% tương ứng số tiền là 3167 nghìn đồng, điều này là do chi phí kinh
doanh của công ty còn cao, năm 2002 chi phí kinh doanh của công ty so với năm
2001 tăng 23.95% làm cho tỷ suất chi phí trên doanh thu thuần của công ty năm
2002 so với năm 2001 là khá cao chiếm 10.12%. Chi phí bán hàng tăng là do chi
phí hoạt động và chi phí quản lí doanh nghiệp còn cao. Sang năm 2003 lợi nhuận
từ hoạt động kinh doanh của công ty đã tăng 38.3% so với năm 2002với chi phí
kinh doanh cũng tăng 20.08% nhỏ hơn tốc độ tăng của lưọi nhuận từ hoạt động
kinh doanh. Điều này được đánh giá là tốt vì quy mô của doanh nghiệp đã được
mở rộng và doanh nghiệp làm ăn có lãi.
Cùng với sự tăng giảm của lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh thì thuế thu
nhập của doanh nghiệp cũng có sự biến động tương ứng. Năm 2002 thuế thu nhập
giảm so với năm 2001 là 1.14% sang năm 2003 thuês thu nhập của doanh nghiệp
tăng lên 38.3%
Lợi nhuận sau thuế của công ty của công ty năm 2002 cũng giảm so với năm
2001 là 1.14% đều này là do lợi mặc dù thuế thu nhập của công ty giảm xuống
nhưng lợi nhuận trước thuế cũng giảm tương ứng. Sang năm 2003 cả hai chỉ tiêu
trên cùng tăng làm cho lưọi nhận sau thuế cũng tăng lên. Năm 2003 công ty đa tìm
ra các giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng giảm xuống của lợi nhụân.
Bên cạnh vấn đề doanh thu thì nộp ngân sách nhà nước cũng được công ty
quan tâm đến. Mặc dù khoản nộp ngân sách nhà nước năm 2002 giảm do lợi nhuận
cuả năm 2002 giảm so với năm 2001 nhưng được sự quan tâm kịp thời của ban
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
47
lãnh đạo công ty nên sang năm 2003 lợi nhuận tăng kéo theo các khoản nộp ngân
sách nhà nước cũng tăng lên
2.2 ) Tình hình mua hàng của công ty bách hoá số 5 Nam Bộ.
2.2.1)Tình hình mua hàng của công ty theo các mặt hàng chủ yếu
(biểu 2)
Là một công ty thương mại chuyên kinh doanh các sản phẩm hàng hóa dịch
vụ do đó công ty có rất nhiều mặt hàng kinh doanh, các mặt hàng kinh doanh của
công ty chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn hoạt
động kinh doanh của mình. Phân tích tình hình mặt hàng kinh doanh theo nhóm
hàng và mặt hàng chủ yếu giúp cho công ty thấy được mặt mạnh, mặt yếu của từng
nhóm hàng, mặt hàng để từ đó có thể đầu tư có hiệu quả vào mặt hàng kinh doanh
có triển vọng đã và đang được thị trường chấp nhận. Do vậy công ty có thể tăng
doanh thu đạt lợi nhuận siêu ngạch, tạo điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh của
công ty.
Nhìn vào biểu 2 ta thấy tổng trị giá mua vào của 3 năm đều tăng. Năm 2001
đạt 29350400 nghìn đồng, sang năm 2003 doanh số mua vào đạt 33825910 nghìn
đồng tăng so với năm 2001 là 4475510 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là
15.25%. Năm 2003 tỷ lệ tăng doanh số mua vào là 17.25% tương ứng với số tiền là
5926390 nghìn đồng. Như vậy có thể đánh giá được rằng doanh nghiệp đã không
ngừng tăng quy mô kinh doanh, đầu vào tăng lên chứng tỏ đầu ra cũng tăng do
công ty luôn tổ chức mua hàng dựa trên kế hoạch, kế hoạch lại dựa trên dự đoán
nhu cầu, nên số lượng hàng hóa mua vào tăng lên được đánh giá là hợp lí so với kế
hoạch bán ra. Để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp
phải tiến hành phân tích được nhu cầu thị trường, dự đoán được xu thế biến động
của nhu cầu thị trường. Dựa trên cơ sở khoa học đó mà doanh nghiệp sẽ quyết định
mua những mặt hàng nào nhu cầu phù hợp. Lựa chọn cơ cấu hàng hóa hợp lí sẽ
giúp doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận và hiệu quả cao nhất. Đối với doanh
nghiệp thương mại hàng hóa mua vào là để bán ra, do vậy muốn đạt hiệu quả cao
nhất trong kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành phân tích được sự tăng
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
48
giảm về doanh số mua hàng theo từng mặt hàng chủ yếu làm cu sở xây dựng kế
hoạch mua hàng cho doanh nghiệp.
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu mặt hàng
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng trong đó mặt hàng lương thực, thực phẩm
chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm gần một nửa so với tổng doanh số mua vào của
công ty. Sau lương thực, thực phẩm hàng gia dụng chiếm tỷ trọng lớn thứ hai
chiếm khoảng gần 20% trong tổng trị giá mua vào của công ty.
Đi sâu vào từng mặt hàng ta thấy:
Mặt hàng lương thực, thực phẩm qua 3 năm đều có tỷ trọng và tỷ lệ tăng.
Năm 2002 tỷ trọng tăng 3.84% tương ứng với tỷ lệ tăng lên là 26.47%. Sang năm
2003 tỷ trọng và tỷ lệ tăng lên đều thấp hơn so với sự tăng lên của năm 2002 sự
tăng lên tương ứng là 1.12% và 20.31%. Nhìn chung sự tăng lên này báo hiệu dấu
hiệu tốt vì đây là mặt hàng chủ lực của công ty. Sự tăng lên này có được là do
trong mặt hàng này các mặt hàng đồ uống, đồ hộp đông lạnh và lương thực có tỷ
trọng và tỷ lệ đều tăng qua các năm.
Đồ hộp đông lạnh chiếm tỷ trọng cao nhất trong ngành hàng này và có tốc
độ tăng lên rất cao. Đây là mặt hàng chủ yếu làm cho ngành hàng lương thực, thực
phẩm này tăng lên. Năm 2001 mặt hàng này chiếm 15.23% thì sang năm 2002 tỷ
trọng này tăng lên 1.57% so với năm 2001 Năm 2003 tỷ lệ này tăng lên 28.15% so
với năm 2002. Đồ hộp đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn và đều tăng chứng tỏ mặt
hàng thu hút được khách hàng.
Ngoài ra trong ngành hàng này các mặt hàng khác chiếm tỷ trọng tăng, giảm
thất thường, không ổn định như: Bánh kẹo đường sữa, lương thực và các loại khác.
Đây là mặt hàng có sức cạnh tranh lớn trên thị trường.
Mặt hàng bánh kẹo, đường sữa chiếm tỷ trọng khá lớn và tăng giảm cũng
thất thường. Năm 2002 chiếm tỷ trọng khá cao 10.72% tăng lên 1.4% so với năm
2001 nhưng sang đến năm 2003 tỷ lệ cũng giảm xuống 13.94% tương ứng với số
tiền giảm xuống là 505582 nghìn đồng so với năm 2002. Đây là những mặt hàng
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
49
mà hàng hóa nhập khẩu tràn vào với giá rẻ hơn mà chất lượng thì không thua kém
gì hàng trong nước. Công ty nên chú trọng hơn nữa vào mặt hàng này.
Đối với mặt hàng lương thực, thực phẩm. Đây cũng là mặt hàng chiếm tỷ
trọng khá lớn và có nhiều biến động thất thường. Năm 2001 chiếm tỷ trọng 10.75%
nhưng sang năm 2002 tỷ trọng này giảm xuống còn 8.84% và sang năm 2003 tỷ
trọng tăng lên 12.85%. Năm 2003 đánh dấu mặt hàng này kinh doanh rất hiệu quả .
Ngoài các mặt hàng lương thực, thực phẩm thì các mặt hàng khác cũng có
sự tăng lên qua các năm như điện tử và hàng mỹ phẩm. Trong đó mặt hàng mỹ
phẩm chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng giá trị hàng mua vào. Năm 2001đạt
10.58% và tăng lên ở năm 2002 với tỷ trọng tăng là 0.17% tưung ứng với tỷ lệ tăng
17.10%. Năm 2003 tỷ trọng này tăng lên so với năm 2002là 0.46% và tỷ lệ tăng
22.53% trong tổng trị giá hàng mua vào của toàn công ty.
Các mặt hàng có tỷ trọng tăng giảm thất thường qua các năm là đồ điện gia
dụng, đồng hồ, kính mặt, văn hóa văn phòng phẩm.
Đồ gia dụng có tỷ trọng khá cao, đứng thứ hai trong các măt hàng của công
ty chứng tỏ sự tăng giảm của mặt hàng này cũng có ảnh hưởng lớn đến sự tăng
giảm của tỷ trọng hàng mua vào của toàn công ty. Năm 2001 tỷ trọng hàng này
chiếm 19.71% và tăng lên trong năm 2002 với tỷ lệ tăng là 18.78%. Sang năm
2003 mặc dù tỷ trọng giảm xuống so với năm 2002 là 1.62% nhưng tỷ lệ mau vào
vẫn tăng lên 7.88% theo sự tăng lên của tổng trị giá hàng mua vào toàn công ty.
Các mặt hàng văn phòng phẩm chiếm tỷ trọng không nhỏ 4.21% năm 2001
và tăng lên 0.5% năm 2002 so với năm 2001 nhưng lại giảm xuống 0.58% vào năm
2003 so với năm 2002.
Mặt hàng đồng hồ và kính măt cũng tăng giảm không ổn định nhưng các mặt
hàng này chiếm tỷ trọng nhỏ.
Trong các mặt hàng trên thì hàng may mặc trong cả ba năm đều có sự giảm
mạnh về cả tỷ trọng lẫn tỷ lệ. Năm 2002 tỷ trọng giảm rất nhiều 4.02% tương ứng
với số tiền giảm xuống 798174 nghìn đồng và tỷ lệ giảm xuống 21.09%. Sự giảm
xuống mạnh như này là do hàng may mặc vốn là hàng thay đổi mẫu mốt liên tục,
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
50
trong khi đó công ty không nghiên cứu chi tiết nhu cầu của khách hàng về mặt
hàng này, không có sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã chủng loại nên hàng hóa
để lỗi mốt. Sang năm 2003 công ty đã có sự điều chỉnh kịp thời làm cho tỷ trọng
tuy vẫn giảm nhưng giảm ít 0.5% so với năm 2002 và tỷ lệ tăng lên 10.75% so với
2002. Điều đó chứng tỏ với mặt hàng này công ty đã đi đúng hướng.
Nhìn lại phân tích tình hình mua hàng của công ty bách hóa số 5 Nam Bộ
qua các mặt hàng chủ yếu ta thấy rằng năm qua là năm có nhiều biến động trong
công tác mua hàng. Có nhiều mặt hàng tăng nhanh về số lượng nhưng cũng có
nhiều mặt hàng do nhiều yếu tố tác động làm cho số lượng hàng mua vào qua các
năm có xu hướng giảm.
2.2.2 ) Tình hình mua hàng của công ty theo nguồn hàng ( biểu 3) .
Đối với doanh nghiệp thương mại hàng hóa mua vào thường được mua từ
nhiều nguồn khác nhau. Để đạt được hiệu quả cảo trong kinh doanh đòi hỏi doanh
nghiệp phải tiến hành phân tích tình hình mua hàng theo từng nguồn hàng để thấy
được sự biến động tăng, giảm từ đó tìm ra những ưu điểm, lợi thế cũng như những
điểm tồn tại, vướng mắc trong những nguồn hàng mua, làm cơ sở cho những căn
cứ cho việc lựa chọn nguồn cung cấp có lợi, mang lại hiệu quả kinh doanh.
Cùng với sự phát triển của xã hội, mức sống của người dân ngày càng được
cải thiện, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất
lượng đồng thời với sự mở cửa của nền kinh tế nhiều công ty nước ngoài đã thiết
lập nhiều chi nhánh, mở nhiều văn phòng đại diện nhằm đưa hàng hóa của họ vào
thị trường nước ta. Trước tình hình này công ty đã có những chính sách nhằm đa
dạng hóa danh mục các mặt hàng kinh doanh, từng bước nâng cao chất lượng phục
vụ khách hàng, đáp ứng những đòi hỏi khắt khe về chất lượng của người tiêu
dùng, củng cố vị trí trên thị trường và nhằm thu hút nhiều hơn nữa khách hàng về
phía mình. Trong vài năm gần đây công ty đã chủ động tìm đến đặt quan hệ bạn
hàng và tiến hành phân phối sản phẩm cho nhà sản xuất hàng hóa nước ngoài có
tên tuổi như Sony, sharp, daewoo...
Luận văn tốt nghiệp
Khoa quản trị doanh nghiệp Nguyễn Thị Hương
K36A4
51
Qua biểu 3 ta thấy công ty chủ yếu mua hàng trong nước. Hàng trong nước
chiếm tỷ trọng và doanh số mua rất cao. Năm 2001 chiếm 89.13% tỷ trọng trên
tổng doanh số mua vào của toàn công ty. Mặc dù sang năm 2002 tỷ trọng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác mua hàng tại công ty bách hóa số 5 Nam Bộ.pdf