Tài liệu Luận văn Thực trạng giảm phát ở Việt Nam: Nguyên nhân và kinh nghiệm từ một số nước: 1
Luận Văn
Thực trạng giảm phát ở Việt Nam - nguyên nhân và
kinh nghiệm từ một số nước
2
LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát và giảm phát là những vấn đề phức tạp cả về nhận thức lý luận và
thực tiễn. Nhiều nhà kinh tế đã cảnh báo về nguy cơ giảm phát toàn cầu bởi vì
giảm phát được hiểu là việc giảm liên tục nếu không khắc phục sẽ gây ra những
tác hại lớn hơn cả lạm phát, cụ thể là nó làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về vấn đề giảm phát đòi hỏi một quá trình lâu dài, một sự
phân tích mạch lạc, khách quan bởi chính bản chất phức tạp và kéo dài của giảm
phát. Trên thực tế, trừ trường hợp các cuộc khủng hoảng chu kỳ hồi thế kỷ 19,
giảm phát rất ít khi là một hiện tượng tự phát, mà thường là các biện pháp cố
tình của Nhà nước nhằm hạn chế mạnh cầu và qua đó giảm những mất cân đối
rất lớn. Ngày nay, giảm phát lại đang là trở lực kéo nền kinh tế của nhiều nước
vào vòng xoáy suy thoái. Vấn đề này đã và đang làm đau đầu nhiều nhà kinh tế
học và c...
43 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng giảm phát ở Việt Nam: Nguyên nhân và kinh nghiệm từ một số nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận Văn
Thực trạng giảm phát ở Việt Nam - nguyên nhân và
kinh nghiệm từ một số nước
2
LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát và giảm phát là những vấn đề phức tạp cả về nhận thức lý luận và
thực tiễn. Nhiều nhà kinh tế đã cảnh báo về nguy cơ giảm phát toàn cầu bởi vì
giảm phát được hiểu là việc giảm liên tục nếu không khắc phục sẽ gây ra những
tác hại lớn hơn cả lạm phát, cụ thể là nó làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về vấn đề giảm phát đòi hỏi một quá trình lâu dài, một sự
phân tích mạch lạc, khách quan bởi chính bản chất phức tạp và kéo dài của giảm
phát. Trên thực tế, trừ trường hợp các cuộc khủng hoảng chu kỳ hồi thế kỷ 19,
giảm phát rất ít khi là một hiện tượng tự phát, mà thường là các biện pháp cố
tình của Nhà nước nhằm hạn chế mạnh cầu và qua đó giảm những mất cân đối
rất lớn. Ngày nay, giảm phát lại đang là trở lực kéo nền kinh tế của nhiều nước
vào vòng xoáy suy thoái. Vấn đề này đã và đang làm đau đầu nhiều nhà kinh tế
học và các nhà lãnh đạo trên thế giới, mặc dù đã có nhiều sự cố gắng suy nghĩ to
lớn.
Trong một thế giới không có ranh giới, trong điều kiện thương mại quốc tế,
kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cũng không thể tránh
khỏi những tác động khủng hoảng có tính chu kỳ và dây chuyền của kinh tế các
nước. Tuy giảm phát ở nước ta mới chỉ là nhất thời khó kèo dài với mức độ trầm
trọng song nếu không thoát khỏi “vòng xoáy” giảm phát thì triển vọng phát triển
về trung và dài hạn là hết sức khó khăn. Kích cầu là một biện pháp tất yếu phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước nhằm thúc đẩy tiêu dùng, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đồng thời kiểm soát được một cách chặt chẽ các yếu tố gây
tác động đến giá cả thị trường theo hướng tích cực. Những vấn đề được nêu ra
có thể nắm bắt được bằng trực giác nhưng việc đi sâu nghiên cứu những mối
quan hệ có tính định lượng thường xuyên giữa tiền tệ, sự tăng trưởng và giá cả
là một việc làm còn quá nhiều mạo hiểm. Vì vậy, trong khuôn khổ một bài
nghiên cứu khoa học, những vấn đề được trình bày dưới đây không nhằm kết
thúc một sự phân tích ngắn gọn về giảm phát và các biện pháp kích cầu mà chỉ
3
để nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của chúng trong những mối liên kết
của nền kinh tế hiện đại.
4
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1
PHẦN I - TỔNG QUAN VỀ GIẢM PHÁT VÀ KÍCH CẦU ............. 6
I-/ GIẢM PHÁT - CÁC NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ....... 6
1-/ Giảm phát là gì ? ........................................................................ 6
2-/ Nguyên nhân gây ra giảm phát. ................................................. 7
3-/ Hậu quả của giảm phát. ............................................................. 7
II-/ KÍCH CẦU - NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP ................. 8
1-/ Kích cầu là gì? ............................................................................ 8
2-/ Nguyên nhân phải kích cầu:....................................................... 9
3-/ Các biện pháp kích cầu: ........................................................... 11
PHẦN II - THỰC TRẠNG GIẢM PHÁT Ở VIỆT NAM - NGUYÊN
NHÂN VÀ KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ NƯỚC........ 17
I-/ KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC: ........ 17
1-/ Kích cầu ở Trung Quốc - bài học cho Việt Nam ..................... 17
2-/ Kinh nghiệm từ các nước khác. ............................................... 20
II-/ THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA GIẢM PHÁT
Ở
VIỆT NAM............................................................................ 21
1-/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam:........................................... 21
2-/ Nguyên nhân gây ra tình trạng trên:....................................... 27
III-/ VIỆT NAM MỘT NĂM KÍCH CẦU: ................................... 31
PHẦN III - ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP .................................. 36
LỜI KẾT ........................................................................................... 36
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 40
6
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ GIẢM PHÁT VÀ KÍCH CẦU
I-/ GIẢM PHÁT - CÁC NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1-/ Giảm phát là gì?
Từ trước thế kỷ 20, chưa một nhà kinh tế nào nhắc đến giảm phát trong nền
kinh tế Quốc dân, người ta mới chỉ nói đến lạm phát như một cơn lốc cuốn đi
của cải của nền kinh tế sau những cuộc khủng hoảng xuất hiện có tính chu kỳ
của nền kinh tế TBCN. Cho đến giữa hai cuộc cạnh tranh thế giới, cuộc đại
khủng hoảng 1929 - 1933 diễn ra, các nhà kinh tế mới quan niệm được rằng có
một tình trạng giảm phát, tức là tình trạng trái ngược với tình trạng lạm phát.
Người ta đã từng căn cứ vào tương quan giữa khối lượng hàng hoá dịch vụ và
khối lượng tiền tệ trong phương trình Irving Fisher. Nếu vì một lý do nào mà
khối lượng tiền tệ giảm bớt, tất nhiên giá hàng hoá giảm sút và dẫn đến một số
xí nghiệp lỗ vốn, phá sản và sa thải công nhân. Như vậy nếu cân bằng có tái lập
giữa hai khối hàng hoá và tiền tệ thì phải là một thế cân bằng khiếm dụng.
Tình trạng giảm phát còn được nhận diện rõ ràng hơn qua học thuyết của
John Mayhard Keynes. Theo học thuyết này thì khi ngân hàng tung thêm tiền tệ
mà không làm cho vật giá tăng thêm, tức là trong nền kinh tế lúc đó có khuynh
hướng giảm bớt. Không nên nhầm lẫn giảm lạm phát với giảm phát; giảm phát
là giảm giá nói chung trong khi giảm lạm phát là làm giảm mức tăng giá. Trong
sự điều hành của bộ máy kinh tế, lạm phát và giảm phát có thể coi là hai cực, mà
các chính sách kinh tế vĩ mô cần hướng vào thế cân bằng giữa khối lượng hàng
hoá và tiền tệ.
Theo thuyết lạm phát lưu thông tiền tệ “thì cho giảm phát là do việc đưa
tiền vào lưu thông ít hơn mức cần thiết, khiến sản xuất và lưu thông bị “nghẹt”
vì thiếu tiền làm chất bôi trơn.
7
2-/ Nguyên nhân gây ra giảm phát.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tốc độ tăng trưởng kinh tế của
một nước bị chậm lại.
Nguyên nhân thứ nhất thuộc tổng cầu: Tổng cầu xã hội giảm, thể hiện cụ
thể là vốn đầu tư nước ngoài giảm, đầu tư trong nước thấp. Thu nhập thực tế của
người dân giảm làm cho sức mua kém, thêm vào đó cầu từ nước ngoài giảm do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Nguyên nhân thứ hai thuộc tổng cung: lượng tiền cung ứng không đủ
cho lưu thông. Hàng hoá nhiều, giá liên tục giảm nhưng lượng người mua ít,
cung hàng hoá vẫn ở trong tình trạng lớn hơn cầu hàng hoá, hàng hoá ở trong
tình trạng dư thừa không có thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, hàng nhập lậu trốn
thuế từ bên ngoài vào với số lượng lớn, giá rẻ hơn thoả mãn nhu cầu thị hiếu đã
làm giảm sút nhu cầu đối với hàng nội địa, chèn ép sản xuất trong nước, làm
gián đoạn thị trường.
3-/ Hậu quả của giảm phát.
Bên cạnh khía cạnh tích cực của giảm phát là phản ánh sự tiến bộ trong công
nghệ sản xuất thì nỗi lo do các tác động xấu của giảm phát lớn hơn nhiều: nhu cầu
tiêu dùng suy giảm, năng lực sản xuất giảm... giảm phát cũng làm tăng gánh nặng
của các khoản nợ của từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Đối với một nền kinh tế có hiện tượng giảm phát, điều dễ nhận thấy là tất
cả các khâu của quá trình tái sản xuất gồm: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu
dùng đều ở trong trạng thái trì trệ. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất cầm chừng,
sản phẩm làm ra ứ đọng. Sức cạnh tranh trên thị trường yếu ớt.
Giảm phát sẽ gây cho nền kinh tế những tác hại to lớn. Người tiêu dùng sẽ
trì hoãn việc mua hàng với hy vọng giá ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay. Tâm
lý trì hoãn mua hàng sẽ làm giảm mức cầu xã hội, buộc các nhà sản xuất phải
tiếp tục giảm giá hàng. Nếu tình hình ấy kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải
8
ngừng sản xuất hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức dư nợ thực tế của các
doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng, kéo theo ngân hàng đến bờ phá sản.
Giá hạ còn làm cho các khoản thu ngân sách giảm sút, làm cho tốc độ tăng
trưởng kinh tế chậm lại. Nguy hại hơn cả là giảm phát có thể vô hiệu hoá chính
sách lãi suất, một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
II-/ KÍCH CẦU - NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP:
1-/ Kích cầu là gì?
Trước khi trả lời câu hỏi này, ta cần phân biệt được cung cầu hàng hoá,
dịch vụ với cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Cung hàng hoá và dịch vụ là kết quả hoạt động kinh doanh của các ngành
sản xuất hàng hoá và dịch vụ cung ứng cho thị trường. Nếu xét riêng từng loại
hàng hoá, dịch vụ, thì chỉ gọi là cung hàng hoá, dịch vụ cá biệt. Nếu xét trên
tổng thể cả nền kinh tế, thì gọi là tổng cung hàng hoá và dịch vụ.
Cầu hàng hoá và dịch vụ là sức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có khả năng
thanh toán bằng tiền. Cũng như trên, có thể xét cầu từng hàng hoá, dịch vụ cá
biệt và có thể xét trên tổng thể nền kinh tế gọi là tổng cầu.
Cung cầu tiền tệ lại có một sắc thái khác. Cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ
có nghĩa là trên thị trường thừa tiền, thừa sức mua có khả năng thanh toán,
nhưng cầu tiền tệ thực tế lại bé hơn. Cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ thường gắn
chặt và nói đúng hơn là do lạm phát gây ra, lúc đó tiền mất giá, giá cả các hàng
hoá dịch vụ tăng lên.
Ngược lại, khi cầu tiền tệ lớn hơn cung tiền tệ thì nền kinh tế sẽ xảy ra
giảm phát, tiền tệ lên giá và giá cả hàng hoá, dịch vụ bị tụt xuống.
Giữa cung cầu hàng hoá, dịch vụ và cung cầu tiền tệ có sự khác nhau,
nhưng lại gắn chặt với nhau.
9
Tổng cung hàng hoá, dịch vụ lớn hơn tổng cầu hàng hoá dịch vụ có nghĩa
là sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thừa hay nói đúng hơn là tổng sức mua có khả
năng thanh toán bằng tiền và khi tổng cung bé hơn tổng cầu thì ngược lại. Nói
đến sản xuất thừa cũng cần được hiểu là: có thể sản phẩm tạo ra nhiều hơn cái
mà con người cần, hoặc là sản phẩm tạo ra không đáp ứng được nhu cầu thị
hiếu, giá cả, chất lượng của khách hàng trong và ngoài nước.
Vậy kích cầu là gì? Nói một cách đơn giản là kích thích nhu cầu tiêu dùng
hàng hoá và dịch vụ tạo ra. Nói theo mối quan hệ cung cầu hàng hoá, dịch vụ với
cung cầu tiền tệ, thì kích cầu chính là giải pháp nâng sức mua có khả năng thanh
toán bằng tiền của nền kinh tế nói chung và của nhân dân nói riêng.
Kích cầu hàng hoá và dịch vụ phải được thực hiện đối với cả hàng hoá là tư
liệu sản xuất, hàng hoá là tư liệu tiêu dùng, cả dịch vụ sản xuất và dịch vụ phục
vụ đời sống con người về mọi mặt. Kích cầu hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất là
kích thích đầu tư vốn vào xây dựng cơ sở vật chất và tăng vốn lưu động vào sản
xuất kinh doanh, trong đó chủ yếu là sức mua về các tư liệu sản xuất. Kích cầu
về hàng hoá và dịch vụ cho đời sống con người là kích thích sức mua để nâng
mức tiêu dùng, trong đó chủ yếu là hàng hoá tiêu dùng.
2-/ Nguyên nhân phải kích cầu:
Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế đã có nhiều lí luận về kích
cầu để giải quyết tình trạng khủng hoảng kinh tế kể từ khi nổ ra cuộc khủng
hoảng kinh tế đầu tiên ở nước Anh vào năm 1825.
Thomas Robert Malthus (1766-1834) là nhà kinh tế học người Anh thuộc
trào lưu trọng cầu. Ông cho rằng khủng hoảng kinh tế xảy ra là do có sự giảm
sút trong cầu, bởi vì, nhà tư bản thì tiết kiệm quá mức, còn công nhân thì tiền
lương không đủ để tiêu dùng hết hàng hoá sản xuất ra. Muốn thoát khỏi khủng
hoảng thì phải kích cầu.
10
Jean Charles Leonard Simonde de Sismondi (1773-1842) là một nhà kinh tế
người Pháp thuộc trường phái kinh tế chính trị tiểu tư sản. Khi phân tích khủng
hoảng kinh tế, ông đứng trên quan điểm trọng cầu. Ông cho rằng, khủng hoảng
kinh tế xảy ra là do tiêu dùng lạc hậu so với sản xuất, bởi vì có sự phân phối thu
nhập không công bằng. Ngoài ra tiêu dùng sụt giảm còn do: (1) Sự phá sản của
những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ...) khiến
cho thu nhập của họ giảm sút nên tiêu dùng của họ cũng giảm theo; (2) Tình trạng
thất nghiệp càng gia tăng khiến cho thu nhập của người bị thất nghiệp lẫn người tại
nghiệp bị giảm thấp, do đó mức cầu của họ cũng bị sụt giảm; (3) Những nhà tư bản
lại có khuynh hướng gia tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng vì muốn tích luỹ tư bản
nhiều hơn. Từ những phân tích trên ông cho rằng muốn thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế thì phải tăng mức cầu (kích cầu).
Phát triển lý thuyết trọng cầu là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh - John
Maynard Keynes (1883-1946). Với phương pháp tiếp cận vi mô khi phân tích
các vấn đề của nền kinh tế, Keynes đưa ra khái niệm cầu tổng hợp (tổng cầu) và
cung tổng hợp (tổng cung) và cho rằng trong nền kinh tế không có một sự tự
quân bình giữa tổng cung và tổng cầu, không thể có một sự tự điều chỉnh trong
nền kinh tế. Theo ông, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu
thường không theo kịp tổng cung, mà tổng cầu là nhân tố tích cực, nó quyết định
tổng cung chứ không phải ngược lại. Việc tổng cầu không theo kịp tổng cung
ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu hẹp đầu tư và làm gia tăng thất nghiệp. Để
giải quyết tình trạng này cần phải có sự tác động của nhà nước để làm gia tăng
tổng cầu, tổng cầu gia tăng sẽ làm tổng cung tăng theo, khối lượng công ăn việc
làm cũng tăng, thu nhập xã hội cũng tăng, nền kinh tế tăng trưởng và sẽ thoát
khỏi tình trạng suy thoái, trì trệ.
Giảm phát xảy ra, nền kinh tế cung ứng chưa đủ lượng tiền tệ cần thiết cho
lưu thông hàng hoá và dịch vụ ở thị trường trong nước. Điều cần làm là phải
11
kích cầu tiêu dùng và kích cầu đầu tư để tăng lượng tiền cung ứng cho lưu thông
hàng hoá và dịch vụ trong nước.
Giảm phát được hiểu là việc giảm liên tục mức giá chung của hàng hoá và
dịch vụ. Từ các hậu quả của giảm phát ta thấy việc kích thích nhu cầu tiêu dùng
hàng hoá và dịch vụ tạo ra của dân chúng (kích cầu) là biện pháp tối ưu để giúp
khôi phục lại nền kinh tế.
3-/ Các biện pháp kích cầu:
- Quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển:
Theo Malthus, phải phục hồi mức cầu của những người không sản xuất
như: viên chức, quân nhân, thầy tu,... là những người không đè nặng lên chi phí
sản xuất của các nhà kinh doanh. Ông gọi đây là lớp “người mua thứ ba”, ngoài
nhà tư bản và công nhân, để chống khủng hoảng sản xuất thừa. Lý luận của
Malthus được J.M.Keynes đánh giá rất cao và coi như là người mở đầu cho chủ
nghĩa trọng cầu. Nhưng quan điểm trên của Malthus lại bị Sismondi phê phán.
Theo Sismondi, cần phải có lớp “người mua thứ ba” để tăng sức mua của
xã hội. Nhưng khác với Malthus, lớp người thứ ba của Sismondi là những người
sản xuất nhỏ, chứ không phải là những người phi sản xuất. Như vậy việc tăng
thu nhập cho nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ,... là một điều cần
thiết để tăng cầu trong nền kinh tế. Muốn vậy, theo Sismondi, nhà nước phải can
thiệp để tạo công ăn, việc làm cho họ, hạn chế sự cạnh tranh gây phá sản hàng
loạt cho người sản xuất nhỏ, thực hiện sự phân phối công bằng hơn giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội.
Theo Keynes, việc kích cầu là vai trò của nhà nước. Điều này trước đây
Malthus và Sismondi cũng đã đề cập đến khi nói lên một cách dè dặt về hiệu quả
của bàn tay vô hình của A.Smith, nhưng không phân tích kỹ như Keynes.
Trong lý thuyết của mình Keynes đưa ra mô hình “số nhân đầu tư” để chứng
minh cho việc gia tăng đầu tư có tác động khuếch đại thu nhập tăng lên số nhân lần.
12
Đóng vai trò quan trọng trong số nhân là khuynh hướng tiêu dùng cận biên (MPC-
Marginal Propensity to Consume) và khuynh hướng tiết kiệm cận biên (MPS-
Marginal Propensity to Save). Đó là những khuynh hướng tâm lý xã hội thể hiện
mối quan hệ giữa gia tăng tiêu dùng và gia tăng tiết kiệm so với gia tăng thu nhập.
Khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng tăng thì số nhân đầu tư càng lớn, do đó độ
khuếch đại của gia tăng đầu tư đối với thu nhập, sản lượng và công ăn việc làm
càng lớn và ngược lại, khuynh hướng tiết kiệm cận biên càng tăng thì sự dò dỉ
trong chi tiêu càng lớn nên số nhân càng nhỏ, do đó độ khuếch đại thu nhập, sản
lượng, công ăn việc làm của gia tăng đầu tư càng nhỏ. Có thể khái quát mô hình số
nhân đầu tư của Keynes bằng các công thức sau:
k = Error! Từ đó: Y = k . I mà trị số k được xác định bằng công thức:
k = Error! = Error!
Trong đó:
- k : số nhân đầu tư
- Y : gia tăng thu nhập, sản lượng
- I : gia tăng đầu tư.
- MPC : khuynh hướng tiêu thụ cận biên = Error! với C là gia tăng tiêu
dùng còn Yd là gia tăng thu nhập được quyền sử dụng.
- MPS : khuynh hướng tiết kiệm cận biên = Error! với S là gia tăng tiết
kiệm.
Theo Keynes, muốn đầu tư có sự gia tăng thì nhà đầu tư phải có lợi nhuận
tăng thêm khi đầu tư thêm. Ông gọi đó là “thu hoạch tương lai” của tư bản. “Thu
hoạch tương lai” là thu nhập của doanh nhân sau khi trừ đi “phí tổn thay thế” (phí
tổn thay thế là giá cung của tư bản, đó chính là lãi suất). Quan hệ giữa “thu hoạch
tương lai” và “phí tổn thay thế” để sản xuất thêm một đơn vị sản lượng được gọi là
“hiệu quả cận biên của tư bản” (the marginal productivity of capital). Các nhà đầu
13
tư khi quyết định một cuộc đầu tư nào đều so sánh hiệu quả cận biên của tư bản với
lãi suất. Nếu chừng nào hiệu quả cận biên của tư bản còn lớn hơn lãi suất thì các
nhà đầu tư còn tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất làm thu nhập gia tăng, sản lượng
gia tăng, công ăn việc làm gia tăng và ngược lại, khi hiệu quả cận biên của tư bản
bằng hoặc thấp hơn lãi suất thì tình hình đầu tư sẽ sụt giảm, mà điều đó thì không
có lợi cho nền kinh tế. Keynes cho rằng, hiệu quả cận biên của tư bản có xu hướng
giảm sút, ảnh hưởng xấu đến tình hình đầu tư và làm cho nạn thất nghiệp tăng cao.
Từ đó, cần phải giảm lãi suất để kích thích đầu tư. Muốn giảm lãi suất thì nhà nước
phải dùng chính sách tăng cung tiền tệ.
Theo Keynes, khối lượng tiền mặt trong lưu thông càng nhiều hơn nhu cầu về
tiền mặt thì sẽ làm cho lãi suất giảm xuống. Keynes chủ trương “lạm phát là quốc
sách” để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, giải quyết nạn thất nghiệp, bởi vì thất
nghiệp là căn bệnh nguy hiểm cho nền kinh tế chứ không phải lạm phát. Ông cho
rằng phát hành tiền càng nhiều sẽ làm thu nhập bằng tiền tăng lên, cầu về hàng hoá
tiêu dùng sẽ tăng, giá cả sẽ tăng, nhưng giá đầu tư (lãi suất) lại giảm và do đó sẽ
mang lại nhiều lợi nhuận cho nhà đầu tư nên họ gia tăng đầu tư. Vậy lạm phát tăng,
dẫn đến cầu gia tăng, sản xuất gia tăng để thoả mãn cầu, sản xuất tăng sẽ giải quyết
được nạn thất nghiệp. Công ăn việc làm gia tăng nên thu nhập xã hội gia tăng, cầu
tổng hợp gia tăng, cung tổng hợp, do đó cũng gia tăng làm cho nền kinh tế cũng
tăng trưởng theo. Đó là hiệu ứng số nhân của Keynes, và được các nhà kinh tế đánh
giá như một mô hình kinh điển về số nhân.
- Kế tục quan điểm trọng cầu, các nhà kinh tế học hiện đại đã phát triển lý
thuyết tổng cầu của Keynes. Theo họ, tổng cầu (AD) bao gồm các thành phần cơ
học sau: chi tiêu của cá nhân hộ gia đình (C), đầu tư tư nhân của các doanh
nghiệp (I), chi tiêu của chính phủ (G), và xuất khẩu ròng (NX-là hiệu số của xuất
khẩu và nhập khẩu). Như vậy, AD = C+I+G+NX. Thật sự thì các thành tố trên
của tổng cầu đã được Keynes đề cập đến rồi và họ chỉ làm rõ thêm mà thôi. Để
tăng tổng cầu thì có thể tác động làm tăng các yếu tố của nó, nghĩa là, có thể gia
14
tăng tiêu dùng, gia tăng đầu tư, gia tăng chi tiêu của chính phủ và gia tăng xuất
khẩu ròng (tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu). Mô hình số nhân đầu tư của
Keynes cũng được phát triển thành mô hình số nhân của tổng cầu, nghĩa là hiệu
ứng số nhân có ý nghĩa đối với tất cả các thành phần của tổng cầu, chứ không
phải chỉ có đối với đầu tư. Có thể khái quát lý luận trên bằng các công thức sau: k
= Error! do đó Y = k . AD. Ở đây trị số của k được xác định bằng công thức
sau:
k = Error!
Trong đó:
- t: thuế suất là tỷ lệ phần trăm của lượng thuế tính trên thu nhập (Y)
- MPI: khuynh hướng đầu tư cận biên = Error! với I là gia tăng đầu tư
còn Y là gia tăng thu nhập.
- MPM: khuynh hướng nhập khẩu cận biên = Error! với M là gia tăng nhập
khẩu.
Mẫu số trong số nhân (k) được gọi là suất rò rỉ cận biên. Như vậy, nếu suất
rò rỉ cận biên càng nhỏ khi khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng tăng, thuế
suất càng giảm, khuynh hướng đầu tư cận biên càng tăng và khuynh hướng nhập
khẩu cận biên càng giảm thì số nhân càng lớn, độ khuếch đại thu nhập của gia
tăng tổng cầu sẽ càng lớn và ngược lại, nếu suất rò rỉ cận biên càng lớn khi
khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng giảm, thuế suất càng tăng, khuynh hướng
đầu tư cận biên càng giảm và khuynh hướng nhập khẩu cận biên càng tăng thì số
nhân sẽ càng nhỏ, độ khuếch đại thu nhập của tổng cầu sẽ càng nhỏ.
Từ những lý thuyết cơ bản trên, chúng ta thấy rằng việc gia tăng thu nhập,
sản lượng, công ăn việc làm phải có những giải pháp nhằm làm tăng độ lớn của
số nhân (k) cũng như các giải pháp làm tăng tổng cầu (AD =
C+I+G+NX). để gia tăng tổng cầu cần kích thích sự gia tăng tiêu dùng, gia
tăng đầu tư, gia tăng chi tiêu của chính phủ và đẩy mạnh xuất khẩu so với nhập
15
khẩu. Để giảm suất rò rỉ cận biên thì cần kích thích khuynh hướng tiêu dùng
biên, đầu tư biên và giảm thuế suất cũng như giảm khuynh hướng nhập khẩu
biên.
Như vậy, để kích cầu ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Dựa vào phương trình Yd = Y - Td - TR
Yd : thu nhập có thể sử dụng
Y : thu nhập quốc dân
Td : thuế trực thu
TR : các khoản trợ cấp
Muốn kích thích tiêu dùng thì phải tăng thu nhập có thể sử dụng. Mà muốn
tăng Yd thì phải giảm Td . Vậy để tăng thu nhập được quyền sử dụng của các
tầng lớp dân cư thì phải giảm thuế thu nhập và các khoản đóng góp khác.
Để kích cầu còn cần giảm các khoản thuế gián thu nhằm giảm giá bán của
hàng hoá phù hợp với sức mua còn thấp của thị trường.
+ Đối với chính sách lưu thông tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện
một nền kinh tế đang có giảm phát thì Nhà nước nên dùng chính sách tiền tệ mở
rộng nhằm giảm lãi suất để kích thích đầu tư và tiêu dùng. Lãi suất hạ, nhà đầu
tư sẽ thấy rằng việc gửi tiền trong ngân hàng với lãi suất thấp không có lợi bằng
việc đầu tư vào sản xuất nên họ sẽ mở rộng đầu tư, tạo thêm công ăn việc làm,
thu nhập gia tăng. Lãi suất gửi tiền thấp, người dân sẽ mở rộng tiêu dùng vì việc
tiêu dùng lúc này có lợi hơn là việc gửi tiền ở các tài khoản tiết kiệm. Như vậy,
cần thực hiện các giải pháp nhằm tăng khối lượng tiền trong lưu thông như: hạ
lãi suất chiết khấu, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành thêm tiền vào lưu thông
để thu nhập bằng tiền cho xã hội... Tất cả những việc này sẽ làm lạm phát gia
tăng, nhưng nó lại kích thích sản xuất tăng trưởng, công ăn việc làm gia tăng,
tiêu dùng gia tăng và nền kinh tế tăng trưởng theo. Vấn đề đặt ra ở đây là xác
16
định tỷ lệ lạm phát vừa phải, đừng để lạm phát tăng cao tác động xấu đến nền
kinh tế.
+ Đối với chính sách thương mại: cần tăng xuất khẩu hàng trong nước, giảm
dần nhập khẩu. Tăng xuất khẩu có tác động tăng việc làm, tăng thu nhập, tăng tiêu
dùng và kinh tế nội địa phát triển. Muốn vậy Nhà nước phải có chính sách bảo hộ
xuất khẩu, giảm thuế xuất khẩu (có thể giảm xuống bằng 0%).
+ Nhà nước phải tăng cường đầu tư trong nước.
+ Ngoài các giải pháp nêu trên còn một vấn đề quan trọng nữa là cần
khuyến khích tâm lý tiêu dùng hàng nội địa. Bởi vì nếu khuyến khích tiêu dùng
mà người dân chỉ thích tiêu dùng hàng ngoại nhập thì lại không có tác động làm
gia tăng sản xuất trong nước, tăng công ăn việc làm trong nước mà ngược lại nó
làm sản xuất trong nước bị thu hẹp và công ăn việc làm bị thu hẹp, thu nhập sẽ
bị giảm thấp.
17
PHẦN II
THỰC TRẠNG GIẢM PHÁT Ở VIỆT NAM - NGUYÊN NHÂN
VÀ KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ NƯỚC
I-/ KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC:
1-/ Kích cầu ở Trung Quốc - bài học cho Việt Nam
Bước sang năm 1998 Trung Quốc chịu sức ép ngày càng gia tăng và rõ nét
của khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, xuất hiện nhiều mầm mống của sự
tăng trưởng không bền vững. Đầu tư nước ngoài, xuất khẩu có dấu hiệu suy
giảm, sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hoá ứ đọng nhiều, sức
tiêu thụ giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh. Tính đến hết tháng 7 - 1999 giá hàng
tiêu dùng tiếp tục giảm sang tháng thứ 16 nếu tính 6 tháng đầu năm nay thì giá
bán lẻ giảm 3,2%. Mức tăng trưởng kinh tế đang chậm lại, nhập khẩu phát triển
16,6% trong khi đó xuất khẩu giảm 4,6%. Đầu tư nước ngoài so 4 tháng đầu
năm 98 thì đầu tư nước ngoài giảm 12,6%. Trong khi đó Trung Quốc lại muốn
duy trì sự ổn định của đồng nhân dân tệ. Đứng trước sức ép từ trong và ngoài
nước nêu trên. Trung Quốc đã buộc phải lựa chọn những giải pháp tháo gỡ, chủ
yếu là kích cầu với quy mô lớn trong cả nước để đảm bảo tăng trưởng GDP 8%
như mục tiêu đã đề ra trong năm 1999. Chương trình kích cầu của Trung Quốc
gồm 2 vấn đề lớn là kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước và
khuyến khích đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu. Cụ thể:
- Kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong nườc:
+ Chương trình kích cầu với quy mô lớn của Trung Quốc được bắt đầu từ
công nghiệp xây dựng với điểm khởi đầu là xây dựng nhà ở tháng 6 năm 1998
Trung Quốc quyết định chấm dứt bao cấp nhà ở cho công nhân viên chức và
thực hiện chính sách thương mại hoá nhà ở. Chính phủ Trung Quốc dành một
18
khoản 12 tỷ USD để xây dựng nhà ở cho công nhân viên chức có nhu cầu mua
trước trả góp sau. Đến tháng 7 năm 1999 Trung Quốc đã đưa ra một loạt các
biện pháp kích thích tài chính nhằm khuyến khích các nhà kinh doanh bất động
sản đầu tư vào khu vực nhà ở như miễn thuế đánh vào các công ty nước ngoài
đang tìm cách đầu tư vào các dự án nhà ở hoặc văn phòng cao cấp, hoặc các nhà
đầu tư sẽ được vay ngân hàng với lãi suất thấp nhất có thể. Bên cạnh đó Trung
Quốc đã đẩy mạnh tư nhân hoá việc xây dựng nhà cửa và coi xây dựng nhà ở
mới là động lực mới nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, cùng với việc cải cách
chế độ nhà ở, Trung Quốc đã đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng và chấp nhận
với quy mô lớn. Trong năm 1998, các ngân hàng đã cho vay 100 tỷ nhân dân tệ
dùng vào việc đầu tư xây dựng cơ bản. Trong những tháng cuối năm 1998 Trung
Quốc đã phát hành thêm 100 tỷ nhân dân tệ để hỗ trợ tập trung vốn xây dựng hạ
tầng cơ sở. Hàng loạt các chương trình đường xá, cầu cống đã được khởi công
xây dựng. Có thể nói trong những tháng cuối năm 1998 và đầu năm 1999, đẩy
mạnh xây dựng hạ tầng cơ sở đã được Trung Quốc coi như “đầu tầu” để kích
cầu trong nước, lôi kéo các ngành khác cùng phát triển.
+ Song song với việc đẩy mạnh đầu tư từ ngân sách Nhà nước Trung Quốc
đã áp dụng hàng loạt các biện pháp về tài chính - tiền tệ nhằm kích thích đầu tư
vào sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của người dân, mà hai biện pháp chính là điều
chỉnh lãi suất và hướng người dân đầu tư vào thị trường chứng khoán. Chỉ trong
vòng 3 năm từ 1996 - 1999 Trung Quốc đã 7 lần hạ lãi suất. Đặc biệt trong năm
1998 Trung Quốc đã 3 lần giảm lãi suất. Việc giảm lãi suất liên tục như vậy có
tác dụng bơm tiền gửi trong hệ thống ngân hàng và kích thích đầu tư của tư nhân
và doanh nghiệp. Ở Trung Quốc, tình trạng tiền gửi trong ngân hàng rất lớn song
ngân hàng lại không dám cho vay hoặc đầu tư vì sợ không thu hồi được vốn. Do
đó giảm lãi suất ngân hàng cùng với đánh thuế lãi tiền gửi tiết kiệm sẽ không
khuyến khích người dân tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền đó để đầu
tư vào sản xuất, tiêu dùng, mua nhà ở...
19
+ Trung Quốc đã liên tục đưa ra các biện pháp nhằm làm sôi động thị
trường chứng khoán. Mục tiêu là hướng người dân đầu tư vào cổ phiếu và thông
qua đó gián tiếp góp vốn cho doanh nghiệp. Các biện pháp đó cụ thể là:
Cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán, cho
phép các nhà môi giới phát triển quy mô vốn trên thị trường thứ cấp.
Giảm thuế giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Cho phép các công ty tư nhân phát hành cổ phiếu B bằng ngoại tệ mạnh
và chào bán cho người nước ngoài mà trước đây chỉ có các doanh
nghiệp Nhà nước mới được phép phát hành cổ phiếu B.
Những biện pháp trên đã thu hút một lượng tiền mặt đáng kể vào thị
trường chứng khoán.
+ Một biện pháp nữa mà Trung Quốc áp dụng để kích thích nhu cầu tiêu dùng
trong nước là tăng lượng hàng loạt cho cán bộ công nhân viên chính phủ Trung
Quốc đã chi một khoản tiền khổng lồ và hy vọng có thể kích thích nhu cầu tiêu
dùng trong nước. Để có khoản tiền trên, Trung Quốc quyết định phát hành 60 tỷ
nhân dân tệ công trái trong đó 30 tỷ nhân dân tệ dùng cho tăng lương.
- Khuyến khích đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu:
Song song với việc khuyến khích mở rộng nhu cầu đầu tư và tiêu dùng
trong nước Trung Quốc ra sức thu hút tối đa nguồn vốn nước ngoài. Trung Quốc
khuyến khích thương nhân nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp, kỹ thuật cao,
xây dựng cơ sở hạ tầng môi trường sinh thái và các ngành xuất khẩu thu ngoại
tệ. Phát triển các dự án thu hút người lao động. Khuyến khích các công ty xuyên
quốc gia đầu tư. Tạo điều kiện cho công ty nước ngoài sử dụng ngoại tệ bằng
nới lỏng những hạn chế về ngoại hối. Đồng thời Trung Quốc thực hiện từng
bước tự do hoá khu vực tài chính tiền tệ thông qua các biện pháp như cho phép
ngân hàng nước ngoài mở rộng kinh doanh đồng nhân dân tệ, cho phép các ty
nước ngoài kinh doanh chứng khoán được tham gia trong thị trường Trung
20
Quốc... Có thể nói khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng là một cách để Trung
Quốc phát triển càng thu hút vốn đầu tư cho sản xuất.
Bên cạnh đó Trung Quốc cũng hết sức nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu bằng các
biện pháp như nâng mức hoàn thuế, tăng cường tín dụng xuất khẩu, duy trì tỷ
giá đồng nhân dân tệ.
Chương trình kích cầu với quy mô lớn của Trung Quốc đã duy trì được tốc
độ tăng trưởng tương đối cao. Nhu cầu đầu tư và tiêu dùng đều tăng lên. Nhờ
chương trình này Trung Quốc đã giảm thiểu tối đa tác động, áp lực từ bên trong
và bên ngoài nền kinh tế, duy trì sự ổn định của đồng NDT.
2-/ Kinh nghiệm từ các nước khác.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của hầu hết các nước trong khu vực đều giảm sút nghiêm trọng, đầu tư
giảm, sản xuất thu hẹp, sức mua kém... Để thoát khỏi tình trạng trên, một trong
số các giải pháp mà các nước đều đã áp dụng là kích cầu trong nước cả sản xuất
lẫn tiêu dùng để không lệ thuộc vào thị trường bên ngoài.
- Ở Thái Lan, chính phủ đã đưa ra nhiều chương trình trọn gói với giá trị
lên đến vài tỷ USD để thúc đẩy kinh tế, kích thích tiêu dùng. Để giảm giá cả
hàng hoá, tăng sức mua của dân chúng, chính phủ Thái Lan sẵn sàng chấp nhận
giảm ngân sách 1,8 tỷ USD để giảm thuế GTGT đối với một số ngành từ 10%
xuống 7% trong 2 năm (ban đầu từ 1/4/1999 đến 31/3/2000). Bên cạnh đó chính
phủ cũng quy định giảm giá điện, dầu khí đốt, (vì những khoản này, ngân sách
giảm 700 triệu USD/năm) giảm thuế thu nhập cá nhân để tăng sức mua... để thu
hút vốn nhàn rỗi trong dân, chính phủ đã phát hành nhiều đợt trái phiếu... Nhờ
những biện pháp kích cầu trên mà Thái Lan đã giải quyết được hàng triệu lao
động, tiêu dùng nhiều mặt hàng phát triển hơn, kích thích sản xuất tăng trưởng -
số lượng xe hơi bán ra trên thị trường năm 1998 tăng vọt, số lượng người Thái
đi du lịch sang Mỹ, sang Tây Âu tăng gấp đôi...
21
- Ở Nhật Bản: Chính phủ đã thực hiện cắt giảm thuế và tung ra các chương
trình hàng trăm tỷ USD để kích thích tiêu dùng. Ở Nhật người ta thực hiện nhiều
chương trình Marketing đặc biệt để tăng lượng sản phẩm tiêu thụ như những đợt
giảm giá trong tháng, trong tuần, những lời quảng cáo rất hấp dẫn “Anh là gì?
Chúng tôi sẽ nói cho anh biết phải tiêu dùng hàng gì?” Tất cả nhằm mục đích
thúc đẩy người tiêu dùng chi sài nhiều hơn nữa. Nhờ những biện pháp đó mà
trong quý I/1999 tiêu dùng của Nhật Bản đã tăng 2,2%. Sức tiêu thụ một số mặt
hàng đắt tiền như nhà ở, ô tô, máy tính ... đã tăng 1,2% sau 4 quý giảm liên tục.
- Ở Philipin, chính phủ lập quỹ phát triển cơ sở hạ tầng, tiếp tục thực hiện
lãi suất cho vay thấp để khuyến khích sản xuất, khuyến khích tiêu dùng...
II-/ THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA GIẢM PHÁT Ở VIỆT
NAM
1-/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam:
Là một nước có nền kinh tế đang phát triển, hệ thống tài chính tín dụng
đang còn non trẻ. Việt Nam cũng không tránh khỏi vòng cuốn lốc của cơn bão
khủng hoảng kinh tế diễn ra vào tháng 7 năm 1997 vừa qua, trên phạm vi toàn
cầu. Tuy mức độ ảnh hưởng không to lớn như nhiều nước song hậu quả của nó
đối với nền kinh tế rất nặng nề. Để thoát khỏi tình trạng trên Đảng và Nhà nước
cùng toàn thể nhân dân cả nước đang từng bước khắc phục khó khăn bằng các
biện pháp, chính sách kinh tế vĩ mô chống suy giảm kinh tế đang xảy ra, ngăn
chặn giảm phát.
Xét trên toàn cảnh, tình hình suy giảm kinh tế là rõ rệt, nổi cộm lên là vấn
đề giảm phát đang liên tục xảy ra và kéo dài gây ra nhiều hậu quả làm cản trở
tăng trưởng kinh tế, làm cản trở quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt
Nam.
Sự suy giảm kinh tế diễn ra liên tục trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực:
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,... Chỉ số GDP năm 1999 chỉ tăng 4,7-5%,
22
đây là tỷ lệ thấp nhất trong mười năm trở lại đây. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
trong 6 tháng đầu năm 99 chỉ đạt 4,3% cũng là mức thấp nhất trong vòng 6, 7
năm trở lại đây không bằng được mục tiêu 5-6% đã được đề ra hồi đầu năm
1999. Cụ thể trong từng ngành:
Nông nghiệp: Trong lĩnh vực này những năm gần đây nước ta đã đạt được
những con số đáng mừng. Với mức tăng trưởng 5%, sản xuất nông nghiệp và
đặc biệt là sản xuất lương thực được mùa lớn, đạt 31 triệu tấn năm 1999. Tổng
sản lượng lương thực trong năm 1999 đạt 33,8 triệu tấn trong 2 triệu so với năm
1998. Xuất khẩu gạo đạt mức kỷ lục 4,3 triệu tấn. Có thể nói sản xuất lương
thực, thực phẩm trong năm 1999 đã đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm và
đạt mức xuất khẩu cao. Chăn nuôi năm 1999 tăng từ 100 đến 106% so với 1998.
Tuy nhiên sức tiêu thụ của nhiều cây công nghiệp và chăn nuôi thấp do giá cả
cao, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Công nghiệp: Năm 1999 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,3% so với
năm 1998. Trong đó doanh nghiệp Nhà nước tăng 4,6%, doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tăng 8,2%, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
19,1%. Một số ngành có tốc độ tăng trưởng cao như dầu thô tăng 20,5%, chế
biến thuỷ sản tăng 13,8%, sứ vệ sinh tăng 39,8%, may mặc tăng 13%, sản xuất
động cơ diegen tăng 2 lần, sản xuất xe đạp tăng 22%. Bên cạnh đó là hầu hết các
ngành đều giảm hoặc tăng trưởng chậm, đáng chú ý là sản xuất ti vi giảm
33,9%, so với năm 1998 than giảm 19,4%, máy công cụ giảm 23,7%.
Giao thông vận tải: Mười tháng đầu năm 1999 khối lượng vận chuyển
hàng hoá và hành khách có mức tăng trưởng tương ứng 6,6% và 4,3% vận
chuyển hàng hoá theo đường hàng không tiếp tục giảm 8,5% so với cùng kỳ
năm 1998.
Tài chính tiền tệ:
23
- Trong 9 tháng đầu năm 1999 thu ngân sách tăng 6% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó thu thuế và phí bằng 78,2% dự toán năm và giảm 8,5% so với cùng
kỳ. Chi ngân sách Nhà nước đến cuối tháng 9 năm 1999 tăng 6,5%.
- Trong hệ thống ngân hàng: năm 1999, ngoài công tác điều hành tỷ giá,
quản lý ngoại hối ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều chỉnh giảm trần lãi suất
4 lần (từ 1,25%/tháng xuống 0,85%/tháng ở thành thị) giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc. Tuy nhiên tổng dư nợ vẫn ở mức thấp lượng vốn tồn đọng trong hệ thống
ngân hàng là lớn.
Xuất nhập khẩu: tỷ lệ nhập siêu tuy ở mức thấp song đó là dấu hiệu biểu
hiện một cách rõ rệt sự chững lại của nền kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng
đầu năm đạt 9.127 triệu USD tăng 18% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu
10 tháng đạt 9.166 triệu USD giảm 3,6% so với năm 1998.
Lĩnh vực đầu tư: là lĩnh vực có tốc độ giảm nhanh. Vốn đầu tư xây dựng cơ
bản của Nhà nước, theo ước tính của Tổng cục thống kê, năm 1999 chỉ đạt 97,2%
kế hoạch năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ước tính đến tháng 10 mới có 191 dự án
được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký 1.457 triệu USD. Giảm 14% về số dự án
và giảm 38% vốn đăng ký so với cùng kỳ. Tình hình đầu tư sụt giảm gây ra nhiều
tác động xấu đến nền kinh tế Việt Nam như hiện tượng giảm phát liên tục, giảm tốc
độ tăng trưởng kinh tế...
Lực lượng lao động:
Hiện nay cả nước có khoảng trên 40 triệu lao động, trong đó lao động nông
thôn khoảng 30 triệu chiếm 75% tổng lao động cả nước. Với tình hình kinh tế hiện
nay lạm phát liên tục giảm thì thất nghiệp tăng là một điều khó tránh khỏi. Tỉ lệ thất
nghiệp của lực lượng lao động ở độ tuổi cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn như
Hà Nội 10,31%, TP. Hồ Chí Minh là 7,04%. Thất nghiệp gia tăng càng gây cản trở
đối với một nền kinh tế đang phát triển, đó là sự giảm sút về sản xuất, thu nhập dân
cư giảm sút,...
24
Với thực trạng trên, nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào một thời kỳ khó khăn
đặc biệt trong lĩnh vực thị trường và giá cả. Nếu như nhiều nước trên thế giới sự sụt
giảm giá chung bắt đầu có mầm mống xuất hiện từ năm 1996 là sự dư thừa cung,
do sản xuất phát triển cung vượt quá cầu thì tại Việt Nam, một nước có nền sản
xuất còn non trẻ, chưa có sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng quá lớn trong dân
cư, thì tình trạng cung vẫn thừa mà cầu vẫn tăng là một vấn đề đáng lo ngại. Giá cả
liên tục tục giảm để giải quyết hàng hoá ế thừa trong các ngành gây ra hiện tượng
giảm phát kéo dài nhất trong lịch sử, làm chao đảo thị trường tài chính tiền tệ,...
Trong lĩnh vực thị trường và giá cả: năm 1999 sự tăng trưởng chậm, trì trệ của
các ngành, các lĩnh vực, hoạt động sản xuất bị lâm vào bế tắc do hàng hoá ứ đọng
nhiều, sức mua giảm ở cả thành phố lẫn nông thôn. Điều đó làm giảm sức hấp dẫn
của môi trường đầu tư. Mức lạm phát đạt đến mức thấp nhất trong những năm gần
đây. Mức lạm phát trong 8 tháng đầu năm là 0,8% theo tổng cục thống kê mức tăng
trưởng và lạm phát được thể hiện như sau:
Năm Tăng trưởng (GDP) Lạm phát (CPI)
1995 9,5 12,7
1996 9,3 4,5
1997 8,2 3,7
1998 5,8 9,2
1999 4,8 0,1
Mức độ lạm phát giảm liên tục nằm ngoài mong đợi của các nhà hoạch
định chính sách. Sự sụt giảm lạm phát dẫn đến tình trạng giảm rõ rệt tốc độ tăng
trưởng GDP. Hơn thế nữa tình trạng chuyển hoá nhanh liên tục và đột ngột của
tình trạng lạm phát từ năm 1998 và 2 tháng đầu quý I năm 1999 sang giảm phát
suốt 8 tháng liền từ tháng 3 đến tháng 10 trong năm là điều đáng lo ngại trong
nền kinh tế. Tình trạng giảm phát đã diễn ra trong nền kinh tế thể hiện ở chỗ mặt
bằng giá giảm liên tục cùng với sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo số
25
liệu Tổng cục thống kê thì tốc độ tăng trưởng kinh tế và chỉ số giá tiêu dùng qua
các năm như sau:
Năm Tăng trưởng (GDP) Lạm phát (CPI)
1994 8,8 14,4
1995 9,5 12,7
1996 9,3 4,5
1997 8,2 3,6
1998 5,8 9,2
Riêng năm 1999 tình hình trở nên trầm trọng khi chỉ số GDP tăng 4,7-5%,
đây là tỷ lệ thấp nhất gần 10 năm trở lại đây. Mặt bằng giá giảm liên tục chỉ số
giá chỉ tăng vào 2 tháng đầu năm là những tháng tết Nguyên Đán, nhu cầu tiêu
dùng của các tầng lớp dân cư tăng cao: tháng 1 tăng 1,7%, tháng 2 tăng 1,9%.
Sau đó từ tháng 3 trở đi giá giảm liên tục:
Tháng/99 Chỉ số giá giảm (%)
3 -0,7
4 -0,6
5 -0,4
6 -0,3
7 -0,4
8 -0,6
9 -1
10 0,4
Với mức giảm bình quân 0,55%/tháng. Trong tháng 8, trong 11 nhóm hàng
hoá dịch vụ tiêu dùng chỉ có 5 nhóm giá tăng là dược phẩm, y tế tăng 0,8%, đồ
uống và thuốc lá tăng 0,3%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,2%, may mặc
26
tăng 0,1%, phương tiện đi lại, bưu điện tăng 0,1%. Còn 4 nhóm hàng hoá và
dịch vụ giảm là: lương thực giảm 1,3%, thực phẩm giảm 0,7%, thiết bị và đồ
dùng gia đình giảm 0,2%, hàng hoá và dịch vụ khác là 0,2%.
Với tình hình trên nền kinh tế Việt Nam đang tồn tại nhiều mâu thuẫn:
- Hàng hoá ế thừa trong khi nhu cầu tiêu dùng trong dân cư tăng. Theo số
liệu của tổng cục điều tra dân số Việt Nam năm 1999 thì hiện trên 70% dân số
sống trong khu vực nông nghiệp có mức sống thấp, đồ dùng và vật dụng như: sắt
thép, xi măng, ti vi mầu, quạt điện, giấy viết, vải vóc, quần áo hàng ngày hầu
như thiếu. Ngược lại lượng hàng hoá này lại tồn kho rất nhiều tại doanh nghiệp.
- Trong nền kinh tế đang rất cần vốn cho đầu tư phát triển thì hệ thống ngân
hàng lại tồn đọng một lượng vốn lớn, giải ngân chậm, có ngân hàng đã phải
ngừng huy động các nguồn vốn ngắn hạn.
- Năng lực sản xuất của nhiều doanh nghiệp vẫn còn nhưng chưa sử dụng
hết công suất do chưa có cơ chế quản lý thích hợp để thúc đẩy sản xuất, đồng
thời sản xuất sản phẩm không có chỗ tiêu thụ nên họ tự co lại. Ví dụ: nhà máy
đường chỉ sử dụng 50% công suất.
- Giá cả hàng hoá và dịch vụ giảm là một biểu hiện tích cực có lợi cho
người tiêu dùng nếu nó được xây dựng trên cơ sở giá thành giảm, năng suất lao
động tăng, khả năng cạnh tranh cao của sản phẩm,... Còn ở đây giá cả giảm là do
sức mua giảm sút, hàng hoá trở lên ế ẩm, khả năng thanh toán thấp,... Giá cả
hàng hoá, dịch vụ giảm ảnh hưởng đến thu ngân sách, huy động và cho vay vốn
của ngân hàng, đầu tư của doanh nghiệp, cá nhân giảm, sản xuất thu hẹp làm
giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Như vậy nghịch lý ở đây là giá cả tiêu
dùng giảm trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, nhập siêu giảm, bội chi
ngân sách giảm,....
- Trong khi năng lực sản xuất của doanh nghiệp và nhiều công trình xây
dựng lớn của Nhà nước vẫn còn có thể thu hút được một lực lượng lao động
27
nhất định thì do tổng cầu giảm, sản xuất trì trệ và bị thu hẹp đã làm cho tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao, số lao động mất việc làm đã chiếm trên 10% số lao động hiện
có. Thêm vào đó, số người đến tuổi lao động, số học sinh ra trường ngày càng
tăng, tạo sức ép việc làm rất lớn.
Với những mâu thuẫn trên, nền kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn. Giá
cả giảm sút do sức mua, khả năng thanh toán thấp và giảm. Thị trường trong
nước bị thu hẹp và kém sôi động, lượng tồn đọng sản phẩm hàng hoá tại doanh
nghiệp lớn, khó tiêu thụ, doanh nghiệp sản xuất cầm chừng. Khu vực doanh
nghiệp Nhà nước chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp đứng vững làm ăn có lãi, số
còn lại gặp khó khăn và thua lỗ.
2-/ Nguyên nhân gây ra tình trạng trên:
Thứ nhất: Cung hàng hoá chưa hẳn lớn so với cầu không phải là nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng giảm phát. Với một nước kém phát triển như nước
ta, sản xuất trừ một số ngành như lương thực, thực phẩm,... là đáp ứng đủ nhu
cầu của người dân và xuất khẩu còn lại là chưa đáp ứng được. Vậy nguyên nhân
của sự ứ đọng hàng hoá không có thị trường tiêu thụ ở chỗ:
+ Hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp thấp, đặc biệt là kinh tế quốc
doanh, sử dụng yếu tố đầu vào không hợp lý chưa hoặc chậm đổi mới công
nghệ, chưa tiết kiệm chi phí yếu kém trong quản lý kinh tế... Dẫn đến tình trạng
giá thành cao, thậm chí nhiều loại còn cao hơn giá quốc tế nên không phù hợp
với thị trường trong nước, nơi mà thu nhập của đại bộ phận dân cư còn thấp.
+ Chất lượng sản phẩm còn kém, không đủ sức cạnh tranh với hàng xuất
khẩu. Hiện nay trên thị trường hàng hoá nhập khẩu của Trung Quốc có nhiều
mặt hàng chất lượng khá tốt mà giá chỉ bằng một nửa giá của hàng hoá nội địa.
Với chất lượng kém hoặc chưa phù hợp với thị trường của người tiêu dùng thì
giá cả lại cao là nguyên nhân của sự ế đọng hàng hoá tại doanh nghiệp.
28
+ Lượng hàng hoá trốn thuế nhập lậu xe gắn máy, đường, xe đạp, quần áo
may sẵn,... đang trôi nổi với số lượng lớn trên thị trường có ưu thế về giá cả và
khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng đã đóng vai trò không nhỏ làm
tăng cung và giảm nhu cầu hàng nội địa, chèn ép sản xuất trong nước và dối loạn
thị trường.
Thứ hai - vốn:
+ Tình trạng thiếu vốn trầm trọng là những khó khăn lớn đối với các doanh
nghiệp, các cơ sở sản xuất. Các doanh nghiệp đã hoàn toàn có lý khi làm phép
so sánh: chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm trong khi lãi suất vay ngân hàng vẫn ở
mức cao, như vậy chắn chắn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là
kém và khó có thể đảm bảo được khả năng thanh toán, sản xuất cầm chừng, tắc
nghẽn, hàng hoá kém lưu thông dẫn đến giá tiếp tục giảm.
+ Cung ứng tiền tệ không đạt kế hoạch đầu năm. Lượng tiền đưa vào lưu
thông ít hơn mức cần thiết khiến sản xuất và lưu thông tắc nghẽn. Việc điều
hành chính sách tiền tệ tín dụng kém hiệu quả của hệ thống ngân hàng. Do sản
xuất kinh doanh trì trệ trong 5 tháng đầu năm ngân hàng Nhà nước đã 2 lần giảm
lãi suất cho vay với ý đồ kích cầu tín dụng. Nhưng do sức hấp thụ vốn của nền
kinh tế thị trường có hạn, chủ trương kích cầu tín dụng không đạt được kết quả
như mong muốn. Trong 5 tháng đầu năm, tốc độ tăng dư nợ cho vay chỉ đạt
5,2% trong khi tốc độ huy động vốn đạt 9,3% so với cuối năm 1998. Tình hình
này nói lên tiền trong lưu thông bị hút vào trong ngân hàng khá nhiều và nằm
đọng tại đó. Mặc dù ngân hàng thương mại đã hạ lãi suất đầu vào nhưng vẫn còn
cao hơn nhiều tỷ lệ lạm phát trong cùng thời kỳ (0,75%/0,17%/tháng). Thêm vào
đó, nhân dân có xu hướng giảm đầu tư để gửi tiết kiệm vào kho bạc Nhà nước.
Đã vậy, trong tháng 2 năm 1999 ngân hàng Nhà nước đã phát hành 600 tỷ đồng
kỳ phiếu để rút bớt tiền về, trong quí II năm 1999 ngân hàng Đầu tư - phát triển
nông thôn đã phát hành 2.000 tỷ đồng trái phiếu dài hạn thu được 1.900 tỷ đồng,
kho bạc Nhà nước phát hành 4.000 tỷ đồng công trái quốc gia. Kết quả huy động
29
vượt mức kế hoạch. Lượng tiền huy động vào kho bạc và ngân hàng tăng lên
bao nhiêu thì quỹ tiêu dùng xã hội giảm đi tương ứng. Tiền thu hút vào kho bạc
ngân hàng phải sau một thời gian mới đầu tư ra dần dần đó là một trong những
nguyên nhân làm cho thị trường khan hiếm tiền.
+ Chính sách tỷ giá và quản lý xuất nhập khẩu chưa phù hợp khiến nước ta
liên tục nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu. Mặc dù nhập siêu trong 8 tháng đầu
năm 1999 đã giảm chỉ còn 1,3 kim ngạch xuất khẩu nhưng nhập khẩu giảm chủ
yếu là do giảm sút phần nhập khẩu từ nguồn vốn FDI.
Thứ ba - thu nhập: thu nhập của người Việt Nam ở mức thấp so với thế
giới. Trên 70% lao động ở nông thôn với mức thu nhập rất thấp khoảng 2 triệu
đồng/năm “Theo kết quả điều tra của Bộ NN & PTNN”. Do giá cả thị trường
lương thực, thực phẩm đang giảm liên tục nên thu nhập của bộ phận này bị ảnh
hưỏng giảm đáng kể. Thu nhập thực tế của khu vực hành chính sự nghiệp và
những người hưởng quỹ lương từ ngân sách Nhà nước bị thị trường điều tiết
giảm đáng kể do chỉ số giá cả đã tăng sấp sỉ 30% (trừ 20% đã được bù). Với
mức thu nhập giảm như vậy, đặc biệt ở khu vực nông thôn chỉ đảm bảo mức
sinh hoạt tối thiểu hàng ngày, không có khả năng mua sắm các loại hàng hoá
khác để phục vụ cuộc sống tốt hơn. Người dân thành phố có nhu cầu và khả
năng thanh toán cao hơn song do thị hiếu đối với chất lượng hàng hoá, giả cả
của các loại hàng hoá nội địa thấp hơn so với hàng ngoại nhập nên giữa cung và
cầu trên thị trường Việt Nam vẫn còn nhiều bế tắc. Đó là một trong những
nguyên nhân gây ra hiện tượng giảm phát trên.
Thứ tư - thất nghiệp: Tình trạng thất nghiệp lớn đặc biệt là ở thành thị làm
giảm mức sống trung bình của người dân. Người đi làm với thu nhập đã thấp lại
phải nuôi thêm một lượng người nhàn rỗi càng làm cho mức sinh hoạt xã hội
giảm. Ngoài ra thất nghiệp tăng không chỉ ảnh hưởng trực tiếp làm giảm sức
mua của người dân mà còn gây ra nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết.
30
Thứ năm - đầu tư: là 1 trong những nguyên nhân gây ra giảm phát. Các nhà
đầu tư nước ngoài luôn e ngại trước môi trường luật pháp ở Việt Nam bởi lý do
như cơ cấu đầu tư kém hiệu quả ngày càng mất an toàn (vốn đầu tư tư nhân, FDI
giảm; vốn đầu tư ngân sách Nhà nước và đi vay tăng), thủ tục hành chính phiền
hà, thời gian cấp phép chậm,... cộng với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế
khiến tình trạng rút lui đầu tư nước ngoài diễn ra phổ biến.
Trong khi đó đầu tư trong nước cũng liên tục giảm do tình trạng sản xuất trì
trệ hàng hoá ế đọng, vấn đề trốn nợ diễn ra nhiều nơi nên một bộ phận dân cư
không dám cho vay trong tư nhân, hay liên kết đầu tư, bỏ vốn ra kinh doanh và
làm dịch vụ mà chọn cách gửi tiền vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu kho bạc,
công trái Nhà nước để hưởng lãi suất ổn định và không lo thua lỗ bên cạnh tình
hình giảm đầu tư là việc triển khai chậm trễ các nguồn vốn đầu tư. Tổng vốn đầu
tư toàn xã hội được thực hiện trong 6 tháng đầu năm 99 xấp xỉ 40.000 tỷ đồng
đạt 35,7% kế hoạch năm trong đó vốn ngân sách đạt 41%, vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đạt 35%.
Mặc dù mức tiết kiệm và đầu tư trên GDP của Việt Nam còn thấp so với
các nước trong khu vực và so với cả nhu cầu cần thiết để đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế song mức lãi suất và thuế suất lại tỏ ra khá cao trong mặt bằng chung về
kết quả kinh doanh cả nước càng làm hạn chế đầu tư và tiêu dùng.
Thứ sáu: Các hoạt động dịch vụ nhằm mở rộng và phát triển thị trường của
Việt Nam còn sơ khai, chưa được coi trọng đúng mức cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô.
Nên đôi lúc doanh nghiệp chưa tìm ra được thị trường của mình hoặc chưa tìm
được cách mở rộng nên không tiêu thụ được hàng hoá dẫn đến tình trạng hàng
hoá bị ứ đọng.
Thứ bẩy: do xu hướng giảm giá xảy ra có tính chất chu kỳ trên phạm vi
toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự sụt giá chung ở Việt Nam. Đến cuối
năm 1998, giá nguồn nhiên liệu trên thế giới đã giảm gần 30%, nông sản phẩm
giảm 20%, các mặt hàng nông sản phẩm lại là hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của
31
Việt Nam do vậy Việt Nam liên tục phải giảm giá các mặt hàng xuất khẩu để
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Theo số liệu của các cơ quan
chức năng thì giá xuất khẩu FOB nhiều loại hàng hoá Việt Nam năm 1999 đã
giảm nhiều so với năm 1998 như: gạo giảm 22%, chè giảm 21%, hạt tiêu giảm
9%, cà phê giảm 7%.
Mặt khác, giá cả thị trường thế giới giảm nên hàng hoá nước ngoài đã dễ
dàng tràn qua biên giới và đánh bại hàng hoá nội địa ngay trên thị trường trong
nước.
III-/ VIỆT NAM MỘT NĂM KÍCH CẦU:
Như trên đã nêu, ở tất cả các nước, khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm
thức tỉnh một điều là không thể chỉ dựa vào ngoại lực, mà điều quan trọng là
phải hướng mạnh vào thị trường trong nước, tức là phát huy nội lực một cách tối
đa. Vì chỉ có như vậy, nền kinh tế mới có những bước đi vững chắc, căn bản,
sớm khắc phục được những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ để
lại.
Trước bối cảnh nền kinh tế giảm sút có tính xu thế chung, ở Việt Nam hiện
tượng giảm phát diễn ra liên tục trong một thời gian dài, sản xuất thì cầm chừng,
hàng hoá dư thừa không phải so với khả năng thanh toán của xã hội, mà chính là
do chưa có cơ chế kích thích khả năng tiêu dùng, dù là khả năng tối thiểu trong
khi nhu cầu tiêu dùng thực sự của dân, của nền kinh tế còn lớn, mặt bằng về cầu
có thể nâng cao. Chính vì vậy, tại phiên họp thường kỳ vào tháng 4/1999 tại Hà
Nội vừa qua, chính phủ đã nêu “phải phát huy nội lực, tăng khả năng đầu tư,
kích thích mạnh sản xuất và nâng cao tiêu dùng hợp lý “là một giải pháp đúng
đắn kịp thời, mang tính chiến lược, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam.
Để thực hiện được việc đó thì “kích cầu” là một trong nhiều giải pháp hợp
lý. Bởi vì mặt lý thuyết, kích cầu là một giải pháp kích thích, khuyến khích tiêu
dùng và mục tiêu cuối cùng là làm tăng tổng cầu, tổng cung hàng hoá xuất khẩu
32
để thúc đẩy sản xuất phát triển. Mà tiêu dùng theo nghĩa rộng bao gồm cả tiêu
dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho sinh hoạt, đời sống. Do mối tác động qua lại
cùng chiều của tiêu dùng và sản xuất nên kích cầu phải được xây dựng trên
nguyên tắc phát huy nội lực, kích thích sản xuất trong nước, từ đó kích thích tiêu
dùng. Tuy nhiên không phải là cầu nào cũng kích mà chỉ kích thích những cầu
làm cho sản xuất trong nước phát triển, chẳng hạn như cầu hàng tiêu dùng nhập
khẩu thì không thể kích được. Đồng thời phải lựa chọn các ngành, sản phẩm để
kích, các ngành hoặc sản phẩm không có tính cạnh tranh, ế thừa, kém hiệu quả thì
không nên, hoặc công nghiệp dịch vụ đã có mức tăng trưởng cao hơn nhiều so với
nông nghiệp nay lại được kích thích mạnh trong khi nông nghiệp không được
kích đủ liều lượng để hấp thụ hết sản phẩm của công nghiệp - dịch vụ thì sẽ dẫn
đến tình trạng cung lớn hơn cầu và lại đẩy nền kinh tế rơi vào một vòng luẩn
quẩn.
Để thúc đẩy sản xuất phát triển trước hết phải gia tăng đầu tư cho các
doanh nghiệp 1/2/1999 chính phủ đã hạ lãi suất cho vay của ngân hàng từ 1,2%
chỉ còn 1,15% và gần đây lại tiếp tục giảm xuống chỉ còn 1,05%. Các doanh
nghiệp được hỗ trợ lãi suất cho vay ngân hàng từ nhiều nguồn kinh phí nếu sản
xuất của doanh nghiệp thuộc 5 lĩnh vực ưu tiên của thành phố và phải đạt mức
tăng trưởng liên tục từ năm 1996 đến nay về nộp ngân sách và không bị thua lỗ.
Ngoài ra doanh nghiệp còn được hỗ trợ sản xuất bằng cách mua trả góp, chậm
đối với thiết bị, vật tư trong nước.
Để kích cầu, tăng vốn đầu tư xâu dựng cơ bản là một trong các biện pháp
quan trọng và có ý nghĩa lớn cả về kinh tế và xã hội, chẳng những tạo ra nhiều
công trình xây dựng mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới thiết bị công nghệ,
từng bước hiện đại hoá đất nước mà còn giải quyết đầu ra cho nhiều ngành sản
xuất đang trong tình trạng ứ thừa, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao
sức mua cho người lao động. Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, thực
hiện chủ trương lớn của chính phủ, một trong những yêu cầu cấp bách là kiên cố
33
hoá hệ thống kênh mương, nâng cấp mặt bằng, đường giao thông nông thôn, xây
dựng và phát triển hệ thống điện kể cả công trình nguồn cũng như mạng lưới
điện về các thôn, xã, xây dựng nhà ở các vùng bị ngập lũ. Tất cả những khoản
trên đòi hỏi tăng nguồn kinh phí lớn. Để thực hiện kích cầu đầu tư, trong thời
gian qua chính phủ đã thực hiện một số biện pháp như tăng bội chi ngân sách,
dành một khoản tiền để trợ giúp hơn 1000 xã nghèo nhất ở vùng cao, đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội, thanh toán khoản nợ khối lượng xây dựng
cơ bản đã thực hiện vượt mức kế hoạch năm 1996 - 1997. Mở rộng diện cho vay
đối với các thành phần kinh tế trong những lĩnh vực ưu tiên: trồng cây công
nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ sản xuất khẩu với lãi suất hành lý và lấy công
trình làm điều kiện thế chấp. Cho phép bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài
cũng là một cách để phát triển đầu tư. Đầu tư nước ngoài cũng là một giải pháp
nhằm kích cầu sản xuất trong nước và phát triển kinh tế. Chính phủ đã ban hành
luật cho phép doanh nghiệp được đầu tư ra nước ngoài không hạn chế về máy
móc, nguyên vật liệu... cho phép các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng địa bàn
sản xuất kinh doanh, thu lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh trên trường Quốc tế, tạo
điều kiện tiêu thụ được lượng sản phẩm ế thừa. Đồng thời cũng góp phần giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, tăng tiêu dùng trong
nước.
Để thực hiện kích cầu đầu tư cho sản xuất, giải pháp phát triển cùng thu hút
vốn tiềm tàng trong dân có một ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy nội lực trong
điều kiện vốn đầu tư nước ngoài đang trên đà giảm sút. Từ đó phải đẩy mạnh tiết
kiệm, chống tham nhũng và buôn lậu. Trong đó chính sách tiết kiệm được thực
hiện trên ba mặt: chống lãng phí, khai thác tối đa công suất, hiệu quả của các
chương trình đầu tư, tiết kiệm chi tiêu ngân sách Chính phủ và tiết kiệm tiêu
dùng xã hội trong mọi gia đình, mọi cá nhân. Tiết kiệm không có nghĩa là hà
tiện bởi nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến chủ trương kích cầu tiêu dùng. Hiện
nay có nhiều ý kiến cho là mâu thuẫn khi Chính phủ một mặt kêu gọi tiết kiệm,
một mặt lại có hàng loạt các giải pháp để kích cầu. Tuy nhiên trên thực tế, hoàn
34
toàn không có sự mâu thuẫn giữa các chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí và
các giải pháp kích cầu. Bởi tiết kiệm bản chất là với chi phí hoặc hao phí ít hơn
hoặc như cũ nhưng làm được nhiều việc hơn, kết quả là hiệu quả hơn. Tiết kiệm
là yêu cầu bắt buộc của mọi miền kinh tế. Trong khi đó kích cầu là sự phát huy
nội lực, kích thích sản xuất trong nước, từ đó kích thích tiêu dùng. Do đó hai
việc có quan hệ hữu cơ và hỗ trợ cho nhau.
Để giải quyết tình trạng hàng tồn kho và giảm giá Chính phủ đã giảm thuế cho
các hàng hoá và dịch vụ. Nghị định 78/NĐ-CP ngày 20/08/1999 sửa đổi bổ sung
giảm 50% mức thuế cho 18 nhóm sản phẩm hàng hoá, bổ sung đối tượng và qui
định tỷ lệ khấu trừ đầu vào cho một số hàng hoá, dịch vụ mua hoặc khai thác không
có hoá đơn. Giải quyết hàng tồn kho tại thời điểm 31/12/1998, qui định thời gian
nộp thuế giá trị gia tăng, thay "tiền kiểm" bằng "hậu kiểm" thuế GTGT đối với
hàng hoá xuất nhập khẩu.
Để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra do các giải pháp kích cầu
trên, Chính phủ đã có một số biện pháp kích thích tiêu dùng của các tầng lớp
dân cư, tăng sức mua xã hội bằng việc nâng thu nhập xã hội ở thành thị cũng
như nông thôn thông qua các biện pháp tạo công ăn việc làm, giảm thuế, giảm
các khoản đóng góp, mở rộng tín dụng với lãi suất ưu đãi, kèm theo là thủ tục
vay mượn dễ dàng. Nâng cao thu nhập của người lao động bằng cách cải tiến
từng bước chính sách tiền lương, thực hiện khoán chi hành chính, rút ngắn thời
gian làm việc xuống 40 giờ/tuần. Chính phủ cũng đã khuyến khích xã hội hoá
đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao nhằm huy
động mọi nguồn lực trong nhân dân, vận động và tổ chức sự tham gia của toàn
xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó, từng bước nâng cao mức hưởng thụ về
vật chất và tinh thần của nhân dân.
Chính phủ cũng đã tích cực cải thiện cán cân thương mại, tăng xuất khẩu,
giảm nhập khẩu. Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất
35
khẩu, tìm thị trường mới góp phần tăng xuất khẩu, tăng công ăn việc làm, tăng thu
nhập và tiêu dùng.
Bên cạnh đó Chính phủ cũng đã và đang áp dụng các giải pháp như "chính
sách nới lỏng tiền tệ", "chính sách tiền tệ mở rộng", chấp nhận lạm phát trong
khả năng kiểm soát bội chi ngân sách và tín dụng có chọn lọc.
Quyết định về giờ làm việc 40 giờ/tuần và chủ trương kê khai nhà cửa, đất
đai mới đây của Chính phủ cũng có tác dụng tới kích cầu bởi sẽ tạo điều kiện
cho người dân mua sắm nhiều hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có
những giấy tờ hợp pháp về chủ quyền về nhà đất để họ có thể vay tiền ở các tổ
chức tín dụng để sản xuất kinh doanh và mua sắm.
Nói tóm lại trong năm 1999, có thể nói các giải pháp của Chính phủ đã bao
quát được toàn bộ các vấn đề đang nổi cộm, bức thiết của nền kinh tế và đã đạt
được một số kết quả. Tuy nhiên sự hoàn thiện của hệ thống chính sách lại được
gắn với các mục tiêu cụ thể, thêm vào đó những tác nhân tồn tại khách quan đã
cản trở chính sách kinh tế do đó trong nền kinh tế vẫn có những hậu quả của tình
trạng suy giảm kinh tế do giảm phát gây ra chưa được khắc phục, nền kinh tế
chưa có dấu hiệu thực sự tốt đẹp. Chính vì vậy cần phải có nhiều thay đổi trong
giải pháp của Chính phủ để cải thiện tình thế.
36
PHẦN III
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
1-/ Mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh
nghiệp vay vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc hạ lãi suất trần phải đi kèm với các giải pháp cải tổ lại doanh nghiệp
nhà nước, tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá, không ngừng đổi mới công nghệ hạ
giá thành sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, tìm kiếm thị trường mới, thay
đổi mẫu mã, tăng chất lượng sản phẩm, không ngừng nâng cao tính cạnh tranh
của doanh nghiệp. Nếu không việc hạ trần lãi suất chẵng những làm cho doanh
nghiệp có tư tưởng ỷ lại, trông chờ mà còn làm cho đồng vốn không hấp thụ hết
hoặc sử dụng kém hiệu quả. Đẩy mạnh sức tiến thương mại cả trong nước và
ngoài nước, cho phép các thành phần kinh tế được tham gia sản xuất trực tiếp và
tìm kiếm thị trường tiêu thụ ở nước ngoài. Bên cạnh đó phải tổ chức lại mạng
lưới bán hàng, hạ giá bán một số sản phẩm đang bị tồn đọng, khuyến khích tiêu
dùng hàng nội địa thông qua các cuộc bình chọn "hàng Việt Nam chất lượng
cao". Kiên quyết không cho các ngành, các doanh nghiệp có sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ độc quyền, tự ý nâng giá làm ảnh hưởng đến sản xuất, tiêu dùng trong
nước cũng như xuất khẩu. Cần có sự phối hợp giữa Chính phủ với các ban
ngành để điều hành thị trường, từ đó có những biện pháp tác động kịp thời nhằm
đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá ở thị trường nội địa.
- Đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, buôn lậu để giúp cho hàng hoá
trong nước không bị chèn ép bởi giá cả dẫn đến ứ thừa, sản xuất bị co hẹp, dẫn
tới chính sách đầu tư sẽ không đạt hiệu quả.
2-/ Thu nhập:
Cần phải có điều chỉnh về thu nhập để tạo điều kiện cho kích cầu đạt hiệu
quả cao. Cụ thể:
37
- Đối với những người có thu nhập thấp trước hết phải chú ý đến các giải
pháp tạo công ăn việc làm nhằm tăng thu nhập cho họ. Ngoài ra Chính phủ nên
xem xét để nâng lương hoặc bù giá vào lương cho cán bộ công nhân viên, những
người làm công tác giáo dục, những người hưu trí v.v...
- Đối với những người có thu nhập cao, nhu cầu đối với những sản phẩm
thiết yếu về ăn, mặc, ở dường như đã bão hoà, người ta đã có những nhu cầu về
sản phẩm, dịch vụ cao cấp. Cần khuyến khích họ đầu tư trực tiếp vào sản xuất
kinh doanh bằng cách đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đơn giản hoá thủ tục
lập doanh nghiệp và các chính sách ưu đãi về tín dụng, giá cả, thuế v.v..Đồng
thời cần khuyến khích họ dùng tiền nhiều hơn để chi tiêu mua sắm các phương
tiện tiêu dùng hiện đại như trang trí nội thất, điện tử cao cấp v.v... cần mở rộng
và xây dựng mới các khu vui chơi giải trí, tăng cường mở rộng các chuyến du
lịch trong và ngoài nước.
3-/ Đầu tư:
Cơ sở hạ tầng: Cần có sự đầu tư hơn nữa về cơ sở hạ tầng, nhà ở, khuyến
khích người dân thành thị chi dùng nhiều hơn cho xây dựng nhà cửa và trang trí
nội thất có thể bằng cách đổi nhà cũ thuê của Nhà nước lấy nhà mới của Công ty
xây dựng nhà ở, đổi nhà lấy đất .... Nhằm vừa tăng tính hợp lý chỗ ở và làm
việc, vừa tăng thu nhập xã hội: thu nhập của người bán vật liệu xây dựng, thu
nhập của những người thợ xây .... từ đó dẫn đến tăng cầu tiêu dùng. Đối với
nông thôn cần tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội như:
mạng lưới điện, giao thông, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục .... nhằm tạo
điều kiện cho lưu thông hàng hoá phát triển, nâng mức sống và thu nhập vốn
thấp của người dân. Đồng thời tăng cường trang thiết bị kỹ thuật nhằm tăng
năng suất lao động, tạo ra sản lượng cũng như chất lượng hàng hoá cao hơn.
Cần mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài để tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập, tăng sức mua bằng cách giúp đỡ doanh nghiệp có nhiều thông tin
về thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước nêu miễn giảm thuế đối với nhà
38
đầu tư mới, thực hiện tín dụng ưu đãi, hạ lãi suất cho vay bởi vì hiện nay lãi suất
vẫn chưa thực sự có lợi cho nhà đầu tư. Không phân biệt các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài vì hiện nay các nhà đầu tư trong nước cho rằng Nhà nước
chỉ quan tâm ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ như nâng mức chịu
thuế thu nhập cho người nước ngoài mà không thực hiện đối với người Việt
Nam.
Trong việc thực hiện vốn đầu tư, đặc biệt là vốn ODA cần lựa chọ dự án
quan trọng được tài trợ có thể trả lương sớm với sự ưu tiên cân đối vốn ứ đọng
từ nguồn ngân sách Nhà nước.
4-/ Chính sách tài khoá.
Để làm tăng thu nhập xã hội nhằm gia tăng tổng cầu, Nhà nước cần tăng
chi tiêu ngân sách để kích thích tăng trưởng kinh tế. Đồng thời phải nâng cao
hiệu quả sự chi tiêu của Chính phủ, chú trọng các công trình trọng điểm, công
trình có tính chiến lược quốc gia. Thực hiện tiết kiệm thông qua việc kiên quyết
cắt giảm các khoản chi phí mang tính bao cấp cho viên chức Nhà nước, cho
doanh nghiệp Nhà nước. Hạn chế thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản do
tham nhũng, móc ngoặc, mua bán công trình, do yếu kém trong quản lý. Cần
quản lý chặt chẽ việc sử dụng tài sản công sao cho an toàn, có hiệu quả. Kiểm
soát và cắt giảm các khoản chi tiêu hành chính công vụ. Hỗ trợ vốn lưu động
cho các doanh nghiệp nhằm hạ giá thành sản phẩm, thực hiện hỗ trợ giá cho
hàng hoá nông sản.
Đối với thuế khoá và các khoản phí: Cần giảm thuế thu nhập và các khoản
thu khác nhằm tăng thu nhập được quyền sử dụng của các tầng lớp dân cư. Hiện
nay mức thu nhập chịu thuế tại Việt Nam là chưa hợp lý. Mức thu nhập bắt đầu
chịu thuế là 2 triệu đồng trên tháng đối với nông thôn là quá cao trong khi ở
thành thị lại là thấp. Do đó cần thay đổi cách tính thuế thu nhập thoe hướng
khuyến khích tiêu dùng tức là dựa trên mức thu nhập ròng sau khi trừ đi các
khoản đã tiêu dùng. Điều đó sẽ khuyến khích tiêu dùng vì người nào tiêu dùng ít
39
số thu nhập ròng sau khi trừ đi các khoản đã tiêu dùng sẽ cao và họ sẽ phải nộp
thuế thu nhập nhiều hơn. Ngoài ra cần giảm các khoản thuế gián thu nhằm giảm
giá bán thừa với sức mua quá thấp hiện nay.
5-/ Chính sách lưu thông tiền tệ.
Chính phủ nên dùng chính sách tiền tệ mở rộng để giảm lãi suất nhằm
khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, chấp nhận lạm phát trong khả năng kiểm soát
bằng cách bội chi ngân sách và chính sách tài trợ bằng vay nợ.
6-/ Ngoài các giải pháp trên một vấn đề cực kỳ quan trọng nữa cần khuyến
khích tiêu dùng hàng nội địa. Hiện nay tâm lý thích tiêu dùng hàng ngoại
ăn sâu trong các tầng lớp dân cư, kể cả các lãnh đạo cao cấp. Cần phải kêu
gọi tinh thần yêu nước trong mọi từng lớp dân cư, phải phát động phong
trào "nhà nhà dùng hàng nội, người người dùng hàng nội" mà đi đầu là các
cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các Đảng viên để làm gương cho quần
chúng nhân dân. Tất nhiên, từ phía các doanh nghiệp cần phải nâng cao
chất lượng sản phẩm nội địa, cải tiến mẫu mã mặt hàng và giá cả để có thể
cạnh tranh được với hàng ngoại nhập.
40
41
LỜI KẾT
Với nỗ lực của Chính phủ và nhân dân ta, sau năm 1999 tình hình nền kinh
tế đã có nhiều dấu hiệu khả quan hơn. Tình trạng sụt giảm giá liên tục trong
nhiều tháng đã kéo theo những hậu quả nghiêm trọng như sản xuất đình trệ, sức
mua người dân giảm... Giải pháp kích cầu đã được Chính phủ sử dụng như một
giải pháp quan trọng nhằm giải quyết tình trạng hàng hoá tồn đọng, qua đó kích
thích hoạt động sản xuất kinh doanh. Những chỉ số thống kê về tình hình kinh tế
tháng 7, 7 tháng cho thấy giải pháp kích cầu đã đang phát huy một số tác động
ban đầu. Điều đó thể hiện sự sáng suốt, đúng đắn trong sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước ta trước mọi tình hình khó khăn của đất nước. Tuy nhiên chỉ nên coi
kích cầu là một giải pháp tình thế bởi nó chỉ mang lại các tác dụng ngắn hạn đối
với tăng trưởng kinh tế. Nếu sử dụng biện pháp này lâu dài có thể làm giảm tính
năng động của các doanh nghiệp, thậm chí phá vỡ thế cân bằng của nền kinh tế.
Vì Chính phủ phải kéo dài thời gian bảo hộ đối với một bộ phận doanh nghiệp,
làm tăng mặt bằng giá cả trong khi chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá
sản xuất ra không được nâng cao một cách tương ứng, gây tác động tiêu cực đến
nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực toàn cầu. Chính vì
vậy Thủ tướng Chính phủ đã tuyên bố "không thể kéo dài các chính sách bảo hộ
vì như thế là có tội đối với dân khi mà dân đang phải mua hàng vơí giá cao hơn
trong khi thu nhập còn thấp". Điều này nói lên tính đúng đắn trong đường lối
chính sách của Nhà nước ta và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với
người dân lao động. Chính vì lẽ đó tất cả chúng ta phải cùng nhân dân cả nước
thực hiện tốt các biện pháp của Chính phủ, nỗ lực góp phần đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng, giữ vững và phát huy các thành kinh tế xã hội mà
nước ta đã đạt được sau những năm đổi mới bằng cách tăng cường sử dụng hàng
nội địa, tẩy chay hàng ngoại nhập.
42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-/ Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - F.S. MISHKIN
2-/ Kinh tế vĩ mô - ĐHKTQD.
3-/ Tạp chí Thị trường TC-TT số 8 + 9/1999, số 2/2000.
4-/ Tạp chí ngân hàng số 14+ 16 +18/1999.
5-/ Tạp chí TT- GC số 9 +10/1999, số 1+2/2000.
6-/ Tạp chí Phát triển kinh tế số 106/1999
7-/ Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 255 (tháng 8)/1999.
8-/ Tạp chí Thông tin tài chính số 13/1999.
9-/ Tạp chí Tài chính số 7 + 8 + 9 + 12 /1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn- Thực trạng giảm phát ở Việt Nam - nguyên nhân và kinh nghiệm từ một số nước.pdf