Luận văn Thực trạng chính sách đầu tư đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp Việt Nam

Tài liệu Luận văn Thực trạng chính sách đầu tư đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp Việt Nam: 1 Luận văn Thực trạng chính sách đầu tư đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp Việt Nam 2 LỜI MỞ ĐẦU Trong hơn 10 năm qua nhất là từ sau đại hội VI của Đảng công cuộc đổi mới kinh tế đất nước bước đầu có những chuyển biến quan trọng, nền nông nghiệp Việt Nam đạt bước tiến bộ rõ rệt. Tình hình sản xuất lương thực thực phẩm phát triển khá đáp ứng được nhu cầu trong nước có dự trữ và xuất khẩu góp phần ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc cải tiến tổ chức sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xoá bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà cung cầu lương thực trên phạm vi cả nước. Cùng với những thành tựu trong sản xuất, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bước đầu được hình thành và vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động vận dụng có hiệu quả hơn các công cụ pháp luật, kế hoạch, ch...

pdf109 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng chính sách đầu tư đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Thực trạng chính sách đầu tư đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp Việt Nam 2 LỜI MỞ ĐẦU Trong hơn 10 năm qua nhất là từ sau đại hội VI của Đảng công cuộc đổi mới kinh tế đất nước bước đầu có những chuyển biến quan trọng, nền nông nghiệp Việt Nam đạt bước tiến bộ rõ rệt. Tình hình sản xuất lương thực thực phẩm phát triển khá đáp ứng được nhu cầu trong nước có dự trữ và xuất khẩu góp phần ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc cải tiến tổ chức sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xoá bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà cung cầu lương thực trên phạm vi cả nước. Cùng với những thành tựu trong sản xuất, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bước đầu được hình thành và vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động vận dụng có hiệu quả hơn các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ đòn bẩy khác, trong đó việc đổi mới các chính sách giá, thuế, tín dụng, đầu tư, lưu thông, kinh tế đối ngoại..., có vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Đồng thời, Nhà nước đã thực hiện chính sách điều chỉnh quan hệ sản xuất ở nông thôn bước đầu đã giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động và vốn của nhân dân. Sự phát triển của nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn chịu sự tác động của nhiều nhân tố trong đó chính sách đóng vai trò gần như quyết định, đó chính là tác động can thiệp của Nhà nước đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn. Chính sách đóng vai trò quan trọng và là yếu tố bao trùm tác động mạnh mẽ bảo đảm sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn và phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước. Chính sách đúng đắn sẽ tạo động lực cho người lao động, cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tham gia tích cực vào phát triển sản xuất mở rộng kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội với nhịp độ nhanh và ổn định. 3 CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP I. Tổng quan về đầu tư 1. Khái niệm về đầu tư Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. 2. Vai trò của đầu tư phát triển 2.1 Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước 2.1.1 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu Về mặt cầu đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thể giơí, đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Về mặt cung khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tăng, giá giảm cho phép tăng tiêu dùng, tiếp tục lại kích thích sản xuất hơn nữa. 2.1.2 Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về thời gian của đầu tư với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều vừa là yếu tố duy trì ổn định vừ là yếu tố phá vỡ sự ổn định. Khi tăng đầu tư cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm giá cá của các hàng hoá liên quan tăng. Khi tăng đầu tư cũng làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển thu hút lao động giảm tình trạng thất nghiệp. 2.1.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. 4 Để tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15- 25% so với GDP tuỳ thuộc vào Icor mỗi nước, chỉ tiêu Icor của mỗi nước tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế. 2.1.4 Đầu tư tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Con đường tất yếu có thể tăng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu công nghiệp và dịch vụ, đối với các ngành nông nghiệp, lâm ngư nghiệp do hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là khó khăn, như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 2.1.5 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Để có công nghệ thì phải tự nghiên cứu phát minh hoặc nhập công nghệ từ nước ngoài nhưng vấn đề là phải có tiền, vốn đầu tư. 2.2 Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của cơ sở nào đó cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng mua sắm lắp đặt thiết bị máy móc, thực hiện các chi phí khác gắn liêng với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư, sau một thời gian hoạt động các cơ sở này hao mòn, hư hỏng và để hoạt động bình thường hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới thì phải đầu tư nâng cấp và tiến hành sửa chữa. 3. Đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp 3.1 Đầu tư trong nông nghiệp được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, và còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Khác với các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư trong nông nghiệp xuất nông được thực hiện trên một địa bàn rộng (như áp dụng tiến bộ về giống cho cả một huyện...). Ngoài ra, việc đầu tư còn lệ thuộc vào đất đai, thời tiết, khí hậu và thuỷ văn của từng vùng. Do vậy, quá trình đầu tư diễn ra rất phức tạp, nó không được dập khuôn mà phải diễn ra theo một quá trình, nó được xuất phát từ việc điều tra các nguồn tài nguyên nông-lâm-ngư nghiệp của đất nước cũng như của mỗi vùng để có sự đầu tư vào nghiên cứu và sử dụng các loại cây trồng, các con vật nuôi thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng. 5 Trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật là rất quan trọng, nó quyết định tới việc thành công của việc sản xuất. Nhưng để cơ sở hạ tầng kinh tế này phát huy tác dụng cần phải tiến hành phù hợp với đặc điểm của từng cây trồng, từng con vật nuôi, điều kiện đặc biệt quan trọng là phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình kinh tế của từng vùng. Quá trình đầu tư trên rất phức tạp và khó thực hiện. Vì vậy, để nông nghiệp nông thôn ngày càng phát triển, cần đưa ra những chính sách thích hợp với diều kiện cụ thể của từng vùng, từng khu vực nhất định. Đặc biệt là chính sách ruộng đất, chính sách đầu tư và chính sách thuế. Làm được như vậy, chắc chắn nông nghiệp sẽ phát triển nhanh và góp phần to lớn vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. 3.2 Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Do vậy đầu tư nông nghiệp là đầu tư để cải tạo ruộng đất. Đất đai là diều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng tác động kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong công nghệp và các ngành kinh tế khác, đất đai chỉ là nền móng để xây dựng các công xưởng trụ sở phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh. Trái lại trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Đất đai là tư liệu sản xuất nhưng có giới hạn về diện tích, cố định về mặt vị trí mà nhu cầu sản xuất lại không ngừng tăng lên. Do vậy, đầu tư để cải tạo ruộng đất là quá trình vô cùng quan trong, nó quyết định đến quá trình sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống dân cư. Vấn đề đặt ra là đầu tư cải tạo đất như thế nào cho phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, lãnh thổ. Trong thời gian qua, nước ta đã chú trọng đầu tư mở rộng, cải tạo đất thông qua các biện pháp khai hoang, tăng vụ, đẩy mạnh đầu tư chiều sâu, thâm canh sản xuất. Không ngừng áp dụng các loại giống mới, có chất lượng cao vào sản xuất, đồng thời sử dụng các loại phân bón vừa có tác dụng nâng cao năng suất cây trồng, vừa có tác dụng cải tạo đất và luôn luôn luân canh sản xuất làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng tăng. Để làm được như vậy, Nhà nước và các hộ dân cư tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này, đồng thời có sự hường dẫn đúng các quy định đã được đề ra trong chính sách ruộng đất. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh lượng hàng hoá xuất khẩu và đời sống nhân dân được tăng cao, Đảng và Nhà nước cần quan tâm đầu tư hơn nữa đến lĩnh vực này, đồng thời có những biện pháp thu hút mạnh 6 mẽ các nguồn vốn khác, đặc biệt là nguồn vốn trong dân đầu tư cho cải tạo đất và phát triển nông nghiệp. 3.3 Đầu tư trong nông nghiệp là quá trình đầu tư phát triển hệ thống giống và chế biến nông sản, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cây trồng và con vât nuôi - đối tượng sản xuất của nông nghiệp, là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học nhất định. Là những cơ thể sống do đó chúng rất nhạy cảm với môi trường tự nhiên. Mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, về sự chăm sóc của con người đều tác động trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng và đương nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sản xuất. Vì vậy, đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp là đầu tư cho phát triển hệ thống giống. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã đầu tư xây dựng được một số trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống với nhiều loại giống tốt góp phần to lớn cho quá trình sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao. Trong thời gian tới, để ngành nông nghiệp ngày càng phát triển, nhất thiết chúng ta phải tăng cường đầu tư hơn nữa để cải tạo và xây dựng các trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống. Việc làm này không chỉ ở một số nơi mà cần mở rộng ra nhiều nơi, mỗi vùng đặc trưng ít nhất phải có một trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống. Ngoài việc nghiên cứu và sản xuất các loại giống mới phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, cần phải đầu tư hơn nữa để tạo ra các loại giống có phẩm chất tốt nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Có như vậy, quá trình sản xuất nông nghiệp mới đạt kết quả cao, ngành nông nghiệp mới khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài việc đầu tư phát triển hệ thống giống, đầu tư cho chế biến nông sản cũng vô cùng quan trọng, nó giúp cho các nông sản sau khi thu hoạch được bảo đảm và việc chế biến nông sản làm cho giá trị nông sản hàng hoá được nâng cao, góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Bên cạnh đó đầu tư cũng nhằm phát triển giống cây, giống con có năng suất, chất lượng tốt, cho phép chuyển đổi cơ cấu kinh tế nuôi trồng các cây, con có giá trị hiệu quả kinh tế cao hơn. II. Vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của đất nước Nông nghiệp chiếm một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, mặc dù nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nhưng nền tảng vẫn là một nước có nền nông nghiệp truyền thống, nông nghiệp đóng góp xấp xỉ 1/4 vào GDP của đất nước, trên 1/3 kim ngạch xuất 7 khẩu và tạo việc làm cho 2/3 lực lượng lao động với khoảng 80% dân cư sống ở nông thôn do đó nông nghiệp không chỉ là nguồn sống mà còn là động lực để phát triển kéo theo các ngành khác. Mục tiêu và định hướng phát triển nông nghiệp nước ta cho đến năm 2010 được thể hiện trong báo cáo chính trị tại đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 4/2001: "Tăng cường sự chỉ đạo và huy động nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhất là công nghệ sinh học. Đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ gới hoá, điện khí hoá, phát triển kết cấu hạ tầng, công nghiệp dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo nhiều việc làm mới và cải thiện đời sống nông dân và dân cư nông thôn". 1. Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm - nhu cầu cần thiết cho con người. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng và phát triẻn đa dạng. Nhưng trước hết, như Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn sau đó mới nói đến các hoạt động khác, rằng nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người ... và việc sản xuất tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên của sự sống vàcủa mọi lĩnh vực sản xuất nói chung. Đặc điểm này khẳng định vai trò đặc biệt quan trong của nông nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư, bảo đảm sự ổn định chính trị xã hội của đất nước. Từ đó khẳng định ý nghĩa to lớn của vấn đề lương thực trong chiến lược phát triển nông nghiệp, của năng suất lao động nông nghiệp đối với việc bố trí và phân công lại lao động trong xã hội. Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với nước ta. Với gần 80% dân số sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp đã cung cấp phần lớn tư liệu sinh hoạt cho người dân, đồng thời nó cũng đáp ứng được nhu cầu việc làm cho người lao động. Quan trọng hơn, sản xuất nông nghiệp nước ta đóng một vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. 2. Nông nghiệp nông thôn là thị trường rộng lớn, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng, nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội và cơ cấu dân cư. Đời sống dân cư ngày càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế 8 nông thôn ngày càng đa dạng và đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu thụ ngày càng rộng lớn và ổn định của nền kinh tế quốc dân. Nhờ vào sự phát triển mà nhu cầu của người dân ngày càng tăng, không chỉ tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt đơn giản phục vụ cho ăn no mặc ấm, mà nhu cầu ngày càng mở rộng, người ta càng quan tâm đến ăn ngon, mặc đẹp và những phương tiện ngày càng hiện đại phục vụ cho đời sống vật chất cũng như tinh thần. Cùng với quá trình đó, sản xuất nông nghiệp cũng đòi hỏi ngày càng được cơ khí hoá và áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ vào trong sản xuất. Chính vì vậy, nó không chỉ dừng lại ở đòi hỏi sản phẩm nông nghiệp mà sản phẩm công nghiệp ngày càng được đòi hỏi nhiều hơn, ngày càng đưa về phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn nhiều hơn. Cho nên, quá trình sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy mạnh mẽ đến sản xuất công nghiệp và phát triển dịch vụ. Qua đó, sẽ giúp cho nền kinh tế quốc dân ngày càng phát triển. 3. Nông nghiệp là ngành cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội. Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng, nguyên liệu từ đầu vào là bộ phận chủ yếu để phát triển công nghiệp chế biến và nhiều ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Một số loại nông sản, nếu tính trên một đơn vị diện tích, có thể tạo ra số việc làm sau nông nghiệp nhiều hơn hoặc tương đương với việc làm của chính khâu sản xuất ra nông sản ấy. Hơn nữa, thông qua công nghiệp chế biến, giá trị nông sản được tăng lên và đa dạng hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Vấn đề này đã được thể hiện rõ ở nước ta, đó là nông nghiệp đã cung cấp nguyên liệu như thuỷ, hải sản, cao su, cà phê, chè..., tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội. Để thực hiện vai trò này của công nghiệp, đòi hỏi phải giả quyết tốt mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt giữa nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Vấn đề cần giải quyết chính là quá trìng phân bố sản xuất, quy trình kỹ thuật, mô hình tổ chức và quan hệ về lợi ích kinh tế. 4. Nông nghiệp là ngành cung cấp một khối lượng hàng hoá lớn để xuất khẩu Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của hầu hết các nước đang phát triển ở thời kỳ đầu. Theo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, tỷ lệ nông sản xuất khẩu nhất là 9 xuất khẩu thô có xu hướng giảm xuống nhưng thường vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối. Vì vậy, trong giai đoạn đầu của sự phát triển, ở nhiều nước nông nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ yếu tạo ra tích luỹ để tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân. 5. Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh vực hoạt động xã hội khác Đây là xu hướng có tính quy luật trong phân công lao động lại xã hội. Tuy vậy, yêu cầu chuyển lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác phụ thuộc vào nhiều nhân tố: trước hết là năng suất lao động nông nghiệp phải không ngừng tăng lên, công nghiệp và dịch vụ ở thành thị ngày càng mở rộng, chất lượng nguồn lao động ở nông thôn phải được nâng cao. 6. Nông nghiệp là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với sử dụng thường xuyên đất đai, nguồn nước, các loại hoá chất..., đồng thời việc trồng và bảo vệ rừng, luân canh cây trồng, phủ xanh đất trống đồi trọc...đều có ảnh hưởng lớn đến môi trường. Phải thấy rằng việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái còn là điều kiện để quá trình tái sản xuất nông nghiệp diễn ra bình thường có hiệu quả. III. Kinh nghiệm xây dựng về một số chính sách đầu tư nông nghiệp từ một số nước 1. Chính sách đầu tư cho nghiên cứu triển khai nông nghiệp, nhằm giúp nông dân các kiến thức sản xuất và tiếp cận thị trường nông sản trong và ngoài nước. (Đây là một trong những chính sách tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp) Chính sách này được thể hiện qua việc đầu tư của Chính phủ vào công tác nghiên cứu và triển khai nông nghiệp. Số liệu của R.F.EVernon cho thấy ở các nước đâng phát triển mức chi bình quân cho một cán bộ nghiên cứu nông nghiệp vào năm 1980 là khoảng 40000USD, chi bình quân cho một cán bộ triển khai khoảng 2000-10000USD; còn ở các nước phát triển, công nghiệp hoá mức chi tương ứng: nghiên cứu 93000USD và triển khai là 29000USD. Trong số các nước đang phát triển, Thái Lan là một điển hình tốt về chính sách này. Nhà nước chú trọng xây dựng các trạm trại nghiên cứu nông nghiệp. Chính phủ đã chi cho công tác nghiên cứu triển khai nông nghiệp lớn hơn 1,7 10 lần so với công tác nghiên cứu và sử dụng quỹ này một cách tập trung có hiệu quả vào các cây trồng phục vụ xuất khẩu và có giá trị chiến lược đối với nền kinh tế. Cục triển khai nông nghiệp Thái Lan (DOEA) là cơ quan khuyến nông rất có hiệu quả của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động triển khaiđể thực hiện chính sách đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp DOEA không chỉ triển khai thông qua tham quan, đào tạo mà còn sản xuất một khối lượng các hạt giống mới cho nông dân trong hầu hết các vụ chính. Chính sách nghiên cứu và triển khai nông nghiệp ở Thái lan có tác động lâu dài đến sự thay đổi về năng suất nông nghiệp. Một trong những kinh nghiệm hay của Thái Lan là Chính phủ đã lôi kéo, thu hút được đông đảo tư nhân tham gia vào các chương trình khuyến nôngnhằm tạo ra các mô hình trồng trọt hỗn hợp, canh tác đa dạng. Điều đáng lưu ý là các nguồn kinh phí cho nghiên cứu trong nông nghiệp được Nhà nước tài trợ liên tục, ổn định trong nhiều năm. Điều đó rất quan trọng đảm bảo cho sự triển khai có hiệu quả của cơ quan khuyến nông Thái Lan (DOEA). 2. Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho kinh tế nông thôn (Đây là một trong những chính sách tác động gián tiếp lên sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn) Từ những kinh nghiệm chung của nhiều nước, giáo sư Ran-dolph Barker đã tổng kết rằng: trong suốt thời kỳ quá độ chuyển nền kinh tế từ nông- công nghiệp sang nền kinh tế công-nông nghiệp, Chính phủ phải thực hiện một số chức năng sau: - Xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, gồm có: công trình tưới, tiêu, đường xá. điện, phương tiện giao thông - Nhập khẩu các kỹ thuật nhất định từ nước ngoài và tăng cường khả năng nghiên cứu triển khai trong nước - Phát triển nguồn nhân lực - Phát triển và bảo vệ các tài nguyên và môi trường - Động viên tiết kiệm từ nông sản dư thừa và chuyển chúng đến nơi cần thiết - Giảm thất nghiệp và đói nghèo - Chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng cho dân cư - Đổi mới các thể chế và tổ chức như Hợp tác xã nông dân, ngân hàng, hiệp hội 11 Như vậy, chức năng lớn nhất mà chính phủ phải đảm nhận là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn. Gánh nặng về phát triển cơ sở hạ tầng chỉ có thể giảm nhẹ khi khu vực tư nhân ở nông thôn phát triển mạnh mẽ đủ sức để hỗ trợ Chính phủ một phần trong việc thoả mãn nhu cầu chung về phát triển cơ sở hạ tầng. Trên thực tế các nước và các vùng lãnh thổ xung quanh Việt Nam như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malayxia đều có chính sách đầu tư mạnh cho phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng sản xuất hàng hoá thường đi trước một bước (chủ yếu là đường xá, điện và thông tin liên lạc) và phát triển đường bộ. Trong hệ thống hạ tầng trực tiếp cho nông nghiệp cụ thể là thuỷ lợi được quan tâm khá cao. Ở Trung Quốc trong thời gian cải cách kinh tế, Nhà nước đã tăng vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhiều hơn số lượng vốn có được kể từ ngày giải phóng cho đến năm 1990. Ở Malayxia, Chình phủ đã đầu tư xây dựng toàn bộ các công trình tưới tiêu và không thu thuỷ lợi phí. Điều rất rõ ràng là: chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là chính sách kinh tế lớn, thường chiếm tỷ trọng cao trong chi tiêu của Chính phủ các nước. Ngoài việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cứng (đường xá, kho hàng, bến bãi, điện, thông tin liên lạc) nhà nước còn bỏ nhiều tiền để đầu tư vào cơ sở hạ tầng mềm-đó là chi phí cho việc đầo tạo, phát triển tri thức kinh doanh cho lao động ở nông thôn... Coi các khoản chi tiêu này là đầu tư dài hạn khôn khéo. Đặc biệt sự thành công trong phát triển kinh tế nói chung và nông thôn nói riêng ở các nước công nghiệp mới (NEW), ở Châu Á và ASEAN đã cho thế giới một bài học kinh nghiệm lớn về chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong những năm 1960-1970. Trong giai đoạn này các nước kể trên đã đầu tư cao cho nông nghiệp thể hiện qua biểu sau: Biểu 1: Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và mức đầu tư của Chính phủ vào nông nghiệp ở một số nước Châu Á (giai đoạn 1975-1980) Đơn vị: % Tên nước Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP Phần đầu tư của Chính phủ vào nông nghiệp trong tổng đầu tư Tổng đầu tư của Chính phủ cho nông nghiệp theo GDP 1. Hàn Quốc 27 24,6 5,0 2. Inđônêxia 38,8 18,9 9,8 12 3. Malayxia 27,7 20,2 10,0 4. Philippin 26,6 25,7 5,1 5. Thái Lan 30,4 10,2 4,1 Số liệu biểu trên cho thấy Thái Lan là nước thực hiện chính sách đầu tư ít vào nông nghiệp. Chính sách này của Chính phủ Thái Lan đã bị nhiều nhà kinh tế phê phán, trên thực tế cơ sở hạ tầng nông thôn Thái Lan còn kém phát triển và nông dân gặp nhiều khó khăn trong việc tăng gia sản xuất. Tuy nhiên trong phê phán chung về chính sách đầu tư của các nước Châu Á trong những năm qua, Randolph Barker đánh giá rằng: "đã quá nhấn mạnh vào đầu tư phần cứng (cơ sở hạ tầng vật chất), mà ít quan tâm đến phần mềm tức là đầu tư phát triển nguồn nhân lực để có đủ khả năng quản lý, khai thác có hiệu quả cơ sở hạ tầng phần cứng" Đây là một kinh nghiệm mà Việt Nam cần rút ra và không nên lặp lại. 3. Bài học kinh nghiệm Từ các kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành cồn trong xấy dựng các chính sách đầu tư tác động trực tiếp và tác động gián tiếp lên kinh tế nông thôn ở các nước và lãnh thổ đẫphân tích trên, có thể rút ra: Một là: Kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận quan trọng của mỗi hệ thống kinh tế, nó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn, kém phát triển so với khu vực khác, vì vậy chính sách đầu tư của Chính phủ phải thể hiện: - Coi trong phát triển sản xuất, tạo cơ sở bảo đảm nguồn lương thực cho chính dân cư nông thôn và toàn xã hội. Trên cơ sở đó mà phát triển toàn nền kinh tế. - Sự nâng đỡ, ưu đãi cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước, khi nông nghiệp và nông thôn còn yếu kém và trong hoàn cảnh lạc hậu, trợ giúp nông dân nghèo ở nông thôn được xem là tư tưởng chung nhất trong chính sách đầu tư đối với nông nghiệp và nông thôn. Hai là: Sự lựa chon chính sách phù hợp cho từng giai đoạn phát triển, đối với từng khu vực nông thôn khác nhau đóng vai trò quyết định sự thành công của quá trình vận hành. Không chính sách nào có thể tác động mọi mặt theo chủ quan, vì vậy sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách tác động trực tiếp với các chính sách tác đông gián tiếp là một yêu cầu rất quan trọng. Ba là: Cải cách và đổi mới chính sách đầu tư đối với nông nghiệp nông thôn là quá trình liên tục, không có khuôn mẫu định sẵn cho bất kỳ một hệ thống hay một tiểu hệ thống cụ thể nào. 13 Kinh tế nông thôn chỉ có thể phát triển thành công trong kinh tế thị trường khi các thể chế kinh tế đối với nông thôn hoạt động đồng bộ, có mục tiêu tác động cùng chiều và hiệu ứng cao. Đó là những bài học tổng quát rút ra từ phân tích kinh nghiệm chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của một số nước có điều kiện gần giống với Việt Nam. Các kinh nghiệm quý trên đây có tính gợi mở rất bổ ích đối với Việt Nam trong qua trình hoạch định, hoàn thiện các chính sách đầu tư khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM A. Quá trình hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của Việt Nam Mục tiêu cơ bản lâu dài trong sự phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta đến năm 2000 được thể hiện trong Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khoá VII của Đảng Công sản Việt Nam là: * Trên cơ sở phát triển nhanh chóng và vững chắc nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn , nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh thu hút đại bộ phận lao động dôi thừa, tăng năng suất lao động xã hội, giải quyết nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu nông lâm thuỷ sản cho công nghiệp tăng kim ngạch xuất khẩu bảo vệ tài nguyên và cải thiện môi trường sinh thái. * Tăng thu nhập, cải thiện một bước đời sống vật chất văn hoá của nông dân, giảm mức tăng dân số, khắc phục nạn suy dinh dưỡng, tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xoá đói giảm nghèo nhất là ở các vùng cao dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng. * Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển đời sống văn hoá phong phú, lành mạnh có cơ sở hạ tầng xã hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của nông dân có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ bảo đảm 14 công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị trong nông thôn, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh. I. Quá trình hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1990 - 1995 Nền nông nghiệp nước ta đã có những khởi sắc mới, bộ mặt nông thôn có những thay đổi đáng mừng, thành tựu nổi bật khởi sắc mới của nông nghiệp nước ta là sức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn đã thực sự được giải phóng. Từ một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp mang nặng tính chất tự nhiên chuyển sang nền kinh tế thị trường hàng hoá nhiều thành phần. Cơ cấu nông nghiệp và nông thôn đang từng bước chuyển đổi phù hợp với phương hướng và chiên lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm khai thác tiềm năng của cả nước và mỗi vùng theo hướng sản xuất hàng hoá, công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn. Từ một nước hàng năm trước vẫn phải nhập lương thực thì giờ đã có lương thực dự trữ và xuất khẩu. Từ năm 1990 đến nay lương thực xuất khẩu tăng lên trên 1,5 triệu tấn/năm, sản lượng lương thực tăng liên tục từ 21,5 triệu tấn năm 1989 lên 25 triệu tấn năm 1993. Bên cạnh sản xuất lương thực đã tăng khá nhanh một số loại cây công nghiệp hàng hoá chủ yếu, hình thành một số vùng chuyên canh tập trung như cà phê, cao su, dâu tằm, mía đường... Các loại cây rau đậu cũng tăng khá nhanh, các loại cây có giá trị kinh tế cao và có giá trị xuất khẩu đang có xu hướng tăng lên đã tác động mạnh mẽ góp phần thay đổi cơ cấu ngành trồng trọt. Sản phẩm chế biên cũng tăng lên. Giá trị sản phẩm chế biến từ 33,6% năm 1990 tăng lên 35,7% năm1992. Giá trị sản phẩm chăn nuôi cũng tăng lên và chất lượng đàn gia súc được cải thiện hơn. Ở nông thôn các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ cũng được mở mang góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế và bộ mặt nông thôn, thu hút lao động và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta thao tinh thần Nghị quyết đại hội VI, VII và được cụ thể hoá bằng Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 "Nghị quyết này khắc phục mâu thuẫn và hạn chế trong cách "khoán 100", đổi mới một cách cơ bản cơ chế quản lý nông nghiệp, Nghị quyết 10 là sự cụ thể hoá đường lối đổi mới kinh tế toàn diện do Đảng đề ra". Đây là những chiến lược cho sự phát triển nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội nông thôn nước ta, 15 các chính sách nông nghiệp tạo môi trườngthuận lợi cho sản xuất nông nghiệp phát triển, đời sống kinh tế xã hội nông htôn theo hướng tốt hơn. * Chính sách ruộng đất: Luật đất đai năm 1993 được coi là một trong những chính sách lớn tạo cơ sở tiền đề và là trung tâm trong việc giải quyết những nhiệm vụ cơ bản của nông nghiệp và nông thôn. Kèm theo Luật đất đai là những quy định về thuế sử dụng đất và một số văn bản khác có liên quan đã có tác dụng to lớn làm chuyển biến nền nông nghiệp, nông thôn nước ta. Luật đất đai năm 1993 khẳng định "đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý", còn việc sử dụng đất đai được Luật quy định, Nhà nước giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Luật cũng quy định người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế và được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất bị thu hồi. Có thể nói các quyền quy định trong Luật đất đai năm 1993 là cơ sở pháp lý, dồng thời là cơ sở tiền đề cho việc thực hiện sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng mở rộng và tăng diện tích đất trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, giá trị hàng hoá lớn để mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu trên cở sở một nền nông nghiệp thâm canh và ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật. * Chính sách thị trường và giá cả: Nét nổi bật của chính sách thị trường và giá cả là tự do lưu thông trong thị trường nội địa và mở rộng trao đổi ra nước ngoài bằng việc mở rộng xuất khẩu. Việc đổi mới chính sách giá cả, chính sách tự do lưu thông hàng hoá giữa các vùng, cùng với nhiều thành phần tham gia vào lưu thông đã tạo nên một thị trường thống nhất trong cả nước tạo điều kiện cho các vùng phát huy được lợi thế của mình để sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. *Chính sách xuất nhập khẩu, đặc biệt chính sách xuất khẩu nông sản đã có tác dụng mạnh mẽ đến việc khuyến khích phát triển sản xuất các loại sản phẩm phục vụ cho thị trường quốc tế, đưa nền nông nghiệp nước ta tham gia vào thị trường thế giới. * Chính sách giá cả theo hướng giá cả vật tư nông sản trong nước thực hiện theo giá thị trường. Nhờ đó đã có tác dụng bình ổn gia cả, đặc biệt là giá lương thực. Các tỷ giá giữa hàng nông sản và hàng công nghiệp, giữa hàng tư liêu sản xuất với giá hàng nông sản và giữa các loại hàng nông sản đã có tác động như là tín hiệu giúp cho nông dân hướng vào việc sản xuất các sản phẩm có lợi hơn đối với họ. 16 * Một số chính sách khác như chính sách thuế tín dụng, tiến bộ khoa học kỹ thuật, vốn, khuyến nông... cũng có những tác động nhất định góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển và đổi mới bộ mặt nông thôn nước ta. II. Chính sách đầu tư nông nghiệp giai đoạn 1996 - 2001 Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã thông qua phương hướng phát triển king tế xã hội 5 năm 1996 - 2001, trong đó chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp được thể hiện qua những vấn đề sau: 1. Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động lại ở nông thôn: Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình thoát lũ và ngọt hoá đồng bằng sông Cửu Long, củng cố hệ thống đê điều trên phạm vi cả nước, đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ sinh học, ưu tiên phát triển các cây trồng và vật nuôi có quy mô xuất khẩu tương đối lớn và thị trường ổn định, đặc biệt coi trọng các sản phẩm quý hiếm ta có lợi thế. Hết sức chú trọng phát triển công nghệ sau thu hoạch và công nghiệp chế biến. Quy hoạch cụ thể và triển khai việc thực hiện dự án phát triển trồng mới 5 triệu hecta rừng, kết hợp với bảo vệ môi trường để đạt tỷ lệ phủ xanh 40% diện tích cả nước, áp dụng chính sách sử dụng gỗ tiết kiệm. Thực hiện nhất quán chủ trương giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình thực sự làm chủ, có thể sống bằng nghề rừng, ổn định đời sống cho đồng bào định canh, định cư. Thu hẹp, tiến tới xoá tình trạng du canh, du cư. Phối hợp, tổ chức chặt chẽ có hiệu quả việc di chuyển dân ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, không để tái diễn tình trạng di dân tự do. Tổ chức lại công nghiệp chế biến thuỷ hải sản và các dịch vụ trên bờ, cải tạo và nâng cấp hệ thốnh hạ tầng cơ sở nghề cá. Tạo điều kiện và khuyến khích các hộ, nhóm hộ ngư dân tự đầu tư mua sắm tàu thuyền lớn ra khơi, sản xuất và chế biến hải sản, làm dịch vụ. * Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân nghèo. Khẩn trương hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân, khuyến khích và giúp đỡ các hộ nông dân đổi đất cho nhau để khắc phục tình trạng ruộng đất quá phân tán và manh mún. Quản lý chặt chẽ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật, không để nông dân nghèo sống bằng nghề nông phải bán đất, ngăn chặn và xử lý các thủ đoạn chèn ép, cưỡng đoạt ruộng đất của nông dân 17 nghèo. Chưa đặt vấn đề mở rộng mức hạn đối với đất canh tác. Kiểm tra việc thực hiện chính sách hạn điền đối với đất canh tác phù hợp với điều kiện đất đai ở các vùng khác nhau, có chính sách, biện pháp quy định cụ thể, hợp lý để xử lý đối với từng loại đất vượt hạn điền theo nguyên tắc sử dụng đất có hiệu quả, đồng thời nghiêm cấm hành vi mua bán đất kiếm lời bảo đảm công bằng xã hội. Đánh giá phân loại các trường hợp nông dân không còn ruộng đất để sản xuất để có chính sách, giải pháp xử lý phù hợp với từng trường hợp theo hướng vừa không để nông dân bị bần cùng hoá do không có đất để sản xuất, vừa thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý theo tiến trình công nghiệp hoá. Bổ xung thể chế, ngăn chặn tình trạng lãng phí đất đai. Có chính sách phân biệt việc đền bù cho nông dân bị lấy đất để sử dụng vào mục đích kinh doanh và mục đích công ích, giúp nông dân bị lấy đất có việc làm và nguồn thu nhập mới. Kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau được phát triển chủ yếu để trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc ở những nơi có nhiều ruộng đất, khuyến khích việc khai phá đất hoang vào mục đích nông. * Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn: tăng tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng. Bổ xung chính sách khuyến khích tối đa mọi người dân và doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Ưu đãi, khuyến khích hơn nữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước vào phát triển kinh tế, tạo việc làm ở nông thôn, kể cá các dự án ở quy mô hộ gia đình. Miễn toàn bộ hoặc giảm tối đa tiền thuế đất đối với các dự án đầu tư vào các vùng khó khăn, kể cả các dự án 100% vốn nước ngoài. Tổ chức các cơ sở chế biến nông sản, thuỷ sản theo hướng gắn kết các đơn vị cung cấp nguyên liệu-sản xuất-chế biến và tiêu thụ. * Tăng nhanh trang bị kỹ thuật trong nông nghiệp và nông thôn: Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất và sử dụng sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp nhất là các thiết bị vừa và nhỏ có sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Có chính sách ưu đãi về vốn và thuế để nhập khẩu những sản phẩm cơ khí cho nông nghiệp trong nước chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đủ nhu cầu. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, bao gồm cả bồi dưỡng kỹ năng lao động, đào tạo kỹ thuật viên và hình thành đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi ở nông thôn. 18 2. Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản: thực hiện cơ chế lưu thông thật sự thông thoáng trên thị trong nước. Củng cố hệ thống thương nghiệp Nhà nước trên địa bàn nông thôn, đặc biệt coi trọng phát triển các hình thức liên kết giữa thương nghiệp Nhà nước với Hợp tác xã, nông dân và lực lượng thương nghiệp nhỏ, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn gây thiệt hại đến lợi ích nông dân. Tạo cho được một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đánh thuế xuất khẩu cao đối với hàng xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có năng liực chế biến. Cho nhập khẩu miễn thuế hoặc thuế suất thấp các loại nguyên vật liệu phục vụ công nghiệp nông thôn mà trong nước chưa sản xuất được hoặc còn thiếu. Xây dựng các quỹ bảo hiểm sản xuất dưới nhiều hình thức. Nhà nước có chính sách cho nông dân nghèo vay tiền vào đầu vụ thu hoạch để không phải bán nông sản ở thời điểm bất lợi về giá. Phát triển các loại hình kinh doanh kết hợp công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu theo phương thức ký kết hợp đồng dài hạn với nông dân. 3. Phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa: tiếp tục phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình, kể cả kinh tế tiểu chủ. Tập trung chỉ đạo phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác của nông dân theo tinh thần Chỉ thị 68/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII và Luật hợp tác xã. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng tập trung làm dịch vụ (điện, nước, kỹ thuật, tài chính-ngân hàng, thương mại, vận tải...vv) công nghiệp chế biến và chuyển giao cho nông dân, trên cở sở đó phát triển thêm một số cơ sở quốc doanh nông, lâm nghiệp ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đổi mới và củng cố các quốc doanh đánh cá theo hướng tăng nhanh khả năg bám trụ dài ngày trên biển, làm dịch vụ ngoài biển và trên bờ để tạo điều kiện cho ngư dân ra khơi bám biển. Phát triển các hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các hợp tác xã và các hộ nông dân. Xây dựng hiệp hội ngành nghề hoạt động theo cơ chế dân chủ, tự quản, trong đó cơ sở quốc doanh trong hiệp hội có vai trò nòng cốt. B. Thực trạng về đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp qua các năm 19 I. Tình hình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 1990- 1995 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 1.1 Cơ cấu ngành nông nghiệp Cơ cấu nông nghiệp đã từng bước phát triển toàn diện hơn, hạn chế dần tính độc canh. Cơ cấu giá trị sản lượng trồng trọt và chăn nuôi có sự thay đổi theo hướng tích cực. Trong ngành trồng trọt thì lương thực là ngành trọng tâm của nông nghiệp đã có những tiến bộ rõ rệt. Từ năm 1989 đến 1995 mỗi năm ta xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo. Sự tiến bộ của sản xuất lương thực đã góp phần quan trọng đảm bảo nhu cầu cho xã hội. Trong cơ cấu cây lương thực cần ghi nhận một chuyển hướng tích cực là ở miền Bắc vụ lúa chiêm dài ngày, năng suất thấp đã được thay bằng vụ lúa xuân ngắn ngày có năng suất cao và vụ Đông đang trở thành vụ sản xuất chính, góp phần tăng thêm khối lượng nông sản. ở đồng bằng sông Cửu long, vụ lúa nổi được thay bằng vụ lúa Đông xuân, tăng thêm vụ lúa Hè thu. Ngành chăn nuôi cũng được phát triển mạnh mẽ. Đàn lợn đã tăng từ 8,9 triệu con năm 1976 lên 13,8 triệu con năm 1991. Trong đó tỷ lệ đàn lợn lai kinh tế ngày càng tăng. Do vậy trong lượng xuất chuồng bình quân tăng nhanh. Đàn trâu bò tăng từ 3,3 triệu con lên 6,08 triệu con, trong đó đàn bò tăng rất nhanh, từ 1,585 triệu con năm 1976 lên 3,201 triệu con năm 1992. ở các tỉnh phía Bắc, 20 năm đàn bò liên tục bị giảm, từ năm 1981 trở lại đây đã tăng nhanh, kể cả ở vùng đồng chiêm trũng. 1.2 Cơ cấu thành phần trong nông nghiệp Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã được thực hiện phổ biến trong nông nghiệp, đã có sự chuyển biến quan trọng từ chỗ chủ yếu là quốc doanh và tập thể sang chủ yếu là kinh tế hộ - lấy hộ làm đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp. Nền nông nghiệp nhiều thành phần đã nhanh chóng vào cuộc sống có tác dụng quan trọng trong việc khai thác mọi tiềm năng về đất đai, lao động, tiền vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có để đẩy mạnh sản xuất nông sản hàng hoá. 1.3 Cơ cấu vùng trong nông nghiệp: đang được hình thành như các vùng trọng điểm trong cây lương thực ở đồng bằng sông Cửu long và đồng bằng sông Hồng. Các vùng cao su, cà phê đang hình thành ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Vùng chè tập trung chủ yếu ở các tỉnh trung du và miền núi phía 20 Bắc. Điều đó đã tạo ra sự phân bố lại lao động, vốn đầu tư và tư liệu sản xuất, thúc đẩy các vùng kinh tế lạc hậu phát triển. 1.4 Cơ cấu kinh tế nông thôn Cơ cấu giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn nước ta có sự chuyển biến theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp. Do đó cơ cấu kinh tế nông thôn bước đầu có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Giá trị sản lượng nông nghiệp vẫn chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế quốc dân: năm 1993 nông nghiệp chiếm 29,2% trong GDP và hơn 70% lực lượng lao động. Tuy vậy, trong nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi phát triển chậm, sản xuất và cân đối lương thực tuy đã khá hơn những vẫn chưa thật vững chắc, cây công nghiệp bị giảm sút cả số tuyệt đối và tỷ trọng 8,1% năm 1985 xuống còn 6,6% năm 1992, chăn nuôi chưa trở thành ngành chính. Cơ cấu kinh tế nông thôn chậm biến đổi, ở nhiều nơi vẫn mang nặng tính thuần nông, ví dụ ở đồng bằng sông Hồng, trong giá trị tổng sản lượng,phần phi nông nghiệp mới có 15%, ở miền núi phía Bắc 10,7%. Trong nhiều năm chúng ta thực hiện ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, do đó vốn đầu tư cho nông nghiệp còn chưa thoả đáng. Nếu tính bình quân 10 năm 1976- 1986 vốn đầu tư cho nông nghiệp và thuỷ lợi chiếm 18,75 trong tổng vốn đầu tư, riêng nông nghiệp là 9,8% và thuỷ lợi là 8,9%. Từ năm 1986 đến nay tuy Nghị quyết của Đảng đã nêu rõ "nông nghiệp thật sự là mặt trận hàng đầu" nhưng vốn đầu tư cho nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng thấp so với công nghiệp. Vì đầu tư cho nông nghiệp chưa thoả đáng nên cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp còn thấp. Các công trình thuỷ lợi mới đảm bảo tưới được 40,5% diện tích gieo trồng hàng năm. Tình trạng úng hạn xảy ra thường xuyên, phân hoá học và thuốc trừ sâu còn thiếu , diện tích cày bừa bằng máy mới chiếm khoảng 20%. Việc chế biến nông sản còn ở mức thấp làm ảnh hưởng đến sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu nông sản. Mặc dù cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta trong những năm 1990-1995 đã có những biến đổi cơ bản và tích cực nhưng sự biến đổi đó diễn ra với tốc độ rất chậm. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, hiện đại hoá công nghiệp hoá với tốc độ nhanh là một đòi hỏi cấp thiết khách quan. 2. Cơ sở hạ tầng nông thôn 21 2.1 Điện, đường giao thông và cơ sở vật chất khác cho phát triển nông nghiệp Theo kết quả tổng điều tra nông thôn và nông nghiệp năm 1994 cá nước có 60% số xã có điện, 86,4% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 98% số xã có trường cấp I, 76% có trường cấp II, 92% số xã có trạm xá xã, 37% có nhà trẻ và 49,3% số xã có trạm biến thế điện. Cơ sở hạ tầng nông thôn đã được nâng cao so với các thời kỳ trước, điều kiện nhà ở, học hành, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân nông thôn có bước tiến rõ nét; 57,7% số hộ nông thôn có nhà kiên cố, 65% số hộ có nguồn nước sạch. Tình trạng học sinh nông thôn bỏ học đã giảm dần. Đời sồng tinh thần của nông dân có nhiều tiến bộ: tỷ lệ hộ có máy thu thanh từ 11%lên 32,8% trong cùng thời gian, 53% số hộ nông thôn có điện dùng trong sản xuất và sinh hoạt. Máy móc công cụ phục vụ sản xuất ở nông thôn tăng nhanh, gắn liền với sự đầu tư mua sắm của các hộ nông dân tự chủ. Đến năm 1995 cả nước có 41700 máy kéo, 584000 máy bơm nước các loại, 52000 máy xay xát, 99000 máy tuốt lúa có động cơ và hàng trăm ngàn các loại công cụ cơ khí phục vụ sản xuất và chế biến nông, lâm thuỷ sản. Điện dành cho nông thôn và nông nghiệp từ 801 triệu kwh năm 1991 tăng lên 1166 triệu kwh năm 1994 và 1300 triệu kwh năm 1995, tỷ trong từ 15% lên 20% điện sản xuất trong 5 năm tương ứng. Nông thôn có điện nên điều kiện lao động và bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, thiết bị, đồ dùng trong gia đình hộ nông dân tăng lên, rõ nhất là vùng đồng bằng và nông thôn ven thành phố, thị xã, khu công nghiệp. Vấn đề tồn tại hiện nay là nông thôn vùng núi, vùng cao, vùng sâu cơ sở hạ tầng còn thấp kém, nhất là điện và đường ô tô, ở đồng bằng giá điện còn cao 730 đồng/kw, kéo theo sự gia tăng của chi phí thuỷ lợi, phí ở các vùng đã được thuỷ lợi hoá. 2.2 Hệ thống các công trình thuỷ lợi Một số các công trình thuỷ lợi tuy đầu tư vốn lớn nhưng đã xuống cấp nên năng lực phục vụ sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Thực tế cho thấy rằng, năng lực tưới của các công trình thuỷ nông cả nước mới đảm bảo tưới tự chảy trên 2,2 triệu ha canh tác, tưới bán điện trên 1,1 triệu ha canh tác, tổng công 3,3 triệu ha canh tác. Nhưng thực tế hàng năm chỉ khai thác được khoảng 90% công suất thiết kế do máy móc cũ kỹ, kênh mương sụt lở, thiếu điện, không đồng bộ giữa công trình đầu mối và hệ thống kênh mương. Các hồ đập thuỷ lợi tuy công suất thiết kế tưới lớn, nhưng về mùa khô thường xuyên thiếu nước do tệ phá rừng đầu nguồn, đốt nương làm rẫy. Cây trồng quan trọng nhất 22 của Việt Nam là cây lúa thì năm 1995 diện tích lúa được tưới là 5,6 triệu ha, chiếm 84% tổng diện tích gieo cây lúa cả nước, trong đó vụ lúa Đông xuân 2,5 triệu ha, lúa Hè thu 2 triệu và 1,1 triệu ha vụ mùa. Diện tích lúa bị hạn, bị úng hàng năm vẫn còn lớn nhất là ở vùng đồng băng sông Hồng và miền Trung. Khả năng chống hạn, chống úng của các công trình thuỷ nông hiện có dù có khá hơn trước song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp nước theo nhu cầu sinh trưởng của cây lúa. Tỷ lệ diện tích lúa được tưới, tiêu theo khoa học chưa đạt 50% tổng diện tích gieo cấy hàng năm. Biểu2. Số lượng các công trình thuỷ lợi ĐVT 1991 1992 1993 1994 1995 Số công trình thuỷ lợi Cái 5112 5263 5310 5350 5415 Thuỷ nông '' 5020 5168 5180 5215 5319 Đại thuỷ nông '' 424 425 454 457 460 Trạm bơm điện '' 2742 2882 2905 3047 3120 Trạm bơm dầu '' 355 355 366 376 394 Thuỷ điện kết hợp thuỷ nông '' 92 95 105 119 125 Máy kéo tiêu chuẩn (15 CV) '' 35375 37627 38000 46800 57500 Máy bơm 1000 cái 35375 37637 38000 46800 57500 Điện cung cấp cho Nông nghiệp Triệu Kwh 807,4 975,0 1000 1166 1300 3. Chính sách đầu tư vốn thời kỳ 1990-1995 Nông nghiệp và nông thôn nước ta có vị trí rất quan trọng (chiếm hơn 80% cư dân cả nước và chiếm tỷ trọng khá lớn trong sản phẩm của nền kinh tế quốc dân). Trong nhiều năm qua chúng ta chỉ chú ý đến nông nghiệp, lãng quên địa bàn nông thôn vì vậy kinh tế nông thôn nước ta chủ yểu là thuần nông với cơ sở vật chất nghèo nàn, kết cấu hạ tậng thấp kém. ở các nước phát triển công nghiệp nông thôn khá phát triển. ở đây không chỉ có tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp với kỹ thuật truyền thống mà còn có cả công nghiệp lớn với kỹ thuật tiên tiến, gắn với hoạt động nông nghiệp nông thôn. Bên cạnh đó dịch vụ thương mại cũng rất phát triển. 23 Vốn là điều kiện và tiền đề để phát triển và mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống và dân cư nông thôn từng bước xoá đói giảm nghèo. Vì vậy, một mặt phải huy động nguồn vốn tự có trong nông dân, mặt khác Nhà nước phải giúp đỡ nông dân, cho họ vay vốn với nhiều hình thức phong phú và có hiệu quả. 3.1 Chính sách đầu tư vốn Từ sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị nền kinh tế nước ta từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước . Chính sách đầu tư vốn đã thay đổi: vốn bao cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh giảm hẳn và chuyển những đầu tư đó sang hình thức tín dụng vay vốn và phải trả lãi suất để tạo cho các xí nghiệp nông nghiệp quốc doanh quan tâm đến việc sử dụng vốn có hiệu quả. Vốn ngân sách dành cho khai hoang vẫn giữ tỷ lệ 5%-7%, tỷ lệ dành cho các nông trường quốc doanh từ 40% của những năm 1986-1987 giảm xuống còn trên 10%. Đảng lưu ý là vốn ngân sách tập trung đầu tư cho thuỷ lợi (chủ yếu là thuỷ nông) - một bộ quan trọng của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn cũng giảm. Biểu 3. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước trong ngành nông nghiệp năm 1990-1995. Đơn vị: Số lượng (tỷ đồng)-Tỷ trọng (%) 1990 1991 1992 1993 Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Tổng số 409127 100 615400 100 839807 100 1140000 100 I.Trồng trọt 91296 22,6 189300 30,7 228069 27,2 314000 27,5 1.Khai hoang 29473 7,2 37200 6,0 126654 15,1 2.Nông trường 55559 13,5 145500 23,6 90542 10,8 24 Cao su 20780 5,1 60600 9,8 29970 3,6 Cà phê 2599 0,6 16000 2,5 6992 0,8 Chè 906 0,2 19600 3,1 5851 0,7 3.Trang trại 7324 0,2 6660 1,0 10873 1,3 II.Chăn nuôi 16903 4,1 20700 3,4 30102 3,6 40000 3,5 Chuồng trại 4400 1,1 9505 1,1 Trạm trại 12503 3,7 400 0,06 20597 2,4 IVThuỷ lợi 299830 73,3 405000 65,8 581636 69,2 786000 69,0 Thuỷ nông 244435 59,7 234000 56,1 438335 55,2 Nhà nước đã dành số vốn lớn đề thực hiện chương trình 327 nhằm bảo vệ có hiệu quả vốn rừng hiện có gắn với định canh định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc, tăng khả năng phòng hộ của rừng, tạo ra sản phẩm hàng hoá, giải quyết việc làm, góp phần phân bố lại lao động dân cư và củng cố an ninh quốc phòng. Triển khai thực hiện chương trình 327 trong hai năm 1993-1994 Nhà nước đã đầu tư 416 tỷ đồng trong đó đầu tư cho lâm nghiệp 291,2 tỷ đồng, cho vay 67,2 tỷ đồng, đã đầu tư trực tiếp đến hộ 60% tổng số vốn đầu tư và 85% so với đầu tư lâm sinh (bảo vệ, khoanh nuôi và trồng rừng) bình quân một hộ năm 1993: 0,8-1,2 triệu đồng, năm 1994: 1,4-2 triệu đồng. 3.2 Chính sách tín dụng cho nông nghiệp Cùng với sự đổi mới của nề kinh tế tổ chức ngân hàng đã có sự cải tổ. Bắt đầu thử nghiệm mô hình ngân hàng hai cấp : ngân hàng Nhà nước Trung ương làm nhiệm vụ quản lý nhà nước và các ngân hàng Thương mại với chức năng kinh doanh tiền tệ, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp. Trong thời gian này, các Hợp tác xã tín dụng ở cơ sở bị tê liệt hoàn toàn. Hoạt động tín dụng ở nông thôn chủ yếu là Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam. Từ khi hộ gia đình được coi là đơn vị kinh doanh tự chủ, nó đã trở thành đối tượng khách hàng chủ yếu của tín dụng ngân hàng nông nghiệp. Tuy vậy, việc triển khai cho vay vốn tới hộ nông dân những năm 1989-1990 vẫn tranh luận với những ý kiến khác nhau. Một số người lo ngại rằng cho các hộ nông dân vay sẽ dẫn tới xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa. Về phía Ngân hàng Nông nghiệp lo ngại việc thu hồi vốn và khả năng hoàn trả của nông dân. Cuối 1990 đầu năm 1991, trước áp lực to lớn về vốn của các hộ nông dân, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã thí điểm cho vay tới 90 hộ nông dân ở 3 xã thuộc huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh với số vốn vay trên 31 triệu đồng, lãi suất 2,4%/tháng để mua phân bón. 85% đã hoàn trả lại Ngân hàng 25 huyện sau vụ thu hoạch. Tỉnh An Giang cho 15260 hộ vay với 31 tỷ đồng để mua phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu. Sau vụ thu hoạch, đúng thời hạn ngân hàng đã thu đủ cả vốn và lãi. Từ kết quả thí điểm tháng 6/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ra chỉ thị 202/HĐBT về việc cho vay vốn sản xuất đến hộ nông dân. Chỉ thị đã được triển khai và mở rộng ở nhiều địa phương trong cả nước. Từ 63 tỷ đồng dư nợ năm 1990 tăng lên 245 tỷ năm 1991, 1431 tỷ năm 1992 và 6 tháng đầu năm 1993 tăng lên 2479 tỷ đồng. Trong lúc đó quốc doanh nông nghiệp năm 1992 dư nợ 142 tỷ và các Hợp tác xã 109 tỷ. Lượng vốn cho các hộ nông dân vay chủ yểu là tín dụng ngắn hạn, doanh số cho vay chiếm 96-99%. Số lượt hộ được vay ở các vùng có khác nhau, theo các thời gian cũng khác nhau. ở thời kỳ này, lãi suất cho vay uyển chuyển hơn, tỷ lệ lãi suất theo xu hướng giảm xuống. Từ 5/1992 lãi suất cho các hộ vay là 3,3-4,2%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và trung hạn. Từ 8/1992 lãi suất tín dụng giảm xuống tương ứng còn 3,0-3,2%/tháng và 2,1- 2,4%/tháng. Từ 10/1993 lại giảm còn 1,4-1,8% và 1,2%. Tuy vậy, tổ chức Ngân hàng Thương mại vẫn chưa đạt lãi suất dương. Hàng năm Ngân hàng Nông nghiệp còn bị lỗ. Năm 1992 lỗ kinh doanh toàn ngành là 52 tỷ đồng. Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã thực hiện một số mô hình tín dụng và phương thức chuyển tải vốn xuống các vùng nông thôn với các đối tượng: hộ giầu, trung bình và nghèo. Có hai phương thức cho vay tới hộ: cho vay trực tiếp theo 2 dạng: cho vay tại Hội sở ngân hàng và thành lập tổ cho vay lưu động cho vay và thu nợ trực tiếp tới hộ nông dân, cho vay thông qua tổ nhóm tương hỗ tín chấp... do nông dân tự nguyện thành lập và cho vay thông qua tổ chức kinh tế tài chính trung gian (hợp tác xã, nông trường, xí nghiệp, ngân hàng cổ phần, hợp tác xã tín dụng...) làm dịch vụ hưởng hoa hồng (20% chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra thu nộp vào ngân hàng). Biểu 4. Tình hình cho vay tín dụng nông nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng Đến 31/12/1991 Đến 31/12/1992 Đến 31/12/1993 Dư nợ đến 31/12/ 1991 Doanh số cho vay Dư nợ Doanh số cho vay Dư nợ Doanh số cho vay Dư nợ 26 Tổng số 62,9 369,7 245 2501 1430,8 2781,7 2479,3 Tỷ trọng % 100 100 100 100 100 100 100 Vay ngắn hạn 56,7 398,3 243,9 2423,4 1363,9 2735,3 2384,3 Tỷ trọng % 90,7 69,9 99,5 96,9 95,3 98,7 97,2 Vay dài hạn 6,2 11,4 1,1 77,6 66,9 5,7 46,4 Tỷ trọng % 9,3 3,1 0,5 3,1 4,7 1,3 2,8 Theo vùng ĐB Sông Hồng 1,1 18,7 14,9 442,0 263,6 444,2 442,8 ĐB Sông Cửu Long 11,4 122,8 80,3 736,0 434,8 791,4 704,9 D.hải Miền Trung 4,3 50,8 29,9 287,9 165,5 338,0 283,0 Đông Nam bộ 13,8 38,8 25,0 249,8 126,9 262,8 202,4 TD MN Phía bắc 19,7 71,5 45,7 404,1 241,2 477,7 428,3 Khu IV cũ 11,0 60,2 43,0 285,0 145,8 302,0 305,3 Tây nguyên 1,6 6,8 6,2 95,4 53,0 165,6 112,6 4. Thành tựu đạt được trong nông nghiệp Đây là thời kỳ phát triển ổn định của nông nghiệp nước ta trên cả hai ngành trồng trọt và chăn nuôi. Trồng trọt phát triển toàn diện, trong đó nổi bật nhất là sản lượng lương thực. Sản lượng lương thực quy thóc bình quân thời kỳ 1990-1995 đạt 25 triệu tấn tăng 27,3% (5,3 triệu tấn) so với bình quân 1986-1990. Tốc độ tăng sản lượng lương thực bình quân một năm đạt 4,3%, cao hơn tốc độ tăng trưởng dân số 2,2% nên lương thực bình quân nhân khẩu năm sau cao hơn năm trước, bình quân 1991-1995 đạt 351 kg so với 310 kg bình quân 5 năm trước đó, chúng ta có thể thấy rõ điều đó trong biểu sau: Biểu 5: Sản lượng lương thực bình quân/người giai đoạn 1990-1995 Đơn vị: kg Năm 1991 1992 1993 1994 1995 Lương thực bình quân/người 324,9 348,9 359 361 364 27 Có thể khẳng định rằng, thành tựu về sản xuất lương thực 5 năm qua là to lớn và có ý nghĩa nhiều mặt, cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực triền miên trước 1989, hàng năm phải nhập khẩu 0,8 triệu tấn gạo, thì 5 năm qua không những sản xuất đủ thoả mãn mọi nhu cầu tiêu dùng của hơn 70 triệu dân (mỗi năm tăng thêm 1,5 triệu người), phát triển chăn nuôi, tăng dự trữ quốc gia, phục vụ công nghiệp chế biến... mà còn dư thừa để xuất khẩu gạo với số lượng lớn: 8,65 triệu tấn trong 5 năm, bình quân 1,73 triệu/năm và có xu hướng tăng dần từ 1 triệu tấn năm 1991 lên 1,95 triệu tấn năm 1992; 1,75 triệu tấn năm 1993; 1,95 triệu tấn năm 1994 và 2 triệu tấn năm 1995. Nước ta vẫn giữ vị trí thứ 3 trong các nước xuất khẩu gạo nhiều nhất trên thế giới sau Thái Lan và Mỹ. Nạn đói giáp hạt ở miền Bắc đã bị đẩy lùi, kể cả những năm thời tiết không thuận lợi như 1991, 1993, 1994. An toàn lương thực quốc gia được đảm bảo khá vưng chắc trong phạm vi cả nước. Với kết quả đó, chúng ta không chỉ đạt mà còn vượt xa mục tiêu sản xuất lương thực kế hoạch 5 năm 1991-1995 do Đại hội VII đề ra (kế hoạch 1995 đặt 25 triệu tấn, thực hiện 27,4 triệu tấn). Đây là lần đầu tiên kế hoạch 5 năm về sản xuất lương thực của nước ta được thực hiện trọn vẹn nhất. Đạt được kết quả đó, trước hết và chủ yếu do sản xuất lúa có tiến bộ toàn diện và vượt bậc cả về mở rộng diện tích và thâm canh tăng năng suất. Diện tích từ 6,3 triệu hecta năm 1991 tăng lên 6,71 triệu hecta năm 1995, cơ cấu mùa vụ thay đổi, diện tích lúa Đông xuân từ 2,15 triệu hecta tăng lên 2,47 triệu hecta, lúa Hè thu từ 1,3 triệu hecta lên 1,6 triệu hecta còn lúa mùa giảm từ 2,83 triệu hecta xuống 2,63 triệu hecta trong 5 năm. Tăng diện tích bằng khai hoang, tăng vụ kết hợp chuyển vụ lúa mùa năng suất thấp, không ổn định sang hai vụ lúa Đông xuân và Hè thu năng suất cao và ổn định là một yếu tố quyết định làm tăng sản lượng lúa 5 năm qua. Cùng với yếu tố diện tích tăng, năng suất lúa trong thời gian đó cũng tăng từ 31,4 tạ/hecta lên 46,4 tạ/hecta. Nếu tính bình quân 5 năm 1991-1995 so bình quân 5 năm 1986-1990, năng suất lúa tăng từ 35,3 tạ/ha lên 40,4 tạ/ha, trở thành nguyên nhân chủ yếu quyết định quy mô và tốc độ tăng sản lượng lúa nói riêng, lương thực nói chung. Bình quân giữa hai thời kỳ, sản lượng lúa cả nước tăng thêm 5,2 triệu tấn (22,4 so với 17,2) riêng năng suất tăng đã làm sản lượng lúa tăng 3,1 triệu tấn. Các yếu tố thâm canh lúa như thuỷ lợi, phân bón, chăm sóc đặc biệt giống mới, khuyến nông đều góp phần tích cực vào quá trình và kết quả thâm canh, tăng năng 28 suấtlúa những năm qua. Giá vật tư, phân bón ổn định, số lượng và chủng loại phong phú, phương thức mua, bán linh hoạt, lưu thông tự do đã tạo điều kiện cho nông dân thâm canh tăng năng suất lúa cao hơn các thời kỳ trước đó. Điều đặc biệt có ý nghĩa là: những kết quả đó đạt được trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, vụ Đông xuân 1990-1991 sâu rày phá hoại làm giảm nửa triệu tấn lúa ở đông bằng sông Cửu Long, mưa lớn ở đồng bằng sông Hồng làm thiệt hại hơn triệu tấn thóc. Nếu không có những khó khăn khách quan trên đây, chắc chắn sản lượng lương thực còn đạt mức cao hơn, thành tựu còn to lớn hơn. Hai vùng điểm lúa hàng hoá đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, đều đạt những tiến bộ mới về thâm canh tăng vụ, trong đó nổi lên nhiều tỉnh vượt mức lương thực 1 triệu tấn/năm. Màu lương thực tuy phát triển chậm hơn, sản lượng quy thóc (từ 2,44 triệu tấn lên 2.58 triệu tấn trong hai thời kỳ) nhưng cũng có những nét mới về cơ cấu sản xuất. Cây ngô tăng nhanh cả về diện tích lẫn năng suất 1991: diện tích 44 vạn ha, năng suất 15 tạ/ha; 1995: diện tích 53 vạn ha, năng suất 20 tạ/ha, đưa sản lượng ngô từ 67,2 vạn tấn lên 1,1 triệu tấn trong 5 năm. Đó là một tiến bộ quan trọng góp phần ổn định và tăng nhanh sản lượng lương thực cả nước theo hướng thị trường. Các cây màu khác như khoai sắn... phát triển chậm và giảm sút do kém hấp dẫn đối với thị trường, giá cả thấp, khả năng tiêu dụng thu hẹp do được mùa lúa. Sự điều chỉnh như trên là hợp lý. Sản xuất rau, đậu, cây công nghệ, cây ăn quả có những bước phát triển mới. Những cây trồng có sản phẩm phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu tăng khá nhanh. Bình quân 5 năm 1991-1995 so với bình quân 5 năm 1986-1990 sản lượng lạc tăng 21% (45 nghìn tấn), mía tăng 25,9% (1,3 triệu tấn), đỗ tương tăng 18,9% (16,4 nghìn tấn), bông tăng gấp 2,38 lần, tiêu tăng 68,5%, diện tích cây ăn quả tăng 6,9%. Diện tích rau đậu, nhất là rau vụ Đông ở miền Bắc tăng nhanh, số lượng, chủng loại đa dạng, chất lượng cao hơn đă đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng trong nước về rau xanh, tươi quanh năm. Nét mới trong sản xuất trồng trọt 5 năm qua là bước đầu đă hình thành các vùng sản xuất tập trung có tỷ xuất hàng hoá lớn gắn vơi thị trường trong nước và suất khẩu như lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, cao su, cà phê ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, chè ở trung du và miền núi phía bắc, cây ăn quả ở đồng bằng Nam Bộ và các tỉnh Bắc Bộ; rau, đậu vụ đông ở đồng bằng sông Hồng... Phương thức sản xuất hàng hoá đă tác động trực tiếp đến 29 các vùng đó, khơi dậy những tiềm năng về đất đai, lao động, khoa học kĩ thuật, tạo nên tốc độ tăng trưởng cao của một số sản phẩm có thị trường tiêu thụ. Riêng vùng đồng băng sông Cửu Long sản lượng lúa năm 1995 ước đạt trên 13 triệu tấn tăng 3 triệu tấn so với 1991 và là vùng cung cấp toàn bộ gạo xuất khẩu của nước ta hiện nay. Vùng cà phê Tây Nguyên với sản lượng năm 1994 đạt trên 166 nghìn tấn cà phê nhân, năm 1995 ước đạt 175 ngàn tấn, tăng gấp đôi năm 1992, trong đó trên 90% đã xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ lớn thứ hai sau gạo; các vùng sản xuất cây ăn quả tập trung như xoài, nhãn ở Vĩnh Long, Tiền Giang, nho Ninh Thuận, vải thiều Hải Hưng, Hà Bắc, Quảng Ninh, mận hậu, mận tam hoa ở Lào Cai, Sơn La... rau Đà Lạt, lạc Tây Ninh, Nghệ An đang phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá, đem lại thu nhập cao trong ngành trồng trọt, từng bước đa dạng hoá cây trồng, gắn với thị trường. Những cây trồng giảm diện tích và sản lượng trong 5 năm qua là cói, đay, dừa, thuốc lá, sắn chủ yếu là do sản phẩm khó tiêu thụ, giá thấp. Việc chuyển diện tích gieo trồng các cây này sang nhiều cây trồng có hiệu quả hơn là sự điều chỉnh cần thiết (trừ những loại đất không điều chỉnh được như đất trồng cói, trồng dừa...) Chăn nuôi phát triển ổn định cả trâu bò lợn và gia cầm. Bình quân 5 năm 1991- 1995 so với bình quân 5 năm 1986- 1990, đàn trâu tăng 5,7%, đàn bò tăng 10,1%, đàn lợn tăng 24%, đàn gia cầm tăng 28,7%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 25,6%, sản lượng trứng tăng 33,6% là những thực tế chứng minh sự phát triển khá nhanh và ổn định của chăn nuôi trong cơ chế mới. Không chỉ tăng đầu con mà trọng lượng xuất chuồng bình quân cũng tăng nhanh, nên sản lượng thịt hơi các loại xuất chuồng tăng từ 918 nghìn tấn lên 1,15 triệu tấn trong hai thời kỳ, riêng 1995 đạt 1,29 triệu tấn. Chất lượng sản phẩm chăn nuôi được nâng cao nhất là thịt lợn, theo chương trình nạc hoá, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sản lượng trứng, sữa bò, mật ong... đều tăng nhanh. Đặc biệt, chăn nuôi bò sữa phát triển nhanh ở các vùng ven đô thị nhất là ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tổng đàn bò sữa cả nước năm 1995 ước đạt 20 nghìn con trong đó riêng thành phuố Hồ Chí Minh có trên 11 nghìn con (năm 1991 có 5492 con, 1994 có 10420 con), chủ yếu theo quy mô hộ gia đình và các nông trại nhỏ. Chăn nuôi phát triển, thực phẩm cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu tăng nhanh, nhiều vùng chăn nuôi hàng hoá đa hình và tăng trưởng ổn định là một nét mới trong sản xuất nông nghiệp nước ta 5 năm 1991-1995. 30 Các sản phẩm xuất khẩu như thịt chế biến, trứng vịt muối, lông vịt tuy còn ít về số lượng, nhưng chất lượng có tiến bộ, nên thị trường được mở rộng và ổn định hơn. Sản lượng thịt chế biến năm 1993 lên tới 19,7 nghìn tấn, so với 12,8 nghìn tấn năm 1992. Chăn nuôi gia súc khác có bước phát triển mới: nhất là đàn dê tăng nhanh, chăn nuôi hươu, nuôi ong , nuôi tằm mở rộng theo hướng sản xuất hàng hoá và đã góp phần quan trọng cung cấp thêm nhiều sản phẩm có giá trị tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Một số tỉnh đã bắt đầu phát triển đàn cừu, bổ xung nguồn thực phẩm có giá trị phục vụ nhu cầu tiêu dùng đang tăng lên của dân cư và khách du lịch. Đàn dê từ 312 nghìn con năm 1991 tăng lên 370 nghìn con năm 1994, đàn cừu từ vài trăm con tăng lên trên một nghìn con chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận. Tốc độ tăng trưởng chăn nuôi trong những năm qua, đặc biệt 3 năm 1993-1995 khá ổn định: Đàn trâu 4,3%, đàn bò 6,4%, đàn lợn 20%, đàn gia cầm 21%, trọng lượng thịt hơi xuất 22,8% so với mức bình quân 1989-1992. Nguyên nhân làm cho chăn nuôi phát triển những năm qua là sản lượng lương thực tăng, sản lượng và chất lượng thức ăn gia súc ổn định, gia cả hợp lý, người chăn nuôi có lãi, mặt khác nhu cầu về sản phẩm chăn nuôi tăng do đời sống dân cư được cải thiện, mức tiêu dùng, thịt, sữa, trứng cao hơn trước. Như vậy cả hai yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản phẩm chăn nuôi phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Theo số liệu tổng điều tra nông thôn 1994 cả nước có 25213 hộ nhăn nuội kiểu trang trại với quy mô từ 11 con lợn thịt trở lên, nhiều hộ nuôi bò đàn với số lượng 50 con đến 100 con, đàn gia cầm hàng nghìn con... Phương thức chăn nuôi tự cấp, tự túc đã và đang chuyển dần sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Đó là bước tiến quan trọng tạo nên sự thay đổi về chất trong chăn nuôi 5 năm 1990-1995 ở nước ta, từng bước rút ngắn khoảng cách giữa chăn nuôi với trồng trọt trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng nông nghiệp. II. Tình hình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 1996- 2001 1. Chính sách cơ cấu kinh tế nông thôn Kinh tế nông thôn là một trong hai bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế quốc dân: Kinh tế nông thôn được phân biệt với kinh tế thành thị không đơn thuần ở tính đặc trưng ngành mà là đặc trưng lãnh thổ. Sự phân biệt đó gắn với điều kiện tự nhiên và sự phân công lao đông xã hội. Kinh tế nông thôn bao 31 gồm các hợp đồng được sản xuất và dịch vụ được thực hiện tren địa bàn nông thôn bất kể đó là nông nghiệp hay phi nông nghiệp. Cùng với tiến trình lịc sử và sự phát triển của kinh tế, xu hướng chung của sự vận động kinh tế nông thôn có thay đổi tỷ trọng nông nghiệp giảm dần và tỷ trọng các hoạt động phi nông nghiệp tăng dần. Sự vận động đó bắt nguồn từ thu nhập và đời sống của bộ phận dân cư sống ở nông thôn và đó là sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế nông thôn. Trong cơ cấu kinh tế nông thôn, nông nghiệp giữ vị trí quan trọng nhất nhưng không phải là tất cả. Cùng với nông nghiệp là các hoạt đông sản xuất và dịch vụ phi nông nghiệp, xác lập cơ cấu kinh tế chính là giải quyết mối quan hệ tương tác giữa những bộ phận cấu thành trong tổng thể kinh tế nông thôn dưới sự tác đông của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tự nhiên và con người trong các điều kiện cụ thể về thời gian và không gian. Các mối quan hệ trong cơ cấu kinh tế nông thôn phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội của quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa sản xuất và tiêu dùng của xã hội nói chung. Cơ cấu kinh tế nông thôn là thước đo trình độ phát triển của nền kinh tế mỗi nước và chừng mực nhất định còn phản ánh tính chất văn minh của xã hội. Thông thường vai trò quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế được đánh giá theo các chỉ tiêu như: nông nghiệp chiếm khoảng 45% (1976- 1990) có lúc trên 50% thu nhập quốc dân, sử dụng trên 70% lao động: tăng trưởng của nông nghiệp có ảnh hưởngquyết định đến tăng trưởng của nền kinh tế, lúa và giá lúa trong nhiều năm đã được xem là vật chuẩn để định ra các thứ giá cả hàng hoá khác trong chính sách giá của Nhà nước. Kể từ sau năm 1990 tuy tình hình đã thay đổi, tỷ lệ tăng trưởng nông nghiệp chậm tương đối so với ngành khác, nhưng sự tăng trưởng của nông nghiệp đã góp phần ổn định kinh tế xã hội nước ta trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực và giảm sút tăng trưởng của Việt Nam trong thời kỳ 1997-2000. Từ năm 1998 mặc dầu tăng trưởng kinh tế nước ta chậm lại, đầu tư nước ngoài sút giảm, các ngành công nghiệp dịch vụ bị ảnh hưởng lớn, nhưng nông nghiệp vẫn giữ được nhịp độ tăng khản định 3,6% (năm 1998) và 5,5% (năm 1999) (tính theo GDP của nông nghiệp). Tỷ trong của nông nghiệp trong GDP cũng giảm từ dưới 40% năm 1990 còn dưới 25% năm 1995. Có quan điểm cho rằng đây là sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, nhưng nếu đi sâu phân tích sự thay đổi này một phần do tốc độ tăng của nông nghiệp, nhưng cơ bản vẫn là do giá thực tế của nông sản tăng chậm hơn giá cả hàng công nghiệp dịch vụ mơí thực sự là 32 tác nhân chính làm giảm nhanh tỷ trọng nông nghiệp trong GDP. Điều này thể hiện khá rõ qua diễn biến chỉ số giá lương thực, thực phẩm từ năm 1993 và nhất là từ 1997 đến nay. Thành ra nông nghiệp có tăng trưởng, lương thực và nhiều loại nông sản khác tăng nhanh đến mức dư thừa (biểu 5) nhưng đời sống nông dân chậm được cải thiện. Khoảng cách thu nhập nông thôn, thành thị đang ngày một doãng ra. Đó là một nghịch lý đã xảy ra trong quá trình thay đổi cơ cấu của nền kinh tế và là vấn đề đáng phải suy nghĩ về những chính sách áp dụng với nông nghiệp trong tương lai. Biểu 6: Tăng trưởng nông nghiệp từ 1995->1999 Đơn vị: % Năm Nông nghiệp Trồng trọt Chăn nuôi 1995 4,9 4,7 5,7 1996 5,1 5,2 5,3 1997 7,0 7,0 7,8 1998 3,9 3,8 4,8 1999 7,1 7,3 7,0 Nguồn: Niên giám thống kê 2000. Tính theo giá trị sản xuất nông nghiệp. 1.1 Cơ cấu ngành nông nghiệp: sự tập trung tối đa cho lương thực một thời gian khá dài đã giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế xã hội quan trọng, nhưng do hầu hết nguồn tài nguyên được thu hút vào đó nên không chỉ chăn nuôi mà còn nhiều loại cây trồng khác đã nằm trong tình trạng thiếu đầu tư thích đáng, giá thành rất cao không cạnh tranh được khi nền kinh tế mở cửa. Cơ cấu kinh tế của nông nghiệp đặt ra còn nhiều vấn đề khi nền kinh tế hội nhập. Biểu 9 cho thấy cơ cấu của nông nghiệp, trồng trọt đã giữ vị trí chi phối trong nhiều năm với mức trên dưới 80%, riêng lương thực đã chiếm 1/ 2 giá trị sản lượng toàn ngành. Sự phát triển yếu ớt của chăn nuôi và các ngành phụ trong nông nghiệp là điều rất cần được phân tích tỉ mỉ có lẽ dưới góc độ chính sách hơn là điều kiện thiên nhiên, thời tiết. 33 Biểu 7: Cơ cấu nông nghiệp Đơn vị: % Năm Ngành 1995 1996 1998 1999 Toàn ngành Nông nghiệp 100 100 100 100 Trồng trọt 78,1 77,8 79,5 79,4 Chăn nuôi 18,9 19,3 18,0 18,2 Dịch vụ 3,0 2,9 2,5 2,4 Lương thực (Nông nghiệp) 51,2 51,6 51,0 51,2 Nguồn: Niên giám thông kê (tính theo giá cố định 1994) Biểu 8: Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá hiện hành) Đơn vị: Tỷ đồng Năm Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 1995 85507,6 66793,8 16168,2 2545,6 1996 92006,2 71589,4 17791,8 2625,0 1997 98852,3 76858,3 19287,0 2707,0 1998 113269,2 90077,9 20365,2 2826,1 1999 126901,4 100133,2 23773,2 2995,0 Sơ bộ 2000 125384,3 97308,8 24938,9 3136,6 Nguồn : Niên giám thống kê 2000 Nhìn chung giá trị sản xuất nông nghiệp trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ đều tăng từ năm 1995 đến năm 2000 trừ trường hợp trong ngành trồng trọt duy nhất năm 1999 giá trị sản xuất đạt 100133,2 tỷ giảm xuống còn 97308,8 tỷ đồng. Giá trị sản xuất trong ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất , hơn rất nhiều so với giá trị sản xuất nông nghiệp trong ngành chăn nuôi và dịch vụ. Năm 1995 ngành trồng trọt đạt 66793,8 tỷ so với ngành chăn nuôi 16168,2 tỷ, ngành dịch vụ 2545,6 tỷ. Năm 2000 ngành trồng trọt đạt 97308,8 tỷ so với ngành chăn nuôi 24938,9 tỷ và ngành dịch vụ 3136,6. Tỷ trọng ngành chăn nuôi, dịch vụ còn thấp so với ngành trồng trọt do đó cần phải có chính sách 34 thích hợp cho việc khuyến khích phát triển ngành chăn nuôi và dịch vụ để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển mạnh mẽ bền vững. 1.2 Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Sau nghị quyết 10 chưa đầy 1 năm từ 1988, sản xuất lương thực Việt Nam chẳng những vượt đỉnh cao của các năm trước mà còn tạo ra xu hướng tăng trưởng ổn định năm sau cao hơn năm trước trong suốt 10 năm. Bình quân mỗi năm tăng 5,6% (1,29 triệu tấn) cao nhất trong khu vực Châu á (1,8%) cũng như thế giới (1,7%). Với kết quả này năm 1997, Việt Nam đã đạt và vượt mục tiêu năm 2000 về sản xuất lương thực do Đại hội VIII của Đảng đề ra và đưa Việt Nam thành nước xuất khẩu gạo thứ ba trên thế giới sau Thái Lan và Mỹ. Lương thực bình quân đầu người từ 280 kg (1987) tăng lên 392 kg (1997). Vựa lúa vùng đồng bằng Sông Cửu Long 4 năm liền kể từ 1994 bị lũ lụt nhấn chimg hàng vạn ha lúa Hè thu, vậy mà từ sau Nghị quyết 10 sản lượng lúa vẫn cứ tăng dần hàng năm; 1996: 7,6 triệu tấn, 1998 đã đạt trên 13,79 triệu tấn, gấp đôi năm được mùa trước Nghị quyết 10. Đồng băng Sông Hồng, cái nôi của nền nông nghiệp lúa nước tuy đất chật người đông, diện tích gieo trồng đã đội trần nhưng nhờ thâm canh tăng năng suất và đổi mới cơ cấu giống nên sản lượng lúa vẫn tăng đều hàng năm. Sản lượng lúa toàn vùng năm 1996 vẫn đạt 4,8 triệu tấn (trong điều kiện lũ lụt làm thất thu nửa triệu tấn) tăng 1,9 triệu tấn so với 1987 và 1,4 triệu tấn so với 1988. Năm 1997 vựa lúa này đã vươn tới con số 5,1 triệu tấn, lúa hàng hoá đạt con số kỷ lục 1 triệu tấn. Vùng khu 4 cũ vẫn thiếu lương thực triền miên, đói giáp hạt cũng diễn ra nghiêm trọng với quy mô trước Nghị quyết 10, vậy mà 10 năm gần đây sản xuất lương thực cũng không ngừng tăng tiến. Sản lượng qui thóc năm 1996 đạt 2,47 triệu tấn so với 1,8 triệu tấn 1988 tăng 67 vạn tấn. Vụ đông xuân 97 vừa qua sản lượng lúa vùng này đã đạt gần 1,4 triệu tấn so với 71 vạn tấn của đông xuân 87, và 87 vạn tấn của vụ đông xuân 1988. Năm 1997 vùng đồng bằng sông Hồng bắt đầu xuất khẩu gạo với số lượng lớn mà giá lúa gạo vùng này đã thấp hơn vùng đồng bằng sông Cửu Long trong nhiều tháng. Đó là hiện tượng lạ đánh dấu sự sang hạng của sản xuất lúa gạo miền Bắc Việt Nam. Đã hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung chuyên canh với quy mô lớn như lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, cây ăn quả ở Nam Bộ và miền núi phía Bắc, mía ở duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, bò sữa ở ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các vùng sản xuất hàng 35 hoá tập trung có tỷ xuất hàng hoá cao, chất lượng ngày càng tiếp cận với yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước trong đó có một số sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế như cà phê, cao su, hạt điều. Sản lượng cà phê nhân năm 1988 mới có 31,3 ngàn tấn đến năm 1996 đã lên tới 252 ngàn tấn và năm 1997 này đạt 350 ngàn tấn gấp 10 lần năm 1988 và gấp 6,3 lần năm 1987 chất lượng và giá cả cà phê Việt Nam hiện nay không còn khoảng cách quá xa so với cà phê Brazil, Indonesia...Cây cà phê đã góp phần biến đổi kinh tế xã hội Tây Nguyên, rõ nét nhất là Đắc Lắc sản lượng cà phê năm 97 ước đạt gần 200 ngàn tấn. Sản lượng cà phê xuất khẩu năm 1996 đạt 248 ngàn tấn đem về cho đất nước hơn nửa tỷ USD đứng vị trí thứ 2 nông sản xuất khẩu sau gạo và năm 1997 sẽ tăng khoảng 300 ngàn tấn, tăng 20% so với 96. Cùng với cà phê là cao su tự nhiên 10 năm qua đã có bước phát triển vượt bậc cả về diện tích và sản lượng. Năm 1987 cả nước mới có 203 ngàn ha và 51,4 ngàn tấn mủ khô, năm 1996 lên tới 283 ngàn ha và 138 ngàn tấn trong đó xuất khẩu 110 ngàn tấn. Trên các vùng chuyên canh tập trung, đã hình thành mô hình trang trại sản xuất lớn, kỹ thuật hiện đại hơn, gắn sản xuất với chế biến và xuất khẩu tạo ra tiền đề cơ bản để phát triển nông nghiệp hàng hoá gằn với xuất khẩu Biểu 9: Giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo vùng từ 1995-1999 ( theo giá cố định 1994) Đơn vị: Tỷ đồng 1995 1997 1998 1999 Cả nước 82307,1 92530,2 96102,7 102932,9 Đồng bằng Sông Hồng 16575,8 18101,2 18815,3 19603,9 Đông Bắc 6549,8 7312,9 7490,3 7910,6 Tây Bắc 1567,5 1729,3 1702,7 1918,3 Bắc Trung Bộ 7395,6 8395,0 8246,7 9829,2 Duyên hải Nam Trung Bộ 5000,5 5439,7 5687,4 5942,7 Tây Nguyên 4825,2 6803,1 7000,0 8512,0 Đông Nam Bộ 9145,1 10474,2 10352,5 11415,7 Đồng bằng Sông Cửu Long 31247,6 34274,8 36807,8 38700,5 Nguồn: Niên giám Thống kê 2000 36 Qua bảng số liệu trên ta thấy được rằng giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là lớn nhất trong cả nước và trên thực tế lượng vốn đầu tư cho nông nghiệp cho 2 vùng này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư ở vùng đồng bằng sông Hồng năm 1995 giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 16575,8 tỉ đồng, năm 1997 sản lượng tăng đạt 18101,2 tỷ tới năm 1998 đạt 18815,3 tỷ. Cho tới năm 1999 tiếp tục tăng đạt 19603,9 tỷ, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long năm 1995 : 31247,6 tỷ; năm 1997 : 34274,8; năm 1998: 36807,8; năm 1999:38700,5 tỷ. Rõ ràng là có điều bất hợp lý trong đầu tư phát triển cho các vùng kinh tế vì vậy cần phải có chính sách đầu tư thích hợp đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng. 2. Cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp nông thôn 2.1 Điện cho phát triển nông nghiệp nông thôn Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra '' đến năm 2000 sẽ có 100% số huyện và 80% số xã có điện lưới và điện tại chỗ ''. Vì vậy một trong những mục tiêu đối với ngành điện trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 đã được chính phủ đề ra là '' Phủ điện tất cả các tỉnh lỵ, huyện lỵ và 80% số xã trong toàn quốc trong đó có 60% số hộ nông dân dùng lưới điện quốc gia''. Hiện trạng lưới điện nông thôn còn nhiều bất cập, mỗi miền được hình thành ở các giai đoạn khác nhau và có những đặc điểm riêng, ở miền Bắc lưới điện nông thôn lúc đầu được hình thành trên cơ sở các trạm bơm tiêu nước phục vụ nông nghiệp. Lấy các trạm bơm làm điểm xuất phát, các hợp tác xã nông nghiệp huy động công quỹ và sự đóng góp của nhân dân để xây dựng các đường dây tải điện đến hộ gia đình phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và đời sống. Vì vậy, có sự chênh lệch lời về mức độ và tỷ lệ số xã, số hộ có điện giữa địa phương khác nhau. Nơi nào có phong trào thuỷ lợi phát triển mạnh và tranh thủ sự ủng hộ tích cực của nhà nước thì nơi đó có lưới điện phát triển tương đối tốt. Sau này tình hình chung còn có khác hơn nhưng về căn bản điện nông thôn miền Bắc vẫn là gắn với thuỷ lợi. Còn ở miền Nam do những năm đầu sau giải phóng thiếu nguồn điện nên nhà nước chỉ đầu tư lưới điện phục vụ các trạm thuỷ nông đầu mối. Sau khi nhà máy thuỷ điện Trị An đi vào hoạt động năm 1988 và đặc biệt từ giữa những năm 1990 các hợp tác xã mới huy động nông dân đóng góp để xây dựng đường dây điện hạ thế đưa điện về xóm ấp. Tuy vậy tỷ lệ số hộ nông dân có điện mới chỉ là 34%. Riêng ở miền Trung việc đưa điện về nông thôn mới chỉ bắt đầu từ khi xây dựng xong đường dây 220 kv Vinh-Đồng Hới cùng trạm 220 kv Đồng Hới và phát triển mạnh sau 37 khi hoàn thành hệ thông tải điện 500 kv Bắc Nam. Bởi vậy kết quả trên bình diện toàn quốc, toàn bộ các thành phố trực thuộc Trung ương đã được nối lưới điện quốc gia. Đến cuối 1996, lưới điện quốc gia đã đến với 60/61 tỉnh lỵ, 426/470 huyện lỵ (đạt tỷ lệ 90,6%), 5698/9022 xã có điện, đạt tỷ lệ 63,2% và 6031323/11887452 hộ nông thôn có điện đạt tỷ lệ 50,7%. Điều đáng lo ngại là do có nhiều nhu cầu bức xúc về sử dụng điện cùng vốn đầu tư hạn hẹp nên lưới điện nông thôn trong những năm vừa qua ở nhiều nơi được xây dựng không theo quy hoạch, chưa đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, trong thời gian sử dụng không đảm bảo thường xuyên việc bảo trì cải tạo dẫn đến việc cung cấp điện không ổn định, chất lượng thấp, không an toàn và tỷ lệ tổn thất mất điện cao. Trong khi đó việc quản lý điện chưa thống nhất ( trong 5698 xã có điện và 6031323 hộ nông dân được dùng điện ) chủ yếu theo các mô hình Ban điện xã, thầu tư nhân của địa phương hoặc hợp tác xã tiêu thụ điện năng và ngành điện lực bán điện đến hộ nông dân. Không những thế ngay cả về giá điện ở nông thôn cũng không thống nhất. Bởi vì, ngành điện hiện nay chỉ bán điện trực tiếp đến được hộ nông dân khoảng 30 xã trong toàn quốc và bán theo đúng giá quy định. Số xã còn lại, ngành điện bán tại công tơ tổng với giá 360 đồng/kwh cho các tổ chức quản lý điện nêu trên để bán lẻ cho hộ nông dân. Do nhiều nguyên nhân về kĩ thuật về quản lý, giá điện thực tế mà các hộ nông dân phải trả có nhiều mức khác nhau tuỳ theo từng địa phương và nhìn chung đều cao hơn so với giá quy định. Chẳng hạn có 60,9% số xã có điện giá 450 đồng/kwh đến 700 đồng/kwh, 32,4% số xã có điện giá từ 700 đồng/kwh đến 900 đồng/kwh và 6,9% số xã có điện giá từ 900 đồng/kwh trở lên... Theo số liệu điều tra tại thời điểm 30/12/1999 điện lưới quốc gia đã được đưa về toàn bộ 61 tỉnh, thành phố trong cả nước, 470 huyện trên tổng số 491 huyện đạt tỷ lệ 95,7% (còn 12 huyện miền núi và 9 huyện đảo chưa có điện lưới nhưng hầu hết đã được lắp đặt các trạm diesel hay thuỷ điện nhỏ), 6918 xã trên tổng số 8891 xã (đạt 77,8%) với 8953247/12841487 hộ dân nông thôn được sử dụng điện lưới quốc gia (chiếm tỷ lệ 69,7%). Ước tính giá trị tài sản lưới điện trung áp và hạ áp nông thôn tại thời tháng 6/1998 là 6725,5 tỷ đồng; trong đó vốn ngân sách Trung ương và ngành Điện là 1357,1 tỷ đồng (20,2%), vốn ngân sách và vốn phụ thu của các địa phương là 21,18 tỷ đồng (31,5%), vốn của dân đóng góp là 3259,4 tỷ đồng (48,3%). Điện về nông thôn đã khắc phục thiên tai, thay đổi cơ cấu nông nghiệp, thay đổi quy mô và tập 38 quán canh tác, chăn nuôi, tăng năng suất và sản lượng lương thực, phát triển công nghiệp, chế biến nông lâm hải sản, phát huy các làng nghề truyền thống, mở ra các ngành nghề mới, cải thiện đời sống văn hoá, nâng cao dân trí và làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên công tác phát triển và quản lý điện nông thôn đang còn nhiều bất cập. Trước hết, cần phải thấy rằng vấn đề phát triển lưới điện nông thôn là loại đầu tư kết cấu hạ tầng cơ sở nhằm thúc đẩy các hoạt động kinh tế, chính trị xã hội, nhưng về mặt tài chính lại không có khả năng hoàn vốn vì mức đầu tư kinh phí để đưa điện về nông thôn đòi hỏi quá lớn, mức tiêu thụ điện lại không tương xứng, doanh thu tiền điện không trang trải chi phí quản lý và khấu hao tài sản. Thiện hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm" nhưng cả Nhà nước và nhân dân đều thiếu vốn, tình trạng đó đã diễn ra từ nhiều năm trước đây cũng như hiện nay và trong thời gian tới. Cũng do thiếu vốn nên lưới điện nông thôn được xây dựng trước đây phần lớn là không đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật vận hành nhất là đối với lưới điện hạ áp, dẫn đến tình trạng vận hành kém an toàn, tổn thất điện tăng cao và chất lượng điện xấu. Do không được bảo trì cải tạo, lưới điện xuống cấp nghiêm trọng. Đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho giá điện bán đến hộ dân tăng cao, dẫn tới việc ngành Điện không thể tiếp nhận, quản lý nguyên trạng lưới điện nông thôn mà phải có một số vốn không nhỏ phục vụ cho công tác đầu tư, cải tạo lưới điện (bình quân mỗi xã khoảng một tỷ đồng và cả nước hiện có hơn 6500 xã có lưới điện cần đầu tư cải tạo). Về tổ chức bộ máy quản lý điện nông thôn, do các công trình lưới điện nông thôn xây dựng từ nhiều nguồn vốn nên hiện tại có 6 mô hình quản lý. Quy chế tổ chức hoạt động, phân công trách nhiệm... không được rõ ràng, nghiêm túc nên quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc bất hợp lý, nhất là quản lý tài chính, giá điện, dẫn tới việc đẩy giá điện đến hộ dân tăng cao giả tạo, thậm chí có nơi nảy sinh tiêu cực. Riêng về giá điện ánh sáng sinh hoạt nông thôn, các công ty điện lực bán buôn qua công tơ tổng với giá 360 đồng/kwh sau sáu lần điều chỉnh tăng giá nhưng đến nay giá điện này vẫn giữ nguyên và bán lẻ theog giá Nhà nước quy định ở các xã quản lý bán điện trực tiếp đến hộ nông dân nông thôn. Các tổ chức quản lý điện do địa phương thành lập đã bán điện đến hộ nônh dân theo nhiều mức khác nhau. ở những địa phương mà chính quyền quan tâm ban hành được các qyu định về sử dụng 39 điện và giá điện thì ở đó giá điện hợp lý.Những nơi mà chính quyền ít quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, khoán trắng cho Ban điện xã hoạc cai thầu tư nhân thì phần phần lớn giá điện tăng cao ơhải chịu nhiều khoản chi phí bất hợp lý. Theo số liệu điều tra năm 1999 thì cả nước có 3993 xã giá điện dứoi 7000đ/kwh (tỷ lệ 57,8%), giá điện từ 700đ-900đ/kwh có2199 xã (32,2%), từ 900đ/kwh trở lên có 670 xã (9,9%). Nghị quyết kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá IX: giao cho ngành Điện xây dựng quy chế trực tiếp quản lý lưới điện nông thôn, tính lại giá bán điện hợp lý, trước mắt công bố giá điện trần đối với nông thôn, cùng các bô hữu quan lập phương án trình Chính phủ quyết định việc đầu tư xây dựng các công trình điện nông thôn. Tổng công ty Điện lực đã tập trung nghiên cứu, tính toán xây dựng các phương án quản lý, đồng thời tổ chức thí điểm, tiếp nhận trực tiếp bán điện đến hộ nông dân, đầu tư nguồn vốn của Tổng công ty để tiếp nhận đầu tư cải tạo tối thiểu, phát hiện và xử lý kịp thời những vướng mắc trong quá trìnhtriển khai. 2.2 Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn Năm 2001, đẫ bổ xung 200-300 tỷ đồng thuộc chương trình 135 để hỗ trợ xây dựng các đường giao thông hliên xã, các địa phương được dùng 40% thuế sử dụng đất nông nghiệp và các nguồn huy động khác và vay ưu đãi với lãi suất bằng không. Biểu 10: Vốn Ngân sách Trung ương đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã Đơn vị: Tỷ đồng Năm 1999 2000 2001 Vốn ngân sách đầu tư xây dựng CSHT cho các xã 408 701 880 Qua số liệu thống kê chỉ tính trong ba năm từ 1999-2001, ngân sách Trung ương đã đàu tư 1989 tỷ đồng để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã: năm 1999 là 408 tỷ đồng, 2000 là 701 tỷ đồng, 2001 là 880 tỷ đồng. Trong hai năm 1999-2000 các dịa phương đã xây dựng xong và đưa vào sử dụng 4140 công trình gồm: đường giao thông nông thôn, thuỷ lợi nhỏ, cấp nước sinh hoạt, điện sinh hoạt, trường học, trạm y tế, chợ vùng cao... Đó là sự cố gắng lớn trong khi ngân sách còn nhiều khó khăn nhưng nhìn chung, cơ sở 40 hạ tầng nông thôn vẫn còn thấp kém, đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn trong những năm tới và phải có chính sách đồng bộ nhất quán. 2.3 Đầu tư thuỷ lợi cho phát triển nông nghiệp Do sự biến động của thời tiết đã ảnh hưởng xấu đến quá trình sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Chỉ tính riêng vụ Đông xuân năm 1998-1999, thiên tai, hạn hán kéo dài đã gây thiệt hại cho ngành nông nghiệp hàng trăm tỷ đồng. Theo đánh giá của các chuyên gia về nông nghiệp thì sự yếu kém của hệ thống thuỷ lợi hiện nay cũng là một trong những tác nhân góp phần gây ra những tổn thất nặng nề nêu trên. Do vậy việc hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi để phục vụ việc phát triển hệ thống nông nghiệp và nông thôn đang là đòi hỏi bức xúc. Có thể nói rằng công tác thuỷ lợi luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp. Ngay từ những năm đầu khi đất nước được giải phóng, công tác thuỷ lợi đã được triển khai với phương châm: "Nhà nước và nhân dân cùng làm","vừa ích nước vừa lợi nhà"để xây dựng các công trình thuỷ lợi. Với cách làm đó hàng loạt các công trình thuỷ lợi được xây dựng trên khắp mọi miền đất nước, từ đồng bằng miền núi, từ miền bắc đến miền nam,Tây Nguyên như các công trình: Thạch Nham, Phú Ninh, Sông Rác, Bảo Ninh, Yaun hạ, vùng Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười... Thực tế cho thấy, những công trình hệ thống thuỷ lợi này đã làm bật dậy tiềm năng của những vùng đất đai rộng lớn, thuần hoá được những vùng trước đây được coi là sản xuất bấp bênh theo mùa vụ, và tạo cho đồng bào các dân tộc thiểu số quen với phương thức canh tác thâm canh, tăng vụ dần xoá đi tập quán du canh du cư, phá rừng bừa bãi... và cũng chính các công trình thuỷ lợi này là điều kiện tiên quyết tăng năng suất cây trồng, góp phần không nhỏ đưa sản lượng lương thực của cả nước đạt trên 31 triệu tấn trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Tính đến thời điểm hiện nay theo số liệu thống kê trên địa bàn cả nước đã có 75 hệ thống thuỷ lợi với 734 hồ chứa nước vừa và lớn, trên 10000 hồ chứa nước nhỏ, 1017 đập, 4716 cống tưới tiêu lớn, 1796 trạm bơm điện, 854 km các tuyến kênh trục chính. Những công trình thuỷ lợi trên theo đánh giá đủ khả năng đáp ứng nước tưới cho hơn 3 triệu ha đất canh tác , tiêu ch0 2,24 triệu ha, đó còn chưa kể gần 8000 km đê (trong đó đê sông trên 5000 km, đê biển khoảng 2000km) và trên 3000 đê ngăm lũ ở Đồng bằng Sông Cửu Long... Với con số nêu trên, chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn của ngành thuỷ lợi để phát 41 triển nông nghiệp và nông thôn, và đó cũng chính là cơ sở hạ tầng thiết yếu tạo tiền đề cho thực hiện công nghiệp hoá, hiện đậi hoá ở nông thôn. Song song với việc xây dựng và đưa vào khai thác các công trình thuỷ lợi, Nhà nước đã xây dựng các văn bản pháp luật để đưa công tác khai thác các công trình thuỷ lợi vào kỷ cương như: Pháp lệnh Đê điều năm 1989, Pháp lệnh phòng chống lụt bão năm 1993, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ các công trình thuỷ lợi năm 1994, gần đây nhất tháng 5 năm 1998 Quốc hội đã thông qua Luật tài nguyên nước... Đó là những cơ sở hành lang pháp lý cơ bản để báo vệ, khai thác các công trình thuỷ lợi hiệu quả hơn. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia về thuỷ lợi thì hiện nay hệ thống này còn tỏ ra nhiều bất cập, sự phát triển của nó chưa tương xứng với vị thí hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp và nổi lên một số vấn đề cơ bản sau: Do mức đầu tư cho những công trình thuỷ lợi đã được xây dựng còn thấp (1000-1500 USD/ha) trong khi mức đầu tư bình quân của thế giới là 3000-4000 USD/ha nên các công trình đã được làm chất lượng chưa cao, nhiều công trình hiện nay đang trong trạng thái đắp chiếu chờ kinh phí để tu bổ. Mặt khác, hiện nay mức thu thuỷ lợi phí mỗi năm chỉ vào khoảng 500-600 tuỷ đồng bằng 25% nhu cầu vốn đầu tư cho việc tu bổ, bảo dưỡng, quản lý, nâng cấp, khôi phục các công trình hư hỏng, trong khi đó nguồn Ngân sách của Nhà nước hàng năm chi co hoạt động thuỷ lợi rất ít ỏi chỉ đáp ứng được 5% nhu cầu về vốn. Với nguồn kinh phí đầu tư hạn hẹp như vậy đã, đang làtác nhân chính làm nên nhiều công trình trong hệ thống thuỷ lợi xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và đời sống của người nông dân ở vùng nông thôn. Một trong những vấn đề đang bộc lộ nhiều bất hợp lý trong hoạt động thuỷ lợi hiện nay là mức thu thuỷ lợi phí. Theo ông Ninh Văn Sơn-Phó Viện trưởng Viện khoa học kinh tế thuỷ lợi: phí thuỷ lợi hiện tại chưa biểu thị hết chi phí một đơn vị sản phẩm là1m3 nước. Với mức phí thu như hiện nay Nhà nước không những chưa bù đắp được kinh phí bỏ ra chứ đừng nói tới lợi nhuận để tái đầu tư, bảo dưỡng, xây mới các công trình thuỷ lợi, việc định giá thu thuỷ lợi phí mới là việc làm cấp thiết. Hơn nữa tính bình quân mức thu thuỷ lợi phí hiện nay cũng là một nghịch lý. Thực tế hiện nay các đối tượng sử dụng nước qua các công trình thuỷ lợi điện, nuôi cá, du lịch, sinh hoạt, sản xuất công nghiệp... không phải trả tiền nước và nếu có trả thì giá chỉ 50 đồng/m3 không phân biệt chất lượng phục vụ tốt hay xấu... do vậy chưa 42 khuyến khích được mọi người sử dụng nước tiết kiệm. Thêm nữa hiện nay các kênh mương nội đồng đang xuống cấp nghiêm trọng. Thiết nghĩ, với tất cả công việc bề bộn nêu trên đang đòi hỏi ngành thủy lợi có sự nỗ lực rất lớn song những thực tế đó cũng đang cần và rất cần sự trợ giúp vốn của Nhà nước, cơ chế chính sách, khoa học kỹ thuật để hệ thống này hoạt động có hiệu quả hơn. Trong năm 1999 Nhà nước đã đầu tư trên 4000 tỷ đồng để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn trong đó các công trình thuỷ lợi được xem là mục tiêu chính. Song để nguồn vốn hoạt động có hiệu quả vẫn cần có sự quản lý tài chính hết sức chặt chẽ và sự công khai, dân chủ từ khâu quy hoạch, khảo sát, thi công và vận hành. Khoảng 80% trong số 7 triệu ha diện tích đất canh tác Việt nam được trang bị hệ thống tưới tiêu, đa số trong đó dành cho sản xuất lúa. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thường chịu trách nhiệm cơ sở hạ tầng thuỷ nông cấp một còn chính quyền địa phương chịu trách nhiệm các kênh cấp hai cấp ba. Các công trình thuỷ lợi quy mô lớn và vừa do 172 công ty quản lý thuỷ nông quản lý, 3 trong đó thuộc Bộ nông nghiệp và pháta triển nông thôn và 169 thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương. Thuỷ lợi nhận khoảng 50-55% Ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp, 80-90% trong số đó là chi đầu tư (xem biểu 9). Tổng chi tiêu công cho thuỷ lợi đã tăng gần gấp đôi từ năm 1992 những phần dành cho chi thường xuyên lại giảm mạnh từ khoảng 20% năm 1992-1993 xuống 10% năm 1997-1998. Điều này phản ánh rằng khoảng 50% chi phí vận hành bảo dưỡng hiện do các công ty thuỷ nông chịu mà chi tiêu của những công ty này không được tính vào Ngân sách Nhà nước. Song việc phân bổ Ngân sách Nhà nước để trang trải phần còn lại trong chi phí vận hành bảo dưỡng vẫn không đủ để duy tu hiệu quả hệ thống hiện hành dẫn đến việc xuống cấp cơ sở hạ tầng và công suất sử dụng thấp. Như mô tả dưới đây sự mất cân đối giữa chi thường xuyên và chi đầu tư trong thuỷ lợi đã làm giảm hiệu quả của những khoản đầu tư mới. Biểu 11: Chi tiêu cho thuỷ lợi Đơn vị: Tỷ đồng 1992 1993 1994 1995 1997 1998 Tổng chi tiêu 558 184 1542 1804 1806 2470 Chi thường xuyên 102 191 302 288 155 163 43 Chi đầu tư 456 623 1240 1516 1651 2307 Nguồn: Việt Nam-Đánh giá chi tiêu công 2000 Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng giá trị ước tính của các công trình thuỷ lợi tính theo giá năm 1994 là 60 nghìn tỷ đồng. Chi phí vận hành và bảo dưỡng là 1200 đến 1500 tỷ đồng một năm. Thuỷ lợi phí thu từ người sử dụng là khoảng 600 tỷ đồng năm. Phần thiếu hụt giữa chi phí vận hành và bảo dưỡng và phí thu được một phần do Nhà nước bao cấp, khoảng 22 tỷ đồng năm, dùng để trực tiếp tài trợ cho các công ty quản lý thuỷ nông. Phần tiền còn lại là dùng vốn tài trợ, do thiếu kinh phí hệ thống thuỷ lợi thường bị xuống cấp. ở nhiều vùng nhất là những vùng nghèo, các xã phải dựa vào đóng góp tự nguyện của nông dân. 3. Chính sách đầu tư vốn cho phát triển nông nghiệp. 3.1 Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp thời kỳ 1996-2000 Biểu 12: Tỷ trọng vốn đầu tư nông nghiệp 1996-2000 Đơn vị: Tỷ đồng Năm 1996 1997 1998 1999 2000 1. Tính theo giá hiện hành Tổng số 79367,4 96870,4 97336,1 103771,9 120600,0 Trong đó: Nông nghiệp và lâm nghiệp 5140,6 6190,2 6148,6 6563,3 7005,6 Tỷ trọng (%) 6,5 6,4 6,3 6,3 5,8 2. Tính theo giá so sánh 1994 Tổng số 67489,3 79204,6 75579,7 78997,0 91800,0 Trong đó Nông nghiệp và lâm nghiệp 4371,3 5061,3 4774,3 4996,3 5228,6 Tỷ trọng (%) 6,5 6,4 6,3 6,3 5,7 44 Nhìn chung qua biểu trên ta thấy lượng vốn đầu tư xã hội cho nông nghiệp thời kỳ 1996-2000 (tính theo giá hiện hành) đều tăng dần theo thời gian: năm 1996 đạt 5140,6 tỷ đồng đến năm 1997 tăng đạt mức 6190,2 tỷ đồng, năm 1998 là 6148,6 tỷ đồng, năm 1999 là 6563,3 tỷ đồng và anưm 2000 đạt mức cao nhất 7005,6 tỷ đồng. Mặc dù lượng vốn đầu tư cho nông nghiệp có tăng những tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp lại giảm dần: năm 1996 chiếm 6,5% đến năm 1997 giảm xuống còn 6,4%, năm 1998 là 6,3%, năm 1999 chiếm 6,3%, cho tới năm 2000 đạt mức thấp nhất chiếm 5,8% vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp. 3.2 Chính sách vốn đầu tư nông nghiệp Muốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn trước hết phải có vốn. Vốn đầu tư được khai thác và huy động từ nhiều nguồn: trong nước và ngoài nước. Cơ sở để hình thành nguồn vốn trong nước là đầu tư phát triển sản xuất, tạo tích luỹ thực hiện tái sản xuất mở rộng, vì vậy tập trung phát triển các ngành tạo nguồn tích luỹ là cơ sở quan trọng để tài sản xuất mở rộng. Một vấn đề hết sức quan trọng là phải tạo lập được một hệ thống chính sách phát huy tính năng động sáng tạo của từng cơ sở và người lao động, có cơ chế xử lý lợi ích, khuyến khích các tầng lớp tích cực khai thách mọi khả năng tiềm tàng. Nông thôn Việt Nam là, một vùng rộng lớn, nơi cư trú của 80% dân số cả nước tập trung trên 70% lao động xã hội. Trong quá trình đổi mới diện mạo của nông thôn đã có những thay đổi căn bản, nhưng nhìn chung đây vẫn là khu vực lạc hậu và đói nghèo khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển so với đô thị đang dần tăng lên, Thiếu vốn và những ách tắc trong thực hiện chính sách ưu đãi cho phát triển nông thôn là một trong những nguyên nhân quan trọng hạn chế phát huy tiềm năng rất lớn tại khu vực này. Vốn đầu tư cho nông thôn bao gồm: vốn từ ngân sách nhà nước, các nguồn vốn nước ngoài (ODA, FDI, các nguồn tài trợ khác), vốn của các thành phần kinh tế và dân cư. Hàng năm nông nghiệp đóng góp vào GDP 25-26% nhưng nguồn vốn ngân sách dành cho khu vực nông thôn còn quá ít mức tăng chậm thua xa các ngành kinh tế khác. Đầu tư cho nông nghiệp ước tính chỉ chiếm 8% trong tổng số vốn đầu tư xã hội như vậy là quá thấp so với tỉ lệ đóng góp của ngành vào tổng GDP. Hiện nay đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chủ yếu là bằng nguồn vốn ngân sách và nguồn tín dụng đầu tư. Hàng năm, vốn ngân sách trong lĩnh vực đầu tư nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là 17-18% chủ yếu 45 là xây dựng các công trình thuỷ lợi, trạm trại, giống cây, con. Nếu kể cả các chương trình phát triển kinh tế xã hội đưa về thực hiện ở nông thôn thì tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư ngân sách đầu tư phát triển, tỷ lệ này không phải là thấp. Tuy nhiên vốn đầu tư của toàn xã hội cho nông nghiệp, nông thôn đúng là còn thấp, vì nguồn vốn tích luỹ trong khu vực nông dân chưa nhiều và sức hút các nguồn vốn khác vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn còn kém hấp dẫn. Trong cơ cấu đầu tư, nông nghiệp chỉ chiếm 8,2%, mức tăng hàng năm chỉ đạt 16,7% trong khi đó các ngành kinh tế khác có mức đầu tư trung bình đạt không dưới 20%. Nguồn vốn ngân sách đầu tư cho nông nghiệp nông thôn vừa ít lại không tập trung, hiệu quả thấp và trong nhiều trường hợp không đúng mục đích, đối tượng. Chúng ta xem xét cơ cấu và hiệu quả vốn đầu tư trong nền kinh tế thông qua Biểu sau: Biểu 13: Cơ cấu & hiệu quả vốn đầu tư trong nền kinh tế Đơn vị: % Cơ cấu đầu tư Hiệu quả đầu tư 1995 1996 1997 1998 1999 1995 1996 1997 1998 1999 Nền kinh tế 100 100 100 100 100 3,8 4,0 4,0 4,8 5,1 Khu vực I 8,0 7,2 7,3 7,8 7,4 13,4 15,5 14,0 16,5 17,3 NôngN , lâmN 7,3 6,5 6,4 6,3 6,3 13,2 15,0 14,0 17,0 17,8 Thuỷ sản 0,8 0,7 0,9 1,1 1,1 15,0 19,7 13,8 13,6 14,2 Khu vực II 39,0 40,8 39,0 41,0 41,0 2,9 2,9 3,3 3,8 4,3 Khu vực III 53,0 52,0 53,7 51,1 51,1 3,0 3,3 3,1 3,9 3,9 Nguồn: tính toán từ Niên giám Thống kê (1) Cơ cấu vốn đầu tư là % trong tổng vốn đầu tư (2) Hiệu quả vốn đầu tư = GDP/vốn đầu tư tính theo giá hiện hành 46 Khu vựcI: Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản Khu vực II: Công nghiệp - xây dựng Khu vực III: Dịch vụ Các số liệu do cơ quan thống kê cung cấp trong khoảng thời g1995 đến 1999 cho thấy đầu tư cho nông nghiệp chỉ chiếm không đầy 7% trong tổng đầu tư quốc gia, đầu tư của Nhà nước vào đây cũng chỉ từ 8-9% trong số vốn đầu tư của Nhà nước. Qua Biểu 13 cho ta thấy cơ cấu vốn đầu tư của nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản trong tổng vốn đầu tư là: 8,1% trong năm 1995 đến năm 1996 giảm 0,9% còn 7,2%. Năm 1997 tăng 0,2% lên mức 7,3% so với năm 1996. Năm 1998 tăng 0,5% lên mức 7,8% so với năm 1997. Năm 1999 lại giảm 0,4% chỉ còn 7,4% so với năm 1998. Như vậy vốn đầu tư cho nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản trong tổng vốn đầu tư còn ít và thay đổi trong từng năm, vì vây Nhà nước cần có ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn Thực trạng chính sách đầu tư đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan