Tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng: Luận văn
Thực trạng và giải pháp đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu
sản phẩm thủ công mỹ nghệ
của công ty thương mại xây
dựng Bạch Đằng
CHƯƠNG I : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CÔNG TY THƯƠNG MẠI - XÂY DỰNG BẠCH ĐẰNG
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Địa chỉ liên hệ
+ Trụ sở chính : Số 71 Bạch Đằng- Quận Hai Bà Trưng- Hà
Nội
+ Tên giao dịch : VIETRCIMEX
+ Điện thoại : 049875636
+ Số Fax : 04.8763567
+ Tài khoản của công ty : Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
2. Lịch sử hình thành của công ty
Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp nhà
nước thuộc Tổng công ty thương mại và xây dựng (trước kia là Tổng công ty
xuất nhập khẩu, sản xuất, cung ứng vật tư ) trực thuộc Bộ Giao Thông Vận
Tải. Với diện tích là 8327 mét vuông theo hợp đồng số 34678/ĐC/ND/HĐND
ký ngày 30/08/1999, khu đất trên đã trải qua quá trình phát triển và sử dụng
như sau:
- Ngày 31/01/1993 Bộ trưởng Bộ GTVT ra quyết định số
130/QĐ/KHĐT, Cảng Hà Nội giao toàn bộ khu...
81 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và giải pháp đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu
sản phẩm thủ công mỹ nghệ
của công ty thương mại xây
dựng Bạch Đằng
CHƯƠNG I : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CÔNG TY THƯƠNG MẠI - XÂY DỰNG BẠCH ĐẰNG
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Địa chỉ liên hệ
+ Trụ sở chính : Số 71 Bạch Đằng- Quận Hai Bà Trưng- Hà
Nội
+ Tên giao dịch : VIETRCIMEX
+ Điện thoại : 049875636
+ Số Fax : 04.8763567
+ Tài khoản của công ty : Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
2. Lịch sử hình thành của công ty
Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp nhà
nước thuộc Tổng công ty thương mại và xây dựng (trước kia là Tổng công ty
xuất nhập khẩu, sản xuất, cung ứng vật tư ) trực thuộc Bộ Giao Thông Vận
Tải. Với diện tích là 8327 mét vuông theo hợp đồng số 34678/ĐC/ND/HĐND
ký ngày 30/08/1999, khu đất trên đã trải qua quá trình phát triển và sử dụng
như sau:
- Ngày 31/01/1993 Bộ trưởng Bộ GTVT ra quyết định số
130/QĐ/KHĐT, Cảng Hà Nội giao toàn bộ khu đất bao gồm nhà xưởng, nhà
văn phòng, nhà kho, bãi cho Tổng công ty XNK, sản xuất cung ứng vật tư
GTVT.
- Ngày 09/05/1996 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số
989/QĐ/TCCB/LĐ cho phép thành lập “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất
khẩu và trang trí nội thất”.
- Ngày 28/10/1999 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định
số967/QĐ/BGTVT cho phép thành lập DNNN “ Công ty Mỹ nghệ và Trang
trí nội thất” trên cơ sở chuyển đổi tổ chức “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất
khẩu và trang trí nội thất”.
- Ngày 16/12/1999 ông Tổng Giám đốc Tổng công ty Thương mại và
Xây dựng (trước kia là Tổng công ty XNK, sản xuất, cung ứng vật tư GTVT)
ra Quyết định số 54/QĐ/TCLĐ giao cho công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và Trang
trí nội thất toàn bộ mặt bằng 8327 mét vuông bao gồm nhà làm việc, kho
xưởng và các công trình trên khu đất làm trụ sở và sản xuất, kinh doanh.
- Ngày 13/09/2001 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số
3017/QĐ/BGTVT về việc đổi tên doanh nghiệp nhà nước “ Công ty Mỹ nghệ
và Trang trí nội thất” thành “ Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng”.
Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng với chức năng hoạt động
rộng rãi đa ngành nghề : Sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ,
đồ chơi, quà lưu niệm, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng,
phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi...xây dựng công trình giao thông vận
tải công nghiệp và dân dụng.
Hiện nay, công ty đang dùng 4000 mét vuông mặt bằng làm nhà kho,
xưởng sản xuất và nhà văn phòng, số còn lại làm sân, cây xanh và đường đi
bộ
3. Quá trình phát triển
Cùng với sự vận động trưởng thành, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm và cải tiến khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ nghiệp vụ, công nghệ
kỹ thuật mới, công ty đã không ngừng cố gắng vươn lên theo kịp nhịp sống
của thời đại và trưởng thành nhanh chóng cho kịp xu hướng phát triển của nền
kinh tế thế giới. Công ty đã không ngừng mở rộng qui mô sản xuất kinh
doanh, cải tiến mặt hàng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, kết hợp nội
lực và ưu thế từ bên ngoài môi trường kinh doanh, công ty đã đạt được những
thành tựu nhất định và không ngừng phát triển, đưa tập thể bước đi những
bước vững chắc.
Chính nhờ sự cố gắng không ngừng vươn lên đó, từ khi chỉ là một phân
xưởng nhỏ bé được nâng cấp lên thành “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất
khẩu và trang trí nội thất”. Từ chỗ chỉ với mục đích giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động dư thừa của tổng công ty bằng những công việc thủ
công thuần tuý, đã có sự cải tiến khi chuyển sang công nghệ sản xuất mới. Đó
là sự cải tiến về mặt công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành
nguyên nhiên vật liệu, chuyển đổi từ những chất liệu gốm sứ làm bằng đất sét
sang chất liệu nhựa tổng hợp với bột đá tự nhiên, và nguyên liệu thạch cao...
các sản phẩm của công ty cũng ngày một phong phú hơn (các loại ca, cốc, búp
bê, đồ chơi...). Bên cạnh đó công ty còn mở rộng quy mô sản xuất thêm nhiều
xưởng sản xuất mới như xưởng sản xuất đồ mộc, xưởng sản xuất đồ nhựa.
Nhưng khi đó sản phẩm của công ty chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường trong
nước và chưa tìm được đầu ra cho thị trường thế giới. Vì vậy, sản xuất vẫn
mang tính manh mún, thủ công, thị trường không ổn định, hoạt động kinh
doanh phát triển không đồng đều.
Sau hơn 3 năm không ngại gian khó (từ năm 1996 đến 1999), xí nghiệp
luôn tìm cách vươn lên bắt nhịp cùng nhịp sống của cơ chế thị trường. Xí
nghiệp luôn tìm cách xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với trình
độ sản xuất của mình, củng cố thị trường trong nước và luôn tìm kiếm, khai
thác, thâm nhập thị trường mới. Bên cạnh việc không ngừng cải tiến mẫu mã,
sáng tạo ra những phương thức làm việc mang lại hiệu quả kinh tế cao, xí
nghiệp luôn tìm hiểu, nghiên cứu thị hiếu của người tiêu dùng, để có thể thoả
mãn nhu cầu của khách hàng cũng như có thể thúc đẩy hơn nữa sự phát triển
của mình. Đến khi được nâng cấp thành “ Công ty Thương Mại -Xây Dựng
Bạch Đằng “, thì không chỉ kinh doanh những ngành nghề đơn thuần với công
nghệ thủ công là chính nữa mà nó đã được nâng cấp lên ở mức cao hơn với
chức năng hoạt động rộng rãi đa ngành nghề : Sản xuất các sản phẩm thủ công
mỹ nghệ, gốm sứ, đồ chơi, quà lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang
trí nội thất, gia công hàng xuất khẩu và kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ, nguyên vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu
dùng, phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi, sản xuất kinh doanh hàng may
mặc, đồ da, hàng kim khí hoá chất, điện máy và lắp giáp điện tử XNK uỷ thác,
kinh doanh dịch vụ vận tải, du lịch lữ đoàn, xây dựng công trình giao thông
thủy lợi công nghiệp và dân dụng.
Trên đà phát triển không ngừng của công ty. Trong thời gian ngắn, nhờ
sự cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, phong phú chủng
loại, các mặt hàng của công ty ngày càng xuất hiện ở nhiều nơi, có mặt trên
khắp các thị trường cả trong và ngoài nước, thu hút được sự chú ý, quan tâm
của nhiều người tiêu dùng, giá trị thương hiệu của công ty cũng dần được
nâng lên.
Hiện nay, công ty đã thu hút được 250 lao động thường xuyên với mức
lương bình quân là 750.000đ/người/tháng và đang trên đà tăng trưởng mạnh,
đời sống của cán bộ công nhân viên đang được nâng cao. Trong thời gian tới,
công ty sẽ tiếp tục chọn, đào tạo thêm 100 lao động, công nhân kỹ thuật để
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Trong những năm qua Công ty
Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng đã thực hiện tốt nghĩa vụ với nhà nước,
nộp tiền thuê đất đầy đủ và nộp tiền vào ngân sách nhà nước nhiều tỷ đồng.
Từ đó ta có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của công ty khá
thần tốc. Đó là nhờ vào sự nỗ lực của nội bộ công ty cùng với những chính
sách ưu đãi của Bộ GTVT dành cho công ty. Từ một phân xưởng nhỏ trước
năm 1996, giờ đây công ty đã trưởng thành và tự thân vận động không ngừng
lớn mạnh trên thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là thị trường quốc tế.
Từ chỗ thị trường tròng nước chiếm ưu thế, hiện nay thị trường quốc tế là
một thị trường trọng điểm của công ty mà công ty chưa khai thác được hết
tiềm năng nhưng không hề bỏ qua thị trường trong nước với hơn 70 triệu dân,
thu lợi cho nhà nước nhiều tỷ đồng. Giờ đây, Công ty Thương Mại -Xây
Dựng Bạch Đằng (trực thuộc Bộ GTVT), có tư cách pháp nhân, có con dấu
riêng theo quy định của nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, công ty
có tài khoản tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Về mặt hàng kinh doanh
xuất nhập khẩu nằm trong danh mục hàng hoá đã được Bộ Thương Mại phê
duyệt và nằm trong danh mục hàng hoá xuất khẩu với số lượng và giá trị hàng
hoá tương đối lớn.
2.Chức năng và nhiệm vụ chung của công ty
2.1. Chức năng
Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng là một DNNN thuộc “Tổng
công ty xây dựng- Thương mại “ thuộc Bộ GTVT có các chức năng chính sau:
+ Sản xuất kinh doanh hàng may mặc, đồ da, hàng kim khí hoá chất, điện
máy và lắp ráp điện tử. Nhận xuất nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị kinh tế
trong và ngoài nước.
+ Tổ chức xuất nhập khẩu và kinh doanh phương tiện vận tải, kinh doanh
kho bãi theo giấy phép kinh doanh của công ty phù hợp với quy chế hiện hành
của Nhà nước. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong nước.
2.2. Nhiệm vụ
Với những chức năng trên, công ty có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty theo
quy chế hiện hành phù hợp.
+ Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý xuất nhập khẩu. Thực hiện các
chính sách về thuế nộp ngân sách nhà nước.
+ Kinh doanh đúng mặt hàng, theo đúng ngành nghề đã đăng ký và mục
đích chung của công ty.
+ Bảo toàn và sử dụng tài sản được giao theo đúng chế độ của nhà nước
quy định, đạt hiệu quả kinh tế xã hội và tăng cường điều kiện vật chất cho cán
bộ CNV của công ty.
+Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và các biện pháp khuyến
khích vật chất, tinh thần đúng chế độ chính sách của nhà nước, đảm bảo mức
lương tối thiểu và cải thiện đời sống người lao động.
+ Đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ nghiệp vụ
chuyên môn.
+ Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng trình độ tổ
chức quản lý, phát huy năng lực kinh doanh, tăng năng suất lao động, thực
hiện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với hiệu quả cao.
+ Tổ chức và nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước nắm vững nhu
cầu thị hiếu tiêu dùng để hoạch định chiến lược Marketing đúng đắn, đảm bảo
cho kinh doanh của đơn vị được chủ động ít rủi ro và mang lại hiệu quả tốt.
II.CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY .
1.Bộ máy quản trị
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC.
1.1.Ban Giám đốc
* Chức năng
- Ban Giám đốc là những người điều hành chính về mọi hoạt động chính
của công ty.
- Đại diện cho quyền lợi của cán bộ công nhân viên dưới quyền.
* Nhiệm vụ
- Chịu trách nhiệm về mọi hành vi của công ty trước pháp luật.
Phòn
g
TCH
Phòng
KD-XNK
Phòng
KHSX
Phòng
dự án
Phòng
TCKT
Phòng
bảo vệ
Giám đốc
Phó GĐ
Xưởng
cơ khí
Xưởng
đồ
chơi
- Điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, thực
hiện theo đúng qui định của nhà nước ban hành.
1. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban bộ phận trực thuộc công ty
1.2.Phòng KD-XNK
* Chức năng
- Tổ chức tốt khâu KD-XNK , phương tiện vận tải kho bãi theo giấy phép
kinh doanh của công ty phù hợp quy chế hiện hành của nhà nước.
- Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong nước.
- Tổ chức tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và trong nước.
- Quản lý phòng mẫu, trực tiếp chỉ đạo tổ mẫu thực hiện và triển khai
mẫu mã, đáp ứng kịp thời với khách hàng.
* Nhiệm vụ
- Triển khai công tác xúc tiến thương mại, quảng cáo thương hiệu của
công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Trực tiếp làm các thủ tục xuất, nhập khẩu của công ty, xuất nhập khẩu
uỷ thác. Trực tiếp ký kết, khai thác hàng gia công xuất khẩu, gia công sản xuất
và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Giám đốc công ty về hiệu quả công
việc.
- Đàm phán và dự thảo hợp đồng thương mại trong nước, quốc tế, trình
Giám đốc duyệt.
- Xây dựng bảng giá bán hàng trong nước, xây dựng Catologue cho hàng
hoá, xây dựng chương trình quảng ba thương hiệu của công ty.
- Lập kế hoạch sản xuất hàng hoá nội địa, lập các đơn hàng hợp đồng
xuất khẩu.
- Giao kế hoạch sản xuất và hợp đồng xuất khẩu cho phòng KHSX thực
hiện, giám sát, kiểm tra phòng KHSX thực hiện từng hợp đồng, đơn hàng
(đảm bảo đúng chất lượng, chủng loại, số lượng, thời gian).
- Trực tiếp giao nhận hàng hoá với khách hàng (được biểu hiện bằng các
bảng kê chi tiết hàng hoá có ký nhận của khách hàng).
- Theo dõi, quản lý các điểm bán hàng, các khách hàng và trực tiếp thu
hồi công nợ
- Được phép khai thác kinh doanh hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá bán
trong nước (nhưng phải lập phương án trình Giám đốc duyệt trước khi thực
hiện ).
- Nắm bắt thông tin kinh tế, các văn bản chính sách của nhà nước về
công tác xuất nhập khẩu.
1.3.Phòng tổ chức hành chính
* Chức năng
- Tổ chức tốt bộ máy quản lý điều hành công ty có hiệu quả.
- Công tác tổ chức lao động, chế độ tiền lương, Bảo hiểm xã hội và
thường trực hội đồng thi đua
- Công tác quản trị hành chính, văn thư, phục vụ.
* Nhiệm vụ
* Về công tác tổ chức lao động, chế độ, tiền lương:
- Quản lý hồ sơ của CBCNV từ cấp trưởng phòng trở xuống, quản lý và
theo dõi diễn biến nhân sự của toàn công ty.
- Xét tuyển lao động, tiếp nhận lao động, làm thủ tục ký hợp đồng lao
động ngắn hạn, dài hạn, thử việc, lao động thời vụ, đề nghị sa thải, chấm dứt
hợp đồng lao động đối với cán bộ CNV không thực hiện đúng theo hợp đồng
lao động, khi công ty không có nhu cầu sử dụng hoặc đối tượng lao động vi
phạm các quy chế, quy định của công ty.
- Thực hiện giải quyết các chế độ có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của người lao động, các chính sách về lao động, tiền lương, tiền thưởng theo
quy định của công ty và các văn bản quy định khác của nhà nước.
- Báo cáo định kỳ 6 tháng/lần về lao động, tiền lương và các hình thức
bảo hiểm với các cơ quan quản lý khác.
- Kết hợp với các phòng và Hội đồng thi đua kiểm tra, giám sát, đôn đốc
CBCNV thực hiện tốt quy chế, quy định về giờ giấc làm việc và công tác thực
hành tiết kiệm.
* Về công tác quản trị hành chính, văn thư, phục vụ:
- Quản lý toàn bộ tài sản cố định, tài sản văn phòng công ty (trang thiết bị
văn phòng, xe cộ, điện nước...)
- Sắp xếp bố trí xe cộ, phương tiện phục vụ cán bộ công ty đi công tác.
- Tổ chức cuộc họp, hội thảo, Đại hội của công ty.
- Phục vụ lễ tân, tiếp khách, phục vụ lãnh đạo
- Quản lý dấu theo quy định của bộ Công an và quy định sử dụng của
Giám đốc, quản lý lưu trữ hồ sơ, tài liệu các văn bản pháp quy của nhà nước,
các quyết định, công văn đến, đi có liên quan đến mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh, tổ chức của công ty.
- Quan hệ đối ngoại với các cơ quan quản lý hành chính, chính quyền địa
phương, các đơn vị trong địa bàn và với cơ quan quản lý cấp trên.
- Kết hợp với công đoàn, đoàn thanh niên chăm la tới đời sống, văn hoá
xã hội, thăm nom ốm đau, hiếu hỉ của cá nhân, gia đình CBCNV công ty.
- Bí mật mọi công tác tổ chức lao động, tổ chức cán bộ, không phát tán
số liệu, tài liệu khi chưa có ý kiến của lãnh đạo.
1.4.Phòng tài chính kế toán
* Chức năng
- Quản lý toàn bộ tài sản ( vô hình và hữu hình của công ty ): hàng hoá,
tiền tệ, vốn, các khoản thu, chi, tiền lương cán bộ công nhân viên trong công
ty. Quản lý mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh và tài chính của công ty.
- Định hướng xây dựng kế hoạch về công tác tài chính ngắn hạn, dài hạn,
tìm các biện pháp tạo nguồn vốn và thu hút nguồn vốn.
- Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư của công ty. Cân đối và sử dụng
các nguồn vốn hợp lý, có hiệu quả.
* Nhiệm vụ
- Báo cáo định kỳ quyết toán tài chính, báo cáo nhanh mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh để Giám đốc kịp thời điều chỉnh.
- Tham gia thẩm định các dự án đầu tư dài hạn, đầu tư bổ xung mở rộng
sản xuất kinh doanh .
- Kiểm tra chứng từ thanh quyết toán của công ty ( kể cả của các đơn vị
thành viên) đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý tài chính của nhà nước trước
khi trình Giám đốc duyệt.
- Hướng dẫn chỉ đạo các đơn vị thành viên đang được hạch toán kinh tế
nội bộ trong công ty thực hiện đúng quy định về tài chính kế toán của nhà
nước, của công ty.
- Được phép đề nghị duyệt các phương án kinh doanh, đề nghị cấp vốn,
cho vay vốn đối với các phương án của từng đơn vị lên công ty đúng thời hạn
và theo chỉ số quy định.
- Chỉ đạo các kế toán viên của các đơn vị trong việc hạch toán, lập bảng
biểu, ghi chép sổ sách chứng từ...theo đúng quy định của nhà nước, của công
ty.
- Được phép đề nghị thay đổi kế toán của các đơn bị thành viên khi
không làm đúng chức năng, làm sai nguyên tắc, làm sai quy định và hướng
dẫn của công ty.
- Chủ động quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên, các cơ quan nghiệp
vụ (tài chính, thuế, ngân hàng).
- Trình duyệt lương hàng tháng của CBCNV đảm bảo chính xác và đúng
kỳ hạn.
1.5.Phòng dự án
* Chức năng
- Lập hồ sơ dự thầu, lập dự toán, bóc tách dự toán và thẩm định dự toán.
- Lập dự án đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh ngắn hạn, dài hạn,
quản lý các dự án đầu tư đã và đang thực hiện đảm bảo có hiệu quả nhất.
- Lập các dự án, phương án kinh doanh, liên kết, hợp tác với các đối tác
trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực đầu tư, sản xuất kinh doanh.
* Nhiệm vụ
- Quan hệ đối ngoại, tìm kiếm các dự án xây dựng công trình giao thông,
xây dựng công nghiệp, xây dựng dân dụng thuỷ lợi...
- Giao cho các xí nghiệp, đơn vị đội thi công, triển khai thực hiện hợp
đồng thi công.
- Theo dõi kế hoạch tiến độ thi công, chất lượng công trình, quản lý
nguồn nhân lực, quản lý máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và các chi phí
khác.
- Đệ trình Giám đốc duyệt các dự án đầu tư hoặc bổ xung nhiệm vụ cho
các đơn vị thành viên.
1.6.Phòng kế hoạch sản xuất
* Chức năng
- Quản lý theo dõi việc mua bán vật tư theo đúng thời điểm, chủng loại,
số lượng, giá thành hợp lý và làm thủ tục nhập, xuất kho theo trình tự quy
định của công ty.
- Quản lý công tác kỹ thuật, công tác sáng kiến cải tiến trong sản xuất,
điều chỉnh, sửa đổi quy trình công nghệ...
* Nhiệm vụ
- Chỉ được phép triển khai các đơn hàng, các hợp đồng sản xuất do
phòng KD-XNK chuyển giao.
- Trực tiếp quản lý kho vật tư, kho hàng hoá, xuất hàng theo phiếu nhập
kho của phòng KD-XNK.
- Quản lý nhân lực sản xuất, giờ giấc làm việc, định mức vật tư nguyên
liệu, định mức lao động.
- Tìm tòi, nghiên cứu, hoặc cải tiến các biện pháp quản lý nguyên, nhiên
vật liệu, vật tư, giảm chi tiêu, tiêu hao nguyên liệu ngày một tốt hơn, hoàn
thiện hơn.
- Được phép đề nghị Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm Quản đốc, phó
Quản đốc của các phân xưởng sản xuất.
- Được phép thay đổi các tổ trưởng tổ sản xuất theo đề nghị của Quản
đốc phân xưởng.
- Được phép đề nghị phòng TCHC trình Giám đốc buộc thôi việc hoặc
các hình thức kỷ luật khác đối vơí người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật,
chống đối lệnh sản xuất hoặc vi phạm các nội quy, quy chế của công ty.
- Có trách nhiệm phải hoàn thành kế hoạch, đơn hàng, hợp đồng sản xuất
của phòng KD-XNK chuyển giao và chịu sự giám sát, kiểm tra về chất lượng
sản phẩm, chủng loại, thời gian giao hàng của phòng KD-XNK.
- Có những biện pháp tích cực trong việc mới công nghệ để nâng cao
năng lực sản xuất, giảm định mức vật tư, giảm giá thành sản phẩm đảm bảo có
tính chất cạnh tranh cao.
1.7.Phòng kinh doanh thiết bị
* Chức năng
- Tham mưu cho Giám đốc công ty về công tác kinh doanh máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải. Trực tiếp nhập khẩu và kinh doanh thiết bị thi
công công trình và các phương tiện vận tải.
* Nhiệm vụ
- Xây dựng kế hoạch kinh doanh thiết bị của công ty, lập dự án kinh
doanh của phòng gắn liền với kế hoạch sử dụng vốn trong quý, năm gửi
phòng TCKT để trình Giám đốc công ty duyệt.
- Thực hiện chỉ tiêu kế hoạch kinh tế do Giám đốc công ty giao, đảm bảo
doanh số và lợi nhuận.
- Chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về hiệu quả kinh tế đối với
từng phương án kinh doanh đã đề ra.
- Trực tiếp quản lý, điều hành tổ bảo dưỡng, sửa chữa, phục chế máy
móc thiết bị. Trực tiếp làm thủ tiếp nhận hàng hoá (máy móc, thiết bị) quản lý
và bảo vệ hàng hoá đảm bảo an toàn.
1.8.Phòng bảo vệ
* Chức năng
- Bảo vệ an toàn, an ninh trật tự trong phạm vi mặt bằng của công ty.
- Bảo vệ tài sản của công ty, tài sản của CBCNV (phương tiện đi lại)
* Nhiệm vụ
- Phân công bố trí lực lượng thường trực trong phạm vi quản lý của công
ty 24/24 tháng. Phân công trực cụ thể do trưởng phòng bảo vệ đảm nhận.
- Kiểm tra, giám sát CBCNV thực hiện nội quy, quy chế của công ty (giờ
giấc đi làm, chấp hành mọi nội quy, quy chế trong sản xuất).
- Kiểm tra, giám sát vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị...của công ty khi
mang ra, vào địa phận của công ty.
- Thường xuyên canh gác, tuần tra trong địa phận của công ty quản lý,
đặc biệt là sau giờ hành chính, kịp thời phát hiện các trường hợp gây mất trật
tự, gây nguy hiểm cho người và thiết bị.
- Làm tốt công tác thường trực phòng chống lũ lụt, cháy, nổ...của công
ty.
- Được phép ra, vào vị trí công nhân làm việc (nhưng không ảnh hưởng
đến sản xuất) để kịp thời kiểm tra, nhắc nhở người lao động thực hiện tốt nội
quy, quy chế của công ty và ngăn chặn các hành vi vi phạm.
- Được quyền khám, xét tư trang của CBCNV ra, vào công ty nếu thấy có
nghi ngờ trộm cắp tài sản hoặc đưa vào công ty những chất dễ cháy nổ, hàng
quốc cấm...
1.9.Các trung tâm, xí nghiệp, phân xưởng sản xuất
- Các trung tâm, xí nghiệp, nhà máy thuộc công ty phải thực hiện theo
đúng sự uỷ quyền và phân cấp quản lý của Giám đốc công ty, được thể hiện
trong quyết định thành lập và thể chế hoá ở quy chế tổ chức và hoạt động của
từng đơn vị.
- Chịu sự kiểm tra, giám sát của các phòng, ban nghiệp vụ của công ty,
đặc biệt là công tác tổ chức, công tác tài chính kế toán và thực hiện nghiêm
chỉnh theo pháp lệnh của nhà nước.
- Phải hạch toán đầy đủ mọi chi phí, thực hiện báo cáo đầy đủ đúng định
kỳ theo tháng, quý, năm.
- Phải chấp hành thực hiện chỉ tiêu kinh tế được Giám đốc giao thực hiện
hàng năm gồm:
+ Doanh số:
+ Lợi nhuận:
- Thực hiện các khoản trích nộp phí lên công ty nghiêm chỉnh đúng kỳ
hạn.
- Thực hiện tốt chế độ quản lý, sử dụng người lao động theo quy định của
nhà nước, của công ty.
- Thực hiện trả lương và đóng các loại bảo hiểm cho người lao động,
cũng như các chế độ quyền lợi khác theo quy định của Nhà nước, của công ty.
- Các khoản đầu tư tài sản cố định, mua sắm trang thiết bị máy móc có
giá trị lớn (từ 10 triệu đồng trở lên), các đơn vị phải có công văn trình giám
đốc công ty duyệt mới được thực hiện.
Trách nhiệm và quyền hạn của lãnh đạo phòng
- Trưởng phòng phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc công ty về mọi
hoạt động công tác của phòng mình.
- Trưởng phòng được phép đề nghị Giám đốc chấm dứt hợp đồng lao
động đối với nhân viên của phòng mình, bãi miễn hoặc đề bạt các phó phòng
giúp việc cho mình.
- Được phép đề nghị định biên của phòng trên cơ sở pháp lý và khoa học
đảm bảo sự hoạt động của phòng ổn định, có hiệu quả.
- Các trưởng phòng khi có nhiệm vụ đi công tác, phải có trách nhiệm bàn
giao công việc cho các phó phòng bằng văn bản cụ thể. Phó phòng phải chịu
hoàn toàn trách nhiệm trước trưởng phòng và Giám đốc công ty về những
công việc được giao.
III. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Tổng doanh thu
Doanh thu XNK
DT từ tiêu thụ trong nước
3230
2325,5
904,5
5250
4620
630
18475
16627,5
1847,5
25320
29184
5046
0 2,5 2,5 4,05 10,63
DT thuần 3227,5 5247,5 18470,95 25219,37
Giá vốn hàng bán 2220 3775 15179 21505
Lợi nhuận gộp 1007,5 1472 3291,85 3714,37
Chi phí bán hàng 300 400,5 984 1040
Chi phí quản lý 205,5 900,4 1469 1820
Lợi nhuận thuần từ HĐKD 502 171,6 838,95 854,37
LN thuần từ HĐTC -60 -75,27 -286,62 -33
LN bất thường 62,5 53 10 -22
Tổng LN trước thuế 504,5 149,33 562,33 799,37
Thuế TNDN 161,44 47,79 179,95 255,8
LN sau thuế 343,06 101,54 382,58 543,57
Bảng 1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 4 năm
gần đây.
1.Phân tích tình hình kinh doanh của công ty
Doanh thu bán hàng liên tục tăng trong 4 năm qua, từ 3230 tr.đ năm 1999
lên 25230 tr.đ năm 2002. Điều này chứng tỏ quy mô sản xuất kinh doanh của
công ty ngày càng được mở rộng, mặt hàng kinh doanh phong phú hơn, số
lượng hàng hoá nhiều hơn. Có thể là quy mô sản xuất được mở rộng qua việc
công ty thu hút thêm số lượng lao động, tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động.
Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh là 502 tr.đ năm 1999 sau đó giảm xuống
còn 171,6 tr.đ năm 2000 và tăng dần lên vào các năm 2001 và 2002 là 838,95
và 854,37 tr.đ. Có được kết quả trên chúng ta có thể có nhận xét như sau:
doanh thu liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước nhưng lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh năm 2000 lại giảm so với năm 1999. Như vậy có thể là do
năm 2000 doanh nghiệp phải chi phí lớn cho chi phí bán hàng hoặc chi phí
quản lý, hoặc do tăng các khoản giảm trừ. Chi phí bán hàng năm 1999 là
205,5 tr.đ nhưng đã tăng lên là 900,4 tr.đ, một con số quả là không nhỏ đối
với một doanh nghiệp có tổng doanh thu là 5250tr.đ.
Như vậy, năm 2000 so với năm 1999:
Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh giảm mặc dù tổng DT tăng là do chi phí
quản lý tăng làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty giảm.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính cũng giảm từ –60 xuống –75tr.đ
Lợi nhuận từ HĐBT giảm từ 62,5 xuống 53tr.đ
Từ sự suy giảm trên làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty cũng giảm từ
343,06tr.đ xuống còn 101,54 tr.đ . Như vậy năm 2000 so với năm 1999 công
ty sản xuất kinh doanh có chiều hướng giảm sút, ngược với xu thế phát triển,
có thể là do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân mà chúng ta sẽ được tìm hiểu
sau như thị trường thế giới biến động theo chiều hướng xấu, hay sản phẩm
của công ty không đáp ứng được với nhu cầu của người tiêu dùng...
Năm 2001 so với năm 1999:
Doanh thu bán hàng năm 2001 là 18475tr.đ tăng so với 5250tr.đ năm
2000.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý năm 2001 đều tăng so với năm 2000
nhưng ở một tỷ lệ phù hợp hơn sơ với tổng doanh thu.
Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh năm 2001 là 838,95tr.đ so với năm 2000 là
171,6tr.đ. Lợi nhuận từ HĐTC vẫn giảm từ –75,27tr.đ xuống –286,62 tr.đ ,
chứng tỏ lĩnh vực tài chính doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả. Lợi
nhuận từ hoạt động BT cũng giảm từ 53 tr.đ xuống 10 tr.đ nên về mặt này
doanh nghiệp cũng không đạt hiệu quả kinh doanh. Như vậy, năm 2001 doanh
nghiệp đã đạt hiệu quả kinh doanh về lĩnh vực sản xuất kinh doanh, điều chỉnh
lại mức lợi nhuận so với năm 2000. Kết quả là lợi nhuận sau thuế của doanh
nghiệp tăng từ 101,54 tr.đ lên tới 382,58 tr.đ, một kết quả đáng khen của công
ty trong tình hình hiện nay cũng nhờ vào sự nỗ lực của toàn công ty cũng như
kế hoạch cụ thể của ban quản lý trong việc giảm chi phí bán hàng và chi phí
quản lý nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận sau
thuế.
Năm 2002 so với năm 2001:
Tổng doanh thu tăng từ 18475tr.đ lên 25230tr.đ . Đó là một kết quả đáng
mừng đối với toàn công ty. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý tăng là điều
tất nhiên vì tỷ lệ thuận với doanh thu, làm cho lợi nhuận từ HĐ kinh doanh
tăng từ 838,95 lên 854,37 tr.đ.
Lợi nhuận từ HĐTC từ mức thâm hụt là -286,62 lên mức thâm hụt nhỏ
hơn là -33tr.đ, kết quả này làm cho lợi nhuận sau thuế tăng lên.Trong khi
HĐTC có dấu hiệu khả quan thì lợi nhuận HĐBT vẫn giảm từ lãi 10 triệu
xuống thâm hụt –22 triệu đồng làm cho lợi nhuận sau thuế giảm xuống, nhưng
mức giảm này nhỏ hơn so với mức tăng của lợi nhuận từ HĐ kinh doanh và
mức giảm thâm hụt từ HĐTC nên LN sau thuế của doanh nghiệp năm 2002
tăng lên so với năm 2001, tăng từ 382,58 tr.đ lên 543,57 tr.đ
Chúng ta vừa phân tích sơ bộ tình hình kinh doanh của công ty trong 4
năm gần đây. Nhìn vào bảng biểu ta cũng thấy một thực tế là tổng doanh thu
từ thị trường xuất khẩu liên tục tăng và ở mức cao hơn nhiều so với DT từ thị
trường trong nước. Điều đó chứng tỏ rằng, thị trường tiêu thụ chính của doanh
nghiệp đã và đang dần thay đổi. Từ thị trường trong nước sang thị trường xuất
khẩu và hướng mạnh về thị trường này. Nên doanh thu tăng trong những năm
qua cũng có một phần là do chiến lược kinh doanh của công ty đã thay đổi.
Đó cũng chính là lý do mà chi phí bán hàng của công ty tăng chậm trong khi
chi phí quản lý tăng nhanh để tìm kiếm và thâm nhập thị trường nước ngoài.
Đó là chiến lược kinh doanh đúng đắn của công ty trong tình hình hiện nay
khi mà xu hướng toàn cầu hoá đang và sẽ tác động đến mọi ngành nghề, mọi
thành phần kinh tế, hơn nữa trong thời gian tới Việt Nam sẽ chính thức gia
nhập AFTA, là một sự kiện kinh tế to lớn, ảnh hưởng đến tất cả các doanh
nghiệp đang tồn tại. Vì vậy, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được
thì không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước mà phải có chiến lược thâm nhập
thị trường quốc tế - một thị trường đầy cơ hội nhưng cũng đầy thách thức với
sự cạnh tranh cao, rủi ro cao luôn luôn đi cùng với siêu lợi nhuận.
Cũng từ bảng trên ta thấy: lĩnh vực kinh doanh chính mang lại lợi nhuận
cho công ty là lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Còn về hoạt động tài chính và
hoạt động bất thường thì hầu như không thu được lợi nhuận. Như vậy doanh
nghiệp cần có kế hoạch phân phối nguồn đầu tư hợp lý hơn nữa để nguồn vốn
đâù tư của doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao.
2.Đánh giá các hoạt động quản trị của doanh nghiệp
Đơn vị tính : 1000.000đ
Tổng số nộp ngân sách Đơn vị tính
Đã thực hiện
5 tháng
Dự kiến thực
hiện
6 tháng
Dự kiến thực
hiện 6 tháng
2003
- Thuế GTGT Triệu
đồng
1650,8 430 2081
- Thuế TNDN Tr đ 67
- Phụ phí cấp trên Tr đ 547.5 343,7 891,2
- Thuế khác Tr đ 29,6
Tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách và phân phối lợi nhuận
Sau mỗi kỳ hạch toán kinh doanh Công ty đều tính toán lợi nhuận và
phân bổ lợi nhuận cho các phòng ban theo tỷ lệ thích hợp
Biểu trên cho ta thấy được tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà
nước. Công ty đã làm đúng nghĩa vụ của mình và kinh doanh theo đúng luật
pháp.
Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này, doanh nghiệp phải
tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm (dịch vụ)
cung cấp cho thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận. Muốn vậy, doanh
nghiệp phải sử dụng các nguồn lực xã hội nhất định để tạo ra sản phẩm đầu ra
có giá trị cao hơn đầu vào và tiêu thụ được. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử
dụng các nguồn lực này bao nhiêu thì sẽ càng có cơ hội để thu được nhiều lợi
nhuận bấy nhiêu. Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm đi
thì nhu cầu của con người lại ngày càng đa dạng và tăng không giới hạn.
Quy luật khan hiếm bắt buộc mọi người phải lựa chọn và trả lời chính xác 3
câu hỏi là : sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? Vì thị
trường chỉ chấp nhận những doanh nghiệp nào sản xuất đúng loại sản phẩm
(dịch vụ) với số lượng và chất lượng phù hợp. Mặt khác, mọi doanh nghiệp
kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập
phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh
tranh, doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh và đồng
thời cũng đề ra những định hướng mang tính chiến lược, kế hoạch trong từng
điều kiện cụ thể.
2.1.Về chiến lược kinh doanh
Trong thời gian qua, chiến lược của doanh nghiệp đã có sự thay đổi về
mặt thị trường từ thị trường trong nước là chính chuyển sang thị trường xuất
khẩu, với việc thâm nhập vào thị trường này Công ty Thương Mại -Xây Dựng
Bạch Đằng đã phải chi phí rất nhiều cho công tác tìm kiếm thị trường, và
khối quản lý đã làm rất tốt công tác này đặc biệt là mảng thị trường và mảng
mạng trong phòng KD-XNK. Tuy nhiên, vì là người mới gia nhập thị trường
xuât khẩu nên KD-XNK cũng có những thuận lợi và cũng không ít khó khăn.
Về thuận lợi: sản phẩm của công ty rất được người tiêu dùng ưa chuộng
do mẫu mã phong phú, phù hợp với thị hiếu của từng nhóm khách hàng, lại là
một sản phẩm mới tham gia xuất khẩu nên công ty cũng được sự giúp đỡ của
rất nhiều ban, ngành như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính...sản phẩm được sản
xuất ở thị trường lao động rẻ nên giá thành thấp, hấp dẫn người tiêu dùng.
Về khó khăn: Đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nhà kinh doanh,
nhà phân phối lớn ở thị trường nước bạn, sản phẩm của ta chưa có uy tín trên
thị trường nước ngoài, về thị hiếu của người tiêu dùng cũng thay đổi mà ta
cần phải tốn chi phí lớn để nghiên cứu...
Nhưng với những thành công bước đầu mà Công ty Thương Mại -Xây
Dựng Bạch Đằng đã đạt được, chúng ta tin tưởng vào chiến lược đúng đắn của
công ty trong thời gian qua và có thể kết luận rằng hướng đi của công ty là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và điều kiện sản
xuất kinh doanh của công ty. Hy vọng rằng trong thời gian tới, Công ty
Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng và có
chiến lược thị trường đúng đắn mang lại hiệu quả kinh tế cao.
2.2.Về hoạt động Marketing
Thị trường càng rộng lớn thì tính ổn định càng không cao, nên bộ phận
Marketing ngày càng giữ một trách nhiệm to lớn. Chiến lược Marketing là
một trong 4 bộ phận cấu thành Mar-Mix, nhu cầu và sở thích của con người
ngày càng phong phú đa dạng và phức tạp, sản xuất và tiêu dùng không phải
lúc nào cũng ăn khớp với nhau, nếu không có chiến lược Mar phù hợp thì
sản xuất khó mà ăn khớp với tiêu dùng. Khi đó tình trạng thừa hoặc thiếu
hàng sẽ xảy ra làm lãng phí nguồn lực và giảm hiệu quả kinh doanh. Chính vì
vậy, mỗi doanh nghiệp phải có một chiến lược Marketing phù hợp với tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Trong thời gian qua, bộ phận Marketing của công ty đã có được những
kết quả rất đáng khen, biểu hiện ở việc doanh thu ở thị trường trong nước ổn
định, thị trường xuất khẩu thì được khai phá và đang phát triển cả chiều rộng
lẫn chiều sâu. Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng luôn có mặt ở các
phiên triển lãm ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thái
Nguyên...và cả trung tâm thương mại miền nam thành phố Hồ Chí Minh...
Mặt hàng của công ty đã được nhiều người tiêu dùng biết đến và chấp
nhận, giá trị tài sản vô hình tăng lên, thương hiệu khẳng định vững chắc hơn
và uy tín được nâng lên cùng với chất lượng. Đặc biệt là sự thâm nhập thành
công vào thị trường xuất khẩu có công rất lớn của bộ phận Marketing trong
việc nghiên cứu thị trường và nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, vấn đề tiếp thị
sản phẩm của công ty, vấn đề xây dựng kênh phân phối và xúc tiến bán hàng
đã được bộ phận Marketing thực hiện khá tốt.
2.3.Về tổ chức nhân sự
Ngày nay, người tổ chức phải tìm kiếm cơ cấu tổ chức thích hợp với sự
thay đổi thường xuyên của môi trường đồng thời cũng phải thường xuyên
nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
Đối mặt với những khó khăn trong cơ chế kinh tế mới, đặc biệt là sự
phát triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức, với những thuận lợi cũng như
khó khăn, chúng ta thử tìm hiểu xem Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch
Đằng đã làm được những gì và hạn chế trong việc giải quyết công ăn việc
làm, xây dựng một đội ngũ tổ chức hợp lý như thế nào. Với hơn 250 lao động
sản xuất trực tiếp sản xuất, so với tiềm năng phát triển của công ty trong thời
gian tới, thì Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng cần phải tuyển thêm
một đội ngũ lao động trực tiếp sản xuất nữa mới đáp ứng được nhu cầu đề ra.
Bàn về một vấn đề gì chúng ta cũng phải đi từ cái cũ cho đến cái mới và phải
đi từ thực tiễn vì mọi chân lý đều phải bắt nguồn từ thực tiễn. Trong những
năm qua, cơ cấu tổ chức của Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng có
thể nói là khá hợp lý để duy trì sự phát triển của mình và quản lý CBCNV
thực hiện đúng quy chế. Về vấn đề tuyển thêm lao động, công ty luôn có
những lớp học việc cho công nhân mới vào nghề còn bỡ ngỡ, chưa thành thạo
trong công việc. Ngoài ra, hàng năm thường xuyên cử cán bộ đi học những
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chuyên môn, về việc nắm bắt tình hình kinh tế
mới ...các phòng ban trong công ty luôn luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau
trong công việc để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của mình vì mục tiêu chung
của công ty.
2.4.Tình hình quản trị
Bộ máy quản trị là trung tâm điều khiển mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh ở tầm vĩ mô, nếu như khu trung tâm này hoạt động tốt thì những hoạt
động ở tầm vi mô mới thu được kết quả như mong muốn được. Ban giám đốc
của công ty mặc dù chỉ có hai người nhưng đã thực hiện đúng chức năng và
nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả nhất, vì mục tiêu chung của công
ty, nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi và đã đạt được những kết quả đáng mừng.
Tuy nhiên trong thời gian tới, khi mà thị trường ngoài nước đang phát triển thì
nhiệm vụ của ban quản trị cũng rất nặng nề. Công ty cần có một đội ngũ quản
trị có trình độ cao để giải quyết tốt nhiệm vụ quản trị trong thời gian tới với
hiệu quả cao trong công việc. Để làm được như vậy thì Công ty Thương Mại -
Xây Dựng Bạch Đằng đang từng bước cải tiến bộ máy quản trị này, công ty
luôn cử một số cán bộ theo học các lớp quản trị chuyên sâu, để mỗi một cán
bộ quản trị đều có kiến thức chuyên môn hoá hoạt động quản trị hay vạn năng
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao phù hợp với thời đại mới và sự phát
triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức với những kỹ năng, kỹ xảo của đội
ngũ lao động quản trị.
2.5.Về chất lượng sản phẩm và các hoạt động khác
Chất lượng sản phẩm của công ty đã nâng lên rõ rệt do sự thay đổi chất
liệu sản phẩm và cải tiến mẫu mã, đã được người tiêu dùng đánh giá cao.
Trong thời gian tới hy vọng rằng, công ty vẫn giữ vững được ưu thế sản phẩm
của mình và cố gắng phát huy hơn nữa để có thể chiến thắng trong cạnh tranh
về mọi mặt, để không chỉ là một doanh nghiệp non trẻ hiện nay nữa mà sẽ trở
thành một doanh nghiệp có tên tuổi, không phải núp dưới bóng người anh cả
là Tổng công ty Xây Dựng –Thương mại nữa. Chúng ta sẽ hy vọng và không
bao giờ thất vọng cả vì một tương lai tươi sáng của thị trường xuất khẩu của
hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam .
Các hoạt động khác của doanh nghiệp cũng không có gì phải tranh cãi
nhiều, bởi vì các bộ phận đó đêù hoạt động hiệu quả như phòng bảo vệ, phòng
dự án, phòng kinh doanh thiết bị ... đều đang trong quá trình hoạt động tốt
cùng với sự phát triển đi lên của công ty. Mỗi một phòng ban đều có chức
năng hoạt động riêng biệt và nhiệm vụ cụ thể. Nên các phòng ban trong công
ty cần phát huy hơn nữa ưu thế của mình và hạn chế những khuyết điểm, sai
lầm
IV. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY ẢNH
HƯỞNG ĐẾN VIỆC THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
1. Đặc điểm về thị trường
Thị trường đầu ra chính cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty
bao gồm 2 mảng thị trường là thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu.
Trong đó, thị trường trong nước tiêu thụ khoảng 30% khối lượng sản phẩm,
phần còn lại được tiêu thụ ở thị trường quốc tế. Nên đẩy mạnh xuất khẩu là
một trong những chiến lược quan trọng nằm trong chiến lược tiêu thụ sản
phẩm của Công ty. Trong mảng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
thì Công ty tập trung vào những thị trường xuất khẩu chính như Nhật Bản,
Tây Âu,…bên cạnh một số thị trường nhỏ lẻ khác mà Công ty mới thâm nhập
được, nhưng khối lượng sản phẩm ở những thị trường này không nhiều chủ
yếu là hàng thủ công mỹ nghệ chứ không có những mặt hàng khác như hàng
đồ chơi, hay sắt mỹ nghệ. Từ vấn đề mấu chốt thị trường ta hoạch định chiến
lược kinh doanh cho từng giai đoạn và có những chính sách phù hợp với chiến
lược tiêu thụ sản phẩm của Công ty, chủ yếu tập trung vào thị trường quốc tế
và vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những nội dung quan trọng cần
giải quyết.
2. Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm chủ yếu của Công ty là hàng thủ công mỹ nghệ chiếm trên
30% khối lượng sản phẩm, ngoài ra là các mặt hàng như Gốm Sứ, hàng Đồ
chơi, hàng Mây tre, hàng Sắt mỹ nghệ và hàng tạp phẩm. Hàng thủ công mỹ
nghệ là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn, sau đó đến hàng Đồ chơi,
những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất tại phân xưởng của Công ty, hiếm
khi Công ty phải đi thu mua hàng từ các cơ sở sản xuất khác nên Công ty có
thể chủ động trong việc nhận và thực hiện đơn hàng. Đến nay, trong danh sách
các mặt hàng xuất khẩu của Công ty chủ yếu vẫn là 6 nhóm mặt hàng chính,
Công ty đang từng bước thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nghiên cứu thêm
nhiều nhóm mặt hàng mới, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm cũng như đa dạng
hoá chất lượng nguồn nguyên liệu tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm có chất
lượng khác nhau phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách hàng.
3.Cơ cấu lao động
Công ty gồm 270 cán bộ CNV. Trong đó có 65 cán bộ làm công tác quản
lý (23,7%) và số còn lại là công nhân trực tiêp sản xuất và người lao động làm
thuê theo hợp đồng lao động.
Đứng đầu công ty là Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và 1 phó Giám đốc.
Dưới Ban Giám đốc là các phòng ban trực thuộc, những phòng ban này
được chia thành hai khối là khối kinh doanh và khối quản lý.
+ Trong khối kinh doanh có các phòng ban như : phòng KD-XNK,
phòng KHSX, phòng kinh doanh thiết bị, (gồm xưởng cơ khí và xưởng đồ
chơi).
+ Trong khối quản lý có các phòng ban như : phòng TCHC, phòng dự án,
phòng TCKT.
Ngoài ra, công ty còn có văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành phố khác.
4.Đặc điểm ngành nghề kinh doanh
Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng với chức năng hoạt động
rộng rãi đa ngành nghề : sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, đồ
chơi, quà lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang trí nội thất, gia công
hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nguyên
vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng,
phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi, sản xuất kinh doanh hàng may mặc,
đồ da, kim khí, hoá chất, điện máy và lắp ráp điện tử xuất nhập khẩu uỷ thác,
kinh doanh dịch vụ vận tải, du lịch lữ hành, xây dựng công trình giao thông
vận tải, thuỷ lợi công nghiệp và dân dụng.
5.Thiết bị công nghệ máy móc
Là một doanh nghiệp thương mại kiêm sản xuất với chức năng hoạt động
rộng rãi đa ngành nghề, Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng sản xuất
các sản phẩm thủ công mỹ nghệ là chính, còn các ngành nghề khác như xây
dựng công trình giao thông thủy lợi, kinh doanh nông lâm thuỷ sản, kim khí
hoá chất, kinh doanh hàng may mặc...chỉ là những ngành nghề mang tính thời
vụ của công ty. Hiện nay, nhìn chung trang thiết bị công nghệ máy móc của
công ty còn khá sơ sài, chưa có gì là hiện đại cả so với các doanh nghiệp khác.
Một phần là do lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty quyết định, do sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ không đòi hỏi trang thiết bị công nghệ hiện đại
mà chủ yếu là dựa vào trình độ tay nghề của công nhân, nên công ty chú trọng
đến khâu đào tạo đội ngũ công nhân viên mới vào nghề qua các khoá học việc
(thường là 6 tháng ). Lĩnh vực kinh doanh còn lại của công ty chủ yếu là vấn
đề thương mại bán hàng, công ty có đầu tư thêm 30 chiếc xe tải chở hàng
phục vụ cho công tác chuyên chở hàng hoá. Hiện nay, trong cảng của công ty
luôn có 7 chiếc máy xúc hiệu Hàn Quốc và cần cẩu hàng hoá (5 chiếc) tại mặt
bằng cạnh sông Hồng.
6.Tình hình cung ứng nguyên vật liệu
Trước kia, khi công ty còn là xưởng sản xuất quy mô nhỏ, với thị trường
tiêu thụ chủ yếu từ trong nước, sản phẩm còn chưa phong phú về mẫu mã, và
chủng loại thì nguyên liệu chủ yếu cho các sản phẩm của công ty là thạch cao
và đất sét. đến nay thì nguyên liệu của công ty rất phong phú về chủng loại và
chất liệu, từ bột đá thiên nhiên đến nhiên liệu bằng thạch cao, nhựa tổng hợp,
polyme...càng ngày công ty càng sáng tạo và tìm kiếm ra nhiều nguồn nguyên
liệu thay thế và bổ sung khác, làm phong phú hơn nữa nguồn nguyên liệu có
sẵn và giảm chi phí nguyên nhiên liệu, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành. Hàng
ngày công ty có bộ phận chuyên phụ trách về vấn đề nguyên liệu cung cấp
cho công nhân sản xuất trực tiếp tại phân xưởng. Và bộ phận này chuyên ký
kết cũng như giao dịch với các nguồn cung ứng nguyên liệu để vận hành bộ
máy sản xuất của doanh nghiệp. Bộ phận chuyên trách vấn đề cung ứng
nguyên vật liệu chịu trách nhiệm trước trưởng phòng kế hoạch sản xuất và
thống kê đơn giá, số lượng nguyên vật liệu chuyển vào hàng ngày, hàng
tháng, quý một cách cụ thể.
7.Đặc điểm về tài chính của công ty
Đơn vị tính : 1000.000đ
Vốn cố định Vốn lưu động
Năm Tổng vốn
Số tiền Tỷ lệ% Số tiền Tỷ lệ %
2000 6455 2662,8 41,25 3792,2 58,75
2001 8770 2506 28,57 6264 71,43
2002 10131 3431 33,87 6700 66,13
Biểu hình 1.1 : Tình hình vốn kinh doanh của công ty
Nhìn vào biểu trên ta thấy tổng số vốn kinh doanh của công ty tăng đều
qua các năm. Điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty rất
khả quan. Hàng năm tỷ trọng vốn lưu động luôn luôn cao hơn tỷ trọng vốn cố
định. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Do công ty có chức năng chính là kinh
doanh thương mại nên tỷ trọng vốn lưu động cao hơn vốn cố định là rất tốt.
Riêng năm 2001 VLĐ tăng lên 71,43% trong khi vốn cố định giảm xuỗng còn
28,57% là do công ty nhận thức được tầm quan trọng của việc kinh doanh tiêu
thụ hàng hoá nên hướng mạnh vào thị trường này để phát triển sản xuất khi
thị trường tiêu thụ mở rộng đối với một số mặt hàng chủ chốt của công ty như
kinh doanh hàng may mặc, hàng nông lâm thuỷ sản, kim khí hóa chất...thúc
đẩy tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu. Nhưng đến năm 2002 thì VCĐ tăng lên
là 33,87% làm giảm tỷ lệ VLĐ xuống. Do công ty đã đầu tư thêm trang thiết
bị, nhà xưởng để mở rộng quy mô sản xuất, tuyển thêm lao động mua thêm
một số tài sản cố định khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Điều
đó chứng tỏ rằng công ty đã có một chiến lược kinh doanh hợp lý với từng
giai đoạn phát triển riêng biệt phù hợp với tình hình tài chính của công ty và
phù hợp với những thay đổi của smôi trường kinh doanh trong giai đoạn mới.
Tài sản Mã số
Số đầu năm
(VNĐ)
Số cuối kỳ
(VNĐ)
I. TSLĐ và đầu tư ngằn hạn 100 31850102075 47173797477
1. Tiền 110 4395846364 11378854531
-Tiền tồn quỹ 111 758035686 760001585
-Tiền giửi ngân hàng 112 3637810678 10618852946
-Tiền đang chuyển 113
2. Các khoản đầu tư tài chính
ngăn hạn
120
- Đầu tư tài chính ngắn hạn 121
- Đầu tư ngắn hạn khác 128
- Dự phòng giảm giá đầu tư 129
ngắn hạn
3. Các khoản phải thu 130 12126456867 14260345292
- Phải thu của khách hàng 131 12012801463 13306249407
- Trả trước cho người bán 132
- Thúe GTGT được khấu trừ 133
- Phải thu nội bộ 134
+ Vốn kinh doanh ở các đơn
vị nôi bộ
135
+ Phải thu về 136
+Phải thu nội bộ khác 137
- Các khoản phải thu khác 138 113655404 274020685
- Dự phòng phải thu khó đòi 139
4. Hàng tồn kho 140 9921625050 16285769250
- Hàng mua đang đi đường 141
- NVL tồn kho 142 1966500 4980500
- Công cu, dụng cụ trong kho 143 11004 11000
- Chi phi SXKD dở dang 144 9919647546 16288777750
- Thành phẩm tồn kho 145
- Hàng hoá tồn kho 146
- Hàng gửi đi bán 147
- Dự phòng giảm giá hàng tồn
kho
149
5. Tài sản lưu đông khác 150 5406173794 5248828404
- Tạm ứng 152 3907276683 4063736550
- Chi phí trả trước 152 922328100 509830819
- Chi phỉ chờ kết chuyển 153 545436875 554513489
- Tài sản thiếu chờ sử lý 154
- Các khoản ký cược 155 31132136 120747546
6. Chi sự ngiệp 160
- Chi sự nghiệp năm trước 161
- Chi sự nghiệp năm nay 162
Tình hình quản lý các loại tài sản lưu động
V.CÁC ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
Kinh doanh trên thị trường quốc tế, phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về
cạnh tranh gay gắt
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM THỦ
CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI-XÂY DỰNG BẠCH
ĐẰNG
I.ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ
1.Tình hình thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh
vực nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh
tranh. Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng phải tự hạch toán kinh
doanh nên Công ty đã tận dụng tối đa mọi cơ hội kinh doanh để tìm được
nguồn đơn đặt hàng cho mình. Lĩnh vực kinh doanh của Công ty đang có sự
cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ trong và ngoài nước. Thị trường đầu ra lúc
này như là mảnh đất đầy dinh dưỡng nuôi sống cả tập thể công nhân viên
trong công ty, có được thị trường hay không, có nhiều hay ít thị trường sẽ
quyết định đến sự tồn tại, hay diệt vong của mình. Do đó, mở rộng thị trường
là điều kiện tất yếu để công ty tồn tại và phát triển.
Đến nay, mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đã có mặt ở trên 30
quốc gia tới các vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong lĩnh vực kinh doanh của
mình, công ty đã thực hiện tốt các đơn đặt hàng đảm bảo chất lượng hàng cho
nhà phân phối, tạo lòng tin cho khách hàng để ổn định và tiếp tục phát triển
khu vực bạn hàng của Công ty. Quy mô mặt hàng xuất khẩu tuy chưa lớn
nhưng đã đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Công ty hàng ngàn USD, đóng góp
vào ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm, duy trì và nâng cao dần thu
nhập cho cán bộ nhân viên và công nhân lao động trực tiếp tại phân xưởng.
Kết quả kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty theo
khu vực được thể hiện
Đơn vị : 1000 USD
Khu vực Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Bắc Mỹ
EU
Nhật Bản
Đông nam Á
Trung Nam Mỹ
Thị trường Nga
Thị trường khác
3008,47
4037,6
4013,89
2054
5075
2071,4
1511,5
10578
24570
10764,5
4578
10101,4
57363
2014,7
15073
38048
17576
7786
7875,7
8197,3
2517,6
27750
48076
30015
10015,7
7877,9
15371,4
3001,5
Tổng 19792,37 68342,6 97055,6 142.107,5
(Nguồn : Phòng kinh doanh Xuất Nhập khẩu)
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, kim ngạch xuất khẩu của Công ty
trong những năm gần đây liên tục tăng, đặc biệt là có sự tăng trưởng mạnh
vào năm 2002. Đó là một tín hiệu đáng khả quan đối với cả tập thể cán bộ
công nhân viên của Công ty trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Bảng trên cũng cho ta thấy thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty là
thị trường Bắc Mỹ, Nhật Bản và EU. Hiện nay, thị trường Nhật Bản là một
trong những thị trường có nhu cầu lớn nhất về nhiều loại hàng thủ công mỹ
nghệ cũng như các sản phẩm khác mà Công ty xuất khẩu như sản phẩm
Gương, Hàng Đồ chơi, Hàng Sắt. Bên cạnh đó là một số thị trường mới nổi
lên như thị trường Đông Nam á với hơn 500 triệu dân đang là một trong
những hướng phát triển chủ đạo của Công ty trong thời gian tới.
Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường xuất khẩu lớn của rất nhiều sản
phẩm chủ lực của Việt Nam như sản phẩm dệt may, hàng da dày, hàng thủ
công mỹ nghệ,…với những ưu thế hơn hẳn so với các thị trường tiêu thụ khác
trên thế giới như mức cầu lớn, thu nhập bình quân đầu người cao, EU là khu
vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. Nắm bắt được thị hiếu của người
tiêu dùng Châu Âu, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã đầu tư cơ
sở vật chất phục vụ cho xuất khẩu vào khu vực này, đẩy mạnh xúc tiến bán
hàng, tiếp thị, đặt những trụ sở giao dịch, các văn phòng đại diện, đồng thời
Công ty cũng thường xuyên tham gia những Hội trợ triển lãm, trưng bày
những Showroom tại các trung tâm Thương mại lớn như London, Paris,
Berlin,…Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong những năm qua liên
tục tăng, từ 4037,6 nghìn USD năm 1999 lên tới 48.076 nghìn USD năm
2002. Dự kiến trong tương lai kim ngạch xuất khẩu vào EU vẫn tiếp tục tăng.
Hiện nay, EU đang là một trong những thị trường chủ đạo của Công ty. Thị
trường tiêu thụ chủ yếu của khu vực này là Pháp và Đức.
Tỷ trọng thị phần của một số thị trường chủ yếu của Công ty
Đơn vị tính : %
Khu vực Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Bắc Mỹ
EU
Nhật Bản
Đông Nam á
Trung Nam Mỹ
Thị trường Nga
Thị trường khác
15,2
20,4
20,28
10,38
15,64
10,46
7,64
15,48
35,95
15,75
6,7
14,78
8,39
2,95
15,53
39,2
18,12
8,02
8,11
8,45
2,59
19,53
33,83
21,12
7,05
5,54
10,82
2,11
Tổng 100 100 100 100
Thị trường xuất khẩu của Công ty phân bố không đều, tập trung vào một
số thị trường chính như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản, trong đó chủ yếu là thị
trường EU luôn luôn chiếm ưu thế hơn hẳn so với các thị trường khác chiếm
20,4% năm 1999 sau đó tăng mạnh vào năm 2000 và năm 2001 với 39,2%
doanh thu từ xuất khẩu của Công ty. Sau một thời gian tăng trưởng mạnh thị
trường này đang có xu hướng suy giảm, từ 39,2% năm 2001 xuống còn
33,83% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong năm 2002.
Thị trường Nhật Bản cũng là một trong những thị trường chính của Công ty,
với phong tục Phương Đông truyền thống, cũng giống như người Việt Nam
hay Trung Quốc, người Nhật có nhu cầu khá lớn về hàng thủ công mỹ nghệ,
hàng Gốm Sứ và đồ gố. Đó đều là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Công ty. Họ có sở thích tặng nhau những món quà làm bằng đồ Gốm Sứ với
những hoạ tiết mang tính nghệ thuật cao mang biểu tượng của tình yêu, tình
bạn. Nắm bắt được phong cách sống cũng như tâm lý của người Nhật với
truyền thống dân tộc bất khuất, Công ty đã xuất khẩu sang thị trường này
những sản phẩm có biểu tượng của đất nước họ như hình con chuồn chuồn và
khóm khoai, hình tượng võ sỹ đạo,…là những sản phẩm rất được người Nhật
ưa thích và đánh giá cao. Do vậy, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang
thị trường này rất thuận lợi và Nhật Bản luôn là một thị trường có thị phần lớn
của Công ty với doanh thu và quy mô các mặt hàng xuất khẩu liên tục tăng.
Mặc dù có suy giảm trong năm 2001 từ 28,28% xuống còn 15,75% tổng kim
ngạch xuất khẩu nhưng đã khôi phục trở lại vào năm 2002 chiếm 21,12%
tổng kim ngạch xuất khẩu .
Trong những năm qua Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng mới
chỉ xuất khẩu được một lượng khá nhỏ vào thị trường Đông Nam Á, mức cao
nhất là 10,38% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sau đó giảm dần vào các năm
sau. Hiện nay, con số này là 7,05% tổng giá trị kim ngach xuất khẩu, một con
số khá khiêm tốn với một thị trường hơn 500 triệu dân trong khu vực. Một
phần là do tại các nước này có các đặc điểm tương đồng với Việt Nam về điều
kiện tự nhiên, phong tục tập quán có sự giao thoa mang đậm phong cách
Phương Đông. Cho nên, phần lớn các nước trong khu vực này cũng tự mình
sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với chất liệu bằng Gốm, Sứ đáp ứng
nhu cầu của nước đó, không những thế mặt hàng này còn được xuất khẩu ra
nước ngoài trên các thị trường mà Công ty đang tiêu thụ sản phẩm của mình.
Vì vậy, sản phẩm của họ cạnh tranh rất quyết liệt với các sản phẩm của Công
ty trên một số thị trường chủ yếu. Tuy vậy, sản phẩm của Việt Nam vẫn được
khách hàng ưa chuộng trên thế giới thậm chí ta còn cạnh tranh quyết liệt và
chiến thắng ngay tại "sân khách". Có được những kết quả đó là so sản phẩm
của ta có sự tinh xảo trong nghệ thuật, sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân
tộc như bộ bàn ghế mây, chiêc nón bài thơ,…mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất
sang thị trường này chủ yếu là đồ trang trí nội thất, hàng sắt, hàng đồ chơi, vật
dụng gia đình, gương gỗ.
Trung- Nam Mỹ là thị trường chiếm tỷ trọng lớn của Công ty trong
những năm 1999, 2000 với kim ngạch xuất khẩu năm 1999 là 5075 nghìn
USD chiếm 15,64% sau đó tăng lên 10101,4 nghìn USD chiếm 14,78% tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu.Công ty xuất khẩu sang 3 thị trường chính là
Achentina, Braxin, Chilê. Trong 2 năm trở lại đây tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu sang thị trường này đã bị suy giảm chỉ chiếm 8,11% năm 2001 và 5,54%
tỷ trọng năm 2002. Từ năm 2001 do kinh tế Achentina rơi vào tình trạng
khủng hoảng, nên xuất khẩu sang thị trường này giảm đi rõ rệt, thị trường
Braxin và Chilê cũng gặp không ít khó khăn nên kim ngạch xuất khẩu sang
khu vực thị trường này giảm đi rõ rệt. Từ sự khó khăn trên, Công ty đã phải
tích cực tìm kiếm cơ hội mở rộng sang các thị trường và khu vực thị trường
khác. Với sự nỗ lực của Công ty, trong thời gian ngắn, Công ty đã chuyển
hướng xuất khẩu sang một số thị trường mới như thị trường Trung Đông, đẩy
mạnh xuất khẩu vào thị trường EU để có thể chuyển khu vực thị trường theo
hướng phù hợp hơn.
Đối với thị trường Nga và các nước SNG, sau hơn 10 kể từ khi Liên
Bang Xô Viết tan rã, những điều kiện ưu đãi trước kia không còn nữa, mối
quan hệ kinh doanh với khu vực này ngày càng trở lên khó khăn hơn, kim
ngạch xuất khẩu từ 2017,4 nghìn USD chiếm 10,46% năm 1999 tăng lên
5736 nghìn USD nhưng chỉ chiếm 8,39% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Với
sự cố gắng để duy trì và phát triển một thị trường truyền thống, Công ty
Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã nỗ lực rất nhiều để tăng dần giá trị kim
ngạch xuất khẩu cũng như tăng dần tỷ trọng của thị trường này lên, đến năm
2002 kết quả thật đáng khích lệ cho tập thể cán bộ công nhân viên trong Công
ty với 15.371,4 nghìn USD chiếm 10,82% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Ba thị trường chính là Nga, Hungari, Sec trong đó chỉ có thị trường Nga là
luôn duy trì lượng đơn đặt hàng thường xuyên, mặt hàng xuất khẩu mạnh sang
khu vực là mây tre, thảm, Gốm Sứ và hàng Đồ chơi.
Đặc điểm của khu vực thị trường này là yêu cầu cao về kỹ thuật, mẫu
mã không quá cầu kỳ nhưng đẹp mắt và gây ấn tượng nên trước đây lượng
hàng xuất khẩu sang thị trường này là rất lớn. Thị phần hàng thủ công mỹ
nghệ của hàng Việt Nam nói chung và hàng của Công ty nói riêng bị mất đi là
do sản phẩm của ta bị cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm của Trung Quốc và
các nước trong khu vực như Malaysia, Indonexia, Philippin,…Để khắc phục
những khó khăn trên và giành lợi thế trong cạnh tranh, Công ty đã đầu tư xây
dựng và mở rộng một mạng lưới kho tàng, các cửa hàng và nhiều quầy bán
buôn, bán lẻ trên khắp thị trường Nga và các nước SNG, cử đại diện của Việt
Nam sang và thuê thêm lao động của nước sở tại phục vụ. Mạng lưới này hoạt
động khá hiệu quả và đã đem lại những kết quả đáng mừng, thể hiện ở tỷ
trọng thị phần đang được ổn định chiếm 10,82% tổng giá trị kim ngạch xuất
khẩu.
Tuy nhiên, bên cạnh đó Công ty vẫn chưa bám sát được những thay đổi,
thị hiếu trên thị trường này, thiếu những mẫu mã mới và những mặt hàng có
chất lượng nên đã để rớt mất mảng lớn trên thị trường này. Mặc dù vậy, đây
cũng là khu vực thị trường có nhu cầu lớn, tiêu thụ được cả những mặt hàng
truyền thống và mặt hàng mới. Do đó, Công ty cần có sự quan tâm đúng mức
và có sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của thị trường, khai thác thị trường
với đúng quy mô và tiềm năng sẵn có của nó, tạo ra những sản phẩm mẫu mã
mới, chất lượng cao, giá cả và phương thức thanh toán phù hợp hơn nữa để
tăng sức cạnh tranh trên thị trường này.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khác của Công ty cũng đã có
sự điều chỉnh nhất định, từ 7,64% tỷ trọng năm 1999 xuống còn 2,95% năm
2000 và đến năm 2002 con số này là 2,11% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu.
Đây phần lớn là những thị trường nhỏ lẻ, không được đầu tư nhiều về mạng
lưới kênh phân phối nên Công ty không coi đây là thị trường chủ lực. Tuy
vậy, Công ty cũng không bỏ qua bất kỳ một cơ hội nào để có được những đơn
đặt hàng hấp dẫn.
2.Thực trạng xuất khẩu qua một số năm gần đây
2.1. Quy mô của sản phẩm xuất khẩu
Trong thị trường cạnh tranh quốc tế, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực
nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh tranh,
nên thị phần, lợi nhuận của Công ty luôn luôn có nguy cơ bị san sẻ. Để hạn
chế được áp lực cạnh tranh và có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh Công ty
luôn phải tìm cách tận dụng những lợi thế sẵn có của mình, hạn chế đến mức
tối đa những khó khăn của Công ty, luôn có kế hoạch kinh doanh các sản
phẩm phù hợp với nhu cầu, đồng thời cũng đa dạng hoá sản phẩm tránh tập
trung cao vào một số mặt hàng dẫn đến rủi ro trong xuất khẩu.
Cơ cấu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Công ty
Đơn vị tính : nghìn USD
Tên hàng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Hàng Đồ chơi
Hàng thủ công
mỹ nghệ
Mây tre
Gốm sứ
Gỗ mỹ nghệ
Sắt mỹ nghệ
Hàng tạp
phẩm
6392,94
5423,11
1048,9
1280,57
2456,23
1496,3
1694,23
17.543,55
20.851,33
4.114,22
5.945,8
7.367,3
6.607,3
6.663,4
27.214,39
30.174,59
7.347,11
8.414,72
9.851,14
9.006,76
5.046,89
38.383,24
48.558,13
9.336,46
7.744,86
13.741,79
14.864,44
9.478,57
Tổng 19.792,37 68.342,6 97.055,6 142.107,5
( Nguồn :Báo cáo kết quả kinh doanh: Phòng Kế toán )
Từ khi thành lập cho đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn là mặt hàng
chủ lực mà Công ty tiến hành xuất khẩu. Qua nhiều năm hoạt động kinh
doanh, Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong việc xúc tiến xuất khẩu, thẩm
định giá cả, cải tiến mẫu hàng phù hợp hơn với thị hiếu của người tiêu dùng,
Công ty đã có những khách hàng truyền thống trong lĩnh vực này nên việc trị
giá hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu liên tục tăng từ 5.423,11 nghìn USD
năm 1999 lên 20.851,33 nghìn USD năm 2000 đặc biệt là vào năm 2002 với
trị giá hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là 48.558,13 nghìn USD.
Sau hàng thủ công mỹ nghệ thì hàng Đồ chơi chiếm trị giá khá lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ 6.392,94 nghìn USD năm 1999 lên 17.543,55
nghìn USD năm 2000 tăng 11.150,61 nghìn USD. Đến năm 2001 trị giá hàng
Đồ chơi trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu là 27.214,39 nghìn USD và
năm gần đây nhất con số này là 38.383,24 nghìn USD.
Tỷ trọng cơ cấu hàng xuất khẩu so với tổng số
Đơn vị tính : %
Tên hàng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Hàng Đồ chơi
Hàng thủ công mỹ nghệ
Mây tre
Gốm sứ
Gỗ mỹ nghệ
Sắt mỹ nghệ
Hàng tạp phẩm
32,3
27,4
5,3
6,47
12,41
7,56
8,56
25,67
30,51
6,02
8,7
10,78
8,79
9,75
28,04
31,09
7,57
8,67
10,15
9,28
5,2
27,01
34,17
6,57
5,45
9,67
10,46
6,67
Tổng 100 100 100 100
(Nguồn : Phân xưởng sản xuất)
Qua bảng trên ta thấy, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là hàng
Đồ chơi và hàng thủ công mỹ nghệ. Năm 1999 tỷ trọng hàng Đồ chơi xuất
khẩu là 32,3% so với tổng số sau đó đến hàng thủ công mỹ nghệ chiếm
27,4%, hàng mây tre chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ là 5,3%, đồ Gỗ mỹ
nghệ cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn là 12,41%, hàng Đồ chơi của
Công ty rất phong phú về chủng loại và mẫu mã, kiểu dáng đẹp, nên được tiêu
thụ với một số lượng lớn ở nước ngoài. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Công
ty không chỉ có tính nghệ thuật cao mà còn có giá trị văn hoá sâu sắc, mang
hình tượng về đất nước, con người, mang bản sắc văn hoá dân tộc sâu sắc phù
hợp với truyền thống và phong tục tập quán của nước sở tại.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những hàng xuất khẩu chính
của Công ty , luôn luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu các mặt hàng phục vụ
xuất khẩu. Nếu như năm 1999 tỷ trọng của mặt hàng này là 27,4%thì đến năm
2000 là 30,51% và năm 2001 con số này là 31,09% và năm 2002 chiếm tỷ
trọng là 34,17%. Hầu hết các sản phẩm của Công ty làm bằng chất liệu tự
nhiên như bằng đất sét, hiện nay các sản phẩm này đã được bổ sung bằng các
chất liệu nhân tạo như bằng thạch cao, hay bằng nhựa tổng hợp. Các sản phẩm
như lọ hoa, khay đựng hoa quả, guốc gỗ, tượng phật, và hình tượng chúa
Giêsu, hình Đức mẹ đồng trinh, hay tượng thần Cupid,…các mặt hàng này
được khách hàng nước ngoài đánh giá cao có giá trị nghệ thuật cao, điêu khắc
hoa văn tinh tế và độc đáo. Tuy nhiên mặt hàng này vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng sẵn có của Công ty.
Mặt hàng Đồ chơi cũng chiếm một tỷ trọng tương đối trong tổng số các
mặt hàng xuất khẩu, nhưng hiện nay mặt hàng này đang dần được thay thế bởi
các mặt hàng khác, từ 32.3% năm 1999 đến năm 2000 là 25,67%, năm 2001 là
28,04%, đến năm 2002 chiếm 27,01%. Hàng Đồ chơi là mặt hàng có chủng
loại phong phú nhất với nhiều mẫu mã, chủng loại, các sản phẩm của Công ty
có sự chọn lọc ở mẫu mã và chất liệu hợp lý có sự thử nghiệm ở một số thị
trường lớn trước khi tung sản phẩm ra thị trường. Mặc dù tỷ trọng xuất khẩu
của mặt hàng này có suy giảm hơn nhưng trước yêu cầu của sự điều chỉnh cơ
cấu mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với điều kiện của Công ty là một sự sắp
xếp có kế hoạch, có sự tính toán từ trước để phù hợp với xu thế tiêu dùng xuất
khẩu.
Hàng Gỗ mỹ nghệ và Sắt mỹ nghệ cũng là mặt hàng chiếm tỷ trọng
tương đối trong cơ cấu các mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Với ưu thế hơn hẳn
so với các nước trong khu vực về nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao,
được đào tạo từ Trường Dạy Nghề do chính Công ty tổ chức. Nguồn lao động
này đã tạo ra những sản phẩm có độ tinh xảo trong kiến trúc, hoa văn mang
đậm nét văn hoá của các nền văn hoá khác nhau. Mặt hàng Gỗ mỹ nghệ từ chỗ
chiếm 12,41% tỷ trọng năm 1999 với trị giá 2.456,23 nghìn USD đang có xu
hướng giảm dần và đến năm 2002 chỉ chiếm 9,67% tỷ trọng tương ứng với
13.741,79 nghìn USD.
Còn mặt hàng Sắt mỹ nghệ lại tăng dần trong tỷ trọng các mặt hàng xuất
khẩu. Từ 7,56% năm 1999 lên 8,79% năm 2000, năm 2001 là 9,28% và đến
năm 2002 con số này là 10,46%. Qua đó ta có thể thấy, doanh số xuất khẩu
hàng Sắt mỹ nghệ liên tục tăng qua các năm và dự kiến mặt hàng này sẽ là
một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của Công ty. Các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu là Chân nến, Chao đèn, Giá kệ, Ghế ngồi,… sản phẩm làm từ sắt
rất đa dạng do sử dụng sơn tĩnh điện nên màu sắc đặc trưng thường là màu
đen chì và được kết hợp với một số vật liệu khác để tạo nên một sản phẩm
hoàn chỉnh như khung sắt đựng rượu có quấn mây ở thành tạo nên một sản
phẩm rất ấn tượng, độc đáo, mặt hàng này một phần là Công ty thu gom
nhưng phần lớn Công ty tự sản xuất. Trong thời gian tới, Công ty sẽ xuất khẩu
mặt hàng sắt tự sản xuất chứ không phải thu gom từ nơi khác. khi đó tỷ trọng
mặt hàng sắt mỹ nghệ xuất khẩu sẽ tăng lên.
Sản phẩm Gốm Sứ của Công ty rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã phong
phú, kiểu dáng đẹp, không chỉ có tính nghệ thuật cao mà còn có giá trị sử
dụng lâu bền. Các loại bình hoa, chậu, đôn, đĩa ấm chén làm bằng Gốm men
rạn, men ngọc, men chảy,… với hoa văn phong phú, độc đáo là những sản
phẩm được rất nhiều khách hàng nước ngoài quan tâm. Bên cạnh đó, Công ty
cũng chú ý thu mua, sản xuất những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc
dân tộc như những tấm bình phong có hình tượng đồng quê, sản phẩm Gốm
với màu xanh đặc trưng khiến khách hàng rất thích.
Tuy nhiên, việc vận chuyển hàng Gốm sứ rất khó khăn vì đây là mặt
hàng cồng kềnh, dễ vỡ nên đòi hỏi phải cẩn thận trong mọi khâu nhất là khâu
vận chuyển, kể cả chèn lót, bốc xếp, chi phí vận chuyển lại cao. Hơn nữa hàng
Gốm Sứ lại chịu ảnh hưởng của sự biến động thị trường và giá cả của mặt
hàng Gốm nên kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng không ổn định, có khi
không đạt được mục tiêu đề ra. Năm 1999 chiếm 6,47% tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu, năm 2000 chiếm 8,7%, năm 2001 chiếm 8,67% và năm 2002 con
số này là 5,45% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Ngoài ra, phải kể đế mặt hàng tạp phẩm, là một mặt hàng chiếm tỷ trọng
đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Hàng tạp
phẩm của Công ty gồm hàng trăm vật dụng, đồ lưu niệm, hàng thêu ren, khăn
trải bàn, túi xách, các mặt hàng thuỷ tinh như lọ hoa, hàng Gương, Kính, Đồ
nội thất gia đình,…năm 1999 hàng tạp phẩm chiếm 8,56% tỷ trọng, năm 2000
chiếm 9,75%, năm 2001 chiếm 5,2% và năm 2002 chiếm 6,67%. Có sự sụt
giảm trong năm 2001 là do tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu tập trung vào một
số mặt hàng chủ đạo như hàng thủ công mỹ nghệ, hàng Đồ chơi, hàng Gốm
Sứ, Gỗ mỹ nghệ và Sắt mỹ nghệ. Nhưng trong năm 2002 thì loại hàng này lại
giữ được tỷ trọng trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Hàng Mây tre chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu, sản phẩm chủ yếu là những giỏ quà lưu niệm, trong 4 năm trở lại
đây, tỷ trọng của mặt hàng này chỉ chiếm tỷ trọng khoảng từ 5 đến 7%. Như
vậy, Công ty cần đa dạng hoá hơn nữa cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nhất là cần
tăng tỷ trọng hàng mây tre vì giá nguyên liệu rẻ, nguồn tài nguyên dồi dào rất
thuận lợi cho sản xuất, cần nghiên cứu thêm nhu cầu để không làm mất thị
trường đầu ra cho loại hàng này.
2.2. Quy mô thị trường xuất khẩu
Quy mô thị trường xuất khẩu thể hiện ở số lượng thị trường mà hàng thủ
công mỹ nghệ của Công ty đã tiêu thụ được. Hiện nay, hàng thủ công mỹ
nghệ của Công ty đã có mặt trên 4 châu lục với trên 25 quốc gia trên thế giới,
mặc dù sản phẩm xuất khẩu của Công ty còn phân bố không đồng đều, mới
chỉ tập trung vào một số thị trường trọng điểm như Nhật Bản, EU, Mỹ.
Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên một số thị
trường chính
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Thị trường Trị giá Tỷ
trọng (%)
Trị giá Tỷ
trọng (%)
Trị giá
trọng (%)
Nhật Bản
Nga
Pháp
Đức
Anh
Thuỵ Điển
Đan Mạch
Brazil
Italya
Hàn Quốc
Đài Loan
Thổ Nhĩ Kỳ
Chi Lê
Du bai
Malaysia
Singapore
Philippin
Mỹ
Canada
Colombia
Achentina
Arập
4013,89
2071,4
950,3
1286,5
672,94
514,6
205,84
1702,14
150,42
672,94
494,81
203,86
0
633,36
0
279,07
116,78
1900,07
1108,37
354,28
405,74
2002,99
20,28
10,46
4,8
6,5
3,4
2,6
1,04
8,6
0,76
3,4
2,5
1,03
0
3,2
0
1,41
0,59
9,6
5,6
1,79
2,05
10,12
10763,96
5733,94
4237,24
5262,38
2050,29
2597,02
1407,86
6130,33
1052,48
2063,95
1845,25
1414,69
382,72
1845,25
874,78
2323,65
1380,52
6424,2
2262,14
956,87
785,94
6547,22
15,75
8,39
6,2
7,7
3,0
3,8
2,06
8,97
1,54
3,02
2,7
2,07
0,56
2,7
1,28
3,4
2,02
9,4
3,31
1,4
1,15
9,58
17586,47
8201,2
7182,11
6988
2814,6
2960,2
1950,82
7628,57
1514,07
2882,55
2057,58
1640,24
1164,67
2183,75
1087,02
2426,39
3028,13
9812,32
3202,83
1649,95
0
9113,52
Tổng 19792,37 100 68342,6 100 97055,6
( Nguồn : Phòng Kinh doanh - Xuất nhập khẩu )
Qua bảng trên ta thấy được quy mô thị trường xuất khẩu chủ yếu của
Công ty. Hiện nay, sản phẩm của Công ty đã có mặt trên 4 châu lục, với giá trị
kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, quy mô thị
trường ngày càng mở rộng, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu không ngừng lớn
mạnh.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty vẫn tập trung vào một số thị
trường trọng điểm như Nhật Bản, Nga, Mỹ và EU, thị trường Nhật Bản luôn
dẫn đầu về tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu với 20,28% tỷ trọng năm 2000,
15,75% năm 2001, 18,12% năm 2002 và một con số kỷ lục 21,12% năm 2003.
Từ đó ta có thể thấy thị trường Nhật Bản có ý nghĩa quan trọng như thế nào
trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương
Mại-Xây Dựng Bạch Đằng nói riêng cũng như sản phẩm thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam nói chung. Là một thị trường năng động nhất Châu Á cũng như
của thế giới, Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu lớn của nhiều chủng loại
hàng hoá của ta. Tiếp sau Nhật Bản là thị trường Nga là một thị trường cũng
khá quan trọng với 10,46% tỷ trọng năm 2000, 8,39% năm 2001, 8,45% tỷ
trọng năm 2002 và lại tăng lên 10,82% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm
2003. Đó là do sự nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong quá trình
thúc đẩy xuất khẩu cộng với yếu tố khách quan là do kinh tế Nga phục hồi trở
lại sau nhiều năm suy thoái, hơn nữa Nga là thị trường có số lượng kiều bào
Việt Nam sinh sống nhiều nhất thế giới, nên chúng ta có điều kiện tốt để tiêu
thụ sản phẩm ở thị trường này, dễ bắt kịp thị hiếu của khách hàng hơn và có
điều kiện nghiên cứu, thăm dò thị trường tốt hơn. Mặc dù đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ trên nhưng chúng ta vẫn chưa khai thác hết tiềm năng
sẵn có của khu vực thị trường này, vẫn để mất không nhiều đơn đặt hàng lớn
và bị hàng của Trung Quốc, Thái Lan giành mất thị trường. Trong thời gian
tới, Công ty cần có kế hoạch đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại, quan tâm
đúng mức tới khu vực thị trường này tương xứng với tiềm năng sẵn có của nó.
Thị trường EU là một mảnh đất màu mỡ cho rất nhiều chủng loại hàng
hoá xuất khẩu của Việt Nam và hàng thủ công mỹ nghệ nằm trong số đó, các
thị trường tiêu thụ sản phẩm mạnh là Đức, Pháp, Anh. Đây là những thị
trường mà Công ty đã có quan hệ từ lâu nên có lợi thế hơn trong khâu xúc tiến
thương mại và phân phối hàng hoá, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch
Đằng có trụ sở đặt tại các trung tâm kinh tế lớn như Paris, London, Berlin, và
các trung tâm này hoạt động khá hiệu quả, ngoài ra các thị trường khác như
Thuỵ Điển, Italya, Đan Mạch cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể. Ngày 1 tháng
5 năm 2004 vừa qua, EU đã chính thức kết nạp thêm 10 thành viên nữa vào
khu vực của mình, tiêu dùng đồng tiền chung Châu Âu. Với những chính sách
ưu đãi về hạn ngạch và hàng rào thuế quan, là một thị trường có mức thu nhập
bình quân đầu người cao gần nhất thế giới, trình độ thưởng thức văn hoá cũng
vào loại hàng đầu thế giới, EU là một thị trường đầy tiềm năng cho các chủng
loại hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Công ty.
Thị trường Mỹ là một trong những thị trường khó tính nhưng cũng chiếm
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu khá cao với 9,6% năm 2000, 9,4% tỷ trọng năm
2001 sau đó tăng lên 10,11% tỷ trọng năm 2002 và có xu hướng giảm vào
năm 2003 với 7,36% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Với hơn 250
triệu dân sinh sống với nhiều chủng loại sắc tộc khác nhau, trong đó kiều bào
của ta khá lớn, thị trường Mỹ luôn là một trong những mảnh đất phì nhiêu
của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Tuy nhiên, một vấn đề đáng quan tâm là
hàng rào thuế quan của thị trường này khá chắc, chúng ta đã nhận được khá
nhiều bài học từ việc xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này như xuất khẩu
thuỷ sản, hàng dệt may, với nhiều vụ kiện bán phá giá vu khống của Bộ
Thương Mại Mỹ, chúng ta đã bị khu vực thị trường này làm cho điêu đứng
vẫn biết rằng không phải lỗi của ta. Vì vậy, sống trên mảnh đất màu mỡ
nhưng cũng đầy chông gai này, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng
cần phải rất cảnh giác đề phòng để có thể đối đầu với nhiều mánh khoé của
khu vực thị trường này.
Thị trường Nga là một trong những thị trường truyền thống của nhiều
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm qua, tỷ trọng hàng thủ
công mỹ nghệ của Công ty xuất khẩu vào thị trường này vẫn chiếm một khối
lượng đáng kể với kim ngạch ổn định. Từ khi Liên bang Xô Viết tan rã năm
1991, kinh tế Nga rơi vào tình trạng suy thoái trong một thời gian khá dài, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ ngoại thương giữa 2 nước, xuất khẩu
vào thị trường này giảm sút trong một thời gian khá dài, chúng ta bị hàng của
nước láng giềng Trung Quốc và Thái Lan cạnh tranh gay gắt do họ có những
điều kiện về hải quan hơn ta, hàng của họ có mẫu mã, chủng loại phong phú,
khiến cho chúng ta bị mất khá nhiều đơn đặt hàng và nhiều mảng thị trường
con. Mặc dù vậy, sản phẩm thủ công mỹ nghệ vẫn duy trì được tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu vào thị trường này cho dù có những thời kỳ rơi vào tình trạng
suy giảm nghiêm trọng, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế Nga, mức sống
của người dân được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng tăng lên trong mấy năm trở
lại đây, khối lượng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu vào thị trường này cũng
dần đi vào quỹ đạo, tăng trưởng ổn định. Nhưng tiềm năng của khu vực thị
trường này vẫn là rất lớn và Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng cũng
như các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta cần quan tâm nhiều hơn nữa đến
khu vực thị trường này, cố gắng khai thác hết mọi khả năng có thể tránh lãng
phí, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh.
Bên cạnh thị trường Nga là cộng đồng các quốc gia độc lập SNG, đây là
một mảng thị trường tương đối hấp dẫn vì chúng ta có quan hệ làm ăn từ
trước với họ nên dễ dàng thâm nhập và triển khai hiệu quả hơn, kinh doanh
trên mảng thị trường này chúng ta gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các
nước xuất khẩu khác như Trung Quốc, Malaysia,…nhưng với những lợi thế
về chất lượng sản phẩm tương đối bền, mối quan hệ làm ăn lâu dài từ trước
nên sản phẩm của ta vẫn xuất khẩu vào thị trường này một tỷ trọng đáng kể,
mặc dù vậy nó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của Công ty.
Một số thị trường chúng ta mới thực hiện triển khai như thị trường
Malaysia, mới có kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm trở lại đây, là một tín hiệu
đáng mừng vì chúng ta có thể cạnh tranh được với sản phẩm của chính nước
sở tại, tiêu thụ được ở thị trường này cho dù tỷ trọng xuất khẩu còn thấp.
Nhưng chúng ta cần cố gắng hơn nữa vì mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn
tiếp theo để có thể chiến thắng trong cạnh tranh trong tiến trình hội nhập
AFTA.
Bên cạnh những thành công đạt được, Công ty cũng gặp phải những khó
khăn nhất định, làm mất không thị phần tại thị trường Achentina, do kinh tế
nước này suy thoái nên kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
Công ty cũng như nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng rơi vào tình
trạng tương tự. Đó là một trong những khó khăn của Công ty mà Công ty cần
có chiến lược chuyển hướng thị trường, giữ vững được tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu.
Ngoài các thị trường xuất khẩu chính của Công ty như kể trên, là các thị
trường nhỏ lẻ, chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ ở các khu vực Châu Mỹ. Những
thị trường này góp phần làm phong phú thêm quy mô thị trường xuất khẩu của
Công ty, cần quan tâm nhiều hơn đến khu vực thị trường này để tăng dần tỷ
trọng xuất khẩu, không phải phụ thuộc quá nhiều vào một số thị trường lớn,
tránh rơi vào tình trạng rủi ro trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
2.3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau, một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường khi nó
có tốc độ tiêu thụ nhanh hơn các sản phẩm cùng loại khác.
Là một doanh nghiệp sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, với đặc trưng của
sản phẩm là không qua nhiều quy trình công nghệ phức tạp mà chủ yếu là hao
phí sức lao động trực tiếp. Nên sản phẩm của Công ty có nhiều lợi thế hơn so
với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và thế giới. Nó được thể
hiện thông qua giá, chất lượng nguyên vật liệu, kỹ xảo trong hoa văn, và được
thể hiện ở thương hiệu của sản phẩm.
Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào, với hơn 50% dân số là
trong độ tuổi lao động, thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với các
nước trong khu vực, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tiền
công lao động còn rẻ. Hơn nữa, là một doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công
mỹ nghệ, nên Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng càng có lợi thế
trong việc tận dụng nguồn lực lao động này, với tính chất của sản phẩm là hao
phí lao động trực tiếp, lao động thủ công là chính nên Công ty đã tận dụng
được đội ngũ lao động thủ công từ nông thôn ra là chính, số lượng lao động
này phần lớn được đào tạo tại Công ty trong quá trình thử việc và học nghề.
Nếu làm việc tốt, và có kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn cao, Công ty sẽ tiếp
tục bồi dưỡng và đào tạo chuyên sâu. Trong những tháng thử việc này, tiền
lương của công nhân chỉ là lương thử việc, nên Công ty tiết kiệm được chi phí
mà vẫn có sản phẩm để tiêu thụ. Đó là một trong những lý do khiến cho sản
phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng có
giá rẻ hơn so với sản phẩm của các doanh nghiệp khác trong nước cũng như
trong khu vực.
Ngoài lợi thế về giá rẻ, sản phẩm của Công ty còn có chất lượng nguyên
liệu bảo đảm, Công ty có liên kết với các nhà cung cấp truyền thống, cung cấp
đủ lượng nguyên vật liệu cho Công ty đúng tiến độ và đúng chất lượng, phù
hợp với yêu cầu về chất lượng của khách hàng. Với nhiều chủng loại hàng hoá
tham gia xuất khẩu trong đó chủ yếu là hàng mỹ nghệ, cộng với mặt hàng gỗ
trang trí nội thất, đều là những sản phẩm được gia công chế biến từ nguyên
liệu tự nhiên, nên Công ty cũng có được lợi thế về giá nguyên liệu rẻ vì nước
ta là nước có tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Đó là lý do khiến cho sức cạnh
tranh của sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty mạnh hơn trong quá trình
xuất khẩu.
Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp trực
thuộc Bộ Giao Thông Vận tải, nên cũng có nhiều lợi thế hơn khi tham gia thị
trường xuất khẩu. Với sự trợ giúp từ phía các Bộ, ngành nhất là Bộ Thương
mại đã có chính sách trợ giúp về nhiều mặt, về tài chính, về thuế quan và đặc
biệt là về thủ tục hải quan khiến cho sản phẩm của Công ty có nhiều lợi thế
cạnh tranh hơn so với sản phẩm của các nước khác.
Ngoài ra, sức cạnh tranh của sản phẩm còn được thể hiện ở thương hiệu
của sản phẩm, đây là một trong những tồn tại của Công ty vì sản phẩm của
Công ty còn chưa được nhiều khách hàng biết đến. Công ty vẫn phải sử dụng
thương hiệu của nước ngoài để thâm nhập thị trường mới. Để tiêu thụ được
hàng có khi Công ty phải sử dụng thương hiệu của nhà phân phối mới có thể
tiếp cận được thị trường mới và tiêu thụ được sản phẩm một cách dễ dàng.
Đó cũng là khó khăn của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng nói
riêng và sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói chung khi tham gia thị trường
xuất khẩu. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, thương hiệu là một trong những vấn
đề quan trọng có tính chất quyết định đối với sự tồn tại và diệt vong của sản
phẩm. Vì vậy, nếu như trong thời gian tới, nếu như Công ty không có kế
hoạch cụ thể cho việc quảng bá thương hiệu của mình thì có thể sẽ là một
thách thức to lớn đối với quá trình xuất khẩu sản phẩm trong tiến trình hội
nhập kinh tế toàn cầu.
Nhìn chung, so với sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong nước và thế giới,
sản phẩm của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng còn có nhiều vấn
đề cần phải giải quyết nếu như Công ty muốn cạnh tranh được với sản phẩm
của Trung Quốc, Thái Lan,…và sản phẩm của các nước trong khu vực như
Indonêxia, Malaysia. Trong thời gian tới Công ty cần tăng cường sức cạnh
tranh của sản phẩm hơn nữa nếu như muốn chiến thắng trong cạnh tranh, giữ
vững được thị trường xuất khẩu.
3. Chiến lược thúc đẩy xuất khẩu của Công ty
3.1. Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường nước ngoài
Nhận biết được tầm quan trọng của hoạt động mở rộng thị trường ngoài
nước, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã phải tự mình tìm hiểu
đối tác, tạo lập nguồn hàng, tìm kiếm hợp đồng, lựa chọn sản phẩm phù hợp
với thị hiếu của khách hàng. Tóm lại là từ khâu ký kết hợp đồng đến kết thúc
hợp đồng xuất khẩu đều do các phòng ban trong Công ty có nhiệm vụ thực
hiện. Vì vậy, Công ty có thành lập một bộ phận nghiên cứu và dự báo thị
trường riêng biệt để thực hiện chức năng chuyên môn hoá của mình, đó là
mảng thị trường của phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu. Họ thường xuyên cập
nhật thông tin về thị trường xuất khẩu qua đài, báo. mạng Internet, qua các đại
lý, chi nhánh của Công ty trong và ngoài nước, hoặc qua những khách hàng
quen thuộc, các tổ chức của Nhà nước như Sở Thương mại, Phòng xúc tiến
thương mại…Công ty thường xuyên cử các phái đoàn ra nước ngoài để thâm
nhập , tìm hiểu thị trường và tạo lập mối quan hệ làm ăn với khách hàng. Mặc
dù công tác này rất tốn kém nhưng cho phép Công ty đảm bảo thông tin về thị
trường một cách cụ thể và xác thực.
Trên cơ sở đó, Công ty tiến hành sàng lọc, phân tích thông tin, đưa ra
những đánh giá và nhu cầu hiện tại của thị trường. Từ đó, ban lãnh đạo và
Phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty có kế hoạch lập các phương
án kinh doanh về số lượng, chất lượng và chủng loại mặt hàng cho xuất khẩu.
Dựa trên việc xác định nhu cầu hiện tại kết hợp với công tác dự báo thị
trường ( dự báo sức mua, biến động của thị trường…) giúp xây dựng tốt mối
quan hệ với khách hàng nước ngoài và các nguồn cung ứng nguyên liệu trong
nước, duy trì hoạt động kinh doanh lâu dài của Công ty. Kết quả kinh doanh
hiện tại kết hợp với dự báo về nhu cầu, thị trường xuất khẩu trong tương lai
chính là căn cứ để Công ty đề ra các chỉ tiêu kế hoạch năm cho các phòng
ban, và các phân xưởng sản xuất.
3.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại
Thị trường là một trong những mắt xích quan trọng để giành thắng lợi
trong cạnh tranh. Vì vậy công tác xúc tiến thương mại là một sự đầu tư có
chọn lọc để Công ty đánh bại đối thủ trên các mặt trận trong và ngoài nước.
Công ty rất coi trọng việc quảng cáo và chào bán hàng hoá, tìm kiếm khách
hàng mới. Cụ thể như Công ty đã thành lập phòng trưng bày hàng mẫu ở các
khu đô thị sầm uất như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ,
Vũng Tàu, Buôn Mê Thuột. Tại các showrow, Công ty thiết kế trang trí sản
phẩm rất khoa học và đẹp mắt, không gian hài hoà thu hút sự chú ý của khách
tham quan, đặc biệt là du khách nước ngoài. Bên cạnh đó, Công ty còn cử
những nhân viên có ngoại hình giao tiếp tốt, thông thạo ngoại ngữ để tiếp xúc
và giới thiệu sản phẩm trực tiếp cho du khách. Đó là hình thức quảng bá sản
phẩm của Công ty tới những thị trường tiềm năng mà Công ty chưa vươn tới
được.
Hàng năm, Công ty còn tổ chức các đoàn cán bộ ra nước ngoài để thâm
nhập và tìm kiếm thị trường, tham gia các Hội chợ trong và ngoài nước, để
quảng bá sản phẩm, tìm kiếm bạn hàng, duy trì các thị trường truyền thống,
mở rộng thêm các thị trường mới, gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng,
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau để tạo một mạng lưới tiêu thụ hàng hoá ổn
định. Trong năm 2003, Công ty đã tổ chức 12 phái đoàn đi khảo sát thị trường
ngoài nước, tham gia các Hội chợ lớn tại Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Hồng Kông, Ai
Cập, Singapore, Philippin, tận dụng tối đa các cuộc tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng ở nhiều nước khác nhau.
Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài đầy tiềm năng, ngoài việc tham
gia các gian hàng tại các Hội chợ quốc tế Công ty không bỏ qua một cơ hội
nào để tiếp cận nguồn đơn đặt hàng, luôn có mặt tại các gian hàng triển lãm,
các Hội chợ tiêu dùng trong nước và quốc tế do Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) hay Bộ Thương mại kết hợp với các tổ chức nước
ngoài thực hiện như triển lãm hàng tiêu dùng Nhật Bản của JETRO năm 2000.
Ngoài ra, Công ty còn quảng cáo sản phẩm của mình qua báo chí, ấn
phẩm, qua mạng Internet.
3.3. Chính sách Marketing
Marketing là mộ
3.4. Chính sách sản phẩm
Công ty chủ chương đa dạng hoá sản phẩm. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ
của công ty có hàng trăm chủng loạị, với nhiều mẫu mã kiểu dáng, màu sắc
phong phú, tạo điều kiện cho khách hàng có thể lựa chọn sản phẩm ưng ý
nhất. Công ty đă quan tâm điều chỉnh cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu
thị trường và thị hiếu của ngường tiêu dùng. Khi phát hiện ra một xu hướng
tiêu dùng đã hình thành trên thị trường hăy lắm bắt được xu hướng tiêu dùng
hiện tại, công ty không ngần ngại tung ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu, giá
cả và chất lượng .
Với chính sách sản phẩm như vậy, Công ty đã và đang tăng dần kim
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, nâng cao dần sức cạnh tranh của sản
phẩm, thu hút ngày một nhiêu hơn đơn đặt hàng từ các nhà phân phối trong và
ngoài nước, từ đó tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất khẩu.
3.5. Chính sách giá cả
Mục tiêu của Công ty là lợi nhuận ngày một tăng, mà lợi nhuận luôn luôn
tỷ lệ thuận với lượng hàng bán ra. Để duy trì và phát triển được tốc độ tiêu thụ
sản phẩm, ngoài việc sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu, Công
ty còn thực hiện chính sách giá cả hợp lý, có chế độ đãi ngộ phù hợp với
khách hàng mua với khối lượng lớn, hay những nhà phân phối truyền thống
của mình
Công ty thực hiện phân biệt đối tượng thị trường và đối tượng khách
hàng để có chính sách giá cả phù hợp. Giá cả phải được xây dựng trên cơ sở
giá thành sản xuất, giá thành sản xuất phải làm sao thấp đến mức có thể nhất
định để giá cả giảm tương đối so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường,
Công ty phải lấy giá cả là một trong những nhân tố quan trọng để cạnh tranh
với sản phẩm khác. Giá cả được so sánh với giá của các sản phẩm cùng loại
trên thị trường để đảm bảo giá bán không đi chệch xu hướng của thị trường.
Với chính sách giá cả như trên, Công ty đã làm hài lòng nhiều đối tượng
khách hàng cả truyền thống lẫn khách hàng tiềm năng. Trong thời gian tới
Công ty cần phát huy lợi thế của mình trên thị trường.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ CỦA CÔNG TY
1.Những ưu điểm trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của Công ty
Trong những năm qua, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng luôn
luôn đạt được những thành tích đáng mừng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, sản
phẩm của Công ty đã có mặt ở trên 25 nước, và là một trong những doanh
nghiệp dẫn đầu về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ luôn đạt từ 27-30%/ năm, trong đó,
các mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao là gốm sứ, sắt mỹ nghệ. Còn các thị
trường có tốc độ tăng trưởng cao là Tây Âu, Nhật Bản và Châu Mỹ. Thị
trường Nga và các nước SNG còn chưa được Công ty đầu tư đúng so với tiềm
năng vốn có của nó. Trong thời gian qua có được những thành tích đáng khích
lệ đối với tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty như vậy là do sự nỗ lực
vượt bậc của toàn Công ty, với tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật và khả
năng sáng tạo của đội ngũ thiết kế mẫu hàng, sự không ngừng học hỏi của cán
bộ công nhân viên trong Công ty, luôn trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp, nâng cao trình độ, nắm bắt thị trường, điều chỉnh cơ cấu mặt hàng cho
phù hợp với sự thay đổi của thị trường từng bước nâng cao hiệu quả kinh
doanh của Công ty.
1.1.Xây dựng kế hoạch xuất khẩu
Công ty dựa trên việc xác định nhu cầu hiện tại kết hợp công tác dự báo
thị trường để xây dựng kế hoạch kinh doanh. Trong thời gian qua, Công ty đã
xây dựng tốt các mối quan hệ với khách hàng trong và ngoài nước, thực hiện
tốt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra cho các phòng ban và cho toàn Công ty.
Kế hoạch xuất khẩu được xây dựng từ khâu nghiên cứu và dự báo thị
trường nước ngoài. Đó là quá trình thu thập, xử lý và phân tích số liệu về thị
trường một cách hệ thống làm cơ sở cho các quyết định quản trị. Một mặt,
mục tiêu cuả nghiên cứu thị trường là xác định thực trạng của thị trường theo
các tiêu thức có thể lượng hoá được. Mặt khác, phải giải thích các ý kiến về
cầu sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cũng như lý do người tiêu dùng mua
hay không mua sản phẩm. Đó là nhiệm vụ của phòng Kinh doanh-Xuất nhập
khẩu trong việc tìm hiểu đối tác, tạo lập nguồn hàng, tìm kiếm hợp đồng và
tiêu thụ sản phẩm.
Kế hoạch xuất khẩu được xây dựng trên cơ sở những thông tin thu thập
được về thị trường nước ngoài, mảng thị trường tiến hàng sàng lọc, phân tích
thông tin, đưa ra những đánh giá về nhu cầu hiện tại, đồng thời giải thích các
phản ứng của đối thủ trước những chính sách mới của doanh nghiệp, tìm ra
các khả năng có thể ảnh hưởng tới cầu như giá cả sản phẩm, thu nhập của
người tiêu dùng, các biện pháp quảng cáo,…từ đó lập kế hoạch kinh doanh cụ
thể.
1.2.Phương pháp xây dựng kế hoạch
Xuất khẩu là một trong những nội dung của chiến lược tiêu thụ sản phẩm
mà tiêu thụ sản phẩm là một trong 6 chức năng hoạt động cơ bản của doanh
nghiệp. Chất lượng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm quyết định hiệu quả của
hoạt động sản xuất hoặc chuẩn bị dịch vụ
Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng giao nhiệm vụ thực hiện kế
hoạch xuất khẩu cho Phòng Kinh doanh - Xuất nhập khẩu. Họ có bộ phận
nghiên cứu thị trường xuất khẩu riêng, bộ phận này thường xuyên cập nhật
thông tin về thị trường xuất khẩu qua mạng Internet, qua đài, báo, qua các đại
lý, qua thông tấn xã Việt Nam, chi nhánh và văn phòng đại diện ở nước ngoài.
Không những thế phòng ban này còn nghiên cứu thị trường trong nước, tìm
hiểu các đối thủ cạnh tranh ngay tại sân nhà để có kế hoạch sản xuất cho phù
hợp với mức cầu trong và ngoài nước. Chiến lược xuất khẩu được xây dựng
cho từng năm, mỗi năm lại được phân ra từng quý và cứ 6 tháng Công ty lại
tổng kết doanh thu từ xuất khẩu. Trong thời gian ngắn như vậy, cho phép
Công ty có thể có những điều chỉnh phù hợp với năng lực sản xuất và có biện
pháp thúc đẩy xuất khẩu, khắc phục những hạn chế, tăng lợi nhuận phấn đấu
đạt mục tiêu đề ra cho toàn Công ty.
1.3.Tổ chức thực hiện kế hoạch
Công ty đã mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tổ chức nhiều đợt khảo sát
thị trường nước ngoài, cắt cử những cán bộ nhiệt tình, có năng lực đi về các
làng nghề tìm nguồn hàng cho xuất khẩu, khảo sát thị trường để tìm những
sản phẩm mới, mẫu mã mới làm phong phú thêm danh sách các sản phẩm
tham gia xuất khẩu của Công ty. Từ lãnh đạo cho đến các phòng ban đều thiết
lập mối quan hệ tốt đẹp với các cơ quan thương vụ phục vụ cho công tác tiêu
thụ sản phẩm nói riêng và công tác thúc đẩy xuất khẩu nói chung.
Công ty còn tích cực tham gia gửi mẫu hàng đi các Hội trợ, triển lãm
nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm trên nhiều thị trường truyền thống cũng
như thị trường tiềm năng, qua các kênh xúc tiến thương mại do Nhà nước,
phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các tổ chức quốc tế tổ chức.
Công ty đã giữ vững được nhiều thị trường truyền thống như Nhật Bản,
Anh, Pháp, Mỹ,…thâm nhập được một số thị trường mới như Chi Lê,
Mêhicô,…nâng tổng số thị trường xuất khẩu của Công ty lên trên 25 nước,
tăng 4,3 lần so với năm 1999
1.4.Chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, ngoài việc củng cố các thị trường
truyền thống, Công ty không ngừng mở rộng và phát triển thêm các thị trường
mới bằng nhiều phương thức khác nhau. Cụ thể, Công ty đã thành lập phòng
Nghiên cứu và phát triển thị trường có trụ sở tại Hà Nội và phòng Đối ngoại ở
trong Nam để có thể nghiên cứu và khảo sát thị trường một cách sát sao hơn,
cho phép doanh nghiệp dự báo được nhu cầu tương lai, đồng thời có thể
nghiên cứu sự thay đổi chu kỳ sống của sản phẩm đáp ứng nhu cầu phục vụ
cho công tác tiêu thụ sản phẩm nói chung và công tác thúc đẩy xuất khẩu nói
riêng.
Trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập được về thị trường nước
ngoài, Công ty tiến hành phân tích thông tin và đánh giá nhu cầu hiện tại lấy
đó làm căn cứ cho việc lập kế hoạch kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo, xác
định xem tiếp tục sản xuất mặt hàng nào, mẫu mã nào cần phải cải tiến, kiểu
dáng hàng hoá nào đang được người tiêu dùng ưu chuộng và kiểu nào có chu
kỳ sống trong giai đoạn suy thoái. Đó là những căn cứ cho việc lập kế hoạch
sản xuất kinh doanh trong giai đoạn sau đó mà Công ty đã thực hiện rất tích
cực trong thời gian qua.
Hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường ngoài nước đã được
Công ty thực hiện khá tốt. Công ty rất coi trọng việc quảng cáo để chào bán
hàng hoá, tìm kiếm khách hàng mới, thành lập phòng trưng bày tại các khu
đô thị sầm uất như Hà Nội, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng
Nai,…Tại các showroom, Công ty thực hiện khá tốt về không gian trang trí
nội thất, sáng tạo để thu hút sự chú ý của khách nước ngoài, cử những nhân
viên có chuyên môn về thiết kế sản phẩm, thông thạo ngoại ngữ, có khả năng
giao tiếp tốt làm công tác marketing và giới thiệu sản phẩm.
Thực hiện chính sách sản phẩm đa dạng hoá và thích nghi hoá sản phẩm,
ngoài việc tự sản xuất ra sản phẩm, Công ty còn thực hiện việc thu gom những
mặt hàng mà Công ty không tự sản xuất được khi có đơn đặt hàng từ phía đối
tác. Đến nay, Công ty đã xây dựng được hệ thống chân hàng ổn định, tạo thêm
rất nhiều kiểu dáng mới về mặt hàng thủ công mỹ nghệ với nguyên liệu làm
bằng đất sét và làm bằng gốm, thêm vào đó là mặt hàng làm bằng mây tre,
chiếu, có quan hệ với rất nhiều nhà cung cấp, tự tổ chức công việc thu mua
những sản phẩm mây được người nông dân ở khu vực lân cận sơ chế như
Hưng Yên, Bắc Ninh,…Bên cạnh đó, Công ty còn xây dựng và phát triển
thêm các cơ sở chân hàng mới trên nhiều tỉnh trong cả nước để phục vụ tốt
công tác xuất khẩu.
Với chính sách giá cả hợp lý, Công ty có chính sách ưu đãi với những
khách hàng truyền thống để giữ vững được mối quan hệ làm ăn lâu dài này.
Trong việc thực hiện chính sách sản phẩm, chủ trương đa dạng hoá và thích
nghi hoá sản phẩm cũng được Công ty thực hiện khá tốt cùng với công tác xúc
tiến thương mại, khai thác thêm được một số thị trường mới như Chi Lê,
Indonexia,…tiếp tục quay trở lại khai thác thị trường Nga và các nước SNG,
là một thị trường với hơn 300 triệu dân với một lượng cầu khá lớn mà ta đã
không chú ý đúng mức, làm cho hàng hoá của Trung Quốc, Thái Lan tràn lan,
cạnh tranh quyết liệt với hàng hoá của Việt Nam trong mấy năm gần đây.
Hiện nay, thị trường này đang được Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch
Đằng cũng như các doanh nghiệp nước ta rất quan tâm.
Mặc dù đã đạt được một số thành công nhất định trong việc thúc đẩy
xuất khẩu, Công ty vẫn chưa đạt được một số chỉ tiêu để ra. Với áp lực cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, Công ty phải cố gắng, nỗ lực hơn nữa, tích cực
hơn trong công tác nghiên cứu và mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu
bằng nhiều hình thức trực tiếp cũng như gián tiếp, phấn đấu đạt mục tiêu kế
hoạch trong thời gian trong giai đoạn tiếp theo,
2.Những tồn tại trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Dù đã có mặt trên 25 thị trường trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu tăng
dần qua các năm, nhưng Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng vẫn còn
nhiều vấn đề tồn tại trong công tác thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ, cụ thể như:
2.1.Chỉ tập trung vào một số thị trường trọng điểm
Hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty đã có mặt trên 25 nước trên thế
giới, nhưng trên thực tế, kim ngạch xuất khẩu chỉ tập trung vào một số thị
trường trọng điểm như Nhật Bản, Tây Âu còn các khu vực thị trường khác chỉ
chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Như vậy công tác
thúc đẩy xuất khẩu còn chưa đồng đều giữa các khu vực. Như vậy, Công ty
còn chưa quan tâm đúng mức đến từng khu vực thị trường, bỏ qua nhiều thị
trường có mức cầu khá cao như thị trường Nga và các nước SNG, để hàng thủ
công mỹ nghệ của Trung Quốc và Thái Lan cũng như của các nước xuất khẩu
khác thâm nhập và chiếm lĩnh những mảnh đất màu mỡ này.
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu không đều ở các thị trường, chỉ có một
số thị trường truyền thống như Nhật Bản hay Tây Âu như Đức, Pháp là có tốc
độ tăng tương đối đều qua các năm, để hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh
giành mất một số thị trường như Nga, Đài Loan, Hàn Quốc,…đây là những thị
trường lớn mà trước đó Công ty đã có tỷ trọng khá lớn mà hiện nay ta đã bị
hàng hoá của Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonexia cạnh tranh quyết
liệt.
Những thị trường có nhu cầu lớn, nhưng do khoảng cách địa lý quá xa,
chi phí vận chuyển lớn, lại gặp phải hàng rào thuế quan của nước nhập khẩu
nên chúng ta vẫn xuất khẩu một khối lượng hạn chế vào các thị trường này
chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có như Mỹ, Canada, Mehicô,…
2.2.Về sản phẩm
- Chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực, chưa có sự đa dạng hoá phù
hợp, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là mặt hàng thủ công mỹ nghệ, thêm
một số mặt hàng trang trí nội thất, hàng đồ chơi và sắt mỹ nghệ, hàng mây tre
vẫn chưa thực sự được chú trọng đúng mức so với tiềm năng của khu vực thị
trường chưa tận dụng được hết nguồn tài nguyên thiên nhiên này, hàng Gốm
Sứ cũng chưa được phát huy hết sức mạnh vốn có của nó, tỷ trọng xuất khẩu
hàng này có xu hướng giảm dần một phần do tính chất khó vận chuyển của
nó.
- Thiếu những sản phẩm có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của những
đoạn thị trường yêu cầu cao về trình độ thẩm mỹ và chất lượng hàng hoá,
- Mẫu mã sản phẩm còn chưa phong phú, ít có sự điều chỉnh về kiểu
dáng phù hợp với thị hiếu, so với hàng thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc thì
mẫu mã của ta có sức cạnh tranh kém hơn nhiều, kiểu dáng còn chưa thực sự
thu hút sự chú ý của khách nước ngoài.
- Chưa đáp ứng được yêu cầu của các đơn đặt hàng lớn do quy mô chưa
được mở rộng, phải đi thu gom để thực hiện hợp đồng làm cho uy tín về chất
lượng sản phẩm của Công ty bị ảnh hưởng
2.3.Về giá cả
Giá thành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn cao so với sản phẩm của
đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia, làm giảm sức cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường nước ngoài. So với sản phẩm cùng loại của
các doanh nghiệp sản xuất trong nước thì sản phẩm của Công ty vẫn có giá
cao hơn ở một số chủng loại sản phẩm.
2.4.Về hoạt động xúc tiến thương mại
Hoạt động xúc tiến thương mại còn chưa được quan tâm đúng so với vị
trí của nó, Công ty tham gia hoạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng.pdf