Tài liệu Luận văn Thực trạng tư nhân hóa và đa dạng hóa tại thị trường các sản phẩm an tòan tài chính Việt Nam: Luận văn: Thực trạng tư nhấn hóa và đa
dạng hóa tại thị trường các sản phẩm an
tòan tài chính Việt Nam
Lời mở đầu
Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc chuyển nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đ• mở ra cơ hội kinh doanh,
làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài và góp phần đẩy nhanh tiến trình tư
nhân hoá tại Việt Nam. Một trong những vấn đề đang được các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế quan tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài
sản nói riêng do vai trò quan trọng của chúng trong việc bảo toàn vốn, hình thành
tâm lý ổn định, an tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam,
nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường của người bán" thành
"thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai
các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến l...
46 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng tư nhân hóa và đa dạng hóa tại thị trường các sản phẩm an tòan tài chính Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Thực trạng tư nhấn hóa và đa
dạng hóa tại thị trường các sản phẩm an
tòan tài chính Việt Nam
Lời mở đầu
Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc chuyển nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đ• mở ra cơ hội kinh doanh,
làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài và góp phần đẩy nhanh tiến trình tư
nhân hoá tại Việt Nam. Một trong những vấn đề đang được các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế quan tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài
sản nói riêng do vai trò quan trọng của chúng trong việc bảo toàn vốn, hình thành
tâm lý ổn định, an tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam,
nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường của người bán" thành
"thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai
các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến lược quan
trọng mà các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường.
Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên cứu, học tập
trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm Hoả hoạn đã không còn xa lạ. Tuy nhiên,
làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai loại
hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng được với nhu cầu
ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp đang là câu hỏi lớn đặt ra
với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt nam. Chính vì vậy, em đã chọn
đề tài “Bảo hiểm hoả hoạn thực trạng- giải pháp đối với Tổng Công ty Bảo Việt “
làm nội dung nghiên cứu.
Mục đích của đề tài nhằm tập hợp, hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được
áp dụng chung trong loại hình Bảo hiểm Hoả hoạn, các đặc điểm riêng biệt của
loại hình, cũng như những công tác cần thiết trong việc triển khai nghiệp vụ.
Ngoài ra, đề tài cũng dành một phần đề cập đến thực tế tình hình triển khai
nghiệp vụ tại Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam - công ty bảo hiểm đầu tiên tiến
hành loại hình bảo hiểm mới mẻ này trong những năm vừa qua.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản luận văn bao gồm 3 chương với
những nội dung cơ bản sau:
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này, chúng tôi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của Thầy giáo hướng dẫn Thân Danh
Phúc và một số cán bộ công tác tại Phòng Bảo hiểm Hoả hoạn và Kỹ Thuật thuộc
Tổng Công ty Bảo hiểm Hà Nội. Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn về sự giúp
đỡ quý báu đó.
Bản chuyên đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm
khuyết trong biên tập và trình bày. Rất mong được sự góp ý và phê bình của
thày giáo và các bạn đồng nghiệp.
Sinh viên thực hiện: Tạ Quang Tuấn
Chương I
Một số cơ sở lý luận về bảo hiểm hoả hoạn trong nền kinh tế thị trường
I. Vài nét về lịnh sử bảo hiểm hoả hoạn
Hiệp hội bảo hiểm hoả hoạn lần đầu tiên ra đời trên thế giới là ở Đức năm
1591 mang tên Feuer Casse. Một thời gian ngắn sau đó xuất hiên thêm vài Công
ty nữa nhưng không để lại dấu ấn gì lớn cho tới giữa thế kỷ 17. Năm 1666 đẫ xẩy
ra một vụ Hoả hoạn khủng khiếp ở Lôn Đôn. Vụ Hoả hoạn kéo dài năm ngày.
Thiêu huỷ gần như toàn bộ thành phố đã kích thích sự ra đời của bảo hiểm hoả
hoạn. Một nhà vật lý người Anh tên là NICHOLAS BARBEN chuyển nghạch
sang lĩnh vực xây dựng trong thời gian xây dựng lại thành phố đã đồng thời cũng
bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn cho các ngôi nhà mới xây dựng. Ban đâu ông điều
khiển Công ty theo kiểu Công ty tư nhât nhưng sau đó năm 1680 ông đổi thành
Công ty cổ phần mang tên là “ The Fire Office “. Một số Công ty khác cũng theo
đó ra đời trong đó có Hand in Hand năm 1696 và Sun Fire Office năm 1710.
Công ty bảo hiểm đầu tiên thành công ở Mỹ là Công ty bảo hiểm tương hỗ, do
Benfamir Franklin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752, mang tên là
The Philadenphia Contributionship chuyên bảo hiểm Hoả hoạn cho nhà cửa.
Công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ mang tên là The insurance company of
Noth America được thành lập năm 1792.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế. Bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và trở
thành nghiệp vụ truền thống với phí thu hàng năm rất cao. ở Nhật, số phí bảo
hiểm hoả hoạn thu hàng năm 1993 là 1.017.008 triệu yên ( trên 10 tỷ đô la)
chiếm 15,5% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm phí nhân thọ.
II . Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hảo hoạn
Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung vật tư,
hàng hoá rất lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và những loại máy
móc hiện đại sẽ được phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ thuật an toàn
thường đi sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn thường rất thấp so
với vốn đầu tư phát triển sản xuất thêm vào đó điều kiện tự nhiên ngày càng khắc
nghiệt và đã khiến cho khả năng xảy ra rủi ro tai nạn nhiều hơn so với mức độ
thiệt hại về người và của nghiêm trong hơn.
Chỉ tính riêng hoả hoạn mỗi năm nước ta xẩy ra hàng nghìn vụ Hoả hoạn nổ, làm
chết hoặc bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Có
những vụ Hoả hoạn làm thiêu huỷ hàng trăm nóc nhà, toàn bộ khu chợ lớn hoặc
cả một cơ sở sản xuất kinh doanh hàng chục tỷ đồng, làm cho hàng nghìn người
không còn nhà ở hàng nghìn hộ kinh doanh phải điêu đứng vi mất hết toàn bộ
hàng hoá, tiền của , không còn chỗ kinh doanh làm cho hàng trăm công nhân
không còn nơi làm việc. Số liệu thống kê về hoả hoạn ở Việt Nam của cục cảnh
sát phòng Hoả hoạn chữa Hoả hoạn trong 5 năm 1998-2003 như sau:
Bảng 1_ Hoả hoạn ở Việt Nam trong năm 1998-2002
Năm Số vụ Địa điểm Nghành kinh tế Thiệt hại
Thành phố Nông thôn Nhà nước Tập thể Tư nhân
Liên doanh Chết Thương tật Tài sản(tỷ đồng)
1998 949 678 270 273 60 619 4 47 111 40019
1999 941 657 284 238 39 664 7 65 110 43418
2000 1026 670 356 277 44 704 3 127 465 86218
2001 1055 750 305 199 27 825 2 88 215 215102
2002 1091 720 372 226 33 830 5 105 140 92660
Vậy làm thế nào doanh nghiệp trách được tổn thất bảo toàn nguồn vốn kinh
doanh của mình? Thực ra nó còn nhiều biên pháp sử dụng như sử dụng các biện
pháp an toàn, thành lập quỹ dự trữ đề phòng xẩy ra tổn thất...Trước đây chúng ta
có một vài Công ty bảo hiểm hoả hoạn tại miền Nam trong thời kỳ Pháp thuộc
song sang năm 1975 do cơ chế bao cấp, nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại,
bảo đảm tài chính cho các doanh nghiệp khi không may gặp rủi ro nên bảo hiểm
nói chung và bảo hiểm hoả hoạn nói riêng không có mảnh đất phát triển. Trong
điều kiên nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường hiên nay các doanh nghiệp
phải tự chủ về nguồn tài chính, tham gia bảo hiểm tài sản mà cụ thể là bảo hiểm
Hoả hoạn vẫn là phương án tối đa.
Theo quy tắc bảo hiểm Hoả hoạn hiện nay vẫn sử dụng ở các Công ty bảo
hiểm trong nước, người tham gia bảo hiểm có thể tham gia đăng ký bảo hiểm cho
những tài sản như nhà của trang thiết bị hàng hoá, nguyên vật liệu của
mình...Ngoài Hoả hoạn là rủi ro chính họ còn đăng ký cho các rủi ro phụ như nổ,
giông bão, động đất nước chảy hay rò rỉ tràn từ bể chứa đường ống hoặc thiết bị
chữa Hoả hoạn, xe cộ hay súc vật đâm vào....Trong trương hợp xẩy ra tổn thất,
các Công ty bảo hiểm bồi thường cho những thiệt hại trực tiếp từ các nguyên
nhân kể trên và cả những chi tiết cần thiết hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản
được bảo hiểm trong và ngay khi chấy.
Tuy nhiên Hoả hoạn không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến cho con người và
tài sản mà nó còn để lại những thiệt hại và tổn thât khổng lồ cho các doanh
nghiệp. Trên thực tế sau khi Hoả hoạn hoạt động sản xuất không thể phát triển
theo kế hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận do
nhà xưởng, máy móc bị hư hại. Để tránh bị phá sản họ phải tiến hành các biện
pháp khôi phục lại sản xuất. Bên cạch việc duy trì chi trả tiền lương cho nhân
công và thanh toán các chi phí cố định như tiền thuê nhà xưởng, khấu hao, điện
nước lãi xuất ngân hàng các doanh nghiệp còn phải thuê thêm nhân viên làm việc
thêm giờ để hoàn tất đơn đặt hàng tồn đọng...Rõ ràng những khám phá này
không được bồi thường theo đơn bảo hiểm Hoả hoạn.
Để đáp ứng được các khoản chi phí trên, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng các
quỹ dự trữ, hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay khác, song các
phương pháp này hoàn toàn thụ động . Một biện pháp hiện nay đang khẳng định
tính ưu việt với các nhà đầu tư nước ngoài đó là tham gia bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh. Với loại hình này, các doanh nghiệp không những được bồi thường
tài chính cho các khoản chi phí nói trên mà còn được bù đắp phần lợi nhuận ròng
bị mất mát mà lẽ ra họ được mà không bị tổn thương. Như vậy có thể nói rằng
bảo hiểm hoả hoạn đã hạn chế tối thiểu mức ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bằng việc đóng góp một khoản phí nhỏ ( thường là một phần ngàn giá trị của
tài sản) người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để nguồn vốn nhàn rỗi
cho phát triển hoạt động sản xuất, bởi họ không phải trích lập quỹ dự phòng
trường hợp xẩy ra rủi ro và quan trọng hơn, bên cạnh việc được bồi thường khi
xẩy ra tổn thất họ có một tâm lý an tâm khi tiến hành công việc kinh doanh của
mình.
Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp còn được các Công ty tư vấn về các
biện pháp phòng trách tổn thất, tăng cường biện pháp phòng Hoả hoạn chữa Hoả
hoạn và thực hiện chính sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo sự an toàn cao nhất.
Bên cạnh việc mang lại lợi ích trên cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế. Bời vì
thông qua việc hướng dẫn các doangh nghiệp thực hiện những biện pháp an toàn,
các Công ty bảo hiểm góp phần hạn chế tổn thất tai nạn giúp khách hàng của họ
có điều kiện thúc đẩy mở rộng sản xuất như mong muốn. Mặt khác, một phần
không nhỏ khoản phí thu được từ loại hình này được Công ty bảo hiểm đóng góp
vào ngân sách nhà nước để chính phủ sử dụng các mục đích xã hội.
III. Việc thực hiện bảo hiểm hoả hoạn ở Việt Nam
ở Việt Nam bảo hiểm hoả hoạn bắt đầu được thực hiện từ năm 1989 sau khi
có quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/1/1989 của bộ trưởng bộ tài chính ban hành
quy tắc về bảo hiểm hoả hoạn. Sau một thời gian thực hiện để phù hợp hơn với
tình hình thực tế, Bộ tài chính lại có quyết định số 142/TCQĐ ban hành quy tắc
và biểu phí mới và quyết định số 212/TCQĐ ngày 12/4/1993 ban hành biểu phí
và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt với các mức phí tối đa thay cho biểu
phí bảo hiểm hoả hoạn theo quyết định số 142/TCQĐ.
Đến nay bảo hiểm hoả hoạn đã được thực hiện trong khắp cả nước. Nếu như
năm 1991 số đơn vị hoả hoạn cấp ra mới chỉ có 413 thì tới năm 1994 con số này
đã lên tới 2000 giá trị tài sản năm 1991 là 1000 tỷ đồng thì năm 1992 trên 4000
tỷ, năm 1993 là 7000 và năm 1994 trên 14000 tỷ đồ
ng. Số tiền bảo hiểm phí tương ứng của các năm đó là 4,5 tỷ, 10,2 tỷ, 21,3 tỷ và
3902 tỷ. Bảo việt cũng phải chi bồi thường thiệt hại nhiều vụ Hoả hoạn lớn như
Công ty giầy Hiệp Hưng trên 10 tỷ, Công ty dược Đồng Tháp 4,5 tỷ đồng, chợ
đồng xuân trên 8 tỷ đồng, Công ty sản xuất và xuất khẩu sông Bé gần 18 tỷ
đồng...Có thể nói rằng bảo hiểm hoả hoạn đã dần dần đi vào tiềm thức của con
người Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi tất yếu của xã hội và ngày càng củng cố vững
chắc vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu chung của nghành bảo hiểm Việt
Nam.
Từ khi bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn tới nay. Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam
đ•ã tổ chức nhiều đợt tập huấn nghiệp vụ, đã làm nhiều văn bản tài liệu hưỡng
dẫn. Tuy nhiên số người trực tiếp tham gia tập huấn không phải là nhiều, tài liệu
hướng dẫn cũng rải rác, không tập trung hơn nữa theo thời gian bản thân những
tài liệu đã ban hành trở nên lại lạc hậu đòi hỏi phải hoàn thiện bổ xụng thêm.
Ngay cả quan điểm biện pháp thực hiên nghiệp vụ cũng có sự thay đổi căn
bản. Nếu như trước đây chúng ta tiến hành bảo hiểm trong điều kiên độc quyền
thì nay hoàn toàn ngược lại chúng ta phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trong và
ngoài nước, hiệu quả kinh doanh đã trở thành thước đo quan trọng cho hoạt động
của Công ty. Điều đó phải đòi hỏi các cán bộ nghiệp vụ, ngoài các phẩm chất
khác của người bán hàng, phải hết sức nhanh nhậy trong việc đưa ra các tỷ lệ phí
có sức cạnh tranh nhưng phải đáp ứng đúng chuẩn mực quy định để đảm bảo
kinh doanh có lãi và đáp ứng yêu cầu của nhà nhận tái bảo hiểm. Đông thời cùng
với việc mở rộng kinh doanh, chúng ta cũng phải chú ý đến việc kiểm soát sự
tích tụ rủi ro, nhất là các rủi ro thiên tai như bão, lũ lụt để tránh các trường hợp
tồn thất hàng loạt. Trong việc giải quyết bồi thường cũng phải đảm bảo chính
xác, đúng điều kiện của đơn bảo hiểm và nhanh chóng hơn. Mặt khác người bảo
hiểm cũng phải tăng cường công tác quản lý rui ro, cùng với khách hàng làm tốt
công tác hạn chế tổn thất...
Xuất phát từ thực tế đó Công ty Bảo Việt đã khai thác tốt thị trường bảo
hiểm trong nước về lĩnh vực bảo hiểm hoả hoạn. Do đó những năm gần đây
doanh số của phòng bảo hiểm hảo hoạn tăng từ đó làm tăng doanh thu của Công
ty Bảo Việt.
IV. Một số khái niệm cơ bản
1. Rủi ro có thể lựa chọn để bảo hiểm
Mỗi rủi ro có thể được nêu thành tên riêng. Hầu hết các Công ty trên thế giới
đều chấp nhận áp dụng các phương pháp tiêu chuẩn khi cấp đơn bảo hiểm và lưu
trữ, sử dụng số liệu các rủi ro này được đưa vào phụ lục của “ Quy tắc bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt”.
Dùng áp dụng mẫu đơn bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tiêu chuẩn
của thị trường bảo hiểm Lôn Đôn ( standard Fire and Special Perils Policy) hay (
Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt” của Việt Nam thì rủi ro chính
được bảo hiểm thì cũng là bảo hiểm hoả hoạn. Rủi ro A còn có rủi ro B- nổ, C-
máy bay và...rơi vào, E- nổi loạn bạo động dân sự... được coi là các rủi ro phụ.
Các rủi ro phụ đó không được bảo hiểm riêng mà chỉ có thể bảo hiểm cùng với
rủi ro hoả hoạn. Các rủi ro phụ đó cũng không được bảo hiểm một cách tự động
mà chỉ được bảo hiểm khi khách hàng yêu cầu với điều kiện phải đóng thêm phí
và phải được ghi rõ trong giấy yêu cầu và giấy chứng nhận bảo hiểm.
Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số rủi ro cơ bản dễ gây hiểu lầm còn các
rủi ro khác thì hiểu theo tên gọi của chúng
Hoả hoạn
Rủi ro này thực chất bao gồm 3 phần: Hoả hoạn , sét và nổ.
• Hoả hoạn : Trong đơn bảo hiểm Hoả hoạn tiêu chuẩn không định nghĩa rõ
thế nào là hoả hoạn vì người ta hiểu nó theo nghĩa thông dụng nghĩa là sẽ được
coi là hoả hoạn nếu có đủ 3 yếu tố sau đây
- Phải thực sự có phát lửa
- Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng
- Về vật chất đám lửa phải bất ngờ ngẫu nhiên với người được bảo hiểm
chứ không phải là cố ý có chủ định của họ hoặc đồng loã của họ. Tuy nhiên hoả
hoạn được xẩy ra do bất cẩn của người được bảo hiểm vẫn thuộc phạm vi được
bồi thường.
Khi có đầy đủ 3 yếu tố trên và co thiệt hại về vật chất do những nguyên nhân
được coi là hợp lý gây ra những thiệt hại đó được bồi thường dù cho là bị Hoả
hoạn.
Mặc dù không được nêu rõ trong đơn bảo hiểm nhưng thiệt hại do hoả hoạn
ở đây bao gồm có:
- Thiệt hại do khói mà nguồn lửa gây ra thuộc phạm vi thuộc trách nhiệm
bảo hiểm
- Thiệt hại do nước dùng để chứa Hoả hoạn
- Thiệt hại do phá rỡ để ngăn chặn Hoả hoạn lan
- Thiệt hại do việc thực hiện nhiệm vụ chữâ Hoả hoạn
- Thiệt hại mà người được bảo hiểm phải gánh chịu do việc bảo vệ tài sản
và kiểm soát sự phát triển của ngọn lửa.
Tuy vậy hoả hoạn ở đây loại trừ:
- Nổ ro ảnh hưởng của hoạ hoạn
- Động đất ngầm
- Tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng do
+ Do bị lên men hoặc toả nhiệt
+Quá trình sử lý bằng nhiệt
Việc loại trừ này nhằm thống nhất khái niệm hoả hoạn được dùng trong toàn bộ
đợn vị bảo hiểm bằng những rủi ro phụ riêng biệt
• Nổ : Theo rủi ro hoả hoạn, phạm vi bảo hiểm bao gồm:
Các trương hợp hoả hoạn do nổ ngẫu nhiên được bảo hiểm như vậy ở đây chỉ
có những thiệt hại do nổ mà không gây Hoả hoạn vấn đề còn lại là:
- Tổn thất và thiệt hại do nổ nhưng không gây chay thì không được bồi
thường trừ trương hợp nổ nồi khơi khí phục vụ cho sinh hoạt, với điều kiện vụ nổ
đó không phải do các nguyên nhân bị loại trừ
- Tổn thất do chay xuất phát từ nổ thì được bồi thường với điều kiện là sự
nổ không phải do các nguyên nhân bị loại trừ
- Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ Hoả hoạn: Thiệt hại ban đầu do
Hoả hoạn được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không
• Sét : Theo khái niệm thông thường được áp dụng trong đơn bảo hiểm là
người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ trực tiếp do sét
hoặc bị sét đánh gây Hoả hoạn. Tuy nhiên, cũng theo khái niệm thông thường thì
sét đánh mà không phát lửa hoặc khônng pha huỷ trực tiếp tài sản thì không
thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
ở đây cần lưu ý trừ khi trừ khi tia sét phá huỷ trực tiếp các thiết bị điện được bồi
thường, còn tia sét làm thay đổi dòng điện dẫn tới thiệt hại cho thiết bị điện thì
không được bồi thường.
2. Cụm rủi ro
Một nhóm những ngôi nhà hoặc kho tàng ngoài trời ở liền kề nhau trong một
khu vực, tách biệt với những ngôi nhà kho tàng ngoài trời khác về không gian
Các ngôi nhà hoặc kho tàng ngoài tời được coi là tách biệt nhau về không gian
nếu khoảng cách giữa chúng là khoảng cách tối thiểu. Khoảng cách tối thiểu là
khoảng cách tính bằng chiều cao của ngôi nhà cao nhất hoặc vượt quá 20m nếu
tài sản là loại dễ Hoả hoạn và qua 10m nếu tài sản là loại không Hoả hoạn hoặc
khó Hoả hoạn. Khoảng cách trên 20m được coi là tách biệt về không gian.
3. Đơn vị rủi ro
Một số ngôi nhà, bộ phận của nhà kho ngoài trời liền nhau nhưng tách biệt
với các ngôi nhà, bộ phận nhà kho ngoài trời khác về không gian hoặc cấu trúc.
Đơn vị rủi ro được coi là tách biệt về không gian khi khoảng cách giữa các
ngôi nhà hoặc kho ngoài trời bằng vật liệu không Hoả hoạn đảm bảo 10m.
Đối với kho ngoài trời bằng vật liệu dễ Hoả hoạn, khoản cách đó phải đảm
bảo 20.
Đơn vị rủi ro được coi là cách biệt về mặt cấu trúc nếu các ngôi nhà bộ phận
nhà hoặc kho được ngăn bằng tường chống Hoả hoạn.
Phong được ngăn cách chống Hoả hoạn nếu:
- Không lớn hơn 10% diện tích có tầng bằng phòng đó
- Được ngăn cắt bằng tường chông Hoả hoạn
- Trần làm bằng vật liệu không Hoả hoạn.
4.Tương ngăn Hoả hoạn.
Là tường ngăn Hoả hoạn để chia ngôi nhà hoặc kho ngoài trời thành nhiều
đơn vị rủi ro
Đặc điểm xây dựng của tường ngăn Hoả hoạn:
- tường ngăn Hoả hoạn phải có giới hạn chiu lửa ít nhất 90 độ
- Phải được xây kín các tầng và không được so le nhau
- Nếu mái nhà là loại khó Hoả hoạn thì tường ngăn Hoả hoạn phải cách mái
nhà ít nhất là 30m
- Nếu có các cấu kiện khác nằm trong tường ngăn Hoả hoạn phân độ dầy
còn lại cũng phải đảm bảo giới hạn chịu lửa tối thiếu
- Không được để vật liệu cấu kiện dễ Hoả hoạn vắt nganh qua tường ngăn
Hoả hoạn.
- Tường ngăn Hoả hoạn phải xây cách những lỗ hở trên mái ít nhất 5m.
V. Đánh giá rủi ro
Đánh giá rủi ro là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công
tác quản lý rủi ro. Có làm tốt công công việc đánh giá rủi ro thì mới có thể thực
hiện đựơc công tác quản lý rủi ro. Đối với người khai thác bảo hiểm việc đánh
giá rủi ro sẽ giúp họ quyết định có nhận bảo hiểm hay không, mức phí bao nhiêu.
Tài liệu về định giá rủi ro coi như báo cáo của họ trong hồ sơ về khách hàng, nó
cũng là tài liệu để báo cáo cho các nhà nhận bảo hiểm và cũng là cơ sở đối chiếu
khi giải quyết bồi thường.
Nếu việc điều tra đánh giá rủi ro được thực hịên một cách đầy đủ, kỹ lưỡng,
kết hợp với bảng hưỡng dẫn tính phí hoặc sử dụng chương trình tính phí bảo
hiểm trên máy vi tính, cán bộ khai thác hoàn toàn có thể tính toán ngay được một
cách chính xác tỷ lệ phí. Điều này giúp cho việc chủ động, nhanh chóng trong
khai thác, trách được tình trạng phải tham khảo, hỏi han, tốn kém mất thời giờ.
Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn tại Bảo Việt
I. Thị trường bảo hiểm Việt Nam - Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo
hiểm Hoả hoạn
Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam ( gọi tắt là Bảo Việt ) được thành lập từ
ngày 15.1.1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17.12.1964 của Thủ tướng
Chính phủ, là doanh nghiệp nhà nước duy nhất hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo
hiểm. Bảo Việt có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp, tham
gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Từ năm 1981, Bảo Việt đã thành lập các công ty chi nhánh ở các tỉnh, địa
phương để tiến hành các dịnh vụ bảo hiểm. Hoạt động của các chi nhánh không
những giúp Bảo Việt triển khai bảo hiểm trên phạm vi cả nước mà còn hình
thành một mạnh lưới đảm bảo an toàn tài chính cho toàn bộ người được bảo
hiểm.
Trong hơn 30 năm qua, ở Việt nam từ "bảo hiểm " đồng nghĩa với "Bảo
Việt " và ngược lại lúc nào người ta cũng nghĩ rằng chỉ duy nhất có một công ty
bảo hiểm hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó có lý do của nó. Ngoài sự
hiện diện và đóng góp của Bảo Việt đối với nền kinh tế, xã hội và với mỗi gia
đình, trong suốt thời gian qua không thấy nói đến một tên công ty bảo hiểm nào
khác.Với đường lối mở của của nhà nước, trong cơ chế thị trườngthì việc Nhà
nước dộc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm ( kể cả trên danh nghĩa) là điều khó có
thể chấp nhận. Chính vì thế nên ngày 18-12-1993 Nghị định 100/CP của Chính
Phủ đã ra đời cho phép các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài được
thành lập các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở chi nhánh
công ty nước ngoài tại Việt Nam.
Tại Bảo Việt, các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu... đã được tiến
hành từ lâu và đã trở thành những nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống. Song đến
năm 1989, Bảo Việt mới chính thức triển khai bảo hiểm Hoả hoạn theo Quyết
định 06/TCQĐ của Bộ Tài chính.
Năm 1990, trên cả nước đã có 16 công ty bảo hiểm tiến hành nghiệp vụ
này. Tuy nhiên nhìn chung mới chỉ bảo hiểm cho các nghành xăng, dầu còn lại
phần lớn các tài sản, các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, hệ thống khách sạn từ
Nam ra Bắc... trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm. Có nhiều nguyên
nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến việc ngành bảo hiểm chưa triển khai
được toàn diện. Nguyên nhân cơ bản là chúng ta đã quá quen với cơ chế bao cấp,
Hoả hoạn và rủi ro xảy ra đã có Nhà nước bù đắp thiệt hại còn các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác thì chưa có thói quen tham gia bảo hiểm tài
sản. Bên cạnh đó về chủ quan, công tác tuyên truyền, vận động thu hút khách
hành của nghành bảo hiểm còn nhiều hạn chế.
Sau một năm thực hiện, một yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải có quy
định chung hướng dẫn về bảo hiểm Hoả hoạn. Vì vậy ngày 2. 5.1991, Bảo Việt
đã ban hành Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt áp dụng trên cả
nước. Nghiệp vụ này ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của nó đặc
biệt là sau khi Hội đồng bộ trưởng ra quyết định số 332/ HĐBT ngày 23. 10 1991
về việc bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên
cạnh đó, thông tư số 82/TC/CN hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quyết định trên
của HĐBT : "... Để tránh các trường hợp không bảo toàn được vốn do nguyên
nhân khách quan như thiên tai, rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh... tránh
các trường hợp phải xử lý giảm vốn và đưa lỗ vào doanh nghiệp, các doanh
nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó
tại các công ty bảo hiểm Việt nam. Khoản chi về bảo hiểm được hạch vào giá
thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi giảm
vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà công ty bảo hiểm
trong nước triển khai loại hình bảo hiểm tương ứng...".
II Các hoạt động trong bảo hiểm hoả hoạn
Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo hiểm
Hoả hoạn gồm các bước cơ bản sau :
- Khai thác
- Giám định
- Bồi thường
- Hạn chế tổn thất
Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước này
ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành một chu
trình hoạt động của một nghiệp vụ.
1. Công tác khai thác bảo hiểm
Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm. Công
tác khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một công ty. Khách
hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua bảo hiểm họ sẽ được
lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo trong bước này là cần thiết và
nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn -
nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta
1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan như :
cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ, nghành để tuyên
truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm Hoả hoạn. Qua đó mới có thể thuyết
phục được khách hàng mua bảo hiểm.
Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh doanh để
giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ khách hàng
hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng rất ngại đọc. Một
phần vì khó hiểu, một phần vì không nhận thức được hết ý nghĩa, tác dụng của
bảo hiểm.
Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm cơ
sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ..., chỉ cho họ thấy những rủi ro
mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo hiểm giải thích rõ
cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất gì, ước tính số phí mà
họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ
lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên
truyền vận động nên tập trung vào những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn
của để. Vì thế, Bảo Việt đã chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng
tài chính khai thác như : Công ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK
đã mua bảo hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công
ty liên doanh INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị
nội thất đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $.
Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán bộ
khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng
(báo chí, phát thanh, truyền hình...) đồng thời phải có sự phối hợp với các ngân
hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng.
1.2 Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy yêu
cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các đối
tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với các
rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ gửi
cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần trả lời
khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định được bậc chịu
lửa của công trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang bị, đội cứu hoả, bảo
vệ... ), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh doanh dịch vụ ( với đơn vị
kinh doanh dịch vụ ), mức độ nguy hiểm với các tài sản để trong kho, cửa hàng,
từ đó xác định mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh giá
rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ đến
làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ hơn, hướng
dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra, cùng cộng tác với cảnh
sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC, phương tiện chuyên môn (khách
hàng cần những phương tiện PCCC nào, bố trí ở đâu, với số lượng là bao
nhiêu...). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với
khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng.
Như vậy công tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó yêu
cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà còn phải có sự năng
động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh giá rủi ro là
khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc đưa ra mức phí phù
hợp.
1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí. Giấy
chứng nhận bảo hiểm Hoả hoạn bao gồm :
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm
- Phí bảo hiểm cả năm
Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không
thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm theo Giấy
chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ
phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng
mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của từng loại đó :
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản : Một bản trao cho
khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng công ty.Hiện
nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác cho từng công ty.
Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm vi đó thì công ty chỉ cần
gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức phân cấp, trước khi cấp giấy
chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét
và quyết định.
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được
bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty cần xem
xét kỹ yêu cầu thay đổi như : giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí
để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm cho thích hợp. Bản bổ
sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho các bộ phận nói trên.
Ngoài ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối tượng
bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng cường công
tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để theo dõi việc đóng phí
của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp hết.
1.5 Hoa hồng
Trong công tác khai thác không thể không nói đến vấn đề hoa hồng. Đây
là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo hiểm. Khoản
hoa hồng này, công ty trả cho người trực tiếp đứng ra tham gia bảo hiểm hoặc
trả cho người môi giới nhằm động viên khuyến khích họ nhiệt tình công tác, thu
hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng là một hình thức tạo
dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.Từ năm 1995, để tạo tính chủ động,
linh hoạt trong hoạt động, khoản chi hoa hồng được tính vào chi quản lý nghiệp
vụ.
Có thể nói công tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các công ty bảo
hiểm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
2. Công tác giám định tổn thất
Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với công tác bồi thường.
Các giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định : nguyên nhân rủi ro có
thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao nhiêu...
2.1 Điều tra tai nạn
Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống ngay
hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc điều tra tai
nạn là thu nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải đáp các câu hỏi :
tai nạn đã xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao. Muốn vậy trong quá trình
điêù tra, giám định viên phải thu thập hai loại thông tin : các tang vật và lời khai
của nhân chứng.
- Tang vật : Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định những sự
việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm thấy ở hiện trường
hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại.
- Lời khai của nhân chứng : Là những lời kể, những câu trả lời của các nhân
chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai nạn. Lời
khai của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có liên quan đến
tai nạn. Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích tìm ra những lời khai
xác thực vì các lời khai của nhân chứng thường khác nhau và có khi mâu thuẫn
với nhau.
Ngoài việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám định
viên cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với công an PCCC. Qua đó,
nguyên nhân Hoả hoạn, đánh giá sơ bộ và khái quát mức độ thiệt hại.
2.2 Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất
Thông thường sau khi gặp hoả hoạn, người được bảo hiểm rất hoang mang
và lúng túng không biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện trường và
song song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải góp ý kiến với
người được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như sau:
- Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại.
- Rào kín những nơi mà người ngoài có thể đột nhập vào.
- Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản để
tránh tài sản hư hỏng thêm.
- Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản,
Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên nhân
gây Hoả hoạn. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn đến hoả
hoạn. Cuối cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ thiệt hại và lập
biên bản giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên công ty một bản và
Tổng công ty một bản.
3. Công tác bồi thường
Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất quan
trọng đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm thông sâu
sắc tới các nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất đó phải được thể
hiện đặc biệt rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi thường. Giải quyết bồi
thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng - đây là nhiệm vụ số một của
người làm công tác bồi thường và là một trong những biện pháp tuyên truyền có
hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của công ty và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai
thác bảo hiểm.
Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường, cán
bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau :
3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem xét
hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo hiểm
nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và ngày trả lời
khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu với quy tắc bảo hiểm
và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định trách nhiệm bảo hiểm. Cụ
thể : khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm không; có điểm loại
trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại đó không; có điều kiện bảo hiểm
nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu
nại không ?
3.2 Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của công tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại thực
tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh cho
người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo việc bồi
thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm.Việc xác định giá trị
thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc : phải xác định ngay tại thời điểm và địa
điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản giám định về mức độ thiệt hại cùng các
biên lai, chứng từ xác minh kèm theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ
xác định được mức thiệt hại thực tế của từng đối tượng bảo hiểm.
3.3 Xác định số tiền bồi thường
Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là thuộc
phạm vi bảo hiểm và tính toán được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến hành xác
định số tiền bồi thường.
Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau :
- Giá trị thiệt hại thực tế
- Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường )
- Mức miễn thường : sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc nhỏ
hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải trừ đi
mức miễn thường ( trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có khấu trừ ).
Trước khi tính toán số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần xem xét
số tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó bằng hoặc nhỏ
hơn mức miễn thường thì không cần tính toán mà có thể trả lời ngay cho khách
hàng là tổn thất không được bồi thường vì nằm trong phạm vi mức miễn thường.
Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải tính chi tiết mức độ thiệt hại.
Cụ thể :
* Đối với bảo hiểm Hoả hoạn :
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại ____________________
Giá trị bảo hiểm
3.4 Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại
Trên cơ sở tính toán được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi thường
sẽ lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng công ty xét duyệt bồi thường.
Sau khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ thông báo cho khách
hàng cụ thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm công ty bảo hiểm chi trả số
tiến đó cũng như các giấy tờ cần thiết mà họ phải có. Nếu khách hàng chấp nhận
thì việc bồi thường sẽ được chuyển cho phòng kế toán-tài vụ.
Trong thực tế, khâu bồi thường là khâu dễ phát sinh các tranh chấp, khiếu
nại khi khách hàng cho rằng số tiền bồi thường là chưa hợp lý. Bởi vậy, cần xem
xét nghiên cứu các ý kiến khiếu nại một cách khách quan. Cũng cần lưu ý là
trước khi chính thức bồi thường, trên cơ sở những thông tin nhận được và đánh
giá chung, cán bộ bồi thường sớm ước tính số tiền bồi thường và thông báo cho
khách hàng biết trước để cho họ không bị bất ngờ khi công bố số tiền chính thức.
Cần chú ý lắng nghe nguyện vọng của khách hàng, nhẹ nhàng và kiên nhẫn giải
thích kỹ những thắc mắc của họ ngay cả khi từ chối bồi thường.
4. Các biện pháp đề phòng Hoả hoạn
Mục tiêu của công tác phòng Hoả hoạn là đề phòng hoả hoạn phát sinh và
không cho đám Hoả hoạn lan rộng. Hiện nay có hai biện pháp phòng Hoả hoạn là
phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các biện pháp quản lý.
+ Phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng :nhằm cách ly các vật dễ Hoả hoạn với
nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt, bếp, lò sấy, lò
sưởi, các thiết bị điện... Do vậy, việc thiết kế xây dựng cần lưu ý tới việc bố trí
các phòng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị nội thất một cách hợp lý,
đảm bảo độ an toàn cao.
+ Các biện pháp quản lý : Thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm của
người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng Hoả hoạn và chữa Hoả
hoạn của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn vị cần đề ra nội
quy, biện pháp PCCC cho cơ sở mình đồng thời có kế hoạch giáo dục, đôn đốc,
theo dõi, kiểm tra việc chấp hành nội quy, biện pháp đó. Các cán bộ, công nhân
phải triệt để chấp hành các nội quy PCCC cũng như các tiêu chuẩn về an toàn
trong hoạt động công tác, sản xuất.. Cùng với cảnh sát PCCC, các công ty bảo
hiểm sẽ hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác PCCC ở các
khu vực dễ xảy ra rủi ro, đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp
lý.
5. Công tác chữa Hoả hoạn
Trước hết cần trang bị các phương tiện thiết bị báo Hoả hoạn để xác định
vùng xảy ra Hoả hoạn nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Thành lập các
đội cứu hoả ở các đơn vị cũng như trang bị các phương tiện dập lửa thì mới đảm
bảo chữa Hoả hoạn có hiệu quả và kịp thời. Các công ty bảo hiểm qua việc tham
quan các cơ sở bảo hiểm yêu cầu họ không những thực hiện các nội quy PCCC
mà còn phải tranh bị các thiết bị chữa Hoả hoạn cần thiết.
III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn
1. Kết quả khai thác và thực hiện doanh thu
Công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước mỗi năm lại mang đến những
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Kinh tế
phát triển cộng với cơ chế quản lý theo hướng thị trường đã làm cho nhu cầu và
khả năng tham gia bảo hiểm tăng.
Năm năm qua ( 91-95 ) là những năm khởi đầu cho nghiệp vụ bảo hiểm
Hoả hoạn. Do có sự nỗ lực của ban lãnh đạo Tổng công ty cũng như các cán bộ
trong công tác bảo hiểm Hoả hoạn nên kết quả nghiệp vụ này ngày càng cao.Hơn
một năm đầu triển khai nghiệp vụ ( 89-90 ) các đơn vị tham gia còn quá ít ỏi.
Trong số hàng vạn các xí nghiệp hoạt động trên phạm vi cả nước thì đơn vị tham
gia bảo hiểm Hoả hoạn chỉ dừng lại ở con số trên dưới 100. Đây là những doanh
nghiệp thực sự có nhu cầu và thường là những công ty thuộc về ngành xăng dầu,
do vậy khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn.
Nguyên nhân của tình trạng này là do bước đầu chuyển sang kinh tế thị
trường, nhiều đơn vị còn lúng túng, kinh doanh chưa ổn định nên không có điều
kiện tham gia bảo hiểm. Mặt khác do nước ta tồn tại quá lâu cơ chế cũ, nên khi
chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo các xí nghiệp còn mang nặng tư tưởng bao
cấp, chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn của mình. Một phần nưã là
về phía công ty, do đây là nghiệp vụ mới, cán bộ làm công tác bảo hiểm Hoả
hoạn chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm. Hơn nữa, cán bộ chưa phục vụ tận tình
mà để khách hàng phải tự đến gõ cửa công ty.
Nắm bắt được tình hình như vậy, Văn phòng Tổng công ty cũng như các
công ty địa phương đã có những nỗ lực lớn để khắc phục tình hình. Do vậy đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ trong những năm gần đây :
Nếu như năm 2000, Bảo Việt mới chỉ nhận bảo hiểm cho 1413 đơn vị thì
đến năm 2003, số đơn vị được bảo hiểm đã lên tới 3102 đơn vị -gần gấp 3 lần.
Còn giá trị bảo hiểm cũng tăng nhưng tăng hơn gấp 14 lần. Có thể nói giá trị bảo
hiểm tăng nhanh như vậy một mặt là vì nền kinh tế Việt Nam trong những năm
vừa qua đang trên đà phát triển vượt bậc. Trong thời gian đầu mở cửa, đã có
những Công ty nước ngoài đầu tư nhưng chỉ đầu tư với mức độ rất dè dặt mục
đích của họ là muốn thăm dò thị trường Việt Nam. Sau một thời gian nghiên
cứu, thấy Việt Nam là nơi có cơ hội đầu tư tốt nên những dự án lớn hơn về quy
mô đã được ký kết.
Doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn tăng nhanh, với tốc độ cao
và khá đều. Năm sau doanh thu tăng hơn năm trước. Sở dĩ Bảo Việt đạt được kết
quả như vậy là do những nguyên nhân chủ yếu sau :
- Về khách quan : sự ban hành các quyết định của Bộ tài chính có liên quan đến
vấn đề bảo hiểm đã tạo ra ảnh hưởng lớn đối với việc kinh doanh bảo hiểm của
công ty. Điều đó được thể hiện là số đơn bảo hiểm cấp và doanh thu trong năm
2003 tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Những năm gần đây số đơn bảo hiểm
và doanh thu tăng không mạnh nguyên nhân chủ yếu là do nghiệp vụ bảo hiểm
hoả hoạn của Công ty bị mất hẳn một phần doanh thu về phía Công ty bảo hiểm
Petrolimex và Bảo Minh. Mặc dù bị hao hụt lớn nhưng nghiệp vụ bảo hiểm hoả
hoạn những năm gần đây vẫn duy trì được doanh thu năm sau tăng hơn năm
trước. Đó là kết quả nỗ lực không thể phủ nhận của toàn bộ cán bộ trong nghiệp
vụ bảo hiểm hoả hoạn. Những năm gần đây do chính sách của nhà nước ngày
càng thông thoáng nên các Công ty bảo hiểm nước ngoài đã có thể được kinh
doanh trên thị trường Việt Nam. Điều này tạo nên sự cạnh tranh không nhỏ đối
với Bảo Việt. Nhưng nhờ có uy tín từ trước nên doanh thu bảo hiểm của Bảo Việt
những năm gần đây vẫn tăng cao và nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn cũng tăng
theo.
- Về chủ quan : Tổng công ty đã có những cố gắng đáng kể trong việc đào tạo,
bồi dưỡng và mở rộng đội ngũ cán bộ. Thỉnh thoảng, công ty có mở lớp hướng
dẫn, tập huấn cho cán bộ, cộng tác viên để trau dồi thêm nghiệp vụ. Ngoài ra, các
cán bộ nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn cũng cố gắng tìm mọi cách để mở rộng địa
bàn tiếp thị, triển khai mạng lưới các văn phòng đại diện quận, huyện ở các địa
phương giúp cho việc tiếp cận khách hàng được tốt hơn đồng thời giữ vững địa
bàn hoạt động, không để mất khách hàng. Tổng công ty đã mở rộng mạng lưới
tuyên truyền, quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như : đài,
báo, tạp chí, vô tuyến truyền hình....
Đi đôi với việc bồi dưỡng cán bộ, Tổng công ty đã từng bước hoàn thiện
hơn trong việc tính phí. Việc áp dụng biếu phí linh hoạt đã đưa ra được những
mức phí cạnh tranh, phù hợp với cơ chế thị trường. Nếu như trước đây, Baỏ Việt
chủ trương áp dụng một tỷ lệ phí trung bình cho tất cả các ngành sản xuất kinh
doanh, các loại tài sản khác nhau là 0,29 %, sau đó sử dụng hệ số điều chỉnh thì
đến tháng 12 năm 1993, Tổng công ty đã đề nghị Bộ tài chính cho phép áp dụng
phí bảo hiểm Hoả hoạn mới xây dựng trên cơ sở theo những kinh nghiệm của
Munich Re và một số nước khác trong khu vực. Biểu phí này giảm đi 20% so với
biểu phí cũ nhưng vẫn đảm bảo hoạt đông kinh doanh của Bảo Việt và quan
trọng hơn nữa là vẫn được các nhà tái bảo chấp nhận.
Mặt khác, Tổng công ty đã có quan hệ rất tốt với Bộ tài chính, Tổng cục
đầu tư và phát triển, các ngân hàng, cục CSPCCC... Giờ đây, Bảo Việt cũng luôn
luôn được sự ủng hộ của các ngân hàng. Các ngân hàng chỉ cho các doanh nghiệp
vay vốn khi họ đã tham gia bảo hiểm cho tài sản của mình. Nhiều ngân hàng đã
buộc các đơn vị vay tiền phải xuất trình giấy tờ chứng nhận bảo hiểm thì mới cho
vay tiền. Tổng công ty cũng đã theo dõi chặt chẽ các công trình đầu tư lớn, kịp
thời thông báo cho địa phương. Nhiều trường hợp đã phối hợp với Tổng cục đầu
tư và phát triển thông qua Bộ tài chính đề nghị Nhà nước cấp bổ sung vốn để
tham gia bảo hiểm. Bảo Việt đã phối hợp chặt chẽ với một số ngành có số lượng
tài sản lớn như bưu điện, y tế, công nghiệp để triển khai đồng bộ trong cả nước.
Bên cạnh đó, sự thành lập các công ty môi giới bảo hiểm, các công ty bảo
hiểm nước ngoài cũng có những đóng góp tích cực trong việc đem lại dịch vụ
bảo hiểm cho công ty.
Tỷ lệ doanh thu của bảo hiểm Hoả hoạn so với doanh thu toàn công ty ngày càng
tăng.. Năm 2003, tỷ lệ này có giảm đi một ít, nguyên nhân là do doanh thu của
bảo hiểm Hoả hoạn tăng không đáng kể trong khi đó doanh thu của toàn Tổng
công ty tăng (do sự tăng doanh thu của các nghiệp vụ khác như : bảo hiểm hàng
xuất, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thân xe ô tô...).
Tuy nhiên, đến nay bảo hiểm Hoả hoạn đã là một nghiệp vụ quan trọng
đem lại nguồn doanh thu không nhỏ cho Bảo Việt.
2 Tình hình chi bồi thường
Ta đã biết được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác bồi
thường trong bảo hiểm. Bồi thường chính xác, nhanh chóng là phương pháp tốt
nhất để tạo ra sự tín nhiệm của khách hàng vào công ty. Quán triệt quan điểm đó,
Bảo Việt đã đề ra những biện pháp về quản lý cũng như việc tiến hành công tác
này sao cho có hiêụ quả nhất.
Về biện pháp quản lý, quỹ chi bồi thường chiếm tỷ lệ phần trăm đáng kể
trong tổng số phí thu được. Hiện nay, biểu phí bảo hiểm Hoả hoạn gồm các thành
phần như sau :
- Chi bồi thường thường xuyên chiếm 65%.
- Chi dự trữ tổn thất lớn chiếm 10%
- Chi đề phòng và hạn chế tổn thất chiếm 5%
- Chi quản lý và thuế doanh thu chiếm 15%
- Chi hoa hồng, cộng tác viên chiếm 5%.
Như vậy phần trích lập quỹ dự trữ bồi thường ( bao gồm chi bồi thường
thường xuyên và chi dự trữ tổn thất lớn ) chiếm 75% tổng số phí. Cách hoạch
định như vậy là rất cần thiết đối với các nhà bảo hiểm. Nó không những giúp cho
việc nghiên cứu doanh thu bảo hiểm của nghiệp vụ có đủ khả năng chi trả bồi
thường cho người tham gia bảo hiểm hay không, mà còn nhằm tránh sự phá sản
hay thâm hụt lớn cho công ty bảo hiểm. Điều đó đã giúp cho Bảo Việt có khả
năng chi trả cho những vụ tổn thât lớn. Điển hình ngày 15.7. 93, Bảo Việt đã giải
quyết bồi thường nhanh chóng cho công ty 100% vốn nước ngoài SCANSIA.
LTD ( Malaysia ) với số tiền bồi thường 129000 $. C ũng trong năm 93, nhà máy
giày Hiệp Hưng đã bị ngọn lửa thiêu huỷ, ước tính thiệt hại khoảng 13,5 tỷ đồng,
ngay lập tức Bảo Việt đã tạm ứng 5 tỷ để nhà máy kịp thời ổn định sản xuất đời
sống cho công nhân. Ngoài ra, Bảo Việt còn bồi thường nhiều vụ Hoả hoạn lớn
khác như bồi thường vụ Hoả hoạn chợ Đồng Xuân với số tiền bồi thường 8,2 tỷ
đồng, nhà máy may Sông bé với số tiền bồi thường 17,5 tỷ đồng...
Từ năm 2002 - 2003, tình hình giải quyết bồi thường tại Bảo Việt được
thể hiện qua bảng sau:
Bảng : Tình hình bồi thường thực tế của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn
Năm Số tiền bồi thường (triệu đồng)
(1) Quỹ bồi thường (triệu đồng)
(2) Tỷ lệ bồi thường thực tế (%) = (1) : (2)
2000 3424.68 17653,00 19,4
2001 23972,76 41329,05 70,24
2002 71918,28 107877,42 50,14
2003 143849,34 230158,94 60,25
Nguồn số liệu:
Phòng bảo hiểm Hoả hoạn và kỹ thuật - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
Nếu như trong 2 năm ( 90-91 ) không xảy ra vụ tổn thất nào thì trong các
năm sau đã có nhiều vụ Hoả hoạn gây tổn thất lớn. Số tiền bồi thường ngày càng
tăng do những nguyên nhân chủ yếu sau :
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều công ty đã trang bị thêm nhiều
những máy móc hiện đại,với dây chuyền sản xuất lớn, có khả năng tận dụng
những nguyên vật liệu rẻ tiền hơn nhưng cũng dễ gây Hoả hoạn hơn. Khi Hoả
hoạn thường trên một diện rộng vì quy mô sản xuất lớn.
- Các doanh nghiệp mới chỉ đầu tư vốn vào xây dựng, sửa chữa tài sản, lắp đặt
các máy móc mới chứ chưa để ý đến việc mua sắm các thiết bị an toàn, các biện
pháp PCCC.
- Thêm vào đó số doanh nghiệp tham gia bảo hiểm tăng nên số vụ bồi thường
cũng như số tiền bồi thường tăng.
Ngoài ra, theo bảng trên có thể thấy công tác bồi thường của Bảo Việt
được đảm bảo. Tỷ lệ số tiền bồi thường thực tế so với quỹ dự trữ bồi thường gần
bằng 50 % - như vậy đảm bảo cho Bảo Việt có khả năng chi trả bồi thường cho
khách hàng. Tuy vậy trong năm 2001, tỷ lệ này tăng vọt từ 19,4% lên 70,24 % do
trong năm 2001 xảy ra nhiều vụ Hoả hoạn liên tiếp với mức độ tổn thất nghiêm
trọng làm số tiền bồi thường năm 2001 tăng cao hơn hẳn so với các năm.
Doanh thu tăng là tốt song số tiền bồi thường cũng tăng lại là một điều cần
phải suy nghĩ. Những năm tới để đảm bảo đạt hiệu quả kinh doanh, Tổng Công
ty cần đẩy mạnh các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất không những giảm
thiểu số tiền bồi thường mà còn góp phần ổn định hoạt động kinh doanh.
3 Tái bảo hiểm
Với đặc thù là giá trị tài sản được bảo hiểm trong bảo hiểm Hoả hoạn rất
lớn, hay có nghĩa là hạn mức trách nhiệm của công ty bảo hiểm cao, vai trò của
việc thu xếp tái bảo hiểm là rất quan trọng. Ngoài các hợp đồng tái bảo hiểm cố
định (treaty), hiện nay Bảo Việt cũng thực hiện nhiều hợp đồng tái bảo hiểm tạm
thời (falcutative) để bảo đảm có đầy đủ khả năng tài chính bồi thường cho tổn
thất thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm. Tái bảo hiểm cũng đóng một vai trò
không nhỏ trong việc tạo ra một tâm lý an tâm hơn cho các nhà đầu tư nước
ngoài vì họ sẽ được đảm bảo tài chính một cách chắc chắn hơn bởi những công ty
tái bảo hiểm thế giới.
Trong phạm vi đề tài này, xin chỉ đề cập một vấn đề rất nhỏ của công tác
tái bảo hiểm trong việc tính doanh thu thực của Bảo Việt. Như ta đ• biết , do
trong doanh thu một phần phải tái bảo hiểm đi cho các công ty khác nên doanh
thu của Bảo Việt sẽ bị giảm xuống, doanh thu thực của công ty chỉ là mức mà
Bảo Việt giữ lại. Mặt khác, khi xảy ra những tổn thất, Bảo Việt chỉ phải chịu
trách nhiệm theo tỷ lệ mà họ giữ lại. Vì vậy cách tính lợi nhuận thực của Bảo
Việt theo " Doanh thu - Chi phí " phức tạp hơn ( vì phải xác định doanh thu và
bồi thường trong phạm vi của Bảo Việt ).Thay thế vào phương pháp phân tích lợi
nhuận thực, xin được phân tích chỉ tiêu doanh thu thực như sau:
Doanh thu thực =Mức phí giữ lại +Hoa hồng tái bảo hiểm +Thuế
Trong đó : Hoa hồng tái bảo hiểm = 7,5 - 15 % phí tái bảo hiểm .
Thuế = 4 % doanh thu .
Doanh thu thực của Bảo Việt tăng hàng năm cũng tương ứng với sự tăng
doanh thu. Nếu như trong số 4130 đơn bảo hiểm được cấp năm 1998 với số đơn
được tái đi là 710 thì đến năm 2003 số dơn bảo hiểm phải tái đi đã lên tới 2030
đơn trong số 10730 đơn được cấp. Số đơn phải tái bảo hiểm trong 5 năm tăng
hơn 8 lần trong khi tổng số đơn mà Bảo Việt cấp chỉ tăng 4 lần. Sự tăng tốc độ
không đều này đã nói lên rằng ngày càng nhiều những doanh nghiệp mua bảo
hiểm với những giá trị rất lớn. Một phần vì họ đã hiểu được mua bảo hiểm chính
là công cụ hữu ích nhất giúp họ bảo toàn vốn. Phần khác nữa là vì những dự án
đầu tư vào Việt Nam không còn là những khoản tiền nhỏ nữa, nó đã được mở
rộng về quy mô và chất lượng.
Chương III: Một số đề nghị nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm hoả
hoạn
Trong giai đoạn hiện nay sư tồn tại và phát triển của Bảo Việt nói chung hay
nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn nói riêng là có một sự cố gắng nỗ lực không
ngừng.Việc tìm ra những khiếm khuyết vạch ra đường đi đúng đắn là những việc
cần làm ngay và là nhiệm vụ quan trong số một.
Sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại Bảo Việt, qua quá trình thu thập số liệu
cũng như phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh, với mong muốn góp
phần nâng cao chất lượng của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn xin mạnh dạn đưa ra
một số biện pháp kiến nghị sau:
1) Về công tác khai thác
Công tác tuyên truyền quảng cáo: Có thể nói trong những năm qua khâu khai
thác bảo hiểm vẫn còn yếu. Đẩy mạnh công tác khai thác nghiên cứu thị trường
là rất cần thiết. Mặc dù công tác khai thác bảo hiểm không phải là kinh doanh
thuần tuý nhưng không vì thế mà không tuyên truyền quảng cáo. Với nhiều nước
trên thế giới, bảo hiểm đã trở thành nhu cầu và trở thành tập quán của đời sống
nhưng với nước ta tất cả mới bắt đầu. Do vậy tuyên truyền quảng cáo là hết sức
quan trọng với mục đích giới thiệu các loại hình bảo hiểm. ý nghĩa và tác dụng
của nó là gây danh tiếng cho Công ty và cạnh tranh khách hàng.
Từ trước đến nay, Bảo Việt đã quan tâm đến hoạt động này nhưng hiệu quả
chưa cao nhìn chung sự nhận thức về bảo hiểm Hoả hoạn còn thấp. Vì lẽ đó mà
việc tuyên truyền nên phản ánh lại các vụ Hoả hoạn lớn và hậu quả của nó sau đó
đưa ra những con số bồi thường cụ thể để từ đó làm nổi bật được vai trò và sự
cần thiết của bảo hiểm Hoả hoạn. Trong cơ chế thị trường khách hàng thường rất
khó tính, không phải họ chấp nhận tham gia bảo hiểm ngay tại Bảo Việt, nhất là
tâm lý “của ngoại” đang được ưu thích tại Việt Nam. Vì vậy công tác này đòi hỏi
sự kiên trì của cán bộ khai thác phải hưỡng dẫn tận tình, nêu rõ cho khách hàng
thấy rõ sự thuận lợi khi họ tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt mà ở các Công ty
khác không có. Chỉ có cách thông qua mặt mạnh như vậy, Bảo Việt mới có thể
duy trì và củng cố được các mối quan hệ cũ, xây dựng mối quan hệ cũ tốt đẹp.
Thu hút khách hàng qua thành phần trung gian cũng là điều quan tâm, Bảo
Việt cần đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa đối với các nghành quản lý chủ quan và
nghành liên quan như Tổng cục đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương mại,
lực lượng cảnh sát PCCC, các Công ty dịnh vụ tư vấn về đầu tư, các doanh
nghiệp nhà nước, tư nhân lớn...để thông qua những đối tượng này Bảo Việt giới
thiệu sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn với khách hàng. Ngoài ra cần quan hệ chặt
chẽ hơn với các Công ty bảo hiểm địa phương. Đây là những tiềm năng to lớn mà
Bảo Việt cần khai thác.
Hoả hoạn chợ đã trở thành nạn dịch nhưng thực tế bảo hiểm Hoả hoạn ở chợ
chưa được khai thác là bao. Do vậy Bảo Việt cần đi sâu khai thác sức mua bảo
hiểm của các hộ kinh doanh ở chợ, các khu vực triển lãm cũng như các hộ nhà
dân...Ngoài ra cần phải chú ý vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tế số lượng
những doanh nghiệp này ỏ nước ta là rất lớn nhưng phần lớn chưa tham gia bảo
hiểm. Đây là phần thị trường rất hoang sơ và là điểm trọng tâm cần khai thác
trong giai đoạn tới.
Ngoài ra Bảo Việt nên áp dụng bảo hiểm Hoả hoạn ở những bãi đỗ xe của nhà
nước cũng như của tư nhân thành bảo hiểm bắt buộc.
Về hoa hồng: Đối vơi các Công ty môi giới những cộng tác viên hoặc cá nhân
đứng ra mua bảo hiểm cũng cần có những chính sách hoa hồng thoả đáng cho họ.
Trong cạch tranh hai doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện bảo hiểm và tỷ lệ phí
bảo hiểm như nhau người mua bảo hiểm và các môi giới sẽ đến với doanh nghiệp
nào có tỷ lệ hoa hồng cao hơn vì vậy chính sách hoa hồng hết sức linh hoạt và
hấp dẫn, phải căn cứ vào hiệu quả mà quyết định hoa hồng. Đối với các tổ chức
cá nhân có liên quan hỗ trợ cho Bảo Việt dành dịnh vụ thì phải có những ưu đãi
đặc biệt.
Về phạm vi bảo hiểm: Cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm có sẵn để đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng là một trong những nhiệm vụ được đề ra. Song
không vì thế mà khách hàng yêu cầu gì ta cũng chấp nhận. Hết sức hạn chế
những đối tượng có điểm chuẩn PCCC loại trung bình, kiên quyết không nhận
bảo hiểm theo lối chọn điểm, tức là người bảo hiểm chỉ mua bảo hiểm cho những
phân xưởng, công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất. Ngoài ra có thể bảo hiểm
nhưng phải xem xét thận trọng khi nhận hợp đồng bảo hiểm lũ lụt đối với những
công trình kiên cố, xây dựng bê tông cốt thép...
2)Công tác giám định và giải quyết bồi thường.
Về công tác giám định: Bảo Việt nên tổ chức những khoá học nâng cao trình độ
chuyên môn, chất lượng phục vụ của các giám định song bên cạch đó phai duy trì
mở rộng các mối quan hệ với các Công ty giám định, các đội ngũ chuyên gia
trong mọi lĩnh vực. Trong khi làm công tác giám định tạo niềm tin cho khách
hàng các cán bộ phải quán triệt quan điểm” khách quan, vô tư ” phản ánh đúng
và toàn bộ sự việc, diễn biến gây ra rủi ro. Đồng thời phải có sự đúc kết và tổng
hợp thành sổ tay giám định nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn để các giám định viên
dễ dàng tra cứu và đưa ra kết luận chính xác.
Về công tác bồi thường: Khách hàng chỉ nhận thấy rõ tác dụng của bảo hiểm
nhất là khi họ gặp rủi ro. Trách nhiệm của Bảo Việt lúc này là phải bồi thường.
Khẩu hiệu “ Bồi thường nhanh chóng chính xác và công bằng “ phải hoàn toàn
tuân theo trong mọi trường hợp vì đây là lĩnh vực tuyên truyền quảng cáo có hiệu
quả nhất gây uy tín cho Công ty bằng sự việc cụ thể chứ không phải bằng những
lời nói suông. Song song với việc phục vụ tốt khách hàng, Bảo Việt cần tăng
cường bổ sung quỹ dự trữ bồi thường bằng cách đầu tư vốn nhàn rỗi như: mua
công trái nhà nước, mua bất động sản cho vay có thế chấp.
Trong thực tế thủ tục về công tác bồi thường còn rất rườm rà và phức tạp và
tốn khá nhiều thời gian. Bảo Việt cần phải có tài liệu về hưỡng dẫn giải quyết bồi
thường cho khách hàng như hướng dẫn cụ thể khi yêu cầu bồi thường, khách
hàng cần thiết phải làm ngay những công việc gì, phải nộp ngay những giấy tờ gì
3) Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Ta đã biết một nguyên nhân làm cho hoạt đông kinh doanh của nghiệp vụ
chưa đạt hiệu quả tối ưu- đó là thực hiện chưa tốt công tác PCCC. Để làm tốt
công tác này, Công ty cần phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa phòng cảnh sát PCCC
các cấp chính quyền và ban nghành để kiểm tra tình hình thực hiện PCCC ở các
đơn vị.
Với các xí nghiệp sản xuất, qua việc phối hợp với công an PCCC để có yêu
cầu cụ thể về phương tiện PCCC, lập thêm các phương an chữa Hoả hoạn cho
các cơ sở trọng điểm. Cần cho khách hàng hiểu rằng không phải tham gia bảo
hiểm là dồn hết trách nhiệm cho người bảo hiểm mà bản thân họ phải có trách
nhiệm bố trí và quản lý tài sản tốt, có kế hoạch chữa Hoả hoạn được cảnh sát
PCCC thông qua, thường xuyên tụ bảo đưỡng nhà cửa trang thiết bị. Số phí bảo
hiểm Công ty phải trả sẽ thấp hơn nếu như công tác PCCC của đơn vị được thực
hiện tốt theo đúng yêu cầu.
Ngoài ra phải hưỡng dẫn các địa phương chi tiết về phòng và hạn chế tổn
thất vì hầu hết họ gần như không chi về khoản này. Trong điều kiện cạnh tranh
hiện nay, việc chi đề phòng hạn chế tổn thất lại có tác dụng khuyến khích, giữ
khách hàng rất quan trọng. Vì vậy các địa phương cần xác định rõ tỷ lệ được
phép chi bồi thường và hạn chế tổn thất.
Công ty cũng cần có một khoản chi hợp lý cho công tác đề phòng hạn chét
tổn thất ở các đơn vị tham gia bảo hiểm , coi như trợ giúp một phần cho họ trong
việc trang bị phượng tiện PCCC, nâng cao chất lượng đề phòng hạn chế tổn thất.
Hầu hết các vụ Hoả hoạn kiện mang nguyên nhân là do chập điện nên trước khi
cấp đơn bảo hiểm phải kiểm tra hệ thống điện. Có thể phải chi phí để làm lại hệ
thống điện này, nhưng chi phí đó nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền bồi thường nếu
có tổn thất xảy ra.
4) Công tác tính phí
Hoạt động bảo hiểm Hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh là một hình thức
kinh doanh dịnh vụ, quỹ dùng để chi trả dịnh vụ được hình thành từ việc đóng
góp của người bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Vì vậy, việc tích phí phải đảm
bảo chi trả bồi thường đảm bảo kinh doanh có lãi, đông thời phải tạo được mức
phí có khả năng cạnh trạnh được với các công ty ở nước ngoài. Sẽ cho hoàn toàn
đúng nếu cho rằng biểu phí bảo hiểm hoả hoạn hiện hành mà Bảo Việt áp dụng là
hoàn thiện sự biến đổi của thị trương hoạt động của đối thủ canh tranh sẽ làm cho
giá cả của bảo hiểm hoả hoạn thay đổi.
Vì vậy khi đưa ra mức phí cần phải thường xuyên xem xét , giám sát theo
dõi tỷ lệ phí của đối thủ cạnh tranh đồng thời phải theo sat biến động của các ruỉ
ro, tỷ lệ lạm phát. Nên tìm cách hạ phí xuống vì đây là cách cạch tranh có hiệu
quả nhất. Tuy nhiên nó vấp phải giới hạn dưới đó là tối thiểu phí thu phải đủ trả
cho bồi thường. Đặc biệt hạ phí cho các toà nhà xây dựng, mới xây dựng để cho
thuê các văn phòng đại diện, các Công ty xây dựng bằng vật liệu không Hoả
hoạn...ít nhất phải thấp hơn so với các Công ty bảo hiểm khác. Đôi khi phải chấp
nhận hạ phí thấp hơn so với số liệu thống kê để thu hút đông đảo khách hàng trên
cơ sở số đông bù số ít mà vẫn đảm bảo nghiệp vụ kinh doanh.
Theo như thoả thuận với chuyên gia của EU, trong năm tới đây EU sẽ giúp
Bảo Việt nâng cao cải tiến sản phẩm Hoả hoạn về mẫu đơn, phạm vi bảo hiểm và
mức phí. Tuy nhiên không vì thế mà ỷ lại áp dụng y nguyên máy móc, mà phải
cải cách sửa đổi cho đúng phù hợp với tình hình Việt Nam. Bảo Việt cần phải
nghiên cứu chính sách phí phân biệt với từng loại khách hàng. Đối với các khách
hàng thường xuyên có mối quan hệ lâu dài, những khách hàng lớn cần được ưu
tiên hơn những khách hàng mới và nhỏ.
Hiện nay, tỷ trọng chi phí quản lý bảo hiểm vẫn còn lớn. Để khắc phục tình
trạng này Bảo Việt cần phải nghiên cứu những hình thức đầu tư nguồn doanh
thu vào các hoạt động kinh doanh để tăng lợi nhuận đẻ tử đó có cơ sở giảm ty
trọng chi quản lý. Không chỉ đơn thuần gửi tiền vào ngân hàng, kinh doanh bất
động sản mà Bảo Việt còn góp vốn cùng kinh doanh với các tổ chức trong và
ngoài nước.
Bảo Việt nên đề nghị với bộ tài chính đưa ra một hành lang phí cụ thể. Điều
này không ngừng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh mà còn tạo điều
kiện cho các Công ty bảo hiểm khẳng định mình. Công ty mạnh sẽ giành được thị
trường và khách hàng chấp nhận.
5) Công tác cán bộ
Đào tạo cán bộ giỏi nghiệp vụ là vấn đề Công ty cần quan tâm. Bảo hiểm
hoả hoạn là loại bảo hiểm cần giao dịnh với nhiều Công ty nước ngoài, nhưng do
đây là nghiệp vụ mới cho nên cán bộ giỏi về nghiệp vụ này còn ít ỏi lại thêm
trình độ về tiếng anh, máy tính chưa thành thạo nên khó có thể giao dịnh với
nước ngoài.
Cũng cần thấy rằng cán bộ giỏi nghiệp vụ thì không những thực hiện công
tác một cách nhanh chóng, trôi chảy mà nếu khi khách hàng thắc mắc yêu cầu gì
cán bộ có thể giải đáp một cách rõ ràng, tạo niềm tin cho khách hàng. Một mặt
nữa có một cán bộ giỏi nghiệp vụ có trình độ tiếng anh thành thạo, Công ty có
khẳ năng xâm nhập thị trường nhanh chóng trực tiếp đỡ tốn kém không phải qua
con đường môi giới.
Trên thực tế , trình độ của cán bộ địa phương còn rất kém vì thế Công ty cần
tổ chức thêm những đợt tập huấn, đào tạo hưỡng dấn cán bộ ở địa phương để
nâng cao trình độ nghiệp vụ. Ngoài ra cần phát hiện và nhin nhận đúng đắn năng
lực, trình độ của từng cán bộ mà có chính sách đãi ngộ, sự ưu tiên thích đáng.
6) Thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm là biện pháp để bảo toàn
vốn
Tiến trình cải cách đang đặt nền kinh tế Việt Nam phải đương đầu với một
giai đoạn mà trong đó tổng vốn được coi là bàn đạp thúc đẩy hết sức quan trọng.
Bởi lẽ nhìn vào cơ sở hạ tầng còn rệu rã, chúng ta có thể thấy được nền kinh tế
đang cần rất nhiều vốn để cải tạo nâng cấp đường bộ, đường sắt, sân bay...Và còn
biét bao dự án khác.
Huy động vốn , giao vốn, bảo toàn vốn và phát triển vốn là sự cần thiết
trước hết xuất phát từ cơ chế quản lý kinh tế đối với các xí nghiệp quốc doanh.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo
phương thức hoạch toán kinh doanh, đòi hỏi phải bảo toàn giữ gìn số vốn được
nhà nước đầu tư, tự bổ sung và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn được tài trợ.
Hiện nay nước ta đang cần rất nhiều vốn, vì vậy ngoài việc huy động vốn trong
nước ta phải huy động thêm vốn nước ngoài. Điều đó càng làm cho việc bảo toàn
và phát triển vốn trở nên quan trọng.
Giao vốn là việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong sở hữu quản lý
và sử dụng vốn. Giao vốn tạo ra sử chủ động cho các doanh nghiệp đồng thời
cũng gắn trách nhiệm của xí nghiệp đối với việc bảo toàn và phát triển vốn. Việc
huy động vốn đ• là khó song việc bảo toàn và phát triển vốn là khó khăn hơn
nhiều. Để bảo toàn và phát triển vốn, các chủ doanh nghiệp lập ra các phương án,
kế hoạch kinh doanh sao cho thích hợp. Ngoài ra việc giao vốn các doanh nghiệp
phải tự chủ trong kinh doanh kể cả tự chiu rủi ro và thiên tai bất ngờ ảnh hưởng
không tốt đến khẳ năng bảo toàn vốn. Trong trường hợp này thì tham gia bảo
hiểm là trường hợp hữu hiệu nhất. Từ khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, chính phủ đã
chủ trương phát triển mạnh mẽ các khâu bảo hiểm nhằm làm dảm nhẹ gách nặng
cho ngân sách. Vì lẽ đó trong bối cảnh mới, cần nhận thức đúng vị trí nghành
kinh doanh bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp hiện nay tham gia bảo hiểm vì họ chỉ
nghĩ đơn giản là họ sẽ được bồi thường khi không may rủi ro xảy ra chứ phần lớn
doanh nghiệp không biết rằng tham gia bảo hiểm là số vốn của họ được bảo toàn.
Do yêu cầu bức bách đặt ra đối với bảo hiểm Hoả hoạn không chỉ dừng lại ở chỗ
khai thác phục vụ khách hàng tốt mà còn phải nêu bật được vai trò của mình qua
việc bảo toàn vốn. Có như vậy , các doanh nghiệp mới hiểu được đầy đủ căn kẽ
về ý nghĩa và bản chất của bảo hiểm.
Điều cuối cùng muốn nói ở đây là bất kể nguồn vốn nào cũng đều là kết tinh
của sức lao động, là tài sản của nguồn vốn cho nên mọi chính sách, chế độ, mọi
quan hệ phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng giá trị của đồng vốn, giúp người
có vốn không những bảo toàn được giá trị của nó mà làm cho no sinh lời và có
quyền hưởng phần lợi nhuận chính đáng đó. Tôn trọng quan tâm điều đó, Bảo
Việt với nghiệp vụ Hoả hoạn sẽ cố gắng hết sức góp phần của mình vào bảo toàn
vốn cho các doanh nghiệp nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Kết luận
Trong những năm vừa qua, tuy bảo hiểm Hoả hoạn và gián đoạn kinh
doanh là những nghiệp vụ còn khá mới mẻ nhưng Bảo Việt đã thu được những
kết quả đáng kể. Điều đó không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng của các chỉ tiêu
trong hoạt động kinh doanh mà còn khẳng định được do sự đóng góp của nghiệp
vụ đối với nền kinh tế. Thông qua tác dụng làm bảo toàn vốn, tạo ra một tâm lý
an toàn, tin tưởng cho chủ doanh nghiệp cũng như cho toàn bộ công nhân, hai
loại nghiệp vụ này đã làm nổi bật được vai trò của mình trong công cuộc đổi mới
đất nước. Trong công cuộc đổi mới này, bằng lợi thế về tầm quan trọng không
thể phủ nhận, bảo hiểm Hoả hoạn tự tin hơn bao giờ hết, sẵn sàng bước vào giai
đoạn mới- giai đoạn cạnh tranh.
Thực tế đã chứng minh chúng ta cần đến bảo hiểm , thực sự cần đến sự hỗ
trợ đắc lực của bảo hiểm trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Vượt qua
mọi khó khăn thử thách, bằng sự vươn lên của chính mình, chúng ta hy vọng
rằng Bảo Việt, cùng với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn sẽ tiếp tục lớn mạnh và
không ngừng đi lên xứng đáng là doanh nghiệp đầu đàn của ngành bảo hiểm Việt
Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu hướng dẫn bảo hiểm Hoả hoạn năm 2002 - Tổng công ty bảo hiểm
Việt Nam.
2. Hướng dẫn tính phí bảo hiểm Hoả hoạn năm 2002 - Tổng công ty bảo hiểm
Việt Nam.
3. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Trường đại học kinh tê quốc dân.
4. Giáo trình bảo hiểm nhà nước II - Trường đại học tài chính kế toán.
5. Tạp chí bảo hiểm số 2 năm 2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng tư nhấn hóa và đa dạng hóa tại thị trường các sản phẩm an tòan tài chính Việt Nam.pdf