Tài liệu Luận văn Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA
-- --
Dƣơng Xuân Hùng
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ
VỆ SINH MÔI TRƢỜNG CỦA NGƢỜI DÂN Ở HAI XÃ
VÙNG SÂU HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
THÁI NGUYÊN 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA
-- --
Dƣơng Xuân Hùng
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ
VỆ SINH MÔI TRƢỜNG CỦA NGƢỜI DÂN Ở HAI XÃ
VÙNG SÂU HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành Y học dự phòng
Mã số: 60.72 .73
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS Đàm Khải Hoàn
THÁI NGUYÊN – 2008
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Tình hình vệ sinh môi trường. 3
1.1.1. Các khái niệm cơ bản. 3
1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường. 4
1.2. Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường.
11
1.2.1 Một số khái niệm về kiến thức, thái độ, thực
hành
11
1.2.2 Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ,
thực hành vệ...
89 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA
-- --
Dƣơng Xuân Hùng
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ
VỆ SINH MÔI TRƢỜNG CỦA NGƢỜI DÂN Ở HAI XÃ
VÙNG SÂU HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
THÁI NGUYÊN 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA
-- --
Dƣơng Xuân Hùng
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ
VỆ SINH MÔI TRƢỜNG CỦA NGƢỜI DÂN Ở HAI XÃ
VÙNG SÂU HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành Y học dự phòng
Mã số: 60.72 .73
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS Đàm Khải Hoàn
THÁI NGUYÊN – 2008
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Tình hình vệ sinh môi trường. 3
1.1.1. Các khái niệm cơ bản. 3
1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường. 4
1.2. Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường.
11
1.2.1 Một số khái niệm về kiến thức, thái độ, thực
hành
11
1.2.2 Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ,
thực hành vệ sinh môi trường của người dân
13
1.2.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường.
14
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 21
2.1 Đối tượng nghiên cứu 21
2.2 Địa điểm nghiên cứu 21
2.3 Thời gian nghiên cứu 22
2.4 Phương pháp nghiên cứu 22
2.4.1. Phương pháp chọn mẫu 23
2.4.2. Chỉ số nghiên cứu 23
2.4.3. Kỹ thuật thu thập thông tin và công cụ nghiên
cứu
27
2.4.4. Phương pháp khống chế sai số 28
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 28
2.4.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 29
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 30
3.1. Tình hình chung ở các điểm điều tra 30
3.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh
môi trường của người dân tại các xã nghiên cứu
33
3.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh
môi trường của người dân ở các điểm điều tra
39
3.4 Một số kết quả nghiên cứu định tính. 43
Chƣơng 4: BÀN LUẬN 47
4.1. Tình hình kinh tế văn hoá xã hội ở các điểm
điều tra
47
4.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ
sinh môi trường của người dân ở hai xã điều tra.
51
4.3. Mối liên quan giữa các yếu tố với thực hành
về vệ sinh môi trường của người dân
57
KẾT LUẬN 71
KHUYẾN NGHỊ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
PHỤ LỤC 79
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐBV : Biết đọc biết viết
BVTV : Bảo vệ thực vật
CS : Cộng sự
ĐTNNNTTS : Điều tra nông nghiệp nông thôn và thủy sản
HX : Hố xí
KAP : Knowledge Attitude Practice
(Kiến thức, thái độ, thực hành)
PTTT : Phương tiện truyền thông
TC : Tiêu chuẩn
TH : Tiểu học
THCS : Trung học cơ sở
UNEP : United Nations Evironment Programme
(Chương trình môi trường Liên hiệp quốc)
UNICEF : United Nation Children's Fund
(Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc)
VS : Vệ sinh
VSMT : Vệ sinh môi trường
WHO : World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Thứ tự Tên bảng Trang
Bảng 3.1 Phân bố đối tượng điều tra theo tuổi. 30
Bảng 3.2 Thông tin về các đối tượng điều tra 31
Bảng 3.3 Nguồn truyền thông về vệ sinh môi trường 32
Bảng 3.4 Kết quả điều tra về nguồn nước 33
Bảng 3.5 Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về
nguồn nước.
34
Bảng 3.6 Kết quả điều tra về quản lý phân 35
Bảng 3.7 KAP của người dân về quản lý phân. 35
Bảng 3.8 KAP của người dân về chuồng gia súc 36
Bảng 3.9 Thái độ và thực hành của người dân về hoá chất
bảo vệ thực vật.
37
Bảng 3.10 KAP của người dân về vệ sinh môi trường 38
Bảng 3.11 Mối liên quan giữa tình hình kinh tế
với thực hành vệ sinh môi trường của người dân
39
Bảng 3.12
Mối liên quan giữa phương tiện truyền thông với
thực hành vệ sinh môi trường của người dân
40
Bảng 3.13 Mối liên quan giữa trình độ học vấn của người dân
với thực hành về vệ sinh môi trường
40
Bảng 3.14 Mối liên quan giữa lứa tuổi của người dân với
thực hành về vệ sinh môi trường
41
Bảng 3.15 Mối liên quan giữa giới của người dân với thực
hành về vệ sinh môi trường
41
Bảng 3.16 Mối liên quan giữa thành phần dân tộc của người
dân với thực hành về vệ sinh môi trường
42
Bảng 3.17 Mối liên quan giữa kiến thức
của người dân với thực hành về vệ sinh môi tr-
ường
42
Bảng 3.18 Mối liên quan giữa thái độ của người dân với thực
hành về vệ sinh môi trường
43
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Thứ tự Tên biểu Trang
Biểu đồ 3.1 Phân bố đối tượng theo giới 30
Biểu đồ 3.2 Tình hình kinh tế của các hộ điều tra 31
Biểu đồ 3.3 Tình hình PTTT của các hộ điều tra 32
Biểu đồ 3.4 KAP của người dân về nguồn nước 34
Biểu đồ 3.5 KAP của người dân về quản lý phân 36
Biểu đồ 3.6 KAP của người dân về chuồng gia súc 37
Biểu đồ 3.7 KAP của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật 38
Biểu đồ 3.8 KAP của người dân về vệ sinh môi trường 39
Biểu đồ 4.1 So sánh tỷ lệ hộ gia đình có hố xí và hố xí hợp
vệ sinh tại 2 xã nghiên cứu với một số nghiên
cứu và điều tra khác.
52
Biểu đồ 4.2 So sánh tỷ lệ hộ gia đình có nước sạch với một
số nghiên cứu khác.
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vệ sinh môi trường là một trong những vấn đề được quan tâm không chỉ
ở phạm vi một quốc gia, một khu vực mà đang là vấn đề được quan tâm trên
phạm vi toàn cầu bởi tầm quan trọng của nó với sức khỏe con người [48].
Chính vì vậy trong các chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống cho người
dân ở vùng nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, miền núi ở nước ta hiện nay
thì vệ sinh môi trường nông thôn là một vấn đề được Đảng, Nhà nước quan
tâm đặc biệt và xác định là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát
triển khu vực này. Trong nhiều năm qua, công tác này đã liên tục được đề cập
đến trong nhiều loại văn bản của Đảng, Nhà nước như nghị quyết Trung ương
VIII, IX, chiến lược toàn diện về tăng trưởng xóa đói, giảm nghèo, chiến lược
quốc gia về nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2000 - 2020
[5], nhằm tăng nhanh tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch và có
nhà tiêu hợp vệ sinh, thực hiện mục tiêu cải thiện điều kiện sống và sức khỏe
của người dân nông thôn, góp phần thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo
và từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đặc biệt đối với các vùng
cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người [3].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội tại
khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người vẫn còn
rất thấp kém. Mức sống chung của người dân còn thấp, trình độ dân trí chưa
được nâng cao, phong tục tập quán còn lạc hậu, hệ thống đường giao thông
khó khăn, điều kiện chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội còn thiếu thốn. Bên cạnh
tình trạng bệnh tật nói chung, tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây
ra đang là vấn đề đáng lo ngại, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và sự phát
triển ở những khu vực khó khăn này [1], [2], [3], [8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Huyện Đồng Hỷ thuộc tỉnh Thái Nguyên là một huyện miền núi, điều
kiện về kinh tế - văn hoá - xã hội chưa được tốt, những xã vùng cao, vùng
sâu, vùng đặc biệt khó khăn của huyện đang là trăn trở của các nhà quản lý.
Do địa bàn sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội
của người dân ở các bản vùng cao, vùng sâu còn rất thấp, nhất là hành vi về
vệ sinh môi trường [19], [20], [28]. Đây chính là lý do để chúng tôi xây dựng
đề tài: “Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của
người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”.
Mục tiêu nghiên cứu
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường
của người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trường
của người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Tình hình vệ sinh môi trƣờng
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Khái niệm môi trường
- Theo nghĩa rộng: Là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng
đến một vật thể hay một sự kiện [42].
- Đối với con người: Môi trường sống là tổng hợp các điều kiện vật lý,
hoá học, sinh học, kinh tế, xã hội bao quanh và ảnh hưởng đến sự sống, sự
phát triển của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Môi trường bao gồm môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội.
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng,
bức xạ, nồng độ các chất hoá học có trong đất, nước, không khí, các vi sinh
vật....
Môi trường xã hội bao gồm vấn đề chính trị, đạo đức, tôn giáo, văn
hoá, pháp luật, phong tục, tập quán, văn hoá ứng xử, chính sách...
Ngày nay, môi trường hài hoà với sức khoẻ gắn liền với việc sử dụng
hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường phát triển bền vững, đảm bảo gắn chặt
phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và phát triển văn hoá [10].
*Khái niệm về sức khoẻ: Theo Tổ chức Y tế Thế giới: “ Sức khoẻ là
trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ
đơn thuần là không có bệnh hay tật” [23].
Theo định nghĩa đó sức khoẻ bao gồm ba khía cạnh: Sức khoẻ về thân
thể, sức khoẻ về tinh thần, sức khoẻ về xã hội. Cả ba mặt này làm thành một
thể thống nhất tác động qua lại lẫn nhau không thể coi nhẹ một mặt nào. Một
tinh thần khoẻ mạnh chỉ có được trong một cơ thể khoẻ mạnh và trong một xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
hội lành mạnh. Trạng thái sức khoẻ con người là tiêu chuẩn tổng hợp nhất của
tình trạng môi trường.
1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường
1.1.2.1. Tình hình chung: Theo báo cáo Y tế Thế giới năm 2002, nước và hố
xí không hợp vệ sinh đứng thứ 10 về các yếu tố đóng góp vào gánh nặng bệnh
tật trong các nước đang phát triển như nước ta [9], [48].
* Về nguồn nước: Nước phục vụ cho ăn uống sinh hoạt của con người và
là nhu cầu không thể thiếu được. Đồng thời nước cũng là môi trường trung
gian truyền bệnh cho người, đặc biệt là các bệnh đường tiêu hoá. Theo Tổ
chức y tế thế giới (WHO) và Quĩ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF): Nước
sạch là nước máy, giếng khoan, giếng khơi, nước mưa, nước suối được bảo vệ
[9]. Với định nghĩa như vậy, báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia 2001-2002
đã so sánh tỷ lệ người thành thị và nông thôn được tiếp cận với nước sạch ở
Việt Nam so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á: Ở thành thị nước
ta có 95% dân số được tiếp cận với nước sạch, tỷ lệ này ở Thái Lan cũng là
95%, ở Philippin 92%, Indonesia 90% và Campuchia là 45%. Còn khu vực
nông thôn, tỷ lệ dân số được tiếp cận với nước sạch ở nước ta là 71%, ở Thái
Lan là 81%, Philippin 79%, Indonesia 69% và Campuchia là 26% [9].
Như vậy ở nước ta, tỷ lệ người ở thành thị tiếp cận với nước sạch khá
cao (95%), ngang bằng với Thái Lan và cao hơn Philippin và Indonesia.
Nhưng ở nông thôn, tỷ lệ này thấp hơn Thái Lan và Indonesia. Trên thế giới,
theo báo cáo của UNEP về tình hình thực hiện thập kỷ cung cấp nước và vệ
sinh môi trường từ năm 1990 đến năm 2000, ở thời điểm năm 2000 có 82%
dân số thế giới được cung cấp nước sạch còn 18% không được cung cấp nước
sạch hoặc trong tình trạng thiếu sinh hoạt và ăn uống, trong số đó 63% thuộc
Châu Á và 28% ở Châu Phi, trong khi tỷ lệ này tương ứng ở Châu Mỹ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Châu Âu là 7% và 2%. Điều đó cho thấy các nước đang phát triển và kém
phát triển thì tỷ lệ dân số không được cung cấp nước sạch rất cao [50].
Theo qui định của Bộ Y tế nước ta: nước máy, nước mưa, nước giếng
khoan, nước máng lần không có nguồn ô nhiễm trong vòng 7 m tính từ nguồn
nước được coi là nước sạch. Theo qui định này thì hiện nay 80% dân số nước
ta đang ăn uống bằng nguồn nước sạch. Tuy nhiên ở nước ta, nước giếng
khoan, nước máng lần, nước giếng khơi nếu sử dụng để ăn uống ngay mà
không qua xử lý sẽ không đảm bảo vệ sinh và không coi là nguồn nước sạch
được [9].
Theo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002: tỷ lệ người dân
được sử dụng một số nguồn nước cho ăn uống và sinh hoạt ở nước ta năm
1992 như sau: 20% dân số dùng nước máy, 12% dùng nước giếng khoan, 4%
dùng nước mưa, 11% dùng nước giếng khơi, 20% dùng nước sông hồ [9].
Năm 1997 tỷ lệ này tương ứng là 30,6%, 15%, 13%, 10% và 12%. Năm 2001
tỷ lệ dân số sử dụng các nguồn nước trên tương ứng là 45,9%, 16%, 21%,
14% và 10% [9].
Kết quả trên cho thấy, ở nước ta vào thời điểm năm 2001, tỷ lệ số dân
sử dụng nước máy cao nhất với 45,9%; 16% dân số sử dụng nguồn nước
giếng khoan và 14% sử dụng nước giếng khơi. Kết quả trên cũng cho thấy, tỷ
lệ số hộ dân sử dụng nguồn nước sạch như nước máy tăng nhanh qua các năm
và tỷ lệ dân số sử dụng nguồn nước sông hồ có giảm đi. Nhưng theo báo cáo
của Bộ y tế chỉ 1/3 dân số xử lý nước trước khi sử dụng. Hơn 1/3 dân số dùng
nước giếng khơi và nước mưa để ăn uống nhưng trong đó chỉ có 2,9% dân số
sử dụng nước có xử lý, còn 23,4% dùng nước không xử lý và 8,5% dùng nước
gần nguồn ô nhiễm [9].
Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 8,28% số hộ nông thôn dùng nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
máy để nấu ăn (Trong đó xã miền núi là 3,03% số hộ, xã vùng cao là 2,60%).
Tỷ lệ hộ dân dùng nước giếng khoan là 27,9%, giếng xây là 26,79%. Tuy
nhiên tỷ lệ hộ dùng các loại nước giếng này đã qua xử lý tương ứng là 6,87%
và 1,08%. Tỷ lệ hộ dân dùng nước sông, hồ, ao, nước suối để nấu ăn trong cả
nước là 13,24% trong đó miền núi, vùng cao có tỷ lệ là 11,96% [40]. Như
vậy, ở khu vực nông thôn tỷ lệ số hộ được tiếp cận với nước sạch thấp hơn
đáng kể so với các hộ dân ở khu vực thành thị.
Một số nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước sạch
hầu hết các vùng, miền ở nước ta còn thấp. Tỷ lệ chung vào năm 2002 khoảng
50%. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước được coi là sạch bao gồm giếng khoan và
nước máy còn rất thấp (6,8% và 6,6%). Hơn một nửa (53,2%) số hộ gia đình
trong các điều tra sử dụng nước giếng đào cho ăn uống và sinh hoạt, ở vùng
duyên hải miền Trung tỷ lệ này là 99,5%. Đa số (66,0%) các hộ gia đình ở
đồng bằng sông Cửu Long dùng nguồn nước từ sông kênh rạch. Tỷ lệ chung ở
7 vùng sinh thái được điều tra có số hộ dùng nguồn nước sạch là 15,5%. Nước
từ các nguồn trên đều là nước ngầm nông bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ và
vi sinh vật, có nhiều nguy cơ phát triển các bệnh dịch đường tiêu hoá khi sử
dụng. Do vậy, vấn đề nguồn nước dùng cho ăn uống rất đáng được quan tâm
giải quyết ở các địa phương, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long [4],
[5], [7].
*Về sử dụng hố xí
Phân người và gia súc là yếu tố truyền nhiễm chủ yếu của nhiều bệnh
nhiễm trùng, ký sinh trùng, đặc biệt là các bệnh đường ruột. Sử dụng các hố
xí không hợp vệ sinh hoặc không có hố xí gây ô nhiễm môi trường tạo nguy
cơ mắc bệnh hệ tiêu hóa như tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, tả, thương hàn, viêm
gan A, giun sán..., các bệnh này góp phần gây suy dinh dưỡng và thiếu máu
do thiếu sắt, làm kém sự phát triển thể chất và tăng nguy cơ tử vong ở trẻ em
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
và làm giảm sức khỏe cho người lớn cũng như cộng đồng dân cư. Người chết
bởi những bệnh liên quan đến tiêu chảy chủ yếu là trẻ em [9].
Theo báo cáo của tổ chức UNEP vào thời điểm năm 2002, thế giới có
2,4 tỷ người không được tiếp cận với các công trình vệ sinh, trong đó có 1,3
tỷ người ở Ấn Độ và Trung Quốc. Trong tổng số những người không được
tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh thì 80% là ở Châu Á, 13% là Châu Phi, trong
khi chỉ có 5% dân số Châu Mỹ Latinh và 2% dân số Châu Âu không được
tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh [50]. Như vậy khu vực các nước đang và chậm
phát triển tỷ lệ số người không được tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh rất cao, Rõ
ràng đói nghèo đang đặt ra nhiều vấn đề sức khỏe đối với người dân ở khu
vực này, trong đó có vấn đề vệ sinh môi trường.
Cũng theo UNEP, tình hình ô nhiễm môi trường do chất thải của con
người tỷ lệ nghịch với tỷ lệ số hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh, điều đó có
nghĩa là tỷ lệ số hộ có hố xí cao chưa hẳn là nguy cơ ô nhiễm môi trường từ
chất thải của con người đã giảm đi, mà quan trọng nó đánh giá bằng số hộ dân
cư có hố xí hợp vệ sinh. Tức là chất thải của con người phải được sử lý trước
khi đổ vào môi trường. Ở rất nhiều nơi trên thế giới hiện nay, nhất là các nước
đang phát triển và chậm phát triển, mối liên quan giữa hệ thống vệ sinh và
chất thải của con nguời đang là vấn đề cần lưu tâm [50].
Theo định nghĩa quốc tế, hố xí hợp vệ sinh bao gồm hố xí nối với cống
thoát, có bể phốt, thấm dội nước, hố xí một ngăn hoặc hai ngăn. Còn hố xí
không hợp vệ sinh là xô được đổ hàng ngày, hố xí chung hoặc hố xí công
cộng, hố xí lộ thiên [9]. Theo định nghĩa này, kết quả điều tra y tế quốc gia
năm 2001-2002 cho thấy tỷ lệ người thành thị ở nước ta có hố xí hợp vệ sinh
là 81%, vẫn thấp so với Thái Lan (98%) và Philippin (97%), nhưng cao hơn
so với Indonesia (64%) và Campuchia (62%). Còn ở nông thôn, tỷ lệ người sử
dụng hố xí hợp vệ sinh ở nước ta rất thấp (39%), thấp hơn nhiều so với Thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Lan (97%), thấp hơn Philippin và Indonesia (64% và 43%), chỉ cao hơn
Campuchia (5%). Điều đó cho thấy thực trạng vấn đề hố xí hợp vệ sinh ở
nông thôn Việt Nam đang đặt ra các yêu cầu trong hoạch định chính sách phát
triển của khu vực này [9].
Cũng theo báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002 cơ cấu
sử dụng các loại hố xí ở nước ta như sau: Năm 1992 có 9% dân số sử dụng hố
xí tự hoại, bán tự hoại và năm 2002 tỷ lệ này đã tăng lên là 26%. Với loại hố
xí hai ngăn và hố xí thấm dội nước thì năm 1992 có 7% dân số sử dụng và
năm 2002 là 20%. Loại hố xí đơn giản được người dân sử dụng nhiều nhất
vào những năm 1997 với 37% và đến năm 2002 vẫn còn 32% người dân sử
dụng. Cho đến năm 2002 thì vẫn còn 14% dân số sử dụng hố xí tập thể. Tỷ lệ
số dân không có hố xí đã giảm từ 26% vào năm 1992 xuống 13% vào năm
2002 [9]. Điều đó cho thấy tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh tăng dần qua các năm, nhất
là tỷ lệ số dân sử dụng hố xí tự hoại và bán tự hoại, tuy nhiên tốc độ tăng còn
chậm. Tỷ lệ dân số không sử dụng hố xí cũng giảm dần, nhưng tỷ lệ dân số sử
dụng hố xí không hợp vệ sinh vẫn còn cao.
Còn theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 16,91% số hộ dùng hố xí tự hoại,
5,77% dùng hố xí thấm dội nước, 22,6% sử dụng hố xí 2 ngăn, 1,68% dùng
hố xí chìm có ống thông hơi, 41,81% dùng hố xí khác và 11,18% số hộ không
có hố xí. Trong đó khu vực các khu vực đồng bằng sông Cửu Long có số hố
xí không hợp vệ sinh và không có hố xí cao nhất (81,58%), khu vực Tây Bắc
có tới 58,65 số hộ có hố xí không hợp vệ sinh và 27,18 số hộ không có hố xí,
tiếp đến là khu vực Tây nguyên tương ứng là 45,58 và 30%, khu vực Đông
Bắc: 40,28 và 14,56% [40].
Như vậy, ở nước ta vấn đề hố xí hợp vệ sinh còn rất nhiều yếu kém. Hoạt
động vệ sinh môi trường còn chưa được chú ý nhất là ở các vùng nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Nguy cơ môi trường bị ô nhiễm do phân người khá cao. Số hộ gia đình có hố
xí được xem là hợp vệ sinh gồm hố xí dội nước và 2 ngăn chiếm một tỷ lệ
thấp. Nơi có tỷ lệ loại hố xí này cao nhất ở đồng bằng sông Hồng (36,9% và
48%), thấp nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (7,0% và 2,4%). Loại hố xí
thùng, một ngăn rất phổ biến ở các vùng với tỷ lệ chung 40,6%, cao nhất ở
vùng Bắc Trung Bộ (68,3%) và thấp nhất ở duyên hải miền Trung (13,0%). Ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long loại hố xí thường gặp là hố xí cầu chiếm tỷ lệ
46,4% [4], [5], [6].
1.1.2.2. Tình hình vệ sinh môi trường ở miền núi phía Bắc.
Miền núi phía Bắc nước ta là một khu vực kinh tế, chính trị, văn hoá
quan trọng nhưng lại là một khu vực còn nghèo nàn về kinh tế và vẫn còn
nhiều phong tục tập quán lạc hậu. Đây là nơi cư trú đan xen giữa dân tộc đa
số với dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc có trình độ kinh tế, văn hoá và phong tục
tập quán với những sắc thái riêng biệt [13]. Tình hình vệ sinh môi trường ở
miền núi phía Bắc chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện kinh tế - văn hoá - xã
hội. Kinh tế còn nghèo, văn hoá - xã hội chưa phát triển nên sức khoẻ của con
người chưa được quan tâm và cải thiện. Vệ sinh môi trường ở khu vực này
còn là hậu quả của những phong tục tập quán lạc hậu, môi trường bị ô nhiễm
nặng chủ yếu do chất thải của người và gia súc không được xử lý hợp vệ sinh.
Đa số đã xây dựng hố xí song phần lớn là hố xí tạm, hố xí không đạt tiêu
chuẩn vệ sinh [18]. Điều tra 214 hộ gia đình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên cho thấy tỉ lệ hộ gia đình không có hố xí là 25,52%, tỷ lệ hố xí không
vệ sinh là 72,28% [36]. Một nghiên cứu khác ở 6 xã miền núi phía Bắc cho
thấy tỷ lệ có hố xí vệ sinh và chưa có hố xí ở mỗi dân tộc có khác nhau: Dân
tộc Tày ở xã Vũ Lăng (Lạng Sơn) là 1,98% và 44,06%; Dân tộc Mường ở xã
Sơn Thuỷ (Hoà Bình) là 1,59% và 29,97%; Dân tộc Thái ở Chiềng Sinh (Sơn
La) 100% hố xí không vệ sinh, 22,38% chưa có hố xí [18]. Một số vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
người dân vẫn còn tập quán phóng uế bừa bãi [16], [17]. Mặt khác vấn đề thả
rông gia súc, gia cầm là phổ biến, đây cũng là nguyên nhân làm ô nhiễm môi
trường sống của người dân. Chính vì thế mà môi trường đất bị ô nhiễm nặng
nề bởi trứng giun ở mức độ cao và có chiều hướng khuếch tán từ hố xí đến
nhà ở. Số mẫu đất trong nhà có trứng giun đũa chiếm tỷ lệ cao từ 26,35 -
54,13%, trong đó cao nhất là dân tộc H’Mông ở Hà Giang (54,13%) và dân
tộc Tày ở Lạng Sơn (53,35%) [29].
Riêng nguồn nước không chỉ ô nhiễm bởi chất thải của con người mà
còn chịu ảnh hưởng bởi tình trạng chặt phá rừng bừa bãi. Đa số các nguồn
nước sử dụng không hợp vệ sinh. Ngoài nguồn nước giếng còn sử dụng các
nguồn nước khác như nước mỏ, nước khe, nước suối [15]. Qua một số nghiên
cứu thấy tỉ lệ sử dụng nguồn nước chưa hợp vệ sinh ở khu vực miền núi phía
Bắc khá cao. Người Mông ở Cán Tỷ (Hà Giang): 100%, người Sán Dìu ở
Nam Hoà (Đồng Hỷ - Thái Nguyên): 32,22% [28]. Nghiên cứu tại xã Quang
Thuận ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn (1996-1997) cho thấy tỉ lệ hộ gia
đình sử dụng giếng nước hợp vệ sinh còn thấp, mặc dù sau can thiệp đã có sự
gia tăng đáng kể (từ 28,57% trước can thiệp, tăng lên 37,93% sau can thiệp)
[31]. Một nghiên cứu khác được tiến hành ở hai xã Chiềng Sinh và Tạ Bú
(Sơn La) cho thấy tỷ lệ giếng nước hợp vệ sinh rất thấp (13,9% và 0%) [15].
Nước dùng để ăn uống và sinh hoạt hàng ngày cho đồng bào dân tộc miền núi
hầu hết không đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Nguồn nước cũng bị ô nhiễm nặng nề
do tệ phá rừng đầu nguồn, do các chất thải của con người và súc vật... Trong
khi đó ở một số dân tộc vẫn còn tập quán sử dụng nước khe suối, nước sông...
các nguồn nước này đều không đạt tiêu chuẩn vệ sinh, bị ô nhiễm cả về mặt
hoá học và vi sinh vật. Đặc biệt, ở Cán Tỷ (Hà Giang) cho thấy 100% mẫu
nước có vi sinh vật [29].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Nhìn chung, thực trạng vệ sinh môi trường sống của đồng bào các dân
tộc miền núi, chúng ta thấy đây là vấn đề nghiêm trọng. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường là thiếu kiến thức về vệ
sinh môi trường, nước sạch, hố xí hợp vệ sinh còn thấp, đặc biệt là kiến thức
về vai trò và tác hại của nguồn nước, hố xí không hợp vệ sinh liên quan đến
sức khoẻ và bệnh tật của con người ở đây. Đây cũng là vấn đề quan trọng mà
ngành y tế cần phải quan tâm đặc biệt, cần có những giải pháp can thiệp thích
hợp cho miền núi để góp phần thực hiện có hiệu quả nội dung chăm sóc sức
khoẻ ban đầu tại khu vực này.
1.2. Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh
môi trƣờng
1.2.1. Khái niệm về kiến thức, thái độ, thực hành
*Khái niệm về kiến thức: Theo từ điển wikipedia, kiến thức là:
- Các thông tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng khác nhau,
đạt được bởi một con người hay một cá nhân thông qua các trải nghiệm thực
tế hay thông qua sự giáo dục đào tạo, là các hiểu biết về lý thuyết hay thực tế
về một đối tượng, một vấn đề, có thể lý giải được về nó.
- Những gì đã biết, đã được hiểu biết trong một lĩnh vực cụ thể hay toàn
bộ, trong tổng thể.
- Các cơ sở, các thông tin, tài liệu, các hiểu biết hoặc những thứ tương
tự có được bằng kinh nghiệm thực tế hoặc do những tình huống, hoàn cảnh cụ
thể. Những tranh cãi về mặt triết học nhìn chung bắt đầu với phát biểu của
Plato: tri thức như là "justified true belief". Tuy nhiên không có một định
nghĩa chính xác nào về tri thức hiện nay được mọi người chấp nhận, có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
bao quát được toàn bộ, vẫn còn nhiều học thuyết, các lý luận khác nhau về tri
thức [47].
Tri thức giành được thông qua các quá trình nhận thức phức tạp: quá
trình tri giác, quá trình học tập, tiếp thu, quá trình giao tiếp, quá trình tranh
luận, quá trình lý luận, hay kết hợp các quá trình này.
Kiến thức của mỗi người được tích lũy dần qua quá trình học tập và
kinh nghiệm thu được trong cuộc sống. Mỗi người có thể thu được kiến thức
từ thày cô giáo, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, những người xung quanh, sách
vở và các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp. Trong cuộc sống, mỗi
người chúng ta có thể tự kiểm tra liệu hiểu biết của mình là đúng hay sai.
Hàng ngày từ các sự việc cụ thể gặp trong đời sống, các kiến thức của mỗi
người cũng được tích lũy. Trẻ em đưa tay vào lửa chúng biết được lửa nóng
và gây bỏng, từ đó trẻ không bao giờ đưa tay vào lửa nữa. Trẻ em có thể nhìn
thấy một con vật chạy ngang đường và bị xe cán phải, từ sự việc này trẻ em
biết được rằng chạy ngang đường có thể nguy hiểm và từ đó khi đi ngang
đường chúng phải cẩn thận. Kiến thức là một trong các yếu tố quan trọng giúp
con người có các suy nghĩ và tình cảm đúng đắn, từ đó dẫn đến hành vi phù
hợp trước mỗi sự việc. Kiến thức của mỗi người được tích lũy trong suốt cuộc
đời. Có các kiến thức hay hiểu biết về bệnh tật, sức khỏe và bảo vệ, nâng cao
sức khỏe là điều kiện cần thiết để mọi người có cơ sở thực hành các hành vi
sức khỏe lành mạnh. Các kiến thức về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe mỗi
người có thể thu được từ các nguồn khác nhau, được tích lũy thông qua các
hoạt động thực tiễn [23].
*Khái niệm về thái độ. Thái độ được coi là trạng thái chuẩn bị của cơ
thể để đáp ứng với những tình huống hay hoàn cảnh cụ thể. Thái độ phản ánh
những điều người ta thích hoặc không thích, mong muốn hay không mong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
muốn, tin hay không tin, đồng ý hay không đồng ý, ủng hộ hay ngăn cản. Thái
độ thường bắt nguồn từ kiến thức, niềm tin và kinh nghiệm thu được trong
cuộc sống, đồng thời thái độ cũng chịu ảnh hưởng của những người xung
quanh. Những người sống gần chúng ta có thể làm cho chúng ta thay đổi suy
nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề, mức độ quan tâm đến vấn đề, từ đó dẫn đến thay
đổi thái độ. Thái độ của chúng ta có thể bắt nguồn từ những người khác, đặc
biệt là những người mà chúng ta kính trọng. Thái độ chịu ảnh hưởng của môi
trường, hoàn cảnh. Trong một số hoàn cảnh nhất định không cho phép người
ta hành động phù hợp với thái độ của họ. Ví dụ một bà mẹ rất muốn đưa con
bị sốt cao đến trạm y tế để khám và điều trị nhưng vì ban đêm, trạm y tế lại xa
nên bà mẹ buộc phải đem con đến khám bác sỹ tư gần nhà. Hành động này
của bà mẹ không có nghĩa là bà đã thay đổi thái độ không tin vào cán bộ trạm
y tế. Đôi khi thái độ chưa đúng của con người được hình thành từ những sự
việc chưa có căn cứ xác đáng, không đại diện. Ví dụ một người đến mua
thuốc tại trạm y tế về điều trị bệnh nhưng bệnh không khỏi, người này có thể
hình thành suy nghĩ là trạm y tế bán thuốc không tốt, từ đó có thái độ không
tin vào trạm y tế và không đến trạm khám và mua thuốc nữa. Trong trường
hợp này có thể có nhiều lý do dẫn đến bệnh không khỏi, chứ không phải trạm
y tế bán thuốc không đảm bảo chất lượng. Thái độ rất quan trọng dẫn đến
hành vi của mỗi người, do vậy khi xem xét một thái độ chưa hợp lý nào đó
đối với vấn đề bệnh tật, sức khỏe, cần phải tìm hiểu rõ nguyên nhân của nó
[23].
*Khái niệm thực hành. Thực hành của con người là một hành động, hay
là tập hợp phức tạp của nhiều hành động, mà những hành động này lại chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan cũng như khách
quan. Trước tiên nó phụ thuộc vào khả năng nhận thức hay kiến thức của mỗi
người, vào thái độ của người đó cũng như các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
vấn đề người đó sẽ làm. Thực hành chính là việc vận dụng kiến thức vào một
công việc thực tiễn cụ thể. Nói cách khác, việc thực hành của một con người
là sự biểu hiện cụ thể của các yếu tố cấu thành nên nó, đó là kiến thức, niềm
tin, thái độ và môi trường xã hội xung quanh bản thân người đó [47].
1.2.2. Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi
trường của người dân
Theo Nguyễn Huy Nga và Nguyễn Thanh Hiền tại điều tra quốc gia về
vệ sinh môi trường và thực trạng vệ sinh ở Việt Nam năm 2002 thì có 30,4%
người được hỏi không biết tên bất kỳ một bệnh nào do nguyên nhân từ chất
thải của con người gây ra. Chỉ có 18,3% trong số họ biết rằng sử dụng hố xí
hợp vệ sinh có thể phòng chống được bệnh tiêu chảy và bệnh ký sinh trùng.
Tỷ lệ người kể tên được các bệnh do nguồn nước gây ra thấp như tiêu chảy
(62%), ký sinh trùng (18,6%), bệnh về da (17,6%), bệnh về mắt (11%) và
bệnh phụ khoa (3,8%) [49]. 2,3% số người được hỏi biết rằng rửa tay bằng xà
phòng có thể phòng chống được bệnh tiêu chảy và bệnh ký sinh trùng. Về
nguồn nước sạch: 44,7% cho rằng đó là nước giếng đào; 33,9% cho rằng đó là
nước giếng khoan; 24,4% cho rằng đó là máng lần; 16% là nước mưa và 14%
là nước ao hồ. Cũng theo Nguyễn Huy Nga và CS: Khoảng 1/4 số người trong
diện điều tra không biết tên của 5 loại hố xí hợp vệ sinh, hầu hết chỉ cho rằng
đó là hố xí tự hoại (54,9%), hố xí dội nước (20,7%) và hố xí hai ngăn
(13,6%). Đồng thời chỉ có 43,8% hộ gia đình ở miền núi chưa có hố xí có kế
hoạch xây dựng hố xí trong tương lai. Tuy nhiên 57,2% hộ gia đình ở miền
núi mong muốn có các khoản hỗ trợ tài chính cho xây dựng các công trình vệ
sinh. Vấn đề xử lý phân: 30% số hộ gia đình sử dụng phân tươi để bón ruộng,
20% số hộ gia đình xử lý phân đúng cách, còn lại 80% xử lý không đúng kỹ
thuật làm tăng nguy cơ ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm. Điều tra cũng cho
thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh với trình độ học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
vấn, giới, dân tộc, khu vực sống và thu nhập của người dân. Riêng về khía
cạnh dân tộc thì thực hành về vệ sinh môi trường của người dân tộc thiểu số
thấp hơn so với người Kinh. Bốn nhóm có thực hành vệ sinh môi trường thấp
nhất là: người có trình độ học vấn thấp, đàn ông, dân tộc thiểu số và nhóm
người ở các khu vực còn có các phong tục tập quán lạc hậu. Bên cạnh đó,
nhiều vấn đề về vệ sinh môi trường ở Việt Nam được đặt ra không chỉ ở các
hộ gia đình mà ngay cả nơi công cộng, chỉ có 18% hộ gia đình; 11,7% trường
học; 36,6% trung tâm y tế công, 21% cơ sở dịch vụ công có các công trình vệ
sinh đảm bảo theo tiêu chuẩn 08/2005 của Bộ Y tế Việt Nam. Nhận thức và
thói quen rửa tay của người dân rất thấp: chỉ có 2,3% người dân khu vực nông
thôn hiểu rằng rửa tay bằng xà phòng sẽ giúp cho việc phòng chống một số
bệnh nhiễm trùng. Có một khoảng cách lớn giữa nhận thức và thực hành cá
nhân của người dân, tuy có hiểu biết về vệ sinh môi trường nhưng không phải
người dân nào cũng có thực hành đúng [49].
1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh
môi trường của người dân.
1.2.3.1. Phong tục, tập quán, thói quen của các tộc người
Việt Nam là một quốc gia nhiều dân tộc. Theo kết quả tổng điều tra
dân số toàn quốc 1999, cả nước có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có tiếng nói,
phong tục, tập quán riêng, trong đó có những phong tục, tập quán ảnh hưởng
đến sức khoẻ [19], [43]. Ví dụ người dân ở nhà sàn là loại nhà ở thiếu ánh
sáng, không thông thoáng, nuôi gia súc ở gầm sàn và gần nhà, sử dụng nước
sông, nước suối hoặc nước khe trong sinh hoạt và ăn uống, ít tắm giặt, không
sử dụng hố xí, để người chết lâu ở trong nhà, cúng bái khi ốm đau, phụ nữ đẻ
tại nhà và người nhà tự đỡ, cho trẻ sơ sinh ăn cơm nhá, lấy chồng sớm, đẻ
sớm và đẻ nhiều [23]. Những phong tục, tập quán, thói quen trên rất chung và
phổ biến, đã và đang ảnh hưởng rất lớn đối với sức khoẻ của của cộng đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
các tộc người thiểu số. Kiều Khắc Đôn (2001) cho rằng: Ô nhiễm nguồn
nước, ngoài nguyên nhân do thời tiết thay đổi thất thường, quá trình đô thị
hoá và nạn khai thác mỏ bừa bãi, còn do một nguyên nhân rất quan trọng đó
là tập quán sinh hoạt của người dân, cụ thể là tập quán nuôi gia súc dưới gầm
sàn hoặc ở gần nhà, không sử dụng hố xí, dùng phân tươi để bón ruộng và hoa
màu. Phân súc vật, phân người không được thu gom và xử lý tốt, vẫn thải một
cách rất “tự nhiên” ra ngoài môi trường, trôi theo nước mưa và gây ô nhiễm
các nguồn nước [13]. Nghiên cứu ở khu vực miền núi phía Bắc, Hoàng Khải
Lập và cộng sự cũng cho rằng: Nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm nguồn
nước ăn uống và sinh hoạt của người dân miền núi phía Bắc là do tập quán thả
rông gia súc, chất thải (phân) không được xử lý. Cần thay đổi, cải thiện tập
quán, thói quen vệ sinh của người dân là một trong những vấn đề quan trọng
và cấp bách nhất hiện nay. Để làm được điều đó đòi hỏi phải có sự tham gia
của cộng đồng, sự kết hợp giữa các hoạt động khác nhau của các đoàn thể xã
hội mà công tác giáo dục và truyền thông có một vai trò và ý nghĩa to lớn
[29].
1.2.3.2. Điều kiện về địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội tại khu vực sống của
người dân
Người dân ở miền núi nước ta sống chủ yếu ở khu vực có địa hình
phức tạp, hệ thống giao thông chưa phát triển, việc đi lại giữa các tỉnh, hoặc
các huyện trong tỉnh cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, kinh tế của
các tỉnh của khu vực miền núi nói chung còn ở mức thấp, nền kinh tế vẫn còn
mang tính tự túc, tự cấp, năng suất lao động xã hội chưa cao. Thu nhập bình
quân hàng năm khoảng 150 đến 300 kg thóc/người, mặc dù nhiều chương
trình xoá đói giảm nghèo trong 10 năm qua đã cải thiện rõ rệt đời sống của đại
bộ phận dân cư (Năm 2000 GDP bình quân đạt 400 USD/người, lương thực
bình quân quy thóc đạt 455 kg/người, mức sống dân cư tăng 1,5 lần so với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
năm 1990 ). Tuy vậy, số hộ nghèo ở khu vực này vẫn chiếm một tỷ lệ cao (hộ
dân tộc Tày: 6,9%, Sán Dìu: 13,55%, Mông: 42,19%, Thái: 6,45%, Giáy:
21,6%, Mường: 14,47%), tỷ lệ hộ ở nhà tạm (Tày: 17,48%, Sán Dìu: 30,12%,
Mông: 92,97%, Giáy: 35,6%) [29]. Đồng thời, văn hoá xã hội ở khu vực này
cũng chậm phát triển. Một số khu vực vẫn tồn tại nhiều phong tục, tập quán
lạc hậu (ma chay, cúng bái), tập quán ăn ở thiếu vệ sinh. Trình độ học vấn của
người dân còn ở mức thấp: trên 50,9% có trình độ tiểu học, từ cấp trung học
cơ sở trở lên chỉ có 47,1%, tỷ lệ mù chữ còn cao, vẫn còn nhiều xã, xóm bản
chưa có điện lưới quốc gia. Thực tế cho thấy tỷ lệ người nghèo chủ yếu là
người dân tộc thiểu số, họ vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm phá hoại môi
trường. Khoảng 1/2 số người nghèo vùng nông thôn miền núi sống dựa vào
tài nguyên thiên nhiên. Người nông dân phải canh tác trên các vùng không
thích hợp như đồi dốc, khô cằn, xói mòn..., họ phải chịu cảnh thiếu nước sạch
và vệ sinh kém, những rủi ro về sức khoẻ do môi trường gây ra. Mặt khác,
người nghèo thường phải vật lộn với cuộc sống khắc nghiệt, luôn bận rộn với
mưu sinh hàng ngày, nên họ không đầu tư cho bảo vệ môi trường tới mức cần
thiết. Thực trạng trên rõ ràng đã ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi những
hành vi lành mạnh về sức khoẻ môi trường [12], [14], [24], [31].
1.2.3.3. Sự quan tâm của các ban ngành đoàn thể về vệ sinh môi trường
Vấn đề nâng cao nhận thức cho cộng đồng và giải quyết vấn đề vệ sinh
môi trường bằng tăng cường truyền thông giáo dục sức khoẻ, nâng cao kiến
thức và thái độ của người dân về vệ sinh môi trường là hết sức cần thiết. Khi
thực hiện cần lồng ghép nhiều chương trình, nhiều ban ngành và nhiều giải
pháp ở các mức độ thích hợp khác nhau, trong đó xã hội hoá công tác bảo vệ
môi trường, chống ô nhiễm môi trường và tập hợp, sử dụng được tiềm năng
của các cơ quan khoa học đóng trên địa bàn mới là nội lực quan trọng để giải
quyết tình trạng ô nhiễm môi trường số hiện nay cho đồng bào các dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
thiểu số, đặc biệt các dân tộc sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn. Có như vậy mới mong rằng hành vi vệ sinh về môi trường của người
dân mới được cải thiện và nâng cao. Nếu cán bộ y tế xã, y tế thôn bản, vệ
sinh viên chưa được tập huấn đầy đủ, chưa nắm vững kiến thức, chưa có đủ
kỹ năng truyền thông về vệ sinh môi trường. Vai trò của các già làng, trưởng
bản, những cá nhân có uy tín, lãnh đạo cộng động chưa được phát huy, chưa
khai thác được những mặt mạnh của các phong tục truyền thống tốt đẹp trong
nhân dân nhưng hương ước bản làng, quy định dòng họ...thì đây là những khó
khăn, cản trở việc thực hiện các biện pháp can thiệp giải quyết ô nhiễm môi
trường, làm ảnh hưởng rất lớn đến kiến thức, thái độ và thực hành về vệ sinh
môi trường của người dân [10], [23], [30], [32].
1.2.3.4. Chính sách của Quốc tế và của Đảng, Nhà nước ta về vệ sinh môi
trường:
*Chính sách của Quốc tế
Liên hiệp quốc đã tuyên bố lấy thập niên 1981-1990 làm thập niên cấp
nước và vệ sinh Quốc tế. Năm 1992, Liên hiệp quốc cũng đã chính thức chọn
ngày 22 tháng 3 hàng năm là ngày Quốc tế về nước nhắc nhở mọi người quan
tâm hơn về nguồn nước [41]. Từ năm 1982 với sự tài trợ của tổ chức
UNICEF, dự án cung cấp nước sinh hoạt nông thôn bắt đầu được triển khai có
tính thử nghiệm đối với hộ dân tại một số vùng kinh tế mới thuộc 3 tỉnh:
Minh Hải, Kiên Giang và Long An và từ năm 1984, UNICEF chính thức tài
trợ và dần mở rộng ra các tỉnh khác. Từ đó tới nay UNICEF đã không ngừng
tài trợ đầu tư mở rộng chương trình nước sinh hoạt nông thôn. Tính đến hết
năm 1990, sau 3 tài khóa trợ giúp của UNICEF với tổng kinh phí 15,095 triệu
USD Chương trình đã thực hiện được 33.489 giếng khoan lắp máy bơm tay,
đáp ứng cho khoảng 4 triệu người dân nông thôn có nước sạch sử dụng cho
nhu cầu sinh hoạt. Từ năm 1996 đến 2000 UNICEF điều chỉnh mục tiêu chiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
lược, kết hợp việc cung cấp nước sạch với giáo dục vệ sinh cơ bản; từ năm
1999 dự án đã thu hẹp tập trung vào vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về
nước sinh hoạt và các xã đặc biệt khó khăn của 37 tỉnh, thành phố. Tính đến
hết năm 2003, qua 3 năm thực hiện đã hỗ trợ xây dựng được 33.830 nguồn
nước, phục vụ cho khoảng 658.455 người dân của 607 xã thuộc các tỉnh vùng
dự án. Như vậy từ năm 1982 đến năm 2003, UNICEF đã hỗ trợ Việt Nam xây
dựng trên 200.000 điểm cấp nước, cung cấp nước sạch sử dụng trong sinh
hoạt cho trên 20 triệu người dân nông thôn. Điều quan trọng là Chương trình
đã làm thay đổi nhận thức của người dân trong tiếp cận, sử dụng nước sạch
trong sinh hoạt và giữ gìn vệ sinh môi trường.
*Chính sách của Việt Nam
Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường nói
chung và nước sạch vệ sinh môi trường nói riêng. Hàng loạt các chủ trương
chính sách đã được ban hành thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng đối với vấn đề
xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường [5].
Bộ Chính trị đã ra chỉ thị số 36 về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Chính phủ ban hành
Quyết định số 237/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia
về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Quyết định số 124/1999/QĐ-
TTg của Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về nước sạch và vệ sinh
môi trường nông thôn đến năm 2020. Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 277/2006/QĐ-TTg ngày 11/12/2006 về việc phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia nước sạch và VSMT nông thôn giai đoạn 2006 - 2010
trong đó đã xác định cụ thể mục tiêu, phương châm và nguyên tắc cũng như
các giải pháp thực hiện cơ bản là:
- Mục tiêu chung của chương trình: Nâng cao đời sống cho người dân
nông thôn thông qua cải thiện các dịch vụ cấp nước sạch, vệ sinh; nâng cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
nhận thức và thay đổi hành vi của cộng đồng về bảo vệ môi trường, vệ sinh
công cộng và vệ sinh cá nhân. Giảm tác động xấu do điều kiện cấp nước và vệ
sinh kém gây ra đối với sức khoẻ của dân cư nông thôn và giảm ô nhiễm môi
trường nông thôn. Tạo điều kiện hình thành các cụm dân cư phát triển tập
trung theo ngành nghề đặc thù như chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp, làng
nghề truyền thống. Giảm thời gian đi lấy nước của người dân, giúp họ dành
thời gian cho sản xuất. Hạn chế bệnh tật, bảo vệ sức lao động, tiết kiệm chi
phí chữa bệnh. Giảm chi phí cho việc mua nước sinh hoạt của người dân ở
vùng khó khăn về nước. Góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân nông thôn. Hình thành nếp sống văn minh, hợp vệ sinh, thu hẹp dần sự
chênh lệch về điều kiện sinh hoạt giữa nông thôn và đô thị, góp phần ổn định
dân cư; hạn chế tình trang mất vệ sinh đang phổ biến ở nhiều nơi, khắc phục
được cơ bản ô nhiễm môi trường nông thôn; khắc phục tình trạng khai thác,
sử dụng bừa bãi, gây cạn kiệt, suy thoái tài nguyên nước. Giảm thiểu tình
trạng ô nhiễm do phân người và chất thải chăn nuôi gây ra, góp phần làm đẹp
cảnh quan, sạch đường làng ngõ xóm.
- Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 cần đạt được:
+ Về cấp nước: 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp
vệ sinh, trong đó có 50% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn TC09 với số
lượng 60 lít nước/người/ngày
+ Về vệ sinh môi trường: 70% số hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp
vệ sinh; 70% số hộ nông dân chăn nuôi có chuồng trại hợp vệ sinh. Tất cả các
nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trạm y tế, chợ, trụ sở xã và các công trình công
cộng khác ở nông thôn có đủ nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh [5].
Để thực hiện tốt mục tiêu của Đảng và Chính phủ đưa ra nhằm góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, nhất là các vùng đặc biệt
khó khăn, vùng nông thôn miền núi; Sự cần thiết phải đánh giá đúng thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
trạng môi trường cũng như kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về vệ
sinh môi trường, các yếu tố ảnh hưởng và đề ra các giải pháp trước mắt cũng
như lâu dài. Vấn đề này còn ít tác giả đề cập tới, vì vậy đây chính là gợi ý để
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Chủ các hộ gia đình tại xóm bản vùng đặc biệt khó khăn.
- Đại diện cộng đồng như người dân, nhân viên y tế thôn bản, cộng tác
viên dân số, dinh dưỡng, cán bộ trạm y tế và dân số xã, cán bộ chính quyền và
các ban ngành, đoàn thể ở xã, xóm bản, thanh niên, phụ nữ ở các xóm bản.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
*Huyện Đồng Hỷ: Đồng Hỷ là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên.
Phía Tây Nam tiếp giáp với Thành phố Thái Nguyên, phía Bắc giáp huyện Võ
Nhai. Phía Tây giáp với huyện Phú Lương. Phía Đông giáp với tỉnh Bắc
Giang. Huyện nằm dọc theo quốc lộ 1B, có diện tích là 508,2 km2, với diện
tích đất canh tác là 8.909 ha, dân số khoảng 12 vạn người gồm 8 dân tộc khác
nhau sinh sống. Toàn huyện có 20 xã với 280 thôn bản và khoảng 23.000 hộ
trong đó có 2 xã vùng cao, 2 xã đặc biệt khó khăn, 16 xã miền núi. Nghề chủ
yếu là trồng cây lương thực, trồng chè, cây ăn quả, có một số cơ sở công
nghiệp địa phương nhỏ. Về y tế: Tổ chức mạng lưới y tế từ huyện đến cơ sở
được tăng cường số cán bộ y tế, tỉ lệ chung là 14,7 người /10.000 dân, trong
đó bác sĩ là 3,8 người, y sĩ là 6,7 người /10.000 dân. Cơ sở vật chất cho 20 trạm
y tế xã của huyện trong năm 1998 đã được xây dựng, sửa chữa và tăng cường về
trang thiết bị y tế. Đội ngũ cán bộ y tế của cả trung tâm y tế huyện và trạm y tế
xã là 165 người, trong đó: bác sĩ gồm 43 người, y sĩ đa khoa: 29, y sỹ sản nhi:
26, y sỹ y học dân tộc: 21, nữ hộ sinh: 2, y tá điều dưỡng: 32, đặc biệt 100%
số xã của huyện đều có bác sĩ.
Hai xã thuộc huyện Đồng Hỷ trong mẫu nghiên cứu là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
* Xã Hợp Tiến : Là xã vùng sâu của huyện Đồng Hỷ. Phía Bắc giáp
huyện Võ Nhai, phía Nam giáp huyện Phú Bình, phía Đông giáp xã Sơn
Lương (huyện Yên Thế – Bắc Giang), phía Tây giáp xã Tân Lợi (Đồng Hỷ).
Diện tích đất tự nhiên là 48 km2 với khoảng 500 ha là diện tích đất canh tác
nông nghiệp và hoa màu. Dân số toàn xã là 5.600 người. Xã là nơi sinh sống
của 7 dân tộc anh em (Dao, Mông, Nùng, Sán Dìu, Kinh, Hoa), trong đó
người Dao, Mông và Nùng chiếm tỷ lệ tương đối cao trong cơ cấu dân số. Xã
có 10 thôn với tổng số hộ là 1380 hộ. Về y tế: Hoạt động của cán bộ y tế ở
đây khá đều tay, trạm y tế có 7 cán bộ y tế, trong đó có: 1 bác sĩ đa khoa, 4 y
sĩ (1 y sĩ sản nhi, 1 y sĩ xét nghiệm, 2 y sĩ đa khoa), 1 dược tá sơ cấp, 1 điều
dưỡng viên hợp đồng và hiện đang có 12 nhân viên y tế thôn bản hoạt động
tại 10 xóm. Diện tích, cơ sở vật chất cho trạm y tế xã đã được xây dựng, sửa
chữa và tăng cường phù hợp so với chuẩn quốc gia.
*Xã Cây Thị : Là xã vùng sâu của huyện Đồng Hỷ. Xã có diện tích nhỏ
hơn xã Hợp Tiến, phía Bắc và Tây Nam giáp Thị trấn Trại Cau (Đồng Hỷ),
phía Đông giáp huyện Võ Nhai. Diện tích đất tự nhiên là 36 km2 với khoảng
380 ha đất canh tác nông nghiệp và hoa màu. Dân số toàn xã là 3870 người.
Xã cũng là nơi sinh sống chủ yếu của 7 dân tộc anh em (H’Mông, Dao, Nùng,
Sán Dìu, Hoa, Kinh), trong đó chủ yếu là người Dao, Nùng và H’Mông. Xã
có 9 thôn với tổng số hộ là 787 hộ. Về y tế: Trạm y tế có 6 cán bộ y tế, trong
đó có: 1 bác sĩ đa khoa, 1 y sĩ sản nhi, 1 y sĩ xét nghiệm, 1 y sĩ đa khoa, 1
dược tá sơ cấp, 1 điều dưỡng viên hợp đồng. Cơ sở vật chất cho trạm y tế xã
còn thiếu thốn, chưa phù hợp với chuẩn quốc gia.
2.3. Thời gian nghiên cứu. Từ tháng 5 năm 2007 đến tháng 6 năm 2008
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả,
diện điều tra cắt ngang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
2.4.1. Phương pháp chọn mẫu
*Cỡ mẫu: Cỡ mẫu được tính theo công thức
n = Z
2
1- / 2 x pq/ d
2
Trong đó: n là cỡ mẫu cần thiết, p là tỷ lệ ước định, lấy tỷ lệ sử dụng
nước sạch ở các bản vùng khó khăn trong các nghiên cứu trước là 0,5;
q = 1 – p = 0,5.
Z 1- / 2 là hệ số tin cậy = 1,96, thay vào ta có:
0,5 x 0,5
n = 1,96
2
x 384 (người)
0,05
2
*Phương pháp chọn mẫu:
- Chọn huyện Đồng Hỷ là chọn chủ đích vì đây là một huyện miền núi
gần Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên, điều kiện triển khai nghiên cứu
thuận tiện.
- Chọn hai xã Cây Thị, Hợp Tiến cũng là chọn chủ đích, vì đây là các xã
vùng sâu của huyện Đồng Hỷ. Mỗi xã chọn 200 hộ gia đình ở các bản vùng
sâu (cách trung tâm xã từ 5 km trở lên). Thực tế chúng tôi điều tra được 427
hộ gia đình.
- Đơn vị mẫu: Chọn hộ gia đình là đơn vị mẫu, mỗi hộ gia đình chọn 1
người lớn (chủ hộ trong gia đình). Chọn hộ gia đình ngẫu nhiên theo phương
pháp gắp thăm.
2.4.2. Chỉ số nghiên cứu.
*Chỉ số về tình hình kinh tế văn hoá xã hội của các hộ gia đình điều tra:
- Hộ nghèo: Theo qui định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
ban hành theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg về chuẩn nghèo giai đoạn
2006-2010. Chuẩn này được tính theo mức thu nhập bình quân đầu người
trong hộ cho từng vùng cụ thể như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
+ Vùng nông thôn nông thôn miền núi <200.000đ/ người/ tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng, thành thị <260.000đ/người/tháng.
Như vậy các xã Cây Thị, Hợp Tiến là xã miền núi, chuẩn nghèo sẽ là hộ
gia đình có mức thu nhập bình quân dưới 200.000đ/người/tháng.
- Chỉ số về nhà ở:
+ Nhà ở kiên cố là nhà xây, mái bằng.
+ Nhà ở bán kiên cố là nhà xây cấp IV và nhà sàn lợp ngói.
+ Nhà ở tạm là nhà gỗ lợp tranh, nhà làm bằng tre, nứa, lá.
- Hộ có phương tiện truyền thông (PTTT): Là những hộ gia đình có đài,
tivi còn hoạt động, đang sử dụng được.
- Chỉ số về trình độ học vấn:
+ Mù chữ là những người không biết đọc, không biết viết.
+ Biết đọc, biết viết (BĐBV) là những người học chưa hết 4/10 hoặc
5/12.
+ Tiểu học là những người đã học hết lớp 4/10 hoặc 5/12.
+ Trung học cơ sở (THCS) trở lên là những người đã học hết lớp 7/10
hoặc lớp 9/12 trở lên.
*Nhóm các chỉ số về vệ sinh môi trường, các công trình vệ sinh. Theo
Quyết định số 08/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
việc ban hành tiêu chuẩn ngành: Tiêu chuẩn vệ sinh đối với các loại hố xí như
sau:
- Hố xí hai ngăn ủ phân tại chỗ
+ Quy định về xây dựng: Tường ngăn chứa phân kín, không bị rò rỉ,
thấm nước; Cửa lấy mùn phân được trát kín bằng vật liệu không thấm nước;
Mặt sàn, máng và rãnh dẫn nước tiểu nhẵn, không đọng nước tiểu; Có nắp đậy
hai lỗ xí; Nhà xí được che chắn kín, ngăn được nước mưa; Ống thông hơi (đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
với hố xí hai ngăn có ống thông hơi) có đường kính ít nhất 9 cm; cao hơn mái
nhà xí ít nhất 40cm và có lưới chắn ruồi.
+ Quy định về sử dụng và bảo quản: Sàn nhà xí sạch, không có giấy,
rác; Giấy bẩn bỏ vào lỗ xí hoặc cho vào dụng cụ chứa có nắp đậy; Không có
mùi hôi, thối; Không có ruồi hoặc côn trùng trong nhà xí; Không sử dụng
đồng thời hai ngăn; Có đủ chất độn và bỏ chất độn vào lỗ xí sau mỗi lần đi đại
tiện; Không có bọ gậy trong dụng cụ chứa nước (nếu có) và dụng cụ chứa
nước tiểu; Không lấy phân trong ngăn ủ ra trước 6 tháng; Lỗ xí ngăn đang sử
dụng luôn được đậy kín, ngăn ủ được trát kín.
- Hố xí chìm có ống thông hơi.
+ Quy định về xây dựng: Không xây dựng ở nơi thường bị ngập, úng;
Cách nguồn nước ăn uống, sinh hoạt từ 10m trở lên; Mặt sàn, máng và rãnh
dẫn nước tiểu nhẵn, không đọng nước tiểu; Miệng hố phân cao hơn mặt đất
xung quanh ít nhất 20cm; Có nắp đậy lỗ xí; Nhà xí được che chắn kín, ngăn
được nước mưa; Ống thông hơi có đường kính ít nhất 9 cm, cao hơn mái nhà
xí ít nhất 40 cm và có lưới chắn ruồi.
+ Quy định về sử dụng và bảo quản: Sàn nhà xí sạch, không có giấy,
rác; Giấy bẩn bỏ vào lỗ xí; Có đủ chất độn và bỏ chất độn vào lỗ xí sau mỗi
lần đi đại tiện; Không có mùi hôi, thối; Không có ruồi hoặc côn trùng trong
nhà xí; Không có bọ gậy trong dụng cụ chứa nước tiểu; Lỗ xí thường xuyên
được đậy kín.
- Hố xí thấm dội nước
+ Quy định về xây dựng: Không xây dựng ở nơi thường bị ngập, úng;
Cách nguồn nước ăn uống, sinh hoạt từ 10m trở lên; Bể chứa phân không bị
lún, sụt, thành bể cao hơn mặt đất ít nhất 20cm; Nắp bể chứa phân được trát
kín, không bị rạn nứt; Mặt sàn nhà xí nhẵn phẳng và không đọng nước; Bệ xí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
có nút nước; Nước từ bể chứa phân hoặc đường dẫn phân không thấm, tràn ra
mặt đất.
+ Quy định về sử dụng và bảo quản: Có đủ nước dội, dụng cụ chứa
nước dội không có bọ gậy; Không có mùi hôi, thối; Sàn nhà xí sạch, không có
rêu trơn, giấy, rác; Giấy vệ sinh bỏ vào lỗ xí (nếu là giấy tự tiêu) hoặc bỏ vào
dụng cụ chứa giấy bẩn có nắp đậy; Không có ruồi hoặc côn trùng trong nhà
xí; Bệ xí sạch, không dính, đọng phân; Nhà xí được che chắn kín, ngăn được
nước mưa.
- Hố xí tự hoại:
+ Quy định về xây dựng: Bể xử lý gồm 3 ngăn; Bể chứa phân không bị
lún, sụt; Nắp bể chứa phân được trát kín, không bị rạn nứt; Mặt sàn nhà xí
nhẵn phẳng và không đọng nước; Bệ xí có nút nước; Có ống thông hơi.
+ Quy định về sử dụng và bảo quản: Có đủ nước dội, dụng cụ chứa
nước dội không có bọ gậy; Không có mùi hôi, thối; Nước từ bể xử lý chảy
vào cống hoặc hố thấm, không chảy tự do ra xung quanh; Sàn nhà xí sạch,
không có rêu trơn, giấy, rác; Giấy vệ sinh bỏ vào lỗ xí (nếu là giấy tự tiêu)
hoặc bỏ vào dụng cụ chứa giấy bẩn có nắp đậy; Không có ruồi hoặc côn trùng
trong nhà xí; Bệ xí sạch, không dính, đọng phân; Nhà xí được che chắn kín,
ngăn được nước mưa.
- Nước sinh hoạt hợp vệ sinh: Giếng xây cách chuồng gia súc, hố xí
20m, đường kính 0,8 - 1,5 m, sâu 7 - 8 m, bờ xung quanh giếng cao hơn mặt
đất khoảng 0,8 m, sân giếng rộng >1m, có rãnh thoát nước, có giá để treo gầu.
Thực hiện đánh giá chất lượng nước sinh hoạt hợp vệ sinh theo tiêu chí của
giai đoạn I theo quyết định số 09/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 của Bộ Y tế:
Nước sinh hoạt hợp vệ sinh là nước giếng, nước mưa, nước ao, hồ được bảo
vệ không bị ô nhiễm (có nắp đậy, có bờ che chắn). Nước này dùng cho tắm
rửa là chính; nếu dùng cho ăn uống thì phải lắng, lọc, khử trùng và đun sôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Đánh giá nguồn nước nhìn bằng mắt thường: nước trong, không màu, không
mùi, vị, không có mạch ngang thấm vào.
- Chuồng gia súc hợp vệ sinh: Là chuồng trại được xử lý chất thải chăn
nuôi hợp vệ sinh, bao gồm các loại:
+ Chuồng xây có mái che, nền cứng có độ nghiêng để thoát nước thải, có
hố ủ phân và bể tự hoại 3 ngăn để xử lý phân và nước thải;
+ Chuồng trại áp dụng công nghệ sản xuất phân hữu cơ vi sinh quy mô
hộ gia đình hoặc trang trại;
+ Chuồng trại áp dụng công nghệ biogas để xử lý chất thải chăn nuôi.
Ngoài ra còn một số chỉ số khác như xử lý rác thải, sử dụng hóa chất bảo
vệ thực vật..…
Cách phân mức độ KAP trong nghiên cứu dựa vào kết quả cho điểm
theo KAP. Để việc cho điểm được chính xác, chúng tôi phân ra làm 3 loại
biến đó là biến kiến thức (K), biến thái độ (A) và biến thực hành (P) cho mỗi
vấn đề cần nghiên cứu. Mỗi biến được tính tổng là 10 điểm, số điểm này sẽ
được chia ra trong các câu một cách phù hợp. Phân mức độ như sau:
Số điểm đạt được từ 7 - 10 điểm: Xếp loại tốt
Số điểm đạt được từ 5 đến 6 điểm: Xếp loại trung bình.
Số điểm đạt được < 5 điểm: Xếp loại yếu.
2.4.3. Kỹ thuật thu thập thông tin và công cụ nghiên cứu.
- Phỏng vấn: Tại các hộ gia đình, điều tra viên tiến hành phỏng vấn
trực tiếp chủ hộ. Kết quả phỏng vấn được ghi chép vào phiếu in sẵn (có phụ
lục kèm theo). Phiếu được nhóm nghiên cứu xây dựng theo đúng qui trình và
yêu cầu của luận văn. Phiếu xây dựng xong được tiến hành thử nghiệm ngay
tại xã Hợp Tiến, sau đó chỉnh lý lại trước khi in thành phiếu chính thức.
- Quan sát: Quan sát tại các hộ gia đình và ghi chép thông tin từ sổ
sách báo cáo của trạm y tế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
- Thảo luận nhóm: Để phân tích sâu các khía cạnh về các yếu tố liên
quan đến hành vi vệ sinh của người dân như phong tục, tập quán, nguồn
lực….
Phương pháp chính sẽ sử dụng là thảo luận nhóm trọng tâm: Có 2 cuộc
thảo luận nhóm: một nhóm cho các thành viên là lãnh đạo cộng đồng và một
nhóm cho đại diện người dân.
2.4.4. Phương pháp khống chế sai số.
- Thiết kế các phiếu điều tra: Các phiếu điều tra được nhóm nghiên cứu
thiết kế theo đúng qui trình xây dựng công cụ nghiên cứu, trước khi sử dụng
đã được kiểm định chặt chẽ phù hợp với yêu cầu thực tế của địa phương và
của luận văn.
- Đội ngũ điều tra viên là học viên lớp cao học dự phòng và sinh viên
các lớp chính qui, chuyên tu năm cuối của Nhà trường. Đội ngũ cán bộ được
tập huấn kỹ và thống nhất về phương pháp trước khi đi điều tra.
- Phiếu điều tra được làm sạch ngay tại cộng đồng.
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu. Theo các phương pháp thống kê y sinh học
trên máy vi tính với phần mềm EPIINFO6.04
2.4.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu. Đây là một nghiên cứu cộng đồng
nhằm mục đích tìm ra một giải pháp thích hợp để cải thiện môi trường góp
phần trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở vùng đặc biệt khó khăn, quá trình
nghiên cứu không làm ảnh hưởng tới sức khoẻ con người và môi trường, được
cộng đồng chấp nhận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tình hình chung ở các điểm điều tra
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng điều tra theo tuổi
Nhóm tuổi n %
≤29 73 17,1
≥60 37 8,7
30-39 134 31,4
40-49 121 28,3
50-59 62 14,5
Tổng số 427 100,0
85.9
14.1
Nam
Nữ
Biểu đồ 3.1: Phân bố đối tượng theo giới
Nhận xét : Bảng 3.1 và biểu đồ 3.1 cho chúng tôi thấy: Lứa tuổi chủ hộ
trong nghiên cứu tập trung vào độ tuổi lao động (từ 30 đến 59). Trong mẫu
nghiên cứu nam giới chiếm tới 85,9%; nữ chỉ chiếm 14,1%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Bảng 3.2. Thông tin về các đối tượng điều tra
Thông tin chung n %
Học vấn: - Mù chữ 53 12,40
- Biết đọc, biết viết 125 29,30
- Tiểu học 129 30,20
- THCS 120 28,10
Dân tộc: - Dao 273 63,93
- Kinh 131 31,0
- Dân tộc khác 23 5,07
Nhận xét: Qua bảng 3.2 cho chúng tôi thấy: Tại hai xã điều tra, tỷ lệ mù
chữ và biết đọc, biết viết khá cao, chiếm tới 41,69%. Trình độ tiểu học cũng
cao (30,2%); trình độ trung học cơ sở trở lên chiếm tỷ lệ thấp (28,1)%.
Trong cơ cấu dân tộc, dân tộc Dao chiếm tỷ lệ cao, tới 63%, sau đó là
dân tộc kinh 31%, các dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất thấp: 5,07%.
Biểu đồ 3.2. Tình hình kinh tế của các hộ điều tra
22.7
77.3
Đủ ăn: 22,7%
Nghèo: 77,3%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
81
19
0
20
40
60
80
100
PTTT
Tỷ lệ %
có PTTT
Không có PTTT
Biểu đồ 3.3 Tình hình PTTT của các hộ dân.
Nhận xét: Biểu đồ 3.2 và 3.3 cho thấy: Tỷ lệ hộ nghèo trong mẫu điều
tra cao, chiếm tới 77,3%. Tỷ lệ số hộ có phương tiện truyền thông là 81%,
không có phương tiện truyền thông còn ở mức cao (19%).
Bảng 3.3. Nguồn truyền thông về vệ sinh môi trường
Nguồn truyền thông n %
Nhân viên y tế thôn bản, CTV dân số, dinh dưỡng 130 30,44
CBYT xã 115 26,93
Thày cô giáo ở bản 22 5,15
Thanh niên bản 83 19,44
Các tổ chức chính quyền xã, bản. 90 21,08
Các ban ngành ở xã, bản. 110 5,76
Các tổ chức quần chúng ở xã, bản. 112 26,23
Sinh viên ĐHYK Thái Nguyên 115 26,93
Nhận xét: Qua bảng 3.3 chúng tôi thấy: Nguồn truyền thông về vệ sinh
môi trường đến người dân hàng đầu là từ nhân viên y tế thôn bản, cộng tác
viên dân số (30,44%), tiếp đến là từ cán bộ y tế xã là 26,93%. Thanh niên bản,
các tổ chức chính quyền, tổ chức quần chúng, sinh viên đều trong khoảng từ
19,44% đến 26,93%. Nguồn thông tin từ các ban, ngành ở xã và nhà trường
còn thấp, chỉ chiếm 5,76% và 5,15%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
3.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trƣờng của
ngƣời dân tại các xã nghiên cứu.
Bảng 3.4. Kết quả điều tra về nguồn nước
Các chỉ số n %
Số người kể được tên các loại nguồn nước sạch 213 49,88
Số người kể được tên các loại nguồn nước
không sạch
145 33,96
Số người kể được đúng tên các bệnh do việc sử
dụng nguồn nước không sạch gây ra
154 36,07
Số người dân tin rằng nguồn nước gia đình
mình đang sử dụng là nguồn nước sạch
122 28,57
Số người dân cho rằng cần tìm kiếm nguồn
nước cho gia đình sạch hơn
112 26,23
Số hộ có nguồn nước sạch 93 21,78
Số hộ không có nguồn nước sạch 334 78,22
Số hộ đã có những việc làm thiết thực để bảo vệ
nguồn nước sạch
71 16,63
Số hộ có nhà tắm 32 7,49
Số hộ có hố xử lý nước thải 11 2,58
Nhận xét: Bảng 3.4 cho chúng tôi thấy số người không kể tên được
nguồn nước sạch khá cao (50,12%). Số người không biết các bệnh lây theo và
do nguồn nước 63,93%, có 73,77% số người cho rằng không cần tìm kiếm
nguồn nước sạch hơn, số hộ không có nguồn nước sạch 78,28%, số hộ không
thực hiện các việc làm thiết thực để bảo vệ nguồn nước 83,37% đều là những
tỷ lệ cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Bảng 3.5. Kiến thức, thái độ, thực hành (KAP)
của người dân về nguồn nước.
KAP về nguồn nƣớc n Tỷ lệ %
Kiến thức
Tốt 131 30,68
Trung bình 190 44,5
Yếu 106 24,82
Thái độ
Tốt 75 17,56
Trung bình 227 53,16
Yếu 125 29,28
Thực hành
Tốt 72 16,86
Trung bình 246 57,61
Yếu 109 25,53
Ghi chú: 1. Kiến thức tốt 2. Thái độ tốt 3. Thực hành tốt.
Biểu đồ 3.4. KAP của người dân về nguồn nước
Nhận xét: Kết quả trên cho chúng tôi thấy kiến thức, thái độ, thực hành
của người dân về nguồn nước còn rất thấp: Tỷ lệ số người có kiến thức tốt đạt
30,68% và thái độ tốt, thực hành tốt chỉ chiếm 17,56% và 16,86%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Bảng 3.6. Kết quả điều tra về quản lý phân
Các chỉ số n Tỷ lệ %
Số người kể được tên các loại hố xí hợp vệ sinh 97 22,72
Số người kể được tên các loại hố xí không hợp vệ sinh 92 21,55
Số người kể được đúng tên các bệnh do việc sử dụng
hố xí không hợp vệ sinh gây ra
112
26,23
Số người dân tin rằng hố xí gia đình mình vệ sinh 81 18,97
Số hộ có hố xí 154 36,07
Số hộ có hố xí hợp vệ sinh 49 11,48
Số hộ phóng uế bừa bãi (Không có hố xí) 273 63,93
Số hộ dùng phân để bón ruộng và hoa màu 123 28,80
Nhận xét: Bảng 3.6. cho chúng tôi thấy số hộ có hố xí chiếm tỷ lệ thấp
trong tổng số hộ điều tra (36,07%); trong số các hộ có hố xí, tỷ lệ hố xí hợp vệ
sinh cũng chiếm tỷ lệ thấp (11,48%). Số người kể tên được các hố xí hợp vệ
sinh thấp: 22,72%. Có 26,23% số người dân kể tên được các bệnh do sử dụng
hố xí không hợp vệ sinh gây ra và còn 28,8% số hộ còn dùng phân tươi để
bón ruộng.
Bảng 3.7. KAP của người dân về quản lý phân.
KAP về quản lý phân n Tỷ lệ %
Kiến thức
Tốt 93 21,78
Trung bình 222 51,99
Yếu 112 26,23
Thái độ
Tốt 82 19,20
Trung bình 200 46,84
Yếu 145 33,96
Thực hành
Tốt 48 11,24
Trung bình 123 28,81
Yếu 256 59,95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Ghi chú: 1. Kiến thức tốt 2. Thái độ tốt 3. Thực hành tốt.
Biểu đồ 3.5: KAP của ngƣời dân về quản lý phân
Nhận xét: Về quản lý phân: tỷ lệ số người dân có kiến thức tốt về quản
lý phân chiếm tỷ lệ thấp 21,78 %, tỷ lệ thái độ tốt và thực hành tốt cũng thấp:
11,24% chiếm 19,2%.
Bảng 3.8. KAP của người dân về chuồng gia súc
KAP về chuồng gia súc n Tỷ lệ %
Kiến thức Tốt 138 32,32
Trung bình 133 31,15
Yếu 156 36,53
Thái độ Tốt 132 30,91
Trung bình 123 28,81
Yếu 172 40,28
Thực hành Tốt 103 24,12
Trung bình 26 6,09
Yếu 298 69,79
21.78 19.2
11.24
0
5
10
15
20
25
KAP
Tû lÖ %
1
2
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
32.32
30.91
24.12
0
5
10
15
20
25
30
35
KAP
Tỷ lệ %
Kiến thức tốt
Thái độ tốt
Thực hành tốt
Biểu đồ 3.6. KAP của người dân về chuồng gia súc
Nhận xét: Tổng hợp kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về chăn,
thả, xây dựng chuồng gia súc chúng tôi thấy: Kiến thức tốt của người dân về
vấn đề này còn thấp, mới chỉ đạt 32,32%. Thái độ, thực hành mức độ tốt của
người dân cũng còn thấp, chỉ có 30,91% và 24,12%.
Bảng 3.9. Thái độ và thực hành của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật
Chỉ số n Tỷ lệ %
Thái độ Tốt 81 18,89
Trung bình 125 29,27
Yếu 221 51,76
Thực hành Tốt 38 8,90
Trung bình 77 18,03
Yếu 312 73,07
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
18.89
8.9
0
5
10
15
20
KAP
Tỷ lệ %
Thái độ tốt
Thực hành tốt
Biểu đồ 3.7. Thái độ, thực hành của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật
Nhận xét: Thái độ và thực hành của người dân về hóa chất bảo vệ thực
vật còn chưa tốt. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người dân có thái độ
tốt về hóa chất bảo vệ thực vật là 18,89% và thực hành tốt về hóa chất bảo vệ
thực vật của người dân cũng chỉ chiếm 8,9%.
Bảng 3.10. KAP của người dân về vệ sinh môi trường
KAP về vệ sinh môi trƣờng n Tỷ lệ %
Kiến thức
Tốt 73 17,1
Trung bình 265 62,05
Yếu 89 20,84
Thái độ
Tốt 61 14,29
Trung bình 236 55,27
Yếu 130 30,44
Thực hành
Tốt 35 8,2
Trung bình 189 44,26
Yếu 203 47,54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
17.1
14.29
8.2
0
5
10
15
20
KAP
Tỷ lệ %
Kiến thức tốt
Thái độ tốt
Thực hành tốt
Biểu đồ 3.8. KAP của người dân về vệ sinh môi trường
Nhận xét: Bảng 3.10 cho chúng tôi thấy kiến thức về vệ sinh môi trường
của người dân còn rất thấp mới đạt 17,1%. Tỷ lệ người dân có thái độ tốt và
thực hành tốt về vệ sinh môi trường cũng còn thấp (14,29% và 8,2%) .
3.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trƣờng của ngƣời
dân ở các điểm điều tra
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa tình hình kinh tế
với thực hành vệ sinh môi trường của người dân
Thực hành
Kinh tế
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Đủ ăn 28 28,86 59 60,82 10 10,31 p<0,05
ữ2 =125.4 Nghèo 7 2,12 130 39,39 193 58,48
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Bảng 3.11 cho chúng tôi thấy có mối liên quan giữa tình trạng
đói nghèo với thực hành vệ sinh môi trường của người dân, với p<0,05 chứng
tỏ người dân ở các hộ gia đình đủ ăn có thực hành về VSMT tốt hơn người
dân trong các hộ gia đình nghèo đói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa phương tiện truyền thông với thực hành
vệ sinh môi trường của người dân
Thực hành
PTTT
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Có PTTT 30 8,67 178 51,45 138 39,88
p>0,05
ữ2= 4.52
Không có PTTT 5 6,17 11 13,58 65 80,25
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Qua bảng trên chúng tôi thấy: Không có mối liên quan giữa
thực hành của người dân về vệ sinh môi trường với tình trạng có hay không
có phương tiện truyền thông. Với p>0,05 chứng tỏ ở nhóm người dân có
phương tiện truyền thông và không có phương tiện truyền thông mức độ thực
hành về vệ sinh môi trường là như nhau.
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa trình độ học vấn
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
TĐHV
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Từ THCS trở
lên
25 19,23 92 76,67 13 10,00 p<0,05
ữ
2
=26,62
Tiểu học 16 12,41 41 31,78 72 55,81
Mù chữ, BĐBV 5 2,25 56 31,46 116 66,29
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Qua bảng trên chúng tôi thấy: Với p<0,05 chứng tỏ có mối
liên quan giữa trình độ học vấn với thực hành của người dân về vệ sinh môi
trường. Nhóm có học vấn cao hơn thì thực hành về vệ sinh môi trường tốt
hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa lứa tuổi của người dân với thực hành
về vệ sinh môi trường
Thực hành
Lứa tuổi
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Tuổi: 29 14 19,18 36 49,32 23 31,51
p<0,05
ữ2=
18,74
30-59 18 5,68 141 44,48 158 49,84
60 3 8,11 12 32,43 22 59,46
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa tuổi với
thực hành của người dân về vệ sinh môi trường. Với p<0,05 chứng tỏ thực
hành về vệ sinh môi trường ở các lứa tuổi là khác nhau.
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa giới
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
Giới
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Nam 18 4,90 157 42,78 192 52,32 p<0,05
ữ2=
53,55
Nữ 17 28,33 32 53,33 11 18,33
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa giới với thực
hành của người dân về vệ sinh môi trường, Với p<0,05 chứng tỏ thực hành về
vệ sinh môi trường ở cả hai giới là khác nhau. Tỷ lệ thực hành về vệ sinh môi
trường mức độ tốt và trung bình ở nữ giới cao hơn nam giới (28,33% và
53,33% so với 4,9% và 42,78%). Tỷ lệ thực hành yếu của nam giới cao
52,32%, cao hơn của nữ giới 18,33%).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa thành phần dân tộc
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
Dân tộc
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Kinh 25 19,08 70 53,44 36 27,48 p<0,05
ữ2=
40,15
Khác 10 3,40 119 40,2 167 56,4
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Có mối liên quan giữa dân tộc và thực hành của người dân về
vệ sinh môi trường (p<0,05).
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa kiến thức
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
Kiến thức
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Tốt 25 34,25 43 58,90 5 6,85 p<0,05
ữ2=
128,9
Trung bình 7 2,64 123 46,42 135 50,94
Yêú 3 3,37 23 25,84 63 70,79
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Qua bảng trên cho thấy, với p<0,05 chứng tỏ có mối liên
quan giữa kiến thức về vệ sinh môi trường của người dân với mức độ thực
hành vệ sinh môi trường của họ. Kiến thức càng cao thì tỷ lệ thực hành tốt
càng cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa thái độ
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Thực hành
Thái độ
Tốt Trung bình Yêú p,
ữ
2
n % n % n %
Tốt 30 49, 27 44,26 4 5,56
p<0,05
ữ2=
170,69
Trung bình 3 1,27 101 42,8 132 55,93
Yêú 2 1,54 61 46,92 67 51,54
Tổng cộng 35 8,20 189 44,26 203 47,54
Nhận xét: Qua bảng trên cho thấy, với p<0,05 chứng tỏ có mối liên quan
giữa thái độ về vệ sinh môi trường của người dân với mức độ thực hành vệ
sinh môi trường của họ. Thái độ càng tốt thì tỷ lệ thực hành tốt càng cao.
3.5. Một số kết quả nghiên cứu định tính.
Tại cộng đồng chúng tôi tiến hành một số cuộc thảo luận nhóm với các
nhà lãnh đạo địa phương và người dân. Các cuộc thảo luận tập trung vào các
vấn đề như: Tỡnh hỡnh nguồn nước của người dân địa phương đang dùng để
ăn uống và sinh hoạt như thế nào? Tình hình quản lý phân người và gia súc ra
sao? tỡnh hình xử lý rác thải cũng như hóa chất bảo vệ thực vật? Chỳng tụi
đã thu được kết quả như sau:
*Về vấn đề hố xí: Đa số những người được hỏi và tham gia thảo luận cho
rằng tỷ lệ hộ gia đình có hố xí tại địa phương còn thấp, hố xí hợp vệ sinh cũng
còn thấp. Theo Ông Bàn Văn Ch. - Xóm Cây thị, xã Cây Thị cho rằng: "về hố
xí vệ sinh của các hộ gia đình trong 8 xóm, tôi thấy đa số các hộ gia đình
chưa có hố xí hợp vệ sinh.." Ông Bùi Đình X. - UBMTTQ Xã Cây Thị –
Trưởng ban chỉ đạo vệ sinh môi trường cho biết: "Tỷ lệ hộ gia đình có hố xí
hợp vệ sinh mới đạt gần 20% ..". Còn theo Ông Bàn Văn T. - UBND Xã Cây
Thị: "Số hộ có hố xí hợp vệ sinh rất ít, còn lại chủ yếu là hố xí không hợp vệ
sinh và tạm bợ, thậm chí nhiều hộ chưa có..."
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Theo Bà Đặng Thị V.- Nhân viên y tế thôn bản xóm Hoan: "Hố xí ở
vùng sâu chưa được thực hiện ở các hộ gia đình..." Còn Bà Lê Thị H. - Giáo
viên trường tiểu học Cây thị: "Các gia đình có nhà xí nhưng cũng chưa đảm
bảo vệ sinh (hố xí một ngăn) và có gia đình không có nhà xí còn đi bừa bãi..."
Theo Ông Triệu Phúc Ph. – Nhân viên Y tế thôn bản Khe Cạn: "Hố xí ở các
hộ gia đình hầu như chưa có, những hộ có là những hố xí không hợp vệ sinh,
vì có một ngăn và chuyên đi bừa bãi..."
Ông Nguyễn Chí Hiển - Trạm trưởng Y tế xã Cây Thị cho biết: "Hố xí
hợp vệ sinh ở xã Cây Thị mới chỉ đạt 13% tổng số hộ ở 4 xóm vùng sâu..."
* Về vấn đề nguồn nước sạch: Theo Bà Đặng Thị V. – Nhân viên y tế
thôn bản xóm Hoan: "Nguồn nước xóm Hoan xa xôi, nước bị ô nhiễm là do
làm vàng nước đục..." Còn Bà Lê Thị H. - Giáo viên trường tiểu học Cây Thị
cho biết: "Đa số các gia đình sử dụng các nguồn nước từ giếng khơi, nhưng
một số gia đình còn có giếng ở gần chuồng gia súc nên chưa đảm bảo vệ
sinh..". Bà Nguyễn Thị Ph. - Trường tiểu học Cây Thị cũng cho biết: "Nguồn
nước mà người dân hiện nay đang dùng có khoảng 80% giếng đào xây miệng,
còn 20% là chưa hợp vệ sinh do nhân dân còn dùng nước khe, nước suối ở
các xóm vùng sâu..." Theo Ông Triệu Văn T. - Xóm Khe Cạn: "Nước ở trong
xóm có nhiều hộ không hợp vệ sinh vì sử dụng nước khe..." Theo Ông
Nguyễn Trọng Kh. - Hội nông dân xã Cây Thị: "Nguồn nước địa phương
đang dùng chủ yếu là giếng khơi, nguồn nước không hợp vệ sinh khoảng 80%
nguyên nhân ô nhiễm do chăn thả gia súc kết hợp do chặt phá rừng đầu
nguồn..." Ông Bàn Văn L. - Xóm Cây Thị cho biết: "Đa số các hộ gia đình
trong bản dùng nước giếng. Một số hộ dùng nước không đảm bảo vệ sinh do
gia đình đào giếng không xây thành xung quanh và vườn trồng vải thường
phun thuốc trừ sâu..."
Theo Bà Đỗ Thị H. - Xóm Khe Cạn: "Nước sạch ở trong xóm có nhiều
hộ không hợp vệ sinh vì sử dụng nước khe, phân gia súc thả rông"... Ông
Nguyễn Văn Th. - Xóm Suối Găng cho biết: "Dân ở xóm 90% dùng nước
giếng". Ông Bùi Đình X.- Ủy ban mặt trận tổ quốc xã Cây Thị cho biết:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
"Riêng xóm Cây Thị có dùng nước mạch từ núi về cho 11 hộ dùng và 3 xóm
vùng sâu có dùng máng dẫn nước từ suối về để sinh hoạt ăn uống từng
ngày..."
*Về vấn đề nhà tắm: Ông Bàn Văn T. - UBND Xã Cây Thị cho biết:
"Xã có trên 30% số hộ có nhà tắm đảm bảo, số còn lại còn tạm bợ, còn nhiều
hộ chưa có nhà tắm..". Theo Bà Nguyễn Thị Ph. - Trường tiểu học Cây Thị:
"Nhà tắm có khoảng 30 - 40% còn lại nhà tạm và có nhà còn chưa có chủ yếu
là vùng sâu..". Ông Triệu Phúc Ph. – Nhân viên y tế thôn bản xã Khe Cạn:
"Nhà tắm còn rất ít có vài chiếc chủ yếu là nhà tre"...
Khi phân tích các nguyên nhân của thực trạng không tốt về nhà vệ sinh,
nhà tắm, nguồn nước ở các bản vùng sâu của xã Cây Thị có một số ý kiến
chính sau:
Theo Ông Bùi Đình X.- Ủy ban mặt trận tổ quốc xã Cây Thị: "Nguyên
nhân gây ô nhiễm nguồn nước là do khai thác khoáng sản như quặng sắt , số
ít hộ còn chăn nuôi thả giông, công trình vệ sinh làm gần giếng nước ăn ở.
Còn hố xí chưa hợp vệ sinh do tập tục còn lạc hậu, công tác truyền thông
chưa sâu rộng, chưa thường xuyên..." Theo Ông Bàn Văn T. - UBND xã Cây
Thị: "Lý do nhận thức để chuyển đổi hành vi của các hộ gia đình còn hạn chế
về vệ sinh môi trường, còn nhiều hộ chưa có nhà tắm do các hộ đó còn nghèo
chưa có điều kiện xây dựng..." Ông Triệu Phúc Ph.- Nhân viên Y tế thôn bản
Khe Cạn: "Hố xí đa số là chưa có là do người dân còn nhiều tập quán lạc
hậu, quan niệm cũ kỹ đó là cứ ra rừng và vườn xung quanh nhà, ở đó rộng rãi
thoải mái..."
Theo bà Phạm Thị M. - Giáo viên trường tiểu học Cây Thị: "Vấn đề chuồng
trại nuôi gia súc còn thả giông và làm chưa hợp vệ sinh..." Ông Nguyễn
Trọng Kh. - Hội nông dân xã: "Chuồng gia súc và nuôi thả gia súc hiện nay
cũng không còn mấy nếu có thì chủ yếu ở các xóm vùng sâu, tỷ lệ sử dụng hố
xí còn thấp do thói quen vì do tập quán..." Ông Dương Minh Th. - Uỷ ban
nhân dân xã Cây Thị: "Hiện nay hố xí các hộ chưa hợp vệ sinh nhất là các
xóm vùng sâu vùng xa lý do là theo thói quen gần rùng và suối. Hiểu biết của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
nhân dân về vệ sinh còn rất hạn chế . Riêng 3 xóm vùng sâu vẫn còn thả
giông lợn..." Theo Bà Dương Thị Ch. – Nhân viên Y tế thôn bản xóm Suối
Găng: "Một số hộ chưa có nguồn nước hợp vệ sinh và một số hộ không đủ
nước ăn trong bốn mùa vì nước giếng cạn. Chuồng gia súc còn một số hộ làm
chưa đúng theo quy định..." Ông Hoàng Văn H. - Cán bộ văn hoá xã hội xã
Cây Thị: "Tình trạng hiểu biết của người dân 3 xóm vùng sâu về vệ sinh môi
trường còn chưa tốt vì dân cư sống không tập chung và nhiều dân tộc trình độ
dân trí còn thấp. Tình trạng vệ sinh nhà ở, xóm bản dân tộc chăn thả gia súc
ở một số xóm còn thả giông chưa quy hoạch. Nhà ở xóm bản còn ở thưa ở
trong các vùng sâu".
Như vậy qua thảo luận nhóm với cộng đồng chúng tôi thấy mọi người
đều xác nhận tỷ lệ người dân có nước sạch, hố xí vệ sinh, nhà tắm rất thấp.
Nguyên nhân hàng đầu là do tập quán, phong tục lạc hậu, do nghèo đói...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Chƣơng 4
BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng kinh tế, văn hoá, xã hội ở các điểm điều tra
Huyện Đồng Hỷ là một huyện miền núi còn khó khăn của tỉnh Thái
Nguyên. Năm 2005 thu nhập bình quân đầu người đạt gần 5 triệu đồng. 20/20
xã đã có điện lưới quốc gia, đến nay có 85% số hộ có điện sử dụng, 70% số
xã có đường nhựa tới trung tâm, 13/20 xã có chợ, 15/20 xã có trung tâm văn
hóa xã, tỷ lệ điện thoại 4 máy/100 hộ. Huyện đã hoàn thành phổ cập tiểu học
vào năm 2002, phổ cập trung học cơ sở vào năm 2003. Về phương tiện nghe
nhìn: 75% số hộ có truyền hình, 95% số hộ có phương tiện nghe nhìn. Tỷ lệ
hộ nghèo là 23,66% năm 2006 và 20,55% năm 2007. Như vậy, so với các tỉnh
thuộc vùng trung du bắc bộ, huyện Đồng Hỷ có các chỉ số kinh tế xã hội vào
mức chung của khu vực, đây cũng là yếu tố chi phối đến các vấn đề sức khỏe
của người dân [40].
Xã Hợp tiến và xã Cây Thị là hai xã đặc biệt khó khăn của huyện Đồng
Hỷ. Hoạt động kinh tế của người dân chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và
trồng rừng, vào thời gian nông nhàn, hầu hết lao động chính của các hộ gia
đình tham gia khai thác khoáng sản, chủ yếu là khai thác quặng sắt, vàng.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ hộ nghèo của các bản vùng sâu của hai
xã là 77,3%, cao gấp hơn 3 lần so với tỷ lệ chung của cả huyện. Cao hơn rất
nhiều so với tỷ lệ đói nghèo của tỉnh và tỷ lệ đói nghèo của khu vực theo kết
quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản toàn quốc năm 2006
[40]. Tỷ lệ này cũng cao hơn kết quả nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai tại
9 tỉnh phía bắc và Tây Nguyên (68,9%) [34], cao hơn rất nhiều so với nghiên
cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh tại xã La Hiên huyện Võ Nhai (19,9%) [32]
và cũng cao hơn so với nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn và Lê Thị Ánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Nguyệt tại hai xã Tân Long và Văn Lăng huyện Đồng Hỷ (49,1 và 47,7%)
vào năm 2003 [35]. Nếu so sánh về tính tương đồng về điều kiện địa lý, văn
hóa thì hai xã Văn Lăng và Tân Long trong nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn
và Lê Thị Ánh Nguyệt [35] có thể tương đương hai xã chúng tôi nghiên cứu,
nhưng về mặt thời điểm thì hiện nay cách tính tỷ lệ đói nghèo theo chuẩn mới
khác với chuẩn cũ trước kia ( Chuẩn cũ đối với hộ gia đình thuộc khu vực
nông thôn, miền núi có thu nhập trung bình dưới 120.000 đồng/ người/tháng
là hộ nghèo, hiện nay theo quyết định 170 năm 2005 của Bộ Lao động,
thương binh và xã hội thì hộ nghèo ở khu vực này được tính có mức thu nhập
bình quân đầu người dưới 200.000đ/ người/ tháng) chính vì vậy chưa có cơ
sở để khẳng định tỷ lệ đói nghèo trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn Văn
Lăng và Tân Long, nhưng rõ ràng có thấp hơn mặt bằng chung của huyện vì
đây là hai xã đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ đói nghèo cao ảnh hưởng rất nhiều đến
tốc độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và là nguyên nhân chính tác động
tiêu cực đến các vấn đề sức khỏe, trong đó có vấn đề vệ sinh môi trường.
Trình độ học vấn của các đối tượng điều tra nhìn chung là thấp, tỷ lệ
chủ hộ mù chữ là 12,40% và biết đọc, biết viết là 29,30%, tỷ lệ chủ hộ có
trình độ tiểu học cũng khá cao (30,2%). Như vậy, tỷ lệ chủ hộ có trình độ học
vấn từ tiểu học trở xuống chiếm tới trên 70%, tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu
của Nguyễn Thị Khánh Linh ở La Hiên – Võ Nhai [32], cao hơn rất nhiều so
với nghiên cứu của Bế Ngọc Hùng tại hai xã của thị xã Bắc Kạn năm 2006
[26] tương đương với nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn và cộng sự tại hai xã
vùng cao Văn Lăng và Tân Long của huyện Đồng Hỷ [21], tỷ lệ này cũng
tương đương với nghiên cứu của Lê Thị Ánh Nguyệt [36] nhưng thấp hơn
nghiên cứu của Đàm khải Hoàn, Nguyễn Thành Trung và cộng sự tại 9 tỉnh
miền núi và Tây Nguyên [18]. Trình độ học vấn của các đối tượng nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng tiếp cận đến các kiến thức nói chung
trong đó có kiến thức về vệ sinh môi trường và bảo vệ sức khỏe [23].
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ số hộ có các phương tiện nghe nhìn
của hai xã là 81%, kết quả ước tính trong quá trình điều tra của các điều tra
viên thì số hộ có tivi khoảng 70%, tỷ lệ này thấp hơn so với tỷ lệ chung của
toàn huyện năm 2005, nhưng cao hơn so với nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn
và cộng sự [20] tại Tân Long và Văn Lăng (50% và 55%) năm 2003 và bằng
tỷ lệ chung toàn quốc tại thời điểm năm 2006 [40]. Tỷ lệ phương tiện truyền
thông còn thấp chắc chắn liên quan mật thiết đến thực trạng kinh tế và tình
hình đói nghèo tại hai xã điều tra. Về mặt chăm lo của xã hội: Hiện nay hệ
thống loa công cộng đã đến được hầu hết số thôn bản trong cả hai xã, nhưng
quá trình điều tra cũng như kết quả thảo luận với người dân cho thấy hiệu quả
trong công tác tuyên truyền chưa cao, chất lượng truyền thanh kém, hiện có 3
xóm của xã Cây Thị, 3 xóm của xã Hợp Tiến loa truyền thanh không còn sử
dụng được. Chúng tôi chưa có điều kiện điều tra và trong quá trình nghiên
cứu cũng chưa được tiếp cận với các tài liệu liên quan đến thói quen khai
thác, thưởng thức và sử dụng các phương tiện nghe nhìn của người dân, nhất
là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng thực trạng trên cũng cho thấy tỷ lệ
số hộ có các phương tiện nghe nhìn và vấn đề thông tin công cộng tại hai xã
điều tra của chúng tôi còn rất nhiều hạn chế, điều này ảnh hưởng nhiều đến
đến khả năng tiếp cận với chủ trương chính sách của Đảng về vệ sinh môi
trường nói riêng cũng như việc nâng cao kiến thức về chăm sóc sức khỏe của
người dân nói chung.
Tỷ lệ dân tộc trong đối tượng điều tra tập trung chủ yếu là người Dao
(63,93%), tỷ lệ chủ hộ là người Kinh cũng tương đối đông (31%), kết quả này
có sự khác biệt so với nghiên cứu của Lê Thị Ánh Nguyệt tại xã Văn Lăng và
Tân Long (Văn Lăng: 20,6% và 26,1%; Tân Long: 54% và 26%) [36], và có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
sự khác biệt về thành phần dân tộc với nghiên cứu của Võ Thị Mai ở Ôn
Lương huyện Phú Lương cho kết quả thành phần dân tộc của chủ hộ chủ yếu
là dân tộc Tày (77,1%) và dân tộc Kinh: 20,5% [33]. Tỷ lệ này cũng có sự
khác biệt với nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai tại 9 tỉnh miền núi phía
bắc và Tây nguyên: Dân tộc Dao chiếm 16,2% [34]. Kết quả chung tổng điều
tra nông thôn nông nghiệp và thủy sản toàn quốc cho tỷ lệ thành phần dân tộc
chủ hộ như sau: Chủ hộ là dân tộc kinh: 85%; Tày 2,2%; Thái 2%; Dao: 0,9%
[40]. Rõ ràng khu vực nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt so với rất
nhiều kết quả nghiên cứu khác, kể cả kết quả các cuộc điều tra trong cả nước
về thành phần và cơ cấu dân tộc. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân
tộc có một nét văn hóa và các phong tục tập quán riêng, có những tập quán tốt
cho sức khỏe con người nhưng cũng có những tập quán còn ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe [43]. Thành phần dân tộc của chủ hộ trong mẫu điều tra của
chúng tôi có tỷ lệ người Dao rất cao. Chúng ta cũng cần lưu ý rằng: Trước
đây người Dao có tập quán du canh, du cư, nay đã cơ bản định cư, trồng lúa
nước, khai thác vườn rừng [24]. Nhà ở của người Dao thường là nhà thấp, nền
đất, chia nhiều phòng, trong phòng chứa nhiều thóc, ngô nên thường tối và
chật chội [43], người Dao thích đẻ nhiều con [24]. Do du canh du cư nên
người Dao chặt phá, đốt trụi hầu hết rừng cây nơi họ sinh sống làm cho nhiều
nguồn nước bị cạn kiệt. Việc chăn thả các loại gia súc, gia cầm bừa bãi,
không thích sử dụng hố xí là tập quán lâu đời của họ [24][44]. Tỷ lệ người
Dao sống tập trung cũng là những yếu tố cần nghiên cứu trong công tác tuyên
truyền giáo dục sức khỏe cũng như việc triển khai các chương trình mục tiêu
về y tế. Bên cạnh đó, một vấn đề cần lưu tâm đó là sự đan xen các dân tộc tại
địa điểm nghiên cứu, nhất là tỷ lệ người Kinh trong cộng đồng tại địa bàn
nghiên cứu, sự đan xen này chắc chắn sẽ tạo ra những thuận lợi trong giao lưu
văn hóa, nhất là văn hóa vệ sinh có lợi cho sức khỏe, đây là những gợi ý cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
những người làm công tác tuyên truyền giáo dục cần khai thác trong thực hiện
các mục tiêu y tế nói chung.
Bên cạnh thành phần dân tộc, thành phần giới của chủ hộ cũng là vấn đề
cần nghiên cứu vì nó liên quan đến văn hóa gia đình Á đông. Trong đó có vấn
đề về vai trò chủ hộ trong việc quyết định các công việc liên quan đến xây
dựng các công trình các công trình của gia đình cũng như các công trình vệ
sinh và các công trình liên quan đến sức khỏe. Ở Việt Nam, quan điểm trọng
nam theo ảnh hưởng của Nho giáo còn lớn [45]. Nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy tỷ lệ chủ hộ là nam giới chiếm tới 85,9%, đây có thể là yếu tố thuận
lợi cho việc triển khai thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, nếu
tuyên truyền tốt, việc quyết định thực hiện thay đổi hành vi có thuận lợi vì vai
trò quyết định của đàn ông trong văn hóa gia đình Á đông truyền thống, tuy
nhiên nếu tuyên truyền không tốt, thì đây lại là cản trở [45].
Trong nghiên cứu của chúng tôi về các kênh thông tin tuyên truyền vệ
sinh môi trường đến với người dân, ngoài các phương tiện thông tin đại
chúng, thì thông tin về vệ sinh môi trường của các kênh trực tiếp đến với
người dân chủ yếu là từ nhân viên y tế thôn bản, nhân viên y tế xã, từ các tổ
chức đoàn thể, nhất là vai trò của đoàn thanh niên và sinh viên đại học y khoa
Thái Nguyên. Nguồn thông tin từ bộ máy chính quyền và của các thầy cô giáo
còn rất ít. Điều đó cho thấy, chính quyền địa phương chưa quan tâm và chưa
có nhiều tập chung tuyên truyền về vệ sinh môi trường, chưa có sự lãnh đạo
kiên quyết về vấn đề này, hoặc có nhưng hiệu quả còn thấp. Công tác tuyên
truyền trong các nhà trường để giáo dục thiếu niên, nhi đồng và phát huy vai
trò của lực lượng này trong vận động thay đổi hành vi vệ sinh môi trường của
người lớn là chưa tốt.Trong những năm gần đây, trường Đại học y khoa Thái
Nguyên đã đưa nhiều đợt sinh viên đi cộng đồng tại hai xã chúng tôi nghiên
cứu, và sinh viên cũng đóng góp 26,93% vào cơ cấu nguồn thông tin về vệ
sinh môi trường cho người dân. Tuy nhiên kết quả về thay đồi hành vi vệ sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
môi trường như nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, cần nghiên cứu hiệu quả
công tác tuyên truyền miệng và tăng cường hoạt động này để kết hợp với các
kênh thông tin khác nhằm thay đổi kiến thức và hành vi người dân về vệ sinh
môi trường theo hướng tích cực. Mặt khác, song song với công tác tuyên
truyền vận động, cần phát huy vai trò của những người có uy tín trong cộng
đồng để động viên và làm gương cho nhân dân noi theo [23]. Kết quả các
cuộc thảo luận với cộng đồng cho thấy, một số cán bộ, đảng viên gương mẫu
trong thực hiện các vấn đề liên quan đến vệ sinh môi trường có ý nghĩa tích
cực trong vận động cộng đồng thực hiện. Bên cạnh đó, một số đảng viên chưa
gương mẫu cũng gây ảnh hưởng đến hiệu quả công tác vận động thay đổi
hành vi vệ sinh môi trường của người dân.
Trong chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn giai đoạn 2006-2010 đã xác định: xã hội hóa lĩnh vực nước
sạch và vệ sinh môi trường là điều kiện tiên quyết cho thực hiện có hệu quả
và bền vững các mục tiêu của chương trình này, trong đó công tác giáo dục
phải được tiến hành thường xuyên, chú trọng đến việc phát huy vai trò của đội
ngũ nhân viên y tế thôn bản, của các ngành, đoàn thể tại địa phương, chú ý
đến các đối tượng có trình độ học vấn thấp, trẻ em. Quan tâm đến các loại
hình tuyên truyền trực tiếp, các hoạt động sân khấu hóa, công tác tiếp thị xã
hội để nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi của người dân về vệ sinh môi
trường. Đồng thời huy động các nguồn lực xã hội cùng tham gia vào thực
hiện các mục tiêu về nước sạch, vệ sinh môi trường[3]. Như vậy, việc đánh
giá đúng khả năng tham gia của các ban ngành, đoàn thể tại địa phương cũng
như khả năng của toàn xã hội tham gia vào lĩnh vực vệ sinh môi trường cũng
cần thiết phải đặt ra để có thể rút ngắn thời gian thực hiện các mục tiêu của
lĩnh vực này.
Những vấn đề trên cho thấy, thực trạng kinh tế xã hội tại hai xã điều tra
còn nhiều khó khăn: tỷ lệ nghèo đói cao, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
còn chưa tốt, hệ thống nhà văn hóa, phương tiện truyền thanh công cộng còn
yếu, dân cư ở phân tán, nhiều khu vực cách xa trung tâm xã, sự quan tâm của
các ban ngành, đoàn thể đến công tác VSMT còn chưa tốt. Nguyên nhân trên
làm cho khả năng tiếp nhận các thông tin, kiến thức để thay đổi hành vi về vệ
sinh môi trường gặp nhiều khó khăn. Các vấn đề này đang tạo ra một vòng
luẩn quẩn giữa đói nghèo và sức khỏe cần thiết phải có các giải pháp đồng bộ
để khắc phục.
4.2. Thực trạng kiến thức thái độ thực hành về vệ sinh môi trƣờng của
ngƣời dân ở hai xã điều tra:
4.2.2. Về hố xí
Đã có nhiều nghiên cứu trước đây về vấn đề hố xí hợp vệ sinh, về giải
quyết vấn đề ảnh hưởng của phân người đến sức khỏe con người cũng như mô
hình bệnh tật ở các vùng khác nhau liên quan đến tỷ lệ và tình trạng sử dụng
hố xí hợp vệ sinh ở các vùng sinh thái khác nhau, với nhiều khuyến cáo nhằm
cải thiện mô hình bệnh tật liên quan đến phân người. Đảng, nhà nước, ngành
y tế cũng đã có nhiều chủ trương nhằm tăng tỷ lệ sử dụng hố xí hợp vệ sinh
của người dân [5]. Tuy nhiên, vấn đề này hiện nay vẫn đang gặp rất nhiều khó
khăn. Tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh nhìn chung vẫn còn thấp, nhất là các khu vực
nông thôn, vùng sâu, vùng cao. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tại hai xã
điều tra, chỉ có 36,07% số hộ có hố xí, số hộ có hố xí hợp vệ sinh là 11,48%.
So sánh với nghiên cứu của Trịnh Hữu Vách, Nguyễn Thị Hồng Tú và
Nguyễn Hùng Long tại 82 xã, thị trấn của hai tỉnh Quảng Bình và Thừa
Thiên-Huế là hai tỉnh cũng còn có nhiều khó khăn trong toàn quốc nói chung
vào năm 2004, cho thấy: Tỷ lệ số hộ có hố xí là 73,7%, số hộ có hố xí hợp vệ
sinh là 33,7% [40], thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi về 2 chỉ số này thấp
hơn rất nhiều. So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh tại huyện Ba
Bể- Bắc Kạn cũng cho thấy tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh ở đây từ 20% đến 63,3%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
[38], thì chúng tôi thấy có sự tương đồng về tỷ lệ này ở một số khu vực trong
nghiên cứu đó như đối với các xã Khang Ninh và Cao Thượng của huyện Ba
Bể. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh tại La Hiên- Võ Nhai cũng cho
kết quả tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh tại xã này là 58,72% [32], cao hơn nhiều so với
nghiên cứu của chúng tôi. Nếu so với kết quả tổng điều tra về nông thôn,
nông nghiệp và thủy sản năm 2006 với kết quả tỷ lệ số hộ có hố xí là 88,8%
và hố xí hợp vệ sinh là 47%, trong đó, đối với khu vực vùng cao thì tỷ lệ
không có nhà tiêu cũng chỉ là 28,63% [40] thì tỷ lệ có hố xí và có hố xí hợp
vệ sinh tại hai xã nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn nhiều.
Có thể minh họa việc so sánh tỷ lệ hố xí và hố xí hợp vệ sinh tại hai xã
nghiên cứu với một số nghiên cứu và điều tra trước đây như sau:
36.07
11.48
73.7
33.7
93.94
58.72
88.8
47
0
20
40
60
80
100
2 xã NC Trịnh Hữu Vách N.T.K Linh Tổng ĐTNNNTS
NC
Tỷ lệ %
Có HX HX hợp VS
Hình 4.1: So sánh tỷ lệ hộ gia đình có hố xí và có hố xí hợp vệ sinh tại 2
xã nghiên cứu với một số nghiên cứu và điều tra khác.
Từ kết quả nghiên cứu và so sánh trên cho thấy: Tỷ lệ có hố xí và hố xí
hợp vệ sinh của hai xã nghiên cứu là rất thấp. So sánh kết quả nghiên cứu của
chúng tôi với các nghiên cứu ở những địa điểm có sự tương đồng về tình hình
kinh tế, văn hóa, xã hội như đối với các nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn [20]
và nghiên cứu của Lê Thị Ánh Nguyệt [36] thì thấy có sự tương đồng về tỷ lệ
số hộ có hố xí cũng như số hộ có hố xí hợp vệ sinh. Nhưng so với các nghiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
cứu trong phạm vi địa bàn rộng hơn, đa dạng hơn hoặc điều kiện kinh tế xã
hội cao hơn như kết quả tổng điều tra về nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
năm 2006 [40], hoặc nghiên cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh [32], của Trịnh
Hữu Vách và cộng sự [44] thì có sự chênh lệch rất lớn về tỷ lệ hố xí hợp vệ
sinh, nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ hố xí cũng như tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh
đều thấp hơn. Có thể nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trên địa bàn
các bản vùng sâu của hai xã tương đối thuần nhất về điều kiện kinh tế xã hội,
hai xã này còn nhiều khó khăn, số lượng dân tộc ít người đông với các tập
quán riêng của họ, đồng thời với công tác tuyên truyền còn nhiều hạn chế nên
đây cũng là nguyên nhân chính làm cho tỷ lệ hố xí còn thấp. Điều này phù
hợp với nhận xét của Lê Anh Tuấn về những nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ
nhà vệ sinh thấp tại các khu dân cư đó là vấn đề kinh tế, thu nhập và quan
niệm của người dân [41]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với
đánh giá của UNEP trong phạm vi toàn cầu về mối liên hệ giữa đói nghèo và
tỷ lệ người dân tiếp cận với các công trình vệ sinh: ở Đông Phi, sau 10 năm kể
từ 1990, do vấn đề kinh tế, số người dân không được tiếp cận với hố xí hợp vệ
sinh đã giảm đi 9% [50]. Vấn đề này đặt ra cho việc xác định các giải pháp
phải nâng cao đời sống kinh tế kết hợp với tăng cường công tác giáo dục nâng
cao nhận thức người dân nhằm cải thiện tình hình yếu kém về xây dựng và sử
dụng công trình vệ sinh, góp phần vào nâng cao sức khỏe cho người cộng
đồng dân cư.
4.2.1. Về nguồn nước sạch
Theo điều tra của chúng tôi, số hộ có nguồn nước sạch là 21,78%, tỷ lệ
này nhìn chung là thấp, số hộ không có nguồn nước sạch chiếm tới 78,22%.
Tuy nhiên số hộ có nguồn nước sạch trong nghiên cứu của chúng tôi tương
đương với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
với số hộ có nguồn nước sạch là 24,7% [38], tương đương với nghiên cứu của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
Đàm Khải Hoàn và cộng sự tại hai xã Tân Long và Văn Lăng (Đồng Hỷ) với
tỷ lệ tương ứng là 20,4% [21], nhưng so với kết quả tổng điều tra trong toàn
quốc vào thời điểm năm 2006 với 63% số hộ dân sử dụng nước sạch [40], thì
tỷ lệ sử dụng nước sạch trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều và
cũng thấp hơn so với tỷ lệ sử dụng nguồn nước sạch trong toàn tỉnh Thái
Nguyên là 57,96% [40]; cũng thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Thị Khánh
Linh tại La Hiên- Võ Nhai [32]. Vấn đề này có thể lý giải bởi sự tương đồng
về địa lý cũng như một số vấn đề về kinh tế, xã hội tại các điểm nghiên cứu
của chúng tôi với nghiên cứu của Đàm Khải Hoàn [21] và Nguyễn Thị Thanh
[38] nên tỷ lệ số hộ có nguồn nước sạch cũng tương đương nhau, còn trong
các điều tra trong phạm vi cả nước có nhiều vùng sinh thái thì chắc chắn tỷ lệ
sẽ cao hơn khi chúng tôi chỉ nghiên cứu ở các bản của các xã đặc biệt khó
khăn, ngay nghiên cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh tại La Hiên- Võ Nhai
[32] cũng là một địa bàn thuộc một huyện khó khăn của tỉnh Thái Nguyên,
nhưng La Hiên là một thị trấn có khu công nghiệp và có thu nhập người dân
cao hơn [32] nên tỷ lệ này cũng cao hơn. Điều này cũng phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Bộ Y tế [9] về sự khác biệt giữa tỷ lệ sử dụng nước sạch ở
thành thị và nông thôn đã trình bày tại phần 1.1.2.1 ở trên cũng như sự phụ
thuộc vào khu vực sống, địa hình và mức sống và tỷ lệ người phải hạn chế sử
dụng nước vì thiếu nước ở nông thôn cao hơn thành thị [9].
So sánh kết quả nghiên cứu của chúng tôi với một số kết quả của các
nghiên cứu khác, chúng tôi có biểu đồ 4.2 như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
24.7
20.4
60 57.96
21.78
0
10
20
30
40
50
60
N.T Thanh §µm Kh¶i
Hoµn
N.T.K Linh Tæng
§TNNNTTS
2 x· N.C
NC
Tỷ lệ %
Biểu đồ 4.2: So sánh tỷ lệ hộ gia đình có nƣớc sạch
với một số nghiên cứu khác.
Biểu đồ 4.2 cho thấy tỷ lệ hộ gia đình có nguồn nước sạch tại hai xã
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nhiều nghiên cứu và điều tra khác.
Qua kết quả điều tra và nghiên cứu định tính thông qua thảo luận nhóm
cho thấy do địa hình của hai xã, việc đào giếng tương đối khó khăn, nhất là
các hộ trên các đồi, trên các khu vực đất cao. Quá trình thảo luận với người
dân cũng cho thấy, nhiều giếng đào rất sâu mà không có nước. Ông Triệu
Phúc Ph. - Nhân viên y tế thôn bản xóm Khe Cạn cũng khẳng định rằng giếng
đào phải 6 đến 13 m mới có nước, nhiều giếng đào khá sâu mà không có nước
hoặc bị cạn. Còn bà Dương Thị Ch. - Nhân viên y tế thôn bản xóm Suối Găng
cho biết có nhiều giếng nước khô cạn do đó nhiều hộ thiếu nước cả bốn mùa.
Có thể khẳng định các mạch nước ngầm, nước khe do quá trình khai thác cạn
kiệt tài nguyên rừng nên cũng đã khô cạn, thiếu nước ăn xảy ra ở một số khu
vực trong xã. Vấn đề này cũng phù hợp với kết quả Tổng điều y tế quốc gia
về vấn đề các nguồn nước liên quan đến đặc điểm địa hình và vùng địa lý [9].
Các nguồn nước của người dân trong hai xã nghiên cứu cũng tương đối phong
phú bao gồm nước giếng đào, giếng khoan, nước khe. Bà Nguyễn Thị Ph. –
Giáo viên trường tiểu học Cây Thị cho biết do người dân thiếu nước sinh hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
nên còn tới 20% nhân dân còn dùng nước khe, suối ở các xóm vùng sâu. Ông
Triệu Văn T. - Xúm Khe Cạn cho biết nước sạch ở trong các thôn xóm có
nhiều hộ không hợp vệ sinh vì sử dụng nước khe. Điều kiện địa lý, phong tục
tập quán, thiếu các nguồn nước cũng làm ảnh hưởng đến tỷ lệ số hộ có nước
sạch, ảnh hưởng đến việc cung ứng nguồn nước sạch, đến sinh hoạt và vệ sinh
của người dân. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả điều tra y tế quốc gia
2001-2002, trong đó có tỷ lệ 21% số hộ trong toàn quốc sử dụng nước giếng
khoan và giếng khơi nhưng chỉ có 1/3 số đó xử lý nước trước khi sử dụng [9].
Cũng như nghiên cứu trong phạm vi cả nước, tình trạng thiếu nước ở một số
khu vực trong hai xã mà các hộ dân phải tìm đến các nguồn nước kém vệ sinh
hơn để ăn uống và hạn chế lượng nước dùng rửa thực phẩm và tắm giặt, nhất
là có đến 10% số hộ dùng thẳng nước ao hồ, nước suối không qua xử lý phục
vụ ăn uống và sinh hoạt [9].
Về chất lượng nguồn nước, chúng tôi chưa có điều kiện thực hiện các
xét nghiệm hoá lý và vi sinh để đánh giá chất lượng nguồn nước tại địa điểm
nghiên cứu. Tuy nhiên một số nghiên cứu định tính có thể cho những nhận
định ban đầu về chất lượng nguồn nước tại hai xã nghiên cứu. Các kết quả
nghiên cứu về tình hình sử dụng hố xí cùng với kết quả thảo luận với người
dân và lãnh đạo địa phương cho thấy có nhiều vấn đề làm ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nước như tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh còn thấp, việc xây dựng chuồng
gia súc và tập quán chăn thả rông gia súc, việc bảo vệ nguồn nước, vấn đề
khai thác khoáng sản, lâm sản…chắc chắn làm cho chất lượng nguồn nước bị
ảnh hưởng lớn.
4.3. Mối liên quan giữa các yếu tố với thực hành về vệ sinh môi trƣờng
của ngƣời dân
4.3.1 Mối liên quan giữa tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân
với thực hành về vệ sinh môi trường:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối liên quan giữa tình
hình kinh tế của người dân với thực hành của họ về vệ sinh môi trường. Như
đã phân tích ở trên, hai xã trong mẫu nghiên cứu này là hai xã có tỷ lệ nghèo
đói cao không chỉ đối với mặt bằng chung của huyện mà ngay trong tỉnh và cả
với tỷ lệ nghèo đói chung trong toàn quốc theo những nghiên cứu kết quả điều
tra gần đây [20], [21], [32], [36]. Sự liên quan này thể hiện: Đối với các hộ
nghèo thì tỷ lệ hộ dân thực hành vệ sinh môi trường tốt là 2,12%, trung bình
là 39,39% và yếu là 58,48%. Trong khi đó, đối với các hộ đủ ăn, tỷ lệ này có
sự khác biệt rõ ràng: 28,86% thực hành tốt, mức độ trung bình là 60,82% và
yếu chỉ có 10,31% (p<0,05). Như vậy, những người dân có mức sống thấp
hơn thì nhận thức, thái độ và thực hành về vệ sinh môi trường kém hơn so với
những người có mức sống cao hơn. Điều này có thể là do thu nhập thấp, họ
không có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_Y_DP_DXH.pdf