Luận văn Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các doanh nghiệp ngòai quốc dân

Tài liệu Luận văn Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các doanh nghiệp ngòai quốc dân: LUẬN VĂN: Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các doanh nghiệp ngòai quốc dân Lời nói đầu Luật doanh nghiệp ra đời (Quốc hội thông qua Ngày 12/6/1999) đã mở đường cho kinh tế ngoài quốc doanh phát triển . Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có thêm gần 72.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) mới được thành lập. Một con số gần gấp đôi số DNNQD đã có trước đó . Đó là một dấu hiệu tốt đẹp đối với kinh tế Việt Nam nói chung và đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ khoảng 95%, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến 95%, số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm có khoảng 1,4%. Để các DNNQD tồn tại và phát triển mạnh trong kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp này cần một lượng vốn rất. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn rất quan trọng vay từ ngân hàng của các D...

pdf99 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1146 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các doanh nghiệp ngòai quốc dân, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các doanh nghiệp ngòai quốc dân Lời nói đầu Luật doanh nghiệp ra đời (Quốc hội thông qua Ngày 12/6/1999) đã mở đường cho kinh tế ngoài quốc doanh phát triển . Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có thêm gần 72.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) mới được thành lập. Một con số gần gấp đôi số DNNQD đã có trước đó . Đó là một dấu hiệu tốt đẹp đối với kinh tế Việt Nam nói chung và đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ khoảng 95%, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến 95%, số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm có khoảng 1,4%. Để các DNNQD tồn tại và phát triển mạnh trong kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp này cần một lượng vốn rất. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn rất quan trọng vay từ ngân hàng của các DNNQD hiện nay là rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Sau gần 4 năm học tập tại Khoa Ngân hàng – Tài chính, Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Hà Nội và một thời gian ngắn thực tập tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long, em viết đề tài này với mục đích làm sáng tỏ một số những nguyên nhân làm các DNNQD gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng ở Chi nhánh Thăng Long . Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau đây: - Vài nét về các DNNQD và Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long. - Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các DNNQD. - Nguyên nhân và đề nghị một số giải pháp thực hiện. Nội dung Chương I: Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.1.Vài nét về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . 1.1.1.Khái niệm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (Luật doanh nghiệp – Quốc hội thông qua 12/6/1999) Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp có tính chất tư hữu (Không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm : Các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã. 1.1.2.Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta. Do hoàn cảnh lịch sử đất nước và tình hình kinh tế xã hội nước ta mà các DNNQD ở nước ta có nhiều nét đặc biệt, thể hiện ở những điểm sau : Thứ nhất, Các DNNQD rất đông về số lượng và có tốc độ độ gia tăng cao. Nếu như năm 1991, sau khi luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân ra đời 1 năm, cả nước mới có 414 DNNQD, đến năm 1999, con số này đă tăng lên 39.501 DNNQD và đến trước khi luật doanh nghiệp ra đời ( năm 1999), cả nước mới có 39501 doanh nghiệp. Bình quân trong giai đoạn 1991 – 1999 tốc độ tăng khoảng 30% năm. Đến nay - Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có gần 72.000 DNNQD được thành lập mới gần gấp đôi con số doanh nghiệp đã tồn tại trước đó. Bình quân trong giai đoạn này tốc độ tăng đến 40% năm. Đó là những con số phản ánh mức độ phát triển ngày một mạnh mẽ của các DNNQD góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế đất nước. Thứ hai, đa số các DNNQD đều mới được hình thành. Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung thì Nhà nước độc quyền trong mọi lĩnh vực kinh tế, các thành phần kinh tế phi Nhà nước đều bị coi là bất hợp pháp nên không có một DNNQD chính thức được hoạt động. Cùng với sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội thì Đảng và Nhà nước đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển nhất là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Khi đó các DNNQD mới có điều kiện để phát triển mạnh mẽ. Như phần trên đã nói, chỉ trong vòng 4 năm gần đây con số các DNNQD được thành lập mới là khoảng 72000 doanh nghiệp, gần gấp đôi so với số doanh nghiệp thành lập trước đó. Như vậy, hầu hết các doanh nghiệp này dưới 4 tuổi, doanh nghiệp lớn tuổi nhất mới chỉ là 15 năm. Một con số quả nhỏ bé nếu so với các doanh nghiệp ở nước ngoài có những doanh nghiệp được thành lập từ hàng trăm năm nay. Thứ ba, các DNNQD tuy đông về số lượng nhưng quy mô vốn và lao động nhỏ. Mặc dù có số lượng lớn và có tốc độ tăng trưởng cao như đã nêu ở trên nhưng đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( Chiếm khoảng 95% ), số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến hơn một nửa (51 %), còn số doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 1,4%. Do các doanh nghiệp ít vốn như vậy nên các doanh nghiệp này hoạt động rất khó khăn nhất là khó khăn trong chống đỡ với các biến động bất lợi trong sản xuất, kinh doanh. Do đó khả năng phá sản của các này là rất lớn. Quy mô lao động thì nhỏ bé, trung bình mỗi DNNQD sử dụng khoảng 20 lao động, số doanh nghiệp sử dụng trên 100 lao động chỉ từ 600 đến 700 doanh nghiệp mà đa số lao động này chưa có trình độ chuyên môn, kỹ thuật (Chiếm đến 83%). Thứ tư, trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu. Theo điều tra ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì chỉ có 17% thiết bị hiện đại, 52% thiuết bị trung bình còn lại là các thiết bị lạc hậu. Riêng ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo thì có đến 62% máy móc, thiết bị lạc hậu từ những năm 50, 60. Công nghệ lạc hậu dẫn đến sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có giá thành cao, chất lượng mẫu mã không đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng nên sản phẩm rất khó cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Cùng với công nghệ lạc hậu là trình độ quản lý yếu kém, có thể nói 100% các chủ doanh nghiệp tư nhân ở ta kiêm luôn giám đốc điều hành hoặc có người thân làm giám đốc điều hành chứ không có doanh nghiệp nào thuê giám đốc bên ngoài. Các chủ doanh nghiệp thì chỉ có số ít là có năng lực chuyên môn và kinh nghiệp kinh doanh thực sự còn đa số họ thiếu kinh nghiệp quản lý và kinh doanh. Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập từ các cơ sở sản xuất. Do cơ chế thông thoáng mà Luật doanh nghiệp mang lại và chính sách ưu đãi của Nhà nước nên nhiều cơ sở sản xuất được nâng cấp thành doanh nghiệp . Tuy được gọi là doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp vẫn không có thay đổi gì đáng kể, doanh nghiệp vẫn quản lý theo phương pháp kiểu gia đình như cở sở sản xuất trước đây. Thứ năm, các DNNQD tuy hoạt động linh hoạt song thường kém hiệu quả. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động năng động, thích nghi cao với thị trường, dễ dàng chuyển đổi đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp này thường làm ăn kiểu “manh mún”, “chộp giật” mà không tính đến các lợi ích lâu dài của doanh nghiệp mình. Nhiều doanh nghiệp khi có cơ hội thì họ tận dụng, khai thác tối đa nhất, triệt để nhất các tới ích trước mắt mà không có các tính toán chiến lược. Điều đó làm cho họ luôn bị động, lúng túng khi gặp khó khăn, nhất là các khó khăn đến một cách bất ngờ. Nhiều các DNNQD không thực hiện đúng chế độ kế toán, thống kê...Nhiều doanh nghiệp lại có biểu hiện làm ăn phi pháp như : Trốn thuế, lừa đảo, làm hàng giả, hàng kém chất lượng...Điều đó làm cho xã hội có tâm lý thiếu tin tưởng gây khó khăn trước hết cho chính loại hình doanh nghiệp này. Trên đây là một số đặc điểm cơ bản nhất của các DNNQD ở nước ta . Đặc điểm này xuyên suốt và có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp này của ngân hàng . 1.1.3.Vài nhận xét về các DNNQD ở nước ta. Qua phân tích đặc điểm và những ảnh hưởng của các DNNQD đến kinh tế xã hội nước ta những năm gần đây, ta có những nhận xét trên 2 góc độ ưu điểm và nhược điểm sau : 1.1.3.1.Những ưu điểm. Thứ nhất, các DNNQD có những đóng góp lớn vào phát triển kinh tế đất nước. Các DNNQD hoạt động trong hầu hết những nghành, những lĩnh vực kinh tế: Nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp,... đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Các DNNQD hoạt động linh hoạt, thích ứng nhanh, đáp ứng nhanh những nhu cầu của thị trường góp phần làm cho các hoạt động kinh tế trở lên linh động, làm thay đổi diện mạo nền kinh tế. Theo các nhà kinh tế ước tính thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay đóng góp đến 42% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP ) và đóng góp vào tăng trưởng GDP cao hơn so với thành phần kinh tế Nhà nước. Đặc biệt từ năm 2001 trở lại đây, chỉ số đóng góp vào GDP của các DNNQD trung bình hàng năm tăng hơn 10%. Tốc độ tăng trưởng của các thành phần kinh tế. (Năm trước bằng 100%) Đơn vị tính : % Thành phần kinh tế 1995 1999 2000 2001 2002 Tốc độ tăng trưởng chung Trong đó : - DNNN - DN tư nhân - DN hỗn hợp 109,5 109,4 109,3 112,7 104,8 102,6 103,2 106,2 106,8 107,7 108,1 111,0 106,8 107,44 113,22 113,59 107,4 106,88 113,89 114,35 Nguồn:Tạp chí Khoa học ngân hàng số 2/2004 Thứ hai, Hoạt động của các DNNQD thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Các DNNQD hoạt động linh động trên nhiều các lĩnh vực trong nền kinh tế đặc biệt là lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế và là chất “xúc tác”, lôi kéo các thành phần kinh tế khác nhất là kinh tế Nhà nước phải tự đổi mới, tự điều chỉnh để có thể cạnh tranh được trên thị trường. Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các nghành sản xuất kinh doanh đều do Nhà nước đảm nhận làm mất đi tính cạnh tranh, mất động lực để phát triển đi lên dẫn đến tình trạng trì trệ, kém hiệu quả trong khu vực kinh tế Nhà nước. Ngày nay, trừ một số doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ độc quyền, còn lại hầu hết các ngành các lĩnh vức sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác. Điều này bắt buộc khu vực kinh tế Nhà nước phải tổ chức, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh nếu muốn tồn tại và phát triển. Các DNNQD vừa là đối tác làm ăn, vừa là đối thủ cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nên nó là nhân tố quan trọng thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Thứ ba, các DNNQD góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Một cơ cấu kinh tế hiện đại là cơ cấu kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao trong GDP. Các DNNQD hoạt động trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong thương mại và dịch vụ do đó nó là trung gian, là chiếc cầu nối để chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Bởi vì : Khi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ thì nó sẽ trực tiếp đóng góp vào lĩnh vực này, ngoài ra nó còn cung cấp cho nông nghiệp máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu...làm nâng cao năng suất trong lĩnh vực nông nghiệp . Khi đó lao động trong nông nghiệp sẽ dư thừa và chuyển sang lĩnh vực công nghệp và dịch vụ. Thứ tư, các DNNQD phát huy tốt các nguồn lực của nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước không thể bao quát tất cả, không thể phát huy hết mọi nguồn lực của nền kinh tế . - Có thể nói tiềm lực đầu tiên mà các DNNQD huy động đó chính là nguồn vốn rất lớn trong dân cư. ở nước ta lượng vốn trong dân cư rất lớn mà thành phần kinh tế Nhà nước không thể huy động hết, trong những năm gần đây cùng với sự gia tăng mạnh mẽ số DNNQD là số vốn đăng ký thêm rất lớn. Chỉ trong 4 năm gần số vốn đăng ký thêm của các DNNQD là 144.000 tỷ đồng, chưa kể số vốn vay của các doanh nghiệp này. - Tiềm lực thứ 2 mà các doanh nghiệp này khơi dậy đó chính là lực lượng lao động. Trước đây có đến 80% lực lượng lao động là trong lĩnh vực nông nghiệp, làm việc chủ yếu là thủ công, năng suất thấp, con số thất nghiệp thực tế là rất lớn. Trong khi đó khu vực kinh tế Nhà nước lại chậm phát triển, khu vực công nghiệp và dịch vụ không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển. Ngày nay, các DNNQD được khuyến khích phát triển mạnh ở cả các thành phố lớn và các địa phương không những góp phần giải quyết việc làm mà còn góp phần nâng cao trình độ của lực lượng lao động. Những ưu điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn do đó khuyến khích loại hình doanh nghiệp vày phát triển là một yêu cầu tất yếu và là nhiệm vụ của toàn xã hội. 1.1.3.2.Những hạn chế của các DNNQD. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng có nhiều hạn chế cần khắc phục. Thứ nhất, Các DNNQD chỉ mới đạt được sự phát triển về bề rộng chứ chưa đạt được sự phát triển về chiều sâu. Thời gian vừa qua, chúng ta ghi nhân sự tăng lên mạnh mẽ của các DNNQD trong nhiều lĩnh vực nhưng có đến 95% các doanh nghiệp này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; trình độ quản lý và công nghệ yếu kém, lạc hậu; Làm ăn theo kiểu manh mún, chộp giật... Đó là những hạn chế lớn, là trở lực cản trở sự phát triển cả về chất và về lượng của loại hình doanh nghiệp này. Thứ hai, rất nhiều doanh nghiệp có biểu hiện làm ăn mờ ám. Các hiện tượng làm ăn trái pháp luật như : Trốn thuế, làm hàng giả, hàng nhái, kinh doanh trái phép... diễn ra phổ biến đối với các DNNQD. Ngoài ra còn có nhiều các doanh nghiệp có hành vi lừa đảo gây mất ổn định xã hội. Nguy hiểm hơn khi các hành vi lừa đảo này có sự tiếp tay của một bộ phận công chức Nhà nước, một bộ phận những cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó hành vi lừa đảo trở lên khó lường hơn, gây hậu quả nghiêm trọng hơn. Tất cả những điều đó làm suy giảm uy tín của các DNNQD, làm cho xã hội thiếu tin tưởng đối với các doanh nghiệp này. Muốn cho các doanh nghiệp này phát triển một cách bền vững đúng với vai trò của nó thì những hạn chế trên cần phải dần khắc phục. Đồng thời cần phải phát huy những mặt tích cực vốn có của thành phần kinh tế này. 1.2.Mở rộng cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.2.1.Quan niệm về mở rộng cho vay. Cho vay, là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho khách hàng sử dụng một khoản tiền vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Mở rộng cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD chính là phản ánh sự gia tăng khối lượng cho vay đối vớ các DNNQD cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. - Mở rộng theo chiều rộng tức là sự tăng lên về quy mô của đối tượng, của các khoản vay như: số dư nợ tăng lên, số khách hàng tăng lên... - Mở rộng theo chiều sâu là sự thay đổi về tính chất, cơ cấu theo hướng hợp lý của các khoản vay như: Cơ cấu của các khoản vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn hợp lý; Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD so với các thành phần kinh tế khác... 1.2.2.Nội dung của mở rộng cho vay các DNNQD . Nội dung của mở rộng được phản ánh thông qua các chỉ tiêu về dư nợ (số dư nợ, tỷ trọng dư nợ, cơ cấu của dư nợ, tốc độ tăng dư nợ, sự thay đổi cơ cấu, tỷ trọng dư nợ và chỉ tiêu về nợ quá hạn); về số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn với ngân hàng; về sự đa dạng các hình thức cho vay, sự đa dạng các hình thức bảo đảm. 1.2.2.1.Các chỉ tiêu về dư nợ. - Số dư nợ của các DNNQD phản ánh số tiền mà ngân hàng đã và vẫn đang còn cho vay các DNNQD. Số dư nợ mà càng lớn phản ánh mức độ mở rộng cho vay các đối tượng là DNNQD càng cao. Tuy nhiên, nghiên cứu mở rộng cho vay ta phải đặt trong mối quan hệ với các thành phần khác, đặt trong mối quan hệ về thời gian. Chính vì vậy mà số dư nợ không thể phản ánh hết thực chất của việc mở rộng cho vay các DNNQD của ngân hàng mà phải xem xét đồng thời các chỉ tiêu, các khía cạnh khác nhau của mở rộng cho vay. - Tốc độ tăng dư nợ là tỷ lệ số dư nợ năm sau cao hơn năm trước so với số dư nợ năm trước. Tốc độ này phản ánh mức độ mở rộng cho vay nhanh hay chậm của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này dương có thể kết luận rằng thời điểm sau đã có sự mở rộng cho vay so với thời điểm trước, và nếu qua thời gian tỷ lệ này tăng dần thì có thể kết luận được rằng tốc độ mở rộng ngày một tăng. Tuy nhiên, cần so sánh với các thành phần kinh tế khác qua đó mới có thể biết được việc mở rộng cho vay có đầy đủ hay không. Nếu tốc độ tăng dư nợ cũng dương nhưng lại nhỏ hơn tốc độ tăng của các thành phần kinh tế khác thì sự mở rộng đó không phải là thực chất, đó chỉ là sự tăng lên đơn thuần của số dư nợ theo xu hướng chung. - Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD là tỷ lệ phần trăm của số dư nợ của các DNNQD so với tổng số dư nợ. Tỷ trọng dư nợ phản ánh sự mở rộng của cho vay các DNNQD so với các thành phần khác. Nếu tỷ trọng này cao chứng tỏ các DNNQD có quan hệ vay mượn nhiều hơn các thành phần khác có ưu thế hơn các thành phần khác. Tỷ lệ này tăng theo thời gian phản ánh ngân hàng đã ngày càng coi trọng cho vay các DNNQD. Có thể số dư nợ không tăng theo thời gian nhưng tỷ trọng cho vay các DNNQD tăng lên so với các thành phần kinh tế khác đã chứng tỏ sự thực sự quan tâm của ngân hàng đối với các doanh nghiệp này, đó cũng là sự mở rộng cho vay. - Cơ cấu dư nợ của các DNNQD. Tuỳ từng cách phân loại dư nợ của các DNNQD mà ta có các loại cơ cấu dư nợ khác nhau. Chẳng hạn nếu phân các khoản vay của các DNNQD theo kỳ hạn thành dư nợ ngắn hạn, dư nợ trung hạn và dư nợ dài hạn thì ta sẽ có cơ cấu về kỳ hạn của các khoản vay. Ta không thể kết luận tỷ lệ các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo tỷ lệ nào mới là sự mở rộng mà tuỳ từng thời điểm, tuỳ từng điều kiện mà sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp lý là sự mở rộng cho vay. Hợp lý ở đây chính là nhu cầu vay của các doanh nghiệp được ngân hàng đáp ứng đầu đủ, vừa có lợi cho ngân hàng, vừa có lợi cho cho doanh nghiệp. Có những trường hợp thì cơ cấu dịch chuyển từ dư nợ ngắn hạn sang dư nợ trung và dài hạn là sự mở rộng, lại có những trường hợp cơ cấu dịch chuyển từ dư nợ trung và dài hạn sang dư nợ ngắn hạn mới là mở rộng. Bởi vì: Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng chứng tỏ nhu cầu vốn cho mua sắm tài sản lưu động lớn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đạt năng suất và hiệu quả; còn tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng chứng tỏ các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất, kinh doanh, có nhu cầu lớn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Nhu cầu vốn nào tăng cũng là dấu hiệu tốt đối với các DNNQD. Miễn là, các doanh nghiệp sử dụng loại vốn nào có hiệu quả, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và ngân hàng thì tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng hay tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn tăng cũng đều hợp lý và là sự mở rộng cho vay các DNNQD. Chẳng hạn, do đầu tư mở rộng sản xuất nên các doanh nghiệp có hiệu quả cao nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp này tăng cao làm tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng cao, mặc dù có thể tổng dư nợ không tăng nhưng có sự chuyển dịch theo nhu cầu của các DNNQD từ vay ngắn hạn sang vay dài hạn thì đó cũng là sự mở rộng cho vay. - Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn của các DNNQD là toàn bộ số dư nợ (cả gốc và lãi) của các DNNQD đã đến hạn thanh toán nhưng các doanh nghiệp này không thanh toán mà chưa được xử lý cho gia hạn nợ, xoá nợ… Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNQD là tỷ lệ giữa số dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các doanh nghiệp này. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn không trực tiếp phản ánh sự mở rộng cho vay các DNNQD nhưng nó rất quan trọng trong đánh giá sự an toàn và hiệu quả của mở rộng cho vay. Mục tiêu của hoạt động ngân hàng là an toàn và hiệu quả do đó việc mở rộng cho vay cũng cần phải đảm bảo hiệu quả nên người ta thường khống chế mức nợ quá hạn dưới một mức nào đó chứ không phải là mở rộng bằng mọi giá. 1.2.2.2.Số DNNQD vay vốn ở ngân hàng. Đó chính là số lượng các DNNQD có quan hệ vay vốn của ngân hàng trong một thời gian nhất định thường là một năm. Số lượng các doanh nghiệp là con số cụ thể nhất phản ánh quá trình mở rộng cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng. Nghiên cứu quá trình mở rộng thông qua số doanh nghiệp cũng cần phải xem xét quá trình gia tăng của số doanh nghiệp vay vốn, đồng thời cũng phải xem sự biến động về số tiền mỗi làn vay vốn. Qua đó có thể đánh giá một cách bao quát việc mở rộng cho vay của ngân hàng. 1.2.2.3.Đa dạng các hình thức cho vay. Đa dạng các hình thức cho vay chính là việc ngân hàng sử dụng nhiều hình thức cho vay. Việc đa dạng các hình thức cho vay đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng, cũng như từng điều kiện của điều kiện của khách hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu nhu cầu của khách hàng qua đó phát triển hoặc đổi mới các phương thức cho vay cho phù hợp. Có nhiều cách phân loại, nếu phân theo đặc điểm của món vay các doanh nghiệp thường sử dụng thì có các hình thức cho vay sau: Cho vay từng lần. Phương pháp này áp dụng đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn từng lần. Đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất. Mỗi lần vay vốn, khách hàng phải gửi đến ngân hàng các tài liệu : - Phương án, dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. - Chứng từ liên quan đến nhu cầu vay : Hợp đồng mua, bán, giấy báo giá... Ngân hàng xác định mức cho vay theo công thức : Mức Tổng nhu cầu Vốn tự có vốn khác cho = vốn của phương - của khách - (nếu có ) vay án , dự án hàng tham gia Vốn tự có được xác định là vốn có thực tham gia trực tiếp vào phương án , dự án hoặc từng lần rút vốn vay của doanh nghiệp : Vốn bằng tiền, tài sản là vật tư, hàng hoá... Ngân hàng và khách hàng thoả thuận hợp đồng tín dụng cho cả phương án vay. Phát tiền vay : Nói chung phương pháp cho vay từng lần thì phát tiền vay một lần. Tuy nhiên cũng có trường hợp phát làm 2 lần trở lên trường hợp này kèm theo hợp đồng tín dụng có thêm giấy nhận nợ. Phương án này có nhược điểm là mỗi lần vay vốn, khách hàng phải lập đủ các thủ tục vay và hợp đồng tín dụng do vậy phương pháp này còn gây phiền hà cho khách hàng . Cho vay theo hạn mức tín dụng . Đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức đó chính là số dư tối đa tại một thời điểm. Phương thức này áp dụng đối với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất, kinh doanh ổn định. - Xác định hạn mức tín dụng . Ngân hàng sau khi nhận đủ các tài liệu của doanh nghiệp, nếu đồng ý thì ngân hàng xác định hạn mức tín dụng: Nhu cầu vốn Doanh thu hoặc chi phí sản xuất kinh doanh (KH) lưu động kỳ = kế hoạch Vòng quay vốn lưu động trong kỳ (KH) Hạn mức Nhu cầu vốn Vốn tự có vốn khác tín dụng = lưu động - của khách - (nếu có ) (KH) trong kỳ (KH) hàng tham gia Tổng doanh thu thuần Số vòng quay của vốn lưu động = Vốn huy động bình quân Vốn tự có tham gia được xác định là toàn bộ vốn chủ sở hữu bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán hoặc vốn hoạt động thuần (Tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn) - Phát tiền vay: Trong phạm vi hạn mức tín dụng, thời gian hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần vay vốn doanh nghiệp và ngân hàng lập giấy nhận nợ kèm theo các chứng từ phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. Việc theo dõi phát tiền vay trên giấy nhận nợ phải cùng đồng thời theo dõi trên phụ lục hợp đồng tín dụng . - Lãi suất cho vay: Căn cứ vào quy định lãi suất của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng thoả thuận để ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng - Quản lý hạn mức tín dụng : - Chi nhánh Thăng Long phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, bảo đảm mức cho vay không vượt quá hạn mức đã ký kết . - Trong quá trình vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất, kinh doanh có thấy đổi và doanh nghiệp có nhu cầu điều chỉnh hạn mức, doanh nghiệp phải làm giấy đề nghị xác nhận lại hạn mức tín dụng và Chi nhánh Thăng Long nếu thấy hợp lý thì cùng doanh nghiệp thoả thuận bổ sung hợp đồng tín dụng . - Ký kết hợp đồng mới: Trước 10 ngày khi hạn mức tín dụng cũ hết hiệu lực doanh nghiệp phải gửi cho Chi nhánh Thăng Long phương án sản xuất, kinh doanh kỳ tiếp theo. Chi nhánh Thăng Long sẽ xem xét nếu đủ điều kiện sẽ xác định hạn mức tín dụng và thời hạn tín dụng mới. Trường hợp hạn mức tín dụng kỳ này thấp hơn hạn mức tín dụng kỳ trước thì doanh nghiệp phải giảm dư nợ thấp hơn hạn mức tín dụng kỳ này mới được vay tiếp theo hợp đồng tín dụng mới. - Xác định thời hạn cho vay . Thời hạn cho vay được xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc xác định trên giấy nhận nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nguồn vốn của Chi nhánh Thăng Long. Nếu doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh tổng hợp thì chọn sản phẩm có chu kỳ kinh doanh dài nhất hoặc chiếm tỷ trọng chủ yếu để xác định thời hạn vay. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho cả ngân hàng và doanh nghiệp do thủ tục vay vốn đơn giản sau lần vay đầu tiên, ngân hàng và doanh nghiệp chủ động hơn trong việc cân đối và sử dụng vốn . Cho vay trả góp. Khi vay vốn, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải cộng với số gốc phải chia ra để trả nợ làm nhiều kỳ hạn trong thời gian vay. Hình thức này chủ yếu dùng trong cho vay đời sống của cá nhân, hộ gia đình, còn đối với các doanh nghiệp việc cho vay trả góp thường phát sinh khi có các nhu cầu vay vốn như: Xây dựng các công trình phúc lợi cho cán bộ, công nhân viên (Nhà mẫu giáo, nhà văn hoá...) Do hình thức này là vay trung và dài hạn nên ngân hàng cần phải chú ý cân đối ngồn vốn trung và dài hạn. Cho vay theo hạn mức thấu chi . Phương thức này hiện chưa được NHNo&PTNT Việt Nam quy định chi tiết nên Chi nhánh Thăng Long có nhu cầu thì phải lập đề án trình tổng giám đốc thì mới được thực hiện . Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay theo hạn mức thấu chi, có thu nhập ổn định và có tín nhiệm với ngân hàng . - Tài khoản thấu chi: Muốn vay theo hình thức này khách hàng phải mở tài khoản thấu chi tại ngân hàng . - Số dư trên tài khoản thấu chi có thể dư nợ hoặc dư có. Dư có có nghĩa là khách hàng đang gửi tiền vào ngân hàng và được hưởng lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, dư nợ tài khoản thấu chi có nghĩa là khách hàng đang vay tiền ngân hàng và phải chịu lãi tiền vay theo thoả thuận. - Khách hàng phải có cam kết chuyển thu nhập của mình vào tài khoản thấu chi. - Khách hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung vầ tính hợp pháp của các khoản chi của khách hàng trên tài khoản thấu chi . - Hạn mức thấu chi. Chi nhánh Thăng Long sau khi nhận đủ hồ sơ của khách hàng nếu đồng ý sẽ xác định hạn mức thấu chi. Để bảo đảm an toàn vốn, ngân hàng quy định hạn mức thấu chi với từng khách hàng, đối tượng vay vốn. - Thủ tục vay vốn. - Khách hàng có nhu cầu chi vượt số tiền có trên tài khoản thấu chi của mình thì lập giấy đề nghị vay tiền, giấy đề nghị vay tiền được lập một lần cho cả hạn mức thấu chi. - Trong phạm vi hạn mức thấu chi, mỗi lần rút vốn khách hàng chỉ cần mang đến ngân hàng các chứng từ : Phiếu chuyển khoản, giấy lĩnh tiền mặt. Căn cứ vào hạn mức thấu chi, kế toán lập thủ tục cho khách hàng rút vốn theo quy định. - Quản lý hạn mức thấu chi. - Kế toán phải quản lý chặt chẽ hạn mức thấu chi, bảo đảm mức cho vay không vượt quá hạn mức đã ký kết. - Trong quá trình vay vốn, trả nợ nếu khách hàng có nhu cầu chỉnh hạn mức thì phải làm giấy đề nghị xác định lại hạn mức thấu chi. Ngân hàng xem xét nếu thấy hợp lý, chấp thuận thì cùng khách hàng thoả thuận, bổ sung hợp đồng tín dụng. - Xác định thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay theo hình thức này tối đa không vượt quá 12 tháng. Cho vay theo dự án đầu tư. Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn và tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm, dịch vụ trong khoảng thời gian nhất định. - Ngân hàng có thể cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư để phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư, phục vụ đời sống. - Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn nợ, xác định lãi suất ... Mức Tổng nhu cầu Vốn tự có vốn khác cho = vốn của phương - chủ dự án - (nếu có ) vay án , dự án tham gia Thời hạn cho vay = Thời gian XDCB + Thời gian trả nợ Mức cho vay Thời hạn trả nợ = KH để trả nợ khác + LN +Nguồn - Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện của dự án . - Mỗi lần rút vốn vay, doanh nghiệp lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi mức cho vay đã thoả thuận, kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. - Lãi suất cho vay: Căn cứ thao quy định của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng thoả thuận ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng. - Việc cho vay theo dự án đầu tư, ngân hàng cần phải kết hợp với các hình thức cấp tín dụng khác như: Thực hiện bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, có như vậy ngân hàng mới thu được doanh thu cao nhất. - Cho vay theo phương thức này thường là các dự án lớn cần có nguồn vốn lớn, ngân hàng cần có thời gian huy động và trả lãi huy động do vậy ngân hàng và khách hàng thoả thuận mức phí trả trong trường hợp khách hàng trả trước hạn, phí cam kết trả một phần chi phí huy động của ngân hàng, trong trường hợp khách hàng đã ký hợp đồng tín dụng nhưng thực tế không vay. Cho vay hợp vốn. Cho vay hợp vốn là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một dự án của khách hàng. Cho vay hợp vốn thường xảy ra trong các trường hợp sau: - Nhu cầu xin vay của khách hàng vượt quá giới hạn cho vay của tổ chức tín dụng. - Khả năng tài chính và nguồn vốn của tổ chức tín dụng không đáp ứng đủ nhu cầu vay của một dự án. - Nhu cầu phân tán rủi ro của tổ chức tín dụng. - Bên nhận tài trợ có nhu cầu huy động vốn từ nhiều tổ chức tín dụng khác nhau. Chi nhánh Thăng Long cùng với các thành viên đồng tài trợ thống nhất với nhau về phương thức thẩm định là một trong các phương thức sau: - Thành lập tổ thẩm định chung. - Các tổ chức tín dụng tham gia hội đồng tài trợ thẩm định độc lập. - Thống nhất giao cho tổ chức tín dụng đầu mối thực hiện thẩm định. Do nhu cầu chia sẻ rủi ro nên phương pháp này ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trọng tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các dự án dầu tư lớn. Do có lợi thế về vốn tự có mà NHNo&PTNT Việt Nam thường được mời với tư cánh là thành viên đồng tài trợ. Đó là các hình thức cho vay mà các doanh nghiệp đã thực hiện ở Chi nhánh Thăng Long . 1.2.2.4.Đa dạng hoá các hình thức bảo đảm. Việc đa dạng hoá các hình thức bảo đảm cũng đảm bảo phù hợp hơn với nhiều doanh nghiệp. Bởi vì, mỗi một hình thức bảo đảm mang những đặc trưng riêng và phù hợp khác nhau với từng doanh nghiệp. Tuỳ từng điều kiện của mình mà các DNNQD lựa chọn hình thức bảo đảm cho phù hợp với doanh nghiệp mình Điều đó làm nhiều doanh nghiệp có thể vay vốn được của ngân hàng hơn, qua đó nâng cao được dư nợ các DNNQD hơn. Hình thức bảo đảm do doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận nhưng phải theo quy định của pháp luật. Theo các quy định ở nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay, Nghị định 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi một số điều của Nghị định 178/1999/NĐ-CP và các hướng dẫn của NHNo&PTNT Việt Nam về bảo đảm tiền vay thì NHNo&PTNT Việt Nam có thể cho vay có bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm theo các hình thức sau:  Các hình thức bảo đảm bao gồm: Thứ nhất, Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay: Tài sản cầm cố thế chấp phải thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền quản lý của doanh nghiệp. Đồng thời, tài sản phải là tài sản dễ phát mại. Cầm cố: Cầm cố là hình thức theo đó doanh nghiệp phải chuyển quyền kiểm soát tài sản sang cho ngân hàng trong thời hạn cam kết (thường là thời hạn vay). Cầm cố thường áp dụng với những tài sản dễ kiểm soát, dễ bảo quản, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ánh hưởng đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Như các loại chứng khoán, các hợp động, sổ tiết kiệm, kim loại quý, ngoại tệ mạnh...Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm là không an toàn cho ngân hàng, đó thường là các tài sản thanh khoản cao. Khi thực hiện cho vay theo hình thức bảo đảm cầm cố ngân hàng kiểm tra tính tính hợp pháp, hợp lệ, tính an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của người cam kết (công ty phát hành chứng khoán, công ty bảo hiểm...). Ngân hàng và khách hàng thoả thuận định giá vật cầm cố, thoả thuận và ký hợp đồng cầm cố. Trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ đối với các bảo đảm cầm cố như chuyển giao vật cầm cố, nghĩa vụ quản lý vật cầm cố, quyền phát mại vật cầm cố khi khách hàng vi phạm các cam kết trong hợp đồng tài trợ... Thế chấp : Là hình thức theo đó doanh nghiệp vay vốn phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền về tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Các tài sản bảo đảm theo hình thức này thường là tài sản tham gia vào quá trính sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (máy móc, thiết bị, hàng hoá...). Những tài sản này thường cồng kềnh, phân tán, bán hoặc chuyển nhượng khó khăn. Bảo đảm bằng phương pháp này doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nên quá trình sử dụng có thể làm biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng kiểm soát của ngân hàng gặp nhiều hạn chế nên ngân hàng có thể gặp nhiều rủi ro hơn so với phương pháp cầm cố. Do đó khi tài trợ ngân hàng phải xem xét thật kỹ vật thể chấp, trong hợp đồng thế chấp phải có phàn mô tả vật thế chấp và ngân hàng chỉ cho vay theo tỷ lệ nào đó giá trị vật thế chấp. Thứ hai, Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Bên bảo lãnh phải có các điều kiện sau: Có năng lực pháp luật dân sự; có khả năng về vốn; có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bên bảo lãnh cầm cố, thế chấp tài sản hoặc không cầm cố thế chấp tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là do ngân hàng và bên bảo lãnh thoả thuận. Bên thứ ba ở đây thường là các công ty mẹ bảo lãnh vay vốn cho các công ty thành viên. Bên thứ ba ở đây có thể là các tổ chức tài chính, tiền tệ có uy tín, có khả năng tài chính thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn. Trong trường hợp này thì doanh nghiệp muốn được bảo lãnh phải có thế chấp tài sản hoặc ký quỹ đồng thời phải trả phí bảo lãnh. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp vay vốn do tốn kém, việc ký quỹ làm ứ đọng vốn… Thứ ba, Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Trường hợp này khách hàng phải có tín nhiệm với ngân hàng (theo quy định khách hàng tối thiểu phải xếp loại B), có mức vốn tự có tham gia tối thiểu theo quy định, có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, có khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết. Tài sản hình thành từ vốn vay trong quá trình sản xuất, kinh doanh thường làm tài sản hao mòn, biến dạng, làm giảm giá trị của tài sản như máy móc, thiết bị…Do đó chỉ những khách hàng có uy tín với ngân hàng mới được bảo đảm tiền vay theo cách này. Cũng có trường hợp khi sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay lại tăng giá trị như đầu tư vào gia súc, cây trồng… Việc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay rất có lợi cho doanh nghiệp vì tài sản của doanh nghiệp không phải thế chấp mà có thể sử dụng cho mục đích khác, trong nhiều trường hợp không làm ứ đọng vốn của doanh nghiệp.  Ngân hàng cũng áp dụng các biện pháp cho vay không cần tài sản bảo đảm. Thứ nhất, Các doanh nghiệp có quan hệ truyền thống với ngân hàng; sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; tình hình tài chính đảm bảo yêu cầu trả nợ; có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh hợp lý; cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích thì có thể được ngân hàng cho vay không cần bảo đảm bằng tài sản. Thứ hai, tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm do sự chỉ định của chính phủ. Đây là hình thức ưu tiên, trợ cấp của Nhà nước đối cới các thành phần kinh tế kếm phát triển, cần khuyến khích phát triển như : Hộ nông dân nghèo, các đối tượng vùng sâu, vùng xa, các lĩnh vực công ích…Do đó, các DNNQD thường không nằm trong đối tượng ưu tiên trên. 1.2.3.ý nghĩa của mở rộng cho vay các DNNQD của ngân hàng. 1.2.3.1.Đối với các DNNQD . Mở rộng cho vay có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các DNNQD : Thứ nhất, Mở rộng cho vay giúp các DNNQD có cơ hội huy động vốn, làm tăng quy mô vốn của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh . Như đã nói ở trên các DNNQD hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần rất nhiều vốn cả vốn ngắn hạn lẫn vốn trung và dài hạn để duy trì sản xuất, kinh doanh ; để đầu tư mở rộng sản xuất; đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm...Trước hết ta xem các nguồn mà các DNNQD có thể huy động hiện nay là: - Nguồn vốn chủ sở hữu. Vốn tự có ban đầu: Đây là số vốn mà chủ sở hữu hoặc các thành viên chủ sở hữu góp lại với nhau khi thành lập doanh nghiệp hình thành nên vốn điều lệ ban đầu. Như đã nói, trên một nửa các DNNQD có số vốn này dưới 500 triệu. Vốn từ lợi nhuận để lại: Đây là nguồn vốn chủ sở hữu được bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp. Nguồn vốn này không đáng kể bởi vì: Thứ nhất, muốn có nguồn vốn này thì doanh nghiệp phải có lãi, trong khi đó các doanh nghiệp thường bị lỗ hoặc lãi rất ít trong những năm đầu hoạt động mà các DNNQD ở ta hầu hết mới được thành lập trong vòng 4 năm qua. Thứ hai, đây là vấn đề nhạy cảm, lợi nhuận để lại đồng nghĩa với số lợi nhuận được chia ít hơn cho các thành viên. Điều này mâu thuẫn với lợi ích trước mắt của các thành viên và dễ làm tính hấp dẫn của cổ phiếu giảm (đối với các công ty cổ phần) làm ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp . Vốn từ phát hành cổ phiếu: Có thể nói đây là ngồn vốn quan trọng và chiếm tỷ lệ cao ở nhiều nước. Tuy nhiên ở Việt Nam, nguồn vốn này các doanh nghiệp nhất là các DNNQD rất khó tiếp cận vì: Không phải DNNQD nào cũng được phát hành cổ phiếu, theo Luật Doanh nghiệp quy định chỉ có công ty cổ phần thì mới được phát hành cổ phiếu, công ty TNHH thì chỉ được phát hành trái phiếu, còn doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Hầu hết các DNNQD đều không đủ các tiêu chuẩn, điều kiện niêm yết trên TTKH chính thức còn thị trường phi chính thức (Thị trường OTC) chưa được thành lập. Do đó các chứng khoán của các DNNQD khó lưu thông trên thị trường (tính thanh khoản không cao) cộng với tính rủi ro cao của các cổ phiếu này do vậy mà được rất ít nhà đầu tư quan tâm. - Vốn vay Vay của bạn bè, người thân: Nguồn này có thể nói là rất nhỏ và không thường xuyên. Nguồn từ tín dụng thương mại: Nguồn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua, bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Đây là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng. Nhưng không phải lúc nào cũng có thể mua chịu được hàng hoá, mặt khác doanh nghiệp mua chịu thì có thể cũng phải bán chịu nên vẫn thiếu vốn cho đầu tư, kinh doanh. Nguồn vốn vay từ phát hành trái phiếu: Việc phát hành trái phiếu thì đòi hỏi các điều kiện ngặt nghèo về pháp lý, thủ tục phát hành, tài sản bảo đảm...Hiện nay chưa một DNNQD nào phát hành được do các điều kiện của việc phát hành trái phiếu. Hầu hết các nguồn có thể huy động được của các DNNQD đều rất khó khăn. Vậy thì nguồn tín dụng của ngân hàng là một giải pháp thích hợp và hiệu quả để các DNNQD có thể huy động để phục vụ cho hoạt động của mình. Nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng giúp các doanh nghiệp giả quyết những vấn đề sau: - Nguồn huy động từ các tổ chức tài chính – tín dụng có thể nói đây là nguồn vốn cho sản xuất , kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp có vốn hình thành từ ngân hàng chiếm đến 80% tổng vốn kinh doanh. Vốn này sử dụng để mua, sắm NVL, CC-DC, trả tiền công, tiền lương....thông qua các khoản vốn vay ngắn hạn. - Nguồn vốn từ ngân hàng đã góp phần giúp doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh ; đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để giành lợi thế trước đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp ở nước ta hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ sử dụng lạc hậu, hầu hết các máy móc, thiết bị đã lỗi thời . Do đó sản phẩm làm ra khó cạnh tranh. Do vậy nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh và nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp ngày càng trở lên cấp thiết. Với việc mở rộng cho vay các doanh nghiệp DNNQD thì ngân hàng có thể hỗ trợ vốn giúp các doanh nghiệp từng bước nâng cao khả năng công nghệ thông qua vốn vay trung và dài hạn. Thứ hai, Mở rộng cho vay khuyến khích các DNNQD sử dụng vốn hiệu quả hơn. Hầu như doanh nghiệp cũng sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng vì nó không những giúp doanh nghiệp đủ vốn để sản xuất, kinh doanh mà còn làm giảm chi phí vốn. Lãi tiền vay được tính là chi phí hợp lý nên khi tính thuế thu nhập do đó doanh nghiệp sẽ được hưởng một phần lợi từ thuế. Mặt khác, vay ngân hàng thì doanh nghiệp không những phải trả gốc mà còn phải trả lãi tiền vay trong thời gian nhất định. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải tính toán phương án sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả để có thể sau khi trả lãi ngân hàng thì vẫn còn lợi nhuận cho mình. Thứ ba, Vai trò quan trọng nữa là giúp doanh nghiệp có thể chớp nhanh cơ hội mà thị trường mang lại. Những cơ hội không phải lúc nào cũng có mà chỉ xuất hiện ở từng thời điểm nếu doanh nghiệp không tận dụng hoặc không nhanh chân thì cơ hội đó sẽ qua đi. Sự tư vấn và nguồn vốn của ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp chớp được cơ hội và giành được hiệu quả cao. Vai trò của ngân hàng đối với các doanh nghiệp là rất lớn, nó không cụ thể để có thể liệt kê đầy đủ ra được. Càng mở rộng quan hệ cho vay thì vai trò của ngân hàng đối với doanh nghiệp càng thể hiện rõ ràng. 1.2.3.2.Đối với ngân hàng . Ngân hàng tiến hành mở rộng cho vay thì chắc chắn ngân hàng phải có lợi. Những lợi ích mà ngân hàng có được từ mở rộng cho vay các DNNQD là: Thứ nhất, Chính là doanh thu và lợi nhuận từ lãi vay và phí dịch vụ khác. Số dư nợ tăng là chỉ tiêu quan trọng của mở rộng cho vay, khi mà có số dư nợ tăng sẽ là cơ sở để tăng doanh thu và lợi nhuận. Khi ngân hàng không gặp rủi ro lớn từ các khoản vay này thì chắc chắn doanh thu và lợi nhuận sẽ tăng. Hơn nữa, các doanh nghiệp vay vốn thì tỷ trọng vay vốn trung và dài hạn sẽ tương đối cao do đó các khoản thu từ lãi tăng nhanh do lãi suất vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất vay ngắn hạn. Cùng với các khoản thu từ lãi là các khoản thu về dịch vụ như: Dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh... Thứ hai, mở rộng cho vay giúp ngân hàng và khách hàng có quan hệ tốt hơn, qua đó mà ngân hàng có thể có nhiều khách hàng tốt, khách hàng truyền thống. Điều đó làm cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả trước mắt cũng như lâu dài. Thứ ba, mở rộng cho vay làm cho ngân hàng trở lên hoàn thiện hơn, có kinh nghiệm hơn trong phân tích khách hàng, thông thạo hơn trong nhiều nghiệp vụ, có nhiều thông tin hơn để phục vụ kinh doanh có hiệu quả. 1.2.3.3.Đối với nền kinh tế. Khi mà các DNNQD và ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì đương nhiên lợi ích kinh tế chung sẽ được nâng cao. Ngân hàng hoạt động hiệu quả sẽ làm sôi động thị trường tài chính, tiền tệ; tăng cường huy động vốn trong nền kinh tế; phát huy tốt vai trò dẫn vốn từ những người có vốn đến những người cần vốn;… Khi các DNNQD hoạt động tốt thì vai trò tích cức của nó được thể hiện: Nâng cao tính cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển; Các doanh nghiệp sẽ đóng góp vào tốc độ phát triển chung của nền kinh tế cao hơn; góp phần giải quyết việc làm, nâng cao khả năng của người lao động; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; góp phần làm tăng ngân sách Nhà nước thông qua thuế và lệ phí... 1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay của ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Quan hệ cho vay của ngân hàng đối với các khách hàng là một quan hệ kinh tế chịu chi phối, tác động của nhiều nhân tố . Có thể chia làm 2 loại nhân tố tác động đến quan hệ này là các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan . 1.3.1. Các yếu tố khách quan . Đây là các nhân tố vĩ mô có tác động rãi đến cả ngân hàng, cả khách hàng được, có ảnh hưởng lớn đến các quan hệ này. Cụ thể như sau : 1.3.1.1.Môi trường kinh tế, chính trị , xã hội kinh tế, luật pháp.  Môi trường kinh tế. Một môi trường kinh tế phát triển ổn định thể hiện ở: - Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đều đặn. - Có sự ổn định của các chỉ số căn bản: Chỉ số giá, chỉ số về thu nhập, lãi suất, tỷ giá ... - Sự hội nhập kinh tế trong khu vực và quốc tế - Trình độ về công nghệ, việc làm... Các chỉ số và diễn biến từ nền kinh tế có tác động rất lớn đến lĩnh vực nhạy cảm như hoạt động ngân hàng. Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm bởi vì: Thứ nhất, tài sản của ngân hàng chủ yếu hình thành từ tiền gửi, tiền vay (thuộc sở hữu của nhiều chủ thể ). Do đó bất kỳ một thông tin nào có ảnh hưởng đến tài sản của họ thì họ sẽ có phả ứng ngay lập tức. Trường hợp của Ngân hàng á châu (ACB) là một ví dụ điển hình. Khi khách hàng có “tin đồn” về Tổng giám đốc ngân hàng này bỏ trốn khách hàng đã túc trực ngày đêm để xin rút tiền ra khỏi ACB, điều đó đã gây khó khăn rất lớn cho ACB và nếu không có sự giúp đỡ của NHNN, UBND Thành phố Hồ Chí Minh và các NHTM khác thì hậu quả sẽ còn rất lớn. Thứ hai, Các tài sản của ngân hàng hầu hết là tài sản tài chính và có tính thanh khoản cao , dễ chuyển đổi nên nó phản ứng nhanh với những biến động nhỏ của nền kinh tế. Kinh tế mà ổn định sẽ giúp các DNNQD phát triển mạnh và các ngân hàng kinh doanh có hiệu quả thì các doanh nghiệp có như cầu vốn nhiều hơn, có khả năng đáp ứng yêu cầu của ngân hàng tốt hơn; các ngân hàng hàng cũng có đủ các điều kiện về nguồn vốn và các điều kiện khác để sẵn sàng cho vay. Do đó việc mở rộng cho vay đối với các DNNQD trở lên dễ dàng hơn. Ngược lại, khi có sự bất ổn từ nền kinh tức thì việc cho vay các DNNQD trở lên rất khó khăn. Sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chính là sự tham gia của kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới thể hiện qua kim ngạch thương mại quốc tế. Sự hoà nhập kinh tế quốc tế là điều kiện tốt cho cả ngân hàng và doanh nghiệp, cả hai đều có cơ hội hợp tác, tìm kiếm khách hàng, tiếp cận công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại. Các ngân hàng có thể mở rộng cho vay bằng ngoại tệ để các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá, trang bị máy móc, kỹ thuật công nghệ. Đồng thời, phát triển các dịch vụ như: kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế... Trong những năm qua kinh tế Việt Nam có sự hội nhập mạnh mẽ có thể kể ra như: Việt Nam đã tham gia thị trường tự do thương mại Asian (AFTA); diễn đàn kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC); kí hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ... Và mục tiêu đến năm 2005 sẽ chính thức ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đó là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và ngân hàng nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngân hàng tăng thêm khả năng huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ, đồng thời có cơ hội phát triển nhiều dịch vụ trong kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.  Môi trường an ninh, chính trị, xã hội. Một môi trường mà chính trị, an ninh, xã hội ổn định thể hiện ở: - Không có sự tranh giành quyền lực trái hiến pháp và pháp luật. - An ninh quốc phòng được giữ vững. - Pháp luật được mọi người tôn trọng. - Những tệ nạn xã hội phải được đấu tranh và dần bài trừ, xoá bỏ... Yếu tố này không thể tác rời yếu tố ổn định và phát triển kinh tế, không một quốc gia nào mất ổn định về an ninh chính trị lại có thể có kinh tế phát triển. Nước ta hiện nay có thể nói là có chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, được thế giới đánh giá là có độ an toàn cao. Đó là hai điều kiện hết sức căn bản để phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, ở nước ta, tệ nạn xã hội thực tế còn nhiều nhất là nạn tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, sự hiểu biết pháp luật của người dân rất hạn chế. Điều đó là một trở lực đáng ngại của con đường phát triển kinh tế đất nước nói chung và mối quan hệ giữa ngân hàng và các DNNQD.  Môi trường luật pháp. Luật pháp được coi là môi trường cho mọi hoạt động, pháp luật chặt chẽ và sự tôn trọng pháp luật của các thành viên trong xã hội là những điều kiện cơ bản cho mọi mối quan hệ diễn ra tốt đẹp. Luật pháp điều chỉnh mọi hành động do đó tác động trực tiếp dến các mối quan hệ trong đó có mối quan hệ giữa ngân hàng với các khách hàng là DNNQD. Hệ thống các văn bản pháp luật sẽ quy định điều chỉnh mọi họat động trong quan hệ đó, chẳng hạn quy định của pháp luật Việt Nam là các tổ chức tín dụng cho vay đối với 1 khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Do vậy pháp luật có mạnh, có hợp lý thì mối quan hệ đó sẽ trở nên dễ dàng và thuận tiện. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành, bổ sung, chỉnh sửa nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến quan hệ cho vay của ngân hàng với các DNNQD. Có thể kể ra là Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật thương mại... cùng hàng loạt các nghị định, quyết định, thông tư và các văn bản pháp luật khác của chính phủ, các bộ nghành. Tất cả các văn bản pháp luật này điều chỉnh theo hướng khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi. Đó là điều kiện tốt để ngân hàng mở rộng cho vay các đối tượng này. 1.3.1.2.Hiệu quả hoạt động và khả năng của các DNNQD . Các doanh nghiệp là người đi vay vốn, ngân hàng có cho họ vay tiền hay không là tuỳ thuộc vào nhu cầu của họ, tình hình hoạt động của họ và khả năng của họ. Mục tiêu của ngân hàng là an toàn và lợi nhuận, chính bản thân các DNNQD sẽ là yếu tố chủ yếu để ngân hàng xem xét chính sách của mình. Nếu các DNNQD hoạt động có hiệu quả, họ có kế hoạch sản xuất, kinh doanh hợp lý có khả năng tài chính cũng như đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo tiền vay thì đương nhiên sẽ được vay vốn. Ngược lại, các DNNQD hoạt động yếu kém, rủi ro cao thì ngân hàng có muốn mở rộng cho vay các đối tượng này cũng khó có thể thực hiện được. Chính vì vậy, bản thân các DNNQD là một trong những nhân tố quyết định việc mở rộng cho vay này. 1.3.2.Các yếu chủ quan. 1.3.2.1.Quy mô, phạm vi, địa bàn hoạt động của ngân hàng. - Thứ nhất, Địa bàn hoạt động của ngân hàng là nơi mà ngân hàng có trụ sở và chi nhánh. Điều này rất quan trọng vì nếu các ngân hàng không hoạt động ở địa bàn được tập chung nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì rất khó cho mở rộng cho vay với các DNNQD dẫn đến số dư nợ và tỷ trọng dư nợ của các DNNQD thấp. Vì địa phận có nhiều doanh nghiệp thì nhu cầu vay thường cao hơn, số doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng thường sẽ nhiều hơn. - Thứ hai, Quy mô, phạm vi hoạt động của ngân hàng là độ rộng của mạng lưới ngân hàng đó, phạm vi về lĩnh vực hoạt động, quy mô về vốn… Phạm vi và quy mô hoạt động càng lớn, càng rộng thì sẽ có nhiều doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được với ngân hàng, nhu cầu vốn sẽ cao hơn. Đồng thời, ngân hàng cũng có khả năng huy động vốn dễ dàng hơn, có khả năng cung ứng nhiều sản phẩm, dịch vụ hơn nên việc mở rộng cho vay các DNNQD sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Nhiều ngân hàng có nhu cầu cho vay của các doanh nghiệp lớn nhưng do quy mô huy động vốn nhỏ nên không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng do có những quy đinh giới hạn của pháp luật như: Các ngân hàng chỉ được cho vay tối đa 15% vố tự có của ngân hàng đối với 1 khách hàng; hoặc không có khả năng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ mà khách hàng cần. 1.3.2.2. Công nghệ ngân hàng. Ngày nay công nghệ ngân hàng cũng ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay. Nếu ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, các giao dịch diễn ra nhanh gọn, chính xác, thuận tiện thì sẽ có nhiều khách hàng đến với ngân hàng đó hơn do đó việc mở rộng cho vay sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn. Công nghệ ngân hàng cũng góp phần vào việc phát triển đa dạng các sản phẩm cho vay; đa dạng hoá các hình thức huy động vốn phục vụ tốt cho quá trình mở rộng cho vay các DNNQD. 1.3.2.3.Các yếu tố khác. Các yếu tố như: Uy tín của ngân hàng, khả năng của cán bộ tín dụng, sự cạnh tranh của các ngân hàng trên địa bàn... cũng ảnh hưởng nhiều đến vấn đề này. Một ngân hàng có uy tín tốt đương nhiên được các doanh nghiệp tin tưởng nên dễ dàng mở rộng cho vay, khả năng của cán bộ nhất là cán bộ thẩm định sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả mở rộng cho vay. Sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề này, nếu các tổ chức tín dụng trên địa bàn có sự cạnh tranh quyết liệt thì thị trường hoạt động của ngân hàng mình bị thu hẹp qua đó rất khó khăn cho việc thực hiện mở rộng cho vay các DNNQD. Chương II: Thực trạng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở NHNo&PTNT Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long 2.1.Vài nét khái quát về chi nhánh Thăng Long . 2.1.1.Sự hình thành và phát triển của chi nhánh Thăng Long . Trước đây, chi nhánh Thăng Long chính là Sở giao dịch I của NHNo&PTNT Việt Nam. Quá trình phát triển của chi nhánh được tóm lược qua các mốc thời gian sau: - Ngày 24/5/1990, Chính phủ ban hành quyết định công nhận NHNo&PTNT Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước được xếp hạng đặc biệt, là một bước ngoặt để NHNo&PTNT Việt Nam thực sự là một ngân hàng thương mại có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính. - Ngày 6/3/1991,Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam ban hành quyết định 15/QĐ- NHNo thành lập sở giao dịch I trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNT Việt Nam. - Ngày 1/4/1991, sở giao dịch đã khai trương hoạt đông tại C7, Trung Tự, quận Đống Đa, Hà Nội với 20 cán bộ, nhân viên được điều động từ các chi nhánh trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam về sở làm việc với 3 phòng: Phòng Kế toán, phòng Kinh doanh, phòng Ngân quỹ và tổ Hành chính. Hoạt động với 3 nhiệm vụ chính được Tổng giám đốc đề ra là: Một là, sở giao dịch là nơi triển khai và hoạt động thí điểm các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, thực hiện các thể lệ, chế độ mới ban hành của NHNo&PTNT Việt Nam trước khi áp dụng cho toàn hệ thống. Hai là, trực tiếp kinh doanh tiền tệ - tín dụng (Phần nội tệ) trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Ba là, thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao. Kết quả đạt được bước đầu là: Sau 21 tháng hoạt động đến 31/12/1992, Tổng dư nợ đạt 13 tỷ đồng, đạt dư nợ bình quân 650 triệu đồng/ nhân viên; Tổng nguồn huy động được là 33,6 tỷ đồng, đạt bình quân 1,7 tỷ đồng/ nhân viên. - Tháng 1/1993 , ngoài 3 nhiệm vụ ban đầu,sở giao dịch I còn được Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao thêm nhiệm vụ quản lý 23 tỉnh phía bắc (Từ Hà Tĩnh trở ra). Sở giao dịch I được làm đầu mối thanh toán, điều chuyển vốn trong hệ thống quyết toán kế hoạch tín dụng và tài chính với các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam. Do nhiệm vụ phức tạp nên số cán bộ ở sở đã tăng đến 40 người. - Đến tháng 9/1994, sở giao dịch I được Tổng giám đốc giảm nhiệm vụ quản lý khu vực phía Bắc để tập trung vào nhiệm vụ trực tiếp kinh doanh, được nhận khoán tài chính như các đơn vị thành viên khác, đồng thời là nơi nhận các lệnh của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam về: Hạch toán vốn quỹ của NHNo&PTNT Việt Nam, hạch toán điều chuyển vốn nội tệ, đầu mối thanh toán với các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội và một số công việc khác. Từ giữa năm 1998, sở giao dịch I được Tổng giám đốc cho phép kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế. - Hết quí I năm 2001, sở giao dịch đã kỷ niệm 10 năm ngày thành lập với những kết quả rất đáng tự hào: Tổng dư nguồn đạt 2264 tỷ đồng, bình quân 29 tỷ/nhân viên tăng 65 lần so với thời điểm 31/12/1992. Dư nợ đạt 403 tỷ đồng, đạt bình quân 5,5 tỷ/ nhân viên tăng 31 lần so với thời điểm 31/12/1992. Bình quân mỗi cán bộ làm ra 1tỷ lãi ròng mỗi năm. Số cán bộ đã tăng lên 84 trong đó 96% có trình độ đại học. Số phòng đã là 5 phòng, 2 tổ, 2 chi nhánh (Số liệu tính đến 31/12/2000) - Từ tháng 4/2001 đến tháng 4/3003, sở giao dịch tiếp tục hoạt động hiệu quả với:  Tổng nguồn đạt 5939 tỷ đồng (Trong đó nguồn từ uỷ thác là 1350 tỷ đồng) tăng 2,6 lần so với cuối năm 2000.  Tổng dư nợ đạt 688 tỷ đồng (Không kể dư nợ tại các tổ chức tín dụng) tăng 1,7 lần so với cuối năm 2000. (Số liệu tính đến 31/12/2002) - Tháng 4/2003, NHNo&PTNT Việt Nam đã cơ cấu lại các đơn vị thành viên, qua đó sở giao dịch I được chuyển thành chi nhánh Thăng Long . Như vậy, đến 4/2003 chi nhánh Thăng Long mới chính thức ra đời với chức năng và nhiệm vụ mới. Đến 31/12/2003 (Tức là chưa đầy 1 năm hoạt động ), chi nhánh đã đạt được những thành tích rất tốt trong năm 2003:  Tổng nguồn đạt 6798 tỷ đồng (Trong đó nguồn uỷ thác là 950 tỷ đồng).  Tổng dư nợ đạt 2337 tỷ đồng. 2.1.2.Cơ cấu tổ chức của chi nhánh. Chi nhánh Thăng Long là chi nhánh cấp 1 của NHNo&PTNT Việt Nam, trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh Thăng Long bao gồm 9 phòng nghiệp vụ, 9 chi nhánh và một phòng giao dịch được cơ cấu theo sơ đồ sau: Chi nhánh Thăng Long Phòng Kế toán Phòng Kế hoạch Phòng Tổ chức cán bộ & Đào tạo Phòng Vi tính Phòng Hành chính Phòng Thanh toán quốc tế Phòng Ngân quỹ Phòng Kiểm tra , Kiểm toán nội bộ Phòng Tín dụng Chi nhánh Chợ Mơ Chi nhánh Nguyễ nĐình Chiểu Chi nhánh Định Công Chi nhánh Lê Văn Hưu Chi nhánh Tây Sơn Chi nhánh Trung Yên Chi nhánh Láng Thượn g Chi nhánh Nguyễ n Khuyế n Chi nhánh Phan Đình Phùng Phòng Giao dịch Hàng Gà 2.1.3.Vài nét về tình hình hoạt động của chi nhánh . 2.1.3.1.Tình hình huy động vốn. Chi nhánh Thăng Long là chi nhánh cấp 1 của NHNo&PTNT Việt Nam - một ngân hàng thương mại lớn của Nhà nước có uy tín lâu năm. Hơn nữa Chi nhánh Thăng Long là một chi nhánh lớn, có mạng lưới rộng lại hoạt động trên địa bàn thủ đô - một trung tâm tài chính, tiền tệ lớn của cả nước nên việc huy động vốn gặp nhiều thuận lợi. Điều đó thể hiện rõ qua kết quả huy động vốn những năm vừa qua : Tổng nguồn huy động (1999-2003) Đơn vị : Triệu đồng. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng nguồn huy động 2.053.158 1.664.034 2.049.157 4.589.414 5.848.597 Nội tệ 1.837.914 1.221.962 1.194.112 4.042.062 4.946.118 Ngoại tệ quy đổi 215.244 442.132 555.045 547.352 901.971 Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) Ngoài ra Chi nhánh Thăng Long còn được NHNo&PTNT Việt Nam giao cho nguồn vốn để thực hiện cho vay uỷ thác rất lớn chiếm khoảng 20% tổng nguồn vốn (cả vốn huy động và vốn uỷ thác). Nguồn vốn uỷ thác của Chi nhánh Thăng Long cụ thể như sau : Nguồn vốn uỷ thác của Chi nhánh Thăng Long (1999-2003) Đơn vị : Triệu đồng. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Nguồn uỷ thác 500.000 600.000 1.300.000 1.350.000 950.000 Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) Như vậy, nguồn vốn của Chi nhánh Thăng Long là tương đối lớn và phong phú, cả ngoại tệ và nội tệ, cả nguồn huy động và uỷ thác. Đồng thời có tốc độ phát triển nguồn tương đối cao. Biểu đồ sau cho ta hình dung dễ dàng hơn về tốc độ phát triển nguồn vốn của chi nhánh: Biểu đồ biểu thị sự phát triển nguồn vốn ( Từ 1999 đến 2003 ) Tổng nguồn(Triệu đồng) 0 1000000 2000000 3000000 4000000 5000000 6000000 1999 2000 2001 2002 2003 Năm Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Chỉ năm 2000 là nguồn vốn bị thu hẹp còn từ năm 2001 trở lại đây nguồn vốn có sự tăng trưỏng nhanh chóng và mạnh mẽ (Năm 2002 tăng trưởng nguồn vốn là: 23,97%; năm 2003 là 27,43%). Kế hoạch năm 2004 của Chi nhánh Thăng Long là nguồn huy động tăng từ 20% - 30% so với năm 2003. Như vậy, khả năng huy động vốn của Chi nhánh Thăng Long là rất lớn cả huy động nội tệ và huy động ngoại tệ có thể đáp ứng tốt nhiệm vụ kinh doanh của chi nhánh. Để đi sâu vào phân tích nguồn vốn chúng ta xem xét cơ cấu của nguồn vốn theo kỳ hạn huy động. Chi nhánh Thăng Long phân loại nguồn theo kỳ hạn nguồn những năm qua trong bảng dưới đây: Nguồn huy động phân theo kỳ hạn(1999-2003) Đơn vị : Triệu đồng Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) Từ các số tuyệt đối trên bảng trên ta tính được tỷ trọng của từng loại nguồn, kết quả cho ở bảng dưới đây: Tỷ trọng nguồn huy động phân theo kỳ hạn (1999-2003) Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng nguồn huy động 100% 100% 100% 100% 100% Nguồn nội tệ 90% 73% 73% 88% 85% Không kỳ hạn Dưới 12 tháng Từ 12 thánh trở lên 80% 9% 11% 82% 14% 4% 65% 14% 21% 63% 18% 19% 66% 21% 13% Nguồn ngoại tệ 10% 27% 27% 12% 15% Không kỳ hạn Dưới 12 tháng Từ 12 thánh trở lên 18% 34% 48% 10% 23% 67% 7% 28% 65% 5% 66% 29% 44% 22% 34% Nguồn : Từ báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) Kết quả cho thấy: Nguồn vốn không kỳ hạn và ngắn hạn của chi nhánh vẫn là chủ yếu (chiếm từ 80% trở lên), đặc biệt năm 2000, tỷ trọng nguồn trung và dài hạn chiếm đến chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng nguồn huy động 2.053.158 1.664.034 2.049.157 4.589.414 5.848.097 Nguồn nội tệ 1.837.914 1.221.092 1.494.112 4.042.062 4.946.118 Không kỳ hạn Dưới 12 tháng Từ 12 thánh trở lên 1.477.670 162.198 198.055 997.152 173.128 51.622 966.752 208.127 319.233 2.564.533 735.489 742.040 3.286.581 1.017.116 642.421 Nguồn ngoại tệ 215.244 442.132 555.045 547.352 901.979 Không kỳ hạn Dưới 12 tháng Từ 12 thánh trở lên 38.397 73.061 103.786 44.956 100.398 296.778 37.785 153.548 363.739 28.739 156.452 361.927 393445 204.778 303.756 96% tổng nguồn huy động nội tệ. Điều này gây khó khăn cho chi nhánh trong việc sử dụng vốn nhất là nhu cầu vay vốn cho vay trung và dài hạn của các khách hàng luôn cao. Kết quả cũng cho thấy, đối với nguồn ngoại tệ thì lại khác. Nguồn trung và dài hạn luôn chiếm tỷ lệ khá cao. Điều đó là do sự ổn định của đồng ngoại tệ khuyến khích người gửi tiền gửi dài hạn để vừa hưởng lãi suất cao, vừa hưởng chênh lệch tỷ giá. Nguồn ngoại tệ này, đáp ứng tốt cho yêu cầu kinh doanh ngoại tệ và cho vay xuất nhập khẩu của Chi nhánh Thăng Long . Tóm lại, khả năng huy động vốn của chi nhánh là tương đối lớn cả về nội tệ lẫn ngoại tệ. Vấn đề chính của chi nhánh là có những biện pháp thích hợp để nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn để phục vụ tốt cho việc kinh doanh của mình. 2.1.3.2. Tình hình sử dụng vốn. Việc sử dụng vốn thể hiện thông qua số dư nợ. Dư nợ trong những năm qua của Chi nhánh Thăng Long được tổng hợp ở bảng kết quả dưới đây : Số dư nợ của Chi nhánh Thăng Long (1999-2003) Đơn vị: Triệu đồng. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng Dư nợ 156.934 524.544 964.941 1.180.579 2.338.380 Dư nợ các TCTD 0 121.556 500.445 492.105 492.105 Dư nợ các TCKT 156.934 402.978 464.496 688.474 1.845.275 Dư nợ quá hạn 2.561 22.312 22.676 23.716 32.852 Tỷ lệ nợ quá hạn 1,63% 4,25% 2,35% 2,00% 1,41% Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) Nhìn vào kết quả dư nợ trên ta thấy: Số dư nợ còn rất thấp nếu đem so với nguồn huy động. Ta có thể tính toán được tỷ lệ nguồn vốn được sử dụng để cấp tín dụng bằng cách lấy số dư nợ chia cho nguồn vốn huy động trong năm tương ứng. Kết quả tính toán được trình bày ở bản dưới đây: Tỷ lệ nguồn vốn huy động được sử dụng dể cấp phát tín dụng Đơn vị : Triệu đồng ,% Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng nguồn huy động 2.053.158 1.664.034 2.049.157 4.589.414 5.848.097 Tổng dư nợ 156.934 524.544 964.941 1.180.579 2.337.380 Dư nợ/Nguồn vốn 7,64% 31,52% 47,09% 25,72% 39,97% Nguồn : Tính toán từ các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) - Kết quả cho thấy, tỷ lệ nguồn sử dụng để cấp tín dụng là rất thấp, một phần vốn lớn của chi nhánh được NHNo&PTNT Việt Nam điều chuyển đến các chi nhánh khác trong hệ thống. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là trước tháng 4 năm 2003, Chi nhánh Thăng Long là Sở giao dịch I của NHNo&PTNT Việt Nam, thực hiện chức năng chủ yếu là thanh toán, điều chuyển vốn và thực hiện các chương trình thí điểm của NHNo&PTNT Việt Nam. Chính vì vậy mà dẫn đến việc cấp tín dụng chưa được quan tâm đúng mức nên số dư còn ở mức thấp so với nguồn vốn như trên. - Kết quả trên cũng cho thấy tốc độ tăng trưởng của dư nợ là khá cao. Biểu đồ sau sẽ mô tả rõ hơn tốc độ đó : Biểu đồ biểu thị tốc độ tăng dư nợ Dư nợ (Triệu đồng) 0 500000 1000000 1500000 2000000 2500000 1999 2000 2001 2002 2003 Năm - Nhìn vào các chỉ tiêu nợ quá hạn có thể nhận thấy số dư nợ quá hạn vẫn tăng hàng năm, song cùng với tốc độ tăng cao của số dư nợ thì tỷ lệ này không những không tăng mà từ năm 2000 đến nay lại có xu hướng giảm dần. Chi nhánh Thăng Long luôn duy trì tỷ lệ nợ quá hạn ở mức trên dưới 2%. Đây là một con số tương đối thấp song cũng phải lưu ý rằng tỷ lệ nợ quá hạn trên chưa phải là con số thực tế ở Chi nhánh Thăng Long. Con số thực tế không thể xác định chính xác nhưng chắc chắn sẽ cao hơn các con số trên do có hiện tượng đảo nợ, giãn nợ. NHNo&PTNT Việt Nam coi chỉ tiêu nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng trong việc xét thưởng, phụ cấp, tăng lương cho cán bộ nhân viên của mình. Do vậy, họ luôn tìm cách che dấu, làm sai lệch chỉ tiêu nợ quá hạn. Phương pháp thường dùng là gia hạn nợ, cho vay món này để trả món kia. Nghiên cứu sâu hơn về tình hình sử dụng vốn, ta xem xét đến kỳ hạn của các khoản tín dụng và đối tượng khách hàng của Chi nhánh Thăng Long thông qua 2 cách phân loại tín dụng theo kỳ hạn và theo thành phần kinh tế. - Nếu phân theo kỳ hạn, Chi nhánh Thăng Long đã tổng hợp số dư nợ tín dụng theo kỳ hạn những năm qua ở bảng dưới đây: Tín dụng theo kỳ hạn (1999-2003) Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Dư nợ Tỷ. T Dư nợ Tỷ. T Dư nợ Tỷ. T Dư nợ Tỷ. T Dư nợ TỷT Ngắn hạn Trung hạn Dài hạn 151995 4939 0 97% 3% 0% 396686 6292 0 98% 2% 0% 428728 35759 0 92% 8% 0% 578398 65017 45059 84% 9% 7% 1141560 426042 277073 62% 2% 15% Tổng dư nợ 156934 100 402978 100 464487 100 688474 100 1845275 100 Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) - Kết quả cho thấy các chỉ tiêu dư nợ theo kỳ hạn đều tăng qua các năm. Nhưng, tỷ trọng các khoản tín dụng ngắn hạn chiếm chủ yếu, có năm lên đến 98%, còn các khoản tín dụng mới chỉ xuất hiện từ năm 2002. Cũng cần nhận thấy rằng từ năm 2002 thì tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn tăng lên nhanh chóng từ chỗ chưa có tý tín dụng dài hạn nào thì đến năm 2003 tín dụng dài hạn đã đạt 15%, tín dụng trung và dài hạn đạt tổng số đến 36%. Tỷ lệ này tuy vẵn còn thấp nhưng với xu hướng trên thì tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn của Chi nhánh Thăng Long sẽ tăng lên rất nhanh trong thời gian tới. - Nếu xét dư nợ tín dụng theo thành phần kinh tế thì kết quả thực hiện được qua các năm của Chi nhánh Thăng Long thể hiện ở bảng sau: Phân loại dư nợ theo thành phần kinh tế (1999 – 2003) Đơn vị : Triệu đồng Thµnh phÇn kinh tÕ 1999 2000 2001 2002 2003 DNNN 149.314 392.527 437.842 586.149 1.046.666 DNNQD 1.243 5.776 3.412 41.046 453.48 Hé s¶n xuÊt 6.377 4.675 12.093 6.136 130.955 Cho vay tiªu dï ng 0 0 11.131 55.143 214.174 Tæng 156.934 402.978 464.478 688.474 1.845.275 Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) Và tỷ trọng dư nợ của các thành phần kinh tế cho ở bảng sau: Tỷ trọng dư nợ của các thành phần kinh tế (1999-2003) Đơn vị : % Thµnh phÇn kinh tÕ 1999 2000 2001 2002 2003 DNNN 95,14% 97,41% 94,27% 85,14% 56,72% DNNQD 0,79% 1,43% 0,73% 5,96% 24,58% Hé s¶n xuÊt 4,07% 1,16% 2,6% 0,89% 7,1% Cho vay tiªu dï ng 0% 0% 2,4% 8,01% 11,6% Tæng 100% 100% 100% 100% 100% Nguồn : Từ báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) Từ các số liệu ở trên (cả số tương đối và số tuyệt đối) có thể nhận xét rằng: Tỷ trọng tín dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, có nhiều năm ở mức trên 90%, thậm chí năm 2000 tỷ lệ này còn chiếm đến 97,41%. Số dư nợ của tất cả các thành phần kinh tế đều có xu hướng tăng nhưng tốc độ tăng này không giống nhau. Tốc độ tăng dư nợ của các doanh nghiệp Nhà nước chậm hơn so với các thành phần kinh tế khác nên xu hướng tỷ trọng dư nợ của các doanh nghiệp Nhà nước giảm dần còn của các thành phần kinh tế khác tăng dần. Đây cũng phản ánh xu thế chung của nền kinh tế nước ta hiện nay khi các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển nhánh chóng và mạnh mẽ. 2.1.3.3.Các hoạt động khác của Chi nhánh Thăng Long . Các hoạt động khác của Chi nhánh Thăng Long như : Hoạt động bảo lãnh, hoạt động kinh doanh ngoại tệ, hoạt động ngân quỹ của chi nhánh... cũng đồng thời diễn ra và kết quả thu được rất đãng kể. Cụ thể như sau: - Hoạt động bảo lãnh. Đây là dịch vụ tín dụng mới phát triển trong những năm gần đây của Chi nhánh Thăng Long. Đây được xác định là lĩnh vực dịch vụ mũi nhọn trong chiến lược kinh doanh của chi nhánh. Trong năm 2003, doanh số bảo lãnh trong năm: 76.942 tỷ đồng; số dư bảo lãnh cuối năm : 6.554 tỷ đồng Trong đó: Bảo lãnh dự thầu : 1.709 tỷ đồng Bảo lãnh thực hiện HĐ : 3.348 tỷ đồng Bảo lãnh khác : 2.442 Tỷ đồng Phí từ hoạt động bảo lãnh đã góp phần vào thu nhập từ hoạt động dịch vụ là 3,9 tỷ đồng chiếm 1% tổng thu. Đó là một con số rất khiêm tốn song cũng phải có sự nỗ lực rất lớn của các cán bộ, nhân viên Chi nhánh Thăng Long. Kế hoạch dài hạn của Chi nhánh Thăng Long là thu từ dịch vụ đến năm 2010 là đạt 15% tổng thu. - Hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Từ năm 1998, Chi nhánh Thăng Long mà trước đây là Sở giao dịch I đã bắt đầu đi vào kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Năm 2002, tổng doanh số mua vào là 103 triệu USD; tổng doanh số bán ra là 107 triệu USD. Song năm 2003, tỷ giá giữa VND và USD có nhiều biến động theo chiều hướng tăng liên tục, tuy nhiên những tháng cuối năm mức tăng đã được kiểm soát và giảm dần ở mức chấp nhận. Chi nhánh Thăng Long đã bám sát tỷ giá trên thị trường để điều hành nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Kết quả đạt được: - Tổng doanh số mua vào : 70 triệu USD giảm 33 triệu (-33%) so với năm 2002. - Tổng doanh số bán ra : 80 triệu USD giảm 27 triệu USD (-26%) so với năm 2002. Cùng với sự hội nhập mạnh mẽ của kinh tế đất nước, hoạt động xuất nhập khẩu tăng nhanh thì hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh Thăng Long cũng có những tăng trưởng nhất định: - Doanh số thanh toán hàng xuất: Gồm 56 món bằng 1,6 triệu USD tăng 0,172 triệu USD (12%) so với năm. - Doanh số thanh toán hàng nhập: 256 món bằng 116 triệu USD tăng 30,7 triệu USD (36%) so với năm 2002. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Chi nhánh Thăng Long cũng gặp những khó khăn nhất định. Trong báo cáo tổng kết năm 2003 chi nhánh cũng thừa nhận: Việc tăng trưởng trong hoạt động thanh toán quốc tế đã gây khó khăn cho cán bộ trong xử lý nghiệp vụ do trình độ về thanh toán quốc tế còn hạn chế; việc chưa cập nhật được tỷ giá gây phản ứng cho khách hàng. - Hoạt động trích lập dự phòng rủi ro và xử lí rủi ro. Tổng số phải trích trong năm 2003 : 25,823 tỷ đồng Số đã xử lí rủi ro : 0 tỷ đồng Số dư nợ thu được sau xử lí : 0,081 tỷ đồng Số dư tài sản có trích lập rủi ro : 33,264 tỷ đồng Số dư tài khoản dự phòng rủi ro : 25,823tỷ đồng - Hoạt động ngân quỹ. Kết quả hoạt động ngân quỹ trong năm qua như sau: - Tổng thu tiền mặt trong năm2003 : 10.020 tỷ đồng tăng 5.768 tỷ đồng (135%) so với 2002. - Tổng chi trong năm: 9.924 tỷ đồng tăng 5.670 tỷ đồng (133%) so với năm 2002. - Trả tiền thừa cho khách hàng: 134 món với 81 triệu đồng bằng VND, 10 món bằng 7500 USD. - Phát hiện tiền giả và thu giữ tiền giả là: 15,3 triệu đồng. - Luôn chấp hành nghiêm túc chế độ quản lý kho quỹ: + Ra vào kho. + Kiểm quỹ hàng ngày + Thu chi, giao nhận tiền + Vận chuyển tiền +Trang bị phương tiện để đảm bảo an toàn kho quỹ. Trên đây là những hoạt động chính của Chi nhánh Thăng Long trong những năm vừa qua. Trong đó có nhiều thành công song cũng không ít thách thức cần vượt qua như đã đánh giá ở từng phần trên. Và kết quả cho những hoạt động trên thể hiện thông qua kết quả hoạt động tài chính năm 2003 sau : Kết quả hoạt động tài chính năm 2003 Đơn vị : Triệu đồng Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 2003 Chỉ tiêu 31/12/2002 31/12/2003 Tỷ lệ Tỷ trọng So với đầu năm Tổng thu 243.675 390.114 100% 160% Thu từ tín dụng 81.171 114.232 29,2% 142% Thu từ dịch vụ 2.200 3.500 1% 177% Thu thừa vốn 143.244 271.982 69,8% 190% Thu khác 18.060 Tổng chi 193.981 235.893 100% 122% Chi về huy động vốn 182.965 211.523 89,7% 116% Chi khác 11.016 24.370 10,3% 221% Quỹ thu nhập 49.694 154.221 310% Lãi suất đầu vào 0,67% 0,64% 96% Lãi suất đầu ra 0,42% 0,4% 95% Chênh lệch lãi suất 0,25% 0,24% 96% 2.2.Thực trạng mở rộng cho vay của chi nhánh đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Mở rộng cho vay các DNNQD của Chi nhánh Thăng Long được xem xét dưới các góc độ: Số dư nợ, tốc độ tăng số dư nợ, tỷ trọng dư nợ, tốc độ tăng tỷ trọng dư nợ, số hợp đồng tín dụng, nợ quá hạn, sự đa dạng các hình thức cho vay, sự đa dạng các hình thức trả nợ, sự đa dạng các hình thức bảo đảm tiền vay. Ta lần lượt xem xét các chỉ tiêu như sau: 2.2.1.Các chỉ tiêu về số dư nợ. 2.2.1.1.Số dư nợ Trong những năm qua Chi nhánh Thăng Long có quan tâm và phân loại dư nợ của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Kết quả được thể hiện qua bản dưới đây: Phân loại dư nợ theo thành phần kinh tế (1999 – 2003) Đơn vị : Triệu đồng Thµnh phÇn kinh tÕ 1999 2000 2001 2002 2003 DNNN 149.314 392.527 437.842 586.149 1.046.666 DNNQD 1.243 5.776 3.412 41.046 453.48 Hé s¶n xuÊt 6.377 4.675 12.093 6.136 130.955 Cho vay tiªu dï ng 0 0 11.131 55.143 214.174 Tæng 156.934 402.978 464.478 688.474 1.845.275 Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003) Nhìn vào kết quả trong bảng trên cho thấy chỉ trong năm 2001 là việc cho vay các DNNQD bị thu hẹp so với năm 2000, còn những năm khác đều có tốc độ tăng trởng năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng trưởng số dư nợ đối với các DNNQD được thể hiện rõ nét qua biểu đồ sau: Đơn vị : Triệu đồng 0 50000 100000 150000 200000 250000 300000 350000 400000 450000 500000 1999 2000 2001 2002 2003 Năm Nhìn vào biểu đồ trên cho ta thấy tốc độ tăng số dư nợ là rất cao nhất là từ năm 2001 trở lại đây năm sau gấp trên 10 lần năm trước. Cụ thể: Năm 2002 tăng gấp 12 lần năm 2001 và năm 2003 tăng 11 lần so với năm 2002. Tuy nhiên sự tăng trưởng này mới là bắt đầu có thể nói là bắt đầu từ con số 0 (trên biểu đồ só dư nợ từ năm 2001 trở về trước là không đáng kể chỉ trên dưới 3 tỷ đồng). Do đó tốc độ tăng cao này chưa thể nói được gì nhiều sự mở rộng cho vay đối với các DNNQD của chi nhánh Thăng Long, sự tăng cao này không có nghĩa là Chi nhánh Thăng Long đã đạt được sự mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp này. 2.2.1.2.Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD. Để nghiên cứu kỹ hơn ta xem xét tỷ trọng cho vay các DNNQD của Chi nhánh Thăng Long trên tổng dư nợ trong mối quan hệ với tỷ trọng dư nợ của các thành phần kinh tế khác. Từ số dư nợ phân theo thành phần kinh tế ở trên ta có thể tính toán được tỷ trọng dư nợ của từng thành phần kinh tế và của các DNNQD, kết quả thu được thể hiện ở bảng dưới đây: Tỷ trọng dư nợ của các thành phần kinh tế (1999-2003) Thµnh phÇn kinh tÕ 1999 2000 2001 2002 2003 DNNN 95,14% 97,41% 94,27% 85,14% 56,72% DNNQD 0,79% 1,43% 0,73% 5,96% 24,58% Hé s¶n xuÊt 4,07% 1,16% 2,6% 0,89% 7,1% Cho vay tiªu dï ng 0% 0% 2,4% 8,01% 11,6% Tæng 100% 100% 100% 100% 100% Nguồn : Từ báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh(1999-2003) Kết quả cho thấy: Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD là rất thấp, có những năm dưới 1% ( Năm 1999 tỷ lệ này là 0,79%, năm 2001 là 0,73% ). Tuy thế, những năm gần đây tỷ lệ này tăng lên nhanh chóng đặc biệt là năm 2002 và 2003. Nếu như tỷ trọng dư nợ các DNNQD năm 2001 là 0,73% thì năm 2002 đã là 5,96% và năm 2003 là 24,58%. Sự tăng lên này ngoài việc do sự tăng lên của dư nợ tín dụng chung của Chi nhánh Thăng Long mà còn do sự chuyển dịch từ cho vay các doanh nghiệp Nhà nước sang cho vay các DNNQD. Nhìn vào bảng trên ta thấy số dư nợ của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn tăng qua các năm nhưng tỷ trọng dư nợ đối với các doanh nghiệp Nhà nước lại có xu hướng giảm. Nếu như năm 2000 cho vay các doanh nghiệp Nhà nước đạt tỷ trọng 97,41%; năm 2001 đạt 94,27% thì đến năm 2002 con số này giảm còn 85,14%, đặc biệt năm 2003 con số này chỉ còn 56,72%. Nguyên nhân chủ yếu là chính sách của Đảng và Nhà nước về các doanh nghiệp Nhà nước và các DNNQD theo hướng khuyến khích phát triển các DNNQD và tinh giảm các DNNQD, chỉ giữ lại các doanh nghiệp Nhà nước đủ năng lực hoạt động ở các lĩnh vực trọng yếu của kinh tế, xã hội, các doanh nghiệp Nhà nước còn lại sẽ được cổ phần hoá, bán, cho thuê, hoặc giải thể doanh nghiệp. Điều này làm các doanh nghiệp Nhà nước giảm dần trong khi các DNNQD tăng với tốc độ cao như đã nói ở phần đặc điểm của các DNNQD. Do đó làm cho các DNNQD dần trở thành khách hàng quan trọng của Chi nhánh Thăng Long. Sự tăng lên của tỷ trọng cho vay các DNNQD này đã chứng tỏ sự quan tâm chú ý của chi nhánh đến đối tượng khách hàng này, nhất là từ năm 2002 trở lại đây. 2.2.1.3.Cơ cấu về kỳ hạn các khoản vay của các DNNQD. Ta xem xét kỳ hạn các khoản vay của các DNNQD để thấy được kỳ hạn nào là chủ yếu và sự chuyển dịch các kỳ hạn ra sao? Nếu phân theo kỳ hạn thì kết quả tổng hợp của Chi nhánh Thăng Long 5 năm qua như sau: Dư nợ phân theo kỳ hạn (1999-2003) Đơn vị: Triệu đồng, % Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Dư nợ Tỷ. T Dư nợ Tỷ. T Dư nợ Tỷ. T Dư nợ Tỷ. T Dư nợ Tỷ. T Ngắn hạn Trung hạn Dài hạn 1195 48 0 96% 4% 0% 5620 146 0 97% 3% 0% 3140 308 0 91% 9% 0% 32859 3794 4393 80% 9% 11% 284360 91242 77878 63% 20% 17% Tổng dư nợ 1243 100 5776 100 3412 100 41046 100 453480 100 Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long Kết quả trên cho thấy: Tỷ trọng cho vay ngắn hạn của Chi nhánh Thăng Long đối với các DNNQD vẫn là chủ yếu, chiếm từ 60% trở lên, có những năm như năm 1999, 2000, 2001 tỷ lệ này chiếm đến trên 90%. Ngược lại, tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn là rất nhỏ, đặc biệt là cho vay dài hạn. Từ năm 2001 trở về trước thì chưa có một đồng vốn dài hạn nào được cho vay. Thông thường các doanh nghiệp thường sản xuất, kinh doanh trong thời gian dài, ngoài nhu cầu vốn ngắn hạn đầu tư cho tài sản lưu động ra thì các doanh nghiệp cũng cần một lượng lớn vốn trung và dài hạn cho các tài sản cố định, cho đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, cho đầu tư đổi mới công nghệ... Như vậy, nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp, những con số trên cho thấy các DNNQD rất khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng nhất là vốn trung và dài hạn. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này do các doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện cho vay nhất là điều kiện về bảo đảm tiền vay; mặt khác cho vay các DNNQD có nhiều rủi ro, nhất là cho vay trung và dài hạn nên Chi nhánh Thăng Long rất hạn chế đối với các khoản vay này. Một nguyên nhân nữa là do nguồn vốn trung và dài hạn của chi nhánh chiếm tỷ trọng nhỏ làm Chi nhánh Thăng Long phải dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán nhiều gây ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay trung và dài hạn. Cũng cần nhận thấy rằng, tỷ trọng cho vay trung và dài hạn có xu hướng tăng lên và tăng nhanh trong 2 năm vừa qua. Năm 2000 tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn mới chỉ là 3% trong đó chưa có dư nợ dài hạn, đến năm 2002 tỷ lệ này đã là 20% và năm 2003 tỷ lệ này lên đến 37%. Đó là con số đáng kể thể hiện sự mở rộng cho vay theo chiều sâu của Chi nhánh Thăng Long, nó cũng thể hiện sự cố gắng của chi nhánh cũng như các DNNQD . 2.2.1.4. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Chi nhánh Thăng Long có phân loại dư nợ quá hạn của các DNNQD. Kết quả các năm gần đây như sau : Dư nợ quá hạn của các DNNQD (2001-2003) Đơn vị: Triệu đồng Nguồn: Sổ tổng hợp các kết quả kinh doanh của Chi nhánh Thăng Long Nhìn vào kết quả trên ta thấy rằng: Con số nợ quá hạn của các DNNQD rất nhỏ so với các doanh nghiệp Nhà nước và nó tăng lên hằng năm. Tuy nhiên, nhận xét đó chẳng nói lên điều gì vì số dư nợ của các doanh nghiệp Nhà nước cũng rất lớn so với các DNNQD và số dư nợ của các DNNQD cũng tăng nhanh chóng qua các năm. Muốn kết luận có cơ sở thì ta phải xem xét tỷ lệ nợ quá hạn. Từ các kết quả về số dư nợ của các thành phần kinh tế và số nợ quá hạn của các thành phần kinh tế này ta tính được tỷ lệ nợ quá hạn của mỗi thành phần kinh tế. Kết quả tính toán trong bảng dưới đây: Loại doanh nghiệp Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Doanh nghiệp NN Doanh nghiệp NQD 22.626 50 22.977 739 23.684 9.168 Tổng nợ quá hạn 22.676 23.716 32.852 Tỷ lệ nợ quá hạn của các thành phần kinh tế ( 2001 – 2003 ) Đơn vị: Triệu đồng, %. Loại DN Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số tiền Tỷ lệ NQH Số tiền Tỷ lệ NQH Số tiền Tỷ lệ NQH DNNN DNNQD 437.842 3.412 5,17% 1,47% 586.149 41.046 3,92% 1,80% 1.046.666 453.480 2,26% 2,02% Nguồn: Tính toán từ các bảng trên. Kết quả đó ta có thể có thể nhận xét như sau: Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNQD là thấp chỉ trên, dưới 2%, đó là con số rất thấp so với các ngân hàng trên địa bàn, có những ngân hàng tỷ lệ quá hạn của các DNNQD lên đến trên 10%. Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNQD của Chi nhánh Thăng Long còn thấp hơn tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNN. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNQD lại có xu hướng tăng dần cùng với chiều mở tín dụng đối với khu vực này. Do đó để thực hiện mở rộng cho vay các DNNQD có hiệu quả thì Chi nhánh Thăng Long cần phải có những bước đi thận trọng, chắc chắn. Trong giai đoạn đầu của việc mở rộng thì mục tiêu an toàn là rất quan trọng, nó tạo niềm tin và động lực để chi nhánh thực hiện các bước của mở rộng mạnh mẽ. 2.2.2.Số DNNQD vay vốn ở Chi nhánh Thăng Long . Số lượng khách hàng là các DNNQD vay vốn của Chi nhánh Thăng Long trong những năm gần đây thể hiện ở số hợp đồng được ký kết trong bảng sau: Số hợp đồng cho vay các DNNQD (2001-2003) Đơn vị: Hợp đồng. Chỉ tiêu Năm2001 Năm 2002 Năm 2003 Số hợp đồng 8 34 69 Tốc độ tăng 100% 425% 203% Nguồn: Phòng Tín dụng Chi nhánh Thăng Long Trong đó một doanh nghiệp có thể ký nhiều hợp đồng tín dụng với Chi nhánh Thăng Long trong 1 năm nhưng số này là rất ít, không đáng kể. Do đó, những con số trên có thể đại diện cho số doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà chi nhánh Thăng Long có quan hệ tín dụng. Con số trên tuy nhỏ nhưng có tốc độ tăng cao, thể hiện sự mở rộng rất nhánh chóng về số doanh nghiệp. Để xem xét kỹ hơn giá trị của mỗi hợp đồng ta xem xét chỉ tiêu Số dư nợ/ Số hợp đồng. Số dư nợ là con số thời điểm trong khi số hợp đồng lại là con số thời kỳ nên tỷ số trên không có ý nghĩa về mặt toán học nhưng nó cũng phản ánh một cách tương đối chính xác giá trị mỗi hợp đồng. Dựa vào số dư nợ và số hợp đồng trong các năm ta tính được chỉ tiêu đó như sau: Giá trị mỗi hợp đồng Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số dư nợ/ Số hợp đồng 426,5 1.207,2 6.572,2 Nguồn: Kết quả tính từ các bảng trên Kết quả trên cho thấy, giá trị mỗi hợp đồng tăng lên nhanh chóng qua các năm. Điều đó thể hiện: Sự tăng lên của số dư nợ không những do số DNNQD vay vốn tại Chi nhánh Thăng Long tăng lên mà còn do số tiền mỗi lần vay vốn tăng lên qua các năm. 2.2.3.Các hình thức bảo đảm. Về nguyên tắc, Chi nhánh Thăng Long áp dụng tất cả các hình thức, bao gồm: Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của khách hàng; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay; cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ. Tuy nhiên, đối với các DNNQD vay vốn của chi nhánh Thăng Long thì 100% là phải có thế chấp, bảo lãnh mà tài sản thế chấp ở đây chủ yếu là quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất như trụ sở, nhà xưởng. Việc bảo đảm bằng hàng hoá là rất ít, chỉ thấy có vài hợp đồng có sử dụng bảo đảm bằng hàng hoá trong kho nhưng nó cũng đi kèm với bảo đảm bằng quyền sử dụng đất. Như vậy hình thức bảo đảm chưa được áp dụng một cách đa dạng, quan hệ giữa các DNNQD và ngân hàng vẫn còn những rào cản khó tháo gỡ. Lý do chủ yếu của vấn đề này là: Thứ nhất, các DNNQD thường là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, thuộc hình thức sở hữu tư hữu nên rất khó có tổ chức nào đứng ra bảo lãnh cho họ vay vốn nên hình thức bảo đảm bằng bảo lãnh của bên thứ ba rất ít gặp đối với các DNNQD. Thứ hai,Theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam thì các doanh nghiệp được xếp tín dụng loại A có thể được xem xét cho vay không cần tài sản bảo đảm nhưng do các DNNQD hầu hết không đủ điều kiện này lên hiện nay chưa có doanh nghiệp nào được xét cho vay không cần tài sản bảo đảm. Thứ ba, cũng theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam các doanh nghiệp có xu hướng phát triển tốt, quan hệ truyền thống với các tổ chức tín dụng đạt 10 điểm, các chỉ tiêu khác mỗi chỉ tiêu đạt 5 điểm trở lên thì có thể được cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Nhưng do các DNNQD hầu hết mới được thành lập, chưa tạo được uy tín với các ngân hàng nên cũng có rất ít các doanh nghiệp được cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Thứ tư, các DNNQD rất thiếu vốn nên chẳng bao giờ có dư kim loại quý, ngoại tệ mạnh, trái phiếu chính phủ để có thể đem cầm cố để vay vốn còn cổ phiếu của doanh nghiệp thì có rủi ro cao, độ thanh khoản thấp nên khó được ngân hàng chấp nhận. Do đó hình thức bảo đảm bằng cầm cố tài sản cũng ít xảy ra. Thứ năm, các hàng hoá của DNNQD rất có thể là hàng hoá tồn kho, hàng hoá khó tiêu thụ do vậy ngân hàng thường không mạo hiểm cho doanh nghiệp được bảo đảm tiền vay bằng hàng hoá trong kho. Tóm lại, việc bảo đảm tiền vay bị thu hẹp. Việc mở rộng cho vay theo hình thức này gặp rất nhiều khó khăn mà để giải quyết nó thì không chỉ có sự cố găng của chỉ riêng ngân hàng . 2.2.4.Về các hình thức cho vay, và trả nợ. Các hình thức cho vay đã áp dụng với các DNNQD gồm : Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư. Trong đó chủ yếu là cho vay từng lần. Như vậy, chi nhánh chưa đa dạng hoá các hình thức cho vay, hai hình thức cho vay có nhiều ưu điểm là cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng và cho vay trung và dài hạn theo dự án đầu tư còn chưa áp dụng nhiều. Vướng mắc chủ yếu của vấn đề này được chi nhánh xác định chính là các DNNQD chưa có được phương án dự án sản xuất, kinh doanh hợp lý, có hiệu quả như yêu các của ngân hàng; Hầu hết các DNNQD đều hoạt động chưa lâu nên chưa có quan hệ truyền thống với ngân hàng, chưa để lại uy tín đối với ngân hàng. Điều đó khó cho ngân hàng xác dịnh nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp này và kỳ hạn cho vay sao cho hợp lý. Về hình thức trả nợ, Chi nhánh Thăng Long đã áp dụng nhiều phương thức trả nợ phù hợp với điều kiện của từng khách hàng như trả 1 lần, trả làm nhiều lần với thời gian đều nhau, thời gian không đều nhau; trả nhiều lần với số tiền mỗi lần bằng nhau, không bằng nhau...Nói chung là rất linh hoạt. Điều này vừa tạo thuận lợi cho khách hàng, vừa giúp ngân hàng giảm bớt được một phần rủi ro. Nhận xét. Trên đây, ta đã xem xét thực trạng của việc mở rộng cho vay các DNNQD của Chi nhánh Thăng Long trên nhiều khía cạnh,nhiều góc độ của mở rộng. Có thể tóm tắt những thành công và hạn chế của Chi nhánh Thăng Long trong việc mở rộng cho vay các DNNQD như sau: Các chỉ số như số dư nợ, tỷ trong dư nợ... của các DNNQD còn ở mức thấp song đều có xu hướng tăng nhanh đặc biệt là trong 2 năm trở lại đây. Sự tăng nhanh đó là xu hướng tích cực song đây mới chỉ là bước đầu, có thể nói là từ con số 0. Cụ thể là năm 2001trở về trước các chỉ số về mở rộng cho vay các DNNQD rất thấp (năm 2001, số dư nợ mới chỉ đạt có trên 3 tỷ đồng, chiếm có 0,73% tổng dư nợ; số hợp đồng chỉ vẻn vẹn có 8; không có hợp đồng cho vay dài hạn, số trung hạn chỉ chiếm có 9%). Do đó có thể nói việc mở rộng cho vay các DNNQD mới chỉ bắt đầu từ năm 2002, cho đến nay mới được 2 năm nên kết quả trên chưa nói được gì nhiều, trước mắt, còn nhiều khó khăn cản trở cần vượt qua. Một khó khăn nữa là việc đa dạng hoá các hình thức cho vayvà đa dạng các hình thức bảo đảm gặp nhiều khó khăn cần sự tháo gỡ cảu nhiều bên: ngân hàng, các DNNQD, Nhà nước và các bên liên quan khác. 2.3.Những giải pháp và định hướng mà Chi nhánh Thăng Long đang thực hiện để mở rộng cho vay các DNNQD. 2.3.1.Những giải pháp mà Chi nhánh Thăng Long đang thực hiện. 2.3.1.1.Mở rộng mạng lưới hoạt động, cơ cấu lại ngân hàng. Sau khi được thành lập (tháng 4/2003), Chi nhánh Thăng Long đã dần cơ cấu lại và mở rộng mạng lưới hoạt động thông qua việc mở thêm nhiều chi nhánh, phòng giao dịch và thành lập thêm các phòng ban nghiệp vụ. Thứ nhất là, năm 2003, Chi nhánh Thăng Long đã mở thêm phòng Kế hoạch và đầu năm 2004 đã mở thêm phòng Thẩm định. Việc thành lập thêm 2 phòng nghiệp vụ trên đã giúp chi nhánh hoạt động có hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện tốt cho việc mở rộng cho vay các DNNQD: - Phòng Kế hoạch với chức năng của mình sẽ tổng hợp, nghiên cứu các số liệu đồng thời xây dựng các kế hoạch kinh doanh nói chung và kế hoạch mở rộng cho vay các DNNQD nói riêng. - Phòng Thẩm định sẽ đảm nhậm chức năng đánh giá một cách chính xác các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh của khách hàng qua đó hạn chế bớt những rủi ro tín dụng. Góp phần giúp chi nhánh nâng cao hiệu quả hoạt động. Điều đó rất quan trọng, việc hạn chế bớt rủi ro, nâng cao lợi nhuận giúp chi nhánh, có động lực, tự tin trong mở rộng cho vay các DNNQD . Thứ hai là, trong năm 2003, Chi nhánh Thăng Long đã thành lập được 4 chi nhánh và 1 phòng giao dịch. Cụ thể là: Chi nhánh Nguyễn Đình Chiểu, chi nhánh Láng Thượng, chi nhánh Phan Đình Phùng, chi nhánh Tây Sơn và phòng giao dịch Hàng Gà. Các chi nhánh và phòng giao dịch mở thêm đã thu hút được 1.500 tỷ đồng nguồn vốn và 700 tỷ đồng dư nợ. Việc mở thêm nhiều chi nhánh và phòng giao dịch vừa nâng cao khả năng huy động vốn phục vụ việc mở rộng cho vay, vừa có thể tiếp cận khách hàng nói chung và các DNNQD nói riêng. Tất cả tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng cho vay các DNNQD của chi nhánh. Tuy nhiên, để hoạt động của chi nhánh có hiệu quả cao cả trước mắt lẫn lâu dài thì Chi nhánh Thăng Long cần phải có phòng Marketing. Với chức năng của mình, phòng Marketing sẽ đề ra định hướng kinh doanh, chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm, chính sách lãi suất…phù hợp giúp chi nhánh hoạt động có hiệu quả hơn. Đồng thời, phòng Marketing có kế hoạch, định hướng việc mở rộng cho vay các DNNQD trên cơ sở nghiên cứu thị trường, nghiên cứu chính các doanh nghiệp này. Phòng Kế hoạch cũng có chức năng lập kế hoạch kinh doanh nhưng nó chỉ thực hiện thông qua các con số trên sổ sách còn việc đề ra các định hướng kinh doanh trên cơ sở nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng thì phải được thực hiện bởi phòng Marketing. 2.3.1.2.Thực hiện đa dạng các hình thức cho vay, bảo đảm. - Như ở phần trên đã nói: Về nguyên tắc, Chi nhánh Thăng Long thực hiện tất cả các hình thức cho vay hiện có đối với các DNNQD bao gồm: Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức thấu chi, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cho vay từng lần vẫn là chủ yếu. Lý do là các hình thức cho vay khác như : Cho vay theo hạn mức tín dụng, thấu chi… đòi hỏi doanh nghiệp phải có quan hệ tốt với ngân hàng đồng thời phải có phương án, dự án sản xuất, kinh doanh hợp lý, đáp ứng yêu cấu của ngân hàng. Nhưng nhiều DNNQD không đáp ứng được những điều kiện trên, đồng thời, Chi nhánh Thăng Long chưa có biện pháp thích hợp tìm hiểu, tiếp cận các DNNQD để có thể phân loại được khách hàng để có chính sách phù hợp với từng loại doanh nghiệp này. - Cũng tương tự như vậy, về nguyên tắc, Chi nhánh Thăng Long đã áp dụng các hình thức bảo đảm: Không bảo đảm bằng tài sản, có bảo đảm bằng tài sản, bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba. Tài sản bảo đảm cũng áp dụng nhiều loại như: Tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản hình thành từ vốn vay…Tuy nhiên, trên thực tế các DNNQD thường không được cho vay không có bảo đảm bằng tài sản cũng như bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Việc bảo đảm bằng tài sản lưu động cũng rất hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do cho vay các DNNQD chứa nhiều rủi ro, các doanh nghiệp này không đáp ứng các yêu cầu vay không có bảo đảm bằng tài sản hoặc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Mặt khác cũng do ngân hàng chưa có biện pháp hợp lý để phân loại khách hàng là các DNNQD nên coi các DNNQD đều như nhau. 2.3.1.3.Chính sách phân loại khách hàng của Chi nhánh Thăng Long. Theo hướng dẫn số 1963/NHNo-05 về việc phân loại khách hàng của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam thì khách hàng là doanh nghiệp được phân làm 3 loại A, B, C dựa trên tổng số điểm theo 5 chỉ tiêu (Cụ thể trong phần phụ lục). - Khách hàng xếp loại A, có thể được hội đồng chi nhánh xem xét quyết định cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với một phần hoặc toàn bộ món vay. - Đối với khách hàng xếp loại B mà có chỉ tiêu quan hệ với NHNo&PTNT Việt Nam và các tổ chức tín dụng khác đại 10 điểm thì có thể được vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên, việc phân loại khách hàng như trên gặp nhiều khó khăn. Do: Thứ nhất, các chỉ tiêu cho phân loại là còn ít (mới có 5 chỉ tiêu) nên chưa đánh giá được đầy đủ các thông tin về khách hàng. Thứ hai, cách cho điểm còn cứng nhắc (chỉ cho có 3 loại điểm là điểm 0, điểm5 và điểm 10). Thứ ba, thiếu thông tin về khách hàng do: các DNNQD che dấu các thông tin bất lợi cho mình; các DNNQD chưa có quan hệ truyền thống với các tổ chức tín dụng; các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này thường thiếu chính xác, không cập nhật gây khó khăn cho đánh giá của ngân hàng. Mặt khác, các cán bộ tín dụng gặp khó khăn trong việc thu thập các thông tin của doanh nghiệp từ các tổ chức tín dụng khác do việc trao đổi thông tin giữa các tổ chức tín dụng chưa đạt hiệu quả. Tất cả làm cho việc phân loại khách hàng gặp khó khăn và ngân hàng thường quy đồng tất cả các DNNQD. 2.3.1.4.Các biện pháp khác. - Công tác quản lý điều hành: Để làm tốt công tác điều hành, ban giám đốc chi nhánh đã ban hành quy chế làm việc của ban giám đốc: Các thành viên trong ban giám đốc được phân công theo các nghiệp vụ cụ thể; việc phân công đều được thực hiện bằng văn bản thông qua các hội nghị giao ban cán bộ chủ chốt; khi giám đốc hoặc phó giám đốc đi vắng đều có văn bản uỷ quyền; các văn bản chỉ đạo của cấp trên đều được ban giám đốc sao gửi cho các bộ phận để triển khai thực hiện. - Công tác cán bộ: Việc bố trí lao động ở các phòng chuyên môn nghiệp vụ, các chi nhánh, phòng giao dịch từng bước phù hợp giữa chuyên môn của cán bộ với công việc được bố trí; Các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ (Kế toán, tín dụng, kho quỹ, thanh toán quốc tế…) được thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên, việc thực hiện còn mang nặng hình thức, hiệu quả thu được chưa cao; chưa có các biện pháp thích hợp để nâng cao kinh nghiệm và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Những nhược điểm trên cần được khắc phục để Chi nhánh Thăng Long hoạt động được tốt hơn cũng như việc mở rộng cho vay đạt hiệu quả. 2.3.2.Mục tiêu của chi nhánh trong thời gian tới. Trong báo cáo kết quả hoạt động năm 2003 và phương hướng hoạt động năm 2004 của Chi nhánh Thăng Long đã nêu ra các mục tiêu cụ thể trong đó mục tiêu mở rộng cho vay các DNNQD như sau: Thứ nhất, quan tâm hơn nữa tới thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tốc độ tăng dư nợ của thành phần kinh tế này khoảng 60% - 70%. Có nghĩa là mức này cao hơn mức tăng dư nợ chung (30% – 40%). Thứ hai, Nâng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn lên đến 30% - 40%/Tổng dư nợ. Thứ ba, Mở thêm các điểm giao dịch, phấn đấu trong năm 2004 nâng số chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc lên con số 20. Điều đó tạo điều kiện cho hoạt động của chi nhánh nói chung và việc mở rộng cho vay các DNNQD nói riêng. Thứ tư, Khống chế mức nợ quá hạn/ Tổng dư nợ là dưới 3%. Điều đó đòi hỏi phải gắn liền việc mở rộng cho vay với an toàn vốn. Những chỉ tiêu trên là thách thức lớn đối với cán bộ và nhân viên toàn chi nhánh đò hỏi phải có những kế hoạch chuẩn bị và biện pháp hợp lý. 2.4.Nguyên nhân của những thành công và hạn chế trên 2.4.1.Nguyên nhân của những thành công đạt được. Để đạt được sự thành công trên có sự cố gắng, nỗ lực của cả Chi nhánh Thăng Long, của các DNNQD và cả của các cơ quan Nhà nước. Có thể tóm lược thông qua các yếu tố khách quan và chủ quan như sau: 2.4.1.1.Nguyên nhân khách quan. Thứ nhất, các DNNQD phát triển rất nhanh và mạnh trong thời gian qua và nó làm cho các ngân hàng phải hướng sự chú ý vào loại hình doanh nghiệp này. Như đã nói ở phần đặc điểm của các DNNQD thì xu hướng các DNNQD sẽ còn phát triển mạnh hợn nữa về cả chiều rộng và chiều sâu. Mặt khác cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng quyết liệt làm thị trường truyền thống của chi nhánh bị thu hẹp. Do đó việc hướng vào đối tượng khách hàng là các DNNQD là một yêu cầu tất yếu của chi nhánh. Điều đó giải thích cho các chỉ số của mở rộng cho vay các DNNQD của chi nhánh ngày càng tăng và tăng mạnh trong hai năm qua. Thứ hai, Do chủ trương của Đảng và Nhà nước là khuyến khích thành phần kinh tế ngoài quốc doanh: “... khuyến khích phát triến kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi, không hạn chế quy mô hoạt động, các nghành sản xuất…”. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước do chủ trương của Đảng và Nhà nước là chỉ giữ lại các doanh nghiệp đủ mạnh trong các lĩnh vực then chốt của kinh tế, xã hội nên các doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng giảm dần. Nói như vậy không có nghĩa là các doanh nghiệp Nhà nước sẽ không còn là khách hàng chủ chốt của Chi nhánh Thăng Long mà các doanh nghiệp Nhà nước luôn là khách hàng chủ chốt của Chi nhánh Thăng Long chỉ có điều có sự tăng lên đáng kể về tỷ trọng cho vay các DNNQD . Thứ ba, Nhà nước đã ban hành nhiều các văn bản pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn quan hệ cho vay của các ngân hàng với các DNNQD như : Luật các tổ chức tín dụng (Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997) ; Luật Doanh nghiệp ( Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999 ); Nghị định số 178/1999/NĐCP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng ; Nghị định số 85/NĐ-CP Ngày 25/10 2002 về bổ sung một số điều của Nghị định số 178/NĐ-CP ; Quyết định số 1627/2000/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN về quy chế cho vay; Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm...Các văn bản này đã hướng dẫn cụ thể, làm rõ ràng giúp giải quyết, tháo gỡ các vướng mắc tạo hành lang pháp lý cho Chi nhánh Thăng Long tiến hành mở rộng hoạt động cho vay các DNNQD . 2.4.1.2.Nguyên nhân từ ngân hàng. Thứ nhất, Chi nhánh Thăng Long đã có sự quan tâm đến khách hàng là các DNNQD. điều đó thể hiện thông qua một loại các chính sách, các định hướng, các biện pháp cụ thể của ngân hàng đối với các DNNQD như đã nêu ở phần trên. Thứ hai, Do điều kiện của Chi nhánh Thăng Long cho phép mở rộng cho vay các DNNQD : Về quy mô. Như đã trình bày ở phần giới thiệu về chi nhánh Thăng Long , Chi nhánh Thăng Long là chi nhánh cấp 1 của NHNo&PTNT Việt Nam có mạng luới rộng gồm 9 chi nhánh và 1 phòng giao dịch trực thuộc và mục tiêu sắp tới là 20 chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc. Chi nhánh Thăng Long lại đóng trên địa bàn thủ đô Hà Nội - Một trung tâm tài chính , tiền tệ lớn của cả nước, do đó việc mở rộng cho vay đối với Chi nhánh Thăng Long là yêu cầu tất yếu và có nhiều thuận lợi để thực hiện. Về nguồn vốn. Cũng do thuận lợi về mạng lướ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các doanh nghiệp ngòai quốc dân.pdf
Tài liệu liên quan