Tài liệu Luận văn Thực trạng thu nộp quỹ bảo hiểm xã hội và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay: Luận văn: Thực trạng thu nộp quỹ BHXH
và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay
Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp
quỹ BHXH Việt Nam hiện nay
PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH
I. TÍNHTẤTYẾUKHÁCHQUANHÌNHTHÀNHVÀPHÁTTRIỂN BHXH
1. Sự tồn tại khách quan của BHXH
Con ngời muốn tồn tại và phát triển trớc hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v...
Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, ngời ta phải lao động để làm ra những
sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm đợc tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con
ngời ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Nh vậy,
việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ thuộc
vào chính khả năng lao động của họ. Nhng trong thực tế, không phải lúc nào
con ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống
bình thờng. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu
nhiên phát...
71 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1066 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng thu nộp quỹ bảo hiểm xã hội và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Thực trạng thu nộp quỹ BHXH
và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay
Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp
quỹ BHXH Việt Nam hiện nay
PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH
I. TÍNHTẤTYẾUKHÁCHQUANHÌNHTHÀNHVÀPHÁTTRIỂN BHXH
1. Sự tồn tại khách quan của BHXH
Con ngời muốn tồn tại và phát triển trớc hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v...
Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, ngời ta phải lao động để làm ra những
sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm đợc tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con
ngời ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Nh vậy,
việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ thuộc
vào chính khả năng lao động của họ. Nhng trong thực tế, không phải lúc nào
con ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống
bình thờng. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu
nhiên phát sinh làm cho ngời ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện
sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động,
mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy
giảm v.v... Khi rơi vào những trờng hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc
sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất
hiện thêm một số nhu cầu mới nh: cần đợc khám chứa bệnh và điều trị ốm đau;
tai nạn thơng tật nặng cần phải có ngời chăm sóc nuôi dỡng v.v... Bởi vậy,
muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con ngời và xã hội loài ngời phải tìm ra và
thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau nh: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau
trong nội bộ công đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nớc
v.v... Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn nhân công trở nên phổ
biến. Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhng về sau đã phải cam
kết cả việc bảo đảm cho ngời làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ
trang trải những nhu cu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tại nạn, thai sản
v.v... Trong thực tế, nhiều khi các trờng hợp trên không xảy ra và ngời chủ
không phải chi ra một đồng nào. Nhng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ
phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn
chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết.
Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến
đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nớc đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà
mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng đợc vai trò của Nhà nớc, mặt
khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng
tháng đợc tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với ngời
làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập
trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn đợc bổ sung từ ngân sách Nhà nớc
khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao động khi gặp phải những
biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi
của ngời lao động đợc dàn trải, cuộc sống của ngời lao động và gia đình họ
ngày càng đợc đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và đợc bảo vệ,
sản xuất kinh doanh diễn ra bình thờng, tránh đợc những xáo trộn không cần
thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc thiết lập ngày càng lớn và nhanh
chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
đợc thế giới quan niệm là BHXH đối với ngời lao động. Nh vậy BHXH ra đời
và phát triển là một tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sự
phát triển của mỗi quốc gia, mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết
tham gia BHXH, nó trở thành quyền lợi và nhu cầu của ngời lao động và đợc
thừa nhận là nhu cầu tất yếu khách quan.
2. Quá trình phát triển của BHXH
2.1. Sơ lợc lịch sử hình thành và phát triển chính sách về BHXH trên thế
giới
BHXH đã có từ lâu và thực sự trở thành hoạt động mang tính xã hội từ đầu
thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm đợc hình thành ở Anh vào năm
1819 với tên gọi "Luật nhà máy" và tập trung vào bảo hiểm cho ngời lao động
làm việc trong các xởng thợ. Vào năm 1883, luật bảo hiểm ốm đau hình thành ở
Đức. Cũng tại Đức, một số các luật khác đợc hình thành, sau đó chẳng hạn luật
tai nạn lao động hình thành năm 1884; luật bảo hiểm ngời già và tàn tật do lao
động hình thành năm 1889. Đến nay BHXH đợc thực hiện trên rất nhiều nớc và
trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt động của Liên hợp quốc. Một tổ
chức quốc tế lớn nhất thế giới hiện nay. Trong tuyên ngôn của Liên hợp quốc
thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 có ghi: "Tất cả mọi ngời, với t cách là
thành viên của xã hội, có quyền hởng BHXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả
mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do
phát triển con ngời".. Để thể chế hoá tinh thần đó, tổ chức lao động quốc tế
ILO (một tổ chức cơ cấu trong liên hợp quốc) đã đa ra Công ớc 102 quy định
về tiêu chuẩn tối thiểu của BHXH và những khuyến nghị các nớc thành viên về
việc thực hiện các tiêu chuẩn này.
2.2. Khái quát về sự hình thành và phát triển chính sách BHXH ở Việt
Nam
Nh ở phần trên, BHXH phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh
tế hàng hoá, ở Việt Nam trong gần một thế kỷ cai tr ị, bọn thực dân Pháp hầu nh
không đề ra đợc những gì để bảo vệ các quyền cơ bản của con ngời. Không
thực hiện đợc chế độ chính sách về BHXH đối với ngời lao động Việt Nam.
Ngay sau cách mạng tháng 8 thành công trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của
nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh
quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hu tr í cho công nhân viên chức
Nhà nớc (có Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và
Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950). Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH đợc thể
hiện trong Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 của nớc ta đã thừa nhận
công nhân viên chức có quyền đợc trợ cấp BHXH. Quyền này đợc cụ thể hoá
trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nớc, ban
hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và Điều lệ đãi ngộ quân
nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ.
Suốt trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lợc, chính sách BHXH nớc
ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên
chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức ngời
sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lợc thống nhất đất nớc.
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh
tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng. Sự thay đổi về cơ chế
kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tơng ứng về chính sách xã hội nói chung và
chính sách BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: "Nhà nớc thực
hiện chế độ BHXH đối với công chức Nhà nớc và ngời làm công ăn lơng,
khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với ngời lao động".
Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần
đổi mới chính sách BHXH theo hớng mọi ngời lao động và các đơn vị kinh tế
thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống nhất tách
quỹ BHXH ra khỏi ngân sách. Tiếp đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII
cũng đã nêu lên "Mở rộng chế độ BHXH đối với ngời lao động thuộc các thành
phần kinh tế". Nh vậy, các văn bản trên của Đảng và Nhà nớc là những cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách BHXH nớc ta theo cơ chế thị
trờng. Ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ
đã ban hành Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về Điều lệ BHXH đối với ngời
lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều lệ này góp phần
thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nớc đề ra, góp phần thực hiện công bằng
và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành mạnh hoá thị trờng lao động và đồng
thời đáp ứng đợc sự mong mỏi của đông đảo ngời lao động trong các thành
phần kinh tế của cả nớc.
II. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA BHXH
1. Khái niệm BHXH
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan trọng của
Đảng và Nhà nớc. Chính sách BHXH đã đợc thể chế hoá và thực hiện theo Luật.
BHXH là sự chia sẻ rủi ro và các nguồn quỹ nhằm bảo vệ ngời lao động khi họ
không còn khả năng làm việc.
"Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
cho ngời lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do
bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội
thông qua việc hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các
bên tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của ngời lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội". Chính vì vậy,
đối tợng của BHXH chính là thu nhập của ngời lao động bị biến động giảm
hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những
ngời lao động tham gia BHXH.
Đồi tợng tham gia BHXH là ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Tuy
vậy, tuỳ theo sự phát triển kinh tế – xã hội cuả mỗi nớc mà đối tợng này có thể
là tất cả hoặc một bộ phận những ngời lao động nào đó.
Dới giác độ pháp lý, BHXH là một loại chế độ pháp định bảo vệ ngời lao
động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của ngời lao động, ngời sử dụng lao động
và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nớc, nhằm trợ cấp vật chất cho ngời đợc bảo hiểm
và gia đình trong trờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thờng do ốm đau,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo
quy định của pháp luật, hoặc chết.
Quỹ bảo hiểm xã hội dành chi trả các chế độ trợ cấp và quản lý phí đợc
hình thành từ đóng góp của ngời lao động, chủ sử dụng lao động và nguồn hỗ
trợ của Nhà nớc.
Quỹ BHXH đợc Nhà nớc bảo hộ để tồn tại và phát triển. Mục đích chính
của các chế độ BHXH là trợ cấp vật chất cho ngời bảo hiểm khi gặp rủi ro đã
đợc quy định trong luật.
2. Những nguyên tắc của BHXH
2.1. BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội để ngời lao động có thể duy trì và
ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời (ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động v.v... ).
Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm. Nó vừa
mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này đợc thể hiện trớc hết là
sự bảo đảm bằng vật chất (qua các chế độ BHXH). Mức bảo đảm về vật chất
cũng là yếu tố quan trọng ảnh hởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và vì vậy
ảnh hởng đến sự phát triển của sự nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc
này, BHXH lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập là
cơ số để bảo đảm cho quãng đời không tham gia vào lao động (mất sức lao
động hay cao tuổi).
2.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu (thời gian mức đóng
bảo hiểm v.v...). Nh vậy, Nhà nớc đóng vai trò tổ chức, định hớng để ngời lao
động và ngời sử dụng lao động hiểu đợc nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham
gia vào các quan hệ về BHXH. Điều này đợc thể chế hoá trong Bộ luật Lao
động và các văn bản pháp quy khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa
khuyến khích mức tham gia, các loạI hình và chế độ bảo hiểm, mà ngời lao
động có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ thống BHXH của một số
nớc trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH có điều
kiện để phát triển và mở rộng hơn.
2.3. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên quan đến việc
thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức tối
thiểu của các chế độ BHXH là mức đóng định kỳ (hàng tháng), mức thời gian
tối thiểu để tham gia và đợc hởng các chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu
này, khi thiết kế thờng dựa vào tiền lơng tối thiểu, tiền lơng bình quân, quảng
đời lao động v.v... Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính đến giá tr ị của các chế
độ BHXH mà ngời tham gia đợc hởng. Nguyên tắc này liên quan trức tiếp đến
việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích ngời lao động và các
tầng lớp xã hội tham gia.
2.4. BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức tham gia và
thời gian thức hiện, đảm bảo quyền lợi của ngời lao động
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị trờng,
trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, thậm trí mang tính
thờng xuyên. Sự thay đổi nơI làm việc và thay đổi hợp đồng lao động cả vể nội
dung đối, tác v.v… tạo ra những giai đoạn có thể vệ thời gian và không gian
của quá tr ình làm việc. Điều này có thể xảy ra trong cả các quan hệ về BHXH.
Việc đảm bảo cho ngời tham gia BHXH có thể duy trì quan hệ một cách liên
tục theo thời gian có tham gia và thống nhất về các chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt
cần thiết và thuận tiên cho ngời lao động tham gia vào các quan hệ BHXH tốt
hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy, mức tham gia và thời gian thực tế tham
gia là căn cứ chủ yếu nhất đẻ duy trì quan hệ BHXH đối với ngời lao động.
2.5. Công bằng trong BHXH
Đây là nguyên tắc rất quan trọng songcũng rất phức tạp trong chính sách
BHXH. Quan hệ BHXH đợc thực hiên trong một thời gian dài, cả trong và
ngoài quá tr ình lao động. Trong quá trình đó có thể có sự thay đổi diễn ra. Mức
và thời gian tham gia của từng ngời và mức hởng lơng của họ cũng có thể
không giống nhau. Việc theo rõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản
nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những khác biệt về đối
tợng thành phần và khu vực tham gia ở nớc ta hiện nay. Do vậy đảm bảo công
bằng trong BHXH là rất cần thiết nhng rất khó đảm bảo tính tuyệt đối .
Sự công bằng, trớc hết là phải đặt trong trong quan hệ giữa đóng góp và
đợc hởng. Điều này đợc thể hiên trong nội dung và điều kiên tham gia trong
từng chế độ về BHXH. Xét trên góc độ khác, công bằng còn đặt trongcác quan
hệ xã hội giữa những ngời tham gia BHXH trong từng khu vực hay giữa các
vùng, địa bàn, ngành nghề khác nhau v.v… dựa trên nguyên tắc tính xã hội của
bảo hiểm.
Trên đây là những nguyên tắc phải tính đến khi thiết kếvà thực hiện các
quan hệ và các chế độ về BHXH.
3. Bản chất của BHXH
Bản chất của BHXH đợc thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trờng, mối quan hệ
thuê mớn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển
thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của
BHXH hay BHXH không vợt quá trạng thái kinh tế của mỗi nớc.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên đợc BHXH.
Bên tham gia BHXH có thể chỉ là ngời lao động hoặc cả ngời lao động và ngời
sử dụng lao động. Bên BHXH (Bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thờng là cơ
quan chuyên trách do Nhà nớc lập ra và bảo trợ. Bên đợc BHXH là ngời lao
động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con ngời
nh: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là những
trờng hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên nh: Tuổi già, thai sản v.v.... Đồng
thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của ngời lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những
biến cố, rủi ro sẽ đợc bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung
đợc tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu,
ngoài ra còn đợc sự hỗ trợ từ phía Nhà nớc.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của ngời
lao động trong trờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu
này đã đợc tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá nh sau:
+ Đền bù cho ngời lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu
cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoản và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân c và các nhu cầu
đặc biệt của ngời già, ngời tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con
ngời và đợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn
Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: "Tất cả mọi ngời với t cách là thành viên
của xã hội có quyền hởng bảo hiểm xã hội, quyền đó đợc đặt cơ sở trên sự thoả
mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do
phát triển con ngời".
Ở nớc ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã
hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và u đãi xã
hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nớc và xã hội về thu nhập và các điều
kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên trong xãhội, trong nhng trờng hợp
bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, khôngđủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu
của bản thânvà gia đình. Sự giúp đỡ này dợc thể hiện bằng các nguồn quỹ dự
phòng của Nhà nớc, bằng tiền hoặc hiện vật đíng góp của các tổ chức xã hội và
những ngời hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về cả vật chất và tinh thần của Nhà
nớc, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những ngời hay một bộ phận xã
hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những ngời có công với nớc, liệt
sỹ và thân nhân liệt sỹ, thơng binh,bệnh binh v.v... đều là những đối tợng đợc
hởng sự đãi ngộ của Nhà nớc, của xã hội, u đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là
sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu chính tr ị - kinh tế
- xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nớc trớc mắt và lâu dài,
đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tợng và phạm vi, song BHXH,
cứu trợ xã hội và u đãi xã hội đều là những chính sách xã hội không thể thiếu
đợc trong một quốc gia. Những chính sách này luôn bổ sung cho nhau, hỗ trợ
nhau và tất cả đề góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
4. Chức năng của BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động tham gia bảo
hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng,
mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi ngời lao động khi hết tuổi lao
động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả
năng lao động cũng sẽ đợc hởng trợ cấp BHXH với mức hởng phụ thuộc vào
các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn đợc hởng phải đúng quy định.
Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và
cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những ngời tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có ngời lao động mà cả những ngời sử dụng
lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng
để trợ cấp cho một số ngời lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập.
Số lợng những ngời này thờng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những ngời
tham gia đóng góp. Nh vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện
phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa
những ngời lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những ngời khoẻ mạnh
đang làm việc với những ngời ốm yếu phải nghỉ việc v.v... Thực hiện chức
năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích ngời lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham
gia lao động sản xuất, ngời lao động đợc chủ sử dụng lao động trả lơng hoặc
tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH
trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ
luôn đợc đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, ngời lao động luôn yên tâm,
gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động
sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu
hiện nh một đòn bẩy kinh tế kích thích ngời lao động nâng cao năng suất lao
động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa ngời lao động với ngời sử dụng lao động, giữa ngời
lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, ngời lao động và ngời sử
dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lơng, tiền
công, thời gian lao động v.v... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ đợc
điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà
mình có lợi và đợc bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích
đợc với nhau. Đối với Nhà nớc và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi
ít nhất và có hiệu quả nhất nhng vẫn giải quyết đợc khó khăn về đời sống cho
ngời lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính
tr ị và xã hội đợc phát triển và an toàn hơn.
5. Tính chất của BHXH
BHXH gắn liền với đời sống của ngời lao động, vì vậy nó có một số tính
chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
Nh ở phần trên đã trình bày, trong quá trình lao động sản xuất ngời lao
động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó ngời sử dụng lao động cũng rơi
vào tình cảnh khó khăn không cảm nh: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn
đề tuyển dụng lao động và hợp đồng lao động luôn phải đợc đặt ra để thay thế
v.v... Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với ngời lao động và những
khó khăn đối với ngời sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn
đến mối quan hệ chủ - thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà
nớc phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH. Và nh vậy, BHXH ra đời hoàn
toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nớc.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và
không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH.
Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia
để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian
và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho ngời lao động v.v...
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch
vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ BHXH muốn đợc hình thành,
bảo toàn và tăng trởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải đợc
quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải đợc
tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại cuả tập hợp ngời lao
động tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho ngời lao động
theo các điều kiện của BHXH. Thực chất, phần đóng góp của mỗi ngời lao động
là không đáng kể, nhng quyền lợi nhận đợc là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với
ngời sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm
cho ngời lao động mà mình sử dụng. Xét dới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì
không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang thải cho những ngời lao động bị
mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nớc BHXH góp phầm làm giảm
gánh nặng cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu t đáng kể cho nền
kinh tế quốc dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã hội
của nó thể hiện rất rõ nét. Xét về lâu dài, mọi ngời lao động trong xã hội đều
có quyền tham gia BHXH. Và ngợc lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm
cho mọi ngời lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao
động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền
kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hoá của
BHXH cũng ngày càng cao.
6. Những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH, Các nớc đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và mức
độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tạp quán, khả năng trang trải và
đình hớng phát triển kinh tế - xã hội của nớc mình. Đồng thời, phải nhận thức
thống nhất các quan điểm về BHXH sau đây:
6.1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phần quan
trọng nhất trong chính sách BHXH
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao
động và gia đình họ, khi ngời lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Ở nớc ta, BHXH nằm trong hệ
thống các chính sách và xã hội của Đảng và Nhà nớc. Thực chất, đây là một
trong những loại chính sách đối với ngời lao động nhằm đáp ứng một trong
những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con ngời , nhu cầu an toàn về việc
làm,an toàn lao động,an toàn xã hội v.v... Chính sách BHXH còn thể hiện trình
độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của
mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định,nó còn thể hiện tính u việt của
một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động
lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của ngời lao động trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
6.2. Ngời sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho
ngời lao động
Ngời sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và các
cá nhân có thuê mớn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH
và có trách nhiệm thực hiện các chế độ BHXH đối với ngời lao động mà mình
sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Ngời sử dụng lao động muốn ổn định
sản xuất kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu t để có thiết bị hiện đại,
công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống cho ngời lao động
mà mình sử dụng. Khi ngời lao động làm việc bình thờng thì phải trả lơng thoả
đáng cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
v.v... trong đó có rất nhiều trờng hợp gắn với quá tr ình lao động với những điều
kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ.
Chỉ có nh vậy, ngời lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy
sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu
quả kinh tế cho doanh nghiệp.
6.3. Ngời lao động đợc bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH,
không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp v.v...
Điều đó có nghĩa là mọi ngời lao động trong xã hội đều đợc hởng BHXH
nh tuyên ngôn dân quyền đã nêu,đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và
quyền lợi trợ cấp BHXH. Ngời lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và
không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của ngời khác thì trớc hết đó là rủi
ro của bản thân. Vì thế, muốn đợc BHXH tức là muốn nhiều ngời khác hỗ trợ
cho mìnhlà dàn trải rủi ro của mình cho nhiều ngời khác thì tự mình phải gánh
chịu trực tiếp và trớc hết. Điều đó có nghĩa là ngời lao động phải có trách
nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của ngời lao động về BHXH còn tuỳ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã
hội ổn định thì ngời lao động tham gia và đợc hởng trợ cấp BHXH ngày càng
đông.
6.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
- Tình trạng mất khả năng lao động
- Tiền lơng lúc đang đi làm
- Tuổi thọ bình quan của ngời lao động
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nớc trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, về nguyên tắc trợ cấp BHXH phải thấp hơn lúc đang đi làm,
nhng thấp hơn cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Quan điểm này vừa phải phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh
nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những ngời lao động tham gia BHXH.
Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lơng. Mà tiền lơng là khoản tiền mà
ngời sử dụng lao động trả cho ngời lao động khi họ thực hiện đợc những công
việc hoặc định mức công việc nào đó. Nghĩa là, chỉ ngời lao động có sức khoẻ
bình thờng, có việc làm bình thờng và thực hiện đợc nhất định mới có tiền lơng.
Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc đợc mà trớc đó có tham
gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lơng do
lao động tao ra đợc. Mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lơng thì không một
ngời lao động nào phải có gắng tìm kiếm việc làm và tích cực làm việc để có
lơng, mà ngợc lại sẽ lợi dụng BHXH để đợc nhận trợ cấp. Hơn nữa cách lập
quỹ BHXH theo phơng thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả trợ cấp
BHXH bằng lúc đang làm việc. Và nh vậy thì chẳng khác gì ngời lao động bị
rủi ro và qua rủi ro của mình dàn trải hết cho những ngời khác.
Nh vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng lúc đang đi làm.
Tuy nhiên, do mục đích bản chất và phơng thức BHXH thì mức trợ cấp thấp
hơn cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu.
6.5. Nhà nớc quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực
hiện chính sách BHXH
Bởi vì, BHXH là một bộ phần cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là
nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên,
vai trò của Nhà nớc là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can
thiệp của Nhà nớc, nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc thì mối quan hệ
giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động sẽ không đợc duy trì bền vững,
mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH đợc thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch định
chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp v.v... Vì vậy, Nhà nớc quản
lý toàn bộ quy trình này, hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Trớc hết, phải khảng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu
đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nớc về vấn đề này thể hiện ở
việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực
hiện. Sau đó là hớng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nớc phụ
thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nớc quy định. Có những mô hình về bảo
đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nớc cung cấp thì vai trò quản lý Nhà
nớc là trực tiếp và toàn diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do ngời sử dụng lao
động, ngời lao động và Nhà nớc đóng góp thì Nhà nớc tham gia quản lý.
Để quản lý BHXH, Nhà nớc sử dụng các công cụ chủ yếu nh luật pháp và
bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nớc trên thế giới, việc quản lý vĩ mô
BHXH đều đợc Nhà nớc giao cho Bộ Lao động hoặc bộ xã hội trực tiếp điều
hành.
III. QUỸ BHXH
1. Khái niệm
Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia vào điều kiện lịch sử trong thời kỳ nhất
định của đất nớc. Trình độ kinh tế - xã hội càng phát triển thì các chế độ
BHXH dợc áp dụng càng mở rộng, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với ngời lao
động càng đợc nâng cao và khi kinh tế phát triển,ngời lao động có thu nhập cao,
càng có điều kiện tham gia BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị tr í là khâu tài chính trung
gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời tồn tại và gắn với mục đích
bảo đảm ổn định cuộc sống cho ngời lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm
giảm hoặc mất thu nhập từ lao động, mà không nhằm mục đích kinh doanh
kiếm lời. Nh vậy, Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài
Ngân sách Nhà nớc.
2. Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Ngời sử dụng lao động đóng góp.
- Ngời lao động đóng góp
- Nhà nớc đóng góp và hỗ trợ thêm.
- Các nguồn khác nh: cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu t
phần quỹ nhàn rỗi...
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho
ngời lao động đợc phân chia cho cả ngời sử dụng lao động và ngời lao động
trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là
lợi ích giữa hai bên. Về phía ngời sử dụng lao động, sự đóng góp một phần
BHXH cho ngời lao động sẽ tránh đợc thiệt hại kinh tế do phải chi ra một
khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với ngời lao động mà mình thuê mớn.
Đồng thời nó góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo đợc mối quan
hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía ngời lao động, đóng góp một phần để BHXH
cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có
ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế,
cũng nh nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu
đợc sự tham gia đóng góp của Nhà nớc. Trớc hết là các luật lệ của Nhà nớc về
BHXH là những chuẩn mực pháp lý cho cả ngời lao động và ngời sử dụng lao
động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh vực BHXH có
cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, biện pháp và
mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nớc không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ
thêm cho quỹ BHXH, mà còn chở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động
BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nớc trên thế giới, quỹ BHXH đều đợc hình thành từ các
nguồn trên. Tuy nhiên, phơng thức đóng góp và mức đóng góp của các bên
tham gia BHXH có khác nhau.
Về phơng thức đóng góp BHXH của ngời lao động và ngời sử dụng lao
động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ
vào mức lơng và quỹ lơng của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại
nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của ngời lao động đợc cân đối
chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nớc quy định ngời sử dụng lao động phải
chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và
trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động
cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nớc khác lại quy định,
Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH
v.v...
Mức đóng góp BHXH ở một số nớc trên thế giới
Tên nớc Chính phủ Tỷ lệ đóng góp Tỷ lệ đóng góp
của ngời lao
động so với tiền
lơng (%)
của ngời sử
dụng lao động
so với quỹ lơng
(%)
CHLB
Đức
Bù thiếu 14,8 á 18,8 16,3 á 22,6
CH Pháp Bù thiếu 11,82 19,68
Inđônêxia Bù thiếu 3,0 6,5
Philipin Bù thiếu 2,85 á 9,25 6,85 á 8,05
Malaixia Chi toàn bộ chế
độ ốm đau, thai
sản
9,5 12,75
(Nguồn: BHXH ở một số nớc trên thế giới)
Mức đóng góp BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH.
Vì vậy, quỹ này phải đợc tính toán trên cơ sở khoa học. Trong thực tế, việc xác
định mức đóng góp BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và ngời ta
thờng sử dụng các phơng pháp toán học khác nhau để xác định. Khi xác định
mức đóng góp BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau:
- Dựa vào tiền lơng và thang lơng để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có
cơ sở để xác định mức đóng góp.
- Quy định mức đóng góp BHXH trớc rồi từ đó xác định mức hởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của ngời lao động để xác định mức hởng,
rồi từ mức hởng BHXH này có thể xác định đợc mức đóng góp.
Mặc dù chỉ thuần tuý mamg tính kỹ thuật nhng xác định mức đóng góp
BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan tới cả ngời lao động, ngời sử dụng lao
động và Nhà nớc. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của ngời lao động
và kiều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nớc. Tuy nhiên, khi xác định mức
đóng góp BHXH vẫn phải đảm bảo nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số đông
bù số ít và có dự phòng. Mức đóng góp xác định phải đợc cân đối với mức
hởng, với nhu cấu BHXH và điều chỉnh sao cho tối u nhất.
Mức đóng góp BHXH đợc cấu thành từ 3 bộ phận và đợc xác định theo
công thức:
P = f1 + f2 + f3
Trong đó: P - Mức đóng góp BHXH
f1- Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH
f2- Đóng góp dự phòng
f3- Đóng góp quản lý
Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn.
Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hởng BHXH xảy ra trong thời
gian ngắn (thờng là 1 năm) nh: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ... Vì vậy,
số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế
độ BHXH dài hạn nh: Hu trí mất ngời nuôi dỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp nặng v.v... quá trình đóng góp và quá tr ình hởng tơng đối độc lập
với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự công băng
giữa đóng góp và hởng BHXH phải đợc dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế,
ngoài đóng góp thuần tuý phải có đóng góp dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH
có dự trữ đủ lớn.
Nh vậy, để xác định đợc mức đóng góp và mức hởng BHXH phải dựa vào
nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao
động theo tuổi, giới tính, ngành nghề v.v... ngoài ra còn phải xác định và dự
báo đợc tuổi thọ bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của
ngời lao động v.v...
3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
3.1. Các chế độ BHXH đợc áp dụng phổ biến trên thế giới
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH đợc sử
dụng để trợ cấp cho các đối tợng tham gia BHXH nhằm mục đích ổn định cuộc
sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tợng tham gia bảo hiểm gặp rủi ro.
Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong Công ớc 102
tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho ngời còn sống (trợ cấp mất ngời nuôi dỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo điều
kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Giơnevơ thực hiện khuyến
nghị đó ở mức độ khác nhau, nhng ít nhất phải thực hiện đợc 3 chế độ. Trong
đó, ít nhất phải có một trong 5 chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Mỗi chế độ trong
hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã - hội; tài chính;
thu nhập; tiền lơng v.v... Đồng thời, tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải
tính đến yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia; nhu cầu dinh dỡng;
xác xuất tử vong v.v...
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ đợc xây dựng theo luật pháp mỗi nớc.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế đọ đợc chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền đợc sử dụng làm phơng tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ đợc đầu t có
hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hởng BHXH phải tính đến một loạt
các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng nh tựng chế độ
BHXH cụ thể. Chẳng hạn, khi xác định điều kiện trợ cấp BHXH tuối già phải
dừa vào cơ sớ sinh học là tuổi đời và giới tính của ngời lao động là chủ yếu.
Bởi vì tuổi già để hởng trợ cấp hu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có
những khác biệt nhất định. Do đó, có những nớc quy định: Nam 60 tuổi và nữ
55 tuổi sẽ đợc nghỉ hu. Nhng cũng có những nớc quy định: Nam 65 tuổi và nữ
60 tuổi v.v... Hoặc khi xác định điều kiên hởng trợ cấp cho chế độ tai nan lao
động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố nh: điều kiên và môi trơng
lao động; bảo hộ lao động v.v... Các yếu tố này thờng có quan hệ và tác động
qua lại với nhau ít nhiều ảnh hởng tới điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn
bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hởng trợ cấp và mức hởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc
vào từng trờng hợp cụ thể và thời gian đóng bảo hiểm của ngời lao động, trên
cơ sở tơng ứng giữa đóng và hởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào
khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của
các tầng lớp dân c và ngời lao động. Nhng về nguyên tắc, mức trợ cấp này
không cao hơn mức tiền lơng hoặc mức tiền công khi ngời lao động đang làm
việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tiền lơng hay tiền
công. Ở các nớc kinh tế phát triển do mức lơng cao, nên tỷ lệ này thờng thấp và
ngợc lại ở những nớc đanh phát triển do mức tiền lơng còn thấp nên phải áp
dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ: ở Pháp, mức trợ cấp hu trí chỉ bằng 50% của
mức lơng bình quân 10 năm cao nhất (với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm).
Ốm đau đợc trợ cấp bằng 50% tiền lơng, thời gian nghỉ ốm đợc hởng trợ cấp
không quá 12 tháng. Sinh con đợc hởng trợ cấp bằng 90% tiền lơng trong vòng
16 tuần v.v... Còn ở Philipin, mức trợ cấp hu trí từ 42% đến 102%tuỳ thuộc vào
nhóm lơng khác nhau. Ốm đau đợc hởng 65%, sinh con đợc nghỉ 45 ngày và
đợc hởng bằng 100% tiền lơng v.v...
Tuy vậy, việc các nớc qui định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm tiền
lơng so với tiền lơng hay tiền công thờng dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy,
một số nớc đã phải tìm cách khắc phục nh: trả ngay một lần khi nghỉ hu (Nhật
bản một lần khi nghỉ hu là 15 triệu yên; Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia trả một lần
bằng tổng số tiền mà chủ và thợ đã đóng góp cộng với lãi) hoặc suốt đời đóng
theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy đinh và hởng cũng theo tỷ lệ
phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn đợc sử
dụng cho chi phí quản lý nh: tiền lơng chi trả cho ngũng ngời làm việc trong hệ
thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi
khác v.v... Phần quỹ nhàn rỗi phải đợc đem đầu t sinh lời. Mục đích đáu t quỹ
BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trởng nguồn quỹ.
Qúa trình đầu t quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận,
có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội.
3.2. Các chế độ BHXH đang đợc thực hiện ở Việt Nam hiện nay
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nớc ta hiện nay bao gồm
5 chế độ:
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
3. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hu tr í
5. Chế độ tử tuất
So với trớc đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động bị loại bỏ. Nội dung của 5
chế đọ nêu trên đợc quy định thống nhất trong chơng II của Điều lệ. Mỗi chế
độ BHXH khi xây dựng đều căn cứ vào một loạt những cơ sở nh: sinh học; kinh
tế - xã hội; điều kiện và môi trờng lao động v.v...
4. Cơ chế quản lý quỹ BHXH
4.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH
Để thực hiện tốt mục đích của quỹ BHXH, trong quá trình quản lý điều hành hoạt
động quỹ BHXH cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Tài chính BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu, chi của quỹ
phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để bảo đảm quyền lợi cho ngời
tham gia BHXH. Vì thế, tổ chức quản lý điều hành quỹ BHXH phải đợc tổ chức độc lập
thống nhất trong phạm vi cả nớc trên cơ sở pháp luật của Nhà nớc đã ban hành và chịu sự
kiểm tra, giám sát, quản lý của Nhà nớc về chấp hành pháp luật BHXH đối với các bên
tham gia BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì mới có điều kiện theo
dõi, kiểm tra, giám sát công việc thu, chi của quỹ, tăng cờng công tác quản lý quỹ và mới
có điều kiện để quản lý, sử dụng vốn nhàn rỗi trong cơ chế thị trờng có lợi nhất, không
ngừng tinh giảm biên chế gọn nhẹ, giảm chi phí quản lý hành chính, nghiệp vụ hoạt động
BHXH. Để bảo vệ quyền lợi cho ngời lao động, Nhà nớc cần phải luật pháp hoá việc đầu t
vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo điều kiện tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức
BHXH về kết quả đầu t bảo toàn và phát triển vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, phù hợp với
cơ chế thị trờng.
Việc quản lý điều hành tăng trởng quỹ phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn đợc vốn,
không làm vốn bị tổn thất, còn phải làm cho vốn sinh lợi. Việc đầu t vốn nhàn rỗi của quỹ
BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Bảo đảm chắc chắn, an toàn tuyệt đối, có khả năng thanh khoản cao.
+ Phải có lãi.
+ Phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thờng xuyên việc chi trả các chế độ BHXH phát
sinh.
Vì thế, các hình thức đầu t phải linh hoạt, đa dạng nhng phải chặt chẽ theo những
nguyên tắc và yêu cầu nêu trên. Thực hiện tốt việc đầu t vốn nhàn rỗi , quỹ BHXH không
chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn mà còn bảo đảm quyền lợi cho ngời lao động
trên thực tế. Tổ chức quản lý quỹ đầu t tăng trởng vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải tuân
theo nguyên tắc hạch toàn kinh doanh.
- Phải bảo đảm quyền lợi của ngời lao động tơng ứng với nghĩa vụ đóng góp của họ.
Trong nền kinh tế thị trờng, ngời lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng
hởng chế độ BHXH. Song ngời lao động muốn đợc hởng quyền lợi về BHXH thì họ phải
có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo các phơng thức thích hợp (bắt buộc hay tự nguyện, ít
chế độ hay nhiều chế độ BHXH...) thờng xuyên đều đặn trong những tháng, năm còn tuổi
lao động. Quyền lợi đợc hởng phải phù hợp với mức đóng góp và thời gian đóng góp
BHXH của từng ngời lao động theo quy định của pháp luật. Vì thế, để tạo nguồn tài chính
ổn định cho quỹ BHXH, ngoài sự đóng góp của ngời lao động, ngời sử dụng lao động Nhà
nớc cũng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Trong trờng hợp Nhà nớc thay đổi chính sách
kinh tế - xã hội làm mất cân đối quỹ, hoặc do các rủi ro bất khả kháng, Nhà nớc phải có
trách nhiệm trợ giúp quỹ BHXH để đảm bảo chi trả có các đối tợng hởng chế độ BHXH.
Số tiền đóng góp phảo đợc tính trên cơ sở số tiền lơng hoặc thu nhập và đợc hạch toán
vào giá thành sản phẩm. Do vậy, những đơn vị sử dụng lao động trốn tránh nghĩa vụ đóng
góp BHXH, phải xử lý thật nghiêm túc. Vì họ trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH không
những xâm phạm đến quyền lợi BHXH của ngời lao động, mà còn gây ra bất bình đẳng
với các đơn vị sử dụng lao động thực hiện nghiêm túc đóng BHXH.
Thực hiện nguyên tắc này sẽ xoá bỏ đợc bao cấp trong chế độ BHXH, tạo ra sự bình
đẳng giữa ngời lao động trong các thành phần kinh tế, tạo ra khả năng cân đối thu, chi quỹ
BHXH, xoá bỏ đợc sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp nâng lơng bừa bãi cho ngời
lao động trớc khi về hu để đợc hởng trợ cấp hu trí cao hơn.
- Hoạt động BHXH không mang tính chất kinh doanh mà mang tính chất của quỹ
tơng hỗ bảo hiểm. Mục đích hoạt động của quỹ BHXH trớc hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho
ngời lao động khi gặp rủi ro BHXH, sau nữa bảo đảm an toàn cho xã hội và nền kinh tế.
Hoạt động BHXH chủ yếu dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” mang tính chất cộng
đồng, tính chất xã hội giữa những ngời lao động, trừ chế độ bảo hiểm hu trí và tử tuất là
dựa chủ yếu trên nguyên tắc hoàn trả trực tiếp. Các khoản đóng góp vào quỹ BHXH phụ
thuộc vào mức độ sử dụng chi trả của các chế độ BHXH, nếu quỹ không đủ bù đắp thì
phải nâng mức đóng góp hoặc hạ thấp mức chi trợ cấp BHXH để bảo đảm quỹ luôn luôn
cân đối giữa thu và chi. Nguyên tắc cơ bản quản lý quỹ BHXH là phải cân đối thu với chi,
chính vì vậy đòi hỏi cơ quan quản lý quỹ BHXH phải tổ chức công tác kế toán, kiểm tra sử
dụng một cách chặt chẽ, đúng pháp luật, sử dụng tiền nhàn rỗi đầu t sinh lợi có hiệu quả,
quỹ đợc bảo toàn và phát triển để có điều kiện bảo đảm quyền lợi cho ngời lao động hoặc
giảm đợc sự tài trợ của Nhà nớc.
- Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế tạo và sử dụng quỹ BHXH phải trên cơ sở thực
trạng phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nớc. Phải tiến
hành đồng bộ với việc đổi mới, hoàn thiện cách chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội
có liên quan nh chính sách lao động và việc làm, chính sách thu nhập, tiền lơng, tiền công,
chăm sóc y tế, kế hoạch hoá gia đình và các chính sách kinh tế - xã hội khác. Bởi vì, chính
sách cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nớc, nó phải phù hợp với điều kiện và trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc, phù hợp với mức độ phát triển của từng loại lao
động (ít hay nhiều chế độ BHXH). Đặc biệt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, lao động tự do, có nh vậy BHXH mới tồn tại và phát triển vững chắc, phù
hợp với sự phát triển của các thành phần kinh tế của đất nớc. Mặt khác, Nhà nớc chỉ bảo
trợ quỹ BHXH khi Nhà nớc có những thay đổi các chính sách kinh tế xã hội làm mất cân
đối thu, chi quỹ BHXH hoặc do các rủi ro bất khả kháng làm mất cân đối thu, chi quỹ
BHXH.
Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản cần phải quán triệt trong tổ chức và quản lý quỹ
BHXH làm cơ sở cho việc cải tiến, hoàn thiện các chế độ, chính sách BHXH ở nớc ta
trong thời gian tới.
4.2. Cơ chế quản lý quỹ BHXH ở nớc ta
4.2.1. Giai đoạn trớc 1995
Quỹ BHXH hoạt động dới sự quản lý của Bộ Lao động - Thơng binh & Xã hội và
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đây chính là 2 cơ quan trực tiếp quản lý BHXH. Cơ
chế quản lý quỹ BHXH do 2 ngành đảm nhiệm đợc thống nhất theo ngành dọc từ Trung
ơng đến điạ phơng theo 3 cấp:
Cấp Trung ơng : Bộ Lao động - Thơng binh & Xã hội; Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam.
Cấp tỉnh : Sở Lao động - Thơng binh & Xã hội; Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố.
Cấp huyện : Phòng Lao động - Thơng binh & Xã hội; Các Công đoàn cơ sở.
Cơ quan thứ hai cùng phối hợp quản lý quỹ BHXH là cơ quan Tài chính các cấp. Cơ
quan này có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của quỹ BHXH. Vì cơ quan Tài chính
có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ và kịp thời nguồn kinh phí để 2 ngành là Bộ Lao động thơng
binh và xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phân phối chi trả cho các đối tợng
đợc hởng. Cơ quan Tài chính cũng đợc chia ra làm 3 cấp tơng ứng là:
Cấp Trung ơng : Bộ Tài chính
Cấp Tỉnh : Sở Tài chính
Cấp Huyện : Phòng Tài chính
Ngoài 2 ngành có liên quan chính đến hoạt động của quỹ BHXH chúng ta còn thấy
vai trò rất quan trọng của các cấp chính quyền địa phơng. Đó là UBND tỉnh, huyện và xã.
Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội và Công đoàn Việt Nam muốn quản lý tốt các đối
tợng đợc hởng BHXH thì phải thông qua UBND ở từng địa phơng.
Tất cả các cơ quan nêu trên đều có vai trò nhất định trong công tác quản lý quỹ
BHXH. Các cơ quan này cùng phối hợp hoạt động với nhau nhằm thực hiện mục tiêu
chung là quản lý quỹ BHXH có hiệu quả nhất đem lại lợi ích cho ngời lao động.
Sơ đồ cấp phát kinh phí
4.2.2. Giai đoạn từ 1995 - đến nay
Để triển khai thực hiện chế độ, chính sách BHXH trong thời kỳ đổi mới,
ngày 16/2/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP về việc thành lập tổ
chức BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất và tổ chức BHXH ở Trung ơng và
địa phơng thuộc hệ thống Lao động - Thơng binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam quản lý, để giúp Thủ tớng Chính phủ chỉ đạo, quản lý quỹ
BHXH và thực hiện các chính sách, chế độ BHXH theo pháp luật của Nhà nớc.
Và bắt đầu từ 1/10/1995, hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam từ
Trung ơng đến địa phơng đã chính thức đi vào hoạt động.
BHXH Việt Nam đặt dới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tớng Chính phủ ,
chịu sự quản lý Nhà nớc của Bộ Lao động - Thơng binh & Xã hội , các cơ quan
Nhà nớc về lĩnh vực có liên quan và sự giám sát của Tổ chức Công đoàn.
Hệ thống BHXH Việt Nam hiện nay gồm :
- Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam, là cơ quan quản lý cao nhất của
BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam thực hiện một số nhiệm
vụ chủ yếu sau: Chỉ đạo và giám sát, kiểm tra việc thu, chi, quản lý quỹ BHXH;
quyết định các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trởng quỹ BHXH; thẩm tra
quyết toán và thông qua dự toán hàng năm; kiến nghị với Chính phủ và các cơ
quan quản lý Nhà nớc có liên quan bổ sung sửa đổi các chính sách, chế độ
BHXH; giải quyết các khiếu nại của ngời tham gia BHXH; đề xuất việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam.
Các thành viên Hội đồng quản lý là đại diện có thẩm quyền của Bộ Bộ Lao
động - Thơng binh & Xã hội, Bộ Tài chính, và Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Uỷ viên Hội đồng quản lý là Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Các thành
viên này do Thủ tớng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ
Trởng, Trởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ.
- BHXH Việt Nam, là cơ quan điều hành trực tiếp cao nhất của hệ thống
BHXH Việt Nam, do Tổng giám đốc trực tiếp điều hành và các Phó Tổng Giám
đốc giúp việc.
- Cơ chế quản lý quỹ BHXH Việt Nam đợc tổ chức thành hệ thống ngành
dọc từ trung ơng đến địa phơng theo 3 cấp:
+ Ởở Trung ơng là cơ quan BHXH Việt Nam
+ Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng là các BHXH tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ơng (gọi tắt là BHXH tỉnh).
+ Ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là các BHXH quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là BHXH huyện).
Tuy nhiên, để BHXH Việt Nam hoạt động có hiệu quả thì ngành BHXH
còn phải kết hợp với Bộ Tài chính, Chính quyền, UBND các cấp và mạng lới các
ban chi trả BHXH ở các địa phơng.
Sơ đồ hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam
(Xem phụ lục)
Quỹ BHXH Việt Nam đợc hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn sử dụng lao động đóng bằng 15% tổng quỹ lơng của những ngời
tham gia BHXH trong đơn vị.
- Ngời lao động đóng bằng 5% tiền lơng hàng tháng của mình.
- Ngân sách Nhà nớc đóng và hỗ trợ thêm để bảo đảm thực hiện các chế độ
BHXH đối với ngời lao động.
- Các nguồn thu khác.
Quỹ BHXH đợc quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nớc,
hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nớc và đợc Nhà nớc bảo hộ quỹ BHXH
đợc sử dụng để chi cho 5 chế độ mà điều lệ BHXH đã qui định. Đồng thời đợc
sử dụng để chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp, các ngành. Phần
nhàn rỗi đợc phép đầu t để bảo tồn giá trị và tăng trởng quĩ theo qui định của
Chính phủ.
PHẦN THỨ HAI
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
I. GIAI ĐOẠN TRỚC 1/10/1995
1.Tình hình thu nộp và quản lý quỹ BHXH do Liên đoàn Lao động Việt
Nam quản lý
Trong suốt gần 34 năm quản lý BHXH, Liên đoàn Lao động Việt Nam thu
không đủ bù chi, Nhà nớc thờng xuyên phải hộ trợ và đây chính là gánh nặng
cho Ngân sách Nhà nớc trong một thời gian dài. Đặc điểm nổi bật của hoạt
động BHXH trong giai đoạn này là tổng thu BHXH đạt đợc rất thấp. Những
năm trớc 1987 tỷ lệ đóng BHXH là 4,7% quỹ lơng, trong đó tỷ lệ trích nộp chi
trả lơng hu chỉ là 1%, chính vì vậy tỷ trọng Ngân sách Nhà nớc hỗ trợ cho chế
độ này là rất lớn. Trong thời kỳ này, phần thu dùng để chi trả cho lơng hu luôn
thấp hơn phần chi trả các chế độ BHXH tức thời (ốm đau, thai sản...). Sau này
việc nâng tỷ lệ nộp BHXH lên 15% tổng quỹ lơng thì phần dành cho chi trả
lơng hu cũng đã tăng lên. Tuy vậy, do số ngời đợc hởng lơng hu tăng nhanh,
cộng thêm vào đó là khó khăn của nền kinh tể trong những năm bao cấp, tình
trạng thiếu việc làm diễn ra ở nhiều nơi nên kết quả thu nộp BHXH đạt đợc
thấp, Ngân sách Nhà nớc phải hỗ trợ ở mức cao, đặc biệt là từ năm 1990 với
việc thực hiên Nghị định số 176/CP và 11/CP về giảm biên chế.
Để phân tích cụ thể hơn tình hình thực tế công tác thu và quản lý quỹ
BHXH trong suốt thời kỳ trớc năm 1995 khi Tổng Công đoàn Việt Nam quản lý
chia thành 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn từ 1962 đến 1963.
- Giai đoan từ 1964 đến 1986.
- Giai đoan từ 1987 đến tháng 9 năm 1995.
1.1. Giai đoạn 1962 - 1963
Ngày 27/12/1961 Chính phủ ban hành Nghị định số 218/CP quyết định
giao cho Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam (sau này là Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam) quản lý các chế độ thu chi BHXH; theo đó quy định mức thu
BHXH là 4,7% tổng quỹ lơng cán bộ công nhân viên chức làm việc trong khu
vực Nhà nớc, riêng đối với công nhân viên chức và quân nhân phục vụ trong
lực lợng vũ trang thì không thu BHXH nhng vẫn thuộc diên hởng các chế độ,
chính sách BHXH vì bộ phận này đợc Ngân sách Nhà nớc đài thọ hoàn toàn.
Nguồn thu này dùng để chi trả trợ cấp cho 6 chế độ BHXH: ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hu trí, tử tuất, mất sức lao động, khoản
thiếu hụt sẽ đợc Ngân sách Nhà nớc bù thiếu.
Trên cơ sở Nghị định 218/CP, Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam đã ra
quyết định số 364/CP ngày 2/4/1962 xây dựng các nguyên tắc quản lý phân cấp
thu chi các chế độ BHXH. Theo quyết định thì việc quản lý quỹ BHXH đợc
thực hiện ở 3 cấp quản lý:
- Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam là cấp tổng dự toán thu và chi
BHXH.
- Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng và một số
Công đoàn ngành là bộ phận dự toán cấp 1.
- Công đoàn cơ sở là đơn vị dự toán cấp 2.
Công tác quản lý thu chi đợc quy định cụ thể cho từng cấp theo nguyên tắc
cấp trên duyệt dự toán quý và năm cho cấp dới. Việc thu nộp BHXH từ các cấp
công đoàn cơ sở lên các đơn vị dự toán cấp 1 đợc tính theo phơng thức chênh
lệch giữa số phải thu nộp với số tạm ứng chi cho các chế độ BHXH tại các đơn
vị dự toán cấp 2 theo quy định. Cơ chế hạch toán trên đáp ứng đợc yêu cầu
quản lý kinh tế, phù hợp với tình hình tổ chức bộ máy và trình độ cán bộ ở các
thời điểm này và vì vậy công tác thu BHXH đã đạt đợc tỷ lệ khá so với kế
hoạch đề ra, ta có thể thấy điều đó qua bảng 1 sau:
Bảng 1: TÌNH HÌNH THU BHXH CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1962 – 1963
Năm
Kế hoạch
thu Bảo
hiểm xã
hội
(1000
đồng)
Số thu Bảo hiểm xã hội
(1000 đồng)
Thực hiện
so kế
hoạch
(%)
Tổng số Thực thu
(Thu
4,7%)
NSNN
hỗ trợ
(1) (2) (3) (4) (5) (6)=(4):
(2)
1962
1963
19.975
22.021
13.055
20.597
13.055
20.597
-
-
65,36
93,53
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Trong giai đoạn này, Ngân sách Nhà nớc không phải hỗ trợ cho việc chi trả
các chế độ BHXH. Điều này là do việc thực hiên BHXH đang ở trong giai đoạn
đầu, nên việc chi trả thấp, chủ yếu là chi trả cho những chế độ ngắn hạn. Tỷ lệ
thu nộp BHXH đạt mức 65,36% và 93,53% tơng ứng với các năm 1962 và 1963
1.2. Giai đoạn 1964 - 1986
Để phù hợp với yêu cầu quản lý mới theo Quyết định số 62/CP ngày
10/4/1064 của Hội đồng Chính phủ (nay là Thủ tớng Chính phủ) giao bớt nhiệm
vụ quản lý một phần của quỹ BHXH cho Bộ Nội vụ (sau này là Ngành lao động
- Thơng binh & Xã hội) với số thu 1% trong số 4,7% quỹ lơng. Trong đó, Tổng
Công đoàn Lao động Việt Nam quản lý ba chế độ BHXH ngắn hạn là: chế độ
trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp. Bộ Nội vụ quản lý ba chế độ BHXH dài hạn là: chế độ hu tr í, chế
độ tử tuất, chế độ mất sức lao động. Thực hiện Quyết định này, Tổng Công
đoàn Lao động Việt Nam đã cùng Bộ Nội vụ ra Thông t số 13-NV ngày
23/4/1964 hớng dẫn công tác bàn giao nhiệm vụ thu từ quý III năm 1964 cho
Bộ Nội vụ. Các khoản thu BHXH trong quý I và quý II năm 1964 thuộc phần
quản lý của Bộ Nội vụ sẽ đợc Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam bàn giao
phần chênh lệch còn lại sau khi đã trừ đi các khoản trợ cấp thuộc trách nhiệm
thanh toán của Bộ Nội vụ.
Bảng 2: TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH DO TỔNG CÔNG ĐOÀN LAO
ĐỘNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1964 – 1986
Năm
Kế hoạch
thu Bảo
hiểm xã
hội
(1000
đồng)
Số thu Bảo hiểm xã hội
(1000 đồng)
Thực hiện
so kế
hoạch
(%)
Tổng số Thực thu
(Thu
3,7%)
NSNN
hỗ trợ
(1) (2) (3) (4) (5) (6)=(4):
(2)
1964
1965
1966
1967
1968
1969
1970
1971
1972
1973
1974
1975
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
20.806
22.692
26.000
28.030
29.721
33.086
34.151
35.779
34.398
36.216
43.290
42.376
53.650
63.684
73.402
76.082
79.160
121.474
239.499
294.693
410.261
203.315
812.900
19.915
18.590
21.149
26.294
27.364
37.044
49.310
57.639
48.659
51.946
54.180
65.884
69.199
85.764
59.019
92.112
96.547
163.417
240.878
380.303
497.857
227.547
1.050.84
19.915
18.590
21.149
23.294
21.364
25.044
29.310
30.639
31.159
34.946
39.180
42.884
47.199
64.764
73.019
79.112
81.547
127.417
219.878
310.303
445.857
208.147
940.842
-
-
-
3.000
6.000
12.000
20.000
27.000
17.500
17.000
15.000
23.000
22.000
21.000
22.000
13.000
15.000
36.000
21.000
70.000
52.000
19.400
110.000
95,72
81,92
81,34
83,10
71,88
75,69
85,82
85,63
90,58
96,49
90,51
101,20
87,98
101,70
99,48
103,98
103,02
104,89
91,81
105,30
108,68
102,38
115,74
2(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Trong quá trình bàn giao nhiệm vụ, Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam
đã làm tốt nhiệm vụ hạch toán chi tiết từng khoản thu - chi BHXH, tách từng
phần thu 1% và 3,7% theo yêu cầu của Nghị định 218/CP nên việc bàn giao
nhìn chung không gặp khó khăn. Trong năm 1964 Tổng Công đoàn Lao động
Việt Nam đã bàn giao cho Bộ Nội vụ 1 triệu đồng, với công tác chi cho ba chế
độ từ khoản thu 1% tổng quỹ lơng công nhân viên chức Nhà nớc. Việc thực
hiện công tác thu của Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam đã gắn trách nhiệm
chi cụ thể cho các cơ sở đợc sử dụng quỹ BHXH để chi cho công tác quản lý.
Vì vậy, kết quả thu 3,7% đạt khá cao, năm thấp nhất về thu BHXH cũng đạt
71,88% (1968) kế hoạch đặt ra, năm cao nhất đạt 115,74% (1986) kế hoạch,
bình quân cả giai đoạn (1964 - 1986) đạt 94,12% kế hoạch thu hàng năm.
Qua bảng 2 ta có thể thấy, tình hình thu nộp BHXH so với kế hoạch đặt ra
đợc thực hiện khá tốt, hầu hết các năm đều đạt đợc ở mức trên 90%, đặc biệt là
những năm cuối thập niên 70 và đầu 80 có nhiều năm vợt năm mức chỉ tiêu đặt
ra (trên 100%). Tuy có những năm vợt mức kế hoạch nhng có thể thấy rõ là
việc quy định tỷ lệ đóng BHXH cho các chế độ ngắn hạn cha hợp lý bởi những
năm mà vợt chỉ tiêu thu nộp BHXH cũng chính là những năm mà Ngân sách
Nhà nớc phải hỗ trợ rất lớn. Đơn cử năm 1986 vợt mức kế hoạch 15,74% (là
năm vợt mức kế hoạch cao nhất) nhng cũng chính là năm Ngân sách Nhà nớc
phải hỗ trợ tới 110 triệu đồng. Thực tế này đã đặt ra vấn đề phải thay đổi trong
tỷ lệ đóng góp để giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách Nhà nớc, đồng thời cần
có sự tổ chức hợp lý hơn để nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH.
1.3. Giai đoạn từ 1986 đến tháng 9/1995
Theo Quyết định số 181/HĐBT ngày 30/10/1986 của Hội đồng Bộ trởng,
mức đóng góp vào quỹ BHXH nâng từ 3,7% lên 5% tổng quỹ lơng. Mục đích
của việc tăng tỷ lệ thu BHXH nhằm giảm bớt phần trợ cấp của Ngân sách Nhà
nớc cho Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam trong việc thực hiện các chế độ
BHXH cho ngời lao động.
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm đóng góp BHXH của các đơn vị tham
gia BHXH, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có công văn ra ngày
26/4/1989 về việc phân cấp quản lý quỹ BHXH. Trên cơ sở công văn này, Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam đã giao quyền chủ động cho công đoàn cơ sở
trong việc quyết định chi các chế độ BHXH. Thông qua phân cấp quản lý tỷ lệ
chi các chế độ BHXH nên đã quy định cụ thể việc quản lý quỹ BHXH, xây
dựng các định mức trích nộp kinh phí BHXH lên công đoàn cấp trên. Hơn thế
nữa, để khuyến khích các công đoàn cơ sở trong việc thực hiện thu nộp BHXH
nhanh chóng kịp thời, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đề ra chế độ tr ích
thởng 1% số thu đợc để làm quỹ khen thởng cho đơn vị cơ sở đã thực hiện tốt
công tác thu nộp BHXH. Tình hình thu BHXH trong giai đoạn này đợc thể hiên
qua bảng 3:
Bảng 3: TÌNH HÌNH THU BHXH HÀNG NĂM CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN
LAO ĐỘNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1987 ĐẾN THÁNG 9/1995
Năm
Kế hoạch
thu Bảo
hiểm xã
hội
(1000
đồng)
Số thu Bảo hiểm xã hội
(1000 đồng)
Thực
hiện so
kế
hoạch
(%)
Tổng số Thực thu
(Thu 5%)
NSNN
hỗ trợ
(1) (2) (3) (4) (5) (6)=(4):
(2)
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
9-
1995
4.354.431
22.476.380
66.328.865
68.328.865
66.545.000
21.011.900
0
212.073.00
0
280.797.00
0
180.007.00
0
4.847.600
16.572.170
56.738.666
58.638.660
60.130.000
159.736.00
0
201.395.00
0
250.395.00
0
152.530.00
0
4.742.600
16.427.170
56.738.666
58.638.660
60.130.000
159.736.00
0
196.019.00
0
250.395.00
0
152.530.00
0
105.000
100.000
-
-
-
-
5.376.00
0
-
-
108,91
73,08
85,54
85,82
90,36
76,02
92,43
89,17
84,74
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng trên ta thấy, việc nâng mức thu từ 3,7% lên 5% tổng quỹ lơng
trong giai đoạn này do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý đã có
những kết quả bớc đầu. Nếu nh trong giai đoạn 1964 - 1986 Ngân sách Nhà nớc
thờng xuyên phải cấp bù với số tiền không nhỏ thì đến giai đoạn 1987 - 1995
sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nớc đã giảm, mặc dù phần trăm hoàn thành chỉ
tiêu thu nộp còn ở mức khiêm tốn. Thực tế này cho thấy, trong các giai đoạn
công tác kế hoạch thu dờng nh cha sát với thực tế (năm có tỷ lệ thu cao thì
Ngân sách Nhà nớc phải hỗ trợ nhiều và ngợc lại). Cụ thể, năm 1987 thu BHXH
đạt 108,91% kế hoạch, Ngân sách Nhà nớc hỗ trợ 105 triệu đồng trong khi đó
năm 1989 thu đạt 85,54% kế hoạch nhng Ngân sách Nhà nớc không phải hỗ trợ.
Bảng 4: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THU BHXH DO TỔNG LIÊN ĐOÀN
LAO ĐỘNG VIỆT NAM QUẢN LÝ TỪ 1962 – 1995
Năm Thực thu
(1000 đồng)
Tỷ lệ thu so với
chi (%)
Cân đối thu -
chi
(1000 đồng)
1962
1965
1970
1975
13.055
18.590
29.310
42.884
87,62
97,36
58,51
68,06
-1.845
-504
-20.785
-20.121
1980
1985
1990
1991
1992
1993
1994
9-1995
81.847
208.147
58.638.660
60.130.000
159.736.000
196.019.000
250.395.000
152.530.000
84,28
115,08
158,63
68,67
113,36
92,47
84,34
90,11
-15.267
27.283
21.673.232
-27.435.033
18.827.672
-15.970.616
-46.945.810
-16.740.891
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 4 trên ta có thể dễ dàng nhận thấy tình hình thu BHXH trong thời
kỳ 1962 – 1995 thờng không đủ bù chi; đặc biệt là những năm 1991 và 1994 số
thu chỉ đạt tơng ứng là 68,67% và 84,34% so với số chi. Kết quả trên cũng có
nghĩa là trong các năm đó Ngân sách Nhà nớc đã phải chuyển sang cho chi trả
các chế độ BHXH những khoản tiền không nhỏ.
*Nhận xét:
Qua các số liệu tình hình thu BHXH do Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam quản lý ta có một số nhận xét sau:
- Công tác thu BHXH do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
trong thời gian dài có kết quả tơng đối tốt (trong thời kỳ 1964 - 1986 đều đạt
kết quả ở mức khá cao, trong đó có những năm vợt kế hoạch đặt ra). Tuy nhiên,
cũng cần nhìn nhận một thực tế là những năm có tỷ lệ thu cao so với kế hoạch
đề ra cũng lại là những năm Ngân sách Nhà nớc phải trợ cấp lớn do quy định về
tỷ lệ đóng BHXH trên tổng quỹ lơng cho các chế độ ngắn hạn cha hợp lý và vì
vậy việc thay đổi tỷ lệ đóng BHXH cho các chế độ trên là một thực tế khách
quan.
- Chúng ta nên ghi nhận tính chủ động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam trong việc kiến nghị với Nhà nớc về vấn đề nâng mức thu BHXH từ 3,7%
lên 5% tổng quỹ lơng để bảo đảm cân đối thu - chi cho quỹ BHXH. Kết quả thu
BHXH trong giai đoạn 1987 đến 9/1995 đã đợc cải thiện rõ rệt thể hiện ở con
số trợ cấp từ Ngân sách Nhà nớc đã giảm đi đáng kể.
2. Tình hình thu nộp và quản lý quỹ BHXH do Ngành Lao động - Thơng
binh & Xã hội quản lý
Để phù hợp với mục tiêu và yêu cầu quản lý mới, ngày 10/4/1964 Hội đồng
Chính phủ (nay là Thủ tớng Chính phủ) đã có Quyết định số 62/CP giao cho Bộ
Nội vụ (sau này là Bộ Lao động -Thơng binh & Xã hội) quản lý một phần quỹ
BHXH, cụ thể là quản lý 3 chế độ dài hạn:
- Chế độ hu trí
- Chế độ tử tuất
- Chế độ mất sức lao động
Trong giai đoạn này, tỷ lệ thu nộp BHXH đợc quy định ở mức thấp là 1%
tổng quỹ lơng, hơn nữa còn thực hiện trong một thời gian dài (từ năm 1964 đến
giữa năm 1986) vì vậy việc chi trả trợ cấp BHXH cho ba chế độ trên thực sự
trở thành gánh nặng cho Ngân sách Nhà nớc. Nhận thức đợc vấn đề không hợp
lý trong việc quy định tỷ lệ đóng 1% tổng quỹ lơng cho các chế độ dài hạn (hu
tr í, tử tuất, mất sức lao động) và không có ý nghĩa thực tiễn trong cân đối thu -
chi và đặc biệt không nâng cao đợc vai trò, trách nhiệm của các doanh nghiệp,
đơn vị sản xuất kinh doanh. Hội đồng Bộ trởng đã sửa đổi tỷ lệ tr ích nộp
BHXH do Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội quản lý từ 1% lên 10% tổng
quỹ lơng, trong đó 2% dành để lại cơ sở làm trợ cấp khó khăn cho công nhân
viên chức. Nh vậy, con số chính thức mà Bộ Lao động - Thơng binh & Xã hội
thu là 8% tổng quỹ lơng, song trên thực tế mức thu này đạt tỷ lệ thấp hơn mà
nguyên nhân là do tình hình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp gặp nhiều
khó khăn và do ý thức đóng BHXH của các đơn vị và doanh nghiệp cha cao.
Sau Đại hội VII của Đảng, đi đôi với cải cách một bớc chế độ tiền lơng,
chế độ chính sách về BHXH, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ra Nghị định 43/CP
nâng mức thu BHXH do Bộ lao động - Thơng binh & Xã hội quản lý từ 8% lên
15% tổng quỹ lơng. Trong gần 32 năm quản lý 3 chế độ BHXH, Ngành Lao
động - Thơng binh & Xã hội thu BHXH đạt tỷ lệ thấp và ngân sách Nhà nớc
phải hỗ trợ với số tiền lớn, với mức trợ cấp bình quân hàng năm chiếm 74,74%
so với chi.
Thời gian Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội quản lý, tình hình thực
tế công tác thu và quản lý quỹ BHXH đợc chia thành 2 giai đoạn lớn sau:
- Giai đoạn từ 1964 đến 1987
- Giai đoàn từ 1988 đến tháng 9/1995
2.1. Giai đoạn 1964 - 1987
Trong giai đoạn từ 1964 đến 1987 áp dụng mức thu 1% tổng quỹ lơng cho
các chế độ: trợ cấp hu trí, tử tuất, mất sức lao động. Khi đi vào hoạt động
ngành đã nhận bàn giao kinh phí từ Tổng Công đoàn Lao đông Việt Nam
chuyển sang là 1 triệu đồng của năm 1963 và năm 1964 đã thu đợc 4,418 triệu
đồng. Trong 2 năm đầu thu BHXH theo quy định của Nhà nớc đã đảm bảo chi
trả gần đủ cho 14.933 đối tợng đợc hởng lơng hu, chi trả trợ cấp mất sức lao
động và trợ cấp tuất cho công nhân viên chức từ trần. Trong những năm tiếp
theo, số thu từ khoản tr ích nộp 1% tổng quỹ lơng của các đơn vị tăng rất chậm,
việc thực hiện nộp tiền BHXH theo quy định không đợc chấp hành nghiêm
chỉnh, đồng thời số ngời đợc hởng các chế độ BHXH ngày càng tăng. Chính vì
vậy, phần hỗ trợ của Ngân sách Nhà nớc cũng ngày càng tăng lên. Để phân tích
cụ thể hơn ta xem xét các thời kỳ sau:
2.1.1. Thời kỳ 1964 - 1975
BHXH đợc thực hiện trong giai đoạn này với ý nghĩa nhằm bảo đảm các
chính sách xã hội của hậu phơng lớn để thực hiện nhiệm vụ giải phóng Miền
nam thống nhất đất nớc, số thu BHXH so với mức dự kiến thu từ tổng quỹ lơng
đạt kết quả khá, có những năm nh 1975 đạt 93,46% kế hoạch thu. Đạt đợc kết
quả này là do Ngân sách Nhà nớc bao cấp về tiền lơng, về cung cấp vật t và
tiêu thụ sản phẩm, số thu 1% không đáng kể và đợc Nhà nớc cho phép tính vào
chi phí sản xuất nên các đơn vị sản xuất kinh doanh đều có điều kiện thực hiện.
Ngoài ra, đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp việc kiểm soát chi chặt chẽ,
việc chấp hành các chế độ tài chính đợc thực hiện nghiêm túc, các khoản chi
tiền lơng do Bộ Tài chính duyệt và cấp phát theo từng khoản mục chi cụ thể
nên khoản thu 1% cơ bản đạt yêu cầu đề ra.
2.1.2. Thời kỳ 1976 - 1987
Sau khi đất nớc thống nhất, Miền bắc tiếp tục thực hiện mức thu BHXH
bằng 1% tổng quỹ lơng, nguồn thu này vẫn đợc nộp vào quỹ BHXH của Ngành
Lao động - Thơng binh & Xã hội. Miền nam trong giai đoạn này thực hiện cải
tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ bản các doanh nghiệp quốc doanh không thực hiện
việc thu nộp BHXH theo quy định, chỉ đến những năm đầu thập kỷ 80 mới thực
hiện công việc này.
Từ năm 1981, tình hình kinh tế đất nớc gặp nhiều khó khăn, mức thu
BHXH giảm hàng năm: năm 1981 đạt 79,65%, 1987 chỉ còn 33,18% so với kế
hoạch thu BHXH. Do thu nộp BHXH đạt kết quả thấp, trong khi đó mức trợ cấp
BHXH ngày càng tăng, vì vậy năm 1976 Ngân sách Nhà nớc phải hỗ trợ cho
quỹ BHXH là 83,16% và đến năm 1987 mức hỗ trợ này lên tới 97,66% tổng số
chi.
Trong một thời gian dài áp dụng tỷ lệ thu 1% không phù hợp nên năm 1973
Bộ Nội vụ đã có tờ trình số 988/NV đề nghị nâng mức thu từ 1% lên 7% tổng
quỹ lơng nhng không đợc Nhà nớc chấp thuận vì có những quan điển cho rằng
cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị kinh doanh vẫn đợc Nhà nớc bao cấp.
Ngành tài chính thì quan niệm cho rằng chế độ BHXH nh một chế độ tiền lơng
do Nhà nớc bảo đảm nên đã có những văn bản quy định chi BHXH theo chế độ
cấp phát dự toán hàng tháng, hàng quý nh đối với cơ quan hành chính sự
nghiệp khác. Với cơ chế cấp phát kinh phí BHXH mang nặng tính bao cấp, ỷ lại
vào Ngân sách Nhà nớc nên hạn chế tính tích cực trong việc thực hiện thu
BHXH của Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội. Tuy vậy, những tồn tại
trên không thể duy trì lâu dài và đến cuối thập kỷ 80 Nhà nớc đã quyết định sửa
đổi lại các quy định về hoạt động BHXH.
2.2. Giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/1995
Trớc những tồn tại trong công tác thu BHXH, năm 1988 Chính phủ quy
định mức thu BHXH bằng 10% quỹ tiền lơng do cơ quan, xí nghiệp Nhà nớc
tr ích nộp. Tuy vậy, do cuộc sống của công nhân viên chức gặp nhiều khó khăn
nên tr ích lại 2% trong số 10% tổng quỹ lơng để chi trợ cấp khó khăn cho công
nhân viên chức Nhà nớc. Do tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm cuối
thập kỷ 80 gặp khủng hoảng, mức lạm phát cao vì vậy thu BHXH luôn đạt thấp
hơn so với chi. Đến năm 1993 Chính phủ phải tăng mức thu BHXH từ 8% lên
15% quỹ tiền lơng, trong đó:
- Cơ quan, xí nghiệp trích nộp vào quỹ BHXH 10% quỹ tiền lơng.
- Cán bộ công nhân viên chức phải nộp BHXH là 5% tiền lơng của bản
thân.
Việc quy định ngời lao động phải nộp BHXH từ tiền lơng của bản thân
mình là một bớc ngoặt trong thực hiện các chế dộ BHXH của Nhà nớc, giúp
cho công tác BHXH của chúng ta có thể hoà nhập với các nớc khác trên thế
giới. Tổ chức thu và quản lý thu BHXH trong giai đoạn này đợc thể hiện bởi
các tổ chức sau:
2.2.1. Từ năm 1988 đến tháng 6/1989
Trong thời gian này hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Nhà nớc gặp rất nhiều khó khăn và ý thức chấp hành nộp BHXH cha nghiêm
túc, Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội không đủ điều kiện đôn đốc, kiểm
tra thu nộp nên số thu BHXH mức 8% tổng quỹ lơng đạt rất thấp. Tình hình
trên đã gây ảnh hởng rất nhiều đến nguồn kinh phí chi trả cho các đối tợng
hởng BHXH bởi vì Bộ Tài chính chỉ thực hiện hỗ trợ phần chênh lệch sau khi
đã trừ đi kế hoạch giao cho Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội. Trớc tình
hình đó Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội đã phải vay ngân hàng với lãi
suất cao dới sự bảo lãnh của Bộ Tài chính và hậu quả là các khoản nợ tồn đọng
nhiều năm mới thanh toán đợc.
2.2.2. Từ tháng 6/1989 đến tháng 9/1995
Thực hiện Thông t liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thơng binh & Xã hội
số 22TT/LB, Bộ Tài chính nhận trách nhiệm thu BHXH là 8% trên tổng quỹ
lơng. Mục đích của việc chuyển đổi cơ chế quản lý thu BHXH này là nhằm gắn
trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc đảm bảo kinh phí chi trả các chế độ
BHXH cho đối tợng đợc hởng một cách kịp thời. Chính phủ phân cấp nhiệm vụ
thu BHXH cho Bộ Tài chính nh sau:
- Bộ Tài chính trực tiếp trích nộp vào quỹ BHXH số phải nộp BHXH cho
các cơ quan, đơn vị hành chính do Trung ơng quản lý.
- Sở Tài chính vật giá các tỉnh, thành phố tr ích nộp vào quỹ BHXH của các
đơn vị hành chính sự nghiệp do địa phơng quản lý.
- Các cục, các vụ quản lý thu các doanh nghiệp quốc doanh Trung ơng và
địa phơng đóng trên địa bàn. Từ năm 1993, Bộ Tài chính lại giao nhiệm vụ thu
BHXH cho Tổng cục thuế nhằm gắn trách nhiệm vừa đôn đốc thu nộp thuế, vừa
đôn đốc giám sát thu BHXH.
Sự thay đổi tổ chức thu BHXH nh trên, đã giúp công tác thu BHXH đạt
hiệu quả cao hơn. Cụ thể, sau khi bàn giao nhiệm vụ thu BHXH trong quý III
năm 1989 Bộ Tài chính đã thực hiện tơng đối tốt công tác thu: kết quả thu cả
năm đạt 85,15% kế hoạch trong khi năm 1988 Ngành Lao động - Thơng binh &
Xã hội quản lý chỉ đạt 40,43% kế hoạch thu.
Bảng 5: TÌNH HÌNH THU BHXH DO NGÀNH LAO ĐỘNG - THƠNG
BINH & XÃ HỘI QUẢN LÝ TỪ NĂM 1964 ĐẾN THÁNG 9/1995
Năm
Số thu Bảo hiểm xã hội Ngân sách Nhà nớc cấp
Thực thu
(1000 đồng)
So với chi
(%)
Thực cấp
(1000đồng)
So với chi
(%)
1964
1965
1966
1967
1968
1969
1970
1971
1972
1973
1974
1975
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
9-1995
4.418
4.586
5.680
5.979
6.765
7.699
7.955
8.636
7.987
9.016
9.885
10.705
12.521
13.749
19.192
20.560
23.125
30.796
40.661
54.632
78.936
153.417
98.555
306.400
14.686.000
90.403.000
95.259.000
117.963.000
205.143.000
279.079.000
1.294.000.00
0
1.294.000.00
0
100,00
62,60
58,44
52,54
45,20
41,24
29,72
19,65
15,63
15,70
15,82
15,48
16,84
16,76
20,96
17,87
15,80
10,80
8,09
6,05
6,43
3,03
3,22
2,34
29,04
32,60
24,93
23,34
28,88
12,13
29,41
27,91
-
2.740
4.039
5.400
8.202
10.971
18.813
35.323
43.117
48.409
52.592
58.469
61.819
68.304
72.393
94.499
123.246
254.375
462.006
848.037
1.148.988
4.916.266
2.959.122
12.770.000
35.891.000
186.877.000
286.877.000
387.420.000
505.203.000
2.020.921.00
0
3.106.000.00
0
3.342.186.00
0
0,00
37,40
41,56
47,46
54,80
58,76
70,28
80,35
84,37
84,30
84,18
84,52
83,16
83,24
79,04
82,13
84,20
89,20
91,91
93,95
93,57
96,97
96,78
97,66
70,96
67,40
75,07
76,66
71,12
87,87
70,59
72,09
Qua bảng 5 ta có thể thấy, tình hình thu BHXH của Ngành Lao động -
Thơng binh & Xã hội cha đáp ứng đợc nhu cầu chi trả cho các chế độ BHXH
mà ngành quản lý. Số thu BHXH hàng năm luôn nhỏ hơn rất nhiều so với số chi
trả cho 3 chế độ BHXH và nhiều năm số thu này có thể coi là không đáng kể so
với số chi: đơn cử năm 1987 số thu chỉ đạt 2,34% so với chi và Ngân sách Nhà
nớc bù thiếu tới 97,66%. Đây thực sự là gánh nặng quá lớn cho Ngân sách Nhà
nớc trong một thời gian dài.
*Nhận xét:
Việc thực hiện thu BHXH bằng 1% tổng quỹ lơng trong một thời gian dài
(1964 - 1987) đã làm cho Ngân sách Nhà nớc phải bù thiếu rất lớn cho chi trả
các chế độ hu trí, trơ cấp tuất và mất sức lao động do Ngành Lao động - Thơng
binh & Xã hội quản lý. Tính ỷ lại vào Ngân sách Nhà nớc thể hiện khá rõ trong
kết quả thu: thờng xuyên đạt thấp so với kế hoạch đề ra và thấp hơn nhiều so
với thực chi. Điều này càng thể hiện rõ hơn khi mà Ngành Lao động - Thơng
binh & Xã hội yêu cầu nâng mức thu lên nhng không đợc chấp nhận.
Công tác thu BHXH trong giai đoạn Ngành Lao động - Thơng binh & Xã
hội quản lý chỉ dừng lại ở hình thức tự nguyện của các đơn vị, cơ quan cha
thực sự có tính bắt buộc. Vì vậy, ngay cả với các doanh nghiệp Nhà nớc cũng
cha tự giác đóng BHXH. Trong thời gian dài, công tác thu BHXX chỉ dựa chủ
yếu vào sự tự giác của các cơ quan, doanh nghiệp thông qua việc chuyển số thu
BHXH vào tài khoản của Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội. Ngoài ra,
việc không lập danh sách đơn vị sử dụng lao động và số lao động mà chỉ căn cứ
vào tổng quỹ lơng để xác định kế hoạch nộp nên gây khó khăn cho công tác
giải quyết các chế độ BHXH cho ngời lao động.
Do mang nặng t tởng ỷ lại vào sự bảo đảm của Ngân sách Nhà nớc cho nên
cha phát huy đợc tính tự chủ và nâng cao trách nhiệm của Ngành Lao động -
Thơng binh & Xã hội. Trong một thời gian dài, ngành cha kiến nghị đợc với
Chính phủ những biện pháp tổ chức, thực hiện cụ thể về vấn đề: thu, lệ phí thu
và những hình thức thu nộp BHXH khác nên có lúc đã giao lại cho ngành Tài
chính.
3. Đánh giá chung
Có thể nhận thấy rằng, trong giai đoạn từ 1962 đến 1/10/1995 cả Tổng
Công đoàn Lao động Việt Nam (sau này là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam)
cùng với Ngành Lao động - Thơng binh & Xã hội đã có nhiều cố gắng trong
việc hoàn thành nhiệm vụ thu nộp BHXH. Trong chừng mực nhất định, chính
sách BHXH lúc đó đã có tác dụng góp phần đảm bảo ổn định đời sống và động
viên khuyến khích đội ngũ công nhân viên chức, lực lợng vũ trang làm việc,
chiến đấu, tạo ra sự gắn kết giữa ngời lao động và xã hội, góp phần vào sự
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những u điểm nêu trên thì quá tr ình thực hiện các chế
độ chính sách BHXH trong cơ chế cũ không tránh khỏi những bất cập, hạn chế
cần khắc phục, cụ thể:
- Do cách tính mức đóng góp BHXH không tơng xứng với mức chi trả cho
các chế độ BHXH. Do vậy, trong một thời gian dài Ngân sách Nhà nớc thờng
xuyên phải hỗ trợ cho các cơ quan trên trong chi trả BHXH dẫn tới việc cha
xây dựng và hình thành đợc quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nớc, nguồn
hình thành thực chất là do Ngân sách Nhà nớc cấp phát. Trong khi đó, đối tợng
tham gia và đợc hởng các chế độ BHXH chỉ áp dụng đối với công nhân viên
chức và lực lợng vũ trang nên thực sự cha thể hiện tính xã hội cao, có sự phân
biệt giữa ngời lao động làm việc trong khu vực Nhà nớc và ngoài khu vực Nhà
nớc, gây tâm lý chỉ lao động trong khu vực Nhà nớc mới có vị trí trong xã hội
và cha thể hiện sự công bằng khi tuổi già.
- Tổ chức quản lý BHXH phân tán, không có một cơ quan đặc trách riêng
quản lý Nhà nớc về BHXH cũng nh không có một cơ quan đặc trách riêng về
quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH mà có sự lẫn lộn giữa hai chức năng này ở
cả hai cơ quan quản lý trên. Việc có nhiều cơ quan cùng quản lý các chế độ
BHXH đã gây ra sự chồng chéo không thống nhất trong điều hành, quản lý thu
nộp BHXH đồng thời cũng tạo ra sự không đồng bộ trong các chế độ chính sách
BHXH, theo đó là sự nhận thức không đầy đủ về BHXH từ ngời quản lý đến
ngời lao động đã dẫn tới thiếu chủ động trong kiến nghị, đề xuất của từng cơ
quan với Chính phủ về các thay đổi trong mức đóng góp, phạm vi các đối tợng
tham gia và đợc hởng BHXH v.v... cho phù hợp với tình hình thức tế.
- Ngoài ra, việc trông chờ vào sự bao cấp của Ngân sách Nhà nớc và sự
thiếu chủ động của các cơ quan quản lý BHXH cũng đã tạo ra thói quen, tâm lý
ỷ lại, thiếu tự giác của cả chủ sử dụng lao động và ngời lao động, họ cha thấy
rõ hết trách nhiệm cũng nh quyền lợi trong việc tham gia BHXH. Bên cạnh đó,
các chế độ BHXH của ta cha áp dụng đợc hầu hết các chế độ BHXH do Tổ chức
lao động quốc tế (ILO) đề ra và còn có sự đan xen kẽ của các chế độ u đãi và
trợ cấp xã hội vào đó. Điều này đã gây hết sức khó khăn cho việc thực hiện
công tác BHXH khi chuyển sang cơ chế mới.
Chính tất cả những bất cập, hạn chế trên mà việc ra đời một cơ quan duy
nhất giúp Thủ tớng Chính phủ chỉ đạo, quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế
độ, chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nớc là một thức tế khách quan
trong điều kiện nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa nhằm hớng
hoạt động sự nghiệp BHXH Việt Nam theo đúng nội dung, bản chất vốn có của
nó.
II. GIAI ĐOẠN TỪ 1/10/1995 - ĐẾN NAY
1. Các căn cứ pháp lý
Trong tiến trình cải cách kinh tế - xã hội thì các chế độ, chính sách BHXH
trớc đây không còn phù hợp nữa. Nó đã và đang đợc đổi mới cho phù hợp với
tình hình thực tế, thể hiện:
- Ngày 15/6/1996, Bộ Luật lao động đợc Quốc hội khoá IX thông qua tại
kỳ họp thứ 5, có hiệu lực từ 1/1/1995 trong đó có chơng IX về BHXH đã chính
thức ghi nhận sự đóng góp của ba bên vào quỹ BHXH. Để cụ thể hoá các quy
định của Bộ Luật lao động, Chính phủ đã có các Nghị định số 12/CP ngày
26/1/1995 và số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối
với công chức, công nhân viên chức Nhà nớc và mọi ngời lao động theo loại
hình BHXH bắt buộc và Điều lệ BHXH đối với sỹ quan quân nhân chuyên
nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân nhằm đảm
bảo đời sống vật chất, góp phần ổn định cuộc sống cho những ngời và gia đình
tham gia BHXH.
- Để đa những nội dung của Bộ Luật lao động và các Nghị định nêu trên
vào triển khai thực hiện trong thực tế, ngày 16/2/1995 Chính phủ ban hành
Nghị định số 19/CP về việc thành lập tổ chức BHXH Việt Nam trên cơ sở thống
nhất các tổ chức BHXH ở Trung ơng và địa phơng thuộc hệ thống Lao động -
Thơng binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với chức năng,
nhiệm vụ chính là: tổ chức thu BHXH; giải quyết chế độ, chính sách BHXH;
chi trả cho đối tợng hởng BHXH; đầu t, bảo toàn và tăng trởng quỹ BHXH.
Nhng trên thực tế do phải tiếp nhận bàn giao tổ chức và nhân sự từ hai ngành
nên trong phạm vi toàn quốc, BHXH chính thức đi vào hoạt động từ 1/10/1995.
- Sau hơn 7 tháng ban hành Nghị định 19/CP, ngày 26/9/1995 Thủ tớng
Chính phủ lại ra Quyết định số 606/QĐ/TTg về việc ban hành quy chế tổ chức
và hoạt động của BHXH Việt Nam. Tiếp đến là Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg
ngày 26/1/1998 của Thủ tớng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý tài
chính đối với BHXH Việt Nam.
- Cũng với mục đích giúp cho hoạt động của ngành BHXH tiến hành đợc
thuận lợi, ngày 24/7/1995 Bộ Tài chính đã ra Thông t số 58/TC/HCSN “Hớng
dẫn tạm thời về quản lý thu - chi BHXH thuộc hệ thống BHXH’’. Cho đến ngày
30/12/1996, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam lại có Quyết định số 177/BHXH
về việc ban hành quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt
Nam.
Trên đây là một số văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh công tác quản lý
BHXH nói chung, quỹ BHXH và công tác thu nộp BHXH nói riêng. Nó đợc thể
hiện ở một số nội dung cơ bản sau đây:
2. Những nội dung cơ bản về BHXH và quỹ BHXH
2.1. Đối tợng tham gia BHXH
Theo Điều II - Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ, đối
tợng tham gia BHXH bắt buộc là ngời sử dụng lao động và ngời lao động (kể cả
ngời đợc cử đi học, đi thực tập, điều dỡng, công tác ở trong, ngoài nớc vẫn
thuộc danh sách trả lơng hoặc tiền công của cơ quan và đơn vị) làm việc trong
các cơ quan, đơn vị, tổ chức sau đây:
- Các doanh nghiệp Nhà nớc
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp.
- Các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực lợng vũ trang.
- Các tổ chức kinh tế, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ
quan đảng, đoàn thể.
- Các cơ quan, tổ chức nớc ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt tại Việt Nam,
trừ trờng hợp điều ớc quốc tế mà nớc CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia
có quy định khác.
- Các đơn vị sự nghiệp gắn thu bù chi, đơn vị sự nghiệp hởng nguồn thu
bằng viện trợ nớc ngoài (kể cả viện trợ của tổ chức phi chính phủ) để trả lơng
cho công nhân viên chức trong đơn vị.
- Các cơ quan quản lý Nhà nớc, cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan
đảng, đoàn thể, hội quần chúng, dân cử từ trung ơng đến cấp huyện (sau này
đợc mở rộng ra đối với cấp xã, phờng, thị trấn theo quy định tại Điều 3, Nghị
định số 09/1998/ NĐ - CP ngày 23/1/1998).
- Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an)
và Ban Cơ yếu Chính phủ (chi tiết, cụ thể xem thêm Điều 3, Điều lệ BHXH ban
hành kèm theo Nghị định số 45/ CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ).
Cùng với đối tợng tham gia BHXH đợc mở rộng hơn so với trớc đây, thì
loại hình tham gia BHXH cũng đợc thống nhất: BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện. Vấn đề này bớc đầu đã tạo ra sự bình đẳng giữa những ngời lao động
thuộc các thành phần kinh tế. Với đối tợng đã đợc quy định nh ở trên, hiện nay
cả nớc ta đã có khoảng 10% lực lợng lao động tham gia BHXH.
2.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc hình thành từ các nguồn sau đây:
- Đóng góp của các đối tợng tham gia BHXH theo quy định trên.
- Ngân sách Nhà nớc chuyển sang gồm:
+ Tiền để chi trả cho các đối tợng đang hởng các chế độ BHXH trớc ngày
Điều lệ BHXH có hiệu lực (1/1/1995).
+ Tiền đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối
với ngời lao động sau ngày ban hành Điều lệ BHXH.
+ Đóng bảo hiểm y tế cho ngời đang hởng các chế độ BHXH.
- Tiền lãi, tiền sinh lời từ việc thực hiện phơng án bảo toàn và phát triển
quỹ BHXH.
- Thu từ nguồn tài trợ, viện trợ quốc tế, trong nớc.
- Giá trị tài sản của BHXH đợc đánh giá theo quy định của Chính phủ.
- Thu khác.
2.3. Quản lý thu nộp BHXH
2.3.1. Căn cứ để quản lý thu nộp BHXH
Để quản lý và thực hiện việc thu nộp BHXH phải căn cứ vào bảng thanh
toán lơng (hoặc sổ lĩnh lơng) cuả đơn vị sử dụng lao động, trong đó có danh
sách lao động, mức lơng và các khoản phụ cấp trả cho ngời lao động trong
tháng (trừ lao động hợp đồng phụ việc, lao động hợp đồng ngắn hạn).
2.3.2. Mức thu và nguồn kinh phí để trích nộp BHXH
a. Mức thu nộp BHXH
Mức thu nộp BHXH là 20% tổng quỹ lơng hàng tháng, trong đó:
- Cơ quan, đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động đóng góp bằng 15% so với
tổng quỹ lơng của những ngời tham gia BHXH.
- Ngời lao động (ngời tham gia BHXH) đóng bằng 5% tiền lơng hàng tháng.
b. Tiền lơng và quỹ tiền lơng hàng tháng làm căn cứ trích nộp BHXH
- Đối với khu vực hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể, hội quần
chúng, dân cử và lực lợng vũ trang thì quỹ tiền lơng làm căn cứ tr ích nộp
BHXH gồm: Tiền lơng chính theo ngạch, bậc, theo cấp hàm, chức vụ do bầu cử
và các khoản phụ cấp chức vụ, khu vực, đắt đổ, thâm niên, phụ cấp thâm niên
tái cử, hệ số chênh lệch bảo lu (nếu có) theo quy định tại Nghị định số 35/NQ-
UBTVQHK9 ngày 17/5/1993 của Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội Khoá 9; Quyết
định số 09/QĐ-TW ngày 17/5/19993 của Ban Bí th; Nghị định số 25/CP ngày
17/5/1993 của Chính phủ; Quyết định số 574/TTg ngày 25/11/1993 của Thủ
tớng Chính phủ và Nghị định số 05/CP ngày 26/1/1994 của Chính phủ.
- Đối với khu vực sản xuất kinh doanh gồm: Các doanh nghiệp quy định tại
điểm 1, 2, 3, 4, 5 mục 2.1 - đối tợng tham gia BHXH nêu ở trên thì tổng quỹ
lơng làm căn cứ trích nộp BHXH là tổng tiền lơng tháng của những ngời tham
gia BHXH gồm: Tiền lơng cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lu
và các khoản trợ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ... (nếu có) theo
đúng Nghị định số 26/CP ngày 25/3/1993 và Nghị định số 05/CP ngày
26/1/1994 của Chính phủ.
Các doanh nghiệp nếu đã ký hợp đồng lao động thì trích nộp BHXH tính
trên tổng quỹ tiền lơng theo hợp đồng đã ký kết.
- Đối với các đơn vị quy định tại điểm 6, 7 mục 2.1 - đối tợng tham gia nêu
ở trên thì tổng quỹ lơng để làm căn cứ trích nộp BHXH là quỹ lơng hợp đồng.
c. Nguồn trích nộp và hạch toán kế toán
- Khoản đóng góp BHXH bằng 15% quỹ tiền lơng thuộc trách nhiệm đóng
góp của cơ quan, đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động:
+ Đối với đơn vị hởng lơng từ nguồn Ngân sách Nhà nớc cấp, tính trong dự
toán kinh phí hàng quỹ, năm và hạch toán vào mục 68: chi BHXH theo chơng,
loại, khoản và hạng tơng ứng.
+ Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh - dịch vụ thì tính vào chi phí sản
xuất kinh doanh dịch vụ và hạch toán vào mục "trích bảo hiểm xã hội".
+ Đối với các đơn vị gắn thu bù chi, đơn vị hởng nguồn viện trợ của nớc
ngoài thì trích từ nguồn thu, nguồn viện trợ để nộp BHXH và hạch toán vào chi
phí quản lý.
- Khoản đóng BHXH của ngời lao động: Cơ quan, đơn vị hoặc chủ sử dụng
lao động trích từ tiền lơng hàng tháng của từng ngời, nộp vào quỹ BHXH cùng
một lúc với 15% đóng góp của cơ quan, đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động.
2.3.3. Phân cấp quản lý thu nộp BHXH
Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng (sau đây gọi tắt là
BHXH tỉnh) có trách nhiệm tổ chức thực hiện và chỉ đạo BHXH huyện, quận,
thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là BHXH huyện) thu
BHXH của tất cả các đơn vị, tổ chức, cơ quan của Trung ơng và địa phơng (sau
đây gọi chung là đơn vị) có tài khoản và trụ sở đóng trên địa bàn của tỉnh theo
phân cấp quản lý nh sau:
- BHXH tỉnh thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại tỉnh, bao
gồm:
+ Các đơn vị thuộc Trung ơng quản lý đóng trên địa bàn tỉnh (riêng lực
lợng vũ trang hởng BHXH theo Nghị định số 45/CP có hớng dẫn ở văn bản
khác).
+ Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
+ Các đơn vị, tổ chức quốc tế có trên địa bàn tỉnh, trừ trờng hợp điều ớc
quốc tế mà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác.
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng 50 lao động trở lên.
Trờng hợp BHXH các huyện thuộc tỉnh không đủ điều kiện để thực hiện
nhiệm vụ thu BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dới 50 lao động
hoặc các đơn vị Trung ơng, đơn vị thuộc tỉnh có số lao động không nhiều thì
Giám đốc BHXH tỉnh quyết định việc phân cấp thu đối với từng đơn vị cụ thể
cho BHXH huyện.
- BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại huyện,
bao gồm:
+ Các đơn vị thuộc cấp huyện trực tiếp quản lý.
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng từ 10 lao động đến 50 lao
động.
+ Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu theo quyết định phân
cấp thu.
Trờng hợp BHXH tỉnh mở rộng đối tợng thu BHXH tự nguyện đối với
doanh nghiệp sử dụng lao động dới 10 lao động phải báo cáo BHXH Việt Nam
để trình Hội đồng quản lý xem xét quyết định.
- Đối với một số đơn vị có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động
ở địa bàn thuộc nhiều tỉnh muốn nộp BHXH cho các đơn vị trực thuộc BHXH
tỉnh nơi đóng trụ sở chính thì phải có sự thống nhất của BHXH các nơi có liên
quan (nơi có trụ sở các đơn vị trực thuộc đóng) và đợc BHXH Việt Nam chấp
thuận.
2.3.4. Lập kế hoạch thu nộp BHXH
a. Đối với các đơn vị sử dụng lao động:
- Hàng tháng, căn cứ vào số biên chế và kế hoạch quỹ tiền lơng của đơn vị
mình lập kế hoạch nộp BHXH trong quý và đăng ký ngày nộp tiền từng tháng
gửi cho cơ quan BHXH vào ngày 20 của tháng cuối quý trớc.
b. Đối với cơ quan BHXH tỉnh, huyện:
- Hàng tháng, BHXH huyện tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các đơn vị
do mình chịu trách nhiệm tổ chức thu và ghi sổ BHXH gửi cho BHXH tỉnh vào
ngày 25 của tháng cuối quý trớc.
- Hàng quý, BHXH tỉnh tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các đơn vị do
BHXH tỉnh trực tiếp thu BHXH. Tổng hợp kế hoạch thu BHXH trên địa bàn
toàn tỉnh, nộp cho BHXH Việt Nam vào ngày 30 của tháng cuối quý trớc. Riêng
kế hoạch thu BHXH của cả năm do BHXH tỉnh lập bao gồm tất cả các đơn vị
sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh và tổng hợp theo địa bàn.
2.3.5. Tổ chức thu BHXH và ghi sổ BHXH cho ngời lao động
- Hàng tháng, căn cứ vào kế hoạch nộp tiền BHXH do các đơn vị sử dụng
lao động đã đăng ký, BHXH tỉnh, huyện đôn đốc và tổ chức thu BHXH bằng
20% quỹ lơng (đơn vị sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ lơng, ngời
lao động đóng 5% tiền lơng tháng) vào ngày của kỳ lơng đầu tiên trong tháng.
- Tháng cuối quý, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm lập danh sách
nộp BHXH của ngời lao động thuộc đơn vị mình, tính đủ số tiền phải nộp
BHXH theo lơng của ngời lao động trong quý gửi cho cơ quan BHXH 2 bản.
- Cán bộ phụ trách thu thuộc cơ quan BHXH có trách nhiêm kiểm tra tiền
lơng, mức đóng góp của từng ngời lao động và tổng số tiền phải nộp BHXH của
toàn bộ đơn vị sử dụng lao động. Cuối mỗi quý cùng với đơn vị sử dụng lao
động đối chiếu với số đã nộp với số phải nộp BHXH, lập bản xác nhận về việc
nộp BHXH trong quý. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và số phải nộp thì phải
nộp tiếp vào tháng đầu của quý sau (nếu có chênh lệch thiếu) hoặc coi nh đã
nộp trớc cho tháng đầu của quý sau (nếu có chênh lệch thừa). Sau đó, cán bộ
phụ trách thu tiến hành ghi sổ BHXH cho từng ngời lao động và xác nhận vào 2
bản danh sách đóng BHXH của đơn vi sử dụng lao động, trả lại cho đơn vị sử
dụng lao động 1 bản, 1 bản lu tại cơ quan BHXH.
- Trờng hợp chậm nộp BHXH hàng tháng thì số tiền nộp chậm sẽ phải nộp
phạt theo lãi suất tiền gửi ngắn hạn của Ngân hàng tại thời điểm truy nộp là
0,7% tháng.
- Ngời lao động và đơn vị sử dụng lao động cố tình không nộp BHXH theo
đúng thời hạn và đủ mức theo quy định, thì cơ quan BHXH thuộc hệ thống
BHXH Việt Nam có quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH của tất cả
ngời lao động thuộc đơn vị đó; đồng thời báo cáo lên cơ quan BHXH cấp trên
và thông báo cho các cơ quan hữu quan để có biện pháp giải quyết.
- Bộ phận Kế toán - Tài chính thuộc BHXH các tỉnh, các huyện thực hiện
chuyển tiền thu BHXH lên BHXH cấp trên đúng thời hạn theo quy định tại
công văn số 193 CV/LN ngày 9/9/1995 của liên ngành BHXH Việt Nam và Kho
bạc Nhà nớc Trung ơng.
- Chế độ báo cáo thu BHXH:
+ Đình kỳ 10 ngày 1 lần vào các ngày 5, 15 hàng tháng, cơ quan BHXH
các huyện báo cáo về tình hình thu BHXH gửi về BHXH tỉnh.
Đình kỳ 10 ngày 1 lần vào các ngày 7, 17 hàng tháng, BHXH tỉnh tổng hợp
số thu BHXH trên địa bàn báo cáo gửi về BHXH Việt Nam.
+ Chậm nhất là ngày 28 hàng thàng, BHXH các huyện tổng hợp, lập báo
cáo về số thu BHXH trong tháng đợc xác định từ ngày 26 của tháng trớc đến
ngày 25 của tháng báo cáo, có xác nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nớc nơi mở
tài khoản gửi về cho BHXH tỉnh.
Cơ quan BHXH tỉnh, tổng hợp số thu trên toàn địa bàn trong tháng đợc xác
nhận từ ngày 29 của tháng trớc đến ngày 28 của tháng báo cáo có xác nhận của
Kho bạc Nhà nớc nơi mở tài khoản, gửi về cho BHXH Việt Nam chậm nhất là
ngày 30 hàng tháng.
Riêng tháng 12 hàng năm số liệu đợc xác định đến hết ngày 31/12.
+ Chậm nhất là ngày 5 tháng 1 năm sau BHXH huyện phải nộp báo cáo cho
BHXH tỉnh về số thu BHXH năm trớc có xác nhận của cơ quan Kho bạc Nhà
nớc huỵện. BHXH tỉnh tổng hợp báo cáo số thu BHXH trên toàn địa bàn trong
năm có xác nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nớc tỉnh gửi cho BHXH Việt Nam
chậm nhất là ngày 10/1 năm sau.
3. Tình hình thu nộp BHXH
3.1. Công tác thu nộp BHXH
Đây là nhiệm vụ đợc xác định là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành
và tăng trởng quỹ BHXH. Vì vậy ngay từ khi mới thành lập, trên cơ sở những
văn bản hớng dẫn hoạt động BHXH và danh sách các đơn vị sử dụng lao động
nhận bàn giao từ cơ quan Lao động – Thơng binh & xã hội, Tài chính, Liên
đoàn Lao động. BHXH các tỉnh, thành phố đã đã tập trung nắm tình hình hoạt
động và sử dụng lao động của các đơn vị có trong danh sách đợc bàn giao, cũng
nh các đơn vị ngoài danh sách bàn giao nhng trong diện phải tham gia BHXH
theo quy định của pháp luật. Nhờ có sự cố gắng trên, toàn ngành BHXH Việt
Nam đã đạt đợc những thành tích nhất định, khẳng định đợc vị trí của mình,
khẳng định đợc sự tồn tại và phát triển thông qua các hoạt động của ngành. Đó
là số thu BHXH ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trớc. Thể hiện:
3.1.1. Tình hình đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động
Theo quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số
45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ, các cơ quan đơn vị doanh nghiệp thuộc
diện đóng bắt buộc phải đóng BHXH bằng 15% tổng quỹ lơng của những ngời
tham gia BHXH. Từ quý IV/1995 đến năm 2000, tổng số tiền đóng BHXH là
14.765.691 triệu đồng, số liệu cụ thể các năm nh sau:
- Quý IV/1995 : 296.250 triệu đồng.
- Năm 1996 : 1.927.300 triệu đồng.
- Năm 1997 : 2.584.208 triệu đồng.
- Năm 1998 : 2.906.967 triệu đồng.
- Năm 1999 : 3.139.541 triệu đồng.
- Năm 2000 : 3.911.425 triệu đồng.
3.1.2. Tình hình đóng BHXH của ngời lao động
Từ khi BHXH Việt Nam chính thức hoạt động(tháng 10/1995) đến nay,
tổng số tiền mà cơ quan BHXH đã thu đợc từ ngời lao động là 4.921.896 triệu
đồng, trong đó:
- Quý IV/1995 : 98.750 triệu đồng.
- Năm 1996 : 642.433 triệu đồng.
- Năm 1997 : 861.403 triệu đồng.
- Năm 1998 : 968.989 triệu đồng.
- Năm 1999 : 1.046.513 triệu đồng.
- Năm 2000 : 1.303.808 triều đồng.
3.1.3. Nguồn đóng và hỗ trợ thêm từ Ngân sách Nhà nớc
Trong thời gian từ tháng 10/1995 đến hết tháng 12/2000, tổng số tiền hỗ
trợ từ Ngân sách Nhà nớc cho quỹ BHXH để chi trả cho các đối tợng nghỉ chế
độ BHXH có thời gian tham gia BHXH từ năm 1995 trở về trớc là 26.966.679
triệu đồng, cụ thể nh sau:
- Quý IV/1995 : 1.112.030 triệu đồng.
- Năm 1996 : 4.387.903 triệu đồng.
- Năm 1997 : 5.163.093 triệu đồng.
- Năm 1998 : 5.128.425 triệu đồng.
- Năm 1999 : 5.025.620 triệu đồng.
- Năm 2000 : 6.159.608 triệu đồng.
Bảng 6: TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH DO BHXH VIỆT NAM QUẢN LÝ
TỪ QUÝ IV/1995 ĐẾN NĂM 2000
S
T
T
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Quý
IV/95 1996 1997 1998 1999 2000
1 Số đơn vị
SDLĐ
Đơn vị 18.56
6
30.78
9
34.815 49.628 59.17
6
61.57
7
2 Số LĐ tham gia
BHXH
- % so với năm
trớc
Nghìn
ngời
%
2.276
-
2.821
-
3.162
112,1
3.355
106,1
3.579
106,7
3.843
107,4
3 Số thu BHXH
- % so với năm
trớc
Tỷ đồng
%
395,0
-
2.569
,7
-
3.445,
6
134,1
3.876,
0
112,5
4.186
,0
108,0
5.215
,2
124,6
4 Tỷ lệ thu so với
chi
% 34,2 54,4 59,9 65,9 70,2 70,5
5 Chênh lệch thu
- chi BHXH
Tỷ đồng 353,0 2.186
,5
2.852,
1
3.124,
4
3.245
,6
3.974
,7
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 6 cho ta thấy, kết quả nổi bật trong công tác thu nộp BHXH từ
1/10/1995 đến năm 2000 là số lao động tham gia và số thu BHXH mỗi năm một
tăng lên, năm sau cao hơn năm trớc. Phân tích các chỉ tiêu cho ta thấy nh sau:
- Chỉ tiêu số 1 và 2 là: nếu cuối năm 1995 cả nớc có 2,2 triệu lao động
tham gia BHXH thì đến năm 2000 con số này đã lên tới 3,8 triệu lao động, tăng
1,6 triệu lao động (cha kể mỗi năm có khoảng 15 vạn ngời nghỉ việc) và bằng
khoảng 10% lực lợng lao động xã hội. Điều đó cho thấy, việc mở rộng đối tợng
tham gia BHXH đến các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh có từ 10 lao động trở lên cùng với chính sách thu BHXH phù hợp nên số
các đơn vị sử dụng lao động lẫn ngời lao động tham gia BHXH đã ngày một
tăng. Tuy nhiên, con số 10% lực lợng lao động tham gia BHXH so với các nớc
còn ở mức rất thấp, ví dụ: Malaysia : 90%, Mỹ : 95%... cùng với đó là tốc độ
gia tăng số lao động tham gia BHXH hàng năm còn chậm và ở mức thấp nhng
có xu hớng tăng lên từ 6,1% năm 1998 lên 7,4% năm 2000. Qua tham khảo số
liệu cho thấy, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp t nhân ngoài quốc
doanh có tốc độ tăng cao nhất, cụ thể là: năm 1995
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay.pdf