Tài liệu Luận văn Thực trạng lao động công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất tại thành phố Hồ Chí Minh và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: -1-
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ÊÊÊ
HUỲNH THỊ THU SƯƠNG
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG CÔNG NHÂN TRONG
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI
CHUYÊN NGÀNH: NGOẠI THƯƠNG
MÃ SỐ : 60.34.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ THANH THU
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2005
-2-
LỜI MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa và tính cần thiết của đề tài
Nguồn nhân lực cùng với các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực kinh tế, nguồn lực xã hội có
ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế. Trong các nguồn
lực trên thì nguồn nhân lực có vai trò hàng đầu trong việc đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực là yêu cầu tất yếu
khách quan trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam cũng như vùng, địa
phương và các cấ...
83 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1059 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng lao động công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất tại thành phố Hồ Chí Minh và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-1-
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ÊÊÊ
HUỲNH THỊ THU SƯƠNG
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG CÔNG NHÂN TRONG
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI
CHUYÊN NGÀNH: NGOẠI THƯƠNG
MÃ SỐ : 60.34.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ THANH THU
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2005
-2-
LỜI MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa và tính cần thiết của đề tài
Nguồn nhân lực cùng với các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực kinh tế, nguồn lực xã hội có
ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế. Trong các nguồn
lực trên thì nguồn nhân lực có vai trò hàng đầu trong việc đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực là yêu cầu tất yếu
khách quan trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam cũng như vùng, địa
phương và các cấp ngành. Chỉ trên cơ sở một nguồn nhân lực có chất lượng chúng ta mới có thể
đạt được những mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 mà Đảng đã
đề ra: “Phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững, con người không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển…” hay tại
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tái khẳng định “Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa”.
Khác với tình hình chung của cả nước, tại TP. HCM các ngành sản xuất công nghiệp
truyền thống đang giảm dần cả về quy mô, hiệu quả đồng vốn, giá trị sản xuất cũng như tốc độ
tăng trưởng. Do đó yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế ở Thành phố có đặc điểm
khác so với tình hình chung. Nghĩa là trên phạm vi địa bàn Thành phố công nghiệp hoá, hiện đại
hoá không phải là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đưa giá trị sản phẩm các ngành công
nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng sản phẩm xã hội, chuyển đại bộ phận lao
động sản xuất nông nghiệp sang các ngành nghề khác mà chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu nội bộ
các ngành công nghiệp, đồng thời phát triển mới các ngành công nghiệp hiện đại và phát triển
mới các ngành dịch vụ cao, trong đó tiêu điểm từ nay đến năm 2020 là phát triển các ngành công
nghiệp công nghệ cao. Để đáp ứng yêu cầu đó thì phát triển nguồn nhân lực phải là quá trình
biến đổi về số lượng và chất lượng cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội. Phải hiểu rằng tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững cần có hàng loạt các
yếu tố tổng hợp song yếu tố cơ bản nhất đó là vốn và lao động – hai yếu tố có ý nghĩa quyết định
mà bất kỳ quốc gia nào cũng huy động ngay từ quốc gia mình và từ bên ngoài vào. Thật vậy,
ngoài “nội lực” hiện Thành phố rất cần nguồn “ngoại lực” bổ sung vào giúp cho quá trình “cất
cánh” nhanh và bền vững, nguồn “ngoại lực” đó chính là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và có thể khẳng định rằng nguồn vốn FDI ngày càng không thể thiếu trong chiến lược
tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của Thành phố.
-3-
Trong thời gian qua bên cạnh những kết quả đạt được thì việc thu hút, định hướng, quản
lý và sử dụng FDI trên địa bàn TP.HCM xét trong phạm vi các Khu chế xuất/Khu công nghiệp –
mô hình thu hút đầu tư phổ biến và hiệu quả nhất không thể thiếu trong quy hoạch phát triển
kinh tế cũng như tiếp nhận những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến nhất để có thể bắt nhịp và theo
kịp các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Tuy
nhiên hoạt động thu hút đầu tư trên thực tế vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót nhất định mà biểu
hiện rõ nhất là tình trạng giảm sút về vốn FDI, hoặc các dự án FDI có quy mô vốn vừa và nhỏ,
chủ yếu từ các nước Châu Á với công nghệ trung bình hoặc dưới mức trung bình và tập trung
vào những ngành thâm dụng lao động. Trước tình hình này cùng với nhiều diễn biến phức tạp và
bất bình thường khác đòi hỏi các nhà làm chính sách Việt Nam nói chung và Thành phố nói
riêng phải có sự tổng kết, nhận định đầy đủ và chính xác hơn để trên cơ sở đó nhận diện các
nguyên nhân và các hạn chế nhằm giải quyết triệt để và có hiệu quả về bài toán thu hút vốn FDI.
Do vấn đề được đặt ra có tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng quyết định sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế một cách bền vững của Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã mạnh dạn chọn
đề tài “Thực trạng lao động công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Thành
phố Hồ Chí Minh và một số giải pháp phát triển nguồn lao động công nhân nhằm tăng
cường thu hút vốn FDI” làm nội dung nghiên cứu chính của đề tài.
2. Mục tiêu nghiên cứu và kết quả kỳ vọng của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm tìm ra những nguyên nhân tác động đến hiệu quả,
chất lượng, quy mô của việc thu hút FDI tại Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó xác định và tập
trung phân tích nhân tố thực trạng nguồn lao động công nhân đã và đang được sử dụng tại các
doanh nghiệp FDI trong các Khu chế xuất, Khu công nghiệp cũng như mối quan hệ giữa chất
lượng lao động công nhân và hiệu quả thu hút vốn FDI của mô hình này.
Trên cơ sở thực tiễn đó, tác giả đề xuất một số giải pháp mang tính đồng bộ, có căn cứ
khoa học đóng góp cho các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách của địa phương tham
khảo vận dụng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm hiện thực hoá
Thành phố trở thành một trung tâm hàng đầu của Việt Nam trên mọi lĩnh vực đúng với tiềm
năng vốn có.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung nghiên cứu nguồn lao động công nhân đã và
đang làm việc trong các Khu chế xuất (KCX), Khu công nghiệp (KCN) Thành phố (không tính
đến trường hợp của các khu công nghệ cao) trong mối quan hệ mật thiết đến đặc điểm hoạt động
của các doanh nghiệp FDI tại đây.
-4-
Phạm vi nghiên cứu dựa trên những tài liệu, số liệu thống kê công bố và tổng hợp được từ
Cục Thống kê Thành phố, Tổng cục Thống kê và đặc biệt bám sát vào số liệu thu thập được từ
Phòng Quản lý Đầu tư, Phòng Quản lý Lao động và Trung tâm Dịch vụ Việc làm trực thuộc Ban
quản lý Khu chế xuất, Khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh tính đến hết năm 2004.
4. Điểm mới của đề tài
Vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho một vùng kinh tế trọng
điểm nào đó phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn nhất định cũng
đã được rất nhiều học giả, tác giả đề cập đến chẳng hạn như các công trình của TS. Trương Thị
Minh Sâm và tập thể tác giả về vấn đề Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp hoá cho vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, Nguyễn Thị Hồng và tập thể tác giả về Vấn đề di dân - Những nẻo
đường về Thành phố, TS. Nguyễn Thị Cành và tập thể tác giả về Thị trường lao động TP.HCM
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và kết quả điều tra doanh nghiệp về nhu cầu lao động,...
Tuy nhiên điểm mới của đề tài này là nội dung nghiên cứu đi sâu vào mảng thực trạng lao động
công nhân (lao động trực tiếp) đã và đang được sử dụng trong phạm vi các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn Thành phố HCM có ảnh
hưởng như thế nào đến hiệu quả thu hút FDI của địa phương. Các phân tích và nhận định được
tác giả luận văn trình bày một cách đầy đủ, khoa học, đi từ chi tiết đến tổng hợp nhằm giúp cho
người đọc nhận diện một cách đầy đủ về lao động công nhân ngay tại các KCX, KCN của TP, từ
đó có những giải pháp và biện pháp khắc phục thiết thực và kịp thời.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Sử dụng chủ yếu phương pháp mô tả, chuỗi thời gian, phân tích định lượng và định tính,
phân tích hệ thống, so sánh đối chiếu.
Ngoài ra có dùng thêm phương pháp điều tra, chuyên gia để dự báo, định hướng, kế thừa
có chọn lọc một số kết quả nghiên cứu tham khảo có liên quan đến đề tài.
6. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm 69 trang, ngoài phần mở đầu, mục lục, phụ lục và tài liệu tham
khảo, nội dung chính đề tài bao gồm ba chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Đề cập đến những lý thuyết về phát triển nguồn nhân lực của một số quốc gia trên thế
giới và Việt Nam; các chỉ tiêu đánh giá chất lượng và việc phát triển nguồn nhân lực trong đó
nhấn mạnh đến ba nhân tố là thể lực, trí lực và nhân tố tổng hợp như về tâm sinh lý của người
-5-
lao động. Tác giả nêu lên vai trò của nguồn nhân lực cũng như của khu vực kinh tế FDI trong
việc quyết định sự tăng trưởng và phát triển bền vững của Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó
chứng minh mối quan hệ đồng biến giữa chất lượng nguồn nhân lực với việc thu hút tăng cường
nguồn vốn FDI.
Chương 2. Thực trạng nguồn lao động công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất Thành phố Hồ Chí Minh
Nêu lên thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại KCX/KCN tại TP. HCM trong
thời gian qua, những điểm tích cực và những mặt còn hạn chế. Đồng thời phân tích thực trạng
lao động công nhân làm việc tại đây thông qua việc đặt chúng trong mối quan hệ ba bên: nhà
nước, doanh nghiệp và bản thân người lao động. Kết quả chỉ ra rằng chất lượng và số lượng của
nguồn lực này có ý nghĩa quan trọng trong việc có thể tăng cường thu hút vốn FDI nhiều hay ít,
hiệu quả hay không hiệu quả.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm phát triển nguồn lao động công nhân nhằm tăng
cường thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trên cơ sở thực trạng đã đề cập chi tiết ở chương 2, tác giả giới thiệu một số bài học kinh
nghiệm của các nước trong khu vực về việc phát triển nguồn nhân lực để tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Thêm vào đó luận văn cũng dựa trên những quan điểm và định hướng của Thành
phố cũng như của Ban Quản lý các KCX/KCN TP.HCM làm cơ sở khoa học cho việc đề ra
những giải pháp thiết thực trong việc nâng cao chất lượng nguồn lao động công nhân nhằm tăng
thu hút vốn FDI với kỳ vọng những giải pháp đề ra có thể áp dụng được trong thực tế hoạt động
của các KCX, KCN hiện nay và trong chặng đường tới.
Thành phố Hồ Chí Minh, 10/2005
Huỳnh Thị Thu Sương
-6-
BẢNG CHỈ DẪN
TRA CỨU CÁC BẢNG SỐ LIỆU, BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ
Trang
Bảng 1. Tình hình thu hút vốn FDI tại TP.HCM toàn giai đoạn 1988-2004
Bảng 2. Thu hút FDI tại TP.HCM giai đoạn 1988-2004 theo ngành
Bảng 3. Đóng góp của FDI trong ngành công nghiệp của TP. HCM
Bảng 4. Đóng góp của FDI trong kim ngạch xuất khẩu của TP. HCM
Bảng 5. Đóng góp của FDI trong GDP của TP. HCM giai đoạn 2001 – 2004
Bảng 6. Đóng góp từ khu vực FDI trong thu ngân sách của TP.HCM 2001 - 2004
Bảng 7. Số lượng lao động sản xuất công nghiệp trong khu vực FDI 2001-2004
Bảng 8. Thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp FDI
Bảng 9. Các KCX, KCN trên địa bàn TP.HCM tính đến 31/12/2004
Bảng 10. Kết quả thu hút FDI vào các KCX, KCN từ 1993 đến 31/12/2004
Bảng 11. FDI vào KCX, KCN theo khu vực đến tháng 12/2004
Bảng 12. FDI vào KCX, KCN theo ngành tính đến tháng 12/2004
Bảng 13. Số lượng lao động đang làm việc trong các KCN/KCX tại TP. HCM
Bảng 14. Tỷ lệ lao động nữ qua các năm
Bảng 15. Tỷ trọng các loại lao động tại các KCN/KCX TP. HCM tính đến 31/12/2004
Bảng 16. So sánh cơ cấu đào tạo nghề nghiệp
Bảng 17. Đặc điểm lao động được tuyển dụng vào các KCN/KCX tại TP. HCM
Bảng 18. Tình hình lao động theo ngành nghề trong KCN, KCX tính đến hết năm 2003
Bảng 19. Đặc điểm lao động đã qua đào tạo trong các KCN/KCX trên địa bàn TP
Bảng 20. Đặc điểm lao động phổ thông trong các KCN/KCX trên địa bàn TP. HCM
Bảng 21. Số vụ đình công chia theo loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam
Bảng 22. Tỷ lệ lao động chưa được khám sức khoẻ định kỳ trong doanh nghiệp FDI
Bảng 23. Tình hình tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp tại các KCN/KCX TP
Bảng 24. So sánh giá nhân công của Việt Nam và một số nước trên thế giới
Bảng 25. Dự báo quy mô và cơ cấu lực lượng lao động của TP.HCM
Bảng 26. Dự báo nhu cầu lao động chung cho các KCX, KCN TP. HCM
Bảng 27. Dự báo nhu cầu lao động cho các nhà máy tại các KCX, KCN TP. HCM
Bảng 28. Dự báo nhu cầu lao động cho các KCX, KCN giai đoạn 2005-2010
Bảng 29. Dự báo nhu cầu lao động đã qua đào tạo cho các KCX, KCN TP. HCM
10
11
11
12
13
13
14
14
17
18
19
20
23
23
25
26
26
27
28
29
32
35
37
43
50
51
51
52
52
-7-
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam
Á
CEPT Common Effective Preferential Tariff Chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung
CPI Consume Price Index Chỉ số giá tiêu dùng
FDI Foreign Direct Invesment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ILO International Labour Office Tổ chức Lao động Quốc tế
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
HEPZA Ho Chi Minh City Export Processing
Zone Authority
Ban Quản lý Khu chế xuất Thành
phố Hồ chí Minh
HDI Human Development Index Chỉ số phát triển con người
MNC Multinational Cooperation Công ty đa quốc gia
NIC Newly Industrial Country Nước công nghiệp mới
PPP Partial Purchasing Power Ngang giá sức mua
TNC Transnational Cooperation Công ty xuyên quốc gia
UNDP United Nation Development Program Chương trình phát triển của Liên
Hiệp Quốc
-8-
MỤC LỤC
Trang
Bảng chỉ dẫn tra cứu các bảng số liệu, sơ đồ, biểu đồ
Danh mục từ viết tắt
Lời mở đầu
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những lý thuyết về phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
1.1.1.1. Theo nghĩa rộng
1.1.1.2. Theo nghĩa hẹp
1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng và việc phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1. Các chỉ tiêu đánh gía chất lượng nguồn nhân lực
1.1.2.2. Về các chỉ tiêu đánh giá việc phát triển nguồn nhân lực
1.2. Vai trò của nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
sử dụng cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các KCX, KCN
1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế tại Thành phố Hồ Chí Minh
1.3.1. Cung cấp vốn đầu tư cho sự tăng trưởng kinh tế
1.3.2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.3.3. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu
1.3.4. Đóng góp vào giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
1.3.5. Đóng góp vào ngân sách
1.3.6. Góp phần giải quyết các vấn đề xã hội cho người lao động.
Kết luận chương 1
Chương 2. THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG CÔNG NHÂN TRONG CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT TẠI TP. HCM
2.1. Giới thiệu về các Khu công nghiệp/Khu chế xuất
2.1.1. Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất TP. HCM
2.1.2. Đặc điểm hoạt động và những tồn tại của khu công nghiệp/khu chế xuất
2.1.2.1. Đặc điểm hoạt động
2.1.2.2. Những hạn chế của KCN/KCX dưới góc độ thu hút FDI
2.2. Thực trạng lao động công nhân tại các Khu công nghiệp/Khu chế xuất TP.
HCM
2.2.1. Về số lượng lao động
1
1
1
1
1
2
2
5
7
9
10
11
12
12
13
13
15
16
16
16
19
19
21
22
22
-9-
2.2.1.1. Độ tuổi, giới tính
2.2.1.2. Nguyên nhân của hiện tượng trên
2.2.2. Về chất lượng lao động
2.2.2.1. Bậc thợ, tay nghề
2.2.2.2. Ngành nghề lao động
2.2.2.3. Nguồn gốc lao động
2.2.2.4. Tính ổn định của nguồn lao động
2.2.2.5. Tính kỷ luật, ý thức của nguồn lao động
2.2.2.6. Các vấn đề an sinh xã hội cho nguồn lao động
2.2.3. Về việc tuyển dụng lao động
2.2.4. Các nhân tố tác động đến chất lượng và số lượng nguồn nhân lực
2.2.4.1. Cơ chế chính sách
2.2.4.2. Hệ thống đào tạo
2.2.4.3. Nhận thức của doanh nghiệp FDI
2.2.4.4. Nhận thức của người lao động
2.3. Tác động của thực trạng nguồn lao động công nhân tại các Khu công
nghiệp/Khu chế xuất đến việc thu hút có hiệu quả vốn FDI tại TP. HCM
2.3.1. Những điểm tích cực
2.3.2. Những hạn chế, tồn đọng
Kết luận chương 2
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LAO ĐỘNG CÔNG
NHÂN ĐỂ TĂNG CƯỜNG THU HÚT CÓ HIỆU QUẢ VỐN FDI TẠI TP.
HCM
3.1. Bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới
3.1.1. Đài Loan và Hàn Quốc
3.1.2. Ấn độ
3.2. Quan điểm và định hướng của Thành phố về phát triển nguồn lao động
công nhân
3.2.1. Quan điểm
3.2.1.1. Phát triển nguồn lao động thông qua phát triển các KCN/KCX
3.2.1.2. Phát triển nguồn lao động nhằm thu hút có hiệu quả FDI
3.2.2. Định hướng
3.3. Một số giải pháp phát triển nguồn lao động công nhân để tăng cường thu
hút FDI
22
24
24
24
27
28
30
31
33
36
38
38
39
40
41
42
42
43
45
46
46
46
47
48
48
48
48
50
53
-10-
3.3.1. Nhóm giải pháp khắc phục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
3.3.1.1. Đổi mới và nâng cấp hệ thống giáo dục, công tác đào tạo một cách
toàn diện nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
3.3.1.2. Liên kết hoặc cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư kinh
doanh các trung tâm dạy nghề chuyên nghiệp trong các KCX, KCN
3.3.1.3. Thành lập và mở rộng mô hình đào tạo của trung tâm đào tạo chuyên
nghiệp tại một số KCX, KCN hoạt động theo loại hình doanh nghiệp đào tạo
3.3.1.4. Gắn đào tạo với sử dụng bằng cách đào tạo trực tiếp theo nhu cầu
của doanh nghiệp
3.3.1.5. Giải quyết triệt để vấn đề an sinh cho nguồn lao động
3.3.1.6. Chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nguồn lao động công nhân
phải dựa trên tâm tư nguyện vọng của người lao động
3.3.2. Nhóm giải pháp nhằm tạo nguồn nhân lực đảm bảo đủ về số lượng
3.3.2.1. Nhân rộng mô hình đào tạo nghề ngay tại dây chuyền sản xuất của
DN trong các khu cho lực lượng lao động trẻ bản xứ và nhập cư
3.3.2.2. Rà soát, thống kê, phân loại lao động trực tiếp theo nhu cầu cần
tuyển của các doanh nghiệp trong từng thời kỳ cho các KCN, KCX để có kế hoạch
đào tạo đúng kế hoạch, tiến độ.
3.3.2.3. Mở rộng và phát huy vai trò của các trung tâm đào tạo việc làm ngay
tại các KCN/KCX
3.3.2.4. Lập quy hoạch khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên toàn địa bàn
Thành phố tạo ổn định cho nguồn lao động
3.3.2.5. Sử dụng tổng hợp nhiều nguồn tài chính để hỗ trợ đào tạo, khuyến
khích người học nghề
Kết luận chương 3.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
53
53
55
56
56
57
59
60
60
61
62
63
64
67
68
-11-
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những lý thuyết về phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
1.1.1.1. Theo nghĩa rộng
Nguồn nhân lực của một quốc gia hay một vùng, một khu vực, một địa phương là tổng
hợp những tiềm năng của con người có trong một thời điểm xác định. Tiềm năng đó bao hàm
tổng hợp những tiềm năng thể lực, trí lực và tâm lực của bộ phận dân số có thể tham gia vào các
hoạt động kinh tế xã hội.
Nguồn nhân lực là một bộ phận trong dân số. Quy mô, chất lượng và cơ cấu dân số hầu
như quyết định quy mô, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực.
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và chất lượng
con người với tất cả các đặc điểm, tiềm năng và sức mạnh của nó trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Do vậy, các đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ mang tính nhất
quán với các đặc trưng của dân số ở mỗi giai đoạn phát triển. Các đặc trưng đó bao gồm:
- Quy mô về số lượng;
- Phân bố theo vùng địa lý – kinh tế, khu vực thành thị, nông thôn;
- Cơ cấu giới tính; cơ cấu độ tuổi, tình trạng sức khoẻ;
- Cơ cấu trình độ học vấn; cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật.
1.1.1.2. Theo nghĩa hẹp
- Hầu hết các quan điểm cho rằng nguồn nhân lực đồng nghĩa với lực lượng lao động.
Một số khái niệm về nguồn lao động theo nghĩa hẹp này như sau:
+. Nguồn lao động là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia
lao động) và tiềm tàng (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động) (theo từ điển thuật
ngữ trong lĩnh vực lao động của Nga).
+. Nguồn lao động gồm những người có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm
việc (theo từ điển thuật ngữ lao động Pháp).
+. Theo quy định của Tổng cục Thống kê khi tính toán cân đối nguồn lao động, nguồn
lao động bao gồm toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người
ngoài tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
+. Trong công tác điều tra chọn mẫu quốc gia về Lao động - Việc làm tại Việt Nam
-12-
thường dùng khái niệm nguồn lao động như sau: nguồn lao động gồm những người từ đủ 15 tuổi
trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang
không có việc làm (thất nghiệp) hoặc đang đi học, hoặc đang làm nội trợ cho gia đình mình,
hoặc chưa có nhu cầu làm việc.
Ngoài các đặc trưng cơ bản đã nêu ở trên, nguồn lao động còn bao hàm các đặc trưng
mang tính cụ thể về tình trạng hoạt động của dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
nhưng vẫn đang làm việc hoặc có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
- Lực lượng lao động: Là bộ phận của nguồn lao động đang tham gia hoạt động kinh tế,
không kể là có việc làm hay không có việc làm.
+. Lực lượng lao động là khái niệm định lượng của nguồn lao động (từ điển Nga)
+. Lực lượng lao động là số lượng và chất lượng những người lao động được quy đổi
theo các tiêu chuẩn trung bình về khả năng lao động có thể sử dụng (từ điển Pháp)
+. Theo quan niệm của ngành lao động tại Việt Nam thì lực lượng lao động gồm những
người từ đủ 15 tuổi trở lên đang tham gia hoạt động kinh tế không phân biệt là có việc làm hay
đang thất nghiệp.
Có thể nói rằng lực lượng lao động là khái niệm mà các nước đang phát triển trong đó có
Việt Nam thường dùng để đánh giá nguồn lao động. Do vậy, ngoài các đặc trưng về nhân khẩu,
về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật như đã nêu, lực lượng lao động còn bao hàm
các đặc trưng về trình độ, cơ cấu, kỹ năng nghề nghiệp, cấu trúc đào tạo, tác phong kỷ luật lao
động, đạo đức làm nghề, sự hiểu biết về luật pháp, khả năng đáp ứng các yêu cầu phát triển công
nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, khả năng hội nhập với thị trường lao
động trong khu vực và trên thế giới.
1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng và việc phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1. Các chỉ tiêu đánh gía chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan
hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Đó là các yếu tố về
tinh thần, thể lực và trí lực.
(i) Thể lực của nguồn nhân lực
Sức khoẻ vừa là mục đích của phát triển, đồng thời cũng là điều kiện của sự phát triển.
Sức khoẻ là sự phát triển hài hoà của con người cả về vật chất và tinh thần. Đó là sức khoẻ cơ
thể và sức khoẻ tinh thần. Sức khoẻ cơ thể là sự cường tráng, là năng lực lao động chân tay. Sức
khoẻ tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là khả năng vận động trí tuệ, biến tư duy
thành hoạt động thực tiễn.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nêu ra định nghĩa: Sức khoẻ là một trạng thái hoàn toàn
-13-
thoải mái về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh hay thương tật. Sức
khoẻ của con người chịu tác động của nhiều yếu tố như tự nhiên, kinh tế, xã hội và được phản
ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ, các chỉ tiêu về bệnh tật, các chỉ tiêu về
cơ sở vật chất, các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ.
Trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, việc đảm bảo các dịch vụ y tế và chăm sóc sức
khoẻ làm tăng chất lượng nguồn nhân lực cả trong hiện tại lẫn tương lai. Người lao động có sức
khoẻ tốt có thể mang lại năng suất lao động cao nhờ sự bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung
trong khi làm việc. Việc chăm sóc sức khoẻ tốt làm tăng nguồn nhân lực trong tương lai bằng
việc kéo dài tuổi lao động.
Để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực về mặt thể lực có nhiều chỉ tiêu được áp dụng,
trong đó các chỉ tiêu cơ bản sau đây thường được sử dụng là:
- Chiều cao trung bình của thanh niên từ 18 – 35 tuổi (đơn vị cm)
- Cân nặng trung bình của thanh niên (đơn vị kg)
(ii) Trí lực của nguồn nhân lực
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, con người không chỉ sử dụng chân tay mà còn sử
dụng cả trí óc. Thật vậy, bên cạnh sức khoẻ thì trí lực - nhân tố không thể thiếu của nguồn nhân
lực - có ý nghĩa quyết định đến năng suất và hiệu quả lao động. Trước sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ như ngày nay, yêu cầu người lao động phải có trình độ học vấn cơ bản
để có khả năng tiếp thu và áp dụng công nghệ mới, làm việc chủ động, linh hoạt và sáng tạo, sử
dụng được các công cụ, phương tiện lao động hiện đại, tiên tiến.
Nhân tố trí lực của nguồn lực thường được xem xét đánh giá trên hai khía cạnh: trình độ
văn hoá, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao động thực hành của người lao động. Việc đánh giá
hai yếu tố này thường được dựa trên một số tiêu chí cơ bản sau:
- Về trình độ văn hoá:
Là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện
những việc đơn giản để duy trì cuộc sống. Trình độ văn hoá được cung cấp qua hệ thống giáo
dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân. Hệ thống chỉ
tiêu dùng để đánh giá là:
+. Tỷ lệ dân số biết chữ: là số % của những người từ 10 tuổi trở lên có thể đọc viết và
hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc hoặc tiếng nước ngoài so với tổng
dân số từ 10 tuổi trở lên.
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hoá ở mức tối thiểu của một quốc gia.
Các thống kê giáo dục trong nước và thế giới hiện nay đều sử dụng chỉ tiêu này.
+. Số năm đi học trung bình của dân số tính từ 25 tuổi trở lên: là số năm trung bình một
-14-
người đi học. Đây là một trong những chỉ tiêu được Liên Hiệp Quốc sử dụng để đánh giá chất
lượng nguồn nhân lực của các quốc gia.
Phương pháp tính: A = ∑aixi
Trong đó: A: số năm đi học trung bình
ai: các hệ số được chọn theo hệ thống giáo dục của mỗi vùng, mỗi nước
xi: là số % trình độ văn hoá theo hệ thống giáo dục tương đương.
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh
và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động kỹ thuật bao gồm những công nhân kỹ thuật từ bậc ba
trở lên (có hoặc không có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại học. Họ được đào tạo
trong các trường lớp dưới các hình thức khác nhau và có bằng hoặc không có bằng (đối với công
nhân kỹ thuật không bằng). Song nhờ kinh nghiệm thực tế trong sản xuất mà có trình độ tương
đương từ bậc ba trở lên.
Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực
+. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo: là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số LĐ
Phương pháp tính:
TLV ĐT = (∑ LLV ĐT / ∑LLV )*100
Trong đó: TLV ĐT: tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc
LLV ĐT: số lao động đã qua đào tạo
LLV: số lao động đang làm việc
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về trình độ chuyên môn của lực lượng lao động
mỗi quốc gia, của các vùng lãnh thổ.
+. Tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo: (CNKT: công nhân kỹ thuật, THCN: trung học
chuyên nghiệp, ĐH &SĐH: đại học và sau đại học)
Phương pháp tính
TCBĐTi = (∑LCBĐTi / ∑LLV ´ ∑LLV)
Trong đó: TCBĐTi: tỷ lệ lao động được đào tạo ở cấp bậc đào tạo i đang làm việc so với
tổng số lao động đang làm việc.
∑LCBĐTi: tổng số lao động được đào tạo ở cấp bậc i đang làm việc
∑LLV: tổng số lao động đang làm việc
Cơ cấu bậc đào tạo tính theo đại học - cao đẳng/trung học/dạy nghề cho ta thấy được cơ
cấu này có cân đối với nhu cầu của thực tế sản xuất hay không. Trên cơ sở đó có kế hoạch điều
chỉnh nhu cầu đào tạo tổng thể của cả nước. Các tỷ lệ này thường được tính toán cho cả nước,
theo vùng, theo ngành kinh tế. Qua các chỉ tiêu tính toán cho từng vùng lĩnh thổ, từng ngành
-15-
kinh tế có thể phát hiện ra những bất hợp lý về cơ cấu đào tạo, sự chênh lệch về trình độ chuyên
môn kỹ thuật của lao động trong từng vùng, từng ngành. Từ đó có cơ sở điều chỉnh kế hoạch
phát triển nguồn nhân lực của vùng, ngành.
- Về phẩm chất tâm lý – xã hội
Ngoài các yếu tố thể lực và trí lực, quá trình lao động đòi hỏi người lao động phải có
hàng loạt phẩm chất như tính kỷ luật, tự giác, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công
nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao, những phẩm chất này gắn liền với truyền thống văn hoá
dân tộc. Chẳng hạn, người lao động Việt Nam cần cù, sáng tạo và thông minh, nhưng về kỷ luật
lao động và tinh thần hợp tác lao động còn nhiều nhược điểm đang gây trở ngại lớn cho tiến
trình hội nhập của chúng ta.
Để đánh giá yếu tố này rất khó dùng phương pháp thống kê và xác định các chỉ tiêu định
lượng như các yếu tố về thể lực và trí lực của nguồn nhân lực. Vì vậy phương pháp đánh giá
chất lượng nguồn nhân lực về yếu tố phẩm chất tâm lý xã hội thường được tiến hành bằng các
cuộc điều tra tâm lý, xã hội học và được đánh giá chủ yếu bằng chỉ tiêu định tính. Tuy nhiên
trong từng khía cạnh của phẩm chất này cũng có thể đánh giá bằng phương pháp thống kê và
xác định bằng các chỉ tiêu định lượng như tỷ lệ người lao động vi phạm kỷ luật về thời gian lao
động (đi muộn, về sớm, không chấp hành quy định giờ giấc lao động trong thời gian làm việc),
tỷ lệ số người vi phạm kỷ luật công nghệ, tỷ lệ số người bị thi hành kỷ luật trong năm,…
(iii) Chỉ tiêu tổng hợp
Chương trình phát triển của Liên hiệp Quốc (UNDP) đã khuyến nghị và đưa ra áp dụng
nhiều phương pháp để đánh giá sự phát triển con người (HDI), trong đó phương pháp xác định
các chỉ số phát triển con người được xác định theo ba yếu tố cơ bản nhất và tổng hợp nhất đó là:
sức khoẻ, trình độ học vấn và thu nhập.
- Về sức khoẻ được xác định qua chỉ tiêu tuổi thọ bình quân của dân số
- Về học vấn được xác định qua hai chỉ tiêu: tỷ lệ dân số biết chữ, số năm đi học của một
người (từ 25 tuổi trở lên)
- Về thu nhập được xác định qua chỉ tiêu GDP/người (theo PPP)
Chỉ số HDI được tính từ 0.1 – 1.0, vì chỉ số HDI đề cập đến những yếu tố cơ bản của chất
lượng nguồn nhân lực nên có thể dùng nó làm chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng nguồn nhân
lực của các quốc gia.
1.1.2.2. Về các chỉ tiêu đánh giá việc phát triển nguồn nhân lực
Thực chất của quá trình CNH - HĐH là áp dụng các phương pháp sản xuất công nghiệp
và áp dụng các phương tiện kỹ thuật công nghệ hiện đại vào tất cả các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân. Để thực hiện thành công sự nghiệp đó đòi hỏi phải khai thác và phát huy cao
-16-
độ tất cả các nguồn lực trong xã hội đặc biệt là nguồn lực con người - yếu tố nội sinh có tính
chất quyết định nhất.
Trong thời đại ngày nay, xã hội đang đặt ra những yêu cầu cao đối với sự phát triển
nguồn nhân lực dựa trên các chỉ tiêu là thể lực, trí lực và cả phẩm chất tâm lý xã hội, đó là:
(i) Về mặt thể lực:
CNH - HĐH gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương pháp sản xuất công nghiệp,
các thiết bị và công nghệ hiện đại, do đó đòi hỏi sức khoẻ và thể lực cường tráng của người lao
động trên các khía cạnh:
- Có sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng những quá trình sản xuất liên tục, kéo dài.
- Có các thông số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị công nghệ hiện đại
được sản xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế giới. Việc thiết kế và sản xuất
riêng các thiết bị công nghệ đáp ứng các yếu tố nhân chủng học của từng quốc gia thường có giá
thành cao và mặt khác nếu các yếu tố nhân chủng của người lao động không đáp ứng được kích
thướt của các thiết bị công nghệ phổ biến trên thị trường sẽ không phát huy được công suất của
thiết bị và làm tăng tai nạn lao động, giảm chất lượng sản phẩm.
- Luôn luôn có sự tỉnh táo, sảng khoái tinh thần. Tuy nhiên những điều kiện này lại phụ
thuộc chủ yếu vào trạng thái sức khoẻ của người lao động. Kỹ thuật và công nghệ ngày càng
tinh vi đòi hỏi sự chính xác và an toàn cao độ; mặt khác giá trị của nhiều loại sản phẩm rất lớn
chỉ cần một sơ suất nhỏ trong động tác, thao tác lao động có thể sẽ gây tổn thất lớn.
(ii) Về mặt trí lực:
Một lực lượng lao động đông đảo có trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng cao là đòi
hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH – HĐH. Hiện nay
không có lĩnh vực hoạt động nào lại không đòi hỏi lao động phải có trình độ văn hoá, chuyên
môn kỹ thuật cao nhất đặc biệt trong những lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ tin học, tự động
hoá và công nghệ sinh học hiện đại. Vì vậy, một mặt đòi hỏi mặt bằng dân trí của nguồn nhân
lực phải cao, đại bộ phận lao động xã hội phải được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật. Ở một số
lĩnh vực, ngay cả công nhân kỹ thuật cũng phải có trình độ tương đương kỹ sư. Đối tượng được
xem xét ở đây tập trung vào ba loại lao động là: lao động có trình độ quản lý, đội ngũ những nhà
huấn luyện và đội ngũ công nhân kỹ thuật. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đi
sâu vào phân tích loại lao động thứ ba.
Thật vậy, một đội ngũ đông đảo công nhân kỹ thuật được đào tạo kỹ lưỡng, có chất
lượng, có tay nghề cao là một yêu cầu tối cấp thiết. Các trung tâm công nghiệp, các cơ sở sản
xuất với công nghệ hiện đại và hiện đại hoá nền nông nghiệp sẽ thu hút hàng chục vạn công
nhân kỹ thuật được đào tạo ở các trường, lớp dạy nghề. Ở Việt Nam phần đông lao động còn là
lao động phổ thông, chưa qua đào tạo. Số lao động được đào tạo nghề chỉ khoảng 20% tổng số
-17-
lao động chân tay.
Ngoài ra, một yêu cầu không kém phần quan trọng của sự phát triển nguồn nhân lực nước
ta là nâng cao ý thức công dân, dân tộc, rèn luyện phong cách làm việc chuyên nghiệp. Những
phẩm chất này sẽ giúp người lao động không bị cám dỗ bởi những mặt trái của nền kinh tế thị
trường. CNH - HĐH còn đòi hỏi ý thức kỷ luật lao động cao, tác phong làm việc khoa học - điều
mà lực lượng lao động nước ta còn yếu kém khi mà xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, phân tán.
Bên cạnh đó, nâng cao thể lực cho người lao động là yêu cầu không thể xem nhẹ trong sự phát
triển nguồn nhân lực nước ta. Sự nghiệp CNH - HĐH với việc áp dụng phổ biến các kỹ thuật và
công nghệ hiện đại đòi hỏi một lớp người lao động ngày càng có sức khoẻ tốt, thể lực cường
tráng.
(ii) Về phẩm chất tâm lý xã hội của nguồn nhân lực
Cùng với sự tiến triển của xã hội đòi hỏi phải có sự chuyển biến căn bản về phẩm chất
tâm lý của nguồn nhân lực. Tác phong chậm chạp, lề mề, ý thức kỷ luật kém, tự do vô tổ chức…
là sản phẩm của nền sản xuất tiểu nông thủ công lạc hậu, phân tán cần phải được khắc phục khi
đi vào CNH – HĐH. Điều này đòi hỏi người lao động phải có những phẩm chất tâm lý xã hội cơ
bản sau:
- Có tác phong công nghiệp (khẩn trương, đúng giờ giấc…);
- Có ý thức kỷ luật tự giác cao; có niềm say mê nghề nghiệp chuyên môn;
- Sáng tạo, năng động trong công việc;
- Có khả năng chuyển đổi công việc cao, thích ứng với những thay đổi trong lĩnh vực
công nghệ và quản lý.
1.2. Vai trò của nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trong việc đáp ứng yêu cầu
sử dụng cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các KCX, KCN.
Phát triển nguồn nhân lực lao động kỹ thuật đáp ứng nhu cầu CNH – HĐH, phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đặc biệt chú trọng thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một trong những nội dung quan trọng của chương trình phát triển nguồn nhân lực của
Việt Nam cũng như của Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Mặc dù ngày nay khoa học kỹ
thuật phát triển vượt bậc nhưng điều đó không có nghĩa là làm giảm đi vai trò của yếu tố con
người, ngược lại nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và kỹ năng ngày càng trở thành lợi
thế quan trọng nhất cho mỗi quốc gia.
Thực tiễn ở các nước đang phát triển cũng như tại Việt Nam cho thấy các nguồn lực thúc
đẩy quá trình CNH - HĐH bao gồm rất nhiều như nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học, công nghệ…; và giữa chúng có mối quan hệ nhân quả
với nhau trong quá trình phát triển. Song nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh quan
-18-
trọng chi phối quá trình phát triển của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực
với các yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám, có ưu thế nổi bật ở chỗ chúng không bị cạn kiệt nếu
biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý. Trong khi các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu
cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp được với nguồn lực con
người một cách có hiệu quả. Con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là
yếu tố chủ lực của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định
quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và thực tiễn hoạt động của các
doanh nghiệp khu vực kinh tế này tại các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) trên địa
bàn TP.HCM chứng minh rằng nếu chỉ có vốn không thôi tuy quan trọng nhưng vẫn chưa là
điều kiện đủ mà chủ yếu là ở nguồn nhân lực. Nếu nguồn nhân lực đủ về số lượng và đảm bảo
về chất lượng thì sẽ hấp dẫn các dự án đầu tư FDI và sẽ tạo động lực chuyển dịch xu hướng đầu
tư từ những ngành thâm dụng lao động, sử dụng kỹ thuật đơn giản sang những ngành sử dụng
hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao. Do đó hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI sẽ tăng lên rõ
rệt, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế của Thành phố nói riêng và Việt
Nam nói chung.
Xem xét yếu tố con người với tư cách là nguồn lực cơ bản của sự phát triển kinh tế xã
hội, UNESCO nhận định: “con người đứng ở trung tâm của sự phát triển, là tác nhân và là mục
đích của sự phát triển”. Một số học thuyết của các nhà kinh tế nổi tiếng trên thế giới khi đề cập
đến vấn đề tăng trưởng kinh tế thì vai trò của yếu tố con người được đề cập là một trong những
nhân tố quyết định nhất. Chẳng hạn:
- Trong mô hình Solow, nhà kinh tế học người Mỹ N.Gregory Mankiw đã giải thích quy
mô và sự cải thiện hiệu quả của lao động đối với tăng trưởng. Trong mô hình này, lực lượng lao
động được xem như một trong hai nhân tố của quá trình sản xuất ra sản phẩm xã hội.
Hàm sản xuất có dạng: Y = F (K, L)
Trong đó: Y là sản lượng
K chỉ khối lượng tư bản
L chỉ khối lượng lao động
Hàm sản xuất có ý nghĩa rằng sản lượng phụ thuộc vào khối lượng tư bản và lực lựơng
lao động. Vấn đề ở đây là hiệu quả lao động và mối liên quan của nó với tiến bộ công nghệ chứ
không chỉ đơn thuần là số lượng lao động và tư bản.
Thật vậy, để đưa tiến bộ công nghệ vào mô hình, Mankiw đưa ra biến E (E là hiệu quả
lao động). Hiệu quả lao động phản ánh hiểu biết của xã hội về phương pháp sản xuất như: công
nghệ hiện có được cải thiện, hiệu quả của lao động sẽ tăng lên. Hiệu quả của lao động còn phản
ánh sức khoẻ, trình độ giáo dục và tay nghề của lực lượng lao động.
-19-
Biểu thức L*E là lực lượng lao động tính bằng đơn vị hiệu quả bao gồm số lượng công
nhân L và hiệu quả của mỗi công nhân E. Như vậy hàm sản xuất mới này nói rằng tổng sản
lượng Y phụ thuộc vào số đơn vị tư bản K và số đơn vị hiệu quả lao động L*E. Do đó khi nghiên
cứu các nhà kinh tế đã chú ý tới chất lượng lao động và vai trò của tiến bộ công nghệ.
- Trong mô hình tăng trưởng của Mankiw cũng đề cập đến một loại tư bản mới đó là vốn
nhân lực. Theo Ông: “Vốn nhân lực là kiến thức, tay nghề mà người lao động tiếp thu được
thông qua quá trình giáo dục đào tạo từ thời niên thiếu cho đến khi trưởng thành, cũng như trong
quá trình lao động”. Xét theo nhiều phương diện, vốn nhân lực tương tự như tư bản hiện vật,
việc nâng cao vốn nhân lực cần tới những khoản đầu tư vào giáo dục. Các công trình nghiên cứu
gần đây về tăng trưởng kinh tế phát hiện rằng vốn nhân lực không kém phần quan trọng so với
tư bản hiện vật trong việc giải thích những khác biệt về mức sống. Theo Mankiw: “Sự đầu tư
cho con người trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá nhân làm nâng cao mức
sống của toàn xã hội và nhờ đó tạo khả năng tăng năng suất lao động”.
Tóm lại: Có thể khẳng định rằng con người được coi là nguồn lực cơ bản để tăng trưởng
và phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy năng lực sáng tạo của con người trở
thành yêu cầu chủ yếu của phát triển kinh tế - xã hội. Nếu trước đây nguồn lao động nhiều và rẻ
được xem là thế mạnh hàng đầu về nhân lực thì ngày nay yếu tố chất lượng ngày càng được
nhấn mạnh. Lao động của con người là yếu tố chủ lực của quá trình sản xuất và dịch chuyển cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động mang tính chất nội sinh tạo ra GDP và làm nảy sinh những quan hệ
cấu trúc nội tại của quá trình sản xuất và phát triển kinh tế. Với tư cách là người lao động đã tạo
ra sản phẩm bằng sự lao động trí óc sáng tạo và tay nghề lao động của mình. Điều này một lần
nữa minh chứng cho mối quan hệ mật thiết giữa chất lượng nguồn nhân lực với hiệu quả thu hút
đầu tư trực tiếp của nước ngoài vì trong xu hướng cách mạng khoa học – công nghệ phát triển
mạnh mẽ, các nhà đầu tư không thể dừng lại ở việc đầu tư những ngành sử dụng nhiều lao động
rẻ (lao động phổ thông), vì ở những ngành này tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần, trong
khi những ngành khoa học công nghệ cao thì tỷ suất lợi nhuận tăng. Vì vậy các nhà đầu tư sẽ mở
rộng và phát triển những ngành có hàm lượng vốn, công nghệ cao, lực lượng lao động thu hút
vào khu vực này đòi hỏi phải có tay nghề, chuyên môn cao.
1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế tại Thành phố Hồ Chí Minh
Với việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã có tác động to lớn
đến sự chuyển biến về kinh tế của Việt Nam cũng như từng địa phương trong cả nước. Qua gần
20 năm kêu gọi và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, khu vực kinh tế này đã phát huy vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng. Sự đóng góp đó có thể xem xét lần lượt dưới các khía cạnh sau:
-20-
1.3.1. Cung cấp vốn đầu tư cho sự tăng trưởng kinh tế
Từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành 12/1987, dòng vốn đầu tư
nước ngoài đã tăng nhanh tạo ra một nguồn vốn hết sức quan trọng cho phục hồi kinh tế trên
bình diện cả nước cũng như TP.HCM nói riêng. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
một thành phần kinh tế mới, gắn kết ngày càng chặt chẽ với các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế nhiều thành phần của địa phương. Khu vực này chỉ phát triển và có vai trò ngày càng
quan trọng khi có sự gia tăng vốn đầu tư và các dự án FDI tăng tính hiệu quả trong nền kinh tế.
Thực tiễn qua hơn 16 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực FDI đã có một vị trí nhất
định về tỷ trọng và tốc độ phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho Thành phố trong việc giải
quyết bài toán vốn đầu tư phát triển của địa phương mình.
Bảng 1. Tình hình thu hút vốn FDI tại TP.HCM toàn giai đoạn 1988-2004
Dự án Vốn đầu tư
Chỉ tiêu
Số dự án Tỷ trọng (%) Vốn đầu tư (ngàn USD) Tỷ trọng (%)
1988 – 1990 23 1,4 496.689 8,2
1991 – 1995 355 21,7 2.711.411 45,0
1996 91 5,5 566.483 9,5
1997 70 4,3 695.067 11,5
1998 69 4,2 260.947 4,3
1999 91 5,5 262.042 4,3
2000 113 6,9 122.728 2,0
2001 170 10,3 391.500 6,5
2002 216 13,1 174.758 2,9
2003 199 12,1 105.606 1,8
2004 247 15,0 240.324 4,0
Tổng 1.644 100,0 6.027.555 100,0
Nguồn: Niên giám Thống kê 2004, Cục Thống kê TP.HCM
Nhận xét: Qua bảng số liệu trên cho thấy trong những năm gần đây mặc dù vốn đầu tư trên toàn
Thành phố gia tăng nhưng vốn FDI lại có xu hướng giảm cả về số tuyệt đối và tương đối chưa
tương xứng với khả năng vốn có của thành phần kinh tế này. Vì vậy, trong điều kiện chung về
khan hiếm vốn, để tăng nguồn vốn FDI chỉ bằng con đường thông qua các KCN/KCX nhằm tạo
ra một môi trưòng thuận lợi “hút” vốn vào giúp đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá theo kế
hoạch.
-21-
1.3.2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
Với vai trò tích cực của mình, khu vực kinh tế FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào
việc tạo ra giá trị công nghiệp, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng sản lượng công nghiệp, góp
phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đặc biệt thông qua các
KCN/KCX – là một trong những đầu mối tăng cường hội nhập, làm thay đổi tư duy phát triển
các ngành kinh tế và thay đổi cơ cấu kinh tế, FDI có điều kiện phát huy hiệu quả ngành nghề
nhiều hơn. Các ngành kinh tế được phát triển gắn với thị trường hơn và gắn với lợi thế so sánh
hơn, do đó tạo ra hiệu quả và sức cạnh tranh tốt hơn. Do tăng cường hội nhập mà các KCN/KCX
là một biểu hiện cho thấy cơ cấu ngành chuyển dịch mạnh theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP. Thật vậy, công nghiệp và dịch vụ có tỷ trọng tăng dần trong cơ
cấu kinh tế của TP.HCM trong suốt thập niên vừa qua trong đó có một phần đóng góp của các
KCN/KCX do được sự tập trung cao của các nhà đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến,
do đó cũng có vai trò không nhỏ trong việc góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa.
Bảng 2. Thu hút FDI tại TP.HCM giai đoạn 1988-2004 theo ngành
Dự án Vốn đầu tư
Chỉ tiêu
Số dự án Tỷ trọng (%) Vốn đầu tư (ngàn USD) Tỷ trọng (%)
Nông lâm, thuỷ sản 11 0,7 51.309 0,2
Công nghiệp, xây dựng 1.088 66,2 2.613.943 43,4
Dịch vụ 593 33,1 3.362.303 56,4
Tổng 1.644 100,0 6.027.555 100,0
Nguồn: Niên giám Thống kê 2004, Cục Thống kê TP.HCM
FDI với các chủ thể là các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đã góp phần đẩy nhanh sự
phát triển của các ngành công nghệ cao, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa và tạo điều kiện cho
công nghiệp hoá rút ngắn. Khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam cũng như tại TP.HCM, FDI
luôn hướng đến việc gắn liền với áp dụng công nghệ mới và chuyển giao công nghệ quản lý từ
các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường nội địa để đảm bảo tính cạnh tranh cho sản phẩm. Do
đó, khu vực FDI sẽ là khu vực tạo ra một động lực mạnh mẽ để hiện đại hoá công nghệ, áp dụng
phương pháp và phương tiện tiên tiến, nâng cao hàm lượng công nghệ mới trong sản phẩm.
-22-
Bảng 3. Đóng góp của FDI trong ngành công nghiệp của TP.HCM
Ngành 2001 2002 2003 2004
Giá trị công nghiệp TP.HCM (triệu đ)
Trong đó: FDI
114.887.290
37.642.053
137.323.801
47.265.054
168.481.415
57.257.502
203.632.453
69.223.568
Tỷ trọng FDI trong GTCNTP (%) 32,8 34,4 34,0 34,0
Tốc độ tăng GTCNFDI (%) 22,8 25,6 21,1 20,1
Nguồn: Niên giám Thống kê 2004, Cục Thống kê TP.HCM
Nhận xét: Nếu chỉ tính riêng khu vực FDI so với toàn Thành phố, trung bình hàng năm khu vực
này đã đóng góp 34% giá trị sản lượng công nghiệp đồng thời có tốc độ tăng giá trị sản lượng
công nghiệp nhanh hơn nhiều các khu vực khác của nền kinh tế. Có thể nói rằng khu vực này đã
và đang là động lực chính làm cho sản lượng toàn ngành công nghiệp tăng trên hai chữ số suốt
chặng đường qua.
1.3.3. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu
Tầm quan trọng của khu vực FDI thể hiện rõ qua tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Chỉ tiêu
này của FDI luôn tăng cao hơn mức bình quân cả Thành phố và có xu hướng ngày càng gia tăng.
Thông qua các KCN/KCX đã thu hút FDI nhiều hơn, điều này giúp mở rộng thị trường và đẩy
mạnh các quan hệ thị trường trong nước và ngoài nước. Từ đó các doanh nghiệp có cơ hội đầu
tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hơn, tận dụng được thị trường mở. Bên cạnh hoạt động
FDI rải rác các khu vực khác trên toàn địa bàn, có thể nói rằng FDI trong các KCN/KCX đã góp
phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu dựa vào phát huy lợi thế so sánh của Thành phố. Khu vực
xuất khẩu đã có mức tăng trưởng nhanh và là động lực chính cho tốc độ tăng trưởng tương đối
cao cho kinh tế Thành phố.
Bảng 4. Đóng góp của FDI trong kim ngạch xuất khẩu của TP.HCM
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004
Kim ngạch XK toàn TP.HCM (triệu đ)
Trong đó: FDI
6.016.300
1.122.000
6.415.037
1.286.665
7.370.400
1.648.809
9.816.030
2.026.232
Tỷ trọng FDI trong KNXKTP (%) 18,64 20,05 22,37 20,64
Tốc độ tăng KNXKFDI (%) 0,2 14,7 28,1 22,9
Nguồn: Niên giám Thống kê 2004, Cục Thống kê TP.HCM
Nhận xét: Kim ngạch xuất khẩu của TP.HCM liên tục tăng trong những năm qua trong đó đặc
biệt có sự đóng góp quan trọng của khu vực FDI xét về giá trị tuyệt đối lẫn tốc độ phát triển.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong bối cảnh CNH - HĐH hướng về xuất khẩu của cả nước
nói chung và TP.HCM nói riêng.
1.3.4. Đóng góp vào giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực FDI trên địa bàn TP.HCM có vai trò tích cực
-23-
và khá quan trọng, là nhân tố mới nhưng tác động thúc đẩy rất lớn đến các thành phần kinh tế
khác. Mặc dù trong những năm gần đây tỷ trọng và tốc độ tăng GDP của khu vực này có xu
hướng chững lại, tuy nhiên vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong GDP toàn Thành phố. Trung
bình hàng năm đạt 20% tức là trong 1 đồng tăng trưởng GDP có 0,2 đồng đóng góp từ sự tăng
trưởng của khu vực FDI.
Bảng 5. Đóng góp của FDI trong GDP của TP.HCM giai đoạn 2001 - 2004
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004
GDP toàn TP.HCM (tỷ đồng)
Trong đó: FDI
84.852
17.480
96.403
20.299
113.326
23.580
136.488
25.519
Tỷ trọng FDI trong GDPTP (%) 20,6 21,1 20,8 18,7
Tốc độ tăng GDPFDI (%) 18,77 16,12 16,16 8,22
Nguồn: Niên giám Thống kê 2004, Cục Thống kê TP.HCM
Nhận xét: Trong tổng giá trị hàng hoá dịch vụ tạo ra trên địa bàn TP.HCM luôn có một tỷ trọng
đóng góp rất đáng kể của khu vực FDI, tuy mức đóng góp còn chưa đúng với tiềm lực của khu
vực FDI nhưng một điều đáng nhấn mạnh là trong sự phát triển cao và bền vững của TP.HCM
hiện nay không thể xem nhẹ vai trò của khu vực kinh tế FDI trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của mình thời gian qua cũng như trong chặng đường phát triển kinh tế sắp tới.
1.3.5. Đóng góp vào ngân sách
Thu ngân sách là một chỉ tiêu không kém phần quan trọng của Việt Nam cũng như của
bất kỳ địa phương nào nhằm bù đắp cho những khoản chi thường xuyên và không thường xuyên
khác rất lớn cho sự nghiệp phát triển của mình trong quá trình chuyển đổi kinh tế.
Bảng 6. Đóng góp từ khu vực FDI trong thu ngân sách của TP.HCM giai đoạn 2001 - 2004
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004
Tổng thu NS toàn TP.HCM (tỷ đồng)
Trong đó: FDI
30.731,6
2.021,6
37.402,0
2.621,9
43.440,1
3.555,7
48.153,5
5.137,4
Tỷ trọng FDI trong ∑NSTP (%) 6,6 7,0 8,2 10,7
Tốc độ tăng NSFDI (%) 10,3 29,7 35,6 44,5
Nguồn: Niên giám Thống kê 2004, Cục Thống kê TP.HCM
Nhận xét: Mặc dù đóng góp ngân sách của khu vực FDI so với toàn Thành phố chưa cao do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Có thể xuất phát từ các nguyên nhân phổ biến như
các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu vẫn còn đang trong giai đoạn được miễn giảm thuế thu
nhập và các khoản khác, bên cạnh đó vẫn còn tình trạng hoạt động chưa hiệu quả của các doanh
nghiệp đặc biệt hình thức công ty liên doanh. Tuy nhiên cũng cho thấy một tín hiệu lạc quan
trong thời gian tới nếu xét cả đến tốc độ tăng thu ngân sách của khu vực này.
-24-
1.3.6. Góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như công ăn việc làm, thu nhập cho
người lao động.
Với sự xuất hiện của nhân tố mới trong nền kinh tế - FDI - đã góp phần không nhỏ trong
việc giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động cả quản lý và lao động công nhân trên bình diện
cả nước và TP.HCM nói riêng. Qua đó, khu vực này cũng đã góp phần tạo ra một đội ngũ lao
động lành nghề có kỹ thuật, đáp ứng được phần nào yêu cầu tiếp thu và chuyển giao công nghệ
tiên tiến của doanh nghiệp FDI.
Bảng 7. Số lượng lao động sản xuất công nghiệp trong khu vực FDI giai đoạn 2001 - 2004
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004
Tổng số lao động Công nghiệp (người)
Trong đó:- Công nghiệp chế biến
- Sản xuất, phân phối điện nước
163.398
162.858
540
206.720
206.212
508
255.654
255.121
533
274.515
273.974
541
Tỷ trọng LĐCông nghiệp chế biến trong tổng số (%) 99,67 99,75 99,79 99,80
Nguồn: Niên giám Thống kê 2004– Cục Thống kê TP.HCM, 2004.
Nhận xét: Bảng số liệu cho thấy số lao động làm việc trong khu vực FDI qua các năm tăng lên
liên tục và lao động trong ngành công nghiệp chế biến là đa số. Điều này phản ánh đúng bản
chất của các dự án FDI trong giai đoạn đầu là tập trung vào những ngành thâm dụng lao động.
Bên cạnh đó, vấn đề tạo và nâng mức thu nhập cho người lao động thông qua FDI là đáng kể.
Tạo việc làm đồng nghĩa với tạo thu nhập cho người lao động, vì phần lớn lao động được
thu hút được thu hút vào làm việc ở khu vực này là lao động chưa qua đào tạo và một bộ phận
không nhỏ từ khu vực nông nghiệp, nông thôn (có thu nhập rất thấp). Có việc làm, người lao
động có thu nhập và thu nhập ngày càng tăng.
Bảng 8. Thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp FDI
Đvt: đồng/ tháng/ người
Lương cơ bản Tiền lương làm thêm Khác Tổng thu nhập
Nam 1.172.500 252.140 173.130 1.597.770
Nữ 988.820 247.060 143.260 1.379.140
Nguồn: ILO/TTNC LDN, số liệu thống kê 2003.
Tóm lại: Qua những số liệu phân tích ở trên có thể khẳng định đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại TP. HCM trong suốt chặng đường qua tuy tốc độ phát triển không đều (lúc tăng, lúc
chững lại và có lúc tốc độ giảm) nhưng đã thể hiện được vai trò tích cực như: tạo việc làm, thu
nhập cho người lao động đặc biệt là lực lượng lao động chưa qua đào tạo; tham gia vào quá trình
chuyển dịch lao động theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế tạo điều kiện để nền kinh tế thực
hiện công nghiệp hướng về xuất khẩu; góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua
sử dụng, bồi dưỡng, đào tạo lại lực lượng lao động trực tiếp vào lao động quản lý; khai thác
-25-
nguồn nhân lực đã góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội. FDI được ví như một luồng
sinh khí mới làm chuyển biến bộ mặt xã hội ở một góc độ nhất định. Do vậy, khu vực FDI được
xem như một bộ phận hữu cơ không thể tách rời trong công cuộc xây dựng và phát triển bền
vững của TP.HCM.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương một, toàn bộ cơ sở lý luận về nguồn nhân lực xem xét dưới góc độ tham
gia vào việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của TP.HCM đã được trình bày một cách hệ
thống và đầy đủ. Tác giả đã đi từ khái niệm căn bản về nguồn nhân lực trong đó đề cập chi tiết
đến phạm trù nguồn lao động công nhân trong sự nghiệp CNH – HĐH, tiếp theo đề cập đến vai
trò của FDI trong việc quyết định tăng trưởng và phát triển bền vững của TP.HCM. Tầm quan
trọng ngày càng tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài phát sinh từ nhận thức rằng khu vực kinh
tế này có thể đóng góp mạnh mẽ cho sự tăng trưởng kinh tế bằng cách cung cấp vốn, công nghệ
và kỹ năng quản lý hiện đại cho các nước nhận đầu tư. Thật vậy, trong thời gian qua khu vực
FDI đã phần nào đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế TP.HCM tăng trưởng
và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội cấp bách như vốn và công ăn việc làm cho người dân...
Vậy thì, những nhân tố nào mang tính chất quyết định đối với đầu tư nước ngoài? Nhân tố nào là
chủ yếu, nhân tố nào là thứ yếu? Nhân tố nào chúng ta đã có? Nhân tố nào chúng ta chưa có?
Nhân tố nào chúng ta sẽ có nếu biết cách tạo ra? Các nhà đầu tư nước ngoài khác nhau thì có
chịu tác động bởi những nhân tố khác nhau không?
Ở một khía cạnh khác nhìn nhận về FDI với mục đích tận dụng các máy móc thiết bị đã
quá cũ hoặc lạc hậu, các MNCs lại có xu hướng chuyển giao vào nơi nhận đầu tư những công
nghệ đã lỗi thời, nguy cơ này cũng làm giảm hiệu quả của hoạt động thu hút vốn FDI vì khả
năng gây tổn hại lớn cho nền kinh tế của các nước nhận đầu tư do sử dụng công nghệ quá lạc
hậu nếu như nơi nhận nguồn vốn FDI chưa có sự chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng đủ đảm
bảo cho các yêu cầu cao về sử dụng hệ thống dây chuyền hiện đại.
Có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tăng lên của giá nhân công tại nước chủ nhà so với các
nước khác trên thế giới sẽ dẫn đến sự giảm đi của dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước
này. Yếu tố nhân công rẻ với tay nghề thành thạo vẫn là một động lực quan trọng trong thu hút
có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong xu thế ngày nay mà TP.HCM cần phải khẩn
trương thực hiện trong bối cảnh rất cần nguồn vốn bên ngoài như FDI. Điều này một lần nữa
khẳng định rằng giữa chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả thu hút đầu tư có mối quan hệ mật
thiết với nhau mà trong đó nhân tố quyết định là nguồn nhân lực của nơi thu hút FDI như thế
nào, mức độ sẵn sàng ra sao là vô cùng quan trọng. Do đó trong nội dung của chương tiếp theo,
tác giả sẽ trình bày về đặc điểm của nguồn lao động công nhân đang làm việc trong khu vực FDI
mà chủ yếu nghiên cứu tại các KCN/KCX ở TP.HCM nhằm làm rõ những lập luận ở chương 1.
-26-
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG CÔNG NHÂN TRONG CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP/ KHU CHẾ XUẤT TẠI TP.HCM
2.1. Giới thiệu về các Khu công nghiệp/Khu chế xuất
2.1.1. Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất TP.HCM
Một trong những hiện tượng thường thấy ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam đó
là năng suất lao động thấp – thu nhập, tích luỹ thấp - đầu tư mới thấp - sản xuất kém phát triển –
năng suất lao động thấp, do đó để phát triển nhanh và bền vững phải phá vỡ vòng luẩn quẩn đó.
Nhằm thực hiện đuợc điều này một mặt cần giải phóng sức sản xuất, khai thác tốt tiềm lực nội
sinh của nền kinh tế, mặt khác tận dụng có hiệu quả những nguồn lực từ bên ngoài để phát triển
lực lượng sản xuất. Kết hợp năng lực nội sinh với ngoại sinh nhằm tạo ra động lực cộng hưởng
cho phát triển. Thực tế chứng minh rằng hai nguồn lực trên có mối quan hệ mật thiết với nhau,
chúng là tiền đề là điều kiện của nhau trong quá trình phát triển. Nghĩa là nếu khai thác nội lực
có hiệu quả thì sẽ tạo điều kiện thu hút và sử dụng nguồn lực từ bên ngoài tốt hơn, ngược lại thu
hút và sử dụng nguồn lực từ bên ngoài có hiệu quả sẽ tạo điều kiện phát huy và khai thác tốt
tiềm năng nội lực của nền kinh tế.
Trong bối cảnh quốc tế hoá như ngày nay bất kỳ một quốc gia nào muốn đẩy mạnh tốc độ
tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nước nhà đều xây dựng nền kinh tế theo xu hướng mở, Việt
Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thật vậy bài toán khó khăn hiện nay cho tất cả các địa
phương là thiếu vốn đầu tư cho công cuộc xây dựng và đổi mới kinh tế. Khu công nghiệp
(KCN) và khu chế xuất (KCX) đã và đang được Việt Nam cũng như TP.HCM xem như là một
hướng quan trọng trong thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Các ưu thế của KCN/KCX
là đảm bảo hạ tầng cơ sở cho hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động
trong đó. Trong khuôn khổ nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung nhấn mạnh đến yếu tố đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào các KCN/KCX (không đề cập đến khu công nghệ cao hiện đang manh nha
hình thành tại địa bàn quận 9) trên địa bàn TP.HCM.
Sau khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành 12/1987, đầu tư nước ngoài
vào Viêt Nam tăng nhanh trong giai đoạn đầu (1990-1996), song hầu hết tập trung vào lĩnh vực
dịch vụ như khách sạn, văn phòng cho thuê. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp nhất là
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp hai khó khăn chính là: cơ sở hạ tầng yếu kém, thủ tục
xin giấy phép đầu tư và triển khai dự án phức tạp mất nhiều thời gian. Dựa vào kinh nghiệm của
-27-
các nước phát triển đi trước, Chính phủ (lúc đó là Hội đồng Bộ trưởng) chủ trương thành lập khu
chế xuất (KCX) để làm thí điểm một mô hình kinh tế nhằm thực hiện chủ trương đổi mới, mở
cửa theo hướng CNH – HĐH theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Quy chế
KCX đã được ban hành kèm theo Nghị định số 322/HĐBT ngày 18/10/1991 và KCX Tân Thuận
– KCX đầu tiên của cả nước đã được thành lập theo Quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) số 394/CT ngày 25/11/1991. Năm 1992 KCX Linh Trung
ra đời, sau đó liên tiếp trong giai đoạn 1995-1997 mười khu công nghiệp (KCN) trên sáu quận
huyện của Thành phố có quyết định thành lập của Chính phủ.
Tính đến 31/12/2004 qua gần 13 năm hình thành và phát triển, trên địa bàn có 3 KCX và
12 KCN tập trung với tổng diện tích được quy hoạch là 2.939 ha. Tổng số dự án đầu tư thu hút
được 960, trong đó có 382 dự án 100% vốn nước ngoài, 33 dự án liên doanh, hợp tác kinh
doanh. Tổng vốn đầu tư các dự án nước ngoài đạt 1,66 tỷ USD chiếm 60% tổng vốn đầu tư tại
các KCX, KCN (gồm cả đầu tư trong nưóc sau khi quy đổi USD).
Bảng 9. Các KCX, KCN trên địa bàn TP.HCM tính đến 31/12/2004
STT KCN/KCX Quận/Huyện Năm
thành lập
Diện tích theo
giấy phép (ha)
Diện tích dành
cho thuê (ha)
1 KCX Tân Thuận Quận 7 1991 300,00 195,50
2 KCX Linh Trung I Thủ Đức 1992 62,00 42,00
3 KCX Linh Trung II Thủ Đức 2002 61,70 47,00
4 KCN Bình Chiểu Thủ Đức 1996 27,34 21,00
5
KCN Tân Tạo (GĐ I)
KCN Tân Tạo (GĐ II)
Bình Tân
1996
2000
181,80
262,00
84,60
144,10
6 KCN Hiệp Phước (GĐ I) Nhà Bè 1996 332,00 200,00
7 KCN Vĩnh Lộc Bình Tân,
Bình Chánh,
Hốc Môn
1997 207,00 124,20
8 KCN Tân Bình (GĐ I)
KCN Tân Bình (GĐ II)
Tân Phú
1997
2002
125,71
68,76
81,70
-
9 KCN Tân Thới Hiệp Quận 12 1997 29,40 21,40
10 KCN Lê Minh Xuân Bình Chánh 1997 100,00 66,23
11 KCN Tây Bắc Củ Chi Củ Chi 1997 220,64 145,00
12 KCN Cát Lái II (GĐ I)
KCN Cát Lái II (GĐ II)
Quận 2 2003
42,58
69,07
30,74
41,46
13 KCN Cát Lái IV Quận 2 1997 134,00 -
-28-
14 KCN Phong Phú Bình Chánh 2002 163,30 114,31
15 KCN Tân Phú Trung Củ Chi 2004 552,00 300,00
Tổng cộng 2.939,30 1.659,24
Nguồn: Ban quản lý các KCX, KCN Thành phố Hồ Chí Minh
Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp Tp. Hồ Chí Minh (HEPZA) được thành lập
năm 1992 nhằm để giúp cho quá trình thiết lập các dự án đầu tư ở thành phố Hồ Chí Minh được
thuận lợi. Được xem là một thành phố năng động, đầy sức sống với một nền tảng ổn định và dân
số dồi dào không ngừng gia tăng và được đánh giá là một thị trường tiềm năng. GDP đầu người
của thành phố gấp ba lần GDP bình quân cả nước và tăng 10% hàng năm. Thu nhập sau thuế
tăng nhanh chóng và những người Việt Nam giàu có, trẻ đã và đang dẫn đầu cuộc cách mạng
tiêu thụ. GDP trên đầu người của thành phố tăng trưởng liên tục các năm qua và đóng góp gần
30% tổng GDP quốc gia. Tăng trưởng của sản lượng công nghiệp hàng năm của thành phố bình
quân là 14%, chiếm khoảng 30% sản lượng công nghiệp toàn quốc. Kim ngạch xuất khẩu của
thành phố Hồ Chí Minh chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Thu nhập hộ gia
đình của những người cư trú tại thành phồ Hồ Chí Minh, trung tâm kinh doanh và tài chính, dự
kiến tăng 10% vào năm 2005
Sự ra đời của các KCN/KCX ở TP.HCM đã cho thấy rằng đây là địa bàn có lợi thế trong
việc tạo ra điều kiện, thể chế và môi trường thuận lợi cho quá trình thu hút sử dụng vốn, công
nghệ, trình độ quản lý cao từ bên ngoài. Qua đó vừa phát huy tốt nội lực, vừa huy động ngoại
lực có hiệu quả góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước cũng như
TP.HCM và chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Bảng 10. Kết quả thu hút FDI vào các KCX, KCN từ 1993 đến 31/12/2004
Số giấy phép
đầu tư
Tổng vốn đầu tư
(triệu USD)
Tổng diện tích đất
(ha)
S
T
T
Tên KCX, KCN
Năm
2004
Luỹ
kế
Năm
2004
Luỹ kế
Năm
2004
Luỹ kế
Tỷ lệ
lắp đầy
(%)
1 Tân Thuận 4 121 16,02 755,22 2,60 112,65 79,69
2 Linh Trung I - 35 - 253,54 - 40,45 100
3 Linh Trung II 3 44 8,30 103,45 2,93 42,19 86,74
4 Các KCN khác 18 215 21,13 549,05 119,17 688,90 80
Tổng cộng 25 418 45,45 1.661,21 124,70 884,19 86,43
Nguồn: Ban quản lý KCN/KCX Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhận xét: Mặc dù số vốn đầu tư của khu vực FDI vào các KCN/KCX trên địa bàn TP.HCM
chưa đạt kết quả như mong đợi mà hầu như FDI vẫn còn phân tán rất nhiều bên ngoài phạm vi
-29-
các khu vực này. Trung bình từ năm 1993 – 2004, hàng năm các KCN/KCX tiếp nhận khoảng
135 triệu USD. Số dự án và tổng vốn đầu tư tăng trưởng không đồng đều, trung bình mức tăng
trưởng vốn đầu tư là 21%/năm và bình quân vốn đầu tư mỗi dự án đạt 4 triệu USD và giải quyết
150 lao động. Điều này cho thấy mặc dù trong quy hoạch chiến lược phát triển, Thành phố luôn
xem KCN/KCX là kênh quan trọng nhằm khơi thông nguồn vốn bên ngoài cho công nghiệp hoá
nhưng vẫn chưa thành hiện thực.
2.1.2. Đặc điểm hoạt động và những tồn tại của khu công nghiệp/khu chế xuất
2.1.2.1. Đặc điểm hoạt động
Sau hơn 12 năm xây dựng và phát triển với những chính sách ưu đãi, cơ sở hạ tầng được
cải thiện và nâng cấp, các KCN/KCX tại Thành phố đã phần nào trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư
ở trong và ngoài nước đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu đến nay là 5,3 tỉ USD
với các thị trường chủ yếu có tỷ trọng lớn là Nhật Bản, châu Âu và Đài Loan, giải quyết việc
làm cho 141.000 người. Nếu phân theo hình thức các chủ dự án đầu tư nước ngoài có thể thấy
tình hình như sau:
- Về đối tác đầu tư: có thể minh chứng qua số liệu 5 quốc gia dẫn đầu đầu tư vào KCX,
KCN qua bảng sau.
Bảng 11. FDI vào KCX, KCN theo khu vực đến tháng 12/2004
Tình hình đầu tư
Stt Quốc gia
Vốn đầu tư (USD) Tỷ trọng trong tổng FDI (%)
1 Nhật Bản 535.326.737 33
2 Đài Loan 347.970.650 21
3 Hồng Kông 197.867.219 12
4 Hàn Quốc 123.238.999 7,5
5 Hà Lan 98.900.000 6,0
Nguồn: Ban quản lý KCN/KCX Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhận xét: Các nhà đầu tư nước ngoài là những đối tượng đầu tư vào các KCN/KCX tập trung
vào giai đoạn đầu khi mới phát triển các khu vực này. Các nhà đầu tư chủ yếu đến từ các nước
phát triển trong khu vực, vẫn còn ít các nhà đầu tư đến từ Mỹ, Châu Âu đặc biệt là Bắc Âu.
- Về ngành nghề đầu tư: Các doanh nghiệp FDI đầu tư vào hoạt động sản xuất ở các
KCN, KCX có đặc điểm chung là đa ngành đa nghề với định hướng cơ bản là phục vụ xuất.
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp trong KCN/KCX phần lớn hoạt động trong các ngành thu hút
nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao dựa vào ưu thế giá lao động rẻ như các ngành dệt, may
mặc, chế biến thực phẩm. Các lĩnh vực lắp ráp điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng cũng là những
ngành được chú trọng trong khi các ngành công nghiệp khác về xây dựng, hoá chất, cơ khí còn
-30-
khiêm tốn trong thu hút đầu tư cũng như các dự án công nghệ kỹ thuật cao vẫn còn ít trong các
KCN/KCX. Song theo quy hoạch các KCN/KCX tại Thành phố thì trong tương lai sẽ đưa các
ngành thâm dụng lao động sang các tỉnh lân cận, các ngành mà Thành phố quan tâm phải càng
ngày nâng cao hàm lượng công nghệ kỹ thuật như các nhà lãnh đạo rất kỳ vọng thu hút các dự
án FDI vào khu vực này ở các lĩnh vực mang tính đột phá hơn.
Bảng 12. FDI vào KCX, KCN theo ngành tính đến tháng 12/2004
Stt Ngành nghề Tổng vốn (USD) Tỷ trọng (%)
1 Điện, điện tử 315.008.637 18,94
2 Dệt, may mặc 300.742.337 18,08
3 Cơ khí, ngũ kim 199.718.120 12,01
4 Cao su, nhựa 115.132.649 6,92
5 Gỗ, giấy, bao bì giấy 138.863.322 8,35
6 Thực phẩm, đồ uống 130.828.050 7,87
7 Dụng cụ thể thao 14.280.000 0,08
8 Giày, dép, khuôn giày 118.109.855 7,10
9 Hoá chất, dược phẩm 59.458.763 3,58
10 Kim loại (gang, thép…) 25.574.528 1,54
11 Phi kim (gạch, gốm, thuỷ tinh…) 41.174.903 2,48
12 Ngành khác… 204.247.557 12,28
Tổng cộng 1.663.138.721 100,00
Nguồn: Ban quản lý KCN/KCX Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhận xét: Các dự án đầu tư vào những ngành nghề thâm dụng lao động như: dệt, may mặc, điện
- điện tử, chế biến thực phẩm, cơ khí. Trong suốt hơn 12 năm qua những ngành này luôn chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng vốn FDI tại các KCX, KCN. Điều này cho thấy có sự chuyển dịch cơ cấu
ngành thâm dụng lao động – giá nhân công cao ở các nước phát triển sang Việt Nam có nguồn
lao động dồi dào giá nhân công thấp. Đến nay, cơ cấu ngành bắt đầu có sự chuyển dịch từ thâm
dụng lao động phổ thông sang các ngành nghề sử dụng ít lao động và có trình độ chuyên môn
cao như ngành: công nghệ phần mềm, sản xuất vi mạch, chíp điện tử, dịch vụ,… Đây cũng là
dấu hiện cho thấy các doanh nghiệp FDI sau một thời gian hoạt động, các doanh nghiệp này đã
tìm được hướng phát triển mới và dần chuyển đổi cơ cấu ngành để có thể nâng cao hiệu quả vốn
đầu tư.
Nguyên nhân của thực trạng trên rất nhiều nhưng có thể nói rằng chất lượng nguồn nhân
lực đặc biệt nguồn lao động công nhân là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu
quả cũng như ngành nghề trong việc thu hút FDI tại địa phương này.
-31-
- Qui mô dự án: Trong các KCN/KCX cũng có xu hướng giảm tương tự như xu hướng
giảm của qui mô các dự án đầu tư nước ngoài trên phạm vi toàn quốc. Điều này trước hết cho
thấy sau giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á, các nhà đầu tư có vẻ không “mặn mà” với các
dự án qui mô lớn nữa mà chuyển sang các dự án có qui mô nhỏ, năng động hơn.
2.1.2.2. Những hạn chế của KCN/KCX dưới góc độ thu hút FDI
Như trên đã phân tích và nhận định, thu hút FDI vào các KCN/KCX bên cạnh những
thành tựu đóng góp không nhỏ cho công cuộc CNH – HĐH của Thành phố, cũng có thể chú ý
đến những hạn chế nhất định về hiệu quả hoạt động của khu vực FDI trong KCN/KCX. Với cơ
cấu ngành nghề như đang đầu tư trên thực tế, các KCN/KCX với chức năng chỉ gia công chế tác
xuất khẩu đã phát triển đến giai đoạn đòi hỏi nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh, dịch vụ
nhằm tạo năng lực phát triển mới để hoà nhập với xu thế chung của KCX thế giới. Sự chuyển
hướng chiến lược này còn quá chậm, nếu không sớm khắc phục sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển KCN/KCX của Việt Nam.
Tuy nhiên, về cơ bản các công nghệ phổ biến hiện nay ở các KCN/KCX vẫn nằm ở trình
độ trung bình hoặc thấp so với thế giới. Điều này được thể hiện ở năng lực xuất khẩu trên đầu
người thấp: 8.711USD so với 140.000USD ở các KCN/KCX tại Đài Loan. Nhìn chung do mặt
bằng công nghệ của cả nước thấp nên các công nghệ loại 2 và 3 đó vẫn được đánh giá cao hơn
mức bình thường. Bên cạnh đó do tình hình chất lượng đào tạo của Thành phố thấp, thiếu lao
động đã được đào tạo cả lao động giản đơn và lao động đã có tay nghề làm cho các nhà đầu tư
nước ngoài chưa sẵn lòng chuyển giao công nghệ hiện đại cũng như đầu tư vào những ngành sử
dụng hàm lượng chất xám cao.
Tóm lại, Việc hình thành và phát triển các KCN/KCX vừa là một nội dung, vừa là kết
quả của quá trình CNH – HĐH đất nước. CNH, HĐH là con đường cơ bản nhằm xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy tăng năng
suất lao động, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động, tạo nhiều
việc làm mới, đồng thời là quá trình phát triển văn hoá, xã hội một cách đồng bộ trên từng địa
bàn như TP.HCM và trong cả nước.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận rằng trên thực tế các KCN/KCX tại TP.HCM hầu như
chưa hoàn thành được những mục tiêu như mong đợi. Nhìn từ góc độ hiệu quả kinh tế các
KCN/KCX chưa thu hút được đầu tư từ các công ty xuyên quốc gia (TNCs) nắm giữ công nghệ
nguồn, sản xuất những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao và vốn đầu tư cho phát triển khoa
học – công nghệ, tạo động lực cho các KCN/KCX còn rất hạn hẹp. Tuy nhiên trong suốt quá
trình phát triển trong các KCN/KCX của TP.HCM cho thấy giai đoạn đầu thu hút đầu tư chủ yếu
là các ngành dệt, may, lắp ráp điện tử nhưng càng về sau đầu tư FDI hướng vào các lĩnh vực như
đúc chính xác, cơ khí, sản xuất phụ tùng, hộp số tự động ô tô, sản xuất cáp điện, sản xuất linh
-32-
kiện điện tử kể cả sản xuất “chip” điện tử ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm
lẫn kim ngạch xuất khẩu. Điều này chịu ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ
quan, đứng trên góc độ chủ quan chúng ta thấy rằng xu hướng này đang đặt ra một yêu cầu cấp
bách về nguồn lao động chất lượng cao sẵn có để đáp ứng và nắm bắt những cơ hội đầu tư mang
tính chiến lược, mục tiêu đã định.
2.2. Thực trạng lao động công nhân tại các Khu công nghiệp/Khu chế xuất TP.HCM
Cùng với cả nước TP.HCM là một trong những địa phương tiên phong trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Cơ hội để phát triển rất nhiều nhưng thử thách cũng không kém
phần khắc nghiệt. Rất nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ bằng con đường nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người là con đường ngắn nhất để tạo ra sức cạnh tranh
trong môi trường kinh doanh quốc tế đặc biệt là trong trào lưu của nền kinh tế tri thức. Thật vậy,
bất kỳ một doanh nghiệp hay một tổ chức nào dù có quy mô lớn đến đâu, hoạt động trong lĩnh
vực nào thì tầm quan trọng của yếu tố con người là một thực thể hiển nhiên không thể phủ nhận
được. KCN/KCX là một mô hình tuy đã có rất lâu trên thế giới nhưng vẫn còn rất mới mẻ tại
Việt Nam mà cụ thể là TP.HCM. Với mục đích ban đầu là hình thành một khu vực thuận lợi
nhằm thu hút đầu tư đặc biệt là FDI, thông qua đó sẽ giải quyết công ăn việc làm cho một lực
lượng đông đảo lao động địa phương. Thực tế cho thấy trên 12 năm hoạt động các KCN/KCX
đã thu hút, sử dụng và đào tạo nâng cao tay nghề cho số lớn lao động được tuyển dụng. Tuy
nhiên so với nhu cầu cần sử dụng lao động tại các KCN/KCX tại TP.HCM năm thì việc cung
ứng lao động mới chỉ đáp ứng khoảng 70%. Khan hiếm nhiều nhất là lao động cho ngành may
mặc chỉ đạt 30% nhu cầu tuyển dụng, chế biến thực phẩm và gia giầy chỉ khoảng 35%. Một số
phân tích các khía cạnh sau nhằm làm rõ về vấn đề đang được nêu ra ở trên.
2.2.1. Về số lượng lao động
2.2.1.1. Độ tuổi, giới tính
Trước yêu cầu CNH – HĐH của cả nước, TP.HCM hiện nay đang đối mặt với thực trạng
là đội ngũ lao động đã qua đào tạo đang bộc lộ nhiều hạn chế. Chưa xét đến những vấn đề đang
nổi cộm như chất lượng đào tạo, qui mô và số lượng đào tạo, tỷ lệ lao động được đào tạo ở các
ngành, lĩnh 8vực của nền kinh tế thì trong toàn bộ nền kinh tế, số lượng công nhân kỹ thuật bao
gồm cả có bằng và chưa có bằng chỉ chiếm 5,9%. Điều đáng lưu ý là đa số công nhân kỹ thuật
trước đây được đào tạo với mục tiêu thường chưa rõ ràng (nửa thầy, nửa thợ) nên hiện nay với
yêu cầu của trình độ kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã không còn phù hợp. Tình trạng thiếu
công nhân kỹ thuật, mất cân đối ngành nghề đào tạo đang gây rất nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như ba KCX Tân Thuận,
Linh Trung 1 và 2, theo số liệu do Trung tâm cung ứng lao động và Ban quản lý các KCN/KCX
cho biết thường trong tổng số 20.000 đơn xin việc chỉ tuyển dụng được 8.000 đơn đạt khoảng
-33-
40% chỉ tiêu yêu cầu. Điều này cho thấy tình trạng thiếu lao động kỹ thuật và thừa những người
có bằng đại học đang tập trung tại TP.HCM.
- Về quy mô số lượng lao động: Các KCN/KCX tại TP.HCM trong suốt chặng đường 14
năm qua đã tạo việc làm cho gần 170 nghìn lao động tính đến 31/12/2004.
Bảng 13. Số lượng lao động đang làm việc trong các KCN/KCX tại TP. HCM
STT Năm Số lao động bình quân (người) Tỷ lệ tăng (%)
1 1993 107
2 1994 1.238
3 1995 5.202 320,14
4 1996 11.155 114,43
5 1997 23.785 113,22
6 1998 33.794 42,08
7 1999 50.138 48,36
8 2000 77.677 54,92
9 2001 93.627 20,53
10 2002 108.384 15,76
11 2003 132.997 22,70
12 2004 170.186 24,45
Nguồn: Thống kê của phòng Quản lý lao động HEPZA
Nhận xét: Trong 5 năm đầu, tốc độ lao động tăng mạnh là do số lượng các doanh nghiệp đầu tư
vào KCX tăng rất nhanh, từ số liệu ban đầu rất thấp và khi KCX bắt đầu tạo ra sự hấp dẫn đặc
biệt. Trong giai đoạn 7 năm tính từ năm 1998, là giai đoạn mà sự phát triển đi dần vào thế ổn
định, lực lượng lao động hiện diện bình quân/ năm tại các KCN/KCX đã tăng lên gấp 3,3 lần với
mức tăng hàng năm từ 15,76% đến 54,92%, tốc độ tăng bình quân đạt 30,3%/năm. Dự báo từ
thực tế là nhu cầu lao động sẽ tăng nhanh trong thời gian tới với tốc độ tăng hàng năm không
dưới 15%.
- Về giới tính: Nét đặc trưng của lao động công nhân trong các KCN/KCX là lao động nữ
chiếm tỷ trọng rất cao, với số liệu cụ thể qua các năm như sau:
Bảng 14. Tỷ lệ lao động nữ qua các năm
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Tỷ trọng (%) 70% 74,37% 70,64% 70,95% 71,02% 68,16%
Nguồn: Thống kê của phòng Quản lý lao động HEPZA
Trong tổng số lao động trong trong các KCN/KCX, 90% lao động có độ tuổi từ 18 cho
đến 35, nữ chiếm khoảng 70% tính chung cho cả thời kỳ.
-34-
2.2.1.2. Nguyên nhân của hiện tượng trên
- Nguyên nhân tỷ lệ lao động nữ cao là vì các dự án trong KCN/KCX tập trung chủ yếu
vào các ngành công nghiệp chế biến như dệt, may, giầy dép, lắp ráp điện tử, cơ khí chính xác,
tức là những ngành đòi hỏi sự tỷ mỷ, nhẫn nại, do đó phù hợp nhiều hơn với lao động nữ.
- Nguyên nhân tỷ lệ lao động có tuổi tương đối trẻ trong KCN/KCX là do phần nhiều các
dự án có vốn FDI với thời gian hoạt động khoảng 40 – 50 năm, vì thế các nhà đầu tư nước ngoài
muốn sử dụng các lao động trẻ vừa có sức khoẻ vừa có khả năng nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật
mới, đồng thời sau khi được đào tạo tại doanh nghiệp, lao động trẻ có thời gian lao động lâu hơn
cho doanh nghiệp mình.
Nhận xét: Mặc dù Việt Nam có ưu thế về nguồn lao động dồi dào, giá rẻ nhưng trên thực tế nhu
cầu đáp ứng lao động cho các dự án FDI tại các KCN/KCX lại đang là vấn đề nghiêm trọng.
Trước hết là đang thiếu trầm trọng số lượng lao động công nhân một khi yêu cầu mở rộng và
tăng cường hợp tác đầu tư với các công ty xuyên quốc gia thì sự thiếu hụt này ngày càng lớn,
ngoài ra lao động công nhân (giản đơn và cả kỹ thuật) chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.2. Về chất lượng lao động
Nguồn lao động công nhân theo như trình bày và phân tích ở chương 1 bao gồm đầy đủ
hai khía cạnh là số lượng và chất lượng lao động. Nếu như số lượng lao động công nhân hiện
đang thiếu trầm trọng thì nguyên nhân sâu xa do không đáp ứng đủ tiêu chuẩn của các nhà tuyển
dụng. Lao động có tay nghề trong các khu chiếm khoảng 11%. Tình hình chung hiện nay tuy với
mức độ khác nhau, các ngành sản xuất đều “đói lao động đúng chuẩn”. Thực chất là tay nghề tạo
ra chưa bao quát hết nhu cầu, đồng thời kỹ năng được đào tạo có nhược điểm nổi bật là chưa
theo kịp tiến độ kỹ thuật công nghệ của thế giới và rất yếu về thực hành. Hay nói cách khác một
số lượng lớn lao động vừa dôi ra (thừa) nhưng lại thiếu là do chất lượng của lực lượng này đang
bộc lộ nhiều hạn chế nhất định. Chất lượng lao động là nhân tố mang tính chất quyết định, đột
phá làm cho lao động có năng suất cao hơn, là đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
bởi vì trong nền kinh tế thị trường và mở cửa người ta quan tâm chủ yếu đến chất lượng lao
động chứ không phải là khai thác số lượng lao động.
Thực tế chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển các KCN/KCX. Các
dự án đầu tư thu hút vào các KCN/KCX ở các địa phương có nhu cầu lớn về cán bộ quản lý
người Việt Nam giỏi, công nhân có tay nghề cao, kỷ luật lao động tốt, song đa số các nơi chưa
đáp ứng được. Đáng quan tâm là TP.HCM – nơi có nhiều KCN/KCX cũng như là địa phương đi
đầu trong thu hút FDI thời gian qua. Để có nhìn nhận đầy đủ về thực trạng này, tác giả lần lượt
phân tích chất lượng lao động công nhân dưới các tiêu chí sau.
-35-
2.2.2.1. Bậc thợ, tay nghề
Nếu như trước đây nguồn lao động nhiều và rẻ được xem là thế mạnh hàng đầu về nhân
lực thì ngày nay yếu tố chất lượng ngày càng được nhấn mạnh. Thật vậy, nhân tố đầu tiên cần
xem xét là bậc thợ tay nghề của nguồn lao động công nhân vì trong công cuộc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, thực hiện CNH - HĐH hướng về xuất khẩu thì rất cần những người lao động am hiểu và
có thể thao tác thành thục các động tác trên dây chuyền công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao
động. Theo thống kê hiện ở các KCN/KCX trên địa bàn Thành phố nếu chỉ tính riêng lao động
công nhân thì trình độ lao động giản đơn vẫn còn phổ biến.
Bảng 15. Tỷ trọng các loại lao động tại các KCN/KCX TP. HCM tính đến 31/12/2004
STT Trình độ Tỷ trọng (%)
1 Trung học phổ thông (tú tài hoặc hết lớp 12/12) 28,6
2 Phổ thông cơ sở (tốt nghiệp cấp 2 hoặc học hết lớp 9/12) 40,9
3 Tốt nghiệp cao đẳng, trung cấp 4,6
4 Tốt nghiệp đại học 5,2
5 Trình độ khác 24,7
Tổng cộng 100,0
Nguồn: Thống kê của phòng Quản lý lao động HEPZA
Từ bảng số liệu trên cho thấy trong tất cả các ngành thì lao động giản đơn vẫn chiếm một
tỷ trọng rất lớn. Nguyên nhân là do:
- Từ năm 2000 đến nay, ngành may công nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lớn và đặc biệt
sau khi Hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ được ký kết, đầu tư vào ngành may mặc
tăng cao dẫn đến thiếu hụt nhân lực nên lấy lao động đến lớp 9 rồi đào tạo may căn bản và công
đoạn, 2 tháng sau đó người lao động có thể làm việc được.
- Việc đào tạo ở các trường dạy nghề của địa phương chưa đảm bảo chất lượng của đầu
ra. Tuy số trường và trung tâm dạy nghề nhiều nhưng sự đào tạo hướng tới thị trường hay theo
yêu cầu đặt hàng của các doanh nghiệp chưa tương xứng. Thêm vào đó, chất lượng đào tạo của
các trung tâm dạy nghề còn thấp, giáo trình giảng dạy cũ kỹ, không cập nhật, học viên thiếu điều
kiện tiếp cận và thực hành với công nghệ mới và công nghệ cao. Vì thế theo các cuộc điều tra
đối với các doanh nghiệp FDI đều cho thấy họ đều phải đào tạo hoặc đào tạo thêm các công
nhân vào làm việc để cho công nhân biết sử dụng các thiết bị, vận hành dây chuyền sản xuất
mới, đảm bảo chất lượng của sản phẩm. Lý do chủ yếu của tình trạng này là trình độ tay nghề
được đào tạo còn cách xa yêu cầu của thực tế sản xuất. Sư yếu kém thể hiện ở các mặt:
+. Về lý thuyết: được trang bị thiếu tập trung chuyên sâu, “biết nhiều thứ nhưng
không tinh nhuệ thứ nào” do nội dung giảng dạy thiếu tập trung, thiếu bám sát yêu cầu của thực
-36-
tế sản xuất, khâu đào tạo tuột hậu so với khâu sử dụng.
+. Về thực hành: tình trạng chưa tinh nhuệ, chưa sắc xảo trong thao tác nghiệp vụ
cụ thể có thể là do khâu thực hành còn hạn chế về thời gian thực hành và chương trình thực hành
chưa phong phú, bên cạnh đó sự yếu kém về trang bị máy móc ở các phòng thí nghiệm, các
xưởng trường.
Thực trạng này đã được khẳng định trong dự thảo đề án của Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội về “Dạy nghề để đáp ứng lao động cho khu công nghiệp” là lực lượng lao động chưa
đáp ứng được nhu cầu lao động trình độ cao ở một số ngành sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến. Nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo ở các cơ sở dạy nghề còn quá rộng, chưa
linh hoạt và thích ứng nhanh với yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp.
Ngoài ra, quan điểm về cơ cấu đào tạo nghề của Việt Nam nói chung và Thành phố nói
riêng vẫn còn “lệch pha” rất nhiều so với khu vực và thế giới. Hầu như người Việt chúng ta vẫn
còn rất xem trọng bằng cấp trong xã hội mà chưa nghĩ đến hiệu quả và sự phù hợp của các loại
bằng cấp đó, cho nên nhiều ý kiến cho rằng hiện nay ta đang “thừa thầy, thiếu thợ” nhưng theo
quan điểm của tác giả thì ta đang “thiếu thầy (giỏi, có năng lực) lẫn thợ”. Bất cập trong cơ cấu
đào tạo có thể thấy qua bảng so sánh sau;
Bảng 16. So sánh cơ cấu đào tạo nghề nghiệp
Đại học Trung học chuyên nghiệp Công nhân kỹ thuật
Cơ cấu đào tạo hợp lý 1 4 10
Cơ cấu của Việt Nam hiện nay 1 1,5 3,5
Nguồn: Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội 2004.
Với cơ cấu đào tạo còn nhiều bất hợp lý như vậy việc thiếu lực lượng công nhân có tay
nghề là không thể tránh khỏi. Thực trạng này kéo theo trên thực tế hầu như các lĩnh vực đầu tư
vào KCN/KCX được các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn hàng đầu vẫn là những ngành thâm
dụng lao động mà chưa mạnh dạn đầu tư vào những ngành thâm dụng vốn, kỹ thuật như mong
đợi của chúng ta.
Theo thống kê số lượng lao động các doanh nghiệp KCX, KCN tuyển qua Trung tâm
dịch vụ việc làm của Hepza trong các năm gần đây nhất thì lao động đã qua đào tạo chỉ chiếm
20%, lao động phổ thông chiếm 80%.
Bảng 17. Đặc điểm lao động được tuyển dụng vào các KCN/KCX tại TP. HCM
2000 2001 2002 2003 2004
Tổng số lao động tuyển dụng 16.952 13.238 23.990 18.140 16.159
Trong đó: - Lao động đã qua đào tạo 3.390 2.647 4.798 3.628 3.231
- Lao động phổ thông 13.562 10.591 19.192 14.512 12.928
Nguồn: Thống kê của Trung tâm Dịch vụ Việc làm Hepza
-37-
Mặc dù đây là số liệu chưa đầy đủ vì Trung tâm chỉ là một trong những kênh tuyển dụng
lao động cho các doanh nghiệp KCN/KCX, nhưng số liệu phần nào vẫn cho thấy tình trạng lao
động phổ thông vẫn là phổ biến và chiếm đại đa số.
2.2.2.2. Ngành nghề lao động
Do hầu hết lực lượng lao động công nhân đã và đang làm việc tại các KCN/KCX hạn chế
về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ tay nghề nên những ngành nghề mà họ có xu hướng tập
trung nhiều đó là những ngành có yêu cầu kỹ thuật, thao tác giản đơn không đòi hỏi độ xử lý
phức tạp khéo léo của người đảm trách công việc. Thực tế cho thấy nhiều nhu cầu về lao động
chỉ được đáp ứng bằng tay nghề từ các nguồn đào tạo dân gian, làng nghề như tay nghề về chế
tạo đồ gỗ, tay nghề may, cắt và thiết kế hàng may (đặc biệt là may hàng đặc chủng như đồ phục
vụ cho ngựa và kỵ sĩ, may trang phục đi mưa, găng tay, lều, mũ…). Hậu quả kéo theo của tình
trạng này là tồn tại hiện tượng “câu kéo” lao động nhau trong nội bộ ngành hàng, thậm chí trong
mỗi khu.
Bảng 18. Tình hình lao động theo ngành nghề trong KCN, KCX tính đến hết năm 2003
Lao động
STT Ngành sản xuất Số doanh nghiệp
Số lượng (người) Tỷ lệ (%)
1 May 143 25.208 18,95
2 Giày 19 30.884 23,22
3 Cơ khí 128 11.557 8,70
4 Điện, điện tử 30 13.361 10,04
5 Dệt 24 3.937 2,94
6 Nhựa, cao su 96 7.874 5,92
7 Thực phẩm 97 3.903 2,93
8 Khác 317 36.273 27,3
Tổng cộng 854 132.997 100,00
Nguồn: Ban Quản lý các KCN/KCX TP.HCM
Có khoảng 80% lao động trong các KCN/KCX làm việc trong các ngành công nghiệp
nhẹ và dịch vụ trong đó chiếm đại đa số là công nhân trực tiếp sản xuất, tạp vụ và lao công. Các
ngành thu hút nhiều lao động phổ thông như giầy dép, may mặc, lắp ráp linh kiện điện tử.
Nguyên nhân của hiện tượng phổ biến này là do:
- Đây là những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, thường đạt 40 - 60% thể hiện rõ trong
mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài vì đã có sẵn thị trường, bảo toàn vốn và thu được lợi
nhuận nhanh và nhiều.
- Tay nghề của lao động bản xứ có hạn, không thể và khó khăn trong việc chuyển giao
-38-
những công nghệ hiện đại (dù muốn hay không muốn) vì khó khăn trong việc tuyển dụng lao
động đúng ngành nghề, ngược lại họ phải tốn một khoản chi phí không nhỏ cho việc đào tạo
huấn luyện lao động làm quen và biết vận hành các trang thiết bị đó.
2.2.2.3. Nguồn gốc lao động
Thành phố Hồ Chí Minh với đặc trưng là một vùng đất mới (300 năm tuổi), tuy nhiên lại
là địa phương luôn đi đầu trên tất cả các phương diện về phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó
trong gần hai thập niên trở lại đây với xu hướng công nghiệp hoá, hình thành rất nhiều cụm công
nghiệp, nhà máy thông qua việc thu hút FDI ngày càng tăng. Điều này một mặt góp phần đẩy
mạnh hơn nữa bước tăng trưởng và phát triển của Thành phố đã đề cập ở phần [2.1]. Những thành
tựu nêu trên có phần đóng góp mang tính quyết định đó là nguồn nhân lực của Thành phố và
một phần đóng góp không nhỏ nguồn lao động nhập cư đến từ các tỉnh thành khác trong cả
nước.
Bảng 19. Đặc điểm lao động đã qua đào tạo trong các KCN/KCX trên địa bàn TP.HCM
STT Ngành nghề 2000 2001 2002 2003 2004
Lao
động
Thành
phố
Lao
động
nhập
cư
1 Kế toán 38 31 55 42 37
2 Phiên dịch 49 39 70 53 47
3 Kỹ sư công nghệ 31 25 45 34 30
4 Quản lý 45 35 63 48 42
5 Xuất nhập khẩu 12 10 17 13 12
80% 20%
6 Dệt, may, giày 799 624 1.131 855 762
7 Điện, điện tử 447 348 632 477 426
8 Cơ khí 392 306 553 419 374
9 Giấy, bao bì 302 235 428 323 288
10 Thực phẩm 282 219 399 301 268
11 Nhựa cao su 249 195 352 267 237
12 Hoá chất 191 149 271 205 182
13 Khác 553 431 782 591 526
60% 40%
Tổng cộng 3.390 2.647 4.798 3.628 3.231
Nguồn: Thống kê của phòng Quản lý lao động HEPZA, 2004
Thật vậy, do tốc độ phát triển kinh tế và quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng ở các
vùng đô thị, những diễn biến bất lợi về giá cả cho nông nghiệp, rủi ro do thiên tai, những khác
-39-
biệt trong khả năng tiếp cận đến cơ hội việc làm dẫn đến sự khác biệt về khả năng chuyển dịch
cơ cấu lao động, việc làm, sản xuất. Nếu chỉ phân tích số lượng lao động phổ thông thì tỷ lệ giữa
lao động nhập cư và lao động thành phố như sau:
Bảng 20. Đặc điểm lao động phổ thông trong các KCN/KCX trên địa bàn TP. HCM
STT Năm
Tổng số
lao động
Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3
LĐ Thành
phố
LĐ nhập
cư
1 2000 13.562 4.068 4.883 4.611
2 2001 10.591 3.177 3.814 3.600
3 2002 19.192 5.757 6.909 6.526
4 2003 14.512 4.353 5.224 4.953
5 2004 12.928 3.878 4.654 4.396
40% 60%
Nguồn: Thống kê của phòng Quản lý lao động HEPZA, 2004
Vì hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong các KCN/KCX tập trung chủ yếu vào các
ngành công nghiệp nhẹ như đã đề cập ở trên, nên chỉ xét riêng lĩnh vực công nghiệp tỷ lệ lao
động nhập cư chiếm khoảng 60%. Nguyên nhân của hiện tượng này là do:
- Quan hệ cung cầu của thị trường lao động.
- Chênh lệch về thu nhập giữa các thành phố lớn, hay giữa thành thị và nông thôn.
Hiện tại các dòng di chuyển lao động về TP.HCM chủ yếu là di chuyển từ Bắc và miền
Trung vào Nam, di chuyển lao động giữa các ngành hoặc khu vực kinh tế, và từ nông thôn ra
thành thị. Như vậy số lao động này cũng phải có bước chuyển đổi từ lối sống nông thôn sang lối
sống thành thị. Họ là những người vừa gìn giữ văn hoá truyền thống làng xã, nơi quê cha đất tổ,
vừa tiếp thu thích ứng và phát triển yếu tố văn hoá mới nơi nhập cư, chuyển đổi thành người
công nhân, gắn bó với văn hoá công nghiệp.
Nguyên nhân của những dòng nhập cư là do TP.HCM hiện có điều kiện phát triển kinh tế
tốt hơn, kể cả nguồn tài nguyên thiên nhiên và trình độ phát triển kinh tế. Đáng lưu ý là dòng di
chuyển lao động mạnh nhất hiện nay vẫn là từ nông thôn ra các vùng đô thị. Cụ thể là người lao
động ở khắp mọi nơi và làm mọi công việc, một số do bị giải phóng mặt bằng phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá buộc phải di cư đến TP.HCM với mong muốn dễ tìm kiếm việc làm và
đặc biệt có thể kiếm được mức thu nhập cao hơn tại địa phương mình. Đi sâu tìm hiểu đặc trưng
của nguồn lao động công nhân tại Thành phố có thể phát hiện ra những vấn đề như sau:
- Đối với nguồn lao động công nhân chưa qua đào tạo là người Thành phố: họ cũng chưa
quan tâm đúng mức đến việc trang bị tay nghề, thường có tâm lý ỷ lại cho nên không chịu học
hỏi nâng cao trình độ chuyên môn. Nhược điểm chung của đối tượng này là ít có tư tưởng gắn
bó với con đường kiến tạo sự nghiệp từ thực tế sản xuất của doanh nghiệp. Đa số họ vẫn nuôi
-40-
hoài bão về con đường vào đại học, cao đẳng. Do đó thiếu sự gắn bó với doanh nghiệp, chưa
thật sự dấn thân vào con đường phấn đấu tiến thân từ “lò đào tạo” tại doanh nghiệp, và hệ quả là
thường từ bỏ công việc đang làm , tìm “tổ ấm” mới. Ngoài ra, môt lực lượng lao động từ các
vùng ven của TP.HCM như Cần Giờ họ cũng di cư về những vùng thành thị để kiếm việc làm.
Đặc điểm của lao động nông thôn này là kém hiểu biết về lao động công nghiệp mà chủ yếu
tranh thủ khi nhàn nông đi tìm việc làm, khi vào vụ lại trở về quê để tiếp tục tăng gia sản xuất.
- Đối với nguồn lao động nhập cư từ các tỉnh thành khác đến có thể chia làm hai nhóm:
+. Đã được đào tạo, có tay nghề, chịu khó học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn:
đây là một lực lượng lao động tích cực, là nguồn bổ sung quan trọng vào lực lượng lao động
đang thiếu hụt trước yêu cầu của các doanh nghiệp FDI tại Thành phố. Nguyên nhân của việc di
chuyển chủ yếu là do mức thu nhập ở Thành phố cao hơn và dễ dàng tìm kiếm công việc thích
hợp cho bản thân hơn tại địa phương của mình.
+. Không có nghề, chưa qua khoá đào tạo cơ bản nào về lao động do đó họ phải
đối mặt với không ít khó khăn trong công việc, thường chỉ đảm trách những công việc cực kỳ
giản đơn và thường khó tiếp thu những ứng dụng vận dụng thao tác máy móc. Điều này một mặt
làm cho các nhà tuyển dụng ái ngại, mặt khác làm hạn chế năng suất lao động xét trên bình diện
hiệu quả kinh tế.
Tóm lại: Các KCN/KCX TP.HCM không những thu hút lao động ở các địa phương trên
địa bàn mình mà còn thu hút lao động ở các địa phương khác. Thu hút lao động vào các
KCN/KCX cũng góp phần tác động thêm vào hiện tượng di cư lao động trong quá trình công
nghiệp hoá. Lao động từ vùng nông thôn, các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và ít có
cơ hội việc làm thường có xu hướng chuyển sang các vùng công nghiệp, thuận lợi cho việc tìm
kiếm việc làm và có thu nhập cao hơn như TP.HCM tạo nên làn sóng nhập cư ào ạt trong những
năm gần đây gây ra những tác động không nhỏ đến qui hoạch chiến lược phát triển chung của
Thành phố.
2.2.2.4. Tính ổn định của nguồn lao động
Do đặc thù về nguồn gốc của lao động tại các KCN/KCX TP.HCM như đã phân tích ở
trên, do đó tính ổn định qui cũ của nguồn lao động tại đây chưa đuợc đảm bảo. Một bộ phận
không nhỏ trong đó chưa có mục tiêu và kế hoạch lập nghiệp rõ ràng: họ sẵn sàng thôi việc cũ
để chuyển sang một việc mới có mức thu nhập cao hơn một chút, hoặc có thể do không đáp ứng
được yêu cầu công việc được giao.
Một lý do quan trọng không kém là lao động nông thôn khi di chuyển vào TP.HCM để
làm việc phần lớn họ là nông dân, quan trọng hơn họ là những lao động chính của các hộ nông
dân ở quê nhà, trong thời gian nông nhàn họ tìm cách đi vào TP.HCM để cải thiện thu nhập
nhưng không ảnh hưởng đến công việc của họ. Nhưng khi đến thời vụ, họ là bộ phận không thể
-41-
thiếu ở địa phương, điều này tạo ra tính thời vụ của lao động nhập cư có nguồn gốc nông thôn.
Lao động nhập cư trên 30 tuổi hoặc từ các tỉnh vào (không phải lao động nông thôn), họ
cũng có xu hướng sau một thời gian làm việc và dành dụm một ít vốn trở về lại quê hương để
sinh sống vì tuổi lớn họ không còn các doanh nghiệp ưa chuộng và dễ bị đào thải. Mặt khác hiện
nay hầu như các địa phương (đặc biệt ở miền Trung và các tỉnh lân cận TP.HCM) có xu hướng
xây dựng các KCN và dĩ nhiên cũng cần đội ngũ lao động công nhân, nên số lao động nói trên
họ sẽ tính toán lại và có khuynh hướng trở về nơi xuất cư để làm việc vì họ cảm thấy thuận tiện
và thích hợp hơn. Chỉ có lao động nhập cư tuổi còn trẻ, có ý vươn lên, chịu khó học nghề hoặc
đã có được đào tạo tay nghề thường có xu hướng “bám trụ” tại Thành phố vĩnh viễn.
Như vậy, trong điều kiện làm việc đòi hỏi phải có tính ổn định cao thì xét từ góc độ người
lao động ta nhận thấy chưa đáp ứng được và dĩ nhiên điều này cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
thu nhập của người lao động, đến việc làm quen với hệ thống dây chuyền làm việc và không thể
nâng cao năng suất lao động khi phải liên tục làm lại từ đầu ở môi trường làm việc mới khác.
2.2.2.5. Tính kỷ luật, ý thức của nguồn lao động
Thực tiễn hoạt động của KCN/KCX TP.HCM chứng minh rằng đại bộ phận người lao
động của ta hiện nay chưa được đào tạo về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn trong số họ là
lao động xuất thân từ nông nghiệp, nông thôn còn mang nặng tác phong sản xuất của một nền
kinh tế tiểu nông, tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động công nhân hầu như chưa được
trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có khả năng hợp tác và gánh chịu
rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Ý thức chấp hành kỷ luật lao động kém, hiểu biết kiến thức về luật pháp, kiến thức về đất
nước, văn hoá phong tục tập quán của các chủ doanh nghiệp FDI chưa cao, nên trong thực tế đã
xảy ra không ít các vụ tranh chấp lao động, xô xát, hành hung giữa những người lao động với
nhau. Họ luôn xem bản thân là những người đi làm thuê cho các “ông chủ”, do đó thiệt hại của
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất ngoài nguyên nhân khách quan thì chủ yếu người lao
động vẫn còn xem việc đó không ảnh hưởng đến lợi ích riêng của bản thân. Điều này dẫn đến
đôi lúc họ không có ý thức tốt trong việc bảo quản các dụng cụ làm việc, tìm mọi cách để tiết
kiệm hao phí lao động, nâng cao năng suất mà chủ yếu làm rập khuôn theo theo những gì đã có.
Chưa kể đến việc bớt xén thời gian lao động (dù bị kiểm tra rất gắt gao) như trong lúc đi vệ sinh.
Tất cả những hành vi đó xuất phát từ một bộ phận lao động công nhân làm cho sự tin tưởng và
gắn kết giữa lãnh đạo và người làm công chưa dựa trên những chuẩn mực nhất định mà tiềm ẩn
những mối ngờ vực lẫn nhau. Kết quả là đã có xảy ra môt số vụ ẩu đả, đình công, bãi công do
mâu thuẩn giữa chủ và thợ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà nguồn gốc ban
đầu xuất phát từ những vụ vi phạm kỷ luật lao động công nghiệp, từ ý thức kỷ luật lao động kém
của bản thân người lao động. Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng đình công là một việc làm đúng
-42-
pháp luật nếu được tổ chức một cách quy cũ (có đăng ký và báo trước hoặc có Tổ chức công
đoàn của doanh nghiệp đứng ra tổ chức). Nhưng trên thực tế thì hầu hết các cụôc đình công hiện
nay của người lao động (chủ yếu ở các doanh nghiệp FDI) lại mang tính tự phát, thiếu tổ chức,
phân tán, manh mún. Điều này làm cho họ dễ bị các chủ doanh nghiệp dựa vào đó sa thải hoặc
cho thôi việc khi kết thúc hợp đồng.
Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế của tập thể người lao động,
thông qua việc ngừng việc, gây sức ép với người sử dụng lao động buộc họ phải có nhượng bộ
nhất định để đáp ứng yêu cầu của người lao động. Xét về mặt xã hội, đình công có những mặt
tích cực, song nó cũng có những mặt tiêu cực, gây ra sự ngừng trệ sản xuất, ảnh hưởng không
nhỏ đến nhu cầu sinh hoạt bình thường của xã hội. Dưới góc độ pháp lý, luật pháp của nhiều
nước đều khẳng định đình công là quyền của người lao động. Bộ luật lao động của Việt Nam
quy định “người lao động có quyền đình công theo quy định của pháp luật”, tuy nhiên xét về
mặt hình thức những quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tương đối chặt chẽ làm
hạn chế tối đa quyền đình công của người lao động. Do đó theo báo cáo của Liên đoàn lao động
Thành phố cho đến nay chưa có cuộc đình công nào được coi là hợp pháp và cũng chưa có cuộc
đình công nào được đưa ra Toà án giải quyết. Khi xảy ra đình công thì chủ yếu là do chính
quyền, các ngành chức năng, công đoàn và công an can thiệp.
Bảng 21. Số vụ đình công chia theo loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam
2002 2003 2004
Tổng số
Trong đó:
- Doanh nghiệp Nhà nước
- Doanh nghiệp FDI
- Doanh nghiệp tư nhân
78
6
49
23
86
5
53
28
93
3
60
30
Nguồn: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, 2004.
Qua bảng trên cho thấy số vụ đình công ở khu vực FDI có xu hướng tăng lên, vì vậy cần
có giải pháp thoả đáng và có hiệu quả để giải quyết mối quan hệ chủ - thợ ở khu vực kinh tế này.
Vì vậy, để hình thành tác phong công nghiệp đòi hỏi phải có sự nổ lực của bản thân người lao
động, sự giúp đỡ của doanh nghiệp và lãnh đạo địa phương. Trong đó tại các tỉnh trọng điểm
phía Nam thì các cuộc đình công xảy ra chủ yếu ở TP.HCM và có khuynh hướng gia tăng ở khu
vực này. Nguyên nhân đây là nơi có nhiều doanh nghiệp FDI và thu hút nhiều lao động trẻ từ
nông thôn ra, phần lớn trong số họ không được đào tạo cơ bản nhất là hiểu biết về Luật lao
động.
Bên cạnh đó tính ỷ lại, sức ỳ lớn vẫn còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ người lao
động. Nguyên nhân là do trước đây việc áp dụng và duy trì quá lâu mô hình kinh tế theo cơ chế
-43-
hành chính tập trung quan liêu bao cấp tác động làm hạn chế sự phát triển những phẩm chất mới
của người lao động trong xã hội hiện đại ngày nay. Kinh tế thị trường, sự cạnh tranh chưa được
nhìn nhận đúng đắn nên đã hạn chế tinh thần tự do sáng tạo, tính táo bạo và sự nổ lực vươn lên
của người lao động. Thêm nữa do Nhà nước bao cấp qua hệ thống giá thấp, lương hiện vật và tín
dụng ưu đãi kéo dài đã tạo cho người lao động thói ỷ lại, thiếu tinh thần chủ động linh hoạt trong
sản xuất. Cá nhân ỷ vào tập thể,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 434541.pdf