Tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Thanh Hoá: 1
Luận văn
Thực trạng và giải pháp đầu
tư nhằm đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hoá ở Thanh Hoá
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PTS .Thái Bá Cẩn, "Định hướng đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt
Nam". Tạp chí Tài chính số 9/1999.
Hoàng Văn Chức, " Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay".
Tạp chí Quản lý nhà nước số 6/1998.
Trần Xuân Giá, "Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá và chính sách đầu tư
nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Tạp chí Kinh tế và
Dự báo số 10/1997.
Trần Xuân Gía, "Về điều chỉnh cơ cấu và đầu tư của các ngành trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế". Tạp chí Cộng sản số 8/1999
GS.TS. Ngô Đình Giao, "Xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế hiệu quả theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Tạp chí Ngân hàng số 12/1999.
GS.TS. Ngô Đình Giao, "Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả trong
nền kinh tế thị trường". Tạp chí Ngân hàng số ...
124 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 969 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Thanh Hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Thực trạng và giải pháp đầu
tư nhằm đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hoá ở Thanh Hoá
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PTS .Thái Bá Cẩn, "Định hướng đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt
Nam". Tạp chí Tài chính số 9/1999.
Hoàng Văn Chức, " Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay".
Tạp chí Quản lý nhà nước số 6/1998.
Trần Xuân Giá, "Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá và chính sách đầu tư
nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Tạp chí Kinh tế và
Dự báo số 10/1997.
Trần Xuân Gía, "Về điều chỉnh cơ cấu và đầu tư của các ngành trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế". Tạp chí Cộng sản số 8/1999
GS.TS. Ngô Đình Giao, "Xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế hiệu quả theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Tạp chí Ngân hàng số 12/1999.
GS.TS. Ngô Đình Giao, "Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả trong
nền kinh tế thị trường". Tạp chí Ngân hàng số 14/1999.
Lưu Thị Kim Hoa, "Một vài suy nghĩ về cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay".
Tạp chí Kinh tế và phát triển số 115/2000.
PTS. Mai Đức Lộc, "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn
miền trung theo hướng CNH,HĐH". Tạp chí Kinh tế và phát triển số 35/2000.
Nguyễn Đình Phan, "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình CNH,HĐH".
Tạp chí Ngiên cứu kinh tế số 247- 12/1998.
TS. Trịnh Huy Quách, "Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
trong những năm đổi mới". Tạp chí Ngân hàng số 3/1999.
Danh Sơn, "Đổi mới công nghệ phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế". Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 243- 8/1998.
TS. Nguyễn Thị Thơm, "Phát triển khoa học công nghệ giải pháp quan trọng
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta". Tạp chí Phát triển kinh tế số
121/2000.
GS.TS. Ngô Đình Giao, "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH
nền kinh tế quốc dân" tập 1, 2. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
3
TS. Nguyễn Thị Bạch Nguyệt, "Lập và quản lý dự án đầu tư". Đại học
KTQD, NXB Thống kê, Hà Nội, 2000.
Th.S Từ Quang Phương, "Kinh tế đầu tư". Đại học KTQD, NXB Giáo Dục,
1998.
Niên giám Thống kê 1990-1998, 1996-2000 Cục thống kê Thanh Hoá.
Quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế xã hội tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001-
2010, Thanh Hoá 7/2000.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng Sản Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
Văn kiện Hội nghị lần thứ VII, Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII, Hà
Nội, 1994.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Tỉnh uỷ Thanh Hoá,
1996
MỤC LỤC
Trang
4
Mở đầu
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐẦU TƯ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ VÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
1
1.1. Đầu tư, đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển. 1
1.2. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 8
1.3. Yêu cầu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 14
1.4. Định hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
15
1.5. Đầu tư đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 17
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở
THANH HOÁ.
28
2.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của Thanh Hoá
có ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
28
2.2. Tình hình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá. 35
2.3. Đánh giá chung tình hình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
Thanh Hoá thời gian qua.
65
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ CHỦ YẾU
NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO
HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở THANH HOÁ.
77
3.1. Quan điểm, mục tiêu và phương hướng đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá.
77
3.2. Nguồn vốn huy động và các bước thực hiện đầu tư 87
3.3. Những điều kiện đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thanh Hoá.
90
3.4. Một số giải pháp đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở Thanh Hoá.
93
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
5
KẾT LUẬN
Trên đây chỉ là một số nét tuy còn sơ lược nhưng rất cơ bản về nội dung lý
luận, cơ sở định hướng của vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực trạng và một số giải pháp mang tính đề xuất để
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Thanh Hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một nội dung quan trọng của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để thực hiện khoa học công nghệ
hiện đại, hội nhập quốc tế và bước vào nền kinh tế trí thức. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là một quá trình mang tính khách quan, nghĩa là tự nó cũng dần dần
chuyển dịch theo hướng tác động của các quy luật khách quan. Nhưng vai trò
của chủ thể là đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế xã hội.
Đó chính là quan điểm của đảng ta trong việc đề ra phương hướng mục tiêu cho
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá đã diễn ra khá
đồng bộ và tương đối toàn diện cả chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, chuyển
dịch cơ cấu thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu đầu tư và công nghệ...
Tuy nhiên tốc độ chuyển biến diễn ra chậm chạp, động thái chuyển dịch
chưa thể hiện rõ xu hướng tích cực, đặc biệt là sự chuyển dịch từ những
ngành kỹ thuật thấp, công nghệ lạc hậu sử dụng nhiều lao động tay chân
sang các ngành kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến, sử dụng nhiều lao động
chất xám còn rất mờ nhạt... nhưng cũng đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn vướng
mắc. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá cũng chính là quá
trình giải quyết các vướng mắc trên đây nhằm đạt được những mục tiêu xác
định. Trong quá trình chuyển dịch những vướng mắc này sẻ phải được giải
quyết dần. Việc giải quyết những mâu thuẫn này trở thành một trong
những thước đo tính hiệu quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
6
MỞ ĐẦU
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
một xu thế tất yếu đã và đang diễn ra ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam
hiện nay, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là một xu hướng, mà còn là một
yêu cầu nhằm vào các mục tiêu: tăng trưởng, tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng
tích luỹ vốn, công nghệ và sự phát triển con người. Trong bối cảnh hiện nay,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là quá trình tự nó diễn ra theo quy luật của
thị trường. Về phương diện tác động của nhà nước cần phải có sự định hướng về
mặt chính sách để thúc đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định mục tiêu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là " Xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an vững chắc... Từ nay đến 2020
ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp". Và
để thực hiện mục tiêu trên thì nhiệm vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu, là sự đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội ở
nước ta hiện nay.
Thanh Hoá là một tỉnh lớn, có điểm xuất phát về kinh tế thấp so với cả
nước, kinh tế kém phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và không vững
chắc, các tiềm năng, nguồn lực và lợi thế cho phát triển khai thác còn rất hạn
chế. Bởi vậy để thực hiện được mục tiêu đề ra thì việc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cấp
thiết hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn trên đây và yêu cầu của
phát triển kinh tế xã hội. Em đã chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp đầu tư
nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Thanh Hoá"
7
Mục tiêu của đề tài là nhằm góp phần làm sáng tỏ lý luận về đầu tư chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phân tích thực trạng, xu hướng phát triển và đứng trên góc
độ đầu tư đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá.
Kết cấu của đề tài gồm có 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận của đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế và yêu
cầu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Chương II: Tình hình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá.
- Chương III: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở Thanh
Hoá.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CUẢ ĐẦU TƯ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ
VÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ.
1.1- Đầu tư, đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển.
1.1.1- Khái niệm về đầu tư.
Trong những năm cuối thập kỷ 80, đầu những năm của thập kỷ 90, khái
niệm đầu tư đã trở nên thân quen đối với các nhà quản lý các cấp, đặc biệt là phát
triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
có sự quản lý của nhà nước ở nước ta, đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ ở
nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực đầu tư. Vậy đầu tư là gì ? Chúng ta có thể có
một số cách nghĩ khác nhau về đầu tư xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng
của các kết quả đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất
8
định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tụê.
Những kết quả tăng lên đó là các tài sản tài chính (vốn), tài sản trí tuệ (trình độ
văn hoá, chuyên môn khoa học kỹ thuật...). tài sản vật chất (đường, nhà máy, ...)
và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản
xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy
sinh các nguồn lực là các tài sản vật chất, tài sản trí tụê và nguồn nhân lực tăng
thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ
vốn mà đối với cả toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư
hưởng mà cả nền kinh tế xã hội được hưởng. Chẳng hạn một nhà máy được xây
dựng nên, tài sản vật chất của nhà đầu tư trực tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật
chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại hoạt động cho
nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoã mãn nhu cầu tiêu dùng (cho
sản xuất và cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách,
giải quyết việc làm cho người lao động ... trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của
người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa
vị trong xã hội) mà còn bổ sung cho nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có
thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trìng độ
công nghệ và kỹ thuật cuả nền sản xuất quốc gia.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hộ những kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn lực và trí
tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc
phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay thuộc phạm trù đầu tư phát triển.
Từ đây ta có định nghĩa về đầu tư phát triển như sau: Đầu tư phát triển là
hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính,nguồn lực vật chất, nguồn lực lao
động và trí tuệ để xây dựng, sữa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết
9
bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các
chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì
tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế
- xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
1.1.2- Những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình
đầu tư khác là:
- Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng
trong suốt quá trìng thực hiện đầu tư. đây là giá phải trả khá đắt của đầu tư phát
triển.
- Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các kết quả của
nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy
ra. đó có thể là sự biến động về thị trường cung cấp nguyên vật liệu, sự thay đổi
của các chính sách kinh tế vĩ mô nhà nước, sự tác động của các yếu tố tự nhiên...
- Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ
sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng
và do đó không tránh khỏi sự tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố
không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế...
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài,
nhiều năm, có khi hàng trăm năm, hàng ngàn năm... điều này nói lên giá trị lớn
lao của các thành quả đầu tư phát triển.
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng
sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa
hình tại đó sẽ có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng
sau này của các kết quả đó. Thí dụ: Quy mô đầu tư xây dựng nhà máy sàng tuyển
than ở khu vực có mỏ than tuỳ thuộc rất lớn vào trữ lượng than của mỏ. Nếu trữ
lượng than của mỏ ít thì quy mô của nhà máy sàng tuyển không nên lớn để đảm
bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà
máy theo dự kiến trong dự án. Đối với các nhà máy thuỷ điện công suất tuỳ
thuộc vào trữ lượng nước nơi xây dựng công trình. Sự cung cấp điện đều đặn
thường xuyên phụ thuộc nhiều vào tính chất ổn định của nguồn nước, không thể
10
di chuyển nhà máy thuỷ điện như di chuyển những chiếc máy tháo dời do nhà
máy sản xuất từ địa điểm này tới địa điểm khác. Việc xây dựng các nhà máy ở
nơi địa chất không ổn định sẽ không đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động
sau này, thậm chí cả trong quá trình xây dựng.
- Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng
nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không
gian.
- Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội
cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư.
1.1.3- Nguồn vốn và nội dung của vốn đầu tư.
a- Nguồn vốn đầu tư.
Vn đầu tư của đất nước nói chung được hình thành từ 2 nguồn cơ bản. đó
là vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài.
- Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau đây:
+ Vốn tích luỹ từ ngân sách nhà nước.
+ Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp.
+ Vốn tiết kiệm của dân cư.
- Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư
gián tiếp.
Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước
ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá
trình sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra.
Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ
chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại,
viện trợ có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời gian dài và lãi suất thấp, vốn viện
trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA).
Nguồn vốn đầu tư của các cơ sở:
- Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở hoạt động xã hội phúc
lợi công cộng vốn đầu tư do ngân sách cấp ( tích luỹ từ ngân sách và viện trợ qua
ngân sách) vốn được viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của
11
cơ sở (bản chất cũng tích luỹ từ phần tiền thừa do dân đóng góp không dùng
đến).
- Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ
nhiều nguồn hơn bao gồm vốn ngân sách (lấy từ phần tích luỹ của ngân sách)
vốn khấu hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp,
vốn liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nứơc, vốn phát hành trái
phiếu, và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của luật doanh nghiệp.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn đầu tư bao gồm
vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết với các tổ chức trong và
ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần, vốn đầu tư ngoài các nguồn vốn trên
đây còn bao gồm tiền thu được do phát hành trái phiếu (nếu có đủ điều kiện theo
quy định luật doanh nghiệp).
b- Nội dung của vốn đầu tư.
Nội dung của vốn đầu tư bao gồm các khoản chi phí gắn liền với nội dung
của hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư phát triển chính là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái
sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật và thực hiện các chi phí gắn liền với
sự hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tái sản xuất thông qua các
hình thức xây dựng nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy
móc trên nền bệ, tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản khác, thực hiện các
chi phí thường xuyên gắn liền với sự ra đời và hoạt động của ác cơ sở vật chất kỹ
thuật đó.
Xuất phát từ nội dung hoạt động của đầu tư phát triển trên đây, để tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu
quả kinh tế xã hội cao nhất, có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục
sau đây:
- Trên giác độ quản lý vĩ mô vốn đầu tư được chia thành 4 khoản mục lớn
sau.
(1) Những chi phí tạo ra tài sản cố định(mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn
cố định).
12
(2) Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn
lưu động) và các chi phí thường xuyên gắn với chu kỳ hoạt động củacác tài sản
cố định vừa được tạo ra.
(3) Những chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0,3-15% vốn đầu tư.
(4) Chi phí dự phòng.
- Trên giác độ quản lý vi mô ở các cơ sở, những khỏan mục trên đây lại
được tách thành các khoản chi tiết hơn.
(1)Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm:
+ Chi phí ban đầu và đất đai.
+ Chi phí xây dựng sữa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng.
+Chi phí mua sắm lắp đặt thiết bị máy móc,dụng cụ, mua sắm phương tiện
vận chuyển.
+ Chi phí khác.
(2) Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm:
+ Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí để mua nguyên vật
liệu, trả lương người lao động, chi phí về điện nước, nhiên liệu phụ tùng...
+ Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có chi phí sản phẩm dở dang
tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền...
(3) Chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi
phí nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi, chi phí thẩm định dự án...
(4) Chi phí dự phòng.
1.1.4- Vai trò của đầu tư phát triển.
Từ viêc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lý thuyết kinh tế, cả lý
thuyết kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát
triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
Vai trò này của đầu tư, trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước được thể
hiện ở các mặt sau đây:
1.1.4.1- Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu.
- Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm
13
khoảng 24-28% trong tổng cơ cấu tổng cầu của các nước trên thế giới. Đối với
tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự
tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng lên (đường D dịch chuyển sang D’)
kéo theo sản lượng cân bằng tăng lên từ Q0 đến Q1 và giá cả của các yếu tố đầu
vào cuẩ đầu tư tăng từ P0 đến P1 điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.
- Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực
đi vào hoạt động, thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường S
dịch chuyển sang S’) kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1 đến Q2 và do đó
giá cả các sản phẩm giảm từ P1 xuống P2. Sản lượng tăng, giá giảm cho phép
tăng tiêu dùng, tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất phát triển.
Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng
thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
P D’ S
P1 E1 S’
P2
P0 D E2
E0
Q0 Q1 Q2 Q
1.1.3.2- Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng câù
và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là
lớn hay nhỏ đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá
vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi đầu tư tăng lên, cầu của các yếu tố đầu tư tăng lên làm cho
giá các hàng hoá có liên quan tăng (giá chí phí vốn, công nghệ, lao động...), đến
mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ,
đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp
hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, đầu tư làm cho
cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển thu hút
nhiều lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động,
14
giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh
tế. Ngược lại khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều
hướng ngược lại so với các tác động trên đây.
1.1.4.3- Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung
bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt mức từ 15-25% so với GDP tùy thuộc vào ICOR
của mỗi nước.
Vốn đầu tư
ICOR =
Mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP =
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn
được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có
giá cao. Còn ở các nước đang phát triển và chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do
thiếu vốn thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho
vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo
trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm cho
thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong
các ngành, các vùng kinh tế cũng như phụ thuộc vào hiệu quả chính sách kinh tế
nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công
nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực
sản xuất.
1.1.4.4- Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của
đất nước.
15
Công nghệ là trung tâm của nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết của
sự phát triển và tăng cường khả năng khoa học công nghệ của nước ta hiện nay.
Chúng ta biết rằng có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát
minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay
nhập từ nước ngoài cân phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi
mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không
khả thi.
1.1.4.5- Đầu tư có vị trí quan trọng ảnh hưởng đến việc nâng cao chất
lượng đội ngũ lao động do đó đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Việc đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng chuyên môn cao, sản phẩm
làm ra có chất lượng yêu cầu cần phải được đầu tư vào công tác đào tạo từ cấp
thấp nhất đến cấp cao nhất, chi phí đào tạo ở đây bao gồm chi phí của nhà nước
và chi phí của dân cư cho con em đi học. Và như vậy, để có được đội ngũ công
nhân lành nghề, đội ngũ quản lý giàu kinh nghiệm cần phải thông qua tuyển
dụng, chọn lọc,... để tiến hành khâu này cần phải tốn một khoản chi phí nhất
định, khi đó sẽ có được đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, năng suất cao
và sản phẩm làm ra có chất lượng tốt nhất.
1.2- Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2.1- Cơ cấu kinh tế.
Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm
cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu”. Là
một phạm trù triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên
trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu
được hiểu như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác
nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của hệ thống, do đó khi
nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống.
Một cách tiếp cận cho rằng: Cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một
tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau
trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế xã
hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng
và chất lượng phù hợp với các mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
16
Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Theo Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật
chất. Vì vậy, có thể hiểu: “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ chủ yếu về
chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ
phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình tái sản xuất xã
hội với những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định”.
Mục tiêu của nghiên cứu cơ cấu kinh tế đó là:
- Để xác định được các mối quan hệ tỷ trọng giữa các yếu tố cấu thành của
nền kinh tế, những tồn tại và vướng mắc trong nền kinh tế cũng như nguyên
nhân của nó.
- Xác định xu hướng phát triển của nền kinh tế.
- Đề ra các phương hướng và giải pháp thực thi để đưa nền kinh tế đến
một cơ cấu phù hợp hơn.
Từ việc tiếp cận cơ cấu kinh tế theo các cách trên, có thể thấy cơ cấu kinh
tế có các đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, luôn luôn phản ánh và
chịu sự tác động của các quy luật khách quan. Vai trò của yếu tố chủ quan là
thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những quy luật đó, phân tích đáng giá
những xu hướng phát triển khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau để tìm ra
phương án thay đổi cơ cấu cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất
nước, cũng như của từng địa phương từng vùng, từng ngành trong quá trình phát
triển kinh tế. Đối với một quốc gia hay một ngành, một địa phương cơ cấu kinh
tế được nhận thức và phản ánh dưới chiến lược phát triển kinh tế xã hội, ở các
chương trình dự án, kế hoạch phát triển của nhà nước, của ngành hay của địa
phương.
Thứ hai: Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử xã hội, thực tế cho thấy nền
kinh tế chỉ phát triển được khi xác định được một mối quan hệ cân đối giữa các
bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội. Cơ cấu
kinh tế gắn liền với sự biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ
17
phận trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng chỉ khi nào giải quyết tốt mới
diễn ra trôi chảy và đạt hiệu qủa cao.
Thứ ba: Cơ cấu kinh tế luôn vận động và phát triển ngày càng hợp lý hơn,
hoàn thiện hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Đó là sự vận động và phát triển không
ngừng của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng ở trình độ
cao hơn, phạm vi ngày càng mở rộng hơn. Khi tiến bộ khoa học và kỹ thuật công
nghệ tác động làm cho lực lượng sản xuất và cấu trúc của nó có sự biến đổi về
chất, khi đó sẽ tạo điều kiện cho con người ý thức để thực hiện có hiệu quả chiến
lược phát triển đồng bộ, hợp lý trong quá trình tái sản xuất xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
Thứ tư: Cơ cấu kinh tế vận động theo hướng ngày càng tăng cường mở
rộng sự hợp tác, phân công lao động trong nước và quốc tế. Trong nền kinh tế thị
trường, sự vận động khách quan của cơ cấu kinh tế theo hướng mở rộng sự hợp
tác và phân công lao động diễn ra không chỉ ở trong phạm vi mỗi ngành, mỗi
vùng, mỗi quốc gia mà còn mở rộng ra các nước trong khu vực và trên thế giới.
Do đó, mỗi quốc gia muốn phát triển nhanh cần xác định được cơ cấu kinh tế
trên cơ sở xác định được lợi thế của mình gắn với thị trường trong nước và quốc
tế, nhằm tạo cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền
kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng, muốn nắm vững bản chất
của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân:
+ Cơ cấu ngành kinh tế: Là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ
lệ, biểu diễn mối liên hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân như giữa nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Trong mỗi cơ cấu ngành lại phân chia thành ngành
nhỏ hơn và cơ cấu nhất định,cơ cấu nhỏ nằm trong cơ cấu lớn. Cơ cấu ngành
phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát
triển, xu hướng vận động của cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp (nông - lâm - ngư nghiệp), tăng
18
tỷ trọng ngành công nghiệp (công nghiệp và xây dựng ) và dịch vụ (thương mại,
du lịch , bưu điện...) trên hai phương diện chủ yếu là giá trị sản xuất và lực lượng
lao động xã hội.
+ Cơ cấu vùng kinh tế: Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình
phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh
thổ (vùng) lại được hình thành từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý.
Cơ cấu kinh tế vùng thể hiện sự phân công lao động xã hội trên lãnh thổ
với lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế,xã hội của mỗi vùng mà hình thành các
vùng kinh tế theo hướng sản xuất chuyên môn hoá, đa dạng hoá nhằm khai thác
có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong vùng, tạo ra sự phát triển
nhanh và bền vững. Trong cơ cấu vùng có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong
điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Xu hướng phát triển của kinh tế vùng
thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp có ưu tiên một vài ngành và gắn liền với
hình thành sự phân bố dân cư phù hợp với các điều kiện, tiềm năng phát triển
kinh tế của lãnh thổ, giảm sự chênh lệch giữa các vùng.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: Nếu như phân công lao động xã hội đã là cơ
sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình
thành cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế là cơ cấu giữa các
thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá
thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức
kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy sự phân công lao động xã hội.. theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần
kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh
thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ
cấu trong nền kinh tế.
Ngoài ba cơ cấu chính nói trên, cơ cấu kinh tế còn bao gồm cơ cấu kinh tế
kỹ thuật, cơ cấu tái sản xuất và cơ cấu các yếu tố cấu thành nền sản xuất xã hội
như cơ cấu lao động, cơ cấu thị trường, cơ cấu hàng hoá dưới hình thức hiện vật
và giá trị...
Tóm lại, cơ cấu kinh tế thể hiện sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi vùng,
của từng địa phương, cơ sở, trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng
19
hơn cả. cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng
đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Cơ cấu vùng có ý
nghĩa đối với việc quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự
phát triển cân đối hài hoà giữa các vùng miền, đồng thời phát huy được tiềm
năng lợi thế của từng vùng. Cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp tạo nội lực thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển. Cơ cấu theo quy mô công nghệ là động lực
thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
1.2.2 Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp
thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành
hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh
tế do sự xuất hiện, biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu
tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đơn giản có thể hiểu “là sự thay đổi tỷ
trọng các ngành, vùng trong tổng giá trị sản phẩm GDP của nền kinh tế trong
một giai đoạn phát triển nhất định”. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị
trí, mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây
dựng một cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ
cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế về thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu kinh
tế, nó gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội, sự biến đổi của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Đặc biệt “Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công
là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại hoá dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao”. Từ đó có thể nhận thấy, bản chất của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
20
hoá không đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của ngành công nghiệp mà là
quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho tăng
trưởng nhanh, hiệu quả, lâu bền của nền kinh tế và chính sự chuyển dịch cơ cấu
nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý đó cũng chính là nội dung của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta có các đặc điểm:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
quá trình có tính quy luật phổ biến ở tất cả các nước, song trong mỗi giai đoạn
khác nhau của sự phát triển, qúa trình này cũng có những đặc điểm riêng, đòi hỏi
phải được các chủ thể nhận thức đúng đắn và có ứng sử phù hợp. Ở nước ta hiện
nay, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Chúng ta vẫn đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, tuy rằng thời gian qua chúng ta đã có những bước chuyển biến
mạnh mẽ. Biểu hiện chủ yếu của đặc trưng này là nông nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu nói chung, tỷ trọng công nghiệp có tăng song chưa đạt
mức mong muốn. Trong nội bộ 3 nhóm ngành lớn, cơ cấu ngành có sự thay đổi
theo hướng tích cực, có tác động bước đầu đối với sự phát triển chung của nền
kinh tế quốc dân, song chưa vững chắc, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự hội
nhập quốc tế và khu vực. Trong nội bộ các nhóm ngành, trình độ trang bị kỹ
thuật còn thấp, do vậy năng suất lao động rất hạn chế, chưa phát triển tương
xứng với tiềm năng sẵn có của đất nước.
- Nền kinh tế Việt Nam bước sang giai đoạn mới về chất, giai đoạn mà sự
phát triển theo chiều rộng, đòi hỏi nền kinh tế và từng nhóm ngành phải chuyển
hướng sang tìm kiếm và khai thác các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Thực tế
cho thấy ở nước ta, sự phát triển của ngành công nghiệp (bao gồm cả công
nghiệp và xây dựng) là do kết quả đầu tư lớn của nhiều năm trước đó của nhà
nước cho một số ngành quan trọng như dầu khí, xi măng, dệt may... đã tạo nên
sự tăng tốc của sản xuất công nghiệp quốc doanh. Đã đến lúc cần đầu tư khai
thác đầu tư nước ngoài để phát triển theo chiều sâu: Xây dựng nhà máy lọc hoá
dầu, công nghiệp chế biến, cơ khí chế tạo... đó là những khởi động bước đầu theo
21
hướng này và chắc chắn sẽ có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên cơ sở khai thác các yếu tố phát triển theo chiều sâu.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá diễn ra trong bối cảnh của quá trình chuyển đổi kinh tế, tính chất giao
thời của quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế xã hội. Trong giai đoạn này, một số yếu tố của cơ chế mới từng
bước được hình thành, song vẫn cần có thời gian để củng cố, khẳng định các yếu
tố của cơ chế cũ vẫn còn hiện diện và vẫn còn phát huy vai trò của nó trong nền
kinh tế, nhiều yếu tố quản lý ở tầm chiến lược vẫn chưa được xác định rõ nét.
- Một điều khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay
là trong khi cần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, sớm hình thành cơ cấu mới
tích cực để hội nhập thì lại thiếu các yếu tố cơ bản cho sự phát triển: thiếu vốn,
trình độ kỹ thuật công nghệ thấp kém, lao động trình độ thấp... Bởi vậy các khó
khăn bất cập xảy ra thường xuyên trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
điều tất yếu và đòi hỏi chúng ta phải có các giải pháp và điều kiện điều chỉnh
thích hợp.
- Việt Nam đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trùng
vào thời điểm thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn về chính trị và kinh tế.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
chuyên môn hoá và đa dạng hóa giữa các quốc gia làm cho lực lượng sản xuất
được quốc tế hoá ngày càng cao. đặc điểm này đòi hỏi các nước đều phải nỗ lực
hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa. Quán triệt
đặc điểm này là yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và
có hiệu quả.
1.3- Yêu cầu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là qúa trình làm thay đổi cấu trúc và mối liên
hệ của một nền kinh tế theo một chủ đích và phương hướng nhất định. Hiện nay
ở nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh. Ở các địa phương tiến hành chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, khai thác tối đa thế mạnh
22
của địa phương, từng bước phát triển công nghiệp và khoa học công nghệ, nhằm
thu được giá trị kinh tế và những kết quả cao nhất.
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế từ chỗ cơ cấu là nông nghiệp lạc hậu sang cơ
cấu công - nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, khai thác thế mạnh của địa phương,
sản xuất theo hướng hàng hoá, phát triển công nghiệp và khoa học công nghệ để
thu được giá trị và hiệu quả kinh tế cao nhất”. Do vậy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang trở thành
một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết bởi các lý do sau:
- Đất nứơc chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghiã. Phương hướng này đòi hỏi là
phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu
phải gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới sử dụng được nhiều lợi thế so
sánh của nước công nghiệp chậm phát triển, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
và phát triển nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
- Thực tiễn nước ta vẫn trong tình trạnh sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ
thuật còn thấp kém và nhỏ bé, công nghệ lạc hậu... sản phẩm hàng hoá sản xuất
ra có chất lượng kém, không có khả năng cạnh tranh, khó tiêu thụ, đời sống của
nhân dân gặp nhiều khó khăn... Để giải quyết căn bản những tồn tại trên, đồng
thời với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phải đổi mới cả cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có thể giải quyết được.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ cho sản xuất đời sống còn thấp kém
so với các nước trong khu vực và trên thế giới, cản trở sự phát triển về nhiều
mặt, nhất là phát triển thị trường trong nước và mở rộng hợp tác quốc tế. Trong
nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế còn thấp kém làm cho nền kinh tế chưa vững
chắc. tài nguyên thiên nhiên có nhiều, lực lượng lao động dồi dào nhưng chưa có
khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả. Để giải quyết những tồn đọng trên,
giải pháp duy nhất là phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế để mở đường cho sản xuất phát triển.
23
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
để tận dụng tận cơ hội, vượt qua thử thách, khắc phục và tránh được các nguy cơ:
tụt hậu về kinh tế, đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, quan liêu bao cấp... nhằm
thực hiện mục tiêu của đảng đề ra là “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh”.
1.4- Định hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá cần phải theo các định hướng cơ bản sau:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa để
điều chỉnh các hoạt động và bước đi trong quá trình thực hiện gắn với điều kiện
kinh tế xã hội của từng vùng, từng ngành, các lĩnh vực cụ thể, tuân theo quy luật
kinh tế đặc thù, nhận thức thay đổi cấu trúc kinh tế cho phù hợp.
- Lấy hiêu quả kinh tế làm mục tiêu cơ bản chi phối quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, vì hiệu quả kinh tế xã hội phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa
hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, liên quan đến sự hình thành và phát triển của
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá phải gắn với
hiện đại hoá, triệt để khai thác lợi thế của nước phát triển muộn về công nghiệp,
vươn lên hoà nhập vào xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hoá, nhanh chóng ứng
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất,đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội, rút ngắn khoảng cách với các nước phát
triển, đủ sức thực hiện sự phân công lao động và hợp tác quốc tế trong khu vực
và trên thế giới.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
phải gắn với quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường là hình thái kinh tế văn minh hiện đại mà nhân loại đạt được, nó phản ánh
mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, là điểm căn bản giúp ta phân biệt sự khác nhau
của công nghiệp trong cơ chế cũ trước đây với công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hiện nay.
24
- Chuyển dịch cơ cấu phải đặt trong sự gắn bó, tác động qua lại giữa cơ
cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu giữa nông thôn và thành thị, giữa các
thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa trong nước và ngoài nước. Vì nó bắt
nguồn từ yêu cầu phát triển ngày càng tăng của các ngành dịch vụ và khai thác
lợi thế so sánh giữa các vùng, chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng của xã hội. Mở rộng các
hình thức liên doanh liên kết trong và ngoài nước giữa các thành phần kinh tế tạo
ra sự gắn bó đẩy nhanh tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết các
vấn để xã hội.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
phải lấy việc phát huy nhân tố con người làm động lực cơ bản cho sự phát triển
kinh tế nhanh và bền vững, phải kết hợp hài hoà giứa công nghệ truyền thống với
công nghệ hiện đại, đồng thời tranh thủ đột phá ở những khâu, những ngành có ý
nghĩa quyết định để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, phù hợp với đặc điểm và
điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta.
1.5- Đầu tư đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.5.1 Các nhân tố ảnh hưởng.
Xác định và thực hiện các phương hướng và biện pháp nhằm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ
này cần phải nghiên cứu và phân tích kỹ các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nhân tố ảnh hưởng rất đa dạng và phong phú,
tác động một cách đan xen, tổng hợp và nhiều chiều. Do vậy, có nhiều cách
phân loại nhân tố ảnh hưởng
Cách thứ nhất: Các nhân tố ảnh hưởng được chia thành hai nhóm: Nhóm
các nhân tố tự nhiên và nhóm các nhân tố xã hội.
Thiên nhiên là điều kiện chung của sản xuất, đồng thời cũng là những tư
liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, ảnh hưởng của tự nhiên đến cơ cấu kinh tế là tất
yếu. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho khả năng, trình độ chế ngự tự
nhiên của con người được tăng lên, cuộc sống của con người bớt phụ thuộc vào
những biến động bất thường và sự phân bố không đồng đều của tài nguyên,
25
nhưng nền sản xuất xã hội thì trước sau vẫn phụ thuộc, gắn bó và tác động tới tự
nhiên. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định chính
sách đầu tư cho từng vùng, ngành nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với
điều kiện tự nhiên, hạn chế khó khăn, phát huy được lợi thế so sánh của vùng,
ngành.
Ngày nay, nhân tố kinh tế xã hội mới là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến
việc đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế; các nhân tố đó bao gồm: Trình độ
phát triển của một quốc gia(nguồn lực lao động, vốn để đầu tư, trình độ khoa học
công nghệ, nhu cầu thị trường...), chính sách phát triển quốc gia, các nhân tố tác
động của quốc tế.
Cách thứ hai: Các nhân tố ảnh hưởng được chia thành nhóm các nhân tố
bên trong và nhóm các nhân tố bên ngoài.
Nhóm các nhân tố bên trong bao gồm toàn bộ tiềm năng có thể huy động,
cách thức sử dụng tiềm năng, những tác động thúc đẩy hay hạn chế đến quá trình
phát triển.
Nhóm các nhân tố bên ngoài bao gồm tất cả những yếu tố kinh tế, chính trị
quốc tế có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến quá trình phát triển của đất nước
như môi trường đầu tư, luật pháp, mức độ ổn định chính trị trong và ngoài nước.
Các nhân tố bên ngoài tuy có ảnh hưởng đáng kể, song các nhân tố bên
trong mới có tính chất quyết định, nó không chỉ tác động vào khả năng huy động
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong mà còn quyết định cả việc huy
động và sử dụng các nguồn lực bên ngoài hoặc hạn chế những tác động tiêu cực
của các nhân tố trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cách thứ ba: Các nhân tố ảnh hưởng được chia thành các nhân tố chủ
quan và các nhân tố khách quan.
Nhóm các nhân tố chủ quan là các vấn đề có liên quan đến chính sách tác
động của nhà nước, đó là việc lựa chọn chiến lược phát triển, việc cụ thể hoá, tổ
chức thực hiện chiến lược đó.
Nhóm các nhân tố khách quan chỉ tạo điều kiện hoặc gây cản trở cho quá
trình phát triển, còn chính các nhân tố chủ quan mới quyết định tốc độ, hiệu quả
của quá trình phát triển và được thể hiện trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
26
Thông qua cách phân loại trên, sẽ tạo điều kiện cho chúng ta hiểu và đánh
giá đúng đắn mức độ ảnh hưởng của từng loại nhân tố. Khi phân tích phải đánh
giá đúng đắn cả mặt lợi thế và hạn chế, thời cơ và thách thức do các nhân tố
mang đến, phạm vi và mức độ tác động khác nhau của từng nhân tố đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Trong các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cần lưu ý các nhân tố sau:
- Sự phát triển của các loại thị trường trong và ngoài nước: Cần khẳng
định ngay rằng thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, trước hết đó là cơ cấu ngành. Bởi lẽ thị trường là yếu tố
hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Yêu cầu đòi hỏi của thị trường cần phải được các doanh nghiệp đáp ứng, xuất
phát từ đó, các doanh nghiệp sẽ có định hướng đầu tư của mình theo các chiến
lược và chính sách kinh doanh. Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất -
kinh doanh của doanh nghiệp do thay đổi chiến lược đầu tư để thích ứng với các
điều kiện của thị trường dẫn tơí từng bước thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của đất nước.
- Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả. Trước hết việc
xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên việc
xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực. Khi đó nhà nước và các doanh nghiệp
sẽ có chiến lược đầu tư phát triển nhằm phát huy các nguồn lực sẵn có, tận dụng
lợi thế so sánh để đầu tư hướng về xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế, tạo đà
hội nhập và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác quốc tế.
- Quan hệ kinh tế đối ngoại và phân công lao động quốc tế, đây là những
nhân tố bên ngoài tác động mạnh mẽ tới sự hình thành cơ cấu của nền kinh tế,
những nơi kém phát triển thì mức độ phụ thuộc bên ngoài về kinh tế cao hơn.
Quá trình phân công lao động quốc tế sẽ di chuyển dòng vốn đầu tư từ các
nước phát triển sang các nước đang phát triển nhằm sử dụng nguồn lao động rẻ,
việc tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài là một điều kiện tốt để chuyển dịch
cơ cấu kinh tế hướng ngoại, hướng tới xuất khẩu. Quan hệ kinh tế đối ngoại phát
triển tốt sẽ là điều kiện để tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước,
27
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mỗi nước, mỗi vùng, mỗi địa phương phải biết thích nghi trên cơ sở tìm lợi thế
so sánh trong quan hệ hợp tác đa phương để biến tiềm năng thành khả năng,
thành hiện thực.
- Tiến bộ khoa học công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng mới
cho sản xuất, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của
chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ) mà còn tạo ra
những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ, công
nghệ tiên tiến, do đó có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai.
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, tiến bộ khoa học công nghệ đã cho
phép tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng cao, lượng vốn bỏ ra thấp, do đó sức
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế tăng lên. Ngoài ra tiến bộ khoa
học công nghệ còn cho phép đầu tư vào những ngành đòi hỏi nhiều chất sám, đi
sâu nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Kết quả là làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung hướng tới
xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới.
- Chiến lược phát triển và cơ chế quản lý kinh tế, đây là nhân tố quyết
định sự hình thành cơ cấu kinh tế. Trong chính sách kinh tế của mỗi nước đều có
hai mặt cơ bản, đó là chính sách cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế. Muốn phát
triển kinh tế thành công, trước hết phải xác định đúng mục tiêu chiến lược, mà
tiêu biểu ở đây là mục tiêu chiến lược trên phạm vi một quốc gia, ngành, vùng,
từ đó có chính sách cơ cấu phù hợp, gắn với cơ chế quản lý tương ứng. Cơ cấu
kinh tế hình thành và phát triển trong sự điều chỉnh, chuyển dịch để hoàn thiện,
giai đoạn sau ở mức độ cao hơn giai đoạn trước.
Cơ cấu kinh tế được hình thành từ các nhân tố khách quan và chủ quan
của con người, nó có sự tích luỹ về lượng và biến đổi về chất để phát triển hoàn
thiện hơn, tiến tới một cơ cấu hợp lý theo quy luật “lượng đổi-chất đổi” trong
những điều kiện và thời gian nhất định. Đây chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
1.5.2- Các xu hướng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
28
Có thể nhận thấy đặc trưng của cơ cấu kinh tế là luôn luôn vận động và
biến đổi. Sự biến đổi ấy diễn ra rất đa dạng giữa các nước có những điều kiện
kinh tế xã hội và trình độ phát triển khác nhau, tuy nhiên nó vẫn theo những xu
hướng chung mang tính quy luật của nó. Trong quá trình phát triển kinh tế, để có
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu đã xác định cần phải có sự đầu tư
thích đáng vào các ngành, vùng, thành phần kinh tế và trong qúa trình đầu tư đó,
cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch theo các xu hướng sau:
- Xu hướng chuyển từ một nền kinh tế khép kín, tự túc, tự cấp sang một
nền kinh tế hàng hoá, kinh tế mở. Đây là kết quả tất yếu của quá trình phát triển
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng cao.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến về chất theo hướng: Từ một nền kinh tế
giản đơn, liên kết lỏng lẻo thành một nền kinh tế có mối liên kết đa dạng và chặt
chẽ trên cơ sở phân công lao động ngày càng cao và sâu sắc. Xu hướng này cho
thấy việc mở rộng hợp tác quốc tế và tham gia có hiệu quả vào quá trình phân
công lao động quốc tế là một tất yếu đối với tất cả mọi quốc gia khi thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện nền kinh tế mở trên cơ sở sử dụng lợi thế
so sánh để vươn ra thị trường quốc tế, lợi thế ở đây bao gồm cả lợi thế tuyệt đối
và lợi thế tương đối. Việc đầu tư vốn, nguồn nhân lực cho các ngành có lợi thế
trong hoạt động ngoại thương là con đường ngắn nhất để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo xu hướng của nền kinh tế mở. Đồng thời với việc mở cửa nền kinh
tế sẽ thu hút nhiều nguồn lực từ bên ngoài vào đầu tư, tận dụng lợi thế của nước
công nghiệp hoá muộn để phát triển nhanh, đi sâu vào vào các ngành đòi hỏi
nhiều lao động để giải quyết nạn thất nghiệp tạo đà cho phát triển kinh tế và tăng
trưởng nhanh, tham gia có hiệu quả vào quá trình tự do hoá thương, khu vực hoá
và quốc tế hoá.
- Xu hướng biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng công nghiệp dịch
vụ ngày càng tăng, tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm trong tổng sản phẩm
quốc dân. Đi liền với sự chuyển dịch này là quá trình chuyển dịch lao động và
phân bố lại dân cư giữa các vùng, miền theo hướng gia tăng tỷ lệ dân cư sống ở
khu vực đô thị.
29
Theo xu hướng này, việc đầu tư vào phát triển các ngành công nghiệp,
dịch vụ nhằm tăng tỷ trọng của hai ngành này là điều kiện đòi hỏi của quá trình
phát triển. Có thể nhận thấy khi thu nhập của người dân tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu
cho lương thực thực phẩm giảm đi, trong khi đó, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm
của công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Điều đó dẫn đến nhu cầu về sản lượng sản
phẩm nông nghiệp sẽ không tăng nhanh như nhu cầu về sản phẩm công nghiệp
và dịch vụ. Bên cạnh đó, việc tăng cường đầu tư máy móc, thiết bị, quy trình
công nghệ, áp dụng các tiến bộ khoa học tiên tiến trong trồng trọt chăn nuôi làm
cho lao động làm việc trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Sự hình
thành các khu công nghiệp tập trung gắn với việc hình thành các đô thị mới, dẫn
đến phân bố lại dân cư và như vậy, kết quả của phát triển công nghiệp còn tạo
khuynh hướng gia tăng tỷ trọng dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân.
Cùng với việc tăng đầu tư trong công nghiệp và dịch vụ để tăng tỷ trọng
của hai ngành này trong GDP, thì việc đầu tư cho lao động phục vụ trong hai
ngành này cũng được thực hiện. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng lên làm
biến đổi cơ cấu lao động theo xu hướng tăng tỷ trọng trong công nghiệp dịch vụ,
giảm tỷ trọng trong nông nghiệp. Quá trình gia tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ còn hình thành các khu công nghiệp tập trung kéo theo sự phân bố lại dân cư
giữa các vùng, miền. Dân cư tập trung tại các khu vực đô thị, khu công nghiệp
sản xuất tập trung hình thành cơ cấu dân cư chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng ở đô thị, giảm tỷ trọng ở nông thôn.
- Xu hướng biến đổi từ một nền kinh tế dựa trên kỹ thuật thủ công, công
nghệ lạc hậu lên một nền kinh tế có kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình
này được thực hiện thông qua việc đầu tư toàn diện cả về công nghệ hiện đại lẫn
bộ máy quản lý lao động điều hành công nghệ đó. Để có công nghệ hiện đại, tất
cả các nước đều có 2 con đường chính là tự nghiên cứu hoặc đi mua công nghệ
và dù bằng con đường nào thì cũng cần có vốn đầu tư, phải có chi phí để có được
công nghệ.
Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất thực chất là quá trình phát triển
kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Trong thời đại ngày nay, khoa học
công nghệ đã trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp thì việc đầu tư cho khoa
30
học công nghệ là xu hướng tất yếu để có một nền kinh tế phát triển với công
nghệ kỹ thuật ngày càng hiện đại và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng quy mô kỹ thuật công nghệ hiện đại ngày càng chiếm tỷ lệ cao.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là một quá trình phát triển kinh tế có tính quy luật phổ biến ở tất cả các nước,
cũng như trong từng địa phương nhằm biến từ một nền kinh tế lạc hậu chủ yếu
dựa vào nông nghiệp thành một nền kinh tế phát triển có cơ cấu kinh tế mà tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu.
1.5.3- Tác dụng của đầu tư đối với cơ cấu kinh tế.
Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, để tạo ra sự tăng trưởng nhanh và phát
triển bền vững đều cần phải có sự đầu tư đúng hướng. Trong nội bộ nền kinh tế,
cơ cấu kinh tế biến đổi chịu sự chi phối mạnh mẽ của đầu tư. Trên giác độ nền
kinh tế, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các
quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, từ đây
có thể nhận thấy đầu tư có các tác dụng:
- Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển và
chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Cơ cấu kinh tế là biểu
hiện sinh động nhất, chân thực nhất chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong
từng giai đoạn thời kỳ của mỗi quốc gia. Vì vậy đầu tư là công cụ đắc lực nhất,
hữu dụng nhất để nhà nước điều chỉnh nền kinh tế thông qua các cơ chế chính
sách được đưa ra. Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù kinh tế khách
quan, do vậy nó cũng vận động theo các quy luật phát triển của nó từ thấp đến
cao và để cơ cấu kinh tế hoạt động theo đúng quy luật của nó thì cần phải có hoạt
động đầu tư trong quá trình phát triển của nó.
Thực tế cho thấy, ở Việt Nam giai đoạn 1975-1986 cơ chế kế hoạch hoá
tập trung tồn tại, nhà nước quyết định tất cả các vấn đề về cơ cấu, biện pháp,
chính sách, vì vậy cơ cấu kinh tế giai đoạn này chủ yếu là thành phần kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể, cơ cấu ngành và vùng chậm chuyển biến, đất nước kém
phát triển vàgặp nhiều khó khăn về kinh tế. Sang giai đoạn từ 1986 đến nay, thực
hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường, cho phép phát triển nhiều thành phần
kinh tế, ban hành các luật đầu tư trong nước và nước ngoài đã khuyến khích mọi
31
thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư, thực hiện chiến lược
thay thế nhập khẩu tiến tới xuất khẩu. Do vậy cơ cấu kinh tế Việt Nam thời gian
qua đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - dịch
vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
- Đầu tư góp phần tạo ra sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế giữa các
ngành, vùng lãnh thổ. Mỗi ngành, vùng lãnh thổ do có các điều kiện tự nhiện
khác nhau, kinh tế xã hội khác nhau, do vậy mỗi ngành, vùng lãnh thổ đều có
những lợi thế riêng của nó. Đầu tư nhằm phát huy thế mạnh, phát huy lợi thế so
sánh của từng ngành, vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi
tình trạnh đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh
tế chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp
thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
- Đầu tư góp phần phát huy được nội lực của vùng, ngành, giải quyết
những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ. Nội lực của vùng, ngành
ở đây chính là nguồn nhân lực, những điều kiện sẵn có của thiên nhiên ban tặng.
Phát huy nội lực của ngành, vùng thông qua đầu tư sẽ hướng ngành, vùng không
chỉ phát triển mạnh lên mà còn vươn ra các vùng khác trên cơ sở nguồn nội lực
sẵn có. Ví dụ về đầu tư trong ngành mía, khi ngành mía phát triển sẽ là điều kiện
để phát triển các ngành kinh tế trong mối quan hệ với nó, trong mối quan hệ liên
kết ngược là điều kiện để phát triển các ngành chế biến phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp. Còn trong mối liên kết
xuôi, phát triển ngành mía là điều kiện để các ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm từ mía phát triển như rượu, công nghiệp sản xuất bánh kẹo... từ đó làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các ngành cũng như trong các vùng,
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, vai trò của
nội lực là rất lớn, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của quốc gia đó.
Do vậy, phát huy nội lực để phát triển kinh tế tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý là
yếu tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Do vậy để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư nên tập trung vào các ngành chủ yếu sau:
- Ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế
trong mỗi thời kỳ.
32
- Ngành có lợi thế so sánh, có khả năng sản xuất hoạt động lâu dài.
- Ngành tạo ra các điều kiện sản xuất ban đầu cho ngành trọng điểm,
ngành có lợi thế...
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp
đối với nhịp độ và quy mô tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, việc đầu tư để hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo tiền đề vật chất cho việc nâng cao hiệu quả
kinh tế xã hội, của sự phát triển kinh tế nói chung và của từng ngành vùng nói
riêng. Để được như vậy, quá trình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần phải:
- Cơ cấu đầu tư phải phù hợp và phục vụ cho chiến lược cơ cấu kinh tế.
Việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư là điều chỉnh những quan hệ tỷ lệ về lượng giữa
các yếu tố cấu thành đầu tư . Nó là cơ cấu về vốn và nguồn vốn đầu tư. Để phục
vụ cho chiến lược cơ cấu kinh tế cần phải có một cơ cấu đầu tư hợp lý, đó là phải
khai thác được lợi thế so sánh, đáp ứng được yêu cầu thị trường chung của cả
nước, phát huy được nội lực và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
- Các ngành, các địa phương phải có kế hoạch, quy hoạch phát triển trên
cơ sở đó có kế hoạch quy hoạch đầu tư tổng thể cho vùng, ngành. Quá trình lập
kế hoạch quy hoạch phát triển phải xem xét từng yếu tố có ảnh hưởng đến nền
kinh tế xã hội như tự nhiên, khí hậu... đặc điểm của mỗi vùng ngành để từ đó rút
ra được thế mạnh của từng vùng cũng như yếu kém của nó. Trên cơ sở phân tích
thực trạng của mỗi vùng ngành đánh giá mức độ phát triển để từ đó có kế hoạch
quy hoạch đầu tư tổng thể cho các ngành vùng nhằm phát huy được thế mạnh
của từng khu vực, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của ngành vùng
đến nền kinh tế.
- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy năng lực của vùng, ngành
và phải căn cứ vào thị trường chung, thị trường thống nhất của cả nước để mà
điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Việc sản xuất ra cái gì? sản xuất như thế nào? và sản
xuất cho ai? Là ba yếu tố cần được trả lời của mỗi doanh nghiệp khi quyết định
đầu tư sản xuất. Để trả lời câu hỏi này, doanh nghiệp cần phải căn cứ vào thị
trường chung thống nhất của cả nước, hay nói cách khác yêu cầu thị trường là
xuất phát điểm cho hoạt động đầu tư. chính vì vậy, việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư
cần phải trên cơ sở định hướng của thị trường để tạo ra cơ cấu đầu tư hợp lý,
33
phát huy được năng lực của vùng, ngành và đáp ứng được yêu cầu của thị
trường.
1.5.4- Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Quá trình đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ trạng thái thấp tới
trạng thái cao hơn và đối với mỗi quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến một
giai đoạn nào đó sẽ đạt được cơ cấu kinh tế hợp lý cho riêng mình. Khi đó cơ cấu
kinh tế hợp lý sẽ tác động đến nền kinh tế trên nhiều mặt:
Trước hết: Là điều kiện để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã vạch
ra trong chiến lược, trong kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước, của từng địa
phương, từng vùng.
Thứ hai: Nó góp phần khai thác và phát huy tốt nhất, sử dụng có hiệu quả
cao nhất các nguồn lực, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng cho nền kinh
tế.
Thứ ba: Nó tạo điều kiện thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển, đáp ứng yêu cầu khách quan của nền kinh tế trong mối quan hệ sản xuất
phù hợp.
Thứ tư: Thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng, miền
đảm bảo và tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh, giữ vững thành quả, tạo
điều kiện cho nền kinh tế nhanh chóng hoà nhập vào thị trường thế giới.
Xuất phát từ tác động của cơ cấu kinh tế hợp lý đến nền kinh tế, có thể đưa
ra một số chỉ tiêu đánh gía hiệu quả của đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế như
sau:
- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước GDP: Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) thường được hiểu là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới được
tạo ra trong năm bằng các yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Để tính tốc độ tăng GDP ta sử dụng công thức:
GDP1 - GDP0
IGDP = x 100%
34
GDP0
Ở đây: GDP1: là tổng sản phẩm của năm được tính
GDP0: là tổng sản phẩm của năm được dùng để so sánh.
Thông qua tốc độ tăng GDP của nền kinh tế để xác định mức độ tăng
trưởng là nhanh hay chậm, với kết quả như vậy là đã phù hợp hay không. Nó thể
hiện thước đo sự tăng trưởng kinh tế do các hoạt động sản xuất trong phạm vi
lãnh thổ tạo ra, không phân biệt sở hữu trong hay ngoài nước đối với kết quả đó.
- GDP bình quân đầu người: là hệ số giữa tổng sản phẩm trong nước so
với tổng số dân của một quốc gia trong một năm. Để đánh giá mức độ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, chúng ta có thể sử dụng chỉ tiêu này. Nó phản ánh mức thu
nhập bình quân của một người trong một năm. nếu mức thu nhập bình quân cao
chứng tỏ mức sống dân cư được cải thiên, nền kinh tế phát triển tốt và như vậy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đem lại hiệu quả cho nền kinh tế. Ngược lại nếu
GDP/ 1 người thấp và đi xuống chứng tỏ sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế là
chậm và có khả năng là theo hướng bất lợi cho nền kinh tế.
GDP
GDP/1người = \ S: tổng dân số 1
nước
S
- Cơ cấu GDP theo ngành, vùng,... Có thể nhận thấy đây là chỉ tiêu phản
ánh rõ nét nhất trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một sự thay đổi dù lớn hay nhỏ
của đầu tư trong các ngành, vùng thì cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi trong cơ cấu của
GDP của ngành, vùng.
Để nhận biết chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi theo chiều hướng nào, chúng ta
có thể thông qua sự thay đổi trong cơ cấu GDP của ngành, vùng. Nếu trong cơ
cấu GDP của ngành, vùng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng còn tỷ trọng
nông nghiệp giảm thì có thể nhận thấy chuyển dịch cơ cấu đi theo hướng phát
triển công nghiệp dịch vụ và dịch vụ được chú trọng phát triển theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hoặc thông qua cơ cấu vùng kinh tế trong GDP có thể
xác định cơ cấu kinh tế theo vùng phát triển theo hướng nào ?.
35
- Chỉ tiêu xuất - nhập khẩu: Được xác định thông qua giá trị kim ngạch
xuất khẩu của một nước, vùng địa phương. Qua xuất nhập khẩu để xác định
chính sách phát triển kinh tế có hướng về xuất khẩu hay không. Việc tăng dần
kim ngạch xuất nhập khẩu qua các năm sẽ cho phép đánh giá một cách chân thực
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu.
- Các chỉ tiêu tổng hợp khác: Như thu chi ngân sách trên địa bàn, tổng đầu
tư của thời kỳ, hệ số ICOR, tỷ lệ đầu tư so với GDP cũng được sử dụng để đánh
giá hiện trạng và mức độ tăng trưởng kinh tế qua đó đánh giá sự dịch chuyển cơ
cấu kinh tế trên phạm vi một quốc gia, vùng lãnh thổ.
Từ nhận thức về đầu tư, cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; trên cơ sở quán triệt các Nghị quyết của
Đảng ở trung ương và địa phương và vận dụng vào tình hình phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh. Chương II và chương III sẽ đi sâu phân tích thực trạng đầu tư và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đề ra một số giải pháp trên góc độ đầu tư nhằm đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Thanh Hoá trong những năm tới.
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ
Ở THANH HOÁ
36
2.1- Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Thanh Hoá có
ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.1.2- Điều kiện tự nhiên.
Tỉnh Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.168,3 km2, chiếm 3,3% tổng diện
tích tự nhiên của cả nước. Dân số toàn tỉnh 3,54 triệu người, chiếm tỷ lệ 4,54%
tổng dân số cả nước, có các dân tộc Kinh, Mường, Thái,Tày, H’mông, Dao, Thổ.
Mật độ dân số 310người/ km2. Về tổ chức hành chính, toàn tỉnh có 27 huyện thị
thành phố bao gồm: 24 huyện, 1 thành phố cấp 3 là thành phố Thanh Hoá, 2 thị
xã là Bỉm Sơn và Sầm Sơn.
a- Vị trí địa lý.
Thanh Hoá nằm trong khu vực ảnh hưởng của những tác động từ khu vực
trọng điểm Bắc Bộ và những tác động từ các vùng trọng điểm Trung Bộ và Nam
Bộ. Phía Tây của tỉnh giáp với phần Đông - Bắc Lào, đây là vùng đất hoang sơ
chưa được khai thác. Đặc biệt phía Đông là dải bờ biển dài 102 km có nhiều tiềm
năng để phát triển kinh tế biển. Đặc biệt có cảng nước sâu Nghi Sơn cho phép
tàu trên 10 vạn tấn ra vào.
b- Địa hình.
Địa hình Thanh Hoá tương đối phức tạp, thấp dần từ Đông sang Tây, chia
ra thành 3 vùng rõ rệt:
- Vùng núi, trung du: Gắn liền với hệ núi cao Tây Bắc và hệ núi Trường
Sơn phía Nam. Diện tích tự nhiên trên 800.000 ha(chiếm 2/3 của tỉnh). Độ cao
trung bình vùng núi từ 600-700m, độ dốc >250, vùng trung du là 150-200m, 15-
200.
- Vùng đồng bằng: Được bồi tụ bởi hệ thống Sông mã, Sông chu, Sông
yên. Có độ cao trung bình từ 5-15m, xen kẽ các đồi núi đá vôi độc lập. Một số
nơi có địa hình trũng độ cao 0-1m.
- Vùng ven biển: Chạy dọc theo bờ biển, có nhiều vùng sình lầy. Vùng cát
ven biển phía trong các bãi cát có độ cao trung bình từ 3-6m, ở phía nam có dạng
sống trâu do các dãy đồi kéo dài ra biển.
37
Đặc điểm địa hình Thanh Hoá rất đa dạng phong phú cho phép phát triển
nông, lâm, ngư nghiệp toàn diện, dễ dàng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng
ngành, vùng.
c- Tài nguyên khí hậu.
Thanh Hoá nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông
lạnh và một thời kỳ khô nóng gió Tây vào mùa hạ gây bất lợi cho sản xuất và đời
sống.
Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23-240c ở vùng đồng bằng và giảm
dần khi lên vùng núi. Lượng mưa phân bố không đều trên các vùng lãnh thổ,
trung bình 1600-2000mm, số ngày mưa từ 130-150 ngày. Các tháng có mưa
nhiều là từ tháng 8-10, tập trung đến 60-80% lượng mưa cả năm nên dễ dàng gây
ra lũ lụt.
Đặc điểm khí hậu thời tiết Thanh Hoá: lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh
sáng dồi dào là điều kiện cho phát triển sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Song
cũng cần chú ý các hiện tượng bất lợi như lụt, bão, nắng nóng...
d- Tài nguyên đất.
Diện tích tự nhiên 1.116.833 ha của Thanh Hoá gồm 10 nhóm đất chính
với 28 loại đất khác nhau; các nhóm đất có diện tích tương đối lớn gồm:
-Nhóm đất đỏ vàng: Diện tích 647.768 ha, chiếm 58% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh, thích hợp cho phát triển cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả và cây
lâm nghiệp.
- Nhóm đất phù sa bồi tụ: Phân bố chủ yếu ở các huyện vùng đồng bằng.
Diện tích 144.720 ha, thích hợp cho trồng lúa, màu, cây công nghiệp ngắn ngày.
- Nhóm đất mặn và đất cát: Phân bố tập trung ở các vùng ven biển.
Ngoài ra còn có các loại nhóm đất khác như đất đỏ vàng trên núi, đất bạc
màu, đất xói mòn... Hiện tại đã sử dụng vào sản xuất nông nghiệp đạt 22,%, diện
tích có rừng đạt 30% đất tự nhiên toàn tỉnh. Ngoài ra còn có các loại bãi bồi đã
ổn định diện tích, bãi bồi đang lấn biển...
Tóm lại, tài nguyên đất của Thanh Hoá rất đa dạng thuận lợi cho việc phát
triển nông nghiệp toàn diện, đa dạng sinh học cả nông lâm ngư nghiệp.
38
đ- Tài nguyên rừng.
Đến năm 2000 rừng Thanh Hoá có 405.713 ha trong đó rừng tự nhiên
chiếm 322.003 ha, rừng trồng chiếm 830710 ha
Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa
dạng về họ loài, như lát, pơmu, luồng, nứa , vầu... Động vật rừng có các loài như
voi, bò tót, nai, hoẵng... các loài bò sát như trăn, rắn, rùa, tê tê...
Nhìn chung rừng giàu và trung bình hiện còn phân bố trên các dãy núi cao
ở biên giới Việt Lào ở độ cao trên 700-1200m. Các vùng rừng ở độ cao dưới
700m gần trục đường giao thông và khu dân cư thường là rừng nghèo vì bị khai
thác quá mức. Đáng chú ý là vùng tre nứa phân bố ở các huyện miền núi thấp là
nguồn nguyên liệu giấy , bao bì, các tông... cân được khai thác sử dụng.
Trữ lượng rừng còn khá lớn, song điều kiện khai thác ngày càng khó khăn,
kết hợp với chủ trương đóng cửa rừng của nhà nước nên khả năng khai thác
trong những năm tới sẽ bị hạn chế, chủ yếu là khai thác rừng trồng (khoảng
100.000m3gỗ tròn/năm).
e- Tài nguyên nước.
Thanh Hoá có hệ thống sông suối dày đặc với 4 hệ thống sông chính là
Sông Mã, Sông Bạng, Sông Yên và Sông Hoạt với tổng trữ lượng nước trung
bình hàng năm là 19,520 tỉ m3. Riêng hệ thống Sông Mã, trữ lượng điện năng lý
thuyết đạt tới 12tỷ kw/h. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác nguồn nước mặt đang
gặp nhiều khó khăn do nguồn nước mặt bị hạn chế, đôi khi chính nó còn gây ra
tác hại như úng, lụt. Nguồn nước ngầm qua một số thăm dò ở các huyện thị xã
như thành phố Thanh Hoá, thị xã Bỉm Sơn... cho thấy chất lượng và trữ lượng
nước ngầm đảm bảo sử dụng tốt cho sản xuất công nghiệp và sinh hoạt.
Đánh giá chung nguồn nước ở Thanh Hoá là dồi dào, bao gồm cả tiềm
năng nước mặt và nước ngầm, có thể sử dụng tốt cho phát triển công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt của nhân dân.
f- Tài nguyên biển.
Thanh Hoá có 102 km bờ biển hình cánh cung, chạy dài từ Cửa Đáy (tỉnh
Ninh Bình) đến Đông Hồi (Tỉnh Gia) và vùng lãnh hải rộng lớn, diện tích 1,7
vạn km2. Dọc bờ biển có 7 cửa lạch lớn nhỏ tạo điều kiện cho giao thông thuỷ,
39
tàu thuyền đánh cá ra vào, tụ điểm giao lưu kinh tế, trung tâm nghề cá của tỉnh. ở
những cửa lạch là những bãi bồi bùn, cát rộng hàng chục ngàn ha để nuôi trồng
hải sản, cói, cây chắn sóng...Đáy biển gần bờ có độ dốc thoải và bằng phẳng, có
điều kiện thiên nhiên thuận lợi với các loại đặc sản hải sản quý hiếm.
Theo số liệu điều tra và qua thực tế từ năm 1986 đến nay có thể đánh giá
về nguồn lợi thuỷ sản như sau: Nguồn lợi cá nổi từ 50.000-60.000 tấn, chủ yếu là
cá nục, ngừ, thu, chim... khả năng khai thác hàng năm 20.000-25.000 tấn;
Nguồn lợi cá đáy có trữ lượng 30.000-40.000 tấn, hàng năm khai thác được từ
15.000-20.000 tấn, tập trung chủ yêú ở vùng ngoài khơi, tôm 3000 tấn, mực
10.000 tấn ...
Diện tích nước mặn khoảng 10.000 ha phân bố chủ yếu ở vùng đảo Mê,
Biện Sơn có thể nuôi cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm...
i- Tài nguyên khoáng sản.
khoáng sản Thanh Hoá rất đa dạng, có tới 42 loại, nhiều loại có trữ lượng
lớn so với cả nước như đá vôi làm xi măng, đá ốp lát, sét, crôm, ...
Là tỉnh giàu về nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và nguyên liệu làm
gốm sứ, thuỷ tinh, như đá vôi làm xi măng 370 triệu tấn, sét làm xi măng 80 triệu
tấn, đá ốp lát 2-3 tỷ m3, cao lanh 1triệu m3...
Khoáng sản kim loại: Bao gồm cả kim loại đen và kim loại màu, quý. Kim
loại đen có quặng sắt-sắt mangan, quặng ti tan trữ lượng khoảng 80 nghìn tấn.
Quặng crôm trữ lượng 21,898 triệu tấn và là duy nhất của cả nước. Kim loại màu
có các loại như thiếc, đồng, vàng sa khóang, vàng gốc trữ lượng trên 10 tấn
nhưng chưa được khảo sát tìm kiếm đúng mức.
Khoáng sản dùng làm nguyên liệu phân bón, trợ dung, hoá chất và các
nguyên liệu khác: phốtphorit trữ lượng 1 triệu tấn, chất lượng trung bình.
Secpentin, trữ lượng 15 triệu tấn, chất lượng khá tôt. Đôlômit trữ lượng 4,7 triệu
tấn.
Khoáng sản than: Trữ lượng than đá thấp, chỉ phát hiện được những mỏ
nhỏ, chất lượng thấp, non. Trữ lượng than bùn lớn, có trên 2 triệu tấn phân bố rãi
rác trong tỉnh, tương lai là nguyên liệu chính sản xuất phân bón vi sinh.
g- Tài nguyên du lịch.
40
Khá phong phú và đa dạng, có thể đáp ứng nhu cầu cho khách du lịch trên
nhiều mặt: Thiên nhiên kỳ thú, nhiều danh lam thắng cảnh có từ miền núi đến
đồng bằng, ven biển và hải đảo. Đó là những bảo tàng thiên nhiên ít nơi có được
như vườn quốc gia Bến En, sân chim Tiến Nông, Sầm Sơn...
Về lịch sử, đây là miền đất có nền văn hoá Đông Sơn, có nhiều danh nhân
văn hoá đã để lại nhiều dấu ấn và di tích. Có di tích đã được Chính Phủ phê
duyệt cho trùng tu tôn tạo ở quy mô quốc gia như khu di tích Lam Kinh, Hàm
Rồng-Nam Ngạn...
Sự gắn bó giữa thiên nhiên kỳ thú với các địa danh và di tích lịch sử,các
vùng kinh tế và các khu công nghiệp tập trung đang hình thành là động lực thúc
đẩy ngành công nghiệp không có khói của Thanh Hoá phát triển.
2.1.2- Nguồn nhân lực.
Dân số : Theo kết quả điều tra dân số của cả nước (1/4/99) dân số Thanh
Hoá có 3,467 triệu người, dân số trung bình năm 2000 là 3,562 triệu người.
Trong đó Nam chiếm 48,88% nữ chiếm 51,12%; thành thị chiếm 9,18% nông
thôn chiếm 90,82%; Miền núi chiếm 28,5% miền xuôi chiếm 71,5%. Phân bố
dân cư không đồng đều giữa các vùng, đồng bằng và đô thị mật độ dân số cao.
Lao động: Năm 2000 dân số trong độ tuổi lao động có 1,948 triệu người,
chiếm tỷ lệ 54,6% tổng dân số toàn tỉnh. Trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ
thuật của người lao động thấp. Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2000
tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân của tỉnh có
1,503 triệu người thì tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học là
13,26%, tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở là 70,11%, tốt nghiệp phổ thông
trung học chỉ có 16,63%.
Theo kết quả điều tra năm 2000 lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn của tỉnh mới đạt 19,18% trong đó:
- Đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp: 9%
- Công nhân kỹ thuật có nghề: 10,18%
Nguồn lao động trẻ dồi dào, lao động dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao. Là tỉnh
có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ khá, tuy nhiên trong cơ chế thị
trường, tỉnh vẫn thiếu các nhà doanh nghiệp giỏi kể cả trong và ngoài quốc
41
doanh. Hơn nữa chất lượng lao động không đồng đều giữa các vùng miền trong
tỉnh. Vì vậy, cần có chính sách đào tạo và đào tạo lại nguồn lao động để có thể
tiếp cận và thích nghi với cơ chế thị trường, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của tỉnh.
2.1.3 Trình độ phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng.
a- Tốc độ tăng trưởng kinh tế .
Cùng với nhịp độ phát triển chung của cả nước, từ 1990 đến nay, Thanh
Hoá đã có những thay đổi đáng kể trên các lĩnh vực phát triển kinh tế. Nhìn nhận
chung cho thấy: Giai đoạn 1986-1990 tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, sản xuất
không ổn định, có năm giảm sút. Giai đoạn 1991-1995 tốc độ tăng trưởng khá,
tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7%. Giai đoạn 1996-2000 mặc dù gặp
không ít khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân vẫn đạt 7,3%. Các ngành
dịch vụ tăng nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất. Kinh tế quốc doanh tăng
chủ yếu ở các doanh nghiệp có quy mô lớn. Quốc doanh địa phương phát triển
không vững chắc, nhiều cơ sở sản xuất không ổn định. Các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh quy mô quá nhỏ bé, cơ sở vật chất nghèo nàn, sản phẩm làm ra chất
lượng thấp kém, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường tuy được khuyến
khích nhưng còn chậm. Đây là vấn đề chủ yếu hạn chế sự tăng trưởng kinh tế cao
của Thanh Hoá.
b- Trình độ phát triển của các ngành kinh tế.
- Sản xuất nông lâm ngư nghiệp.
Đã có bước phát triển khá toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá. Sản
xuất nông nghiệp đã có những chuyển biến tích cực trong cơ cấu cây trồng vật
nuôi và đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đã cơ bản
đảm bảo an ninh lương thực, hình thành được một số vùng cây công nghiệp tập
trung, chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày.
Phát triển lâm nghiệp theo hướng lâm nghiệp hoá xã hội. Thực hiện
chương trình 327 về trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc đã đạt độ che
phủ lên 37% năm 2000. Thuỷ sản từng bước phát triển theo hướng vươn ra khơi,
thực hiện chương trình đánh bắt xa bờ. Bên cạnh đó nuôi trồng thuỷ sản cũng có
bước phát triển đáng kể, sản lượng thuỷ sản tăng từ 6.344 tấn năm 1996 lên
42
11.673 tấn năm 2000. Nhìn chung kinh tế nông nghiệp lâm nghiệp và ngư nghiệp
đã có bước phát triển mới, xuất hiện các hình thức hợp tác đa dạng, bước đầu có
hiệu quả.
- Sản xuất công nghiệp.
Giữ vững nhịp độ tăng trưởng hàng năm, thời kỳ 1996-2000 tăng trưởng
GDP bình quân đạt 13,51% trong đó công nghiệp thuần là 15,8% xây dựng
là10,0%, riêng năm 2000 công nghiệp tăng 27,9%. Trên cơ sở tiếp tục sắp xếp,
cũng cố lại các doanh nghiệp, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất kinh doanh với
thiết bị và công nghệ tiên tiến, do đó các cơ sở đã từng bước nâng cao được khả
năng cạnh tranh, gắn sản xuất với thị trường, từng bước nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp đã có bước tiến bộ nhưng còn chậm,
chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Cùng với việc đầu tư vào các doanh nghiệp, Thanh Hoá bước đầu đã hình
thành một số khu công nghiệp tập trung như Lam Sơn, Bỉm Sơn - Thạch Thành,
Nghi Sơn - Tỉnh Gia, thành phố Thanh Hoá - Sầm Sơn là động lực phát triển
kinh tế các vùng miền.
- Thương mại dịch vụ.
Có bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng của khối ngành giai đoạn 1996-
2000 và 7,3%, tỷ trọng GDP tăng từ 31% năm 1990 lên 33,6% năm 2000. Hàng
hoá phong phú đa dạng, chất lượng ngày càng nâng cao. Tuy nhiên chủ yếu vẫn
là phát triển các dịch vụ phục vụ đời sống như bưu chính viễn thông, du lịch...
còn dịch vụ phục vụ sản xuất còn rất hạn chế.
c- Kết cấu hạ tầng.
Mạng lưới giao thông: Thanh Hoá là tỉnh có hệ thống giao thông tương đối
đa dạng, bao gồm: giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ.
-Đường bộ: Toàn tỉnh có 7725 km đường bộ bao gồm đường quốc lộ và
tỉnh lộ, đường liên xã, mật độ đường bộ là 69 km/100km2 và 2,21km/1000 dân.
Mật độ phân bố không đồng đều, chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển.
- Đường thuỷ: Mạng lưới giao thông đường thuỷ rất thuận tiện cho việc
vận chuyển giao lưu hàng hoá. Toàn tỉnh có 4 hệ thống sông với chiều dài 1.768
43
km, 6 cửa lạch lớn nhỏ và 102 km đường bờ biển. Hiện tại Thanh Hoá chưa có
cảng lớn chỉ có một cảng sông 300.000 tấn/ năm.
Ngoài ra Thanh Hoá còn có 82 km đường sắt và quốc lộ 1A dài 98km
xuyên suốt chiều dài của tỉnh là điều kiện thuận lợi cho giao lưu buôn bán.
- Mạng lưới điện: Đã phát triển khá, trên địa bàn có 1 trạm 220 kv Ba chè
với công suất 125MVA, 4 trạm 110 kv đang vận hành với tổng công suất 160
MVA, 105 km đường dây 110 kv. Ngoài ra còn có đường dây 550 kv đi qua.
Nhìn chung thuận lợi về nguồn điện, điện áp và đường dây. Tuy nhiên mạng lưới
điện hạ thế cũ, hư hỏng nhiều tỷ lệ thất thoát lớn, chưa đáp ứng được nhu cầu
điện cho sản xuất và đời sống nhân dân trong tỉnh.
- Thông tin liên lạc: Đang từng bước hiện đại hóa phục vụ cho phát triển
kinh tế và nâng cao đời sống. Hệ thống bưu chính viễn thông những năm gần đây
được đổi mới nhanh chóng, bổ sung nhiều trang thiết bị hiện đại. Do vậy, các
dịch vụ thông tin, liên lạc đảm bảo thuận tiện, kịp thời và thông suốt.
Nhìn chung kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong những năm qua đã được
tỉnh quan tâm đầu tư, cải tạo nâng cấp, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển sản xuất và nâng cao đời sống của dân. so với các tỉnh thành trong cả nước
thì còn thấp kém, phân bố không đều. Đây là vấn đề cần được quan tâm giải
quyết và tập trung đầu tư trong thời gian tới.
2.2- Tình hình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá
2.2.1- Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá
Đặc trưng của công nghiệp hóa là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ và sự thay đổi giữa các nhóm ngành nhỏ trong
các ngành lớn. Đối với các nước đang phát triển, đặc trưng chủ yếu là thay đổi
một cách căn bản cơ cấu giữa công nghiệp và nông nghiệp, trong đó vai trò của
công nghiệp được tăng cường và giảm mạnh tỷ trọng của nông nghiệp trong cơ
cấu GDP của Tỉnh. Một nền kinh tế phát triển không chỉ thể hiện ở quy mô và
tốc độ phát triển mà còn phải có một cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý và hiệu quả
cao trong việc sử dụng các nguồn lực. Vì vậy một trong những quan điểm cơ bản
nhất của Đảng và Nhà nước ta trong định hướng phát triển kinh tế trong những
năm đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là: "Nhanh chóng chuyển dịch
44
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá dựa trên hướng mạnh
về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước
sản xuất được có hiệu quả".
Xuất phát từ quan điểm trên của Đảng và Nhà nước, Thanh Hoá đã đề ra
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh giai đoạn 1996 - 2000. Trên cơ sở
nguồn nội lực đồng thời tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ từ bên ngoài. Mục tiêu tổng
quát của Thanh Hoá giai đoạn 1996 - 2000 là "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, tiếp tục khắc phục những yếu kém tồn tại trong nền kinh tế, nâng dần
nhịp độ tăng trưởng kinh tế, không để thấp hơn mức bình quân 5 năm trước; xây
dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao tiềm lực mọi mặt của đất nước;
tạo bước chuyển biến về sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển; thực hiện các cam
kết quốc tế và hội nhập theo lộ trình chủ động; nâng cao năng lực khoa học, công
nghệ, giáo dục đào tạo, coi trọng phát huy nhân tố con người, từng bước tăng
cường cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và tạo các tiền đề khác để đi vào giai đoạn
phát triển tiếp theo".
Theo đó mục tiêu đặt ra của Thanh Hoá trong giai đoạn 1996 - 2000 cụ thể
là:
- GDP bình quân đầu người: 400USD/người
- Tăng trưởng bình quân GDP/người: 13,54%
- Tăng trưởng bình quân GDP theo tổng số: 15,63%
- Dự báo cơ cấu ngành (tính theo GDP)
Ngành Năm 2000
+ Nông lâm ngư nghiệp 27,2%
+ Công nghiệp - Xây dựng 31,4%
+ Dịch vụ 41,4%
- Tốc độ tăng bình quân năm của các ngành (%)
+ Nông lâm ngư nghiệp 5,8%
+ Công nghiệp - Xây dựng 21%
+ Dịch vụ 20%
- Kim ngạch xuất khẩu: 200 triệu USD
- Vốn đầu tư cho cả giai đoạn: 18.000 tỷ đồng
45
Trong đó: + Nguồn vốn trong nước: 7.200 tỷ đồng (40%)
+ Nguồn vốn ngoài nước: 10.800 tỷ đồng
(60%)
Phấn đấu đến năm 2000, GDP/người đạt gấp đôi năm 1994 và gần bằng
mức bình quân chung của cả nước. Về cơ bản không còn hộ đói, cải tiến một
bước đời sống của nhân dân, tạo đà đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Đạt mức tăng gần 9 lần GDP bình quân đầu người sau 20 năm.
2.2.2- Tình hình đầu tư ở Thanh Hoá thời gian qua.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, cải cách hội nhập kinh tế quốc tế
và phát triển là các nhân tố có tác động chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện
và tiền đề cho nhau để đạt và duy trì tăng trưởng kinh tế vững bền, từng bước
khắc phục nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế. Vì vậy, cần khẳng định về lâu dài và
cơ bản, hội nhập là xu hướng tất yếu, là một nội dung của công cuộc đổi mới và
là yếu tố cơ bản đem lại lợi ích thiết thực cho đất nước, cho nền kinh tế nói
chung và cho từng ngành nói riêng trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định quan điểm: "Xây dựng một nền kinh
tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời
thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả".
Qua hơn 10 năm đổi mới, Thanh Hoá đã đạt được nhiều thành tựu trong
phát triển kinh tế, đạt được sự ổn định và tốc độ tăng trưởng khá, trong đó có góp
phần quan trọng của quá trình đa dạng hóa, đa phương hoá và phát triển kinh tế
đối ngoại, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn phát triển chính thức.
Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong thời
gian qua đã có sự tăng trưởng, mặc dù còn chậm và chưa đạt yêu cầu của kế
hoạch đề ra. Trong 5 năm 1991 - 1995 tổng vốn đầu tư là 4745,7 tỷ đồng, bình
quân 1 năm là 950,9 tỷ đồng; giai đoạn 1996 - 2000, tổng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản trên địa bàn tỉnh đạt 14.622,6 tỷ đồng, bình quân năm đạt 2924,4 tỷ
đồng. Riêng năm 2001 đạt 3000 tỷ đồng, thấp hơn so với mục tiêu đặt ra.
Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư, bằng những chính sách huy động tổng lực,
hầu hết các nguồn vốn đầu tư ở Thanh Hoá từ tất cả các thành phần kinh tế đều
tăng hàng năm. Cơ cấu huy động vốn cho đầu tư phát triển ngày đa dạng và có
46
những thay đổi về tỷ lệ qua các năm. Tỷ lệ huy động ngoài ngân sách ngày một
tăng. Do nguồn vốn ngân sách có hạn nên những năm gần đây, Tỉnh đã có chủ
trương khuyến khích các tầng lớp dân cư, kể cả trong nước và ngoài nước bỏ vốn
đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh và xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt từ
năm 1989 đến nay, đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Tỉnh có tốc độ tăng khá.
Năm 1995 vốn ngân sách chiếm tỷ lệ16,25%, vốn tín dụng chiếm 7,08%
và các nguồn vốn khác (vốn dân, vốn tự có của các doanh nghiệp, ODA,...)
chiếm 76,66%. Năm 1999 tương ứng là 15,87%, 4,47% và 79,64%.
Trong huy động và cân đối các nguồn vốn đầu tư trên địa bàn Thanh Hoá
10 năm qua (1990 - 2000), nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định. Năm
năm 1996 - 2000 nguồn trong nước chiếm 62,39%, vốn đầu tư nước ngoài chiếm
37,61%, đặc biệt trong năm 2001 tỷ trọng huy động vốn trong nước đạt tới
86,67%. Xu hướng nâng cao dần tỷ trọng vốn đầu tư trong nước là một xu hướng
tích cực, nhưng ở đây cũng phải tính đến sự suy giảm của dòng vốn FDI vào
Thanh Hoá trong những năm gần đây. Tuy nhiên tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện so
với vốn huy động còn thấp, đặc biệt chỉ số này của FDI còn thấp hơn. Hầu hết
các nguồn vốn trong nước đều tăng cả về quy mô và tỷ trọng trong đầu tư xã hội,
mạnh nhất là nguồn vốn do nhà nước trực tiếp bố trí thực hiện (vốn ngân sách và
vốn tín dụng đầu tư ), từ chỗ chỉ chiếm 23,33% năm 1995 đã tăng gần gần 33%
tổng vốn đầu tư xã hội năm 2001. Trong khi vốn đầu tư của ngân sách tăng bình
quân năm giai đoạn 1995 - 2001 đạt 15,56% nhưng lại chiếm tới 69% tổng vốn
đầu tư của nhà nước thì vốn tín dụng đầu tư lại có tốc độ tăng khá hơn, bình quân
năm trên 16,8% năm.
Tổng hợp vốn đầu tư phát triển trên lãnh thổ thời kỳ 1996 - 2000
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Số
TT
Nguồn vốn
Năm
1995
Năm
1996
Năm
1997
Năm
1998
Năm
1999
Năm
2000
Năm
2001
Tổng
96-2000
I Vốn trong nước 1666,31 1506,71 1918,8 1981,58 1778,37 1937,02 2600,09 9122,5
1 Vốn ngân sách 279,66 245,37 650,26 522,723 530,89 366,025 666,089 2315,27
2 Vốn tín dụng 121,89 133,59 156,9 301,92 149,6 270 310 1012,012
3 Vốn doanh nghiệp 67,15 80,5 27,4 40,85 27 31 35 206,75
4 Vốn của dân & TN 1025,31 902,57 970,65 975,47 935 1100 1250 4883,69
47
5 Vốn khác 172,29 144,67 113,59 140,62 135,87 170 339 704,76
II Vốn ngoài nước 54,5 642 530,149 1300 1585 1463 400 5500,15
1 FDI 20 400 420 1100 1200 1094 70 4214
2 ODA 24,5 230 97,649 187 351,5 365 316 1222,15
3 NGO 10 12 12,5 13 13,5 13 14 64
III Tổng số 1720,81 2148,71 2448,96 3281,59 3343,37 3400,025 3000 14622,65
Nguồn: Phòng tổng hợp - Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá
Trái ngược với xu hướng tăng sử dụng nguồn vốn đầu tư tín dụng là sự
giảm sút mạnh phần vốn do các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Tỉnh tự đầu
tư, với tỷ trọng 1,41% tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 1996 - 2000. Riêng năm
2001 các doanh nghiệp nhà nước chỉ đầu tư 35 tỷ đồng, chiếm 1,16% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội trong năm.
Trong cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài, chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, sau đó là ODA và NGO. Tổng FDI vào Thanh
Hoá giai đoạn 1996 - 2000 đạt 4214 tỷ đồng, chiếm 76,6% tổng vốn đầu tư ngoài
nước, trung bình mỗi năm thu hút được 842,8 tỷ đồng, tuy nhiên mức thu hút
được giữa các năm là không đồng đều và có sự chênh lệch khá lớn. Nguồn ODA
dần dần được phát triển và đã có những đóng góp đáng kể trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh, đặc biệt là công tác xoá đói giảm nghèo, phủ xanh
đất trống đồi núi trọc...
Về cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư xã hội chịu sự chi phối mạnh mẽ của cơ
cấu thành phần kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế, đồng thời cũng tích cực góp
phần vào chuyển dịch cơ cấu ngành và định hướng lại nền kinh tế của Tỉnh. Cơ
cấu đầu tư đã tạo ra được một số ngành sản xuất mới. Cơ cấu đầu tư được định
hướng theo cơ cấu ngành và có vai trò quyết định trong chuyển dịch cơ cấu
ngành trong những năm qua. Dựa vào điều kiện tự nhiên và điểm xuất phát của
nền kinh tế còn rất thấp, Thanh Hoá đã có chiến lược đầu tư trong từng giai đoạn
cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh:
+ Thời kỳ 1986 - 1990, đầu tư tập trung chủ yếu cho các công trình sản
xuất, chiếm tới 75% tổng vốn đầu tư.
+ Thời kỳ 1991 - 1995, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chiếm tỷ
lệ 74% tổng vốn đầu tư.
48
+ Thời kỳ 1996 - 2000 đầu tư tập trung cho sản xuất công nghiệp chiếm tỷ
lệ 61% tổng vốn đầu tư, dành một tỷ lệ thích đáng cho cơ sở hạ tầng.
Sự thay đổi cơ cấu vốn đầu tư như trên đã bước đầu góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa kinh tế của Tỉnh Thanh Hoá hội nhập được với
xu thế chung của các tỉnh bạn và của cả nước.
Về hiệu quả vốn đầu tư, thời kỳ 1991 - 1995 giá trị tài sản cố định mới
tăng bình quân mỗi năm là 98 tỷ đồng (phần vốn trong kế hoạch); tăng gấp 5 lần
thời kỳ 1986 - 1990. Thời kỳ 1996 - 2000, giá trị tài sản cố định mới tăng thêm
bình quân hàng năm ước đạt 284 tỷ. Kết qủa của huy động nhiều vốn đầu tư và
thay đổi cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã làm tăng năng lực sản xuất và cơ
sở hạ tầng của một số ngành:
- Điện: Thời kỳ 1996 - 2000, lưới điện toàn tỉnh được tăng cường, đến hết
năm 2000, toàn tỉnh có 104km - 220kv; 332km - 110kv; 1074km - 35kv; 1874
km đường dây 6-10kv; 7427 km đường dây 0,4kv. Năng lực các trạm biến áp
gồm: 1 trạm 220kv (250.000kva); 6 trạm 110kv (287.000 kva); 40 trạm 35kv/6-
10kv (110.000kva); 1523 trạm phụ tải (340.000kva). Hàng năm cung cấp trên
650 triệu KW/h điện ổn định cho sản xuất, điện sinh hoạt cho nhân dân vơí chất
lượng ngày càng nâng cao. Đến cuối năm 2000, toàn tỉnh có 80,5% số xã có điện
lưới quốc gia, 75% số hộ dùng điện. Đường dây 35kv đã vươn tới các huyện
vùng cao của Tỉnh.
- Giao thông: Trong thời kỳ 1996 - 2000 đã xây dựng thêm 569 km đường
nhựa; 657 km đường cấp phối; làm mới 50 cầu … Đặc biệt mạng lưới giao thông
ở thành phố Thanh Hoá và thị xã Bỉm Sơn đã được cải tạo nâng cấp để phục vụ
cho phát triển du lịch và đi lại của dân cư được thuận tiện hơn.
- Đến năm 2000, toàn tỉnh có 7725 km đường bộ (không kể đường liên
thôn, đường nội đồng). Các tuyến quốc lộ 1A; 47; 45; 15A… được nâng cấp xây
dựng, đường nhựa chiếm 12%. Xây dựng mới và đưa vào sử dụng các tuyến
đường vùng nguyên liệu mía, các cầu qua sông lớn như cầu Lèn, cầu Tào, … và
mới đây đã thông xe cầu Hoàng Long vượt Sông Mã.
Tuy vậy, hệ thống giao thông của Tỉnh vẫn còn yếu kém, đường cấp phối,
đường đất còn chiếm tỷ trọng lớn (83,1%), tập trung chủ yếu ở các tuyến đường
49
liên xã, liên huyện; đường đất:3015 km (chiếm 39%) và 3410 km đường cấp
phối (chiếm 44%). Tính đến nay vẫn còn 16 xã chứa đường ô tô đến trung tâm.
- Thuỷ lợi: Trong những năm qua hệ thống thuỷ lợi đã được đầu tư thích
đáng như đã đại tu nâng cấp hệ thống thuỷ nông sông Chu, kiên cố hoá kênh
mương nội đồng, tu bổ hệ thống thuỷ lợi Bắc Sông Mã, Nam Sông Mã, thuỷ lợi
Sông Mực, Yên Mỹ… Do đó hệ thống tưới đã đảm bảo tưới chủ động được phần
lớn diện tích lúa. Tuy nhiên còn một số vùng như Tĩnh Gia, các huyện miền núi
hệ thống tưới còn chưa được nhiều. Mặt khác hệ thống tiêu còn kém, thiên tai, lũ
lụt vẫn là mối đe doạ vụ mùa.
- Bưu chính viễn thông: Hệ thống bưu chính viễn thông phát triển khá,
nhiều dịch vụ mới như điện thoại di động, điện thoại thẻ… tăng nhanh. Đến nay
đã có 27/27 huyện thị có liên lạc trong và ngoài nước, số máy điện thoại tăng
nhanh, đến năm 2000 toàn tỉnh đã có 36.000 máy, bình quân 10,7 máy điện
thoại/1.000 dân.
- Đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất: 1996 - 2000 là thời kỳ đầu tư xây dựng
nhiều cơ sở sản xuất với quy mô lớn như 3 nhà máy đường, nhà máy xi măng
Nghi Sơn, bao bì PP, gạch tuynel, cải tạo và mở rộng nhà máy bia, các xí nghiệp
may… Đã hình thành đậm nét các khu công nghiệp Bỉm Sơn-Thạch Thành; khu
công nghiệp Tĩnh Gia-Nghi Sơn; khu công nghiệp Mục Sơn- Lam Sơn và khu
công nghiệp thành phố Thanh Hoá-Sầm Sơn.
Bên cạnh nguồn vốn ngân sách, vốn tín dụng đầu tư đã tập trung cho các
công trình sản xuất kinh doanh phát huy hiệu quả như: bia, thuốc lá, phụ gia xi
măng...
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản nhìn chung đúng hướng, nhiều công
trình đã phát huy được hiệu quả, thu hồi được vốn đầu tư và có đóng góp cho
ngân sách. Tuy nhiên công tác xây dựng cơ bản còn những tồn tại yếu kém:
Tổng vốn đầu tư trong thời kỳ 1996 - 2000 tuy đạt 14,62 nghìn tỷ đồng, nhưng
không đạt so với mục tiêu 18 nghìn tỷ đồng. Tiến độ thi công nhiều công trình
chậm nên hiệu quả chưa cao. Có một số công trình hiệu quả còn thấp, công tác
quản lý đầu tư và xây dựng còn nhiều bất cập, yếu kém ở tất cả các khâu. Kể cả
các công trình thực hiện đấu thầu.
50
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thì có nhiều, song có thể chỉ ra đây
một số nguyên nhân chính sau:
- Việc chuẩn bị dự án, thiết kế dự toán, hồ sơ đấu thầu, giải phóng mặt
bằng... của chủ đầu tư còn chậm chất lượng không đảm bảo, làm ảnh hưởng đến
công tác giao kế hoạch và tiến độ xây dựng cơ bản.
- Sau khi trúng thầu, các nhà thầu triển khai và thực hiện chậm so với
những cam kết khi dự thầu và trong hợp đồng cam kết.
- Các chủ đầu tư lập thủ tục thanh toán không kịp thời, chưa thực sự tích
cực trong trách nhiệm của mình, đặc biệt là khâu báo cáo, ảnh hưởng đến công
tác điều hành của tỉnh và việc giải ngân.
- Các công trình có khối lượng lớn nhưng không đảm bảo nguồn vốn để
thanh toán như: Vốn sổ số kiến thiết, phí quảng cáo truyền hình, vốn Biển Đông
Hải Đảo; không có nguồn thanh toán như vốn chứng khoán.
Qua những ý kiến nhận định bước đầu, chúng ta có thể hình dung được
toàn cảnh tình hình đầu tư phát triển ở Thanh Hóa thời gian qua, nhất là giai
đoạn 1996 - 2000, những vấn đề đã đạt được và những vướng mắc còn tồn tại.
Vậy để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đầu tư đã có những phương hướng và hành động như thế nào trong từng ngành,
từng vùng lãnh thổ, các thành phần kinh tế… , chúng ta sẽ xem xét tiếp phần
Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hoá.
2.2.3- Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thanh Hóa.
Thanh Hoá bước vào thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986 trong bối
cảnh kinh tế xã hội phức tạp. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, còn nhiều yếu tố
không thuận lợi trên cả tầm vĩ mô (mất cân bằng nghiêm trọng giữa tổng cung và
tổng cầu, lạm phát phi mã và siêu lạm phát, thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán
cân thương mại, những sai lầm nghiệm trọng trong chính sách kinh tế…), cũng
như ở cấp độ vi mô (trước hết là sự hoạt động kém hiệu quả của các xí nghiệp
quốc doanh và các hợp tác xã nông nghiệp), cả yếu tố trong nước cũng như yếu
tố ngoài nước. Kết quả là vào thời điểm đó, xảy ra tình trạng khủng hoảng sâu
sắc, sản xuất đình trệ, mức sống của đại đa số người dân bị giảm sút. Sau hơn 10
năm đổi mới, những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế xã hội, trong đó có
51
kết quả về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dù chưa thực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và giải pháp đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Thanh Hoá.pdf