Tài liệu Luận văn Thực trạng và công tác đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí: Luận văn
Thực trạng và công tác
đánh giá hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh ở Công
ty Dụng cụ cắt và đo lường
cơ khí
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế thị trường là việc tổ chức nền kinh tế xã hội dựa trên cơ sở một
nền sản xuất hàng hóa. Thị trường luôn mở ra các cơ hội kinh doanh mới
những đồng thời cũng chứa đựng những nguy cơ đe dọa các doanh nghiệp. Để
có thể đứng vững trước quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường
đòi hỏi các doanh nghiệp luôn vận động, tìm tòi một hướng đi mới cho phù
hợp. Vì vậy các doanh nghiệp phải quan tâm, tìm mọi biện pháp để nâng cao
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là mối quan tâm hàng đầu
của các doanh nghiệp. Có nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì doanh
nghiệp mới tồn tại và phát triển, qua đó mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống
cán bộ công nhân viên và tạo sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp.
Vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn là ...
94 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1071 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và công tác đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và công tác
đánh giá hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh ở Công
ty Dụng cụ cắt và đo lường
cơ khí
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế thị trường là việc tổ chức nền kinh tế xã hội dựa trên cơ sở một
nền sản xuất hàng hóa. Thị trường luôn mở ra các cơ hội kinh doanh mới
những đồng thời cũng chứa đựng những nguy cơ đe dọa các doanh nghiệp. Để
có thể đứng vững trước quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường
đòi hỏi các doanh nghiệp luôn vận động, tìm tòi một hướng đi mới cho phù
hợp. Vì vậy các doanh nghiệp phải quan tâm, tìm mọi biện pháp để nâng cao
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là mối quan tâm hàng đầu
của các doanh nghiệp. Có nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì doanh
nghiệp mới tồn tại và phát triển, qua đó mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống
cán bộ công nhân viên và tạo sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp.
Vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn là bài toán khó đối
với nhiều doanh nghiệp. Ở nước ta hiện nay số doanh nghiệp đạt được hiệu
quả trong quá trình sản xuất kinh doanh vẫn chưa nhiều. Điều này có nhiều
nguyên nhân như: Hạn chế trong công tác quản lý, hạn chế về năng lực sản
xuất hay kém thích ứng với nhu cầu của thị trường. Do đó nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh càng ngày càng phải được chú trọng đặc biệt là đối với
các doanh nghiệp Nhà nước.
Qua quá trình thực tập ở Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí, với
những kiến thức đã tích luỹ được cùng với sự nhận thức về tầm quan trọng
của vấn đề này em đã chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí" làm đề
tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần như sau:
Phần I: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh - Điều kiện tiên quyết
để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Phần II: Thực trạng và công tác đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh ở Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí.
1
Phần III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí.
Chuyên đề này được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo
Trần Việt Lâm và các cô chú trong Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu này !
Hà Nội, tháng 3 năm 2003
Sinh viên: Tạ Duy Bộ
2
PHẦN I
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH - ĐIỀU KIỆN TIÊN
QUYẾT ĐỂ DOANH NGHIỆP TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN
I. HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1. Các quan điểm cơ bản về hiệu quả.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
thì phải làm ăn có hiệu quả. Đây là một sụ thực hiển nhiên, một chân lý và để
hiểu rõ điều này thì trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu về khái niệm hiệu quả.
Ngày nay, người ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về hiệu quả.
Ở mỗi góc độ, lĩnh vực khác nhau thì hiệu quả cũng được xem xét nhìn nhận
khác nhau và thông thường khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì
chúng ta xem xét vấn đề hiệu quả trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị và xã
hội. Tương ứng ta có 3 phạm tru: hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu
quả xã hội.
1.1.1. Hiệu quả kinh tế.
Nếu xét trên phạm vi từng khía cạnh, từng yếu tố, từng ngành thì chúng
ta có phạm trù hiệu quả kinh tế. Có thể hiểu hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết
quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Kết quả thu về đề cập
trong khái niệm này có thể là doanh thu, lợi nhuận, tổng sản phẩm công
nghiệp… Hiệu quả kinh tế thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Hiệu quả chính trị, xã hội.
Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì ta có hai
phạm trù hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Hai phạm trù này phản ánh
ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đối với việc giải quyết những
yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Và hai loại hiệu
quả này có vị trí quan trọng trong việc phát triển đất nước một cách toàn diện
và bền vững. Hiệu quả chính trị, xã hội phản ánh trình độ phát triển nền kinh
3
tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình
quân.
Phải luôn có sự cân đối giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị, xã
hội. Đây là một nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia một
cách liên tục và lâu dài. Bất kỳ một sự mất cân đối nào sẽ dẫn đến những hậu
quả nghiêm trọng.
Dưới góc độ của doanh nghiệp thì ta có khái niệm hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh có bản chất của hiệu quả kinh tế và
cũng có bản chất của hiệu quả chính trị, xã hội (đời sống người lao động…).
Dưới đây là một số quan điểm về hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị, xã
hội. Nếu áp dụng những quan điểm đó vào phạm vi của doanh nghiệp thì ta có
thể coi đó là các quan điêmr về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Qua một số
quan điểm này chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về khái niệm hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
1.1.3. Một số quan điểm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Mặc dù đã có sự thống nhất rằng phạm trù hiệu quả sản xuất kinh
doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn
chưa có sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các nhà kinh tế và thống kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả
sản xuất kinh doanh do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu là không
giống nhau.
Quan điểm 1: Trước đây người ta coi "Hiệu quả là kết quả đạt được
trong hoạt động kinh tế, là doanh thu trong tiêu thụ hàng hóa"1 [Xem trang 9].
Theo quan điểm này thì hiệu quả là tốc độ tăng của kết quả đạt được như: Tốc
độ tăng của doanh thu, của lợi nhuận. Như vậy hiệu quả được đồng nhất với
các chỉ tiêu kết quả hay với nhịp độ tăng của các chỉ tiêu ấy. Quan điểm này
thực sự không còn phù hợp với điều kiện ngày nay. Kết quả sản xuất có thể
tăng lên do tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất (đầu vào của
quá trình sản xuất). Nếu hai doanh nghiệp có dùng một kết quả sản xuất tuy
có hai mức chi phí khác nhau, theo quan điểm này thì hiệu quả sản xuất kinh
doanh của chúng là như nhau. Điều này thật khó chấp nhận.
Quan điểm 2: Theo quan điểm này thì "Hiệu quả được xác định bằng
nhịp độ tăng tổng sản phẩm mà xã hội hoặc thu nhập quốc dân"2 [Xem trang
4
9]. Xét trên phạm vi của doanh nghiệp, thì theo quan điểm này thì hiệu quả
sản xuất kinh doanh và nhịo độ tăng giá trị tổng sản lượng là một. Nhìn trên
một góc độ nào đó thì quan điểm này cũng gần giống như quan điểm một. Nó
cũng không đề cập tới chi phí bỏ ra để đạt được giá trị tổng sản lượng đó. Nếu
tốc độ tăng của chi phí sản xuất được các nguồn lực được huy động tăng
nhanh hơn nhịp độ tăng giá trị tổng sản lượng thì sao. Hơn nữa, việc chọn
năm gốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả so sánh. Với mỗi năm gốc khác
nhau chúng ta lại có mức hiệu quả khác nhau của cùng một năm nghiên cứu.
Quan điểm 3: Đây là quan điểm về hiệu quả được trình bày trong giáo
trình kinh tế học của P.Samueleson và W.Nordhmas (Viện quan hệ quốc tế -
Bộ ngoại giao xuất bản, bản dịch tiếng Việt năm 1991). Theo quan điểm này
thì "Hiệu quả sản xuất diễn ra khi sản xuất không thể tăng sản lượng một loại
hàng hóa mà không cắt giảm sản xuất của một loại hàng hóa khác. Một nền
kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó"3 [Xem
trang 275]. Nhìn nhận quan điểm này dưới giác độ doanh nghiệp thì tình hình
sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi nằm trên đường giới hạn khả năng sản
xuất của nó. Giới hạn khả năng sản xuất của doanh nghiệp được xác định
bằng giá trị tổng sản lượng tiềm năng, là giá trị tổng sản lượng cao nhất có thể
đạt được ứng với tình hình công nghệ và nhân công nhất định. Theo quan
điểm này thì hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và mức "tối đa" về
sản lượng. Tỷ lệ so sánh càng gần 1 càng có hiệu quả. Mặt khác ta thấy quan
điểm này tuy đã đề cập đến các yếu tố đầu vào nhưng lại đề cập không đầy
đủ.
Tóm lại quan điểm này là chính xác, độc đáo nhưng nó mang tính chất
lý thuyết thuần tuý, lý tưởng, thực tế rất khó đạt được.
Quan điểm 4: Quan điểm này cho rằng "Hiệu quả kinh tế nền sản xuất
xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng
của nó chứ không phải là giá trị"4 [Xem trang 9]. Theo tác giả của quan điểm
này, mức độ thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ thể chứ
không phải giá trị trừu tưoựng nào đó. Tuy nhiên quan điểm này gặp phải trở
ngại là khó (nếu không muốn nói là không thể) tính được tính hữu ích của sản
phẩm được sản xuất ra. Và nếu vậy thì chúng ta không thể so sánh được tính
hữu ích giữa các sản phẩm, do đó cũng không đánh giá được tính hiệu quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh,.
5
Quan điểm 5: Quan điểm này cho rằng "Hiệu quả kinh tế được xác
định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của đại lượng kết quả và chi phí"5
[Xem trang 253].
Công thức biểu diễn phạm trù này:
H =
C
K
(1)
K: Phần gia tăng của kết quả sản xuất
C: Phần gia tăng của chi phí sản xuất
H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh
Quan điểm này phản ánh hiệu quả chưa đầy đủ và trọn vẹn. Nó chỉ đề
cập đến hiệu quả của phần tăng thêm bằng cách so sánh giữa phần gia tăng
của kinh doanh sản xuất và phần gia tăng của chi phí sản xuất chứ chưa đề
cập toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Xét trên quan
điểm triết học Mác Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng đều có mỗi quan hệ mật
thiết, hữu cơ với nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ, độc lập. Sản xuất
kinh doanh không nằm ngoài quy luật này, các yếu tố "tăng thêm" giảm đi có
liên hệ với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp các động tới kết
quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là kết quả tổng
hợp của toàn bộ phần tham gia vào quá trình sanr xuất kinh doanh. Quan điểm
này chỉ đề cập đến phần tăng thêm trong khái niệm hiệu quả là chưa đầy đủ,
thiếu chính xác/
Quan điểm 6: Theo quan điểm này "Hiệu quả kinh tế được xác định
bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết qủa đó"6
[Xem trang 253].
Khái niệm chung về hiệu quả kinh tế: "Hiệu quả kinh tế của một hiện
tượng (hoặc một quá trình kinh tế) phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
(nhân tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định"7 [Xem trang 9].
Từ khái niệm trên ta có công thức để biểu diễn khái quát phạm trù hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
H =
C
K (2)
H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
6
K: Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
C: Chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh (chi phí bỏ ra để đạt được
kết quả K).
Như vậy ta nhận thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Còn kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận) thì phản
ánh số lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy khi xem xét, đánh giá
hoạt động của một doanh nghiệp thì phải quan tâm cả kết quả cũng như hiệu
quả của doanh nghiệp đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn
lực ở mọi điều kiện "động" của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể thực hiện được trong sự vận
động và biến đổi không ngừng của hoạt động sản xuất kinh doanh, không phụ
thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
1.2. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt
động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị,
máy móc, tiền, nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự
thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian.
Các Mác đã cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm
quan trọng đặc biệt. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quản lý
đó. Con người tạo ra của cải vật chất bằng sức lao động. Lao động được đo
lường bằng thời gian. Với một mục tiêu nhất định con người phải thực hiện
trong một thời gian lao động ít nhất hay nói một cách khác thì trong một thời
gian lao động nhất định kết quả đạt được phải cao nhất.
Vì vậy yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải
đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu (thời gian hao phí lao động thấp nhất).
Điều này có nghĩa là với mức chi phí nhất định thì doanh nghiệp phải đạt kết
quả tối đa hoặc ngược lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm
7
hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý
luận cũng như thực tiễn đã tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và
kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, khi đó đã coi kết quả là mục tiêu
mục đích và coi hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu. Từ
quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp luận giải quyết
vấn đề, đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả và rõ
ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đây là quan niệm sai lầm và cần phải được thay đổi.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình
sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần
thiết của doanh nghiệp có thể là những đại lượng có thể cân, đo, đong đếm
được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận… và cũng có
thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định
tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm… Như thế kết quả bao giờ
cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về hiệu quả
sản xuất kinh doanh, người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và
chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản kinh doanh. Trong
lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều
có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử
dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải
khó khăn là giữa "đầu vào" và "đầu ra" không có cùng một đơn vị đo lường,
còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng
một đơn vị đo lường tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là hiệu quả sản xuất kinh
doanh là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trước tiên, hiệu quả sản
xuất kinh doanh phản ánh việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được
ở trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà
thông qua đó có thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể có các giải pháp nhằm đạt mục tiêu của
doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với chi phí về nhân tài, vật lực và tiền vốn ít
hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu
cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công
cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
2. Đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh.
8
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh
giá chính xác. Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phức
tạp và khó đánh giá chính xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất
kinh doanh đã cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh được xacs định bởi mối
tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt được từ hoạt động sản xuất
(doanh nghiệp sản xuất) hoặc kinh doanh (doanh nghiệp thương mại, dịch
vụ…) và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh đó.
Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít
khi các doanh nghiệp xác định được chính xác các kết quả mà doanh nghiệp
thu được ở một thời điểm nào đó do các quá trình tạo ra kết quả diễn ra trong
các doanh nghiệp thường có sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,… Trong nền
kinh tế thị trường, doanh nghiệp không phải chỉ tạo ra kết quả (sản phẩm, dịch
vụ) mà còn phải bán được các kết quả đó và quá trình bán hàng và quá trình
tạo ra kết quả luôn không trùng nhau. Một doanh nghiệp ở một thời điểm nào
đó có thể có nhiều sản phẩm được sản xuất ra nhưng lại tiêu thụ được rất ít,
như thế chưa thể nói doanh nghiệp đã đạt được kết quả (mục tiêu). Nếu xét
trên góc độ giá trị, đại lượng kết quả của sản xuất kinh doanh không phải là
đại lượng đánh giá dễ dàng vì ngoài các nhân tố ảnh hưởng trên, kết quả sản
xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị (đồng tiền với những
thay đổi của nó trên thị trường). Mặt khác, chính hoạt động của con người là
luôn nhằm đến và đạt đến kết quả nhất định, song không phải lúc nào con
người cũng nắm chắc được, biết hết được các kết quả do chính hành động của
họ. Như vậy, phạm trù kết quả là một phạm trù phức tạp mà không phải lúc
nào chúng ta cũng đánh giá đầy đủ được nó.
Việc xác định đại lượng chi phí cũng không dễ dàng. Nếu xét trân
phương diện lý thuyết thì chi phí tính bằng đơn vị hiện vật là chi phí sử dụng
tài nguyên, chi phí "thực" để tạo ra kết quả của doanh nghiệp song điều đó
không thể xác định được trong thực tiễn. Ở mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê,
kiểm tra xem đã sử dụng bao nhiêu đơn vị nguyên nhiên vật liệu mỗi loại
cũng không phải lúc nào cũng tiến hành được. Trong khi đó, ở mọi doanh
nghiệp lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào không chỉ liên quan đến một quá
trình tạo ra sản phẩm nào đó mà nó liên quan đến nhiều quá trình kinh doanh
khác nhau. Điều này dẫn tới việc xác định hao phí một cách chính xác vào
9
một quá trình kinh doanh cụ thể gặp nhiều khó khăn. Nếu xét trên phương
diện giá trị, chi phí kinh doanh thường được hiểu là giá trị của toàn bộ tài
nguyên đã sử dụng trong kinh doanh. Bản thân việc sử dụng các yếu tố đầu
vào dưới dạng chi phí sử dụng tài nguyên đã là không xác định được trong
tính toán bằng tiền, độ phức tạp và thiếu chính xác còn lớn hơn nhiều vì nó
hàm chứa rất nhiều yếu tố chủ quan của con người (chi phí là hi phí tính
toán). Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh con người
ngày càng đưa chi phí tính toán tiếp cận đến gần chi phí kinh tế hơn. Hơn nữa,
không chỉ những chi phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
mới đem lại kết quả cho doanh nghiệp, mà còn rất nhiều chi phí cho hoạt
động xã hội như: Giáo dục, cải tạo môi trường, sức khoẻ… có tác động không
nhỏ tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các chi phí này rất khó tính
toán được trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. Mặt khác, trong thực tế
khi ra các quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thường
hướng vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên dẫn đến xu hướng chi phí biên
cá nhân (MPC) thấp hơn chi phí biên xã hội (MSC). Điều này dẫn đến sự tách
biệt giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội. Để rút ngắn sự tách biệt này, các
biện pháp can thiệp vĩ mô của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết. Cũng cần thấy
rằng khi doanh nghiệp ra quyết định sản xuất kinh doanh theo hướng giảm chi
phí biên cá nhân so với chi phí biên xã hội sẽ tạo ra ảnh hưởng ngoại ứng đối
với các doanh nghiệp sản xuất khác cũng như đối với người tiêu dùng và
trong nhiều trường hợp cũng ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân doanh nghiệp
với tư cách là một thành viên trong đó. Nhiều doanh nghiệp cố tình giảm
thiểu chi phí cho việc xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường và sự ô nhiễm
ngày một tăng ảnh hưởng đến cả khu vực rộng lớn và cuối cùng dẫn đến việc
đóng cửa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các biện pháp pháp
luật. Như thế kết quả và hiệu quả đạt được trước mắt của doanh nghiệp đã dẫn
đến không có hiệu quả và thậm chí phi hiệu quả kinh tế nếu xét trong thời
gian dài.
3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với
thị trường nhất là trong một nền kinh tế mở. Do vậy mà để thấy được vai trò
của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong
10
nền kinh tế trước hết chúng ta nghiên cứu cơ chế thị trường và hoạt động của
doanh nghiệp trong thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi hàng hóa. Nó tồn tại một
cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan nào. Bởi vì, thị
trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất
hàng hóa. Ngoài ra, thị trường còn có một vai trò quan trọng trong việc điều
tiết và lưu thông hàng hóa. Thông qua nó các doanh nghiệp có thể nhận biết
được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả trên thị trường.
Trên thị trường luôn luôn tồn tại các quy luật vận động của hàng hóa,
giá cả, tiền tệ… như các quy luật thặng dư, quy luật giá cả, quy luật cạnh
tranh… Các quy luật này tạo thành một hệ thống thống nhất và hệ thống này
chính là linh hồn là cha đẻ của cơ chế thị trường. Như vậy, cơ chế thị trưởng
được hình thành bởi sự tác động tổng hợp của các quy luật trong sản xuất,
trong lưu thông trên thị trường. Thông qua các quan hệ mua bán hàng hóa,
dịch vụ trên thị trường cơ chế thị đường tác động đến việc điều tiết sản xuất,
tiêu dùng, đầu tư và làm thay đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành… Nói cách
khác cơ chế thị trường điều tiết quá trình phân phối, phân phối lại các nguồn
trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một cách tối ưu nats.
Tóm lại, sự vận động đa dạng, phức tạp của cơ chế thị trường dẫn đến
sự biểu hiện gần đùng nhu cầu thị trường của xã hội. Song các doanh nghiệp
không được đánh giá quá cao hoặc tuyệt đối hóa vai trò của thị trường, coi cơ
chế thị trường là hoàn hảo. Bởi lẽ thị trường luôn chứa đựng những khuyết tật
của nó như: Đầu cơ, lừa lọc, độc quyền… Do vậy mỗi doanh nghiệp phải xác
định được cho mình một phương thức hoạt động riêng phù hợp với doanh
nghiệp. Cụ thể là:
Doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ chế hoạt động trên hai thị
trường đầu vào và đầu ra để đạt một kết quả cao nhất và kết quả này không
ngừng phát triển nâng cao hiệu quả về mặt chất cũng như về mặt lượng. Như
vậy, trong cơ chế của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh có vai trò
đối với doanh nghiệp.
- Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả kinh tế trong kinh doanh là mục tiêu
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
11
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần VII nếu rõ: "Một thành tựu khác
về đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước".
Phát triển kinh tế nhiều thành phần phải đảm bảo cho tổng sản phẩm xã
hội c+v+m và thu nhập quốc dân m+v đủ để thỏa mãn 2 yêu cầu sau:
Một là: Bù đắp đầy đủ, kịp thời chi phí về tư liệu sản xuất và chi phí
lao động đã hao phí (c+v) trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần.
Hai là: Bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân có được một bộ tích lũy quan
trọng để tái sản xuất mở rộng và đáp ứng những nhu cầu của xã hội.
- Thứ hai: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở cơ bản để
đảm bảo tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh
nghiệp trên thị trường trong khi đó lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự có mặt
này, đồng thời là mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp là: Luôn tồn tại, phát
triển một cách vững chắc. Do vậy thu nhập của doanh nghiệp phải không
ngừng nâng lên. Nhưng trong điều kiện vốn và các kỹ thuật chỉ thay đổi trong
khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận bắt buộc các doanh nghiệp phải
tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh là
điều kiện hết sức quan trọng trong công việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự
tạo ra hàng hóa, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã
hội đồng thời tạo ra tích lũy cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi
doanh nghiệp đều phải vươn lên đảm bảo thu nhập, bù đắp chi phí bỏ ra và có
lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu
cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh như là một tất yếu.
Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là một yêu cầu mang tính chất giản đơn
còn sự phát triển và mở rộng doanh nghiệp lại là một yếu tố quan trọng. Bởi
vì sự phát triển, mở rộng của doanh nghiệp không những đòi hỏi sự tồn tại
của doanh nghiệp mà còn đòi hỏi sự tích lũy đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất mở rộng theo đúng quy luật phát triển. Như vậy để phát triển và mở rộng
12
doanh nghiệp mục tiêu lúc này không còn là đủ bù đắp chi phí bỏ ra để phát
triển quá trình tái sản xuất giản đơn mà phải đảm bảo có tích lũy đáp ứng nhu
cầu tái sản xuất mở rộng và một lẫn nữa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh được nhấn mạnh.
- Thứ ba: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy
cạnh tranh và sự tiến bộ trong kinh doanh.
Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị
trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng
khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không phải là các mặt hàng mà cạnh
tranh cả chất lượng, giá cả… Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp
đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho doanh nghiệp mạnh lên
nhưng cũng có thể bóp chết doanh nghiệp trên thị trường. Do vậy, để tồn tại
và phát triển thì các doanh nghiệp đều phải chiến thắng trong cạnh tranh trên
thị trường. Để được điều này thì các doanh nghiệp phải có hàng hóa, dịch vụ
có chất lượng tốt, giá cả hợp lý.
Mặt khác hiệu quả sản xuất kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá
thành, tăng khối lượng hàng hóa bán, chất lượng không ngừng được hoàn
thiện nâng cao… Như vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là
hiệu quả, chính là hạt nhân cơ bản của thắng lợi trong cạnh tranh. Và các dạng
cạnh tranh nhau tức là không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là con đường của
doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của mình.
II. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
TOÁN CÁC CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT KINH DOANH Ở CÁC
DOANH NGHIỆP.
1. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ công thức định nghĩa về hiệu quả kinh tế, chúng ta thấy khi thiết lập
mối quan hệ tỷ lệ giữa đầu ra và đầu vào có thể cho một dãy giá trị khác nhau.
Vấn đề được đặt ra là trong một dãy các giá trị có thể đạt được thì giá trị nào
phản ánh tính có hiệu quả (nằm trong miền có hiệu quả), các giá trị nào sẽ
phản ánh tính hiệu quả cao cũng như những giá trị nào nằm trong miền không
đạt hiệu quả (phi hiệu quả). Chúng ta có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả sản xuất
kinh doanh là thước đo, là giới hạn, là căn cứ, là một cái mốc xác định ranh
13
giới có hiệu quả hay không có hiệu quả về một chỉ tiêu hiệu quả đang xem
xét.
Xét trên phương diện lý thuyết, mặc dù các tác giả đều thừa nhận về
bản chất khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ lợi dụng
các yếu tố sản xuất, song công thức khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
cũng chưa phải là công thức mà các nhà kinh tế thống nhất thừa nhận. Vì vậy,
cũng không có tiêu chuẩn chung cho mọi công thức hiệu quả sản xuất kinh
doanh, mà tiêu chuẩn hiệu quả sản xuất kinh doanh còn phụ thuộc vào mỗi
công thức xác định hiệu quả cụ thể. Ở các doanh nghiệp tiêu chuẩn hiệu quả
phụ thuộc vào từng chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh cụ thể. Chẳng hạn,
với những chỉ tiêu hiệu quả liên quan đến các quyết định lựa chọn kinh tế sử
dụng phương pháp cận biên người ta hay so sánh các chỉ tiêu như doanh thu
biên và chi phí biên với nhau và tiêu chuẩn hiệu quả là doanh thu biên bằng
với chi phí biên (tổng hợp cũng như cho từng yếu tố sản xuất). Trong phân
tích kinh tế với việc sử dụng các chỉ tiêu tính toán trung bình có khi lấy mức
trung bình của ngành hoặc của kỳ trước làm mức hiệu quả so sánh và kết luận
tính hiệu quả của doanh nghiệp.
Như vậy, việc nghiên cứu để đưa ra được tiêu chuẩn cho mỗi chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh và việc phấn đấu
để đạt được tiêu chuẩn đó là công việc hết sức quan trọng để thúc đẩy sự phát
triển của doanh nghiệp.
2. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Muốn có nhận thức đúng đắn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cần phân tích và đánh giá. Qua đó thấy được trình độ quản lý điều kiện
của doanh nghiệp cũng như đánh giá được chất lượng của phương án kinh
doanh mà doanh nghiệp đã đề ra. Thông qua đó phát hiện ra những ưu điểm
cần phát huy và những hạn chế, những nguyên nhân ảnh hưởng không tốt đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có thể đưa ra những
phương pháp, biện pháp thông qua các phương án sử dụng tối ưu các nguồn
lực.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất phức tạp. Do vậy,
không thể sử dụng một chỉ tiêu để đánh giá mà cần phải đưa ra một hệ thống
14
các chỉ tiêu để đo lường và đánh giá chính xác, khoa học. Hệ thống chỉ tiêu
này phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
- Thứ nhât: Trong hệ thống các chỉ tiêu đánh giá phải có các chỉ tiêu
đánh giá tổng hợp, phản ánh chung tình hình sản xuất kinh doanh, các chỉ tiêu
bộ phận phản ánh hiệu quả kinh doanh từng mặt, từng khâu như: Lao động,
vốn… Các chỉ tiêu bộ phận là cơ sở cho việc tìm ra mặt mạnh, mặt yếu trong
quá trình sử dụng từng yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Thứ hai: Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá phải bảo đảm tính hệ thống
và toàn diện, tức là chỉ tiêu hiệu quả phải phán ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Thứ ba: Hệ thống các chỉ tiêu phán ảnh tình hình trên cơ sở những
nguyên tắc chung của hiệu quả, nghĩa là phản ánh được trình độ sử dụng lao
động sống và lao đọng vạt hóa thông qua việc so sánh giữa kết quả và chi phí.
Trong đó có các chỉ tiêu kết quả và chi phí phải có khả năng đo lường được
thì mới có thể so sánh, tính toán được theo phương pháp tính toán cụ thể,
thống nhất, các chỉ tiêu phải có phạm vi áp dụng nhất định phục vụ từng mục
đích nhất định của công tác đánh giá.
- Thứ tư: Hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo phản ánh được tính đặc
thù của từng ngành kinh doanh khác nhau.
2.1. Chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp.
Chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và
cho phép kết luận về hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh, phản ánh trình độ lợi dụng tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tư liệu sản xuất, nguyên nhiên
vật liệu, lao động… và bao hàm cả tác dụng của yếu tố quản trị đến sử dụng
có hiệu quả các yếu tố trên).
2.1.1. Các chỉ tiêu doanh lợi.
Xét trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn quản trị kinh doanh các
nhà kinh tế cũng như các nhà quản trị hoạt động kinh doanh ở các doanh
nghiệp đều quan tâm trước hết đến việc tính toán, đánh giá chỉ tiêu chung
phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu doanh lợi được tính cho
15
toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp và tính riêng cho vốn tự có của
doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của vốn kinh doanh,
vốn tự có, khẳng định mức độ đạt hiệu quả kinh doanh của toàn bộ số vốn
doanh nghiệp sử dụng nói chung cũng như hiệu quả sử dụng số vốn tự có của
doanh nghiệp nói riêng. Nhiều tác giả coi các chỉ tiêu này là thước đo mang
tính quyết định đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh lợi vốn kinh doanh
DVKD(%) = KINHDOANH
WR
V
)( (3)
DVKD: Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh
R: Lãi ròng
w: Lãi trả vốn vay
VKD: Tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh sức sinh lời của toàn bộ vốn, cho biết một đồng
vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận và lãi trả vốn vay.
Doanh lợi của vốn tự có
DVTC(%) = TC
R
V
)100.( (4)
DVTC: Doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ nhất định
VTC: Tổng vốn tự có
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn tự có tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Ngoài ra, cũng thuộc chỉ tiêu doanh lợi còn có thể sử dụng chỉ tiêu
doanh lợi của doanh thu bán hàng, chỉ tiêu được xác định.
DTR(%) =
TR
xR 100 (5)
DTR: Doanh lợi của doanh thu trong một thời kỳ nhất định
TR: Doanh thu trong thời kỳ đó
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận đạt được từ một đồng doanh thu.
2.1.2. Các chỉ tiêu tính hiệu quả kính tế.
16
Do có nhiều quan điểm khác nhau về công thức định nghĩa hiệu quả
kinh tế nên ở phương diện lý thuyết cũng như thực tế có nhiều cách biểu hiện
cụ thể khác nhau. Có thể sử dụng hai công thức sau để đánh giá hiệu quả kinh
tế.
Tính hiệu quả kinh tế (H0
H1(%) = TC
G
C
xQ 100 (6)
QG: Giá trị sản lượng
CTC: Chi phí tài chính
H2(%) = FD
TT
C
xC 100 (7)
DT.T: Chi phí kinh doanh thực tế.
CPĐ: Chi phí kinh doanh phải đạt
Ở công thức (7), chi phí kinh doanh thực tế được xác định trong kế toán
quản trị. Chi phí kinh doanh phải đạt là chi phí kinh doanh bỏ ra trong điều
kiện thuận lợi nhất.
Công thức này được sử dụng nhiều trong phân tích, đánh giá tính hiệu
quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và từng bộ
phận kinh doanh riêng rẽ nói riêng.
2.2. Chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận.
Chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận thường được dùng để
phân tích hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động, từng yếu tố sản xuất cụ thể
nhằm tìm biện pháp tối đa chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp.
Đây là chức năng chủ yếu của hệ thống chỉ tiêu này.
Ngoài ra chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận còn dùng để
phân tích bổ sung cho chỉ tiêu tổng hợp để kiểm tra và khẳng định rõ hơn kết
luận được rút ra từ các chỉ tiêu tổng hợp.
Do các chỉ tiêu bộ phận phán ảnh hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt
động (bộ phận) nên thường được xây dựng trong thống kê, phân tích cụ thể,
chính xác mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, từng mặt hoạt động, từng bộ
phận công tác đến hiệu quả kinh tế tổng hợp.
17
2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn.
Thực ra muốn có các yếu tố đầu vào doanh nghiệp cần có vốn kinh
doanh, nếu thiếu vốn mọi hoạt động của doanh nghiệp hoặc đình trệ hoặc kém
hiệu quả. Do đó các nhà kinh tế cho rằng chỉ tiêu sử dụng vốn là một chỉ tiêu
hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp. Chỉ tiêu này được xác định thông qua
công thức (2) và (3). Ở đây có thể đưa ra một số công thức được coi là đánh
giá hiệu quả sử dụng tổng vốn và từng bộ phận vốn của doanh nghiệp.
Số vòng quay toàn bộ vốn (SVv)
SVv = KINHDOANHV
TR (8)
Chỉ tiêu này cho biết toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp quay
được mấy vòng trong kỳ. Số vòng quay càng lớn hiệu quả sử dụng vốn càng
lớn.
Hiệu quả sử dụng vốn cố định (HTSCĐ)
HTSCĐ = G
R
TSCD
(9)
TSCĐG: Tổng giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ
TSCĐG: Được tính theo nguyên giá tài sản cố định sau khi đã trừ đi
phần hao mòn tài sản cố định tích lũy đến thời điểm báo cáo.
Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định biểu hiện một đồng tài sản cố định
trong kỳ sản xuất tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, thể hiện trình độ sử dụng
tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lợi của tài sản cố
định.
Ngoài ra, hiệu quả sử dụng tài sản cố định còn có thể đánh giá theo
phương pháp ngược lại, tức là lấy nghịch đảo công thức trên gọi là suất hao
phí tài sản cố định.
Suất hao phí TSCĐ = R
GTSCD
(10)
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng lợi nhuận, doanh nghiệp cần
phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn cố định.
18
Nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể thấy các nguyên nhân
của việc sử dụng vốn cố định không có hiệu quả thường là đầu tư tài sản cố
định quá mức cần thiết, tài sản cố định không sử dụng chiếm tỷ trọng lớn, sử
dụng tài sản cố định với công suất thấp hơn mức cho phép.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
HVLĐ = LD
R
V
(11)
HVLĐ: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
VLĐ: Vốn lưu động bình quân trong năm
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được phản ánh gián tiếp qua số
vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm (SVVLĐ).
SVVLĐ = LDV
TR (12)
Hoặc được phản ánh gián tiếp qua số ngày bình quân một vòng luân
chuyển lưu động trong năm (SNLC).
SNLC = TR
V
SV
LD
VLD
*360360
(13)
Chỉ tiêu số vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm cho biết vốn lưu
động của doanh nghiệp quay được mấy vòng trong kỳ. Còn chỉ tiêu (14) cho
biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng.
Có thể thấy rằng chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động tính theo lợi
nhuận sẽ bằng tích của tỷ số lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh nhân với
số vòng luân chuyển vốn lưu động.
HVLĐ = TRV
TRx
TR
R
Ld
R
x SVVLĐ (14)
Như vậy, nếu cố định chỉ tiêu doanh lợi doanh thu bán hàng thì hiệu
quả sử dụng vốn lưu động tỷ lệ thuận với số vòng quay vốn lưu động. Số
vòng quay vốn lưu động cao sẽ có thể đưa đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
cao.
Trong các công thức trên vốn lưu động bình quân là số trung bình của
giá vốn lưu động ở thời điểm đầu kỳ và thời điểm cuối kỳ.
19
Các chỉ tiêu phán ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đặc biệt chú
trọng trong các doanh nghiệp thương mại. Vì ở các doanh nghiệp này vốn lưu
động chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp.
Hiệu quả vốn góp trong Công ty cổ phần được xác định bởi tỷ suất
lợi nhuận của vốn cổ phần (DVCT).
DVCP: Tỷ suất lợi nhuận vốn cổ phần
VCP: Vốn cổ phần bình quân trong kỳ tính toán
Chỉ tiêu này cho biết bỏ ra một đồng vốn cổ phần bình quân trong một
thời kỳ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
2.2.2. Hiệu quả sử dụng lao động.
Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản trong sản xuất, góp
phần quan trọng trong năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng
lao động biểu hiện ở năng suất lao động, mức sinh lời của lao động và hiệu
suất tiền lương.
Năng suất lao động
Năng suất lao động bình quân năm (APN) xác định theo công thức:
APN =
AL
QHV (15)
APN: Năng suất lao động bình quân năm tính bằng đơn vị hiện vật hoặc
giá trị.
QHV: Sản lượng tính bằng đơn vị hiện vật hoặc giá trị
AL: Số lượng lao động bình quân trong năm
Năng suất lao động tính theo năm chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sử
dụng thời gian lao động trong năm (Số ngày bình quân làm việc trong năm, số
giờ bình quân làm việc mỗi ngày của lao động trong doanh nghiệp) và năng
suất lao động bình quân mỗi giờ.
Năng suất lao động theo giờ (APG được xác định từ chỉ tiêu năng suất
lao động năm).
APG =
GCN
APN
**
(16)
20
N: Số ngày làm việc bình quân trong năm
C: Số ca làm việc trong ngày
G: Số giờ làm việc bình quân mỗi ca lao động
APG: Năng suất lao động bình quân mỗi giờ làm việc của một lao động.
Chỉ tiêu này còn có thể được xác định bằng nhiều cách khác nhau,
chẳng hạn xác định trực tiếp từ sản lượng tạo ra trong một ca lao động hoặc
một ngày làm việc.
Về bản chất chỉ tiêu năng suất lao động được xác định phù hợp với
công thức khái niệm sản xuất kinh doanh và do đó biểu hiện tính hiệu quả
trong việc sử dụng lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
Chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động.
Bên cạnh chỉ tiêu năng suất lao động, chỉ tiêu mức sinh lời bình quân
của một lao động cũng thường được sử dụng. Mức sinh lời bình quân của một
lao động cho biết mỗi lao động được sử dụng trong doanh nghiệp tạo ra được
bao nhiêu lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này có thể được xác
định theo công thức:
BQ =
L
R (17)
BQ: Lợi nhuận bình quân do một lao động tạo ra
L: Số lao động tham gia
Chỉ tiêu này phản ánh một lao động sử dụng trong doanh nghiệp tạo ra
được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một thời kỳ phân tích.
Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương (HW)
HW =
TL
R (18)
TL: Tổng quỹ lương và các khoản tiền thưởng có tính chất lương trong
kỳ.
+ Hiệu suất tiền lương cho biết chỉ ra một đồng tiền lương đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng lên khi
năng suất lao động tăng với nhịp độ cao hơn nhịp độ tăng tiền lương.
21
TRBQ =
L
TR (19)
Chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ.
+ Chỉ tiêu tỷ lệ lao động gián tiếp LGT
LGT =
AL
ALGT (20)
Chỉ tiêu này cho biết mức doanh thu của một lao động
ALGT: Số lao động gián tiếp bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu tỷ lệ lao động gián tiếp thể hiện trình độ quản lý của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có trình độ quản lý tiên tiến thì tỷ lệ lao động gián
tiếp < 10%.
2.2.3. Hiệu suất sử dụng nguyên vật liệu.
NVLSD Vòng luân chuyển
nguyên vật liệu
(SVNVL) SVNVL
=
NVLĐT
(21)
NVLSD: Là giá trị vốn nguyên liệu đã dùng
NVLDT: Giá trị lượng nguyên vật liệu dự trữ
Giá vốn nguyên vật liệu đã dùng là tổng chi phí nguyên vật liệu đã sử
dụng vào quá trình sản xuất. Giá trị nguyên vật liệu dự trữ là tổng giá trị số
nguyên vật liệu dự trữ trong kỳ.
+ Vòng luân chuyển vật tư trong sản phẩm dở dang (SVSVDD).
ZHHCB SVSPDD =
VTĐT
(23)
ZHHCB: Tổng giá thành hàng hóa đã chế biến
VTĐT: Giá trị vật tư dự trữ đưa vào chế biến
Hai chỉ tiêu trên cho biết khả năng khai thác các nguồn nguyên liệu, vật
tư của doanh nghiệp đánh giá chu kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai chỉ tiêu trên mà cao thì cho biết doanh nghiệp giảm được chi phí nguyên
vật liệu dự trữ, rút ngắn chu kỳ về chuyển đổi nguyên vật liệu thành thành
22
phẩm, giảm bở ứ đọng của nguyên vật liệu tồn kho và tăng vòng quay vốn lưu
động. Tuy nhiên nếu quá thấp là doanh nghiệp có thể thiếu nguyên vật liệu dự
trữ, cạn kho, không đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất.
Ngoài ra, người ta còn đánh giá mức thiệt hại, mất mát nguyên vật liệu
trong quá trình dự trữ, sử dụng chúng. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Giá trị nguyên vật liệu hao hụt,
mất mát Tỷ lệ hao hụt
nguyên vật
liệu
=
Tổng giá trị nguyên vật liệu sử
dụng trong kỳ
(22)
Chỉ tiêu này được so sánh với các định mức kinh tế, kỹ thuật hiện hành
hoặc đối chiếu với mức hao hụt kỳ trước để đưa ra quyết định thích hợp nhằm
sử dụng vật tư tiết kiệm, đúng định mức, phù hợp với thực tế sản xuất và có
hiệu quả.
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu thường được sử dụng
trong các doanh nghiệp sản xuất vật chất, đặc biệt là các doanh nghiệp cơ khí
vì ở đó tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp là rất lớn (từ 65 - 75%). Vì vậy việc sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả nguyên vật liệu có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2.4. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh ở từng bộ phận bên trong doanh
nghiệp.
Các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động ở từng bộ phận kinh doanh của doanh
nghiệp phản ánh tính hiệu quả của hoạt động chung cũng như từng mặt hoạt
động kinh tế diễn ra ở từng bộ phận sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đó có thể là các chỉ tiêu phán ánh hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ hoặc
trang thiết bị lại ở phạm vi từng doanh nghiệp hoặc từng bộ phận bên trong
doanh nghiệp, hiệu quả của từng quyết định sản xuất kinh doanh và thực hiện
các chức năng quản trị doanh nghiệp. Tùy theo các hoạt động cụ thể có thể
xây dựng hệ thống chỉ tiêu và tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động thích
hợp. Về nguyên tắc đối với hiệu quả của từng bộ phận công tác bên trong
doanh nghiệp (từng phân xưởng, từng ngành, từng tổ sản xuất0 có thể xây
dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tương tự như hệ thống chỉ
tiêu đã xác định cho phạm vi tồn doanh nghiệp. Riêng hệ thống chỉ tiêu đánh
23
giá các dự án đầu tư, do đặc thù của hoạt động này đòi hỏi phải xây dựng hệ
thống chỉ tiêu phù hợp.
24
PHẦN II
THỰC TRẠNG VÀ CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH Ở CÔNG TY DỤNG CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG CƠ KHÍ
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY DỤNG
CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG CƠ KHÍ.
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí là doanh nghiệp Nhà nước
thuộc Tổng Công ty máy và thiết bị Công nghiệp. Hoạt động chủ yếu của
Công ty là sản xuất kinh doanh nhằm sử dụng hiệu quả các tiềm năng sẵn có
Công ty, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, thu hút thêm
lao động xã hội thực hiện tốt nhiệm vụ Tổng Công ty giao và đạt lợi nhuận.
Công ty do Bộ trưởng Bộ công nghiệp quyết định thành lập theo đề nghị của
Hội đồng quản trị Tổng Công ty máy và thiết bị Công nghiệp.
Công ty có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh bao gồm từ khâu nghiên cứu
thiết kế, chế tạo, gia công, sửa chữa, dịch vụ, xuất nhập khẩu, cung ứng dụng
cụ cắt gọt kim loại, dụng cụ phụ tùng cơ khí, dụng cụ đo lường, dụng cụ cầm
tay, thiết bị công nghiệp, tiến hành các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác
theo pháp luật.
Tiền thân của Công ty là một phân xưởng dụng cụ của Công ty cơ khí
Hà Nội. Công ty được thành lập ngày 25 tháng 3 năm 1968 theo quyết định số
74/QĐ/KB2 do Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng (nay là Bộ công nghiệp) ký.
Lúc này, Công ty mang tên Nhà máy dụng cụ cắt gọt, có trụ sở chính tại 108
Đường Nguyễn Trãi, Đống Đa, Hà Nội (nay là quận Thanh Xuân).
Cho đến nay, trải qua hơn 30 năm phát triển để phù hợp với điều kiện,
tình hình sản xuất kinh doanh của từng thời kỳ Công ty đã có 3 lần đổi tên.
Nhà máy dụng cụ cắt gọt: 1968 - 1970
Nhà máy dụng cụ số 1: 1970 - 1995
Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí: 1995 đến nay
Theo quyết định số 702QĐ/BCN ngày 12/07/1995, Nhà máy dụng cụ
số 1 được đổi tên thành Công ty Dụng cụ Cắt và Đo lường Cơ khí thuộc Tổng
25
Công ty Máy và thiết bị Công nghiệp với tên giao dịch quốc tế là: Cutting and
Measuring Tools Company.
Với hơn 30 năm phát triển, Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí đã
trải qua những bước thăng trầm và chuyển tiếp giữa 2 cơ chế với những đặc
điểm khác nhau.
Trong cơ chế cũ, nhiệm vụ của Công ty là sản xuất và cung cấp sản
phẩm của mình cho các doanh nghiệp khác và doanh nghiệp nước ngoài theo
chỉ tiêu của cấp trên giao cho. Thời kỳ bao cấp, tình hình sản xuất kinh doanh
của nhà máy không gặp nhiều khó khăn mặc dù hiệu quả kinh tế không cao.
Mọi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh từ mua sắm yếu tố đầu vao,
tổ chức sản xuất, cung ứng sản phẩm đều do cấp trên chỉ đạo. Trong thời kỳ
này Công ty không phải nghiên cứu thị trường, không phải cạnh tranh và
không phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình.
Cuối những năm 80, thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, nền kinh
tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước các doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền quản
lý, sử dụng vốn, tự chủ kinh doanh và hạch toán độc lập, nhà nước chỉ quản lý
bằng luật pháp, cơ chế và chính sách. Thời điểm này hàng loạt các doanh
nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp cơ khí đều gặp khó khăn, thị
trường tiêu thụ bị thu hẹp, thiếu việc làm, tình hình kinh doanh gặp khó khăn.
Công ty Dụng vụ cắt và đo lường cơ khí cũng nằm trong thực cảnh đó. Sản
phẩm làm ra tiêu thụ chậm và giảm sút, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động
thấp, chất lượng sản phẩm không cao, sức cạnh tranh kém, đội ngũ quản lý
chưa có kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường. Trước tình hình đó,
Công ty đã mạnh dạn thay thế một số thiết bị, dây chuyền công nghệ nghiên
cứu thay đổi mẫu mã sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm… Vì vậy, sang những
năm 90, tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty đã từng bước đi vào ổn
định, thu nhập cho người lao động được nâng cao, thị trường được mở rộng,
sản xuất kinh doanh có lãi, bắt đầu có tích lũy.
Thời kỳ 1989 - 1991, thu nhập bình quân của CBCNV Công ty là:
210.000,đ/người/tháng.
Thời kỳ 1996 - 2001, thu nhập bình quân của CBCNV Công ty là:
650.000,đ/người/tháng.
26
Giá trị tổng sản lượng tăng từ 4,434 tỷ đồng năm 1992 lên 10,981 tỷ
đồng năm 1998.
Tuy nhiên, trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX, do những biến
động phức tạp trên thị trường, do những tác động của nhiều nguyên nhân
khách quan đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty bắt đầu có
biểu hiện sa sút. Nhìn chung, Công ty không hoàn thành kế hoạch sản xuất
kinh doanh, lợi nhuận giảm sút và bắt đầu có biểu hiện thua lỗ. Mặc dù vậy đã
có dấu hiệu hồi phục tuy rất chậm.
Như vậy, hiện nay Công ty đang phải đối mặt với những khó khăn thử
thách vô cùng to lớn. Để có thể vượt qua và khẳng định mình, Công ty cần
phải nỗ lực hơn nữa. Phải đưa ra các kế hoạch (ngắn hạn và dài hạn), và
những giải pháp hợp lý, đòi hỏi phải có sự đoàn kết, nỗ lực của mọi thành
viên.
Nhìn chung, Công ty đang chứa đựng một tiềm năng rất lớn, nếu khai
thác được tiềm năng đó một cách hiệu quả, chắc chắn trong tương lai không
xa Công ty sẽ đạt được những kết quả rất khả quan.
Sau đây là một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của
Công ty trong những năm gần đây.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của
Công ty trong những năm gần đây.
T
T
Chỉ tiêu ĐV 1997 1998 1999 2000 2001
1
Tổng vốn
kinh doanh
Triệu
đồng
15.489,2 15.471,7 15.527,3 15.538,8 15.541,0
2 Doanh thu
Triệu
đồng
15.534,7 15.922,1 10.474,1 14.743 14.753
3
Tổng GTSL
(Giá cố định)
Triệu
đồng
10.661,7 10.981,6 9.300,9 9.970,9 9.975,9
4
Lao động
bình quân
Người 456 463 448 413 411
27
5
Lợi tức trước
thuế
Triệu
đồng
232,9 179,9 -17,9 147,4 145,4
6
Thu nhập
bình quân 1
người
Ngàn
đồng
683 726 670
774
773
(Nguồn: Phòng Tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Dựa vào bảng số liệu trên, ta thấy hầu hết các chỉ tiêu đều có các xu
hướng giảm từ năm 1997 đến 1999. Năm 2000 tuy tình hình sản xuất kinh
doanh có phục hồi nhưng vẫn chưa đạt được như năm 1997.
Tổng vốn kinh doanh năm 2000 bằng 100,1% so với năm 1999.
Doanh thu năm 2000 bằng 140,8% so với năm 1999 nhưng chỉ bằng
94,9% so với năm 1997.
Tổng giá trị sản lượng năm 2000 bằng 107,2% nhưng chỉ đạt 93,5% so
với năm 1997.
Lợi tức năm 2000 bằng 147,4 triệu đồng, tuy lớn hơn năm 1999 (-17,9
triệu đồng) nhưng vẫn thấp hơn năm 1997 (232,8 triệu đồng). Như vậy Công
ty vừa trải qua thời kỳ thua lỗ và đang trong quá trình phục hồi sản xuất cần
tiếp tục có những giải pháp hợp lý để sản xuất phát triển trong những năm tiếp
theo.
2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy của Công ty Dụng cụ cắt và Đo
lường cơ khí.
2.1. Mô hình tổ chức bộ máy của Công ty.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty là cơ cấu theo mô hình trực
tuyến chức năng hay còn gọi là cơ cấu hỗn hợp. Theo kiểu cơ cấu này thì
quản lý lãnh đạo phục tùng theo trực tuyến và theo chức năng, vẫn tuân thủ
theo chế độ một thủ trưởng mà tận dụng được sự tham gia của các bộ phận
chức năng, giảm bớt gánh nặng cho các cấp lãnh đạo cao nhất của Công ty.
Nhóm quan hệ theo trực tuyến.
Ở Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí, nhóm quan hệ theo trực
tuyến được thể hiện ở sơ đồ sau:
Giám
đốc
Phó
giám
đốc
Quản
đốc
Phó
quản
đốc
Đốc
công
28
Nhóm quan hệ theo chức năng:
Chú thích:
Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
Chức năng chung của các phòng ban trong Công ty là giúp giám đốc
nắm tình hình, giám sát, kiểm tra, nghiên cứu, xây dựng kế hoạch chuẩn bị
Giám đốc
PGĐ sản xuất PGĐ kỹ thuật PGĐ kinh doanh
Trưởng
các phòng
kỹ thuật
Trưởng
các phòng
ban
Quản
đốc các
phân
Quản đốc
PX dụng
cụ cơ
Đốc công
Các tổ, nhóm sản xuất
và nghiệp vụ, phục vụ
Công
nhân
sản
xuất
29
sản xuất và phục vụ sản xuất, hướng dẫn công tác kỹ thuật, công tác nghiệp
vụ cho các cán bộ chức năng và cấp quản lý phân xưởng giúp thủ trưởng trực
tuyến chuẩn bị và thông qua các quyết định kiểm tra quá trình sản xuất chung,
theo dõi để tổ chức công việc không sai lệch về kỹ thuật và những điều kiện
thời gian.
Mặc dù các phòng ban chức năng không có quyền đưa ra quyết định
đối với cơ quan ngành dọc, tuy nhiên trong những công việc nhất định họ
cũng được giao quyền trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn đối với cán bộ chức năng
và cấp phân xưởng, thậm chí đến tận công nhân sản xuất.
Bộ máy quản lý của Công ty hiện nay được chia thành 3 khối chính đó
là khối kỹ thuật, khối sản xuất, khối kinh doanh, mỗi khối do một phó giám
đốc phụ trách chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc. Ngoài ra còn có nhiều
phòng ban chức năng khác làm tham mưu cho ban Giám đốc và chịu sự chỉ
đạo của các Phó giám đốc theo các chức năng, các lĩnh vực hoạt động tương
ứng.
2.2. Cơ chế hoạt động và chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận.
Bộ máy quản lý của Công ty hoạt động theo chế độ một thủ trưởng
quyền quyết định cao nhất thuộc về Giám đốc, mỗi cấp dưới chỉ nhận lệnh từ
một cấp trên trực tiếp, các phòng chức năng chỉ làm công tác tham mưu cho
các lãnh đạo trực tuyến. Các Phó giám đốc, quản đốc sử dụng quyền mà Giám
đốc giao cho để thống nhất quản lý mọi hoạt động trong lĩnh vực công việc
được phân công hoặc trong đơn vị mình phụ trách.
+ Giám đốc: Là người đại diện của Nhà nước, có quyền ra quyết định
cao nhất đối với mọi hoạt động của Công ty, trực tiếp chịu trách nhiệm trước
Tổng công ty và Nhà nước về kết quả hoạt động của Công ty, giám đốc là
người giữ vai trò chỉ huy với chức trách quản lý, sử dụng toàn bộ vốn, đất đai,
nhân lực và các nguồn lực do Tổng Công ty giao cho nhằm thực hiện công
việc Giám đốc uỷ quyền. Trong khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được
giao, các Phó giám đốc chủ động giải quyết công việc theo đúng chức năng và
trong giới hạn về quyền hành.
+ Phó Giám đốc sản xuất: Giúp Giám đốc điều hành, tổ chức quản lý
quá trình sản xuất của Công ty, lập kế hoạch sản xuất và tiến hành triển khai
thực hiện thông qua sự chỉ đạo của các quản đốc đối với các phân xưởng, tổ,
30
ca… Chỉ huy thống nhất kỹ thuật sản xuất hàng ngày, điều phối lao động và
duy trì kỹ thuật lao động cho toàn Công ty. Cho từng phân xưởng, đảm bảo
cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, nhịp nhàng. Đồng thời tổ chức
sắp xếp, bố trí hợp lý lực lượng lao động trực tiếp sản xuất sao cho đảm bảo
sử dụng có hiệu quả nhất, đề xuất và them gia bồi dưỡng nâng cao trình độ tay
nghề cho công nhân. Khi giám đốc vắng mặt, uỷ quyền cho Phó Giám đốc sản
xuất chỉ huy điều hành mọi mặt hoạt động của Công ty.
+ Phó Giám đốc kỹ thuật: Giúp Giám đốc Công ty phụ trách kỹ lĩnh
vực quản lý kỹ thuật và xây dựng cơ bản của Công ty. Nghiên cứu và xây
dựng kế hoạch, phương án đầu tư, phát triển công nghệ, kỹ thuật sản xuất, xây
dựng chính sách quản lý kỹ thuật cho từng giai đoạn, từng loại sản phẩm khác
nhau sao cho đáp ứng được yêu cầu sản xuất của từng thời kỳ khác nhau cững
như của từng sản phẩm. Xây dựng tiêu chuẩn hóa sản phẩm truyền thống và
các đề án cải tiến mẫu mã, kết cấu sản phẩm hướng đến hoàn thiện các tiêu
chuẩn, chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của sản phẩm qua từng giai đoạn. Phó giám
đốc kỹ thuật có nhiệm vụ tổ chức điều hành các mặt công tác quản lý kỹ thuật
cụ thể như chuẩn bị kỹ thuật về thiết kế, công nghệ, thiết bị kiểm tra chất
lượng theo kế hoạch và tiến độ sản xuất, duy trì, bảo trì máy móc thiết bị,
năng lượng đảm bảo tiến hành sản xuất liên tục, xây dựng định mức chi phí
vật tư, năng lượng, nhiên liệu, lao động cho từng đơn vị sản phẩm, nâng cao
trình độ chuyên môn cho đội ngũ lao động…
+ Phó Giám đốc kinh doanh: Giúp Giám đốc Công ty phụ trách lĩnh
vực công tác kinh doanh, hành chính, quản trị, đời sống. Phó Giám đốc kinh
doanh có nhiệm vụ tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, thị trường
sản phẩm của Công ty, tiến hành đàm phán giao dịch với khách hàng, bạn
hàng và đi đến ký kết hợp đồng về tiêu thụ sản phẩm hoặc mua các yếu tố đầu
vào cho Công ty. Nắm bắt nhu cầu, kế hoạch sản xuất từ đó xây dựng phương
án thu mua vật tư đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục với chi
phí thấp nhất và đảm bảo đúng về chất lượng, đủ về số lượng. Tổ chức thực
hiện các hợp đồng đã ký kết với khách hàng đúng về thời gian, số lượng chất
lượng tạo điều kiện nâng cao uy tín của Công ty, tránh tình trạng để sản
phẩm, vật tư bị ứ đọng qua đó tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động…
Đồng thời tham mưu cho giám đốc Công ty về chủ trương và công tác cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công nhân viên, xây dựng, cung
31
cấp trang thiết bị, tiện nghi, văn phòng phẩm cho đơn vị phòng ban phân
xưởng. Chỉ đạo công tác quản lý văn thư lưu trữ, thông tin liên lạc, in ấn tài
liệu.
+ Kế toán trưởng: Có chức năng giúp Giám đốc Công ty tổ chức chỉ
đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê, thông tin kinh tế và hạch
toán kinh tế ở Công ty theo quy định, đồng thời làm nhiệm vụ kiểm soát kinh
tế tài chính của Nhà nước tại Công ty. Kế toán trưởng trực tiếp chỉ đạo và
hướng dẫn các bộ phận đơn vị cấp dưới tiến hành những công việc thuộc
phạm vi trách nhiệm quyền hạn của Kế toán trưởng. Kế toán trưởng chỉ đạo
trực tiếp về nghiệp vụ chuyên môn đối với tất cả các nhân viên kế toán làm
việc bất kỳ ở bộ phận nào trong Công ty, có quyền yêu cầu tất cả các bộ phận
trong Công ty chuyển đầy đủ kịp thời những tài liệu pháp quy và các tài liệu
cần thiết phục vụ cho công tác kế toán và kiểm tra.
+ Phòng Thiết kế: Có chức năng thiết kế sản phẩm mới, hoàn thiện
hình thức, mẫu mã sản phẩm mà Công ty đang sản xuất sao cho đáp ứng được
nhu cầu phong phú và đa dạng của thị trường mà đảm bảo phù hợp với máy
móc,m trang thiết bị công nghệ sản xuất của Công ty với chi phí về nguyên
vật liệu, lao động thấp, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường. Sau khi thiết kế xong sản phẩm phòng thiết kế
cung cấp sơ đồ bản vẽ, cách thức, các yêu cầu về công nghệ, máy móc trang
thiết bị cho đơn vị sản xuất.
+ Phòng Công nghệ: Có chức năng quản lý toàn bộ quy trình công nghệ
sản xuất của Công ty. Xây dựng chuẩn bị công nghệ sản xuất các sản phẩm
mới, thực hiện chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nghiên cứu xây dựng
các phương án hoàn thiện công nghệ sản xuất sao cho đảm bảo nâng cao năng
suất lao động, tiết kiệm vật chất và nghiên cứu đầu tư mở rộng, mua sắm
trang thiết bị phục vụ sản xuất.
+ Phòng KCS: Có chức năng quản lý kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản
phẩm từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc quá trình sản xuất tạo ra thành phần.
Kiểm tra chất lượng các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu, chất lượng máy
móc thiết bị, công nghệ nhằm tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được diễn
ra liên tục, nhịp nhàng tạo ra những sản phẩm đạt tiêu chuẩn so với thiết kế
32
ban đầu và phù hợp với yêu cầu của thị trường. Quản lý đo lường thống nhất
trong Công ty.
+ Phòng Kiến thiết cơ bản: Có chức năng quản lý xây dựng cơ bản, sửa
chữa nhà xưởng, nâng cấp cải tạo kho tàng, phân xưởng, nhà làm việc trong
Công ty. Xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản đáp ứng nhu cầu mở
rộng quy mô sản xuất trình Ban giám đốc sau đó tiến hành triển khai thực
hiện.
+ Phòng cơ điện: Có chức năng tham mưu cho Giám đốc và Phó giám
đốc về công tác quản lý kỹ thuật như: Công tác bảo quản, sửa chữa máy móc
thiết bị sản xuất trong toàn Công ty. Chuẩn bị máy móc, thiết bị đáp ứng nhu
cầu sản xuất của Công ty, theo dõi, kiểm tra tình trạng và khả năng sử dụng
các loại thiết bị, máy móc. Nắm bắt theo dõi tình hình cung cấp, sử dụng năng
lượng cho quá trình sản xuất, lập kế hoạch sửa chữa, phục hồi các trang thiết
bị, sau đó trình bày với ban Giám đốc và tiến hành triển khai thực hiện.
33
Giám đốc
P.Giám đốc KT P.Giám đốc SX P.Giám đốc
kinh doanh
Kế
toán
Phòng thiết kế
P.Công nghệ
Thư viện
P.Cơ điện
Kho dụng
Kho cơ điện
Trạm biến thế
P.Kiến thiết
CB
Đo lường
Nghiệm thu
Kiểm tra thép
Kho xử lý
Phòng KCS
PX.Bao gói
PX.Nhiệt luyện
PX.Mạ
PX.Cơ điện
PX.Dụng cụ
PX.Cơ khí II
PX.Cơ khí I
PX.Khởi phẩm
P.vật tư P.Tài vụ
Kho kim
khí
Kho dầu
- HC
Kho tạp
phẩm
Phòng hành
chính OT
Phòng hành
chính OT
Kho thành
phẩm
Trạm y tế
P.Tổ chức
lao động
Cửa hàng
giới thiệu sản
phẩm
Phòng
bảo vệ
34
+ Phòng Kế hoạch kinh doanh: Có chức năng tham mưu cho Giám đốc
về công tác quản lý kinh doanh của Công ty. Xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh và giao cho bộ phận sản xuất xây dựng thống nhất quản lý giá.
Thống kê, tổng hợp và tổng hợp báo cáo, phân tích, đánh giá hoạt động sản
xuất kinh doanh của toàn Công ty. Tổ chức hạch toán kinh tế nội bộ Công ty,
phân tích hiệu quả kinh tế, tìm ra nguyên nhân và đề xuất biện pháp khắc
phục sao cho sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.
+ Phòng Tài vụ: Có chức năng ghi chép, phản ánh, hạch toán mọi
nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, thông qua hạch toán thực hiện chức năng Giám đốc, giám sát bằng
đồng tiền đối với mọi hoạt động kinh tế đó, nhằm bảo vệ thường xuyên, đầy
đủ toàn bộ tài sản của Công ty. Tổ chức đáp ứng nguồn vốn phục vụ kịp thời
cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời tổ chức quản lý, sử dụng nguồn
vốn một cách có hiệu quả.
+ Phòng Vật tư: Có chức năng tham mưu cho giám đốc và phó giám
đốc kinh doanh, xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện cung ứng vật tư, tiêu
thụ vật tư tồn đọng, phế liệu và hoạt động vận tải. Cấp phát và thanh quyết
toán vật tư với các đơn vị trong Công ty. Theo định mức quản lý bảo quản
kho tàng, vật tư hàng hóa và các phương tiện vận tải trong phạm vi được giao.
+ Phòng Hành chính quản trị: Có chức năng tham mưu cho Giám đốc
và Phó giám đốc những chủ trương, chính sách cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. Xây dựng kế hoạch
mua sắm trang thiết bị làm việc cho các phòng ban, phân xưởng, triển khai
thực hiện có hiệu quả khi được Giám đốc duyệt. Chỉ đạo công tác vệ sinh,
phòng chống dịch tễ, bảo vệ sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên. Tổ chức
các cuộc họp, đại hội, làm công tác lễ tân, tiếp khách, in ấn tài liệu lưu trữ các
loại văn bản trong công ty, xây dựng và triển khai sửa chữa nhỏ trong Công
ty, sửa chữa phục hồi kịp thời khi có hư hỏng nhỏ đột xuất xảy ra.
+ Phòng Tổ chức lao động: Có chức năng tham mưu cho Giám đốc
trong công tác quản lý lao động tiền lương. Tổ chức sắp xếp bố trí lao động
trong toàn Công ty một cách hợp lý. Cân đối nguồn nhân lực sẵn có, lập kế
hoạch tuyển chọn, đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Xây dựng cơ cấu bộ
máy tổ chức quản lý. Theo dõi tình hình biến động về số lượng lao động,
ngày công, giờ công để đề ra biện pháp quản lý lao động sao cho có hiệu quả.
35
Xây dựng kỷ luật lao động, định mức lao động cho từng giai đoạn, từng
loạt sản phẩm khác nhau, kiểm tra, theo dõi quá trình thực hiện ở các đơn vị,
phân xưởng. Xuất phát từ tình hình lao động, nhu cầu tuyển chọn, sử dụng để
tiến hành xây dựng kế hoạch tổng quỹ lương, kế hoạch sử dụng quỹ lương và
theo dõi kiểm tra. Xây dựng kế hoạch an toàn lao động và vệ sinh lao động.
Căn cứ kế hoạch đã được duyệt để tiến hành có hiệu quả, tiết kiệm về chi phí.
Theo dõi tình hình thu nhập của người lao động, tình hình sử dụng quỹ Bảo
hiểm xã hội, giải quyết các chính sách, chế độ cho người lao động.
+ Phòng Bảo vệ: Có chức năng bảo vệ trật tự, an ninh và tài sản trong
Công ty. Phòng bảo vệ nằm trong hệ thống tổ chức quản lý của Công ty. Có
nhiệm vụ xây dựng phương án phòng chống tệ nạn xã hội của Công ty, ngăn
ngừa các hành vi xấu từ bên ngoài xâm nhập vào Công ty, kiểm tra giám sát
con người và phương tiện trong Công ty.
+ Trung tâm kinh doanh là đơn vị độc lập, nằm trong hệ thống tổ chức
quản lý của Công ty, có chức năng giới thiệu và quảng cáo và tiêu thụ các sản
phẩm của Công ty. Trung tâm có một giám đốc phụ trách được chủ động tổ
chức quản lý, tổ chức hoạt động kinh doanh dịch vụ phù hợp với giấy phép
đăng ký. Chủ động giao dịch ký kết với khách hàng, trả lương, thưởng cho
cán bộ công nhân viên. Theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh làm
nghĩa vụ với Nhà nước và người lao động theo đúng chế độ, hàng tháng gửi
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cho Giám đốc Công ty, Phòng Tài vụ,
nộp 50% lợi nhuận sau thuế cho Công ty.
Số lượng cơ cấu các phòng ban trong Công ty được thể hiện ở bảng
sau:
Bảng 2: Số lượng cơ cấu các phòng ban trong Công ty được thể
hiện ở bảng sau:
Tên phòng ban Số lượng cán bộ công nhân viên
Phòng tổ chức lao động 7
Phòng tài vụ 8
Phòng kế hoạch kinh doanh 11
Phòng hành chính quản trị 25
Phòng bảo vệ 12
Phòng công nghệ 14
Phòng thiết kế 9
Phòng cơ điện 11
Phòng kiến thiết cơ bản 11
Phòng vật tư 15
Phòng KCS 15
Cửa hàng 7
36
Trung tâm kinh doanh 10
Nguồn: Phòng tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - KỸ THUẬT CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG
ĐẾN VIỆC BẢO ĐẢM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA CÔNG TY DỤNG CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG CƠ KHÍ.
1. Đặc điểm về sản phẩm và công nghệ sản xuất.
Cho đến nay, Công ty dụng cụ và cắt và đo lường cơ khí tiến hành sản
xuất các loại sản phẩm khác nhau với chủng loại rất đa dạng và phức tạp
(hàng ngàn loại). Mỗi một sản phẩm có những tính năng, tác dụng khác nhau
với các thông số kinh tế kỹ thuật cũng rất khác nhau. Chính vì thế mà làm cho
Công ty rất khó khăn trong việc tổ chức sản xuất, đảm bảo nâng cao chất
lượng sản phẩm từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình thể
hiện ở chỗ:
- Các loại sản phẩm khác nhau đòi hỏi phải được làm từ các nguyên vật
liệu khác nhau làm cho chủng loại vật tư, nguyên vật liệu để sản xuất sản
phẩm của Công ty cũng vô cùng phức tạp khó khăn cho công tác cung ứng vật
tư phục vụ sản xuất.
- Mỗi loại sản phẩm đều có một quy trình công nghệ sản xuất riêng ví dụ:
- Quy trình sản xuất ta rô:
- Quy trình sản xuất Bàn rèn:
Thép
Lăn số
Máy phay
chuyên dùng
Máy
phay vạn
năng
Máy
tiện
Nhiệt
luyện
Tẩy rửa
Mài
lưỡi cắt
Nhập
kho
Thép
Máy
cắn ren
Máy
phay
Máy
khoan
Máy
mài
Đóng
số
Nhiệt
luyện
Tẩy
rửa
Nhuộm
đen
Chống
rỉ
Đánh
bóng
Mài
lưỡi cắt
Mài hai
mặt
37
Như vậy, tính đa dạng sản phẩm dẫn đến tính đa dạng về quy trình công
nghệ sản xuất gây khó khăn trong việc bố trí máy móc thiết bị sản xuất và
hoạt động bàn giao ở các công đoạn sản xuất.
Do sự đa dạng về sản phẩm, mỗi loại sản phẩm đòi hỏi một trình độ
khác nhau về sự khéo léo, chính xác của người sản xuất. Điều này sẽ gây khó
khăn cho việc bố trí đội ngũ lao động trong Công ty cho phù hợp với các loại
công việc, các loại sản phẩm. Nó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của Công ty.
Hơn thế nữa, trong giai đoạn hiện nay, sản phẩm mới và khó của Công
ty chiếm tỷ trọng lớn (gần bằng 60%) trong tổng giá trị sản lượng làm cho
những khó khăn nói trên lại càng thêm khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến
việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả của Công ty.
2. Đặc điểm về thị trường.
Như chúng ta đã biết sản phẩm xuất ra nhằm thỏa mãn, đáp ứng nhu
cầu thị trường nên yếu tố thị trường có ảnh hưởng rất nhiều tới việc nâng cao
hiệu qủa sản xuất kinh doanh. Đối với Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí
trong giai đoạn này thì yếu tố thị trường càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Hiện nay, mặc dù chủng loại sản phẩm của Công ty rất đa dạng nhưng
có thể chia thành các loại thị trường sau:
- Thị trường sản phẩm cắt gọt, đo lường
- Thị trường sản phẩm dầu khí, xây dựng cơ bản
- Thị trường sản phẩm cho sản xuất bánh kẹo và cho sản xuất dầu khí
- Thị trường sản phẩm cho sản phẩm khác
Ta sẽ điểm qua tình hình của từng loại thị trường, qua đó đánh giá ảnh
hưởng của chúng tới việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Đầu tiên là thị trường dụng cụ cắt gọt và đo lường. Đây là thị trường
truyền thống của Công ty. Trong những năm gần đây ngành công nghiệp nặng
nói chung và ngành cơ khí nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Nhà nước có
38
chính sách tập trung vào ngành xuất khẩu như: Da giầy, may mặc, nông sản
(gạo, cà phê, điều…), hải sản… và ít quan tâm phát triển công nghiệp nặng.
Vì vậy việc mở rộng thị trường này của Công ty gặp nhiều khó khăn. Mặt
khác do nhu cầu thị trường ngày một phức tạp, đòi hỏi ngày càng cao. Đây
cũng là trở ngại mà Công ty cần vượt qua.
Đối với các thị trường còn lại, tình hình khá khả quan cho Công ty.
- Thị trường xây dựng cơ bản: Hiện nay đất nước trong giai đoạn và
phát triển, hệ thống cầu đường giao thông cũng cần cải tạo và xây dựng để
đáp ứng, phù hợp với điều kiện mới. Vì vậy, thị trường các sản phẩm về cầu
đường sẽ có tiềm năng phát triển.
- Thị trường công nghiệp nhẹ: Đây là thị trường mà Nhà nước đang
quan tâm, ưu tiên phát triển. Do đó các nhu cầu về phụ tùng máy móc thiết bị
để chế biến cũng sẽ tăng theo. Đây là thị trường rất nhiều tiềm năng mà Công
ty có thể khai thác, tận dụng.
Tuy nhiên đây là những sản phẩm mới của Công ty, chính vì thế các
sản phẩm đòi hỏi phải vừa nghiên cứu vừa sản xuất nên cũng gây khá nhiều
khó khăn cho Công ty.
Bên cạnh những khó khăn như thế thì mức độ cạnh tranh ở trên các thị
trường ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt. Ngoài các công ty cơ khí của
Quân đội cạnh tranh với Công ty ngày càng cao. Công ty KATO của Nhật
cũng đã đem máy móc thiết bị vào Việt Nam để sản xuất kinh doanh. Điều
này đã làm cho những khó khăn của công ty lại càng trở lên khó khăn hơn và
việc quan tâm chú trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty thực sự là
điều kiện để Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí có thể tồn tại và phát
triển.
3. Đặc điểm về máy móc thiết bị.
Năng lực của máy móc thiết bị cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ở Công
ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí thì máy móc thiết bị ảnh hưởng đến việc
bảo đảm và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty thể hiện ở
những điểm sau:
39
Số lượng máy móc thiết bị của Công ty tương đối nhiều nhưng rất lạc hậu
khó khăn cho việc tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị
trường và khó khăn trong công tác kiểm tra, chuẩn bị, bảo dưỡng máy móc
thiết bị phục vụ sản xuất. Hiện nay, Công ty có gần 300 máy móc các loại như
sau:
Bảng 3: Các loại máy móc thiết bị của Công ty
STT Tên thiết bị Số lượng (cái) Nước chế tạo)
34 Liên Xô
6 Tiệp Khắc
4 Đức
1 Máy khoan các loại
16 Việt Nam
5 Việt Nam
7 Liên Xô 2
3 Đức
7 Việt Nam
80 Liên Xô
11 Đức
1 Đài Loan
3 Máy mài các loại
1 Nhật
46 Liên Xô
5 Đức 4 Máy phay
1 Hungari
4 Việt Nam
1 Nhật
1 Rumani
5 Máy cưa
2 Liên Xô
Máy dập
2,5 tấn 3 Việt Nam
5 tấn 3 Việt Nam
250 tấn 1 Liên Xô
6
400 tấn 1 Liên Xô
1 Việt Nam
7 Máy cắt tôn
1 Liên Xô
1 Trung Quốc
8 Máy búa 400 kg
1 Liên Xô
9 Máy nén khí 2 Liên Xô
40
STT Tên thiết bị Số lượng (cái) Nước chế tạo)
4 Việt Nam
14 Liên Xô
1 Tiệp Khắc
10 Máy ép, lăn số, máy cắt ren và máy xọc
2 Đức
(Nguồn: Phòng tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Đại bộ phận máy móc thiết bị của Công ty đã qua nhiều năm sử dụng
nên năng lực sản xuất là rất ít (còn từ 30-35%), dễ hỏng hóc, độ chính xác
thấp, nên rất khó khăn cho việc đảm bảo tình hình sản xuất của Công ty. Hơn
nữa hoạt động sửa chữa bảo dưỡng và đổi mới máy móc thiết bị của Công ty
còn rất yếu. Số lượng máy móc thiết bị được sửa chữa, bảo dưỡng hàng năm
của Công ty hết sức khiêm tốn.
Năm 1999 : Sửa chữa 17 máy và lắp đặt vận hành 3 thiết bị mới.
Năm 2000 : Sửa chữa lớn 14 thiết bị lớn và sửa chữa đột xuất 15 máy.
Năm 2001 : Sửa chữa lớn 15 thiết bị lớn và sửa chữa đột xuất 17 máy.
4. Đặc điểm về lao động.
Nhân tố lao động có ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của Công ty. Đối với lao động sản xuất nhìn chung nhân
tố này ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện qua các điểm như
trình độ tay nghề (bậc thợ), kinh nghiệm sản xuất (thâm niên công tác) và thái
độ làm việc ở Công ty Dụng vụ cắt và Đo lường cơ khí hiện nay đội ngũ lao
động là một điểm mạnh, chứa đựng một tiềm năng vô cùng lớn, nếu phát huy
tốt sẽ là điểm hết sức quan trọng tác động đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của Công ty.
Hiện nay, số lượng cán bộ công nhân viên trong công ty là 413 người.
Trong đó: Số kỹ sư, đại học: 64 người
Số trung cấp kỹ thuật: 25 người
Tổng số lượng cán bộ lãnh đạo quản lý của Công ty là 162 người.
Trong đó có 64 người có trình độ đại học, 25 người có trình độ trung cấp, 73
sơ cấp. Như vậy, số người có trình độ đại học chiếm 39,5%.
41
Số người có trình độ trung cấp chiếm 15,4% tổng số cán bộ công nhân
viên của Công ty. Đây là một tỷ lệ tương đối cao, nó thể hiện ở số cán bộ
quản lý có trình độ cao. Điều này tạo điều kiện tốt cho Công ty trong việc
điều hành và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, góp phần
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Số lao động gián tiếp chiếm 39,2% tổng số cán bộ công nhân viên của
Công ty. Với chức năng chính của Công ty là sản xuất kinh doanh thì việc có
nhiều lao động gián tiếp so với số lao động trực tiếp sẽ ảnh hưởng không tốt
tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty nên có biện pháp giảm
bớt số lao động gián tiếp này.
Năm 2001 Công ty có 251 công nhân sản xuất với cơ cấu bậc thợ như
sau:
Bậc thợ 1/7 2/7 3/7 4/7 5/7 6/7 7/7
Số ca 17 21 33 31 81 68
(Nguồn: Phòng Tổ chức Lao động - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Bậc thợ bình quân =
251
768681531433321217 xxxxxx 5,36
Số lượng công nhân kỹ thuật, bậc thợ cao trong Công ty chiếm tỷ lệ
lớn: Công nhân thợ bậc 5 - 7 là 180 người, chiếm 71,7% tổng số công nhân
của Công ty. Công nhân bậc thợ 3-4 là 54 người, chiếm 21,5% tổng số công
nhân của Công ty. Như vậy công nhân bậc thợ 3-7 chiếm 93,2% tổng số công
nhân của Công ty. Đây là một tỷ lệ khá cao góp phần rất quan trọng trong việc
tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Với
trình độ cán bộ công nhân viên kỹ thuật cao, nếu Công ty biết bố trí lao động
một cách hợp lý thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
Công ty.
III. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH Ở CÔNG TY DỤNG
CỤ CẮT VÀ ĐO LƯỜNG CƠ KHÍ GIAI ĐOẠN 1997 ĐẾN NĂM 2001.
1. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời gian qua.
1.1. Chỉ tiêu doanh thu của Công ty.
Bảng 5: Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của Công ty.
Năm Tổng doanh Tổng doanh Tỷ lệ % thực Tỷ lệ % so với
42
thu kế hoạch
(tr.đồng)
thu thực hiện
(tr.đồng)
hiện so với kế
hoạch (%)
năm trước (%)
1997 15.000 15.535 103,56
1998 17.000 15.922 93,659 102,49
1999 13.600 10.474 77,01 65,78
2000 14.560 13.875 97,50 135,85
2001 15.000 14.743 98,29 140,76
(Nguồn: Phòng Tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Qua số liệu trên ta thấy từ năm 1997 đến năm 2001 cả doanh thu theo
kế hoạch lẫn doanh thu thực tée đều biến động thất thường, tuy nhiên xu
hướng chung là giảm. Năm 1998, so với năm 1997 thì doanh thu tăng không
nhiều chỉ tăng 2,44%. Đến năm 1999 thì doanh thu giảm mạnh so với năm
1998, giảm 5.448 triệu đồng hay giảm 34,22%. Tuy nhiên đến năm 2001 thì
doanh thu có dấu hiệu phục hồi, tăng 4.269 triệu đồng hay 40,76% so với năm
1999. Nếu xét trong cả thời kỳ thì doanh thu giảm. Doanh thu năm 2001 giảm
792 triệu đồng so với năm 1997. Tình hình thực hiện kế hoạch của Công ty
cũng không mấy khả quan. Cả 3 năm 1998, 1999, 2001, doanh thu thực tế đều
thấp hơn doanh thu kế hoạch, đặc biệt là năm 1999 thì doanh thu của Công ty
chỉ đạt 77,01% kế hoạch đề ra (mặc dù mức kế hoạch này đã được điều chỉnh
lại trong năm). Riêng năm 1997 thì vượt mức kế hoạch tăng 535 triệu đồng
hay 3,56%.
Nguyên nhân của việc giảm doanh thu trong cả thời kỳ là do:
Năm 1997, Công ty đã gặp phải những khó khăn như:
43
+ Nhu cầu khách hàng tiêu thụ sản phẩm của Công ty thay đổi.
+ Chu kỳ sản xuất cơ khí kèo dài
+ Sản phẩm của Công ty gửi tiêu thụ bị khách hàng chiếm dụng vốn.
Tuy nhiên Công ty đã có những giải pháp kịp thời cũng như thực hiện
tốt chiến lược đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm chuyển đối cơ cấu sản phẩm (từ
sản phẩm truyền thống sang sản phẩm phục vụ xây dựng cơ bản như: Cầu,,
cống, công nghiệp thực phẩm: sản xuất bánh kẹo) nên Công ty đã khắc phục
được ít nhiều các khó khăn, doanh thu của Công ty đạt và vượt mức kế hoạch.
Năm 1998: Kết quả sản xuất thấp do đó doanh thu không đạt kế hoạch.
Trong năm 1998 có 25 hợp đồng với giá trị 1.106.000.000 đồng chậm tiến độ
giao hàng (giá trị phạt do giao hàng chậm xấp xỉ 60 triệu đồng) trong đó đêù
có 685 triệu đến hết năm 1998 vẫn chưa có hàng giao cho khách.
Nguyên nhân khách quan của tình hình trên là do cơ cấu sản phẩm rất
phức tạp, tỷ trọng sản phẩm mới và khó nhiều, loại sản phẩm nhỏ, đơn chiếc
là chủ yếu dẫn đến thời gian chuẩn bị kỹ thuật kéo dài. Điều này kéo theo việc
chuẩn bị sản xuất và tổ chức sản xuất cũng kéo dài, làm cho quá trình tổ chức
sản xuất trở nên phức tạp tất yếu sẽ làm chậm tiến độ hợp đồng, hạn chế hiệu
quả tiêu thụ, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh do bị chậm hợp đồng.
Nguyên nhân chủ quan là sự chỉ đạo điều hành sản xuất, chỉ đạo chuẩn
bị kỹ thuật của Ban giám đốc còn thiếu kiên quyết. Cán bộ kỹ thuật, nghiệp
vụ còn chưa sâu sát với thực tế sản xuất tại các xưởng. Việc chấp hành kỹ
thuật lao động trên toàn Công ty rất yếu kém, trong đó có một số cán bộ lãnh
đạo kém gương mẫu. Chính điều này dẫn đến sai hỏng sản phẩm nhiều. Năm
1998 giá trị doanh thu giảm do sản phẩm sai hỏng lên đến 808,08 triệu đồng.
Năm 1999: Doanh thu của Công ty trong năm 1999 giảm mạnh chỉ đạt
10474 triệu đồng, đây là thời điểm mà Công ty gặp rất nhiều khó khăn.
Nguyên nhân của tình hình này là do tác động ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực nên nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm của
Công ty giảm mạnh (đặc biệt là thị trường Nhật Bản - thị trường nước ngoài
duy nhất của Công ty chiếm 21%). Từ cuối năm 1998 Công ty KATO đưa
thiết bị sang Việt Nam sản xuất do đó thị phần xuất khẩu của Công ty bị thu
hẹp. Giá trị hợp đồng xuất khẩu năm 1999 chỉ bằng 23% năm 1998.
44
Mức cầu của thị trường trong nước đối với sản phẩm của Công ty cũng
giảm. Sự cạnh tranh cũng vì thế mà càng gay gắt hơn. Ngày càng có nhiều
doanh nghiệp quân đội, dân sự tham gia vào đấu thầu (có lúc tới 9 đơn vị
tham gia đấu thầu). Mặt khác trong số các doanh nghiệp cạnh tranh với Công
ty thì có một số doanh nghiệp có ưu thế hơn vì vậy 90% danh mục sản phẩm
ký được trong năm này là sản phẩm mới và khó, vừa nghiên cứu chế thử vừa
thực hiện hợp đồng nên kém hiệu quả và dễ bị chậm tiến độ. (Trong số 35 hợp
đồng của năm 1998 chuyển sang và ba hợp đồng ký được năm 1999 thì có 6
hợp đồng giao chậm tiến độ).
Bên cạnh đó thì hệ thống chuẩn bị và quản lý sản xuất, sự phối hợp
giữa các khâu, các hệ thống chưa chặt chẽ, bị coi nhẹ. Việc lập và kiểm tra
tiến độ các khâu chuẩn bị kỹ thuật, chuẩn bị sản xuất chưa được quan tâm và
chú trọng đúng mức. Tình hình quản lý và sử dụng lao động còn thấp, chưa
đáp ứng được với yêu cầu sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Ngoài ra một trong những nguyên nhân chủ chốt, quan trọng thiết yếu
làm cho tình trạng doanh thu không đạt kế hoạch là khâu tiếp thị; tổ chức
mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Công ty còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu về giới thiệu sản phẩm và hướng dẫn khách hàng sử dụng sản
phẩm.
Năm 2000 và 2001: Doanh thu của Công ty đã được phục hồi một cách
đáng kể, đạt 14.743 triệu đồng, tăng 4.269 triệu đồng so với năm 1999. Tuy
nhiên doanh thu của Công ty mới chỉ gần đạt mức kế hoạch (98,29%) nguyên
nhân của kết quả này là do Công ty đã chủ động tăng dần sản phẩm truyền
thống cả về giá trị tuyệt đối và cả về tỷ lệ % trong tổng sản lượng. Công ty đã
chú trọng nâng sản lượng lưỡi cưa máy chế tạo từ thép của Đức và dao tiện
gắn hợp kim WIDA của Đức. Bên cạnh đó do đoán được sự giảm sút của thị
trường máy trên Công ty đã giảm sản lượng mặt hàng này. Mặt khác ở thị
trường dầu khí Công ty không những giữ vững mức của năm trước mà còn
phát triển được (đạt 2.250 triệu đồng so với 1.596 triệu đồng năm 1999).
Nhưng đáng chú ý hơn cả là Công ty đã quan tâm đến công tác tiếp thị,
giới thiệu sản phẩm đến khách hàng. Chính vì vậy mà Công ty đã đặt chân
được vào thị trường phía Nam (dụng cụ cắt) tháng 3 năm 2000 khai trương
45
chi nhánh ở Thành phố Hồ Chí Minh và tính đến hết tháng 12 năm 2000 đạt
doanh số 373,27 triệu đồng.
Mặc dù đã có một số thành tựu nhất định nhưng vẫn còn một số tồn tại
khiến doanh thu của Công ty chưa đạt mức kế hoạch. Đáng lưu ý nhất vẫn là
tình trạng chấp hành kỷ luật lao động thấp. Doanh thu giảm do sản phẩm sai
hỏng tăng đến mức khá cao tới 1.050,16 triệu đồng. Công ty cần chú trọng
giải quyết vấn đề này, có những biện pháp kịp thời để có thể tăng doanh thu
tiêu thụ trong các năm tới, đồng thời tăng được hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, cơ cấu sản phẩm sản xuất chưa đạt được như dự kiến nên chưa đáp
ứng được yêu cầu của khách hàng và thị trường. Có một số sản phẩm tại một
số thời điểm cung chưa kịp, chưa khớp với cầu. Tình trạng chậm tiến độ giao
hàng vẫn tiếp diễn đã hạn chế kết quả và doanh thu của Công ty.
1.2. Chỉ tiêu lợi nhuận và nộp ngân sách.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của kinh doanh. Đó là phần
chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của
mỗi doanh nghiệp.
Tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty được thể hiện qua bảng số
liệu sau:
Bảng 6: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty 1997 - 2001.
(Đơn vị triệu đồng)
T
T
Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2001
1 Tổng doanh thu 15.534,707 15.922,099 10.474,126 14.743,22
2 Các khoản giảm trừ + thuế
(VAT), xuất khẩu phải nộp
330,467
658,610
229,679
349,763
3 Doanh thu thuần 15.204,330 15.263.489 10.244,447 14.393,46
4 Giá vốn hàng bán 11.963,51 12.480.674 8.100,664 11.810,50
5 Lợi tức gộp 3.250,919 2.782.842 2.143,783 2.582,956
6 Chi phí bán hàng 247,892 273,278 161,568 286,749
7 Chi phí quản lý D/nghiệp 2.801,047 2.335,819 2.139,771 2.212,263
8 Lợi nhuận hoạt động kinh
doanh
174,890 173,745 - 157,780 83,944
9 Lợi nhuận hoạt động tài
chính
0 0 - 149,311 0
10 Lợi nhận hoạt động bất 57,873 6,758 289,138 63,476
46
thường
11 Tổng lợi nhuận trước thuế 232,853 179,903 - 17,953 147,420
(Nguồn: Phòng tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Bảng 7: Sự tăng, giảm các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
(Đơn vị: Triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 1998
so với năm
1997
Năm 1999
so với năm
1998
Năm 2001
so với năm
1999
Tổng doanh thu 387,392 - 5.447,973 4.269,099
Khoản giảm trừ 328,143 - 428,931 120,084
Doanh thu thuần 59,159 - 5.019,042 4.149,015
Giá vốn hàng bán 527,206 - 4.379,983 3.709,842
Lợi tức gộp - 468,047 -639,059 439,173
Chi phí bán hàng 25,386 -111,710 125,181
Chi phí quản lý doanh nghiệp - 465,228 -196,048 72,492
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh - 1,145 -331,525 241,724
Lợi nhuận hoạt động tài chính 0 -149,311 149,311
Lợi nhuận bình thường - 51,115 282,38 - 225,662
47
Tổng lợi nhuận trước thuế - 52,95 -197,856 165,373
(Nguồn: Phòng Tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Lợi nhuận phụ thuộc vào các khoản làm tăng lợi nhuận như doanh thu
và các khoản lợi nhuận như giá vốn hàng bán, các loại chi phí.
So với năm 1997 lợi nhuận năm 1998 đã giảm 52,95 triệu đồng, lợi
nhuận năm 1999 so với năm 1998 lại giảm tới 197,856 triệu đồng. Nhưng đến
năm 2001 lợi nhuận đã tăng 165,373 triệu đồng so với năm 1999.
Điều này là do ảnh hưởng của các nhân tố:
- Do doanh thu thay đổi: Doanh thu thường có quan hệ cùng chiều với
lợi nhuận, khi doanh thu tăng thì lợi nhuận tăng và ngược lại.
Doanh thu năm 1998 so với năm 1997 tăng 387,392 triệu đồng làm lợi
nhuận tăng 387,392 triệu đồng vào năm 1998.
Doanh thu năm 1999 so với năm 1998 giảm 5447,973 triệu đồng làm
lợi nhuận giảm 5447,973 triệu đồng.
Doanh thu năm 2001 tăng so với năm 1999 một lượng là 4269,099 triệu
đồng làm lợi nhuận năm 2001 so với năm 1999 cũng tăng 4269,099 triệu
đồng.
- Do khoản giảm trừ (thuế doanh thu, hàng bán bị trả lại, hoa hồng…)
làm lợi nhuận năm 1998 so với năm 1997 giảm 328,143 triệu đồng. Lợi nhuận
năm 1999 so với năm 1997 tăng 428,931 triệu đồng. Lợi nhuận năm 2001 so
với năm 1999 lại giảm 120,084 triệu đồng. Do các khoản giảm trừ của doanh
thu năm 2001 tăng 120,084 triệu đồng so với năm 1999.
- Do giá vốn hàng bán thay đổi: Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng
lớn đến lợi nhuận. Nếu giá vốn hàng bán càng tăng thì lợi nhuận càng giảm.
Do vậy ảnh hưởng của giá vốn hàng bán làm lợi nhuận của năm 1998 so với
năm 1997 đã giảm 527,206 triệu đồng. Còn lợi nhuận của năm 1999 so với
năm 1998 tăng 4379,983 triệu đồng. Lợi nhuận năm 2001 so với năm 1999
giảm 3079,842 triệu đồng.
- Do ảnh hưởng của chi phí bán hàng: Cũng như giá vốn hàng bán chi
phí bán hàng càng tăng thì càng làm giảm lợi nhuận và ngược lại. Do ảnh
hưởng của chi phí bán hàng làm lợi nhuận năm 1998 so với năm 1997 giảm
48
25,386 triệu đồng. Nhưng lợi nhuận năm 1999 so với năm 1998 thì tăng
111,710 triệu đồng và lợi nhuận năm 2001 so với năm 1999 lại giảm 125,181
triệu đồng.
- Do ảnh hưởng của chi phí quản lý: Năm 1998 công ty đã tiết kiệm
được một khoản chi phí quản lý so với năm 1997 là 465,288 triệu đồng, làm
lợi nhuận của năm 1998 so với năm 1997 tăng 465,288 triệu đồng. Lợi nhuận
năm 1999 so với năm 1998 tăng 196,048 triệu đồng. Nhưng lợi nhuận năm
2001 so với năm 1999 giảm 72,492 triệu đồng.
- Do ảnh hưởng của thu, chi hoạt động tài chính làm lợi nhuận của năm
1999 so với năm 1998 giảm 149,311 triệu đồng. Thu chi của hoạt động bất
thường làm lợi nhuận năm 1998 giảm 51,115 triệu đồng so với năm 1997, lợi
nhuận năm 1999 tăng 282,18 so với lợi nhuận năm 1998 và lợi nhuận năm
2001 giảm 225,622 so với lợi nhuận năm 1999.
Bảng 8: Tình hình thực hiện kế hoạch nộp ngân sách của Công ty
Năm
Nộp ngân sách
theo kế hoạch
(tr.đồng)
Nộp ngân sách
thực hiện
(tr.đồng)
Tỷ lệ % thực
hiện so với kế
hoạch (%)
Tỷ lệ % so với
mức thực hiện
năm trước (%)
1997 312,65 326,27 104,36
1998 358,57 415,24 115,80 127,27
1999 581,74 551,06 94,73 132,71
2001 589,37 699,84 118,74 127,00
(Nguồn: Phòng tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành cơ khí hiện nay thường nộp
ngân sách thông qua thuế doanh thu với tỷ lệ 1% doanh thu (đến năm 1999
thay bằng thuế VAT 10%) và 3,6% phần lợi tức sau thuế. Doanh thu tăng, lợi
nhuận tăng thì nộp ngân sách sẽ tăng. Mức nộp ngân sách của công ty ngày
càng tăng từ năm 1997 đến năm 2001 do doanh thu qua các năm này ngày
càng tăng. Đồng thời số thực hiện cũng tăng hơn so với kế hoạch nộp ngân
sách của Công ty. Từ năm 1997 đến năm 2001, tỷ lệ nộp ngân sách thực tế so
49
với kế hoạch của từng năm tăng ngày càng cao. Năm 1997 đạt 104,360%,
năm 1998 đạt 115,80%, năm 1999 chỉ đạt 94,73%, năm 2001 vượt mức kế
hoạch 18,74%. Tuy 1999 Công ty không hoàn thành kế hoạch nộp Ngân sách
nhưng nhìn chung Công ty đã thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước.
1.3. Nguồn vốn kinh doanh.
Nguồn vốn kinh doanh của Công ty qua các năm 1997 - 2001 được thể
hiện qua bảng sau:
Bảng 9: Nguồn vốn kinh doanh của Công ty từ năm 1997 đến 2001
(Đơn vị; triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2001
A. Vốn lưu động
(TSLĐ)
10.267,569 10.499,110 10.598,048 10.562,659
1. Tiền mặt 507,614 191,642 328,076 356,191
2. Phải thu 2688,943 2.649,112 3.675,121 3.745,986
3. Hàng tồn kho 7021,769 7.587,313 6.373,046 7.102,931
4. TSLĐ khác 49,243 71,043 221,805 857,551
B. Vốn cố định 5.221,678 4.972,277 4.929,277 4.976,136
TSCĐ 5.221,678 4.972,277 4.972,277 4.976,136
(Nguồn: Phòng tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Theo bảng số liệu trên ta thấy vốn kinh doanh của Công ty có xu hướng
ngày càng tăng, từ 15489,247 triệu đồng của năm 1997 đến năm 2001 đã tăng
lên thành 15538,795 triệu đồng. Trong khi vốn cố định lại ngày càng giảm từ
năm 1997 đến năm 1999, năm 1997 tổng vốn cố định là 5221,678 triệu đồng,
năm 1999 chỉ còn là 4929,277 triệu đồng. Như vậy vốn cố định năm 1999
giảm so với năm 1997 một lượng là 292,401 triệu đồng. Đến năm 2001 lượng
vốn cố định lại tăng thêm thành 4976,136 triệu đồng. Vốn cố định năm 2001
tăng hơn năm 1999 là 46,859 triệu đồng là do mở chi nhánh bán hàng ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
Ta có bảng số liệu biểu hiện sự tăng, giảm nguồn vốn:
Bảng 10: Tốc độ tăng nguồn vốn qua các năm
Tốc độ tăng vốn lưu động Tốc độ tăng vốn cố định
Năm Chênh lệch
(tr.đồng) %
Chênh lệch
(tr.đồng) %
1998 1197,499 187,67 - 13,864 96,13
50
1999 506,215 120,0 - 35,121 89,8
2000 668,096 121,71 58,507 118,9
(Nguồn: Phòng tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Vốn lưu động có xu hướng ngày càng tăng. Năm 1997 vốn lưu động là
10.267,569 triệu đồng. Đến năm 1999 thì vốn lưu động là 10.598,048 triệu
đồng tức là hơn 330.479 triệu đồng so với năm 1997. Đến năm 2001 thì lượng
vốn lưu động giảm 35,389 triệu đồng so với năm 1999, tức là chỉ còn
10.562,659 triệu đồng.
Bảng 11: Cơ cấu nguồn vốn của Công ty từ năm 1997 đến năm 2001.
Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2001
- Vốn lưu động/tổng vốn 79,22% 88,15% 90,84% 91,04%
- Vốn cố định/tổng vốn 20,78% 11,85% 9,16% 8,96%
(Nguồn: Phòng tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Như vậy, vốn lưu động có xu hướng tăng cả về số tuyệt đối lẫn tỷ
trọng. Vốn lưu động năm 1997 là 10267,569 triệu đồng chiếm 66,29% vốn
kinh doanh đã tăng 231,541 triệu đồng lên thành 10499,110 triệu đồng (chiếm
67,86% vốn kinh doanh) vào năm 1998 và tiếp tục tăng 98,938 triệu đồng lên
thành 10598,048 triệu đồng (chiếm 68,25% vốn kinh doanh) vào năm 1999.
Đến năm 2001 vốn lưu động giảm chỉ còn 10562,659 triệu đồng (chiếm
67,98% vốn kinh doanh). Vốn cố định lại có xu hướng ngày càng giảm về tỷ
trọng trong tổng vốn kinh doanh của Công ty. Năm 1997 chiếm tỷ trọng
33,71% trong tổng số vốn, năm 1998 chỉ còn 32,14%, năm 1999 tiếp tục giảm
còn 31,75%. Đến năm 2001 tăng lên 32,02%.
Nguyên nhân của tình hình trên là do:
- Vốn lưu động ngày càng tăng chủ yếu là do khoản chi phải thu tăng.
Do đặc điểm ngành nghề kinh doanh của Công ty là sản xuất các loại máy
móc thiết bị cơ khí đòi hỏi vốn lớn nên khách hàng mua máy của Công ty
thường thanh toán bằng hình thức trả chậm, chiếm dụng vốn của Công ty,
trong khi công ty ngày càng sản xuất và tiêu thụ được nhiều dây chuyền sản
xuất thiết bị dụng cụ cắt và đo lường cũng như các sản phẩm phục vụ ngành
dầu khí. Do vậy, số vốn bị chiếm dụng ngày càng nhiều, khoản phải thu tăng
dẫn đến vốn lưu động tăng.
51
- Vốn cố định từ năm 1997 đến năm 1999 ngày càng giảm do tài sản cố
định của công ty là các máy móc thiết bị cũ kỹ, dùng lâu, đã gần hết khấu hao
nhưng không được bổ sung làm giảm vốn cố định. Đến năm 2001 nhận thấy
cần phải thay đổi một số máy móc thiết bị tốt để mở rộng thị trường, phục vụ
sản xuất kinh doanh nên công ty mua thêm một số máy móc thiết bị mới làm
tăng vốn cố định của năm 2001.
Vốn vay ngắn hạn ngân hàng:
Bảng 12: Vốn vay ngắn hạn ngân hàng qua các năm 1997 đến 2001.
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm 1997 1998 1999 2001
Vốn vay ngân hàng 4564,013 5.222,515 4.485,359 4.931,861
(Nguồn: Phòng tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
Do đặc điểm về ngành nghề kinh doanh của Công ty đòi hổi vốn lớn
mà nguồn vốn do Nhà nước cấp và nguồn vốn tự có của Công ty còn ít, không
đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất nên Công ty buộc phải vay ngắn hạn ngân
hàng để mua sắm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất.
1.4. Chỉ tiêu chi phí.
Thực trạng chi phí của Công ty được thể hiện:
Bảng 13 : Tình hình chi phí của Công ty năm 1997 - 2001
Mức thay đổi
Năm Tổng chi phí Chênh lệch Tỷ lệ % đạt được so với năm trước
1997 15.301,8
1998 15.741,2 440,4 102,88%
1999 10.492,1 -5.250,1 66,65%
2001 14.595,8 4.103,7 139,11%
(Nguồn : Phòng Tài vụ - Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường Cơ khí)
52
Nhìn vào bảng trên ta thấy chi tiêu tổng chi phí của Công ty thay đổi
khá thất thường. Năm 1998 tổng chi phí của Công ty chỉ còn là 10.492,1 triệu
đồng nghĩa là đã giảm 5250,1 triệu đồng so với năm 1998 (giảm 33,35%).
Nhưng đến năm 2001 thì tổng chi phí của Công ty lại tăng lên 14.595,8 triệu
đồng, lớn hơn năm 1999 4103,7 triệu đồng (hay là tăng 39,11%).
Sự thay đổi của chi tiêu tổng chi phí chủ yếu là do sự thay đổi chi phí
nguyên vật liệu và chi phí nhân công.
* Chi phí nguyên liệu biến động qua các năm:
Năm 1997 : chi phí nguyên vật liệu là 11.493,223 triệu đồng
Năm 1998 : chi phí nguyên vật liệu là 11.827,112 triệu đồng
Năm 1999 : chi phí nguyên vật liệu là 7.867,116 triệu đồng.
Năm 2001 : chi phí nguyên vật liệu là 110.967,288 triệu đồng.
Năm 1998 chi phí nguyên vật liệu nhiều hơn năm 1997 là : 11.827,112
- 11.449,223 = 377,884 triệu đồng. Điều này giải thích tại sao tổng chi phí
năm 1998 lớn hơn 1997 : 440,4 triệu đồng.
Năm 1999 chi phí nguyên vật liệu tiết kiệm so với năm 1998 là :
7.867,116 - 11.827,112 = 1959,996 triệu đồng. Đây là nguyên nhân chính làm
tổng chi phí năm 1999 ít hơn năm 1998 là 5250,1 triệu đồng.
Tương tự như trên, năm 2001 chi phí nguyên vật liệu tăng ; 10.967,288
- 7.867,116 = 3100,172 so với năm 1999 khiến tổng chi phí năm 2001 cao
hơn tổng chi phí năm 1999.
* Chi phí về nhân công cũng có nhiều biến động. Chi phí về nhân công
thay đổi được thể hiện quâ quỹ tiền lương của Công ty.
53
Hiện nay quỹ tiền lương của Công ty được hình thành trên cơ sở tổng
giá trị sản lượng và tổng quỹ tiền lương của Công ty.
Hiện nay quỹ tiền lương của Công ty được hình thành trên cơ sở tổng
giá trị sản lượng và tổng quỹ lương kế hoạch do cấp trên duyệt (thông thường
bằng 15% tổng giá trị sản lượng) Việc thực hiện quỹ tiền lương phụ thuộc
nhiều vào giá cả thị trường, khả năng ký kết, giành các hợp đồng của Công ty.
Năm 1997 :
Tổng quỹ lương : 3737.367 triệu đồng
Thu nhập bình quân ; 682,99 nghìn đồng
Năm 1998 :
Tổng quỹ lương : 4033,656 triệu đồng
Thu nhập bình quân : 726,002 nghìn đồng
Tổng quỹ lương năm 1998 tăng hơn so với năm 1997 là :
4033,656 - 3737,367 = 296,289 triệu đồng.
Năm 1999 :
Tổng quỹ lương : 3601,920 triệu đồng
Thu nhập bình quân : 670,021 nghìn đồng
Tổng quỹ lương năm 1999 tăng hơn so với năm 1998 là :
3601,920 - 4033,656 = -431,736 triệu đồng.
Năm 2001 :
Tổng quỹ lương : 3835,944 triệu đồng
Thu nhập bình quân : 774,005 nghìn đồng.
2. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty
2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp.
2.1.1. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế = tổng doanh thu/ tổng chi phí
hay H = TR/TC
54
Qua bảng số liệu về tổng doanh thu, tổng chi phí của Công ty từ năm
1995 - 1998 ta có ;
015,1
854,15301
707,155345
97 H
011,1
196,15742
099,15922
98 H
998,0
079,10492
126,10474
99 H
010,1
805,14595
225,14743
00 H
Ta thấy, hiệu quả kinh tế của năm 1997 là cao nhất (đạt 1,015), có
nghĩa là khi bỏ ra 1 đồng chi phí ta sẽ thu về 1,05 đồng doanh thu. Và hiệu
quả kinh tế nói chung có xu hướng giảm. Năm 1998 đạt 1,011; năm 1999 chỉ
đạt 0,998 đến năm 2001 tình hình có khả quan hơn hiệu quả đạt 1,010.
Như đã phân tích ở phần tổng chi phí, ta có tổng chi phí năm 1998 so
với năm 1997 tăng 440,4 triệu đồng (2,88%). Trong khi đó doanh thu của năm
1998 chỉ tăng 2,494% so với năm 1997. Như vậy tốc độ tăng của tổng chi phí
lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu nên hiệu quả kinh tế của năm 1998 kém
hơn năm 1997. Đến năm 1999 tổng chi phí giảm mạnh, giảm 33,35%. Tuy
nhiên, tốc độ giảm của doanh thu cũng rất lớn 34,216% dẫn đến hiệu quả kinh
tế của năm 1999 thấp hơn năm 1998, chỉ là 0,998. Đáng lưu ý là chỉ số này
thấp hơn 1; điều này có nghĩa là tổng chi phí lớn hơn doanh thu, nói một cách
khác doanh nghiệp đã bị lỗ. Chính vì vậy Công ty cần có những biện pháp kịp
thời để khắc phục tình trạng này. Tình hình năm 2000 và 2001 đã được cải
thiện. Hiệu quả kinh tế là 1,010. Sở dĩ điều này xảy ra vì tốc độ tăng doanh
thu 40,758% lớn hơn tốc độ tăng chi phí trong cùng năm 39,11%.
Để tăng doanh thu, Công ty cần tăng cường các máy móc thiết bị hiện
đại, có đội ngũ lao độngcó tay nghề cao, kỷ luật lao động tốt. Việc tăng cường
máy móc thiết bị hiện đại sẽ giúp Công ty nâng cao năng suất lao động. Đầu
tư vào việc mua sắm máy móc thiết bị Công ty sẽ có khả năng sản xuất các
sản phẩm đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp
ứng mọi nhu cầu của khách hàng, mới có sức cạnh tranh trên thị trường. Việc
55
tăng doanh thu còn chịu sự chi phối khá lớn, công tác tiếp thị quảng cáo nhằm
mở rộng thị trường và sự đa dạng hoá các loại sản phẩm của Công ty.
Để giảm chi phí, Công ty cần có công tác thu mua, bảo quản, dự trữ
nguyên vật liệu hợp lý để tránh bị động trong việc cung ứng các yếu tố đầu
vào. Do chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kinh phí
sản xuất kinh doanh (65-75%). Vì thế sử dụng có hiệu quả nguyên vật liệu sẽ
làm giảm chi phí.
2.1.2. Mức doanh thu
- Mức doanh lợi của doanh thu:
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng doanh thu mang lại bao nhiêu lợi nhuận.
Bảng 14 : Hệ số doanh lợi của doanh thu của Công ty.
Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2001
- Lợi nhuận (trđ) 232,853 179,903 -17.953 147,420
- Doanh thu (trđ) 15.534,707 15.922,099 10.474,126 14.743,225
- Hệ số doanh lợi của vốn
kinh doanh (đ/đ)
0,0150 0,0113 -0,0017 0,0100
(Nguồn : Phòng tài vụ - Công ty dụng cụ cắt và đo lường Cơ khí)
- Năm 1998 so với năm 1997, hệ số doanh lợi của doanh thu giảm
0,0113 - 0,0150= 0,0037
Do ảnh hưởng của:
+ Doanh thu thay đổi làm thay đổi hệ số doanh lợi của doanh thu giảm
(232,853/15922,099) - 0,0150 = -0,00038
+ Lợi nhuận thay đổi
0,0113 - (232,853/15922,099) = -0,00332
- Năm 1999 so với năm 1998, hệ số doanh lợi của doanh thu giảm
-0,0017 -0,0113 = 0,01300
Do ảnh hưởng của :
+ Doanh thu thay đổilàm thay đổi hệ số doanh lợi của doanh thu giảm
56
(179,903/15567,325) - 0,0113 = 0,00029
+Lợi nhuận thay đổi làm doanh lợi của doanh thu giảm 0,01329
- Năm 2001 so với năm 1999, hệ số doanh lợi của doanh thu tăng
0,0100 - (- 0,0017) = 0,01170
Do ảnh hưởng của:
+ Doanh thu làm giảm
(-17,953/14743,225) + 0,0017 = 0,0001
+ Lợi nhuận làm tăng 0,01171.
Mức doanh lợi của doanh thu thay đổi như vậy phản ánh tình trạng
doanh thu tăng nhưng không tiết kiệm được chi phí (trừ năm 2001 doanh thu
tăng < lợi nhuận tăng). Năm 1998 tăng doanh thu làm giảm doanh lợi của
doanh htu và lợi nhuận trong năm lại thấp hơn so với năm 1997 làm giảm
doanh lợi của doanh thu. Năm 1999, dù doanh thu giảm nhưng không đủ bù
đắp lợi nhuận âm để tăng doanh lợi của doanh thu. Đến năm 2001 doanh thu
tăng đã làmg giảm doanh lợi của doanh thu nhưng chi phí đã giảm nhiều, lợi
nhuận tăng cao nên doanh lợi của doanh thu cao hơn năm 1999.
* Hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh:
Chỉ tiêu này phản ánh trong năm một đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và công tác đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí.pdf