Tài liệu Luận văn Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN:
Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và biện
pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải tự giải quyết ba vấn đề trung tâm của
nền kinh tế: sản xuất cài gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Trong bối cạnh hội
nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt trên thị trường, tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bất kể doanh nghiệp sản xuất hay doanh
nghiệp thương mại thì tiêu thụ sản phẩm thể hiện uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản
phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch
vụ. Muốn thúc đẩy hoạt đông tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp
gì, tình hình tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp Việt nam hiện nay ra sao và các doanh
nghiệp cần sự hỗ trợ nào từ phía nhà nước? Chính vì muốn tìm hiểu vấn đề này, em chọn
đề tài “Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và biện pháp thúc ...
58 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và biện
pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải tự giải quyết ba vấn đề trung tâm của
nền kinh tế: sản xuất cài gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Trong bối cạnh hội
nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt trên thị trường, tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bất kể doanh nghiệp sản xuất hay doanh
nghiệp thương mại thì tiêu thụ sản phẩm thể hiện uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản
phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch
vụ. Muốn thúc đẩy hoạt đông tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp
gì, tình hình tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp Việt nam hiện nay ra sao và các doanh
nghiệp cần sự hỗ trợ nào từ phía nhà nước? Chính vì muốn tìm hiểu vấn đề này, em chọn
đề tài “Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG
I. KHÁI NIỆM TIÊU THỤ SẢN PHẨM
I.1. Khái niệm
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của sản phẩm nhằm đáp
ứng các nhu cầu của xã hội
I.2. Thực chất của tiêu thụ sản phẩm
Thực chất của tiêu thụ sản phẩm là làm cho sản phẩm trở thành hàng hoả tên thị
trường(sản phẩm phải thích hợp với nhu cầu)phải phù hợp với thị trường
Tiêu thụ sản phẩm tronh cơ chế thị trường hiện nay khác với tiêu thụ sản phẩm trong
cơ chế kế hoạch hoá tập trung.Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung việc tiêu thụ sản
phẩm hoàn toàn do Nhà nước bao tiêu,ttheo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước,doanh
nghiệp không cần quan tâm đến sản phẩm của mình có tiêu thụ được hay không.Còn trong
cơ chế thị trường ngày nay doanh nghiệp tự quyết định tiêu thụ sản phẩm, tự chịu trách
nhiệm về hiệu quả tiêu thụ sản phẩm
II.VAI TRÒ CỦA TIÊU THỤ SẢN PHẨM(TTSP)
II.1Tiêu thụ sản phẩm bảo đảm doanh nghiệp (DN)thực hiện đực mục tiêu của
mình Quyết định sự tồn tại, phát triển của DN
Bất kỳ một DN nào kinh doanh trên thương trường đều đặt ra 3 mục tiêu cơ bản,lâu
dài: Lợi nhuận, thế lực và an toàn trong kinh doanh. Chỉ có điều tuỳ thuộc vàoloại hình
DN, tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển của DN (mới thành lập, giai đoạn phát triển, giai
đoạn suy thoái...), tùy thuộc vào chu kỳ sống sản phẩm,tuỳ thuộc vào thị trường ( thị
trường cũ,thị trường mới...), tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế, cụ thể,nhưng biến động của
môi trường kinh doanh...mà DN đặt mục tiêu nào là mục tiêu hàng đầu, quan trọng nhất
để hướng toàn bộ nỗ lực của DN vào cố gắng thực hiện mục tiêu đó
Lợi nhuận là mục tiêu trên hết, trực tiếp,trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt
động kinh doanh.Vấn đề là làm thế nào để thu được lợi nhuận?
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Vậy muốn có lợi nhuận, hoặc tăng doanh thu, hoặc giảm chi phí hoặc kết hợp cả
hai.Để tăng doanh thuDN phải tiêu thụ được hàng hoá nhưng phải đảm bảo Tổng doanh
thu lớn hơn Tổng chi phí thì mới có lãi.DN tiêu thụ được hàng hoá sẽ thu được doanh thu
để bù đắp chi phí và có lãi, thực hiện tái đầu tư vào sản xuất, có vậy DN mới tồn tại và
phát triển
DN tiêu thụ được saản phẩm, điều đó có nghĩa là sản phẩm của DN được thị trường
chấp nhận,thoả mãn được nhu cầu thị trường. Cùng với việc nghiên cứu, phát triển,mở
rộng thị trường để tăng tiêu thụ, sản phẩm của DN ngày càng được người tiêu dùng biết
đến. Uy tín về sản phẩm, về công ty ngày càng nâng cao, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm được tăng lên,DN ngày càng tăng thị phần trên thị trường. quy mô kinh doanh ngày
càng mở rộng.Tất cả những điều đó tạo nên một "thế lực " đứng vững,cạnh tranh thắng lợi
trên thương trường của DN.
DN tiêu thụ được sản phẩm tạo ra lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vòn để kinh doanh
liên tục phất triển,TTSP tạo ra "thế lực " cho DN từ đó tạo ra "hành lang an toàn" trong
kinh doanh.
Vậy TTSP thônh qua bảo đảm các yếu tố vật chất,bảo đảm sự tồn tại, phát triển của
DN, bảo đảm sự phát triển mang tính chu kỳ và tái chu kỳ.
II.2 TTSP thực hiên mục đích của sản xuất và tiêu dùng đưa sản phẩm từ nơi sản
xuất đến tiêu dùng.
Mục đích của nhà sản xuất là sản xuất ra hàng hoá đẻ bán trên thị trường, mục đích
của người tiêu dùng là mua được những hàng hoá, thoả mãn nhu cầu với giae vừa phải.
TTSP là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian gắt kết giữa một bên là nhà sản
xuất
và phân phối, một bên là người tiêu dùng. Trong quá trình tuần hoàn các nguồn vật
chất,việc mua và bán các sản phẩm được thực hiện,hàng hoá được đưa từ nơi sản xuất đến
tay người tiêu dùng.
II.3 TTSP có vai trò trong việc cân đối cung -cầu, đồng thời giúp DNxác định
phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.
Nền kinh tế Quốc dân là một thể thống nhất với mhững cân bằng, những tương quan tỷ
lẹ nhất định.Sản phẩm sản xuât ra được tiêu thụ,tức là sản xuất diễn ra một cách bình
thường, trôi chảy,sản xuất và tiêu thụ ổn định diễn ra theo đúng quy luật cung- cầu của
nền kinh tế thị trường, giữ bình ổn xã hội.Vì vậy mà DN có thể dự đoán chính xác lượng
tiêu thụ hàng hoá, từ đó có kế hoạch sản xuất cho giai đoạn saunhằm đạt hiệu quả cao
nhất. Đâu có cầu là nơi đó sẽ có cung, hàng hoá sẽ được vận động tứ nơi thừa đén nơi
thiếu, từ nơi có giá cao đến nơi có giá thấp. Vấn đề là DN cần phải nắm bắt kịp thời nhu
cầu của khách hàng để có kế hoạch sản xuất phù hợp, kế hoạch phân phối hàng kịp thời để
tăng hiệu quả kinh doanh.
III NỘI DUNG CỦA TTSP
III.1Điều tra nghiên cứu thị trường để lựa chọn sản phẩm thích ứng
Điều tra nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên và là khâu quan trọng trong việc thành
công hay thất bại của hoạt động TTSP của các DN sản xuất kinh doanh.Nghiên cứu thị
trường để xác định cơ hội hấp dẫn đối với DN, từ đó xác định thị trường để tìm thị trường
trọng điểm,sau đó tìm cách tiếp cận trường trọng điểm để xác định thị trường thích hợp
của DN-là thị trường dảm bảo DN có khả năng khai thác hết cơ hội kinh doanh trên cơ sơ
phát huy tối đa tiềm lực của DN, không quá rộng để DN có khả năng bao quát thị trường
nhưng không quá hẹp để khỏi bỏ lỡ cơ hợi kinh doanh.
Thông qua nghiên cứu thị trường phải trả lời ba vấn đề cơbản trong kinh doanh:
III.1.1Sản xuất cái gì ?
Nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của người tiêu dùng từ đó sản xuất ra sản
phẩm phù hợpvới nhu cầu của họ."Sản xuất cái gì" nghĩa là DN phải xác định được tên gọi
cụ thể của sản phẩm, quy cách, chủng loại như thế nào để kích thích nhu cầu và sản xuất
sản phẩm đó bằng cách nào
để với chi phí thấp nhất mà sản phẩm vẫn đảm bảo chất lượng, thoả mãn nhu cầu của
người tiêu dùng.
III.1.2 Bao nhiêu
Bao nhiêu về số lượng, chát lượng và giá cả?Số lượng hàng hóa phải phù hợp với quy
mô, dung lượng thị trường tiêu thụ, không quá nhiều để gây ứ đọng, ế thừa và cũng không
quá ít để gây thiếu hụt, tạo sự mất cân đối cung cầu nhất là đối với những loại sản phẩm
có tính độc quyền (xăng dầu, điện...)và số lượng phải tuỳ theotừng chủng loại, quy cách
hàng hoá.
Chất lượng sản phẩm không phải tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà sản xuất, mà
chất lượng sản phẩm phải phù hợp với thị trường, phù hợp với những biến đổi nhu cầu.
Vậythì thế nào là sản phẩm có chất lượng tốt? Một sản phẩm có chất lượng tốt là sản
phẩm có "chất lượng vừa đủ".Vừa đủ nghĩa là phải phù hợp với túi tiền của người tiêu
dùng, khách hàng luôn có sở thích đói với những sản phẩm có chất lượng tuyệt hảo nhung
khả năng thanh toán hay túi tiền của họ có cho phép họ mua hay không? Đó là vấn đề mà
DN nào cũng phải quan tâm, phải suy nghĩ đắn đo và đó chính là lý do cần phải đa dạng
hoá trong sản xuất sản phẩm để đáp ứng nhiều dạng nhu cầu của thị trường.Ngày nay chất
lượng sản phẩm có xu hướng giảm xuống, độ tiện lợi tăng, tăng dịch vụ kèm theo và đa
chức năng được tăng lên.
Giá cả?không phải là kỹ thuật nghiệp vụ đánh giá mà vấn đề quan trọng là quan điểm
và chính sách giá.
III.1.3 Cho ai?
Cho ai -đối tượng tiêu dùng cụ thể với những tâm lý, thị hiếu và tâm linh của họ.
III.2Huy động các nguồn lực để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu
cầu thị trường.
Sau khi nghiên cứu thị trường, xác định được thị trường thích hợp và sản phẩm thích
hợp thì việc tiếp theo DNphải tổ chức sản xuất ra sản phẩm phù hợp đó.Để tổ chức sản
xuất ra sản phẩm thích ứng, DN cần phải phát huy nguồn lực của DN và tận dụng nguồn
lực bên ngoài.Quan trọng vẫn là phát hiện, nâng cao nguồn nội lực (vốn, lao động, công
nghệ...) trên cơ sở nghiên cứu thị trường DN nghiên cứu sáng tạo ra hàng hoá phù hợp với
nhu cầu. Nhưng DN cần phải biết tận dụng mọi cơ hội kinh doanh, phải biết khai thác
thuận lợi môi trường xung quanh bên ngoài DN.
Tiêu thụ sản phẩm làm cho sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trường. Hiện nay có ba
quan niệm về hàng hoá:
+ Quan niệm cổ điển: hàng hoá là sản phẩm của lao động có giá trị và giá trị sử dụng
+ Quan niệm hiện đại: tất cả những thứ là đối tượng của trao đổi mua bán đều là hàng
hoá.
Như vậy quan niệm hiện đại đã phân biệt sản phẩm của lao động và không là sản
phẩm của lao động.
+Quan niệm marketing về hàng hoá:"bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mà
ta có", nhưng DN cũng cần phẩi biết bán cái mà ta có vì không phải lúc nào DN cũng làm
được điều trên.Hàng hoá được chia làm hai bộ phận cấu thành: Yếu tố tạo thực thể vật
chất của hàng hoá( đặc tính cơ học, đặc tính hoá học, lý học...)bộ phận này có thể dùng
phương pháp thí nghiệm, thực nghiệm,cân đong đo đếm được.Yếu tố phi thực thể của
hàng hoá( tên gọi, nhãn hiệu, màu sắc hình dáng, kích thước, bao bì, dịch vụ kèm
theo...).Ngày nay không phải các yếu tố tạo thực thể vật chất của hàng hoá là quan trọng
nhất mà là các yếu tố phi thực thể, DN bán được hàng hoá thì trước hết là bán yéu tố phi
thực thể.
III.3.Xây dựng chiến lược tiêu thụ, chiến lược và sách lược sản phẩm, chiến lược
tiếp thị.
Chiến lược tiêu thụ là định hướng hoạt động tiêu thụ của DN cho một thời kỳ nhất
định với những giải pháp nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra. Mục tiêu củachiến lược
tiêu thụ gồm: Mặt hàng tiêu thụ, tăng doanh số, tăng lợi nhuận và mở rộng thị trường kể
cả thị trường trong và ngoài nước.Chiến lược tiêu thụ sản phẩm ở tầm vĩ mô sẽ giúp cho
DN đi đúng hướng theo mục tiêu chung của nền kinh tế. Nó phục vụ cho hoạt động đối
ngoại và có vai trò pkông nhỏ trong viêc thúc đẩy tăng trưởng của một ngành nói chung và
của một nền kinh tế nói chung góp phần ổn định nền kinh tế chính trị xã hội.Chiến lược
tiêu thụ sản phẩm của DN giúp DN nắm bắt được nhu cầu khách hàng từ đó chủ động đối
phó với những diễn biến của thị trường giúp DN mở rộng thị trường mới, kế hoạch hoá về
khối lượng tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận, chọn kênh tiêu thụ và các đối tượng khách hàng.
Chiến lược sản phẩm là bộ phận quan trọng của chiến lược tiêu thụ sản phẩm.Trong
chiến lược tiêu thụ sản phẩm của DN, bên cạnh chiến lược sản phẩm "xương sống"cần có
chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, chiến lược sản phẩm kế tiêp, chiến lược tối ưu hoá quy
mô sản phẩm.
Sách lược tiếp thịDN cần phải xây dựng sách lược tiếp thị hợp lý nghĩa là tuỳ từng khu
vực thị trường, tuỳ vào sự nổi tiếng của sản phẩm, sự nổi tiếng của hãng mà lựa chọn sách
lược tiếp thị.
III.4 Xây dựng chính sách giá và xác định mức giá sản phẩm thích hợp.
Trong kinh doanh việc xác định giá sản phẩm là vô cùng khó khăn vì giá sản phẩm ảnh
hưởng tới doanh thu của DN(Tổng doanh thu=Giá x Tổng lượng bán) DN muốn tồn tại
phất triển thì kinh doanh phải có lãi nghĩa là doanh thu đủ bù đắp chi phí và có lãi.Vì vậy
nếu định giá cao thì DN thu được nhiều lợi nhuận nhưng giá cao làm cho lượng hàng bán
giảm vì người tiêu dùng khó chấp nhận mức giá cao, lợi nhuận giảm, đó là một sự mâu
thuẫn.Vì vậy việc định giá sản phẩm làm sao phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng mà
vẫn đảm bảo lãi là một điều vô cùng khó khăn.Chính vì vậy mà DN cần phải đưa ra quyết
định rõ ràng về chính sách giá của mình. Các chính sách giá đúng cho phép DN có thể
định giá và quản lí giá có hiệu qủa trong kinh doanh. Chính sách giá thể hiện sự lựa chọn
đúng đắn các tình huống cần giải quyết khi đặt mức giá giúp cho việc chấp nhận gíavà ra
quyết định mua sắm của khách hàng đượ dễ dành hơn. Các chính sách giá được áp dụng:
+Chính sách về sự linh hoạt của giá: phản ánh cách thức sử dụng mức giá như thế nào
đối với các đối tượng khách hàng.DN phải lựa chọn giữa chính sách một giá(đưa ra một
mức giá đối với khách hàng mua hàngtrong cùng một điều kiện cơ bản và cùng một khối
lượng) và chính sách giá linh hoạt(đưa ra cho khách hàng khác nhau các mức giá khác
nhau trong cùng các điều kiện cơ bản và cùng khói lượng).
+Chính sách về mức giá theo chu kỳ sống của sản phẩm: Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà
có thể lựa chọn các chinh sách giá khác nhau.Chính sách giá " hớt váng" đưa ra mức giá
cao nhất cố gắng bán ở mức giá cao nhất của thị trường nhằm tăng tối đa việc hớt phần
ngon của thị trường.Chính sách giá "xâm nhập" đưa ra một mức giá thấp để có thể bán
được hàng hoá với khối lượng lớn trên thị trường. Chính sách giá "giới thiệu" đưa ra mức
giá thấp bằng cách cắt giảm giá tạm thời để lôi kéo sự chú ý và dùng thử của khách
hàng.Chính sách giá "theo thị trường'đưa ra mức giá trên cơ sở phân tích giá của đối thủ
cạnh tranhtrên thị trường.
+Chính sách giá theo chi phí vận chuyển. Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng,sản
phẩm phải đợc vận chuyển đưa đến địa điẻm sử dụng theo yêu cầu của họ.Chi phí vận
chuyển có thể là rất cao, đối với một số sản phẩm có thể chiếm từ 50-60%giá trị được giao
của hàng hoá. Điều này yêu cầu cần phải tính đến một cách nghiêm túcvà sáng tạo chi phí
vận chuyển khi xác định mức giá. Giá công bố có bao hàm chi phí vận chuyển không?nên
tính như thế nào, ai trả chi phí vận chuyển?Có bốn loại chính sách giá theo chi phí vận
chuyển: giá giao hàng theo địa điểm,giá giao hàng theo vùng,giá giao hàng đồng loạt và
giá vận chuyển hấp dẫn.
+Chính sách giá và chiếu cố giá:giảm giá là một trong những công cụ quan trọngmà
DN có thể sử dụnglàm tăng hiệu quả của hoạt động bán hàng, bởi vậy có chính sách giá
đúng để DN thực hiện thành công chiến lược marketing của mình. Có rất nhiều chính sách
giảm giá:giảm giá theo khối lượng mua nhiều, giảm giá theo thời hạn thanh toán, giảm giá
theo thời thời vụ.
III.5 Lên phương án phân phối vào các kênh tiêu thụvà lựa chọn các kênh phân
phối sản phẩm.
Mọi phương án phân phối hàng hoá đặt trong yêu cầu chung về hiệu quả hoạt động
kinh doanhcủa DN,nó phụ thuộc rất nhiều vào các loại phương tiện vận chuyển hiện có
trên thị trường và khả năng khai tác các phương tiện đó.Phân phối hàng hoá phải vừa đảm
bảo cho khách hàng mua hàng thuận lợi nhất, tiện nhất.Nhưng trong điều kiện sản xuất
công nghiệp hiện đạivới quy mô loqns và khách hàng rải rác
ở khắp mọi nơi trên thế giới thì việc phân phối hàng hoá phải vừa đảm bảo chi phí vận
chuyển nhỏ nhất, đảm bảo chính xác về thời gian, thuận tiện cho khách hàng là điều vô
cùng khó. Vậy tốt nhất là nên chọn phương án phân phối hàng hoá sao cho nó có khả năng
đáp ứng ở mức độ hợp lý cho tất cả các mục tiêu của DN trừ các yêu cầu đặc biệt từ phía
khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường,việc TTSPđược thực hiện bằng các kênh khác nhau tuỳ
thuộc vào rất nhiều yếu tổ đặc điểm, chất lượng hàng hoá, điều kiện vận chuyển, bảo
quản, sử dụng...theo đócác sản phẩm vận động từ DN sản xuất (nhà cung cấp) đến người
tiêu dùng cuối cùng.Nếu căn cứ vào mối quan hệ DN-người tiêu dùng cuối cùng, có hai
loại kênh phân phối:trực tiếp và gián tiếp.
+Kênh phân phối trực tiếp:Người sản xuất( tổ chức đầu nguồn)--người tiêu dùng cuối
cùng.
Ưu điểm:Bảo đảm lưu chuyển hàng hoá nhanh, giảm chi phí lưu thông nên tỷ suất lợi
nhuận tăng, quan hệ giao dịch mua bán thuận tiện, đơn giản. Do DN giao dịch trực tiếp
với khách hàng nên DN hiểu được nhu cầu thị hiếu với khách hàng, tâm lý, giá cả của
người tiêu dùng từ đó dự đoán nhu cầu,nắm dược nhu cầu và tìm biện pháp thoả mãn tốt
nhất nhu cầu đó.
Nhược điểm:Chưa có chuyên môn hoá trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên năng
suất lao động chưa không cao,hoạt động bán hàng diễn ra chậm, tốc độ chu chuyển vốn
chậm.Quan hệ thị trường hẹp vì khó mà tìm ra đượcngười tiêu thụ cuối cùng với quy mô
lớn và khối lượng ổn định.
Áp dụng;hàng lâu bền, giá tri lớn (ô tô...), hàng hoá có tính chất thương phẩm đặc biệt
là hàng tươi sống.
+Kênh phân phối gián tiếp:có ba hình thức:
Người
sản xuất
- tổ chức
cung ứng
bán lẻ
bán lẻ
bán lẻ bán buôn
bán buôn
môi giới
Người
tiêu
dùng
cuối
cùng
Ưu điểm:Tính chuyên môn hoá thể hiện rõ nét trong kênh phân phối gián tiếp làm
năng suất lao động tăng,tăng hiệuquả kinh doanh, tạo đièu kiện phát triển sản xuất, mở
rộng thị trường, sử dụng có hiệu quả cơ sở vầt chất.
Chu kỳ quay của vốn =Tsx + Tlt
Tsx:thời gian sản xuất sản phẩm
Tlt:thời gian lưu thông
Mặc dù thời gian lưu thông dài làm tăng chi phí lưu thông nhưng thích hợp với quan hệ
sản xuất và lưu thông nhiều loại sản phẩm, phù hợp với quan hệ mua bán nhiều loại DN.
Nhược điểm: trong kinh doanh ngày nay
DN_A DN_B DN_C ...
Trong đó: Bán hàng.
Thông tin phản hồi.
Trong quá trình bán, các DN mua hàng của nhau và đem bán cho DN khác nhưng dòng
thông tin ngược thì không bao giờ được phản hồi đầy đủ. Nhiều DN đi chiếm dụng vốn
của DN khác nên chỉ cần DN gặp khó khăn, phá sản, là kéo theo sự ảnh hưởng thiệt hại
của một loạt DN khác.
Áp dụng: Hàng hoá có giá trị không lớn, khách hàng mua với số lượng ít, phân tán.
quy mô của sản xuất kinh doanh lớn hơn rất nhiều vùng tiêu thụ thì Dn cần phải nhờ đến
người bán buôn để mở rộng thị trường.
III.6. Xúc tiến bán.
Xúc tiến bán là nhóm công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công cụ cổ động, kích
thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu về sản phẩm tại chỗ tức thì. Xúc tiến bán hàng
còn gọi là khuyến mại có tác động trực tiếp và tích cực tới việc tăng doanh số bằng những
lợi ích vật chất bổ xung cho người mua. Thực chất đây là các công cụ kích thích để thúc
đẩy các khâu: cung ứng, phân phối và tiêu dùng đối với một hoặc một nhóm sản phẩm
hàng hoá của công ty.
đối với những sản phẩm truyền thống hoặc đã lưu thông thường xuyên trên thị trường thì
việc xúc tiến bán hàng được tiến hành gọn nhẹ hơn. cần đặc biệt quan tâm tới xúc tiến bán
sản phẩm mới hoặc sản phẩm cũ trên thị trường mới. Cần thực hiện các chiến lược quảng
cáo, tiếp thụ hiệu quả cho các sản phẩm mới. Ngoài việc thực hiện một loạt các chính sách
xác tiến bán: quảng cáo, chiêu thị, chiêu hàng, giảm giá, thiết lập mạng lưới tiêu thụ hợp
lý… thì DN không được phép quên lực lượng nhân viên bán hàng, cần phải xây dựng đội
ngũ nhân viên bán hàng có trình độ truyên môn nghiệp vụ cao vì “ bán hàng không những
là nghề mà còn là một nghệ thuật”. Một nhân viên bán hàng giỏi là một nhân viên bán
được cả hãng, cả công ty. Muốn tiêu thụ được hàng hoá phải thực hiện 4 cho: cho chon,
cho thử,cho đổi, cho trả.
III.7. Thực hiệc các kỹ thuật nghiệp vụ bán hàng và đánh giá kết quả TTSP.
Thực hiện các kỹ thuật nghiệp vụ bán hàng và đánh giá kết quả TTSP.Trong đó nghiệp
vụ thu tiền là rất quan trọng. Trong trường hợp mặc dù hàng hoá đã được phân phối hết
cho các kênh tiêu thụ hoặc đã giao xong cho người mua. Song chưa thu được tiền về thì
hoạt động tiêu thụ vẫn chưa kết thúc. Hoặc trong thường hợp DN đã thu được tiền về từ
các trung gian nhưng hàng hoá vẫn ứ đọng tại đó, chưa tới tay người tiêu dùng thì việc
tiêu thụ mới kết thúc trên danh nghĩa. Chỉ khi nào tiền bán hàng được thu từ tay người
tiêu dùng cuối cùng thì hoạt dộng tiêu thụ mới thực sự kết thúc.
Đánh giá kết quả TTSP thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
III.7.1Chỉ tiêu định lượng:
+Chỉ tiêu kết quả:tổng khối lượng hàng bán, tổng doanh thu, tổng chi phí, tổng số lao
động…
+Chỉ tiêu hiệu quả:
Lợi nhuận = Tổng doanh thu- Tổng chi phí
Tổng lợi nhuận
Mức doanh lợi M1=----------------------- x 100%
Tổng doanh thu
Tổng lợi nhuận
Mức doanh lợi M2= ----------------------------- x100%
Tổng vốn kinh doanh
Tổng lợi nhuận
Mức doanh lợi M3=------------------------------x100%
Tổng chi phí
Tổng doanh thu
Năng suất lao động=---------------------------
Tổng số lao động
Tổng khối lượng thực hiện
=-------------------------------------
Tổng số lao động
III.7.2 Chỉ tiêu định tính
Tốc độ mở thị trường, khả năng củng cố lòng tin đối với khách hàng
Độ mở của thị trường: là chỉ tiêu định mức độ gia tăng về doanh số bán của DN trên
thị trường truyền thống hoặc mức độ gia tăng doanh số bán(thị phần)trên một thị trường
mới.
Chỉ tiêu mức độ gia tăng về uy tín của DN hoặc uy tín của những sản phẩm của DN.
Sự tăng lên về thị phần tương đối của DN so với đối thủ cạnh tranh tiềm tàng.
Mức độ thoả mãn người tiêu dùng thông qua việc cung cấp những sản phẩm dịch vụ của
DN
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG TTSP Ở THỊ TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI.
Theo báo cáo tổng cục hải quan tính đến ngày 20/11/99 tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của việt nam là 19,945 tr USD nhập siêu 1,4% tổng tiêu ngạch. Trong đó xuất khẩu
9,903tr USD, nhập khẩu 10,042 tr USD
Biểu II.1 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam - 1999
STT
Mặt hàng XK Khối
lượng
(triệu tấn)
Trị giá
(triệu
USD)
1
2
3
4
5
6
7
Dầu thô
Gạo
Cà phê
Cao su
Dệt may
Giầy dép
Hải sản
12,9
4,23
0,3787
0,210
1.699
965
477
114,9
1.489
1.207
8227
Trên cơ sở tổng hợp và phân tich tình hình dự báo, các chuyên gia bộ thương
mại báo cáo tổng kim ngạch xuất khẩu 1999 ước11ty USD, tăng 17,5% so với 1998, vượt
10,5% so với kế hoạch. Trong đó DNVN 8,55 ty USD, chiếm 77,7%, tăng 15,8%, dn có
vốn đầu tư nước ngoài là 2,45 ty USD chiếm 22,3%, tăng 23,6%. Mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu: gạo,dầu thô,dệt mayda giầy, cà phê,hải sản,điện tử. Tính đến tháng 11/99 4 mặt hàng
công nghiệp đạt giá trị KNXK trên 1ty USD là: dầu thô,dệt may,da giầy, gạo. một số mặt
hàng tuy KN chưa lớn nhưng có mức tăng cao: máy động lực, máy công nghiệp, sữa
bột,dầu thực vật. Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực hơn: tỷ trọng nguyên
liệu thô và sơ chế giảm.
Biểu II.2 Tỷ trọng ngành hàng xuất khẩu
STT Ngành Tỷ lệ % Giá trị
(triệu USD)
1
2
3
4
5
6
Nông lâm sản
Hải sản
Dệt may+Da giầy
Điện tử và linh kiện điện tử
Thủ công mỹ nghệ
Lĩnh vực khác
18,2
8,6
28
5,3
1,5
19,4
2000
950
3100
580
180
2130
I.1 Ngành cà phê
Theo thống kê của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) niên vụ cà phê 1998-
1999 Việt Nam XK 404.206 tấn cà phê nhân, tăng so với 97/98 khoảng 10.000 tấn.
Biểu II.3 Danh sách 10 công ty XK cà phê lớn nhất Việt Nam
STT Doanh nghiệp Khối lượng
(tấn)
Giá trị
(triệu USD)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
VINA cà phê
Công ty 2/9
Enxim Đắc Lắc
Công ty TM du lịch Hiệp Phước
Công ty XNK Gia Lai
Công ty Tín Nghĩa
Công ty cà phê Phước An
Công ty PETEC
Công ty Thắng Lợi
Công ty TM XNK Gia Lai
52.300
51.789
46.184
28.740
26.044
20.268
17.131
13.027
9.880
9.803
72,277
70,509
64,174
40,7
34,2
27,1
24,036
17,853
14,194
13,18
Những cây cà phê đầu tiên được trồng trên đất Việt Nam là do các giáo sỹ truyền giáo
đưa vào trồng từ năm 1857 ở khu vực các nhà thờ tu viện thiên chúa giáo thuộc 2 tỉnh
Quảng Bình,Quảng Trị. Đến cuối thế kỷ 19 các đồn điền trồng cà phê đầu tiên là ở các
tỉnh miền bắc: Hà Nam,Sơn Tây, Hoà Bình, Tuyên Quang, Phú Thọ, Phủ Quỳ. Vào những
năm 1920-1925 khi phát hiện ra vùng cao nguyên Bazan ở miền trung.Người ta mới mở ra
các đồn điền cà phê ở Tây Nguyên.Nhưng cả một thời gian dài diện tích trồng cà phê chưa
được mở rộng,đến trước năm 1995 miền bắc có 14000 ha miền nam có 14.420 ha,cả
nước25.420ha
Sau ngày đất nươc thống nhất 1975, ngang cà phê Việt Nam đi vào thơi kì phát
triển,sản lượng sản xuất ra chủ yếu để XK thu ngoại tệ.theo số liệu tổng cục thống kê và
ngành Cà phê thì sản xuất Cà phê của ta mỗi năm một tăng.
Biểu II.4 Tình hình sản xuất, XK cà phê qua các năm
Năm Diện tích(ha) Sản lượng
sản suất
Khối lượng XK
theo niên vụ
(tấn)
Kim ngạch
(Triệu USD)
1995
1996
1997
1998
1999
175.000
230.000
250.000
320.000
240.000
350.000
360.000
410.530
233.000
246.000
350.000
390.000
360.000
520
420
400
600
540
Sản xuât Cà phê Việt Nam có những điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai, tập chung
ở Tây Nguyên, Dông Nam Bộ, các tỉnh miền trung và miền núi phía bắc (Sơn La, Lai
châu, Yên Bái, Hà Giang),điều kiện thổ nhưỡng khí hậu ở vùng này thích hợp với loại Cà
phê Arabica nên năng xuất khá cao. Tây nguyên với bốn tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia
Lai, Kom Tum là khu vực chủ lực của ngành Cà phê Việt Nam. Diện tích Cà phê của khu
vực này lên tới 180.000 ha chiếm hơn 78% tổng diện tích trồng Cà phê cả nước trong đó
Đắc Lắc với diện tích và sản lượng Cà phê là lớn nhất, chiếm 60% của cả khu Tây
Nguyên. sự mở rộng của chính sách XNK theo nghị định số 57/1998/ND – CP của chính
phủ đã tạo nhiều thuận lợi cho các DN có thể tham gia xuất khẩu Cà phê. Từ 30 DN XK
Cà phê vụt tăng lên 100 DN. Riêng Đắc Lắc từ 16 DN tăng lên 26 DN. Hiẹn nay sản
lượng sản xuất Cà phê của Đắc Lắc chiếm 60% tổng sản lượng Cà phê cả nước. Theo
thống kê của sở thương mại Đắc Lắc. Sản lượng Cà phê xuất khẩu niên vụ 98 / 99
(1/10/98 – 30/9/99) đạt 218.596 tấn, tăng 3,5% so với niên vụ 97/98, kim ngạch khoảng
300 triệu USD, giảm 7,2%. Sản lượng tăng, kim ngạch giảm là do giá giảm, giá XK bình
quân khoảng 1.372 USD/tấn, giảm 10% so với 97/98 đây là lần đầu tiên sau nhiều năm
KNXK Cà phê Đắc Lắc giảm do giá thế giới giảm. tỷ lệ Cà phê R1 của Đắc Lắc vùa qua
đạt thấp, khoảng 18000 tấn, chiếm 8% tổng lượng xuất khẩu thấp hơn tỷ lệ R1 chung của
cả nước 11% làm giảm KNXK. (Chỉ riêng hai loại Cà phê chất lượng R1,R2 chênh lệch
100 USD/tấn, giữa R2 –5% và R2 -8% chênh lệch 40 đến 60 USD/tấn).
Điều đáng mừng là chất lượng Cà phê xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy tín
trên thị trường Thế giới:
Biểu II.5 Chất lượng xuất khẩu tăng hàng năm(đơn vị:%).
Cấp hạng chất lượng 94/95 95/96 96/97 97/98
Loại I
Loại II A
Loại II B
Tiêu thụ nội bộ
2
15
80
3
6
45
44
5
7
60
27
6
16
72
5
7
Thị trường XK ngày nay càng được mở rộng. Trước năm 90 khoảng 50% khối lượng
cà phê XK của Việt Nam là sang thị trường Liên Xô và Đông Âu,50% còn lại là sang thị
trường Singapore thực chất là một thị trường trung chuyển. Đến năm 1996 XK cà phê Việt
Nam đã sang tới 30 quốc gia, chủ yếu là XK trực tiếp. Đặc biệt cà phê Việt Nam đã được
XKtrực tiếp sang các thị trường khó tính như Đức, Anh,ý. Đáng lưu ý là Mỹ thị trường nổi
tiếng là khó xâm nhập nhưng năm 1996 đã tiêu thụ khoảng 1/3 khối lượng cà phê XK của
Việt Nam.Hiên nay Đức đă trở thành nhà nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam.Trong
11 tháng năm 99 vừa qua tổng lượng xuất khẩu : 362000 tấn kim ngạch khoảng 500 triệu
USD
Biểu II.6 Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Tỷ lệ
%
Đức
Mỹ
Italia
Tây Ban Nha
Anh
Bỉ
16,5
15,5
10,6
8,8
7,7
6,3
Cà phê đặc sản (Gounmet coffee) được quảng cáo bằng tên hấp dẫn: Cà phê trăng
rằm (full moon coffee) hay cà phê gã chăn bò thứ thiệt (real Cowboy coffee)... tiêu thụ
đang tăng nhanh chóng trên thế giới, các cửa hiệu chuyên bán cà phê đặc sản đang mọc
lên như nấm tại Mỹ,các thành phố lớn ở Châu Âu và Nhật Bản nhưng mức tiêu thụ của
Mỹ giảm từ 10kg/người/năm nay chỉ ở mức 4kg. Nguyên nhân của tình trạng này là phần
lớn cà phê tiêu thụ ở Mỹ không phải là loại có phẩm chất cao nhất nên hiện nay Mỹ đang
tích cực quảng cáo, khuyến trương cho loại cà phê này người tiêu dùng Mỹ thích loại cà
phê này và thị trường tăng tốc độ 30%/năm. đây là một thị trường đầy hứa hẹn cho xuất
khẩu cà phê Việt Nam sang Mỹ, nếu chất lượng cà phê của Việt Nam đạt được tiêu chuẩn
quốc tế về độ axit, mùi quả và các mùi vị khác
Theo dự đoán mới nhất của Bộ nông nghiệp Mỹ sản lượng cà phê thế giới 99/2000
giảm 20%(2,13tr bao)so vụ trước còn 104,5 tr bao:
Biểu II.7 Sản lượng cà phê thế giới
Niên Vụ 97/98 98/99 99/2000
Sản Lượng
(tr bao)
97,67 106,63 104,50
Brazin
Côlômbia
Indônêxia
Việt Nam
Mêxicô
23,5
12,03
7,2
6,67
4,97
34,7
11
6,85
6,33
4,95
26,5
12,7
7,2
6,45
5,3
Tiêu thụ 101,86 103,2 104,30
Sau niên vụ cà phê 97/98 bội thu,KNXK đạt khoảng 600 tr USD,thì niên vụ 98/99 lại
chịu nhều biến đọng.Sản lượng cà phê quả năm nay giảm không nhiều,nhưng sản lượng cà
phê hạt đạt thấp 394.000 tấn cà phê nhân,bằng 90-98% so vụ trước.Chất lượng cà phê
không được cải thiện: cỡ hạt nhỏ, tỉ lệ hạt đen,vỡ nhiều do thời tiết khô hạn,ở giữa năm rồi
mưa kéo dài cuối năm 98,mưa cuối vụ ở Tây Nguyên gây ảnh hưởng đến quá trình chăm
sóc,thu hoạch,bảo quản,phơi sây.Trong khi đó cà phê thế giới lại được mùa lớn ước đạt
106,8tr bao(1 bao=60kg) tăng khoảng 9,1tr bao so vụ trước,riêng Brazin đạt trên 3tr
bao.Mặt khác nhu cầu tiêu thụ càphê trên thế giới có phần giảm sút do khủng hoảng tài
chính khu vực
Tình hình đó làm giá càphê giảm nhanh chóng ở mức 1305USD/tấn,giảm khảng
250USD/tấn so với cùng kì năm ngoái,giảm 200USd/tânso với đầu năm nay.Giá cà phê
Rôbusta loạI 2 có 5% hạt đen vỡ đã xuống ở mức 1280-1290USD/tấn,giảm 18% so với
tháng 1 năm 99(1567USD/tấn).Sáu tháng đầu năm 99,khó khăn đang chồng chất thì các
DNXK cà phê lại phải chịu thêm giá cước vận chuyển tăng.Từ ngày 1/4/99 giá cước tăng
thêm 150USD đi các nước Châu Âu và 750USD đi các nước Băc Mỹ trên mỗi container
20 feet.Năm 1998 Việt Nam xuất khẩu cà phê vào 36 thị trường nước ngoài,nhưng riêng 4
tháng đầu năm 99,12 thị trường giảm tỉ trọng nhâp khẩu.Các thị trường có tỉ trọng giảm
mạnh đáng lưu ý là Mỹ giảm 9,5% Thái Lan giảm 2,5%, Pháp – 1,6%, Iran năm 98 nhập
khẩu 2% thì bốn tháng đầu năm chưa nhập nhưng cũng có một số thị trường tăng tỉ trọng
nhập khẩu cà phê Việt Nam. Trong 4 tháng đầu năm 99 Thuỵ Sĩ tăng 5% Italia tăng 2,1%
so cùng kỳ.
Điều đáng quan tâm là năm nay do nắm được thông tin giá cả cho nên người trồng cà
phê đã không bán ồ ạt, khống chế số lượng nhằm giữ giá cà phê. Hiện nay lượng lưu kho
trong DN và trong dân còn khá lớn khỏng 65 đến 60000 tấn riêng các DN của
VINACOFFE còn năm nghìn tấn.
I.2 . Ngành giầy dép.
Ngành công nghiệp giầy dép của nhiều nước, nhất là các nước đang phất triển có vị trí rất
quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế đất nước, góp phần tạo ra
công ăn việc làm, tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngoại tệ qua
đẩy mạnh xuất khẩu. đối với Việt Nam ngành công nghiệp giầy dép cũng có tầm quan
trọng như vậy.
Sau khi Liên Xô và Đong Âu tan rã, toàn bộ chương trình hợp tác gia công mũ giầy với
các nước này cũng chấm dứt. Ngành Da giầy Việt Nam chuyển sang thời kỳ phấp triển
mới, tiếp nhận sự chuyển dịch sản xuất các sản phẩm giầy dép từ các nước trong khu vực
để xuất khẩu nhằm khai thác các lợi thế của Việt Nam: Lực lượng lao đông dồi dào, trẻ,
khoẻ, tiếp thu nhanh, tiền công lao động thấp, chưa bị các nước nhập khẩu giầy dếp khống
chế bằng hạng ngạch và được hưởng ưu đãi thuế quan (GSP) nếu đáp ứng đủ tiêu chuển
mà họ yêu cầu. Da giầy là một ngành thu hút nhiều lao động, làm động lực cho một số
ngành như chăn nuôi, sản xuất cao su, nhựa,hoá chất… góp phần khôi phục một số làng
nghề truyền thống đáp ứng một phần nhu cầu hàng hoá nội địa.
Từ năm 89 đến nay sản lượng giầy dép thế giới liên tục biến động khu vực sản xuất
giầy dép lớn nhất là Châu Á (chiếm 2/3 tổng sản lượng thế giới) tiếp theo là Châu Âu và
Châu Mỹ. Theo đánh giá của các chuyên gia thì các năm tới các nước Châu á và viễn
Đông sẽ chiếm 75% sản lương toàn thế giới ( khoảng 10 tỷ đôi ) trong đó Việt Nam cũng
sẽ là một trong các nước có tiềm năng phất triển ngành này.
Hện nay theo thống kê mới nhất cả nước có khoảng 150 Dn sản xuất giầy dép và các sản
phẩm bằng da hoặc giả da với tổng sản lượng khoảng 259 tr USD giầy dép các loại và trên
5000 tán sản phẩm khác mỗi năm. trong đó lượng hàng xuất khẩu tăng bình quân tăng
30%/ năm. giá trị xuất khẩu ngành da giầy năm 1998 đạt 1000822000 USD. Tính đến
20/11/99 đạt 1207000000USD và dự kiến năm 1999 đạt 1250000000 USD, sản lượng đạt
220- 225 tr USD.
ở Việt Nam hiện nay, nổi bật là công ty Da giầy Hải Phòng có 9 cơ sở trực thuộc và góp
vốn thành lập một công ty liên doanh với nước ngoài. Năm 1998 dạt giá trị sản lượng đạt
638.283 tr đồng chiếm khoảng 50% sản lượng toàn nhành, số lao động 9.279 người chiếm
35% tổng số lao động toàn ngành. Công ty giầy Thăng Long năm 1998 doanh thu đạt trên
90 tỷ đồng trong đó xuất khẩu đạt trên 83 tỷ, nhà may giầy. Nhà may giầyBarotex 6 tháng
đầu năm 99 đạt 19,5 tỷ đồng trong đó doanh thu xuất khẩu trực tiếp 19,181 tỷ đồng.
Về năng lực sản xuất của ngành da giầy Việt Nam (theo vốn đầu tư thực hiện- 1998).
Hiện nay năng lực sản xuất toàn ngành 300 tr đoi giầy dép các loại, thu hút 300.000 lao
động đạt tốc độ tăng trưởng KNXK hàng năm trên 50%. Riêng năm 1998 do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Ngành giầy dép chỉ đạt tốc độ tăng trưởng
khoảng 3,8% so với năm 1997 (tức là một tỷ USD) dự kín năm 99 KNXK đạt 1.250 tr
USD, tăng 25% so với năm 1998.
Biểu II.8 Năng lực sản xuất ngành da giầy
Chủng loai
sản phẩm
Tổng số
(x1000)
Phân bổ theo dạng DN
Quốc doanh ngoài QD có vốn
ĐTNN
Giầy dép các loại(đôi)
Túi cặp các loại(đôi)
Da thuộc các loại(sqf)
301.110
26.570
17.000
125.650 70.550 140.910
9.000 2.770 14.800
8.500 7500 1.000
Hiện nay EU là thị trường nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm giầy dép của Việt Nam
chiếm khoảng 80% KNXK của Việt Nam. Trị giá XK giầy dép sang EU năm 1996 tăng
gấp 30 lần so với năm 1992, từ 1993 đến 1997 tăng bình quân 40-50% một năm. Việt
Nam là một trong 5 nướs có số lượng giầy dép tiêu thụ nhiều nhất tại EU do giá rẻ, chât
lượng và mẫu mốt chấp nhận được và việt nam được hưởng ưu đãi từ thị trường này, chưa
bị quản lý băng hạng ngạch, được hưởng ưu đãi thuế quan bằng70% mức thuế bình
thường nếu bảo đảm tiêu chuẩn mà họ yêu cầu kim ngạch XK giầy dép của Việt Nam vào
Nhật Bản chỉ chiếm 7-8% kim ngạch nhưng chúng ta có khả năng tăng KNXK vào thi
trường này trong những năm sắp tới. Việt Nam XK sang Mỹ năm 1998 trên 110 tr USD
(chiếm 10%KNXK toàn ngành) nếu có hiệp định thương mại và quy chế tối huệ quốc
MFN và các DN Việt Nam đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường và có khả năng cạnh
tranh thì chúng ta có thể xuất khẩu giầy dép sang Mỹ với khả năng không thua kém vào
EU, thậm chí còn cao hơn.
Ngoài ra các khu vực thị trường thế giới như: Trung Quốc, Bắc Âu, Úc, Liên Xô cũ…
và cả thị trường nội địa với trên 80 tr dân trong những năm tới cũng sẽ là thị trường đáng
quan tâm và có thể phát triển, từ những dự đoán về tình hình sản xuất và nhu cầu thị
trường tiêu thụ giầy dép trên thế giới, căn cứ vào tiềm năng và lợi thế của Việt Nam,
ngành giầy dép Việt Nam trong những năm tới có thể đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm
khoảng 20% về KN XK.
II. THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA.
Thị trường trong nước số cung ngày càng vượt quá số cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt:
Số cung: thêm nhiều DN ra nhập thị trường, năng lực sản xuất của các DN ngày càng ra
tăng- sự hiện diện của các DN có vốn nước ngoài – hàng ngoại nhập đặc biệt là hàng nhập
lậu không ngừng tấn công vào thị trường nội địa.
Số cầu: gia tăng chậm hơn so với số cung – sức mua có khả năng thanh toán còn hạn chế
– nhu cầu ngày càng đa dạng và ngày càng trở nên khó tính.
Nền kinh tế nước ta đang ở trong giai đoạn cuối cùng của thế kỷ XX, sau nhiều năm
hoạt động mức tăng trưởng cao thì hiện nay tốc độ tăng trưởng đã chậm lại và giảm sút. 6
tháng đầu năm 1999 GDP tăng 4,3% mức thấp nhất so cùng kỳ 3 năm trước, cụ thể:
Biểu II.9 Mức tăng trưởng GDP
6th/96 6th/97 6th/98 6th/99
GDP
Trong đó
Sản xuất CN
Sản xuất NN
+9,3
+13,2
+4,8
+9,1
+13,7
+2,0
+6,7
+12,6
+2,0
+4,3
+10,4
Chỉ số giá tám tháng đầu năm tăng 0,8% so tháng 12/98 là mức thấp nhất so cùng kỳ 5
năm trở lại đây. Chỉ số giá giảm liên tục trong 6 tháng liền từ tháng 3dến tháng 8.
Biểu II.10 Chỉ số giá tiêu dùng 8 tháng đầu năm 1999
Tháng T3 T4 T5 T6 T7 T8
Chỉ số giá giảm 0,7% 0,6% 0,4% 0,3% 0,4% 0,5%
Tổng cầu xã hội giảm sút, lượng lượng hàng tồn kho của một số ngành như sau (tính đến
tháng 6 năm 1999)
Biểu II.11 Lượng tồn kho tính đến tháng 6/1999
Ngành Lượng tồn kho (triệu tấn) Trị giá(tỷ đồng)
Than
Ximăng
Đường
Thép
Cà phê
Giấy
Cao su
Dệt may
3,2
1,32
0,33
0,16
0,08
0,022
0,018
900
200
1700
640
160
220
150
100
Tỷ lệ lao động không có việc làm tăng lên. Mỗi năm nước ta có từ 1,8 đến 2,0tr người
đến tuổi lao động cần phải được thu hút vào khu vực sản xuất. Tuy nhiên do kinh tế 6
tháng đầu năm gặp khó khăn nên số người đến tuổi lao động không được thu hút vào khu
vực sản xuất, đồng thời có hiện tượng “chảy ngược “lao động từ một số ngành sản xuất
gặp khó khăn ra thị trường lao động tự do, làm tăng áp lực lao động dư thừa, tạo sức ép
giảm giá trị ngày công.
Tốm lại, giá cả thị trường liên tục giảm xảy ra đồng thời với sự suy giảm tốc độ tăng
trưởng GDP tăng tỷ lệ lao động khong có việc làm là những đặc trưng cơ bản tạo ra hiện
tượng thiểu phát của nền kinh tế trong 7 tháng đầu năm 1999.
Tuy nhiên cho đến nay các giải pháp kích cầu của nhà nước đã bắt đầu phát huy tác
dụng, chỉ số giá tiêu dùng bắt đầu nhích lên.Tháng 11 giá tiêu dùng tăng 0,4% so với
tháng10.Trong 11 nhóm hàng hoá dịch vụ có 5 nhóm gia tăng (lương thực,thực phẩm,thiết
bị đồ dùng gia đình văn hoá thể thao giải trí ) đáng chú ý là lương thực tăng cao nhất
1,7%.theo dự đoán tháng 12 chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng thậm chí còn cao hơn
tháng 11
. Ngành thép:Trong thông báo ngày 12/4/1995 về chiến lược phát triển đến 2010.Bộ
chính trị đã nhấn mạnh “thép là vật liệu chủ yếu của ngành công nghiệp,có vai trò quyết
định tới sự nghiệp CNH,HĐH đất nước…phát triển nhanh ngành thép là một yêu cầu
khách quan,cấp bách và có ý nghĩa chiến lược’’.Tuy nhiên thực trạng và triển vọng của
ngành thép nước ta còn rất nhiều hạn chế và khó khăn.
Từ năm 1998 là năm thứ 3 tổng công ty thép Việt Nam (có thể coi là đại diện cho ngành
thép) hoạt động theo mô hình tổng công ty 91 và cũng là năm gặp nhiều khó khăn gay go
do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nhưng năm 1998 DN đã vươn lên hoàn
thành vượt mức mục tiêu kế hoạch đã đề ra: Năm 98 sản lượng thép cân tăng 13,4%,tổng
doanh thu tăng 8,7% và nộp ngân sách tăng 4%so với năm 97.Lượng thép toàn ngành bán
ra năm 1998 đạt 1.118.200 tấn, tăng 13,4%so với 1997.Đáp ứng được 80% nhu cầu thép
trong nước và đạc biệt giữ vững ổn địng giá thép thị trường.
Từ năm 1990 đến nay, tổng công ty thép Việt Nam đã đầu tư 650 tỷ đồng đưa sản
lượng tăng lên đén 465.000 tấn/năm vào năm 1999 theo ước tính tổng công ty thép Việt
Nam tính đến tháng 10/1999 lượng thép tồn kho tại các nhà máy thép tồn kho trong lưu
thông trên 200.000tấn.Trong đó thép ống là 4.000 tấn, gấp đôi lúc bình thường
Theo ông Phạm Chí Cường -tổng giám đốc tổng công ty thép Việt Nam-hiện nay các
nhà máy thép trong cả nước (kể cả liên doanh nước ngoài ) mới chỉ huy động được 65-
75% công suất thiết kế
Năng lực sản xuất mỗi năm của ba công ty thuộc VSC là 470.000 tấn thép thô, 700.000
tán thép cán, 60.000 tán ống hàn và 100.000 tấn tôn mạ các loại. Do khó khăn nguyên liệu,
thị trường và chưa có khả năng XK, dự kiến cả năm 1999 chỉ sản xuất và tiêu thụ 1,3tr tấn
Dựa trên các dự báo của viện chiến lược phát triển căn cứ mức tăng tiêu thụ thép từ
1990 đến nay, kết quả khảo sát của JICA 1997, kinh nghiệm của các nước ASEAN. Tổng
công ty thép đưa ra con số dự báo như sau: tổng nhu cầu tiêu thụ thép năm 2000: 2,3tr
tấn;2005: 3,7 tr tấn; 2010:5,7 tr tấn, tỷ lệ sản phâm dài/ dẹt tương ướng là 61/35; 55/35;
50/50. Tốc độ tăng sản lượng thép bình quân 1998- 2000 là 11%/1năm; 2001-2005 là
10%/năm và 2006- 2010 khoảng 10%/năm.
Đến năm 2010 toàn ngành thép có năng lực sản xuất gồm 2 tr tấn thép thô, 4,8 tr tấn
thép cán nóng, 0,5 tr tấn thép cán nguội, 0,8 tr tấn sản phẩm gia công sau cán. Lúc đó
ngành thép đủ đáp ưng 75% du cầu sản phẩm thép cán. Công ty gang thép Thái Nguyên
với năng lực sản xuất 28 vạn tấn thép các loại/năm năm 1998 đã bươn chải khó khăn trong
kinh tế thị trường, do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế khu vực nên kết quả sản
xuất kinh doanh của công ty gang thép Thái Nguyên sút kém trầm trọng. Một số phân
xưởng phải ngừng sản xuất, sản lượng thép cán thành phẩm chỉ đạt 91,77% và giá trị sản
xuất công nghiệp chỉ đạt 92,45% so với năm 97 mà lại bị tồn kho tới 2 vạn tấn thép cán,
5000 tấn gang, sản xuất kinh doanh lỗ lớn, tổng nợ lên đến 675 ty đồng gấp hơn 2 lần vốn
điều lệ của công ty dẫn đến khả năng mất cân đối thu chi.
Trong khi thị trường thép Việt Nam cung đã vượt cầu, hiện nay ứ đọng trong lưu thông
hơn 200.000 tấn nhưng công ty tư nhân nam vang, một công ty sản xuất và kinh doanh các
sản phẩm thép đã đưa doanh thu tăng 10 lần trong 4 năm ngắn ngủi từ 1,5 tỷ đồng năm
1995 (năm thành lập) lên 150 tỷ đồng (hiện nay). Làm nghĩa vụ thuế cũng tăng 10 lần từ
300 tr đồng / năm lên 3000 tr đồng/năm. công ty thép miền nam 9 tháng đầu năm 99 tình
hình kinh doanh khó khăn nhưng lượng tiêu thụ của công ty vẫn tăng 5,78% so với 9
tháng cùng kỳ năm ngoái đạt 208.000 tấn, sản lượng luyện phôi thép từ phế liệu 164.000
tấn. Đặc biệt công ty thép việt nam là DNVN duy nhất có thép xây dựng xuất khẩu (sang
Lào và Campuchia) trong 9 tháng đầu năm 99 công ty xuất khẩu 1.086 tấn thép các loại
đạt giá trị khoảng 300.000 USD, tuy nhiên do thị trường mới nên công ty xuất khẩu sang
Campuchia với giá rẻ hơn giá nội địa 300 USD/tấn. Ngoài ra công ty còn xuất khẩu sang
Australia và các nước Đông Nam Á khác.
III- NGUYÊN NHÂN
III.1. Nguyên nhân về phía nhà nước.
III.1.1Cơ chế quản lý của nhà nước chưa chặt chẽ thiếu đồng bộ
Ngành thép: ở thị trường 17 tỉnh phía bắc và lào tiêu thụ 288.500 tấn thép/năm, trong
đó sản phẩm thép tư nhân chiếm lĩnh toàn bộ thị phần (trong đó thép đa hội chiếm tỷ trọng
lớn). Đa Hội có 530 hộ làm công nghiệp thép, cung cấp 190.000 tấn thép một năm theo
Tổng công ty thép Việt Nam(VSC )các công ty tư nhân không chịu ràng buộc về an toàn
lao động, bảo hiểm xã hội, không phải chịu chi phí kiểm tra chất lượng nên giá thành giảm
nhiều so với giá thành sản phẩm của doanh nghiệp lớn (trong khi 1kg thép phi 6 của
DNNN bán 6500đồng/kg thì thép Đa Hội là 2200 đ/kg). Quý III/99, VSC khảo sát tình
hình sản xuất ở 30 cơ sở thuộc DNNN và tư nhân ở 12 tỉnh thành phố phía bắc cho thấy.
Ngoài DN cơ khí nhà nước có đăng kí chất lượng với chi cục tổng cục đo lường chất
lượng địa phương thì lực lượng thứ 3 là công ty trách nhiệm hữu hạn và tư nhân được thả
nổi không thuộc quyền kiểm soát của cơ quan nào. theo VSC hàng năm khu vực này đưa
288.000 tấn thép bán phá giá trên thị trường trong đó công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH) sản xuất không đáng kể 30.500 tấn thép chữ U/năm. Nhà máy cơ khí sản xuất
61.000 tấn, chủ yếu là công ty tư nhân sản xuất 200.000 tấn chiếm 69,44%. Tại các tỉnh
thanh hoá, nghệ an,ninh bình, thái bình dưới danh nghĩa thép thái nguyên, hàng ngàn tấn
thép đa hội được tiêu thụ qua hệ thống cửa hàng tư nhân vốn là khách hàng thường xuyên
của công ty gang thép thái nguyên. Với lợi thế giá rẻ,linh hoạt trong cung ứng, sản phẩm
thép tư nhân là nhiều cơ sở cơ khí phải lao đao hoặc phải đóng cửa sản xuất. Hỗu hết cơ
sở sản xuất tư nhân sử dụng máy cán thép thủ công, các loại phôi nhập khẩu, sắt thép phế
liệu, phôi tận dụng được nung luyện bằng các lò trung tần, không có các thiết bị khử tạp
sử dụng trạng thái đúc gia công áp lực, khuôn nhỏ… nên chất llượng không đảm bảo thép
bị rỗ chưa dùng đã gỉ, độ cứng kém nên độ an toàn bị đe doạ. Trong khi các của hang tư
nhân kết hợp “kinh doanh kiểu mập mờ con đen” lừa người tiêu dùng (ví dụ: thép phi 16
họ chỉ sản xuất phi 13,14,15 mà bằng mắt thường người mua khó phân biệt giữa ba loại
phi này). nhà nước cần quản lý tới các gia đình làm “công nghiệp thép” hướng sử dụng và
kiểm soát họ sản xuất đúng quy trình đảm bảo chất lượng giữ vệ sinh môi trường, có nghĩa
vụ thuế đối với nhà nước.
III.1.2 Quy hoạch, kế hoạch và đầu tư của nhà nước mất cân đối.
Khi mà nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý và mỏ cửa hội nhập
thị trường trong nước và thế giới có diễn biến phức tạp, thì việc định hướng, dự báo, quy
hoạch, kế hoạch, xác định chính sách, đầu tư phải tính đến một cách kỹ lưỡng, khoa học,
những quan hệ cân đối lớn như cung _ cầu, xuất nhập, cán cân thanh toán.. để tránh phải
thay đổi lớn hoặc phà vỡ quy hoạch, kế hoạch. Kéo theo nhiều sự thay đổi khác.
Việc xây dựng các nhà máy đường đã tiến hành không đồng bộ gắn với vùng nhiên liệu.
ở phía Nam ngoài 4 nhà máy ép của tổng công ty mía đường, 2 nhà máy của các địa
phương và 13 nhà máy 100% vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động với tổng công suất
20.250 tấn /ngày. hiện có thêm 8 nhà máy đưa tổng số lên 25 nhà máy với tổng công suất
367500 tấn/ngày tiêu thụ 5,5 tấn mía cây. Trữ lượng mía dùng để ăn tươi, làm giống là
giành cho khu vực chế biến đường thủ công, sản lượng trên khó được đáp ứng đủ. Việc
đầu tư xây dựng tràn lan các nhà máy đường, mía không có quy hoạch cho các vùng
nguyên liệu nên ngành mía đường có sự điều chế.
III.1.3 Nhà nước chưa thông tin kịp thời đầy đủ, cụ thể, về thị trường nước ngoài cho
DN.
Sáu tháng đầu năm 99 ngành than xuất khẩu có tăng, đạt 1,52 triệu tấn, tăng 16%
nhưng do giá than giảm khoảng 13% so với giá bán bình quân năm 1998 nên KNXK đạt
45,06 tr USD chỉ tăng 15%. đây là một ngịch lý và là mối quan tâm của nhiều bộ, ngành
hữu quan. Nguyên nhân có nhiều nhưng tình trạng thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu
của các DN là đáng báo động hơn cả. các DN có hàng trong tay nhưng không biết xuất
khẩu sang thị trường nào họ không biết thị trường các nước cần hàng gì để xuất khẩu,
hoàn toàn thiếu thông tin về thị trường nước ngoài nhu cầu khách hàng, đối thủ cạnh
tranh, các quy định, tiêu chuẩn hàng hoá, luật phấp nước sở tại. Đây là nhữngyếu tố cơ
bản hết sức quan trọng giúp DN ra các quyết định cho chính xác: sản xuất hàng gì cho
xuất khẩu, sản xuất trên công nghệ nào theo tiêu chuẩn nào, xuất khẩu cho ai, số lượng
bao nhiêu và khi nào xuất.
Hiện nay, các DNXK hàng công nghiệp chỉ khai thác thông tin về thị trường nước ngoài
chủ yếu theo “kênh” gián tiếp là dựa vào Bộ Thương Mại, phòng Thương Mại và Công
Nghiệp Việt Nam, ban vật giá Chính Phủ, các phái đoàn ngoại giao của Việt Nam cung
cấp nhưng những thông tin đó mang tính chất tổng hợp, không đầy đủ nên không đáp ứng
đầy đủ những đòi hỏi của từng DN. Mặt khác việc thu thập thông tin về thị trường của DN
từ “kênh này” cũng không dễ dàng và thuận tiện do trở ngại của thủ tục hành chính đối với
DN có văn phòng đại diện hay trụ sở đóng tại thành phố lớn thì còn có điều kiện tiếp xúc
với nhiều nguồn thông tin khác nhau, nhưng đối với DN vừa và nhỏ và ở xa trung tâm lớn
thì việc thu thập thông tin cực kỳ khó khăn, nếu họ có thông tin thì cơ hội kinh doanh
cũng qua rồi. Còn “kênh” thông tin trực tiếp giữa DN và thị trường nước ngoài thì vượt xa
khả năng của DN do “tài chính eo hẹp”.
III.1.4 Do sự mất cân đối cơ cấu kinh tế giữa các khu vực, vùng trong cả nước.
Cơ cấu tăng trưởng giữa các khu vực của nền kinh tế không hợp lý làm cho thu nhập và
theo đó là nhu câu của một bộ phận dân cư lớn nhất nước ta (khu vực nông thôn chiếm
76,5% dân số cả nước) không tăng lên được. Theo số liệu của tổng cục thống kê, tương
quan thu nhập của một lao động nông nghiệp với một lao động cong nghiệp như sau: năm
1996 – 65,95%, năm 1997 – 62,91%, năm 1998 – 56,69% mặc dù tương quan già giữa sản
phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp trong những năm gần đây có lợi cho nông
nghiệp, tốc độ tăng trưởng của khu vực này thấp (đến cuối năm 1998 so với 1990 công
nghiệp tăng 2,7 lần trong khi nông nghiệp tăng 1,4 lần), sự suy giảm về thu nhập đẫn đến
sức mua ở khu vực nông thôn luôn duy trì ở mức thấp.
Tiền lương thực tế cúa cong nhân viên khu vực hành chính – sự nghiệp giảm do lạm phát.
Tiền lương danh nghĩa kể từ năm 1993 đến nay về cơ bản không thay đổi, trong khi tỷ lệ
lạm phát của 6 năm 1993 – 1999 gần 50%. Nhà nước mới bù trượt giá khoảng 20% ( năm
1995). Như vậy thu nhập thực tế của công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp hiện
nay chỉ còn 30% thu nhập danh nghĩa, ảnh hưởng đến sức mua của một bộ phận dân cư.
III.1.5 Sự phối hợp không đồng bộ của các cơ quản chức năng, hệ thống các văn bản
của cơ quan nhà nước bị chồng chéo.
Tình hình sản xuất buôn bán hàng giả 6 tháng đầu năm 1999 có xu hướng ngày càng tăng.
Hàng giả phổ biến là sử dụng nhãn mác bao bì của hang thật nhái theo kiểu dáng của hàng
thật, cả hàng thật trong nước và ngoài nước hàng giả bao gồm hầu hết các chủng loại từ
mặt hàng đơn giản rẻ tiền như nước giải khát,bánh kựo, đá quý ...hàng giả trực tiếp gây
ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của con người và nguy hại hơn là làm cho uy tín của
nhà sản xuất kinh doanh,hàng không bán được tồn kho.Sáu tháng đàu năm 1999bột ngọt
AJINOMOTO giả chiếm 90%thị phàn.hàng rau câu của công ty đồ hộp Hạ Long bị nhái
nhãn mác có thời diểm lên tới 90% thị phần khu vực mièn Tay Nam Bộ.Trong khi tệ nạn
làm hàng giả ngày càng gia tăng thì việc phân công, phân cấp quản lý của các cơ quan
quản lý Nhà Nước về chất lượng hàng hoá còn thiếu nhất quán, thhậm chí còn phủ định
lẫn nhau.Điều 6 Nghị định 140HĐBT ban hành ngày 25/4/1991 quy định 7 cơ quan có
thẩm quyền kiếm tra, xử lý việc sản xuât buôn bán hàng giả: Hệ thống cơ quan quản lý thị
trường thuọc Bộ Thương Mại ;cơ quan Tiêu chuẩn đo lương chất lượng sở hữu công
nghiệp,y tế,Thanh tra nhà nước, Công an hải quan.khi có nhiều người cùng chịu trách
nhiệm làm một việc thì dễ dẫn đến mạnh ai nấy làm,dễ làm khó bỏ chồng chéo ‘lấn sân”
nhau. Hiện nay, nhản hiệu sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường có nhiều văn bản
điều tiết.Bộ Thương Mại có quyết định 636/TMQLCL ngày 26/7/1996 ban hành “quy chế
nhãn sản phẩm đối vởi hàng hoá lưu thông trên thị trường”.Ba tháng sau, ngày27/2/1996
Bộ khoa học công nghệ và môi trường có quyết định 2576/QD-TDC cvề đăng ký chất
lượng hàng hoá … quy định về nhãn sản phẩm hàng hoá. Vậy cơ sở sản xuất, lực lượng
kiểm tra kiểm soát phải tuân theo văn bản nào. Trong xử lý vi phạm có tới bốn nghị định
92/CP và 93/CP ngày 27/11/93; 46/CP ngày6/8/96 và 57/CP ngày 31/5/97. Cùng điều
chỉnh xử lý đối với hành vi giả mạo nhãn sản phẩm theo tiết b, khoản 3, điều 15 nghị định
57/CP bị phạt từ 1—5 tr đồng. Nhưng đi vào cụ thể từng loại hàng hoá thì số tiền phạt cao
nhất còn thấp hơn mức trần thấp nhất ở nghị định trên (VD:giả nhãn thuốc thú y đang lưu
hành đã được đăng ký phạt 100.000-500.000đ theo tiết c, khoản 1 điều 5 nghị định 93/CP;
giả mạo nhãn thuốc bảo vệ thực vật phạt 100.000-500.000đ theo tiết c, khoản 3 điều 5
nghị định 92/CP..). áp dụng văn bản nào trong 4 nghị định trên cho một hành vi vi phạm là
điều băn khoăn của những người thực thi nhiệm vụ.
Sự chồng chéo mà người sản xuất kinh doanh rất e ngại là chòng chéo trong hoạt động
thanh tra kiểm tra hàng giả. Mặc dù điều 7 nghị định 140/HDBT nêu rất rõ ràng, một trong
7 cơ quan có chức năng chống hàng giả khi nhận được nguồn tin tố cáo thì phải phối hợp
với cơ quan khác tiến hành kiểm tra xử lý.. song trên thực tế sự phối hợp ấy chẳng những
hãn hữu mà nhiều khi còn hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Tháng 3/1997 đội quản lý thị
trường quận Bình Thạnh TP Hồ Chí Minh đã kiểm tra phát hiện và lập biên bản đối với
chi nhánh công ty đồ hộp Hạ Long tại TP Hồ Chí Minh vì vi phạm quy chế nhãn sản
phẩm,cho công nhân bóc nhãn cũ có thời gian sử dung đến 1996, thay nhãn mới có thời
hạn sử dụng đến năm 2000. Sau đó chi cục thú yTP Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra, láy
mẫu đồ hộp để kiểm nghiệm.Tiếp đến Bộ Y tế, Bộ Thuỷ Sản, Bộ Khoa học Công nghệ và
Môi trường lại phối hợp kiểm tra và đưa ra kết quả trái nghược với Chi cục thú y.Ai cũng
nói mình có quyền, ngành thú y bảo đấy là sản phẩm động vật nên là đối tượng thanh tra
của mình, ngành Thuỷ Sản bảo là sản phẩm thuỷ sản, ngành y tế cho rằng đây thuộc chức
năng quản lý nhà nước về hàng thực phẩm, bộ KH-CN-MT bảo là thống nhất quản lý nhà
nước về chất lượng hàng hoá.. sự việc gây xôn xao dư luận và tốn không biết bao mực của
các nhà bào và cuối cùng đi đên kết luận là “ chi nhánh Đồ hộp Hạ Long không vi phạm.
III.1.6 Nhà nước khống chế quảng cáo khuyến mại.
Trong sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, quảng cáo là một công cụ hữu hiệu góp phần
TTSP của DN. Nhưng theo luật thuế thu nhập DN “chi phí quảng caó khuyến mại liên
quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ vàg các khoản chi phí khác
được khống chế tối đa không quá 7% tổng số chi phí”.
Việc khống chế quảng cáo khuyến mại chỉ ở mức 7% chi phí đã làm sản xuất kinh doanh
của ngành bia chững lại. Nếu như năm 1997 doanh thu của tổng công ty Rượi - bia- nước
giải khát đạt 2.385,574 tỷ đ nộp ngân sách 1.232,714 tỷ đ. Năm 1998 doanh thu đạt
2.529,594 tỷ đồng nộp ngân sách 1.295,151 tỷ đồng. Nhưng bắt đầu từ cuối năm 1998
ngành bia đã gặp rất nhiều khó khăn trong khâu TTSP. Lượng bia tồn kho của 2 công ty
bia Sài Gòn và bia Hà Nọi tính đến cuối tháng 5 năm 99 là khoảng 9 tr lít. Trong đó công
ty bia Sài Gòn tồn 8tr lít, bia Hà Nội tồn 1tr lít. Theo báo cáo của Tổng công ty, tính đến
tháng 6/1999, giá trị tổng sản lượng của tổng công ty ước đạt 1.055,876 tỷ đ bằng 93,5%
so với cùng kỳ năm 1998 và bằng 45,31% so với kế hoạch. Do sản phẩm tiêu thụ chậm thị
trường tiêu thụ khó khăn và ngày càng bị thu hẹp Tổng công ty đãc tăng cường công tác
khuyến mại để hỗ trợ khách hàng tiêu thụ sản phẩm. Nhưng chi phí cho quảng cáo khuyến
mại bị khống chế ở mức 7% giá thành. Với các ngành hàng sản xuất kinh doanh khác,
tổng chi phí chiếm tới 80-90% doanh thu thì 7% chi phí là con số không nhỏ nhưng ngành
bia thì do phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm tới 60-70% doanh thu ( bia hơi chịu thuế
TTĐB 50%, bia lon 65%, bia chai 75%), nên phần chi phí ngoài thuế thấp, 7% chi phí này
là không đáng kể. Dự kiến nhu cầu chi phí riêng cho khuyến mại để hỗ trợ khach hàng của
công ty bia Sài Gòn là 80 tỷ đ (khoảng 10% tổng chi phí) trong khi chi phí cho phép dùng
trong khuyến mại là 22 tỷ đ, số còn lại của7% được dùng cho các chi phí hội họp, tiếp
khách, quảng cáo. mặc dù rất nỗ lực giúp đỡ khách hàng nhưng do chi phí hạn hẹp, sự hỗ
trợ không được bao nhiêu trong khi các hãng bia nước ngoài không bị hạn chế về quảng
cáo, khuyến mại đã có đủ các biện pháp hỗ trợ cho khách hàng với những quà tặng phần
thưởng hấp dẫn.. khách hàng quen bắt đầu bỏ sản phẩm của tổng công ty để bán những
sản phẩm nước ngoài thu lợi nhuận cao.
III.2 Nguyên nhân từ phía DN.
III.2.1Công nghệ lạc hậu nên chất lượng hàng hoá, hiệu quả sản xuất, năng xuất thấp.
Ngành cà phê: chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào thu hoạch và công nghệ chế
biến, bảo quản sản phẩm. Thu hoạch quả chín tươi, chế biến kịp thời và đúng quy trình
công nghệ là yếu tố quan trọng giữ được phẩm chất, vốn có của hạt cà phê. Mặc dù trong
thời gian qua, cà phê Việt Nam được các nhà cung ứng Mỹ và Châu Âu đánh giá cao về
chất lượng cà phê xuất khẩu mới chỉ là bước đầu, còn chưa ổn định điển hình là số lượng
hạt lỗi, vỡ, đen còn khà lớn làm cho chất lượng nước uống bị ảnh hưởng. Hiên nay Việt
Nam đang sử dụng hai phương pháp chế biến: phương pháp chế biến kho và phương pháp
chế biến ướt nên mặc dù ngành cà phê đã nỗ lực đầu tư vaò thiết bị chế biến để hạn chế tối
đa sự mất cân đối giữa sản lương thu hoạch và khả năng chế biến nhưng nhìn lại hệ thống
thiết bị hiện có từ máy móc có công suất lớn đến bán cơ khí và thủ công phần lớn còn lạc
hậu, chắp vá, không đồng bộ, chất lượng kém. Trên thực tế trừ một số công ty, nông
trường lớn là có sân phơi, còn phần lớn nông dân phơi trên đất, khá lắm là phơi trên bạt.
phơi gặp mưa cũng không thềm chạy, họ không biết “mùi đất” thấm vào hạt cà phê vị chát
là do thu hái cả trái xanh, có nơi cà phê xanh chiếm 15-20% lượng thu hoạch trong khi sản
phẩmcà phê của hội nông đân chiếm 85% sản lượng cả nước.
III.2.2trình độ quản lý yếu kém, lạc hậu, chất lượng lao động thấp.
Theo nghiên cứu tổ chức BFRI về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam
đứng thứ 48/59 Quốc gia được kiểm sát. lao động Việt Nam đạt 32điểm/100, thuộc vào
nhóm yếu kém trong khi Singapore và các quốc gia được kiểm sát đạt 84 điểm.
Biểu II.12 Bảng đánh giá chất lượng lao động một số nước.
Quốc gia Năng suất
Lao dộng
Trình độ
Lao động
Kỹ năng
Nghề nghiệp
Đánh giá
Chất lượng lđ
Singapore
Thuỵ sỹ
Nhật Bản
Bỉ
Mỹ
Việt Nam
85(1)
64(4)
68(3)
72(2)
20
83(3)
92(2)
97(1)
40
95(8)
100(1)
100(1)
100(1)
16
84(1)
75(1)
73(3)
73(3)
70(5)
32(48)
Ghi chú: số ngoài dấu ( )- số điểm trên thang 100.
số trong dấu ( )- thứ hạng về khả năng cạnh tranh
trên 59 Quốc gia được kiểm sát.
Qua đó ta thấy chất lượng lao động của Việt Nam quá kém dẫn đến mất khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế. Về trình độ quản lý king tế, sản xuất kinh doanh tuy đã được tăng
lên một bước thaeo quy chế mới, song nói chung còn yếu kém tư duy và hành dộng chưa
bắt kịp với tốc độ thay đổi của tình hình đâts nước nhiều mặt quản lý nhất là quản lý tài
chính còn lỏng lẻo, sơ hở gây lãng phí và thất thoát, có những cơ hội có thể phát triển lại
rụt rè, có những lúc mạnh dạn đầu tư lại không gặp vận may do đánh giá tình hình biến
động trên thị trường không chính xác, đôi lúc chưa quán triệt sâu sắc mục tiêu hàng đầu
của sản xuất kinh doanh là hiệu quả kinh doanh ( Công ty Gang Thép Thái Nguyên năm
1998, sản lượng thép cán chỉ đạt 91,77% và giá trị sản xuất công nghiệp chỉ đạt 92,45% so
1997, mà lại bị tồn kho 2 vạn tán thép cán,5000 tấn gang, sản xuất kinh doanh lỗ lớn, tổng
nợ lên đến 675tỷ, gấp 2 lần vốn điều lệ của công ty
III.2.3 DN chưa xây dựng chiến lược kinh doanh(CLKD)
Hiện nay, ở hầu hết các DN chưa xây dựng cho mình một CLKD, mà làm ăn theo từng “
thương vụ” kiểu làm ăn “chụp giựt”. Phải chăng tư tương “ mì ăn liền này” cần phải bổ
sung tư tương CLKD tính đến con đường làm ăn lâu dài.Cái lối làm ăn dựa vào các “lợi
thế” nhất thời, các thủ thuật “mánh vặt” khai thác kẽ hở của pháp luật, của cô quan Nhà
nước ..cần phải được thay thế bằng cung cách kinh doanh chân chính, có “ bài bản”và hiện
đại. Điều này một phần do việc nghiên cứu, hướng dẫn, triển khai thực hiện kế hoạch
chiến lược trong hoạt động kinh doanh của các DN chưa có được sự hỗ trợ tích cực từ
phía Nhà nước và các cơ quan nghiên cứu. Nền kinh tếViệt Nam chưa hội đủ các yếu tố,
các điều kiện cần thiết để các DN có thể xây dựng và thực hiện quản lý theo chiến lược.
Việc ban hành các chính sách quản lý vĩ mô chưa ổn định và chưa đáp ứng kịp thời sự
chuyển biến của nền kinh tế -xã hội mà nhất là trong lĩnh vực kinh doanh XNK. Nhưng
nhuyên nhân chủ quan là do sự nhận thức lý luận và thực tiễn về vai trò của công tác Kế
hoạch hoá và quản lý chiến lược trong cơ chế thị trường của các DN chưa được nhất quán,
nên việc xây dựng và thực hiện CLKD còn là một công việc khá mới mẻ đối vối các DN,
điều này làm hạn chế việc sử dụng những phương pháp công cụ xây dựng CLKD mang
tính khoa học và làm cho quá trình xây dựng CLKD của các DN chưa tuân theo một quy
trình hợp lý
III.2.4 Quảng cáo chưa được chú trọng, nhiều DNNN còn có quan niệm sai lầm về
quảng cáo
Hiện nay, đa số các DN Việt Nam chỉ dành một số vốn rất hạn hẹp cho quảng cáo (một
phần do quy định của Nhà nước: chi phí cho quảng cáo không quá 7% tốngố chi phí –theo
luật thuế thu nhập DN) vá DN chưa hiểu biết cách sử dụng ngân sách cho quảng cáo. Theo
thống kê của IAA (Hiệp hội quảng cáo Quốc tế ) đưa ra trong hội thảo sáng ngày 24/11/99
tại TP Hồ Chí Minh thì doanh số quảng cáo ở Việt Nam năm 1998là 110 tr USD. Bình
quân 1,4USD / người trong khi ở Đài Loan là 10,6 USD/ người, ở Châu mĩ là 6-7 USD/
người. Hiện nay, trên các mặt báo chúng ta dễ dàng thấy tràn ngạp kiểu quảng cáo giới
thiệu tên trụ sở công ty, lĩnh vực hoạt động và ảnh giám giám đốc.. một kiểu quảng cáo
đơn điệu kém hiệu quảvà người đọc thường quyên ngay sau khi rời mắt khỏi trang quảng
cáo bởi vì mục tiêu của quảng cáo là để khách hàng biết đến các thông tin về sản phẩm,
dịch vụ là chính:chất lượng bao bì, thông số kỹ thuật, công dụng sản phẩm..từ đó có quyết
định mua hàng ?Vậy thì sản phẩm ở đây là gì ? là ông giám đốc hay là những ngô nhà
cao tầng không có một điểm gì nổi bật, ấn tượng. Còn quảng cáo trên ti vi của các công ty
Việt Nam thì sao? Sau một cơn sốt “Phim thương mại” mà đi cùng với nó là điểm quảng
cáo của các “ngôi sao” và “người đẹp” không biết họ định giới thiệu sản phẩm là các
“ngôi sao” “người đẹp” hay là sản phẩm vì người xem đã bị cuốn vào “ngôi sao”và
“người đẹp mất rồi”. Hiện nay công ty Việt Nam đã nhận thức được kiểu quảng cáo không
hiệu quả đó thì vẫn rơi vào tình trạng quảng cáo dài,không ấn tượng, không có tính sáng
tạo,thông điệp quảng cáo thì ghi hết huy chương này đến huy chương khácmà không đề
cập đến “cái cần bán”và quảng cáo được xem như là một phương tiện để khoe trương.
Các DN không thể đổ lỗi cho khách hàng là không hiểu được thông điệp quảng cáo bởi
một chương trình quảng cáo hấp dẫn gợi được trí tò mò,khám phá của khách hàng của
DNVN quá hiếm hoi.
III.2.5Thiếu thông tin thị trường đặc biệt là thị trường XK và DNVN chưa có kinh
nghiệm kinh doanh trên trường Quốc tế.
Trước đây khi nghị định 33/CP của Chính Phủ ngày 19/4/1994 về quản lý Nhà nước
đối với hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) còn hiệu lực, đa số các DN thường phàn nàn
rằng có quá nhiều thủ tục hành chính, những điều kiện gây khó khăn, hạn chế khả năng
kinh doanh XNK của DN. Nhưng đến khi Nghị định 57/NĐ-CP của Chính Phủ ra đời
ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động XNK đã tháo gỡ
rất nhiều khó khăn taọ điều kiện thông thoáng về thủ tục pháp lý cho các DN chủ động
trong kinh doanh XNK nhưng đến cuôí năm 1998 theo ông Đỗ Xuân Thuỷ - Giám đốc
công ty XNK SIMEX- cho biết: có nhiều mặt hàng xuất khẩu vẫn không tăng, nhiều DN
có hàng trong tay nhưng không biết XK sang thị trường nào. các DN hoàn toàn thiếu
thông tin về thị trường, đối thủ cạnh tranh, tập quán, sở thích, thị hiếu, thông lệ buôn bán ở
nước sở tại. Chính vì sự eo hẹp về tài chính mà không thể lúc nào DN cũng cử cán bộ đi
khảo sát và đặt văn phòng đại diện ở thi trường nước ngoài, thậm chí việc tham gia các
cuộc triển lãm, hội chợ tổ chức tại nước ngoài giới thiệu sản phẩm là điều xa xỉ với nhiều
DN còn khả năng DN tự nối mạng Internet nhằm khai thác thông tin cũng như quảng cáo
sản phẩm lại càng xa vời.
Hiện nay, ở nước ta có hãng kinh doanh thông tin REUTER LTD VIET NAM, nếu DN
truy nhập 5 giờ /tháng với giá 250 USD, truy nhập 10 giờ /tháng giá là 400 USD, còn 20
giờ /tháng là 600 USD phương tiện truy nhập đơn giản chỉ cần một chiếc máy tính, một
môden và một đường dây địên thoại. Mỗi lần truy nhập DN có thể thu thập rất nhiều thông
tin cập nhật hoặc bất kỳ một sự quan tâm về thị trường giá cả, mặt hàng nào đó. Tuy
nhiên hiện nay khách hàng của công ty chủ yếu là các công ty liên doanh và các công ty
100% vốn nước ngoài còn các DN Việt Nam thì rất hiếm. Chính vì sự thiếu thông tin thị
trường này mà ngành dệt may và giầy da tuy KNXK đạt trên 1tỷ USD nhưng chủ yếu là
làm gia công theo đơn đặt hàng của nước ngoài nên giá trị thực thu ngoại tệ mới chiếm
20% KNXK.
III.2.6 Thiếu vốn.
Vốn luôn là vấn đề nóng bỏng của các DNVN tình trạng thiếu vốn là vấn đề nan giải
của hầu hết các công ty Việt Nam vì thiếu vốn mà VINACAFE không thể duy trì tồn kho,
chờ giá cao để xuất khẩu. Theo VINACAFE, để VINACAFE xuất khẩu đươc 70.000 tấn
cà phê, cần tới trên 1000 tỷ đồng vốn. Trong khi đó vốn của VINACAFE chỉ có hơn 10 tỷ
đồng còn lại phải vay ngân hàng 150 tỷ đồng, quay vòng 9 tháng,lãi xuất phải trả hơn 1,1
tỷ/tháng. Thiếu vốn, lãi xuất trả ngân hàng lớn đã buộc VINACAFE không thể tăng mua
cà phê vào mùa thu hoạch rộ, không thể gom hàng chờ giá cao mới xuất khẩu. Ngược lại
phải nhanh chóng bán hàng ra, quay vòng vốn nhanh, nên thua thiệt trong xuất khẩu là
điều khó tránh khỏi đây cũng là nguyên nhân chủ yếu làm gía cà phê trong nước xuống
thấp trong mùa thu hoạch gây thua thiệt cho người trồng. Theo một quan chức của hiệp
hội cà phê-ca cao Việt Nam (VICOFA) đã tính Việt Nam có thể thu hoạch thêm 40 tr
USD trong xuất khẩu hơn 404.000 tấn cà phê 98/99. Nếu bán được giá như Inđônêxia (90
USD/tấn) cũng do thiếu vốn mà cho đến nay Việt Nam chưa thể tham gia hiệp hội các
nước sản xuất cà phê (ACPC). Vì Việt Nam khó có thể thực hiện được nguyên tắc cơ bản
của (ACPC) là:khi giá cà phê thế giới xuống thấp ACPC sẽ hạn chế xuất khẩu, tăng dự trữ
chờ tăng giá đảm bảo quyền lợi chung cho cả người sản xuất và xuất khẩu.
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TIÊU THỤ SẢN PHẨM.
I.ĐỊNH HƯỚNG CHUNG
I.1 Thị trường nội địa
Tập chung tổ chức tốt thị trường và các kênh lưu thông hợp lý, hướng mọi hoạt động
thương mại theo Luật Thương Mại phối hợp giữa quản lý ngành và lãnh thổ thông qua hệ
thống chính sách đồng bộ của nhà nước để khuyến khích sản xuất và tiêu thụ hàng cho
dân. Có chính sách, cơ chế mạnh dạn để bảo hộ có điều kiện cho sản xuất trong nước. Đối
với sản xuất công nghiệp được bảo hộ một phần đầu vào trên cơ sở chất lượng và giá cả
Quốc tế, bảo hộ giá TTSP hàng hoá cho nông dân và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, ngăn
chặn triệt để nhập lậu.
Tổ chức tốt thu mua sản phẩm hàng hoá của các ngành công, nông, lâm, ngư nghiệp đặc
biệt là hàng nông sản, đáp ứng nhu cầu nội tiêu và XK, trực tiếp góp phần kích cầu thông
qua tăng quỹ mua và mua cho dân cư. Kích thích nông nghiệp và thị trường nông thôn
phát triển kể cả nghề phụ. Đề nghị nhà nước có chính sách bán hàng trả góp trả chậm chủ
yếu và trước hết đối với các máy móc thiết bị, vật tư hàng hoá sản xuất trong nước và
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Kết hợp chặt chẽ với các ngành thu nợ để nông dân bán
được nông sản vào thời điểm và giá cả thích hợp, không để tư thương ép giá. Khuyến
khích các cơ sở chế biến công ty kinh doanh cùng với người sản xuất lập quỹ bảo hiểm
thiên tai đối với những cây chủ lực. Kết hợp chặt chẽ với các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải…trên nguyên tắc gắn kế hoạch với thị trường chủ động điều
hành các kế hoạch sản xuất
Lưu thông đảm bảo hoạt động có hiệu quả ngay từ đầu năm kế hoạch.Cải tiến nội dung
và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về hoạt động thương mại. Tăng cường chỉ đạo tổ
chức tốt hoạt động thương mại trên thị trường nông thôn, miền núi, hải đảo, nhất là trong
các khâu thu mua sản phẩm và cung ứng vật tư tại chỗ cho nông dân nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho sản xuất và kinh tế hàng hoá nông thôn miền núi phát triển nhanh.
Tiếp tục sắp xếp lại DNNN và thực hiện cổ phần hoá trong toàn ngành và trực thuộc bộ
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN. Hướng mạnh vào
việc đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất hang hoá,nhất là trong lĩnh vực chế biến, nâng
cao chất lượng sản phẩm với cơ cấu chủng loại phong phú, đáp ứng yêu cầu của thị trường
trong nước và xuất khẩu.
Lấy biện pháp kinh tế là chủ yếu có kết hợp với biện pháp hành chính để thực hiện tốt
công tác chống buôn lậu, sản xuất và kinh doanh hàng giả và những hành vi vi phạm Luật
Thương Mại. Tiếp tục nghiên cứu, áp dụng việc dán tem hàng nhập khẩu để tạo thêm điều
kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước phát triển thuận lợi
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thương mại thông qua việc tiếp tục hoàn thiện
các văn bản về cơ chế quản lý, chính sách biện pháp điều hành hoạt động thương mại,
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn
theo đúng pháp luật, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước của các cơ sở thương mại
I.2.Đối với kinh doanh xuất nhập khẩu.
Tạo diều kiện kinh doanh xuất nhập khẩu, căn cứ nghị định 57/1998 NĐ- CP của Chính
Phủ và thông tư 18/1998 TT-BTM ngày 2/8/1998 của bộ thương mại thì mọi thương nhân
đều được trực tiếp kinh doanh XNK.
Có thể xem xét lại quyền kinh doanh xuất khẩu của khối DN có vốn đầu tư nước ngoài quy
định tại quýêt định số 0321/1998/QD-BTM của Bộ thương mại để mở rộng thêm phạm vi
kinh doanh cho họ, đặc biệt là cao su, sản phẩm gỗ, kể cả cà phê và thuỷ hải sản.
Về tài chính tín dụng: theo dõi sát việc thi hành thuế thu nhập DN để bảo đảm những biện
pháp khuyến khích về thuế lợi tức như miễn thu thuế bổ sung sẽ được tiếp tục duy trì khi
áp dụng thuế thu nhập DN. Theo dõi sát việc thi hành thuế VAT để kịp thời đề xuất biện
pháp giải quyết những vướng mắc phát sinh. Giải quyết vướng mắc trong việc tiếp cận
nguồn vốn ngân hàng Việt Nam của các DN có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là những DN
có tham gia xuất khẩu. Cụ thể hoá những biện pháp về chế độ thuế và tín dụng cho từng
mặt hàng cụ thể.
Về hỗ trợ tài chính đối với một số mặt hàng xuất khẩu khó khăn bộ đã đề nghị Chính Phủ
chỉ đạo ngành tài chính và ngân hàng cho hưởng chế độ vay với lãi xuất tiền lãi. Để mở
rộng thị trường hàng của Việt Nam đã xuất sang rất nhiều thị trường trên thế giới:
ASEAN, EU, Mỹ, SNG, Đông Âu, và một số nước Châu Phi. Hiện nay Việt Nam đang cố
gắng đàm phán với Mỹ để ký hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ và Mỹ dành
cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc. Khi đó hàng Việt Nam khi xuất khẩu vào
thị trường Mỹ chỉ phải chịu thuế suất như hàng của các nước khác xuất khẩu vào Mỹ. Thị
trường Mỹ tương lai sẽ là thị trường đầy hứa hẹn của các DN Việt Nam.
II. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC.
II.1- Biện pháp kích cầu của nhà nước
Năm 1999 tình hình hàng hoá ứ đọng, chậm tiêu thụ, hơn nữa DNVN lại chịu ảnh hưởng
của cuộc khủng khoảng kinh tế khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam ở khu vực
Đông Nam Á giảm do sự giảm giá của một số đồng tiền của các nước Đông Nam Á nên
hàng hoá của các nước đó rất rẻ, tràn sang thị trường Việt Nam thông qua con đường nhập
lậu làm hàng hoá trong nước ứ đọng, còn xuất khẩu thì hàng Việt Nam thiếu tính cạnh
tranh.
Trong thời gian qua Việt Nam đã thực hiện các biện pháp kích cầu (xây dựng các công
trình nhà ở, khu giải trí..) để tăng tiêu thụ ở thị trường trong nước. Trong năm qua Ngân
Hàng cũng xem xét điều chỉnh tỷ giá hối đoái 3 lần, lần cuối cùng đã hạ lãi suất từ 1,15%
xuống còn 1,05% để kích thích mạnh việc vay vốn đầu tư sản xuất nhất là khu vực nông
thôn. nhưng xem ra mãi đến cuối năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 mới nhích lên
sau thời kỳ giảm phát liên tục, như vậy chính sách kích cầu của nhà nước đã bắt đầu phát
huy tác dụng. Tuy nhiên chủ trương kích cầu của Chính Phủ chỉ là biện pháp tình thế.
Trong tình hình hiện tại: cần kích cầu để làm suy giảm triệu chứng trì trệ của nền kinh tế
nhưng phải có giải pháp đồng bộ để đảm bảo duy trì một áp lực đủ lớn buộc sản xuất kinh
doanh nâng cao chất lượng hoạt động của mình, đặc biệt là khu vực DNNN, vì chỉ kích
cầu hiện tại, chỉ giải toả hàng hoá ứ đọng, tăng quy mô sản xuất chứ không mang lại kết
quả tích cực đối với việc thúc đẩy nền kinh tế thay đổi về chất. Về cơ bản và lâu dài cần
phải cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiệu quả tránh tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu
quả như hiện nay.
II.2 Xúc tiến thương mại
Môi trường thương mại quốc tế ngày nay đã có những thay đổi căn bản so với thời gian
trước. Quy mô và mức độ toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc. những điều kiện
mới nổi nên ảnh hưởng lớn đến hoạt động xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến xuất
khẩu nói riêng.
Để các DNVN có thể khai thác tốt các cơ hội thị trường mới, nâng cao thị phần xuất khẩu
ra thị trường thế giới, cần thiết phải có một chiến lược xúc tiến xuất khẩu. Hiện nay ở hầu
hết các nước đang phát triển, Việt Nam không phải là ngoại lệ, các DN vừa và nhỏ
(DNVVN) là lực lượng chủ yếu tham gia xuất khẩu: chiếm 40% thu nhập xuất khẩu và thị
phần này có xu hướng ra tăng mạnh mẽ dưới tác động thuận chiều của hiệp định của WTO
đã tạo ra khuôn khổ pháp lý mới tự do hơn cho thương mại thế giới, sự phát triển của công
nghệ thông tin viễn thông, toàn cầu hoá về thương mại đầu tư và sản xuất tạo ra những
thay đổi lớn về lợi thế so sánh giữa DN lớn và DNVVN các DNVVN phần lớn đều ở
trong tình trạng lạc hậu về công nghệ, yếu kém về trình độ quản lý trong khi cơ sở hạ tầng
của các nước đang phát triển lại rất thiếu và đắt đỏ. Các ĐN lớn với danh tiếng của mình
cùng với kinh nghiệm và hiệu quả hoạt động trên thương trường quốc tế thường dễ ràng
có nguồn tài trợ cần thiết. Các DN lớn thường tự chịu trách nhiệm về vấn đề xúc tiến
thương mại, hầu hết các DN này đều thiết lập các kênh marketing, hệ thống thông tin
thương mại và các văn phòng đại diện của riêng họ. Trong khi các DNVVN khó có khả
năng tự tìm nguồn tài trợ cần thiết, nếu không có một tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ vì
đối với các thể chế tài chính, những khoản tài trợ cho các DNVVN có mức độ rủi do rất
cao khó mà lường trước được. Các DNVVN thường thiếu kiến thức về Marketing hoặc
khônh thể xâm nhập được vào các thị trường đã được an bài. Tất cả các yếu tố này đều
ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng cạch tranh về giá của hàng xuất khẩu của các DNVVN.
Một chiến lược xúc tiến xuất khẩu (ở đây hiểu xúc tiến theo nghĩa rông: là toàn bộ các
hoạt động của các thể chế hỗ trợ, đặc biệt là của tổ chức xúc tiến xuất khẩu quốc gia
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu) cần thiết phải xác định được phương thức tối ưu để giúp đỡ
các DN đặc biệt là DNVVN khai thác tốt nhất mọi cơ hội và vượt qua những thách thức.
Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua chi thấy xuất khẩu là động lực để phát triển
kinh tế. Nhà nước đã tập trung nhiều nỗ lực để đẩy mạnh xuất khẩu. Những hoạt động
xúc tiến xuất khẩu dồn dập của Chính Phủ đặc biệt là Bộ Thương Mại phải kể tới các cố
gắng trong đàm phán với liên minh Châu Âu về việc chuyển Việt Nam sang nhóm nước
thứ nhất được quyền xuất khẩu thuỷ sản vào EU..đặc biệt là đàm phán ký tắt và tiến tới
ký kết chính thức hiệp định thương mại Mỹ- Việt. Thực tiễn trên chứng minh rằng hoạt
động xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu của Chính Phủ Việt Nam đối với các
doanh nghiệp rất quan trọng và hoạt động này cần đựoc tăng cường hơn nữa trong thời
gian tới để đẩy mạnh sản xuất của nước nhà. Chính Phủ nên xem xét thành lập (quỹ bảo
hiểm xuất khẩu hay các ngân hàng xuất nhập khẩu…) để cải thiện điều kiện tiếp cận
nguồn tài trợ xuất khẩu, đặc biệt vấn đề củng cố hệ thống Marketing thông qua thành lập
hay kiện toàn các thể chế xúc tiến cung cấp thông tin thương mại và thị trường cho các
DNVVN khảo sát thị trường nước ngoài hay tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài.
Khuyến khích các DN lớn ký hợp đồng phụ và bao tiêu sản phẩm cho các DNVVN, thành
lập hay có biện pháp khuyến khích các công ty thương mại đảm nhận việc đóng gói bao
bì, giao nhận, vận chuyển, cung cấp dịch vụ tài chính, bảo hiểm, quản lý chất lượng,
quảng cáo... sẽ là các hoạt động yểm trợ có tác động rất lớn để các DN có thể tham gia
XK đặc biệt là các DNVN.
III.3.Chính sách bảo hộ hợp lý để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển,
khuyến khích người tiêu dùng dùng hàng nội địa.
Toàn cầu hoá, khu vực hoá và tự do hoá kinh tế Thương mại tuy mâu thuẫn với bảo hộ
sản xuất trong nước nhưng đây chính là tồn tại thực tế mà hầu hết các nước đã, đang và sẽ
tiếp tục thực hiện. Ở Việt Nam, trước những đòi hỏi bức bách của tiến trình hội nhập
nhưng ý thức vươn lên trong cạnh tranh còn yếu, khuynh hướng phổ biến của các ngành,
các cấp và các DN còn nặng về ỷ lại hàng rào bảo hộ để tránh sức ép cạnh tranh. Hàng rào
bảo hộ cao không những làm mất đi động cơ nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam mà còn làm cho tiêu dùng bị thiệt hại do phải mua với giá cao trong khi thu nhập của
dân cư ở nước ta còn thấp Theo ông Trần Đình Thọ- PGĐ Sở Thương Mại Thành phố Hồ
Chí Minh: "Bảo hộ phải tuỳ theo từng ngành nghề cụ thể, tuỳ theo mặt hàng chứ không
phải mạnh ai tự đề xuất tràn lan, không có tính quốc gia. Khi bảo hộ, các công ty sản xuất
theo chủ trương Nhà nước thì mới bảo hộ. Ngược lại việc bảo hộ sẽ làm lá chắn khiến cho
những ngành nghề được bảo hộ liên kết thành một khu vực lợi ích cản trở chính sách hội
nhập của Nhà Nước, Chẳng hạn như bảo hộ ngành đường trong nước, bảo hộ nông dân
trồng mía, các nhà máy đường có thể sống được nhưng còn 80 triệu người tiêu dùng thì
sao? Vì vậy Đảng và Chính phủ cần phải có chủ trương điều chỉnh chính sách bảo hộ sản
xuất trong nước theo hướng có lựa chọn, có thời hạn và có điều kiện.
Về bảo hộ có sự lựa chọn:Bảo hộ sản xuất trong nước bao gồm xây dựng và củng cố
các hàng rào thuế và phi thúê để ngăn cản sự tấn công của hàng hoá ngoại nhập và các
biện pháp hỗ trợ, điều chỉnh và nâng đỡ sản xuất trong nước. Ở Việt Nam, chỉ nên bảo hộ
sản xuất trong nước đối với các ngành và lĩnh vực sau:
+Các ngành công nghiệp non trẻ mũi nhọn thuộc hướng ưu tiên trong chiến lược
phát triển của đất nước như: công nghiệp điện tử- tin học, công nghệ sinh học và công
nghệ sản xuất vật liệu mới...vì vào thời kỳ đầu, sản xuất đang ở mức chi phí cao hơn so
với giá cả các sản phẩm cùng loại nhập khẩu.
+Các ngành nghề truyền thống ở các làng nghề như đồ gốm, thảm, đồ gỗ chạm
khảm, sơn màu...để bảo vệ giá trị văn hoá Quốc gia, bảo vệ truyền thống dân tộc.
+Các ngành nghề sử dụng lực lượng lao động lớn và mật độ tập trung quá cao như:
dệt may, mía đường, chế biến thực phẩm... để tránh hậu quả nghiêm trọng do tỷ lệ thất
nghiệp cao.
+Các mặt hàng thuộc nhu cầu quốc tế dân sinh như an toàn về lương thực, về
nguyên liệu cho các ngành sản xuất quan trọng, về an ninh quốc gia.
+Các mặt hàng có sự chênh lệch lớn giữa sản xuất và tiêu dùng mà nhà sản xuất và
kinh doanh không đủ khả năng dự trữ hoặc dự trữ phải chi phí quá cao sẽ gây ra các đột
biến lớn về giá cả trên thị trường.
Về mức độ và thời hạn áp dụng chính sách bảo hộ: Việt Nam là thành viên chính thức
của ASEAN, tham gia AFTA, APEC và đang chuẩn bị để gia nhập vào VVTO, do vậy
trước hết chúng ta phải thực hiện các cam kết trong các quy định của chương trình CEPT
về cắt giảm thuế, hạn chế định lượng và các hàng rào phi thuế quan. Đồng thời, phải thiết
lập công khai hoá và từng bước thực hiện lộ trình cắt giỏam thuế và phi thuế của VVTO.
Để khuyến khích đẩy mạnh chương trình "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam"
Nhà nước nên có chương trình thưởng cho người tiêu dùng trong trường hợp người tiêu
dùng phát hiện hàng giả, hàng lậu để đảm bảo uy tín, chất lượng cho hàng hoá của doanh
nghiệp trong nước. Đồng thời các cơ quan quản lý phải phối hợp đồng bộ để hướng dẫn
thực hiện nghiêm chỉnh " Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng ". Có như vậy người tiêu dùng
mới tin tưởng vào chất lượng, uy tín của hàng nội địa".
III.4.Biện pháp tài chính, giá cả
Trong khi hàng hoá còn ứ đọng quá nhiều thì việc kích thích tiêu thụ quả là khó khăn.
Doanh nghiệp cần phải hạ giá bán hàng hoá đang ứ đọng (hạ đến mức có thể bán được) để
kích thích tiêu dùng, nhất là kích cầu đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Nhà nước phải có biện pháp xử lý tài chính về thua lỗ do hạ giá bán gây ra đối với doanh
nghiệp nhà nước và có những biện pháp phòng, ngăn chặn sự lợi dụng việc cho phép hạ
giá để cho phép chuyển lỗ sang Nhà nước (Ngân sách) một mặt làm thiệt hại ngân sách,
mặt khác làm mất đi áp lực buộc các DN phải tự xem xét lại chính mình.
Tỷ giá hối đoái: cần phải điều chỉnh ở mức độ cần thiết để tăng cầu với nước ngoài
nhưng có bước đi thận trọng nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng và các thể chế
tài chính khác, đồng thời kiểm soát được sự ổn định của kinh tế vĩ mô phù hợp với sự biến
động của giá cả trong nước và thế giới. Hiện nay, giá cả đang có xu hướng giảm, đây là
thời cơ thuận lợi cho việc giữ ổn định giá cả khi điều chỉnh tỷ giá góp phần kích cầu, điều
này cũng phù hợp với tinh thần NĐ.08 của Chính phủ "Theo dõi chặt chẽ diễn biến thị
trường trong và ngoài nước để điều chỉnh tỷ giá linh hoạt, bảo đảm khuyến khích xuất
khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ ".
Hạ lãi xuất đối với vay đầu tư ở nông thôn và vay đầu tư chiều sâu, đồng thời kiểm
soát ngặt nghèo vay đầu tư mới. Vừa qua ngân hàng đã hạ lãi xuất từ 1,15% xuống 1,05%
nhưng xem ra vẫn chưa "đủ độ" so với chỉ số lạm phát và so với tỷ xuất lợi nhuận mang
lại của nền kinh tế và vì vậy chưa có khả năng kích thích mạnh việc vay vốn để đầu tư
nhất là khu vực nông thôn.
Để động viên kịp thời tinh thần, vật chất cho những đóng góp về trí tuệ sáng tạo, về
hiệu quả của doanh nghiệp vào sự nghiệp đẩy mạnh XK, Bộ Thương Mại đã dùng đòn bẩy
kinh tế "Thưởng xuất khẩu ". Nếu đợt I mới có 10 DN được thưởng theo 2 tiêu chuẩn và
90% nằm ở tiêu chuẩn 5.1(Xuất khẩu mặt hàng mới, mở thị trường xuất khẩu mới ) thì
thưởng đợt II có 62 DN đặc biệt đã "phủ sóng" toàn bộ 5 tiêu chuẩn khen thưởng đó là
một tín hiệu đáng mừng cho thấy "Thưởng xuất khẩu " tuy là một công cụ mới mẻ nhưng
cũng đã phát huy tác dụng và có hiệu quả cao. Njững phần thưởng khuyến khích xuất
khẩu đã hướng DN sáng tạo mặt hành mới, mở thêm thị trường xuất khẩu, ssản xuất mặt
hàng xuất khẩu có chất lượng cao, ưu tiên hàng hoá gia công chế, biến chủ yếu bằng
nguyên liệu trong nước, có kim ngạch xuất khẩu cao và những mặt hàng ngoài hạn ngạch
hoặc ngoài chỉ tiêu được phân giao. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận thức được rằng
thưởng xuất khẩu là một hình thức trong cả một hệ thống cơ chế, chính sách nhằm thực
hiện chiến lược hướng mạnh nền kinh tế vào XK được thể hiện qua các văn bản như luật
khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài tại VN, luật thuế XNK, thuế
VAT, thúe thu nhập, NĐ 57/CP...Trong thời gian tới, Bộ Thương mại tiếp tục đưa ra
những giải pháp nhằm giải phóng năng lực của các DNXK. Chính Phủ cũng cần phải xem
xét thành lập ngân hàng XNK để hỗ trợ, bảo lãnh tín dụng góp phần thúc đẩy hoạt động
XK cho các DN.
III.5.Xây dựng hệ thống cơ sở chế biến nhỏ ở nông thôn
Cho đến những năm cuối cùng của thế kỷ XX, nền nông nghiệp (NN) ở nước ta còn
đang bị phân tán, manh mún, bị chia cắt, xé nhỏ, chưa hình thành đồng bộ các vùng
chuyên canh tập trung với khối lượng hàng hoá, nguyên liệu lớn, nước ta hiện nay chưa
tạo đủ các cơ sở công nghiệp để chế biến các sản phẩm có giá trị cao phục vụ thị trường
trong và ngoài nước. Nên mặc dù sản phẩm nông sản hàng năm kim ngạch XK tăng 16-
17% đạt 2,8-3,1 tỷ USD chiếm 30-32% giá trị xuất khẩu cả nước, nhưng nông sản phẩm
đã qua chế biến, nhất là chế biến tinh, chiếm tỷ trọng nhỏ có loại chỉ chiếm 20-25%, còn
lại hầu hết là xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô hoặc sơ chế.
Vì thế các cơ sở chế biến nhỏ sẽ tận dụng được tối đa nguyên liệu tại chỗ, không phải
vận chuyển đi xa trong điều kiện cở hạ tầng nônh thôn yếu kém, có thể làm tăng tỷ lệ hư
hỏng, thất thoát, làm tăng giá thành sản phẩm, giảm lợi thế cạnh tranh trên các loại thị
trường, làm tăng kim ngạch xuất khẩu.
Về quy mô: Tuỳ theo năng lực sản xuất thực tế khối lượng nông sản hàng hoá vốn có,
tuy nhiên không manh mún, tản mát dễ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và "chết yểu"
mà có các hình thức khác nhau.
Về công nghệ: các cơ sở chế biến nhỏ phải dùng loại công nghệ thích hợp, nhỏ không
đồng nghĩa với thô sơ, thủ công và chắp vá, tuỳ năng lực tài chính, có thể sử dụng công
nghệ từ thô sơ đến hiện đại. Cùng với các cơ sở chế biến nhỏ này, phải xây dựng cho bằng
được các trungg tâm chế biến nông sản hàng hoá hiện đại, sử dụng nguyên liệu đã qua sơ
chế từ cơ sở sản xuất nhỏ, để cho ra đời sản phẩm tinh, có khả năng cạnh tranh, đáp ứng
tiêu chuẩn và đúng thị hiếu của người tiêu dùng.
III BIỆN PHÁP TỪ PHÍA DN.
Hiện nay các DNVN đang phải đối diện với môi trường kinh doanh biến động không
ngừng, diễn biến phức tạp và có nhiều rủi do. Việt Nam đã gia nhập AFTA và sẽ phải thực
hiện lộ trình giảm thuế CEPT (đối với việt nam: đến năm 2006 thuế nhập các loại hàng
hoá vào việt nam chỉ còn 0%- 5%) nên áp lực cạnh tranh ngày càng ra tăng và con đường
đi lên phía trước của các DN có nhiều chướng ngại và nhạy bén là xuống vực phá sản.
Ngoài ra đối với một đất nước đang phất triển như Việt Nam, nền kinh tế còn nghèo
nàn, lạc hậu cơ sở vật chất yếu kém, trình độ khoa học công nghệ và trình độ lao động,
trình độ quản lý còn chịu ảnh hưởng của nếp sống “cũ” của thời kinh tế kế hoạch hoá tập
trung thì việc mắc sai lầm trong chỉ đạo, điều hành của Chính Phủ là khó tránh khỏi. Tuy
nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những nỗ lực cố gắng vượt bậc của Đảng và Nhà
Nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các DN. Một đất nước phát
triển phải cần sự nỗ lực vượt bậc, sự đóng góp của toàn dân toàn xã hội mà các DN là
thành phần trọng yếu. Vì vậy các DN phải tự xem xét mình đã chủ động tự vươn lên đỉnh
cao trong thương trường chưa? ở nhiều cônh ty thay vì tìm lối thoát ra khỏi khó khăn bằng
chính sự nỗ lực của bản thân, bằng việc động viên tối đa nội lực thì lại đi theo con đường
mòn là “xin” Nhà Nước cấp vốn mặc dù biết rõ Nhà nước không có vốn để cho.
Vì vậy TTSP của DN sẽ ngày càng khó khăn nếu như DN không đề ra những chính
sách, chiến lược cạnh tranh hợp lý thì hàng hoá ứ đọng, chậm tiêu thụ là điều khó tránh
khỏi mà hàng hoá ứ đọng đồng nghĩa với việc không thực hiện được mục tiêu của DN đặc
biệt là lợi nhuận, không có hoặc ít lợi nhuận DN không đủ trang trải chi phí, bị lỗ và phá
sản DN là khó tránh được. Vậy để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trong tiêu thụ sản
phẩm thì DN cần thực hiện các biện pháp sau:
III.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hiện nay người Việt Nam có thú “xính đồ ngoại” đây là kiểu “chơi sang” tầng lớp
thượng lưu nhưng không ít khách hàng phàn nàn về chất lượng sản phẩm của DN đặc biệt
là đồ tươi sống, thuốc..nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ thậm chí cả tính mạng của
người tiêu dùng vậy các DNVN nghĩ gì?
Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không có nghĩa là hướng mọi nỗ lực của mình vào
việc sản xuất ra sản phẩm thật tốt. Nừu vậy DN đã quên đi một yếu tố vô cùng quan trọng
là “nhu cầu có khả năng thanh toán và khách hàng không mua sản phẩm mà họ không có
nhu cầu. Một sản phẩm có chất lượng tốt khách hàng rất hài lòng về nó nhưng liệu họ có
mua không? Rất có thể là không vì sản phẩm chất lượng tốt thì giá phải đắt tuy nhiên
không phải khách hàng nào cũng đủ tiền để mua sản phẩm đó. “khả năng thanh toán” liên
quan tới thu nhập và phân bổ thu nhập cho các nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng.
Vậy thì thế nào là một sản phẩm có chất lượng tốt? Một sản phẩm có chất lượng tốt là sản
phẩm có “chất lượng vừa đủ”. Nghĩa là với tiềm lực của mình DN sản xuất ra sản phẩm
phù hợp với nhu cầu, thị hiếu, sở thích người tiêu dùng với giá cả hợp lý. Nâng cao chất
lượng sản phẩm liên quan đến rất nhiều vấn đề: công nghệ,vốn, con người…
Trước hết về vốn, công nghệ: hiện nay hầu hết các DNVN sản xuất với công nghệ
được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã sử dụng hàng chục năm,
không thích hợp với cơ chế thị trường. Các xí nghiệp kho tàng, bến bãi, nhà kho, thiết
bị…thường quá lớn,cồng kềnh đồ sộ nhưng công suất thấp nên hoạt đông kém hiệu quả vì
phải chịu khấu hao lớn, định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu thường rất cao mà sản
phẩm sản xuất ra chất lượng lại thấp không cạnh tranh được với sản phẩm ngoại nhập khó
có khả năng xuất khẩu. Trong mấy năm gần đây tuy một số DN đã tích cực đổi mới công
nghệ hiện đại nhưng thường là đầu tư chắp vá, không đồng bộ do thiếu vốn. Công suất vẫn
chưa cao nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN còn thấp. Vẫn biết thiếu vốn là vấn
đề nan giải của các DN Việt Nam hiện nay nhưng trong sự cạnh tranh gay gắt thì hoặc là
DN tồn tại và phát triển hoặc là phá sản.Tất nhiên không DN nào muốn phá sản, vậy thì
DN phải tự cứu lấy mình trước khi chờ đợi vào các chính sách ưu đãi củaNhà nước. Việc
đổi mới công nghệ là rất cần thiết. Nó cho phép DN sản xuất ra sản phẩm có chất lượng
cao phù hợp với khách hàng. Đáp ứng với nhu cầu thị trường, tiết kiệm nguyên vật liệu,
làm giảm giá thành sản xuất. DN hạ được giá bán, góp phần tăng tính cạnh tranh của sản
phẩm DN. Vậy thì đổi mới công nghiệp bằng cách nào trong khi đa phần các DN Việt
Nam đang thiếu vốn? Thiếu vón, các DN có thể huy động bằng nhiều cách:Vón vay ngân
hàng, ODA, phát hành cổ phiếu (công ty cổ phiếu )…Đặc biệt là Nhà nước huy động vốn
từ dân chúng trong nước cho DN vay. Hiện nay, lượng tiền vốn tồn tại trong dân chúng
khá lớn, khoảng 4-6 tỷ USD sã hầu như là sự lãng phí 100% nếu số vốn đó tồn tại dưới
hình thức xe máy, đất, vàng…mà không đưa vào sản xuất bởi bản thân các hình thức đó
không tạo ra của cải cho xã hội, mà chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
“Cái gốc của sự giầu có là sản xuất”.Người dân không hề có lỗi, bởi vì bất kỳ ai cũng
muốn đem những đồng vốn chắt chiu của mình vào hoạt động có thể sinh lãi đem lại thu
nhập cho bản thân. Về thực chất Việt Nam thiếu cơ hội đầu tư. Trong 3 đợt đIều chỉnh lãi
xuất ngân hàng của nhà nước vừa qua nhưng xêm ra các DN vẫn chưa mạnh dạng đầu tư
vào sản xuất. Việc huy động vốn từ dân cư phải thông qua hệ thống ngân hàng, mặt khác
DN cũng có thể tự huy động vốn trong dân bằng cách bán cổ phiếu công ty (công ty cổ
phân) cho dân chúng nhưng một khó khăn không phảu nhỏ là hình thức đầu tư hoàn toàn
mới mẻ ở Việt Nam vì vẫn đề cổ phần hoá DN còn gặp nhiều rắc rối về xác định giá trị tài
sản DN..trong khi trình độ hiểu biết của dân cư còn thấp nên họ chưa giám mạnh dạn mua
cổ phiếu. Vậy muốn bán được cổ phiếu công ty phải có chính sách quản cáo, giới thiệu
công ty, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu quy định, lợi ích của việc mua cổ phiếu công ty
cho đại bộ phận dân chúng để tạo lập ra uy tín cho công ty. Tuy nhiên uy tín này phải
được minh chứng bằng số lượng sản phẩm bán ra trong nước và quốc tế. Và một khi DN
đã có uy tín trên thương trường, được nhiều người biết đến thì việc bán cổ phiếu để thu
hút vốn đổi mới công nghệ cũng rễ ràng hơn. khi đã có vốn thì việc nhập công nghệ cũng
phải thận trọng. DN cần phải xem xét xem nhập công nghệ nào phù hợp với DN, trong
những trường hợp chưa đủ vốn để đổi mới đồng bộ thì xem xét ưu tiên đổi mới công nghệ
ở bộ phận sản xuất nào là vô cùng quan trọng. Sau đó DN phảichọn đối tác để nhập công
nghệ. Một thực trạng là trong những năm vừa qua các DN (đặc biệt là DNNN) đã đầu tư
đổi mới công nghệ hiện đại đắt tiền nhưng khi đưa vào vận hành sản xuất mới thấy là các
công ty của chúng ta đã bị lừa vì công nghệ đó không phải là mới, hiện đại, mà là hàng
“second- hand” mà chúng ta không biết. Điều này do trình độ của cán bộ công ty còn yếu
kém, chưa đủ trình độ để kiểm tra được chất lượng của công nghệ nhập, không phát hiện
được những khiếm khuyết của công nghệ. Chỉ khi nhập xong đưa vào sản xuất mới rõ, lúc
đó thì “việc cũng đã rồi” và Việt Nam trở thành “bãi thải công nghiệp” cho các nước trên
thế giới. Do vậy để cẩn thận hơn thì DN nên nhập khẩu qua việc thuê trung gian nước
ngoài có uy tín, trình độ kiểm tra công nghệ. Chính vì vậy mà DN cần phải đầu tư đào tạo
lại cán bộ để nâng cao trình độ hiểu biết, bắt kịp với sự phát triển của thế giới. Và một
điều vô cùng quan trọng là việc ký kết hợp đồng nhập khẩu. Chúng ta lại mắc sai lầm
trong việc kiểm tra các điều khoản trong hợp đồng đã chặt chẽ, phù hợp chưa? tránh tình
trạng khi nhập khẩu về nhưng lại thiếu một chi tiết nào đó. Khi đó buộc chúng ta phải
nhập khẩu chi tiết đó của nước xuất khẩu với giá “cắt cổ” do yêu cầu của tính đồng bộ của
công nghệ.
Nếu như việc nhập khẩu công nghệ là quá đắt thì DNVN có thể thuê thiết bị toàn bộ
của nước ngoài (vừa tiết kiệm vốn lại không bị lạc hậu về công nghệ, chống phải nộp thuế
nhập khẩu) mà hiện nay dịch vụ thuê và cho thuê thiế bị toàn bộ là rất phát triển trên thế
giới (thiết bị toàn bộ là một hệ thống máy móc gắn với quy trình công nghệ để sản xuất ra
một sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ nào đó). Đặc biệt đối với DN thiếu vốn nhưng lại
chỉ cần sử dụng thiết bị toàn bộ trong một thời gian ngắn thì DN nên đi thuê. Vừa tiết
kiệm vốn, không lãng phí, tránh tình trạng sau khi hoàn thành một hợp đồng sản xuất cung
ứng hàng hoá rồi thì hệ thông máy móc lại “thất nghiệp”. Việc thuê thiết bị toàn bộ có thể
thuê dài hạn (Leasing), thuê ngắn hạn (Renting/Hiring) hoặc thuê mua(Leas purchase)
việc lựa chọn hình thức thuê mua là do điều kiện sản xuất khả năng tài chính của DN.
Nhưng nếu trong trường hợp thiếu vốn mà DN cần sử dụng thiết bị toàn bộ lâu dài thì DN
có thể thuê theo hình thức thuê mua. Vì sau khi hết thời hạn thuê, DN có khả năng tích luỹ
đủ vốn có thể mua lại thiết bị toàn bộ đó với giá phải chăng.
Tóm lại cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, DN cũng cần phải có chiến lược đầu tư đổi
mới công nghệ thích hợp để tăng tính cạnh tranh của sanr phẩm DN.
Về con người: Nếu như giải pháp cải tiến, đổi mới công nghệ quyyết định trực tiếp đến
chất lượng sản phẩm thì DN không thể thiếu chiến lược con người. Bởi nếu công nghiệp
dù có hiện đại đến đâu nhưng trình độ công nhân, trình độ quản lý kém thì không vận
hành được công nghệ hiện đại đó và tất nhiên hiệu quả sản xuất kém. Trình độ quản lý của
lãnh đạo công ty được thể hiện qua các quyết định kinh doanh đúng đắn, qua chiến lược
kinh doanh của công ty, ý chí đề ra mục tiêu và quyết tâm thực hiện mục tiêu. Trong khi
kế hoạch được triển khai từ những dữ kiện tương đối ổn định thì việc hành động theo
chiến lược lại trong môi trường biến động. Mục tiêu của kế hoạch mang tính kết quả,còn
mục tiêu của chiến lược thể hiện rõ cái đích mà DN phải hướng đến,thể hiện rõ ý chí của
DN. Trong khi đó hầu hết các DN Việt Nam đều chưa xây dựng cho mình chiến lược kinh
doanh(CLKD).CLKD là định hướng hoạt động có mục tiêu của DN cho thời kỳ dài và hệ
thống các chính sách, biện pháp, điều kiện để thực hiện mục tiêu đề ra mà lại kinh doanh
theo kiểu “chụp giựt”, hết thương vụ này đến thương vụ khác không có một định hướng
phát triển lâu dài.Mặc dù DN đã từng bước biết gắn kết kinh doanh của mình với thị
trường, với điều kiện môi trường kinh doanh, song nhìn chung cách quản lý của DN về cơ
bản chưa thoát khỏi lối quản lý theo kế hoạch truyền thống để tiếp cận với phương thức
quản lý kinh doanh hiện đại. Điều này phần lớn là do trình độ hiểu biết của cán bộ lãnh
đạo về CLKD còn hạn chế, lý thuyết về CLKD chưa phổ biến ở Việt Nam. Các DN Việt
Nam chưa thấy được sự cần thiết của quản trị kinh doanh theo chiến lược. Mà một trong
các ưu thế của nó là DN sẽ tận dụng tốt nhất tất cả nguồn lực của mình, phát huy tốt nhất
tiềm năng của DN trong kinh doanh góp phần tăng ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thương trường. Nhất là trong môi trường mà tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt
thì yêu cầu công ty phải thực thi cách thức quản trị chiến lược ngày càng trở nên bức thiết
và nghiêm túc hơn, nếu không DN luôn rơi vào tình trạng lúng túng, bị động, sớm muộn
sẽ bị loại khỏi cuộc chơi trước các đối thủ cạnh tranh có kinh nghiệm
Vì vậy trong xu thế phát triển và hội nhập, tính chất phát triển và mức độ gay gắt của
công cuộc cạnh tranh thị trường đang đặt các DN Việt Nam phải có sự chuyển biến về
chất trong ứng dụng lý thuyết hiện đại về quản trị kinh doanh, chuyển từ lối quản trị theo
kế hoạch truyền thống sang quản trị kinh doanh chiến lược với sự biểu hiện trước hết là ở
khả năng xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược kinh doanh? Muốn vậy DN cần
phải nhanh chóng thực hiện việc đào tạo đội ngũ những nhà quản trị chiến lược. Nhà quản
trị chiến lược là nhà kinh doanh nhưng phải luôn biết xem xét đầu tư như thế nào, cần
những nguồn lực gì để có hiệu quả nhất, làm thế nào để đạt được ưu thế cạnh tranh, cơ cấu
tổ chức của công ty cần thiết kế và xây dựng như thế nào để phù hợp với chiến lược kinh
doanh của DN.
Trình độ của lực lượng lao động của DN đặc biệt là công nhân sản xuất thể hiện ở kỹ
năng kỹ xảo, sử dụng máy móc công nghệ hiện đại thành thạo sao cho có hiệu quả nhất,
tímh sáng tạo trong công việc, quy trình làm việc khoa học hợp lý. Hiện nay sự mất cân
đối trong chính sách đào tạo giữa bậc đại học và học nghề đã gây ra tình trạng “thừa cử
nhân, hiếu thợ lành nghề”. Mới đây viện khoa học lao động Nhật Bản phối hợp với viện
khoa học lao động Việt Nam đã mở cuộc điều tra về nhu cầu sử dụng lao động ở 300 DN
tại Hải Phòng, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh, kết quả cho thấy có 88,6% số DN có nhu cầu
tuyển công nhân kỹ thuật lành nghề, nhưng trên thực tế mới chỉ đạt gần 50,5% nhu cầu,
thậm chí có nơi mới chỉ đạt 3,9%. Khu công nghiệp Đồng Nai là một ví dụ điển hình.
Theo tính toán mỗi năm, khu công nghiệp này cần khoảng 50.000 lao động có tay nghề
trong đó 10% là trung cấp kỹ thuật, 60% thợ lành nghề và 25% lao động phổ thông. Song
cho đến nay mới chỉ đáp ứng được 9,2% số lao động là công nhân lành nghề…Đây chưa
kể đến số lao động có tay nghề tương đối về chuyên môn để phục vụ cho DNVVN ở các
địa phuương, các DN tư nhân và các hợp tác xã sản xuất công nghiệp. Tình trạng này do
chính sách đào tạo mất cân đối của nhà nước. Tuy nhiên DN cũng phải đặt câu hỏi tại sao
có tình trạng này? Phải chăng chế độ tiền lương của công nhân còn thấp không thu hút
được lực lượng lao động trong xã hội, điều kiện học tập và nghiên cứu để nâng cao trình
độ tay nghề cho công nhân còn hạn hẹp, khả năng thăng tiến là quá khó khăn mà trong sự
phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thì DN phải luôn thích ứng để đuổi kịp
trình độ phát triển của thế giới. để thu hút được lực lượng lao động trong xã hội DN phải
có chính sách đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân,cán bộ, kỹ sư, để nâng cao tay
nghề thích ứng với công nghệ hiện đại. DN có thể cử một số công nhân lành nghề có tính
sáng tạo trong công việc đi học tập ở các DN đơn vị bạn thậm chí cho đi du học ở nước
ngoài để học tập, nghiên cứu tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ mới hiện đại, sau đó trở
về DN truyền thụ lại kiến thức, kinh nghiệm cho công nhân của DN. đặc biệt lãnh đạo DN
phải biết liên kết các thành viên trong DN hướng toàn bộ nỗ lực của mình vào mục tiêu
chung của DN, tạo ra “một bầu không khí DN” đoàn kết, quyết tâm thực hiện thành công
mục tiêu DN đề ra, kích thích sự học hỏi, nâng cao trình độ tay nghề trở thành phong trào
thi đua trong toàn DN. DN có thể mời các chuyên gia giỏi trực tiếp đào tạo cho công nhân
DN mình. DN phải xây dựng một chế độ tiền lương, tiền thưởng thoả đáng để kích thích
công nhân quyết tâm thực hiện nhiệm vụ đề ra. DN có thể sử dụng biện pháp kích thích lợi
ích vật chất, tinh thần đối với con cái cán bộ cô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.pdf