Tài liệu Luận văn Thực trạng chất lượng tín dụng và một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn từ năm 2000 đến năm 2002: Luận văn
Thực trạng chất lượng tín dụng
và một số giải pháp kiến nghị
nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn từ 2000 đến năm
2002
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước
đang từng bước vào đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên hiện nay tốc độ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đang bị chững lại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau
mà một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là vấn đề về vốn. Có thể
nói vốn là tiền đề, là cơ sở đầu tiên để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất
kinh doanh và đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có thể tạo vốn bằng
nhiều cách khác nhau: có thể tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, huy
động vốn, liên doanh liên kết, hay vay mượn chiếm dụng vốn của các doanh
nghiệp khác. Nhưng muốn ổn định và có lợi thế nhất giúp các doanh nghiệp
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới c...
86 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 931 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng chất lượng tín dụng và một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn từ năm 2000 đến năm 2002, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng chất lượng tín dụng
và một số giải pháp kiến nghị
nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn từ 2000 đến năm
2002
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước
đang từng bước vào đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên hiện nay tốc độ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đang bị chững lại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau
mà một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là vấn đề về vốn. Có thể
nói vốn là tiền đề, là cơ sở đầu tiên để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất
kinh doanh và đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có thể tạo vốn bằng
nhiều cách khác nhau: có thể tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, huy
động vốn, liên doanh liên kết, hay vay mượn chiếm dụng vốn của các doanh
nghiệp khác. Nhưng muốn ổn định và có lợi thế nhất giúp các doanh nghiệp
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ là nguồn vốn trung
và dài hạn từ các Ngân hàng thương mại.
Hiện nay các doanh nghiệp đang thiếu vốn nhất là vốn trung và dài
hạn trong khi vốn tồn đọng trong các Ngân hàng thương mại không phải là
ít. Như vậy, không phải chúng ta thiếu vốn mà là chúng ta chưa có cách
chuyển vốn huy động được vào sản xuất kinh doanh. NHNo&PTNT Hà Nội
cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Hiện nay nguồn vốn cho vay trung và
dài hạn của Ngân hàng kém đa dạng vê cơ cấu khách hàng. Hầu như Ngân
hàng chỉ tập trung vào doanh nghiệp Nhà nước, chưa quan tâm tới các đối
tượng khách hàng khác đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Vì lý do đó “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài
hạn tại NHNo&PTNT Hà Nội được chọn làm đề tài nhằm đáp ứng đòi hỏi
thiết thực của thực tiễn, vừa mang tính thời sự trong kinh doanh tiền tệ của
Ngân hàng hiện nay.
Từ những lý luận cơ bản về tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng
thương mại, bài viết này sẽ phân tích và đánh giá thực trạng, tìm nguyên
nhân dẫn đến các mặt hạn chế hiện nay tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài viết này là hoạt động tín
dụng trung và dài hạn tại NHNo&PTNT Hà Nội từ 2000 đến năm 2002. Bài
viết này được kết cấu như sau:
Chương I. Tín dụng Ngân hàng và chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Chương II Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
Chương III Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
Do trình độ còn hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót, em
rất mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để
vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRUNG VÀ DÀI HẠN
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương, chủ thể tham gia
nói riêng. Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng quan niệm như thế nào về
một Ngân hàng, và sự phân biệt nó với các tổ chức phi Ngân hàng không
phải là điều đơn giản. Rõ ràng, có thể định nghĩa Ngân hàng thông qua chức
năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ không
chỉ chức năng của các Ngân hàng thay đổi, mà có sự “thâm nhập” vào chức
năng hoạt động Ngân hàng của các đối thủ cạnh tranh. Do đó tuỳ theo đIều
kiện của mỗi nước và sự phát triển của hệ thống tài chính nước đó mà có
những định nghĩa khác nhau về Ngân hàng.
Theo luật Ngân hàng của Pháp thì Ngân hàng được định nghĩa:”Ngân
hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác, hay hình thức khác số tiền mà họ
dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài
chính.”
Còn luật pháp Ấn Độ lại có cái nhìn về Ngân hàng như sau, họ định
nghĩa:” Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay
hay tài trợ và đầu tư.”
Đó là các quan niệm về Ngân hàng đứng trên giác độ luật pháp. Còn
đứng trên giác độ tài chính Ngân hàng thì sao? Một định nghĩa khác về
Ngân hàng được Giáo sư Peter Rose đưa ra như sau: ”Ngân hàng là loại hình
tổ chức tàt chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất
- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế.”
Ơ Việt Nam, theo quy định tại luật các tổ chức tín dụng thì Ngân hàng
được định nghĩa như sau: “ Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại
hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng
chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác” (trích
trang 12 Luật các tổ chức tín dụng). Như vậy thông quâ một số kháI niệm về
Ngân hàng thương mại, ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại
hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh tín dụng với mục đích thu
lợi nhuận, và nó có những đặc trưng như sau:
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của
công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của
công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tàI chính khác.
Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, ở nước ta các loại hình
Ngân hàng thương mại được hoạt phép hoạt động theo luật tổ chức tín dụng
bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư,
Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương
mại tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho vay, đó là hai mặt
hoạt động tín dụng. Trong xu thế hiện nay, các Ngân hàng thương mại hoạt
động theo loại hình đa năng thì hoạt động của nó tập trung vào ba hoạt động
chính: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn, hoạt động trung
gian.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Hoạt động huy động vốn đối với Ngân hàng đây là hoạt động “đầu vào”
của Ngân hàng. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của một Ngân hàng được
hình thành từ những nguồn chính sau đây: vốn tự có của doanh nghiệp, vốn
vay (vay của các tổ chức tài chính, vay của dân cư, vay của Ngân hàng trung
ương), lợi nhuận để lại, ngoài ra đối với một số Ngân hàng nguồn vốn hoạt
động có thể hình thành từ vốn đIều lệ hay vốn uỷ thác...Trong quá trình hoạt
động của mình, Ngân hàng thương mại phần lớn dựa vào việc huy động các
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Hoạt động nguyên thuỷ của Ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng
và đây vẫn là nguồn đầu vào chủ yếu của Ngân hàng. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng tới quy mô tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng như: lãi suất,
phương thức huy động của Ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội từng thời kỳ,
phong tục tập quán của từng vùng, uy tín của từng Ngân hàng, các dịch vụ
do Ngân hàng cung cấp...vv. Nắm được yếu tố đó, Ngân hàng có thể đIều
chỉnh lượng vốn huy động sao cho phù hợp với nhu cầu vốn của mình.
Các loại tiền gửi mà Ngân hàng cung cấp để huy động vốn là: tiền gửi
thanh toán không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu tín dụng và đa dạng hoá hoạt động kinh
doanh, Ngân hàng có thể vay vốn từ dân cư , các đơn vị kinh tế, các tổ chức
tín dụng khác thông qua một số hình thức như: phát hành trái phiếu, kỳ
phiếu hoặc vay tái chiết khấu từ Ngân hàng trung ương.
Để được hoạt động và thực hiện huy động vốn, Ngân hàng phải có một
lượng nhất định gọi là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
trong tổng vốn sử dụng song nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động
của Ngân hàng. Vốn tự có là đIều kiện bắt buộc để Ngân hàng có được giấy
phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản
tiền gửi đầu tiên. Vốn tự có còn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại
rủi ro phá sản, những thua lỗ về tàI chính trong hoạt động tạm thời. Nó tạo
niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
chính của Ngân hàng. Và nó còn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng
trưởng và sự phát triển dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết
bị mới.
Đối với hoạt động sử dụng vốn, đây là hoạt động cho vay và đầu tư bao
gồm hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên
của Ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời
thấp nhưng tính lỏng cao được coi như tiền mặt. Do đó Ngân hàng phải duy
trì lượng tiền mặt ở một mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh
khoản vừa đảm bảo tính sinh lời.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành
bại của Ngân hàng vì đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng.
Cũng vì vậy mà đây là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh đIều đó,
việc quản lý tiền cho vay được tiến hành rất chặt chẽ, đặc biệt là món vay
lớn, với thời hạn dài. Ngân hàng thương mại có thể cho vay theo nhiều hình
thức khác nhau.
Ngoài ra Ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng
khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh
toán của Ngân hàng.
Hoạt động trung gian là việc Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một
loạt các dịch vụ có liên quan. Ngân hàng sẽ nhận được một khoản thu dưới
hình thức hoa hồng. Công nghệ Ngân hàng càng phát triển thì hoạt động này
càng phong phú và doanh thu càng lớn. Các hoạt động tiêu biểu là: chuyển
tiền, thanh toán hộ khách hàng thông qua các hình thức ghi chép trên tài
khoản của khách hàng tại Ngân hàng, phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm
chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán, quản lý hộ tài sản cho
khách hàng, tư vấn cho doanh nghiệp...vv.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Ngày nay, xu hướng của Ngân hàng là hoạt động đa năng trên nhiều
lĩnh vực với nhiều nghiệp vụ khác nhau. Các nghiệp vụ có quan hệ chặt chẽ,
hỗ trợ cho nhau nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận cao nhất.
3. Các loại hình tín dụng Ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng
và mục tiêu quản lý của Ngân hàng Thương mại mà có cách phân loại tín
dụng như sau:
3.1. Nếu căn cứ vào thời hạn, tín dụng chia thành các loại sau đây:
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: có thời gian từ 1 năm đến 5 năm (có nơi quy định
là 7 năm).
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn từ 5 năm trở nên (có nơi quy định là 7
năm).
Thời hạn tín dụng đó chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết
cấp cho khách hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày,
tháng, năm. Hay thời hạn tín dụng còn được hiểu là thời hạn được tính từ lúc
đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi
cuối cùng phải thu về.
Tín dụng ngắn hạn thường gắn với những khoản vay của doanh nghiệp
để bổ sung vào tài sản lưu động, bởi vì tài sản lưu động thường có vòng
quay trên một vòng thấp hơn một năm. Do vậy trong một năm doanh nghiệp
có thể hoàn trả được số tiền vay ở Ngân hàng.
Các tài sản cố định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải, một số
cây trồng vật nuôi ... các trang thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn
từ 1 năm đến 5 năm.
Ngược lại, những công trình đầu tư lớn, thu hồi vốn lâu, thuộc tầm vĩ mô
như: máy móc thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng cầu đường... có nhu cầu
nguồn vốn từ 5 năm đến 10 năm có khi tới 20 năm.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự
án có thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn do ở thời điểm hiện tại doanh
nghiệp khó có thể tính được hết khó khăn sẽ gặp trong tương lai. Do vậy
mức độ rủi ro của các khoản tín dụng có thời gian lớn đối với Ngân hàng sẽ
tăng nên. Điều này một phần lý giải tại sao lãi suất các khoản cho vay dài
hạn thường cao hơn các khoản các khoản cho vay ngắn hạn.
Phân loại Tín dụng theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân
hàng Thương mại. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh
hưởng trực tiếp đến tính an toàn và sinh lợi của một Ngân hàng Thương mại.
3.2. Phân loại theo hình thức cho vay.
Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau:
- Chiết khấu là việc Ngân hàng Thương mại ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu sau khi đã trừ đi phần thu nhập
của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý
thì Ngân hàng không phải là nhà cho vay với chủ sở hữu thương phiếu và
chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với Ngân hàng, việc bỏ
tiền ở thời điểm hiện tại để thu về một khoản tiền lớn hơn trong tương lai
với lãi suất ấn định trước được coi như là hoạt động tín dụng, nhưng có lẽ
coi đây là một hoạt động đầu tư của Ngân hàng hơn là một hoạt động tín
dụng.
- Cho vay được hiểu là việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng
với sự cam kết khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian
xác định với mức lãi suất cam kết. Cho vay được gọi là một trong các
nghiệp truyền thống của Ngân hàng Thương mại, nó được hình thành ngay
từ buổi sơ khai của các Ngân hàng, và được đánh giá là hoạt động sinh lời
cao nhất cho các Ngân hàng Thương mại.
- Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
thay khách hàng của mình khi khách hàng của mình không có khả năng trả
nợ. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song Ngân hàng vẫn thu được lợi từ
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
khách hàng nhờ uy tín của mình. Nghiệp vụ này được đưa vào tài khoản
ngoại bảng của Ngân hàng. Tuy nhiên nếu có nghiệp vụ phát sinh tức là
Ngân hàng đứng ra thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
mình thì nó lại được đưa vào tài khoản nội bảng.
- Cho thuê đó là việc Ngân hàng đứng ra bỏ tiền mua tài sản để cho
khách hàng thuê theo những điều kiện nhất định. Sau thời gian đó khách
hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho Ngân hàng. Đây là hoạt động khá mới mẻ
với Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này sinh lời khá cao, nhưng nó cũng
chứa đựng nhiều rủi ro trong đó có yếu tố về công nghệ. Điều này đòi hỏi
cán bộ tín dụng không những phải có chuyên môn về nghề nghiệp mà còn
có cả sự hiểu biết về kỹ thuật, về công nghệ.
3.3. Phân loại tín dụng theo tài sản đảm bảo.
Nếu căn cứ vào tài sản đảm bảo thì ta có các loại hình tín dụng sau đây:
- Tín dụng đảm bảo đó là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc
dùng tài sản đảm bảo thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ tài chính
đối với Ngân hàng trong trường hợp không trả được nợ. Trong trường hợp
này khi khách hàng không trả được nợ, hoặc vì sử dụng sai mục đích nguồn
vốn vay dẫn đến không thanh toán được thì Ngân hàng sẽ bán tài sản đi để
thu hồi nguồn vốn. Tín dụng đảm bảo được áp dụng đối với các khách hàng
có độ rủi ro cao như khách hàng mới hay những khách hàng có tình hình tài
chính không tốt...
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo đó là loại hình tín dụng mà khách
hàng có nhu cầu vay vốn với một hạn mức nhất định mà không cần tài sản
đảm bảo. Loại tín dụng này thường được cấp cho các khách hàng có uy tín
cao, những khách hàng có mối quan hệ tốt và lâu dàI đối với Ngân hàng, họ
có tình hình tài chính lành mạnh, có mối quan hệ tốt với các tổ chức tài
chính. Cũng có thể là các khoản vay thực hiên theo chỉ thị của Chính phủ,
hay Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Bên cạnh những tiêu thức phân loại trên, các Ngân hàng Thương mại còn
sử dụng các tiêu thức khác tuỳ theo đối tượng cho vay, tính đa dạng của sản
phẩm hay tính chuyên môn hoá trong ngành để phân chia ví dụ như: Tín
dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề, tín dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng...
II. VAI TRÒ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung và dài hạn “ là hoạt động tài chính cho khách hàng vay
vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh
doanh, phục vụ đời sống”. Tín dụng là một trong những hoạt động mang
lại nguồn thu nhập chủ yếu và nó chiếm phần lớn hoạt động trong các Ngân
hàng Thương mại, song không phải tất cả các Ngân hàng Thương mại đều
thực hiện tốt hoạt động này. Một số Ngân hàng gặp khó khăn trong việc
quản lý và thu hồi nợ, một số khác lại gặp khó khăn trong việc không thể
tìm được dự án thích hợp để cho vay hoặc gặp khó khăn trong việc huy động
vốn. Vì vậy việc xem xét chất lượng hiệu quả hoạt động tín dụng nhất là tín
dụng trung và dài hạn là hết sức cần thiết. Nó giúp các Ngân hàng có thể
đánh giá lại hoạt động tín dụng của mình từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
khắc phục những tồn tại, thiếu sót và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tín dụng.
Chất lượng, hiệu quả công tác tín dụng Ngân hàng được nhìn nhận từ 3
phía: các nhà Ngân hàng, các doanh nghiệp, và từ nền kinh tế. Trong bài viết
này, chúng ta tạm giới hạn việc nghiên cứu chất lượng tín dụng dưới giác độ
của Ngân hàng. Nếu xét theo quan điểm của các nhà Ngân hàng thì hoạt
động tín dụng trung và dài hạn được xem là có hiệu quả khi nó đảm bảo
được 3 yếu tố: khả năng sinh lợi, khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn và
khả năng thanh khoản từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là các Ngân hàng
khi tiến hành cho vay trung dài hạn thì khoản vay đó phải đảm bảo trang trải
được chi phí trả cho lãi suất huy động hoặc đi vay, chi phí hoạt động của
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Ngân hàng và lãi dự tính. Song không phải các Ngân hàng cứ cho vay nhiều,
mang lại nhiều lợi nhuận là có hiệu quả cao bởi vì nếu chỉ cho vay ra mà
không thu hồi được vốn cho vay hoặc cho vay không cân xứng với nguồn
huy động được thì sớm hay muộn, Ngân hàng cũng rơi vào tình trạng thua
lỗ, đổ bể.
Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có các hình thức sau:
- Hoạt động tín dụng theo hình thức dự án đầu tư
- Hình thức cho thuê tài chính
- Thấu chi
- Bảo lãnh trung và dài hạn
2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn.
2.1. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp
- Tín dụng trung và dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều
kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Đó là mục tiêu hàng đầu
của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường
hoạt động của mình và nếu vậy phải mở rộng sản xuất. Mở rộng sản xuất
không phải là hoạt động mà doanh nghiệp có thể tiến hành một sớm một
chiều. Đó là hoạt động lâu dài và cần có nguồn vốn dài hạn. Nhưng không
phải doanh nghiệp nào cũng đủ vốn để tiến hành mở rộng sản xuất kinh
doanh. Do vậy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh đối với doanh
nghiệp rất cần thiết. Với những lợi thế đặc thù, tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng được các doanh nghiệp ưa thích hơn hình thức phát hành cổ
phiếu.
- Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi
mới công nghệ, thay đổi cơ cấu sản xuất. Điều đó giúp doanh nghiệp thích
nghi với tình hình thị trường cũng như đặc thù của chính doanh nghiệp tạo
điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Về dài hạn, các
doanh nghiệp luôn chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, xây dựng nhà
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
xưởng, mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ để không ngừng nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí đến mức tối thiểu. Đặc biệt
đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn xây dựng cơ bản là rất
lớn trong lúc các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều, chưa có nhiều
thời gian để tích luỹ vốn, tâm lý đầu tư trực tiếp của công chúng vào các
doanh nghiệp còn hạn chế.
Việc vay vốn trung và dài hạn ở ngân hàng thương mại sẽ làm cho
doanh nghiệp có thể tự chủ và có khả năng kiểm soát độc lập được hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình mà không phải phân chia
quyền kiểm soát với các cổ đông nếu huy động vốn bằng phát hành cổ
phiếu.
- Tín dụng trung và dài hạn còn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp
trong việc thoả mãn và chớp cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh,
các doanh nghiệp có thể nhanh chóng vay vốn của Ngân hàng để mở rộng
sản xuất kinh doanh, gia tăng sản lượng để chiếm lĩnh thị trường. Khi doanh
nghiệp đi vay vốn trung dài hạn tại Ngân hàng thương mại sẽ có thể điều
chỉnh được kỳ hạn nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn thời gian đến hạn
trả nợ khi họ không cần đến việc sử dụng vốn trung và dài hạn nữa. Khi
doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ tại một thời điểm nhất định nào
đó thì có xin Ngân hàng gia hạn nợ. Ngoài ra, tín dụng trung và dài hạn
tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký...
Việc trả nợ trung và dài hạn cũng được xây dựng theo một sự phân chia
ổn định và hợp lý do đó doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các nguồn
trả nợ một cách dễ dàng hơn.
2.2. Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với nền kinh tế
- Tín dụng trung và dài hạn thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn,
điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Với chức năng là trung
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
gian tài chính, các Ngân hàng tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế và cho vay đối với các đối tượng có nhu cầu điều đó được thể hiện rõ
trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng, nó giúp các doanh
nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung hoạt động một cách liền mạch
không ngắt quãng và là một kênh truyền dẫn vốn có hiệu quả. Thông qua
cho vay trung và dài hạn mà xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ,
góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển nền
kinh tế. Hoạt động tín dụng thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh chu
chuyển tiền tệ, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng.
- Tín dụng trung và dài hạn cũng có vai trò quan trọng trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn,
tăng tỷ trọng các ngành sản xuất vật chất là nền tảng cho phát triển kinh tế
đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài. Đầu tư cho vay trung
dài hạn trực tiếp hay gián tiếp góp phần phát triển khoa học công nghệ, tạo
công ăn việc làm, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống của dân cư, phát triển
lực lượng lao động, giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
- Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế
đối ngoại. trong điều kiện hiện nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
luôn gắn với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng trước đây đã nhường bước
cho nền kinh tế mở phát triển. Tín dụng trung và dài hạn đã trở thành một
trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau dưới các hình
thức: tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, tín dụng hỗ trợ phát triển, cho vay viện
trợ...
Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là nhiệm vụ có ý nghĩa với sự
phát triển kinh tế trong cả hiện tại và tương lai. Vấn đề này càng trở nên cấp
thiết với thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay: Nhu cầu vốn cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là rất lớn trong khi việc sử dụng vốn còn có
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
nhiều bất cập, hiệu quả sử dụng vốn không cao, còn thất thoát và gây lãng
phí lớn.
2.3. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động của Ngân
hàng Thương mại .
- Tín dụng trung và dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân
hàng, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Tín dụng
trung dài hạn cả về số lượng và chất lượng là hoạt động mang tính chiến
lược của các Ngân hàng Thương mại. Với những khoản tín dụng trung và
dài hạn có quy mô lớn và lãi suất cao, thời gian dài, tín dụng trung và dài
hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng. Do vậy tín dụng trung và
dài hạn mang lại thu nhập chủ yếu trong tổng thể các hoạt động của Ngân
hàng Thương mại từ trước đến nay.
- Khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng chính là ngân hàng đang
tạo ra và duy trì khách hàng của mình trong tương lai. Tạo điều kiện để
Ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng định
vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế. Khi Ngân hàng không đa dạng hoá
hoạt động cho vay, đa dạng hoá khách hàng, thời hạn vay tiền thì ngân hàng
không thể đứng vững được trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh
gay gắt của các Ngân hàng khác. Mặt khác, tín dụng trung và dài hạn còn là
công cụ cạnh tranh hiệu quả của Ngân hàng nhằm thu hút khách hàng về
phía mình. Khi có được mối quan hệ, Ngân hàng có điều kiện lôi kéo khách
hàng sử dụng các dịch vụ khác do mình cung cấp
- Mặt khác tín dụng trung và dài hạn còn là cách thức khả thi để giải
quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi ngân hàng thương mại. Đồng
thời là cách để Ngân hàng gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn
cho các doanh nghiệp. Vì vậy cần phải nâng cao chất lượng tín dụng trung
và dài hạn để giải quyết vấn đề huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, thu
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
được lợi nhuận qua đó phát triển hoạt động của mình, tăng cường khả năng
cạnh tranh với các Ngân hàng khác.
III. NỘI DUNG NGHIỆP VỤ CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN.
3.1. Mục đích cho vay.
Nếu như tín dụng ngắn hạn được cho vay chủ yếu để bổ sung vào nguồn
vốn lưu động của doanh nghiệp, thì tín dụng trung và dài hạn lại nhằm đầu
tư vào các dự án có thời gian tương đối dài như mua sắm máy móc thiết bị,
đổi mới trang thiết bị và công nghệ, xây dựng sửa chữa nhà xưởng cơ sở vật
chất kỹ thuật nhằm đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, và phát triển
trong tương lai của doanh nghiệp.
3.2. Đối tượng cho vay.
Với mục đích cho vay như trên, nên đối tượng cho vay của tín dụng trung
và dài hạn là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án không
phân biệt thành phần kinh tế, là tổ chức, cá nhân hay là doanh nghiệp, bao
gồm: giá trị vật tư, máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao, chi phí nhân
công, giá thuế và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản, chi phí
mua bảo hiểm và các chi phí khác.
3.3. Điều kiện cho vay
Để được vay vốn, đơn vị xin vay phải gửi đến ngân hàng đơn xin vay,
luận chứng kinh tế, kỹ thuật và dự toán đã được thẩm định và cấp trên phê
duyệt và các báo cáo tài chính của mình trong một vài năm trước. Ngoài ra,
đơn vị xin vay phải gửi đến Ngân hàng bản tính toán hiệu quả của dự án, lợi
nhuận mà dự án mang lại qua các năm, các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh
lợi của dự án như NPV, IRR...Bên cạnh đó có tính toán đầy đủ các số tiền
xin vay, các nguồn trả nợ và lệnh trả nợ. Ngân hàng cho vay sẽ xem xét kỹ
các tài liệu nhằm đánh giá đầy đủ khả năng của đơn vị vay vốn trước khi
quyết định cho vay, tình hình tài chính và nghiã vụ của họ với Nhà nước và
các tổ chức tàichính như thế nào.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Khi ngân hàng quyết định cho các doanh nghiệp vay trung và dài hạn,
ngân hàng cần phải nắm chắc hiệu quả của phương án, dự án, chương trình
sản xuất của bên vay vốn.
Một trong các điều kiện để cho các Ngân hàng Thương mại cho vay là
thế chấp. Đó cũng là đảm bảo tín dụng được thực hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau nhưng nhìn chung có thể chia làm hai loại: đảm bảo đối vật và
đảm bảo đối nhân.
- Đảm bảo đối vật: đảm bảo đối vật là hình thức đảm bảo tín dụng mà
trong đó Ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền
hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ
trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không có khả năng trả nợ. Có 2
hình thức đảm bảo đối vật chính là thế chấp và cầm cố.
+ Thế chấp là phương tiện chuyển dịch quyền lợi về tài sản sang cho
chủ nợ với mục đích làm đảm bảo cho món nợ hoặc miễn trừ một nghĩa vụ.
Người đi vay được gọi là người thế chấp và người cho vay được gọi là
người được thế chấp.
+ Cầm cố là hành vi giao nộp tài sản hoặc các chứng từ chứng nhận
quyền sở hữu tài sản của con nợ (người được cầm cố) để thực hiện một
nghĩa vụ. Nghĩa vụ cầm cố trong quan hệ tín dụng là người đi vay thực hiện
nghĩa vụ hoàn trả nợ đúng hạn hợp đồng. Trong trường hợp người đi vay
không thanh toán nợ đúng hạn theo hợp đồng thì Ngân hàng có quyền bán
tài sản cầm cố và được ưu tiên thu nợ trước các chủ nợ khác. Những loại tài
sản cầm cố thông dụng để đảm bảo cho vay Ngân hàng gồm: cầm cố hàng
hoá, chiết khấu thương phiếu, cầm cố các chứng khoán khác.
- Đảm bảo đối nhân: Đảm bảo đối nhân là sự cam kết của một hoặc
nhiều người về việc trả nợ Ngân hàng thay cho khách hàng vay vốn khi
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
người này không trả được nợ. Trong đảm bảo đối nhân có 3 chủ thể liên
quan với nhau như sau:
1: Hợp đồng tín dụng được ký giữa ngân hàng và người đi vay.
2: Hợp đồng bảo lãnh được ký giữa ngân hàng và người bảo lãnh.
Khi xét duyệt một bảo lãnh ngân hàng cần chú ý đến một số điểm như sau:
+ Người bảo lãnh phải có đủ năng lực bảo lãnh theo quy định của pháp
luật. Nếu là pháp nhân thì người đứng ra bảo lãnh phải là người đại diện hợp
pháp của pháp nhân.
+ Thể nhân hoặc pháp nhân đứng ra bảo lãnh phải có đủ năng lực tài
chính để thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.
+ Uy tín của người bảo lãnh.
Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay nhưng phải
thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất hay nói cách khác
không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên trong thời gian
qua, các Ngân hàng thương mại nước ta vẫn xếp đảm bảo tiền vay vào vị trí
số một
3.4. Nguồn vốn
Ngân hàng có thể sử dụng các nguồn vốn sau để cấp tín dụng trung
và dài hạn cho khách hàng.
- Vốn tự có: Đây là nguồn vốn chủ yếu hình thành nguồn vốn cho vay
trung và dài hạn của các Ngân hàng Thương mại góp vốn hoặc tích luỹ trong
quá trình kinh doanh. Các Ngân hàng Thương mại có vốn tự có lớn sẽ có
nhiều ưu thế trong cho vay trung dài hạn. Đối với các Ngân hàng Thương
Người đi vay Ngân hàng Người bảo lãnh
1 2
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
mại Việt Nam hiện nay thì đây là một trở ngại vì vốn tự có của bản thân mỗi
ngân hàng còn rất nhỏ bé so với nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế.
- Ngân hàng có thể huy động vốn của dân cư dưới hình thức phát hành
trái phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn để cho vay trung
dài hạn. Nguồn vốn này hiện nay rất hạn chế do dân chúng ít người muốn
gửi tiền dài hạn và kỳ hạn của trái phiếu huy động không dài.
- Vốn vay từ Ngân hàng Trung ương: Nguồn tiền này cũng bị hạn chế
vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
- Vay nợ nước ngoài để cho vay trung dài hạn: Đây là một hình thức
được các Ngân hàng trên thế giới sử dụng thường xuyên với khối lượng lớn.
Ưu điểm của nguồn vốn này là có khối lượng lớn và lãi suất chấp nhận được
nhưng các Ngân hàng chỉ nên sử dụng nguồn vốn này nếu có dự án đầu tư
có hiệu quả cao tránh việc không hoàn trả được nợ vay.
- Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự
án đầu tư của Nhà nước, tổ chức kinh tế-tài chính, tín dụng, xã hội trong và
ngoài nước. Đặc điểm của nguồn vốn này là không ổn định, các dự án đầu tư
thường được chỉ định trước, Ngân hàng chỉ là người trung gian đóng vai trò
quản lý, giải ngân và thu hồi vốn đầu tư mà không có quyền lựa chọn.
- Ngoài những nguồn vốn trên, đối với các Ngân hàng quốc doanh Việt
nam thì hàng năm các Ngân hàng này còn nhận được một khoản vốn điều lệ
từ Ngân hàng Trung ương. Đó cũng là nguồn vốn hình thành vốn vay trung
và dài hạn tại các Ngân hàng Thương mại, nhất là đối với dự án vay theo sự
chỉ định của Chính phủ.
3.5. Thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là trên 1 năm, được xác định căn cứ vào yêu cầu của
dự án, khả năng trả vốn của dự án đầu tư và tính chất nguồn vốn của bên cho
vay. Thời gian cho vay được tính từ khi bên vay nhận được khoản vốn đầu
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
tiên cho đến khi trả hết nợ. Thông thường, Ngân hàng căn cứ vào thời gian
khấu hao để để xác định thời gian cho vay. Thời gian cho vay ngắn hơn hoặc
dài hơn quá nhiều so với thời gian khấu hao đều ảnh hưởng tới quá trình
hoàn trả của khách hàng vì khấu hao từ tài sản là một trong những nguồn
chủ yếu để trả nợ cho khách hàng. Thời hạn cho vay bao gồm thời gian ân
hạn (nếu có) và thời gian trả nợ.
- Thời gian ân hạn được tính tương xứng với thời gian xây dựng công
trình, thời gian lắp đặt máy móc và sản xuất thử sản phẩm.
- Thời gian trả nợ: tuỳ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị
vay, tuỳ vào khả năng thu nhập của bên vay mà hai bên thoả thuận kỳ hạn
trả nợ và số tiền trả nợ từng kỳ.
3.6. Lãi suất cho vay
Về cơ bản, khoản đầu tư có kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng lớn. Vì thế lãi
suất cho vay trung dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi
suất cho vay được xác định tuỳ vào dự án, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư,
chính sách của ngân hàng cũng như sự thoả thuận giữa Ngân hàng và khách
hàng.
Lãi suất cho vay có thể được tính theo lãi suất cố định hoặc lãi suất biến
động. Lãi suất cố định là lãi suất giữ nguyên không thay đổi trong suốt thời
kỳ thực hiện hợp đồng. Lãi suất biến đổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống
trong thời hạn vay. Trong cho vay trung dài hạn, phần lớn các ngân hàng sử
dụng lãi suất biến đổi để tránh rủi ro cho ngân hàng và người vay khi lãi suất
trên thị trường biến động. Thông thường, đối với các khoản vay trung và dàI
hạn tại các Ngân hàng Thương mại thì lãi suất được đIều chỉnh 6 tháng một
lần và được tính theo công thức sau: lãi suất đIều chỉnh = lãi suất huy động
tiết kiệm 12 tháng + 0,1%/tháng
3.7. Hạn mức tín dụng
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời
hạn nhất định mà Ngân hàng có thể cung cấp cho một khách hàng theo thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng.
Hạn mức tín dụng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố:
- Quy định của Ngân hàng Nhà nước, mục tiêu của chính sách tiền tệ trong
từng thời kỳ.
- Hạn mức tín dụng còn phụ thuộc vào chính bản thân các Ngân hàng
Thương mại, vào khối lượng vốn huy động của Ngân hàng càng lớn thì mức
tín dụng mà Ngân hàng có thể cung cấp cho từng khách hàng càng nhiều, và
vào chính sách tín dụng của Ngân hàng Thương mại từng thời kỳ và đối với
mỗi dự án cũng có khác nhau.
- Nhu cầu vay vốn của người vay, tình hình tài chính và uy tín của
người vay ảnh hưởng trực tiếp tới hạn mức tín dụng. Các Ngân hàng
Thương mại thường căn cứ vào tình hình tài chính của khách hàng có tốt
hay không, uy tín của họ với các tổ chức tài chính để ra quyết định hạn mức
tín dụng.
- Sự ổn định hay bất ổn của nền kinh tế. Khi nền kinh tế bất ổn thì rủi
ro trên thị trường sẽ cao nên. Do vậy khả năng thu hồi vốn sẽ xấu đi.
8. Thẩm định dự án
Khi tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn, Ngân hàng cần chú ý thẩm định
hai nội dung: Thẩm định chủ đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. Trong khâu
thẩm định, Ngân hàng cần nắm chắc phương diện tài chính của dự án nhằm
xác định được đầy đủ hiệu quả của dự án thể hiện trên các chỉ tiêu: khả năng
sinh lời, thời gian hoàn vốn và điểm hoà vốn.
* Thẩm định chủ đầu tư
Mục đích của việc thẩm định chủ đầu tư là để xem xét chủ đầu tư có
nguyện vọng cũng như khả năng trả nợ cho Ngân hàng hay không, nói cách
khác là để thẩm định xem có nhu cầu vay vốn thực sự, tránh trường hợp
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
khách sử dụng vốn vào mục đích khác. Khi thẩm định chủ đầu tư, Ngân
hàng cần xem xét các vấn đề sau đây:
- Xem xét về tư cách pháp nhân của chủ đầu tư để có thể biết được
chủ đầu tư có khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật hay không.
- Phân tích về uy tín của chủ đầu tư nhằm thấy được địa vị của chủ
đầu tư. Uy tín của chủ đầu tư rất quan trọng vì những người chủ đầu tư có
uy tín lớn thì họ sẵn sàng tìm mọi cách để trả nợ Ngân hàng.
- Phân tích năng lực tài chính của chủ đầu tư nhằm thấy được khả
năng tự cân đối các nguồn tiền của chủ đầu tư có thể sử dụng được khi cần
thiết. Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá năng lực tài chính của
doanh nghiệp là: hệ số tài trợ, khả năng thanh toán chung, khả năng thanh
toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời.
Sau khi phân tích khả năng tài chính, Ngân hàng cần xem xét đến khả
năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, sự tín nhiệm và năng lực sản
xuất.
* Thẩm định dự án đầu tư
Sau khi tiến hành thẩm định chủ đầu tư, Ngân hàng tiến hành thẩm
định dự án đầu tư.
- Thẩm định phương diện thị trường: Bước thẩm định này rất quan
trọng đối với dự án sản phẩm mới, mở rộng thị trường sản phẩm.
Nghiên cứu thị trường nhằm giúp Ngân hàng thấy được xu thế tương
lai của sản phẩm mà dự án sản xuất ra: sản phẩm đó có được thị trường chấp
nhận hay không, nhiều hay ít, thị hiếu của người tiêu dùng đối với sản phẩm,
các sản phẩm cùng loại trên thị trường...
+ Nghiên cứu khả năng tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian
qua, các hợp đồng bao tiêu sản phẩm cùng các văn bản giao dịch về sản
phẩm như đơn đặt hàng, biên bản đàm phán ...Để thấy được doanh thu ước
lượng của dự án qua các năm.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
+ Nghiên cứu khả năng cạnh tranh: Nghiên cứu khả năng cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường là rất quan trọng. Có tiêu thụ được sản phẩm
mới thu được lợi nhuận, điều này phản ánh sự tồn tại của sản phẩm cũng
như của doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó còn phải đánh gia sản
phẩm các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, giá cả của nó, tỷ trọng chiếm
lĩnh thị trường, đánh gía của người tiêu dùng về sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh. Ngoài ra, còn phải tính đến các sản phẩm thay thế đang lưu hành trên
thị trường và giá cả của nó cũng như các đối thủ tiềm tàng trong tương lai.
- Thẩm định phương diện kỹ thuật: Phân tích quy mô dự án và công
nghệ, trang thiết bị nhằm thấy được sự phù hợp của dự án với sự tiêu thụ sản
phẩm cũng như sử dụng trang thiết bị hợp lý. Thẩm định trình độ tiên tiến
của công nghệ, thời gian ra đời công nghệ mới. Thẩm định khả năng cung
cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác. Thẩm định phương diện tổ
chức, quản lý thực hiện và vận hành dự án để có thể chọn được đơn vị thiết
kế, thi công làm việc có hiệu quả nhất.
- Thẩm định tài chính dự án đầu tư: Cán bộ tín dụng tiến hành phân
tích các chỉ tiêu về mặt tài chính của dự án xin vay bao gồm khả năng trả nợ,
sản lượng hoà vốn, điểm hoà vốn tiền tệ, điểm hoà vốn trả nợ, NPV, IRR.
- Phân tích các trường hợp rủi ro có thể xảy ra đối với dự án: Trường
hợp sản lượng giảm, chi phí biến đổi tăng, đơn vị giá bán giảm, sự lạc hậu
của công nghệ dẫn đến sự cạnh tranh của các sản phẩm giảm, các thay đổi
về chính sách kinh tế của Nhà nước...
Sau khi tiến hành giải ngân, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra
việc sử dụng vốn vay có đúng với mục đích xin vay hay không, định kỳ
kiểm tra tình hình vận hành dự án trong sản xuất kinh doanh. Nếu thấy
doanh nghiệp sử dụng sai mục đích thì phải báo cáo ngay với lãnh đạo để xử
lý kịp thời và áp dụng các chế tài đã ghi trong hợp đồng tín dụng.Chuẩn bị
đến thời kỳ trả nợ gốc và lãi, cán bộ tín dụng phải lập phiếu nhắc thu nợ để
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
doanh nghiệp chuẩn bị đồng thời phối hợp với nhân viên kế toán theo dõi
thu nợ gốc và thu lãi.
Khi hết hạn hợp đồng tín dụng mà khách hàng không trả được hết nợ thì
cán bộ tín dụng chuyển phần dư nợ tín dụng còn lại sang theo dõi trên tài
khoản nợ quá hạn, xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, có biện pháp
xử lý kịp thời, có thể gia hạn nợ hoặc có thể phát mại tài sản thế chấp, cầm
cố để thu hồi nợ. Nếu hết hạn hợp đồng tín dụng khách hàng đã thanh toán
đầy đủ cả gốc và lãi thì cán bộ tín dụng cùng khách hàng tiến hành thanh lý
hợp đồng tín dụng.
IV. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
1. Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển được, các doanh
nghiệp phải trả lời ba câu hỏi lớn đó là: sản xuất cái gi? Sản xuất cho ai? Và
sản xuất bằng cách nào? đây là ba vấn đề cơ bản mà các doanh nghiệp gặp
phải trong nền kinh tế thị trường. Để làm được đIều này các doanh nghiệp
phảI quan tâm đến một yếu tố rất quan trọng đó là chất lượng của sản phẩm.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ trên
thị trường, những khoản cho vay cũng là một sản phẩm, nó cũng có giá cả
và chất lượng như những hàng hoá khác.
Chất lượng của một khoản tín dụng là : "Mức độ đáp ứng yêu cầu của
khách hàng (cả người vay lẫn người cho vay tiền), phù hợp với các điều kiện
kinh tế - xã hội và điều kiện đặc thù của bản thân ngân hàng, đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng “
Chất lượng cho vay được xem xét trên những góc độ:
- Đối với khách hàng: Đó là vay được tiền phù hợp với mục đích sử
dụng với các điều khoản về lãi suất, kỳ hạn nợ, thủ tục đơn giản, thuận tiện
đảm bảo thanh toán phù hợp với lợi ích của khách hàng và luật pháp hiện
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
hành nhằm đảm bảo khả năng duy trì và mở rộng sản xuất, tăng cường hiệu
quả sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Đối với Ngân hàng thương mại: cho vay cung cấp phù hợp với thực
lực tài chính và quản lý của Ngân hàng, phù hợp với chiến lược khách hàng,
phù hợp với nguyên tắc cho vay, chiến lược cạnh tranh và phát triển, đảm
bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi với giá thành hợp lý, đảm bảo
việc tuân thủ pháp luật hiện hành và thực hiện vai trò của Ngân hàng trong
nền kinh tế thị trường.
- Đối với nền kinh tế: Cho vay cung cấp đáp ứng được nhu cầu vốn cho
sản xuất kinh doanh hàng hóa, đảm bảo cung cấp vốn đầy đủ, kịp thời và có
hiệu quả cho việc duy trì sản xuất. Mở rộng kinh doanh, tăng cường hiệu
quả và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp, góp phần giải quyết các
vấn đề xã hội như tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, xây dựng các vùng
kinh tế mới, tạo điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia...
Như vậy, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề về cách tiếp cận khái
niệm chất lượng cho vay hay chất lượng tín dụng:
-Đây là một khái niệm tương đối: nó vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ
tiêu tính toán như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) lại vừa trừu tượng (thể
hiện qua năng lực thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...).
- Chất lượng cho vay là một chỉ tiêu tổng hợp và được xác định qua
nhiều yếu tố như: lãi, mức độ an toàn vốn của kinh doanh, khả năng đáp ứng
nhu cầu vốn của khách hàng....
2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Như ta đã phân tích ở trên dựa vào quan điểm về chất lượng tín dụng
ta thấy chất lượng tín dụng thể hiện ở sự hài lòng của khách hàng khi đến
với Ngân hàng tuy không đưa ra những chỉ tiêu cụ thể nhưng qua giao dịch
hàng ngày với khách hàng Ngân hàng sẽ nhận thấy hiệu quả của chất lượng
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
tín dụng qua số lượng khách hàng qua các thời kỳ lượng tín dụng cấp được
độ thoả mãn của khách hàng qua thái độ của họ cũng như truyền thống giao
dịch của họ cũng như góp ý của khách hàng. Để biết những phản ứng của
khách hàng trong chiến lược khách hàng ngân hàng nên tìm hiểu để có
những điều chỉnh phù hợp để đạt mục tiêu đề ra.
Để đánh giá chất lượng công tác tín dụng của Ngân hàng, người ta
thường so sánh kết quả hoạt động năm nay với năm trước, của Ngân hàng
với tình hình của toàn hệ thống Ngân hàng và chủ yếu sử dụng các chỉ số
tương đối. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác tín dụng
thường được sử dụng
* Chỉ tiêu về huy động vốn trung và dài hạn :
Vốn trung và dài hạn /Tổng nguồn vốn huy động : phản ánh cơ câu vốn
trung và dài hạn của Ngân hàng và khả năng cung ứng vốn cho đầu tư và
phát triển. Ngân hàng không có cơ hội mở rộng hoạt động tín dụng nếu như
tỷ lệ này quá thấp.
* Mức tăng doanh số cho vay: Trong điều kiện đáp ứng yêu cầu về
giới hạn an toàn do Ngân hàng Trung ương qui định trong từng thời kỳ thì
mức tăng này càng lớn càng tốt. Chỉ tiêu mức tăng doanh số cho vay trên thị
trường I trên tổng tài sản thể hiện khả năng sinh lời của các sản phẩm cho
vay của các Ngân hàng thương mại và được dùng để đánh giá chất lượng
cho vay trong từng thời kỳ.
* Dư nợ tín dụng trung và dài hạn: phản ánh lượng vốn trung và dài
hạn đã được giải ngân tại một thời điểm cụ thể
* Vòng quay vốn tín dụng: Được xác định bằng doanh số cho vay trong
kỳ chia cho dư nợ bình quân trong kỳ. Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ
chức, quản lý vốn tín dụng, đồng thời thể hiện chất lượng cho vay của Ngân
hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn cho vay và đáp ứng nhu cầu
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
của khách hàng, để có thể đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, hoặc
được qui đổi đồng nhất trong việc áp dụng cho từng loại vay cụ thể.
* Ngân hàng cũng cần quan tâm xem xét đến chỉ tiêu: Dư nợ tín dụng
trung và dài hạn / Tổng dư nợ : cho biết tỷ trọng vốn trung dài hạn lớn hay
nhỏ trong tổng dư nợ
* Doanh số thu nợ trung và dài hạn : Phản ánh lượng vốn trung và dài
hạn mà ngân hàng đã cho vay và đã thu hồi về
* Hiệu quả sử dụng vốn vay: lợi nhuận hoặc hiệu quả xã hội được tạo ra
từ vốn vay ngân hàng). Thông thường ngân hàng đánh giá định kỳ xem xét
mức độ hiệu quả này từ đó tìm kiếm các biện pháp hợp lý để quản lý và
nâng cao chất lượng tín dụng.
· Nhóm chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ có vấn đề:
* Tỷ lệ nợ quá hạn= Nợ quá hạn các loại trong kỳ/Tổng dư nợ bình
quân
Để tỷ lệ này phản ánh đúng chất lượng cho vay nên loại trừ các khoản nợ
khoanh ra khỏi nợ quá hạn cũng như loại trừ các khoản cho vay ưu đãi và
cho vay theo chỉ định của Nhà nước ra khỏi tổng dư nợ.
* Tỷ lệ nợ quá hạn thông thường (cho các khoản nợ dưới 180 ngày) chỉ
tiêu này có ý nghĩa với ban lãnh đạo ngân hàng thương mại trong việc đốc
thúc cán bộ cho vay thu nợ đúng hạn. Tuy vậy, nó chưa phản ánh chính xác
chất lượng cho vay bởi có những khoản vay do khách quan mà doanh
nghiệp không tính toán được hợp lý nguồn tiền mặt để trả nợ đúng hạn
nhưng doanh nghiệp có khả năng trả nợ vào một thời gian ngắn sau đó.
* Tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng: áp dụng cho các khoản nợ quá hạn từ 6-12
tháng. Đây là khoản nợ quá hạn có vấn đề với ngân hàng, thể hiện chất
lượng cho vay của khoản vay kém. Ngân hàng nếu không có biện pháp xử lý
khoản nợ này sẽ phải gánh chịu những tổn thất.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
* Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi (nợ quá hạn có khả năng mất trắng): áp dụng
cho nợ quá hạn trên một năm. Nếu tỷ lệ này cao, ngân hàng không những
phải gánh chịu rủi ro cho vay cao, chất lượng cho vay kém mà ngân hàng
còn có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Việc đòi nợ với những khoản vay
này là rất khó khăn và tổn thất là điều rất có thể xảy ra.
* Tỷ lệ tổn thất so với tổng nguồn vốn: qui mô các khoản nợ tổn thất
được thể hiện qua các khoản nợ trình hội đồng cho vay của ngân hàng xem
xét xoá nợ hàng kỳ. Nếu tỷ lệ này quá lớn, chất lượng cho vay không được
cải thiện đồng thời khả năng thanh toán của ngân hàng cũng bị lung lay,
Ngân hàng cần phải duy trì tỷ lệ này ở mức càng gần bằng không càng tốt.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng
trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại
3.1. Các nhân tố bên ngoài
3.1.1. Môi trường pháp lý:
Các nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Tính
đẩy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá
trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.
Môi trường pháp lý tạo hành lang cho kinh doanh tín dụng Ngân hàng,
Ngân hàng hoạt động trong hành lang hẹp được kiểm soát chặt chẽ bởi Nhà
nước vì đây là lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm cần phải kiểm soát hậu quả
của nó, tuy vậy không phải là không cần còn nhiều bất cập. Hiện nay, điều
kiện cho vay đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gần như
bắt buộc là phải thế chấp tài sản trong khi đó chúng ta chưa có Luật về sở
hữu nên không có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài
sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản. Vì thế trong nhiều
trường hợp Ngân hàng khó có thể xác định chính xác chủ sở hữu của tài sản
đó, hoặc phải lấy chứng nhận của cơ quan nào về nguồn gốc tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc nguồn gốc số tiền trả nợ là hợp pháp. Mặt khác, pháp luật
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
cho phép các doanh nghiệp thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nhưng lại phải
có điều kiện gắn với tài sản thuộc quyền sở hữu của chính mình cho nên quy
định này khó có thể được áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Các qui định của pháp luật và các yêu cầu giải quyết các tranh chấp tố
tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự phát mại tài sản, bán đấu giá còn
chưa rõ ràng, cụ thể. Có văn bản thì qui định cho ngân hàng có quyền phát
mại tài sản trên đất để thu hồi vốn và lãi, có văn bản thì qui định ngân hàng
có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp (cả quyền sử dụng đất - Điều
359 BLDS). Nhưng đến nghị định 86/Chính phủ thì ngân hàng không có
quyền phát mại, bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp. Việc bán đấu giá
quyền sử dụng đất lại phải có sự chấp nhận của UBND cấp có thẩm quyền
cho phép. Thời gian khởi kiện vụ án kinh tế quá dài, tố tụng về hợp đồng
kinh tế, hợp đồng dân sự thì rườm rà, phức tạp. Quy định về việc vô hiệu
hợp đồng quá rộng, các biện pháp cưỡng chế dân sự để thu hồi tài sản trả
cho ngân hàng còn chưa đầy đủ và tính khả thi trong thực tế còn chưa cao.
Thực chất là các ngân hàng còn rất ngại khởi kiện để tranh tụng về kinh tế
và dân sự. Đặc biệt là pháp luật còn chưa quy định rõ cụ thể trách nhiệm của
người trực tiếp cầm tiền, người sử dụng tiền vay để ngăn chặn hành vi lừa
đảo, lẫn lộn giữa trách nhiệm của người vay với trách nhiệm của cán bộ
ngân hàng, đồng thời còn rất khó phân biệt giữa kinh tế với dân sự, hình sự,
lẫn lộn trách nhiệm hành chính, hình sự.
Việc quản lý của Nhà nước, quản lý kinh doanh của NHNN đối với
ngân hàng cấp dưới, các ngân hàng cổ phần còn chưa chặt chẽ, đầy đủ đúng
với chức năng là ngân hàng của các ngân hàng. NHNN chủ yếu mới chỉ
quản lý điều hành bằng mệnh lệnh, văn bản vừa cứng nhắc vừa không cụ thể
và không nắm được tình hình và hỗ trợ cho ngân hàng cấp dưới.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
3.1.2. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh doanh còn chưa ổn định. Các chính sách và cơ chế
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới và hoàn
thiện, đòi hỏi phải thật năng động, nhiều doanh nghiệp chưa điều chỉnh kịp
kế hoạch kinh doanh với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô hoặc có
trường hợp ngộ nhận nhu cầu thị trường dẫn đến phát triển tràn lan quá mức.
Ví dụ về các trường họp phát triển xi măng, mía đường, gốm sứ xây dựng,
gạch cao cấp... vẫn còn đang rất nóng hổi. Vì thế có nhiều doanh nghiệp bị
thua lỗ do không theo kịp với quá trình thay đổi chính sách quản lý kinh tế
mà hậu quả là ngân hàng cho vay phải gánh chịu. Sự biến động về chính trị,
thay đổi về chính quyền cũng tác động tới niềm tin của dân chúng, của các
nhà đầu tư qua đó ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng.
Nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào sự tăng
trưởng kinh tế . Một nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng ổn định,
môi trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng là cơ
hội rất tốt cho các doanh nghiệp đẩu tư mở rộng sản xuất do đó nhu cầu tín
dụng ngân hàng trong giai đoạn này là rất cao. Ngân hàng cũng dễ dàng cho
vay vì khả năng gặp rủi ro mất vốn là rất thấp. Trái lại trong giai đoạn kinh
tế trì trệ, giảm phát, thất nghiệp cao, đầu tư không mang lại hiệu quả, dễ thất
bại, ngay cả nếu có thành công thì chưa chắc thu nhập đó đã cao bằng tiền
gửi ngân hàng cùng kỳ hạn. Thay vì đầu tư vào sản xuất, các doanh nghiệp
đem số tiền đó gửi vào ngân hàng để hưởng lãi. Ngân hàng không cho vay
được cũng không thể không nhận tiền gửi của khách hàng, hoạt động của
ngân hàng bi ngưng trệ, vốn của ngân hàng nằm trong tình trạng bị đóng
băng không cho vay được. Không chỉ tình hình kinh tế trong nước mà tình
hình kinh tế thế giới cũng có ảnh hưởng tới chất lượng công tác tín dụng
ngân hàng. Khi thị trường thế giới biến động mạnh, đặc biệt là ở các thị
trường xuất nhập khẩu truyền thống làm cho hoạt động xuất nhập khẩu giảm
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
sút, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu không bán được hàng,
chịu thua lỗ, ảnh hưởng tới công tác trả nợ ngân hàng.
3.2. Các nhân tố từ phía khách hàng
Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng bị hạn chế
là một nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Hồ sơ xin vay ban đầu của
khách hàng là có hiệu quả và có tính khả thi cao nhưng trong quá trình thực
hiện do trình độ quản lý còn thấp nên năng suất, chất lượng, hiệu quả không
đạt được như kế hoạch. Khi thị trường biến động lại không có biện pháp xử
lý kịp thời nên không ứng phó được, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ khó khăn
dẫn đến không trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng.
Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, không đúng với phương
án kinh doanh đã đề ra. Nhiều khách hàng dùng tiền vay được đầu tư vào
những kế hoạch sản xuất có rủi ro cao nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận, sử
dụng vốn của ngân hàng để vui chơi, dùng vốn ngân hàng đầu tư vào tài sản
cố định, kinh doanh bất động sản nên không trả được nợ cho ngân hàng.
Trong thực tế, hoạt động thẩm định đã xuất hiện nhiều trường hợp khách
hàng lập phương án kinh doanh (thực chất là phương án kinh doanh giả,
thậm chí nhờ tư vấn lập phương án kinh doanh chỉ để rút được tiền của ngân
hàng) có vẻ rất hiệu quả, ký kết hợp đồng kinh tế chứng minh đầu vào, đầu
ra rất khả thi, tài sản thế chấp rất cụ thể nhưng đến khi vay được vốn ngân
hàng lại không kinh doanh lại cho vay lại hoặc bỏ trốn để chiếm số tiền vay,
vật tư hàng hóa thế chấp là hàng chậm luân chuyển, ứ đọng hoặc bất động
sản rất khó chuyển thành tiền để thu nợ.
Các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tín dụng thương mại
ngày càng giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế. Để cạnh tranh, để
thu hút khách hàng. Để tiêu thụ được sản phẩm doanh nghiệp thường chấp
nhận cho khách hàng thanh toán chậm. Tuy nhiên do nước ta chưa có luật về
thương phiếu, việc giải quyết tranh chấp còn nhiều khúc mắc nên nhiều
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
doanh nghiệp đã sử dụng tín dụng thương mại như một phương tiện để
chiếm dụng vốn lẫn nhau vì đây là lượng vốn không phải trả hoặc chỉ phải
trả với chi phí rất thấp so với lãi suất đi vay cùng loại và các hình thức hoạt
động khác. Thậm chí một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên có hành vi lừa
đảo, cố tình chiếm dụng vốn của người khác. Chính điều này ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của khách hàng, đến các nguồn thu của khách hàng
dành trả nợ qua đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Nhiều doanh nghiệp Nhà nước không theo kịp với sự đổi mới, thường
có thói quen dựa dẫm, trông chờ vào Nhà nước, vốn tự có của họ rất ít
nhưng lại được giao những nhiệm vụ kinh doanh sản xuất lớn. Hơn nữa, họ
quen với kiểu làm ăn bao cấp cho nên khi chuyển sang cơ chế thị trường tự
hạch toán kinh doanh, họ vay vốn ngân hàng để kinh doanh nhưng khi thua
lỗ vẫn trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước như trước đây. Điều này ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
vì tín dụng trung và dài hạn cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước đang chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu cho vay của ngân hàng.
Khách hàng thiếu các điều kiện cần và đủ để thực hiện các nguyên tắc
và quy định cho vay, thế chấp ngân hàng. ước tính sơ bộ hiện nay có đến
80% tài sản của các pháp nhân và cá nhân khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
và gần 100% tài sản của doanh nghiệp Nhà nước không có giấy chứng nhận
sở hữu tài sản cố định phần lớn là nhà xưởng (theo báo cáo kết quả kinh
doanh năm 2002 của NHNo&PTNT Hà Nội), máy móc, thiết bị lạc hậu
không đủ các tiêu chuẩn để thế chấp. Trong khi đó, yêu cầu vay vốn của
khác hàng gấp 20 đến 50 lần, có doanh nghiệp lên đến hàng trăm lần, như
vậy thì nếu cho vay theo đúng chế độ thì hầu hết các doanh nghiệp không đủ
điều kiện để cho vay hoặc được vay không đáng kể. Vì vậy chúng ta cần
phải xem xét cả hai mặt cơ chế, chính sách và tồn tại thực tế khách quan để
có các giải pháp thích hợp hơn.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
3.3. Các nhân tố từ phía ngân hàng
3.3.1. Chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư
Ngân hàng thẩm định dự án nhằm rút ra những kết luận chính xác về
tính khả thi, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án để ra
quyết định cho vay hay từ chối cho vay. Mặt khác, thẩm định dự án là cơ sở
để ngân hàng xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp
lý, tạo điều kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả tối ưu. Qua việc thẩm định
dự án, cán bộ tín dụng xác định cơ cấu vốn đầu tư của dự án, xác định tỷ
trọng của vốn đầu tư từ đó đánh giá mức độ tự chủ về vốn của doanh nghiệp
trong phương án đầu tư, vốn bổ sung là bao nhiêu, từ những nguồn nào.
Ngân hàng rất chú ý đến cơ cấu vốn của dự án đầu tư vì nó là cơ sở để ngân
hàng hạch toán thu hồi vốn và lãi, để ngân hàng lựa chọn phương án về thời
gian và phương thức thu hồi vốn, lãi phù hợp với hoạt động của dự án.
Do đó, công tác thẩm định dự án nếu được thực hiện một cách nghiêm
túc, chặt chẽ, cẩn thận với chất lượng cao sẽ mang lại các quyết định chính
xác, hạn chế được rủi ro đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận
cho ngân hàng. Trái lại, nếu chỉ thẩm định một cách qua loa, hình thức,
thiếu cẩn thận sẽ dẫn đến sự "lựa chọn đối nghịch", cho vay những dự án
khả năng hoàn vốn thấp bởi vì những cá nhân và doanh nghiệp với những dự
án đầu tư rủi ro cao nhất là những người sẵn sàng vay nhất kể cả với lãi suất
cao. Họ sẽ trở nên giàu có nhanh chóng nếu thực hiện thành công một cuộc
đầu tư rủi ro cao nhưng đối với ngân hàng khả năng dự án không thành công
là rất cao và ngân hàng sẽ không được thanh toán. Các sai lầm ảnh hưởng
đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư mà ngân hàng thường gặp phải là:
Ngân hàng đánh giá sai về năng lực pháp lý của chủ đầu tư, về tư
cách pháp nhân, về giấy phép thành lập, lĩnh vực và ngành nghề được phép
kinh doanh, uy tín của chủ đầu tư cũng như năng lực tài chính của họ. Trên
thực tế, một số kẻ lừa đảo thành lập "công ty ma" để rút vốn ngân hàng sử
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
dụng vào các mục đích kinh doanh bất hợp pháp và khi đổ bể ngân hàng khó
có thể thu hồi được vốn của mình.
Sai lầm thứ hai có thể ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động thẩm
định dự án đầu tư là phân tích đánh giá sai về thị trường. Phần lớn các dự
án cấp thẩm định tín dụng trung và dài hạn là các kế hoạch của doanh
nghiệp cung cấp trong tương lai. Thị phần sản phẩm mà doanh nghiệp cung
cấp trong tương lai tất nhiên sẽ khác rất nhiều với thị phần trong giai đoạn
hiện nay. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đánh giá, dự đoán không chính
xác về thị trường tương lai có thể dẫn đến sau khi đầu tư, sản phẩm sản xuất
ra khó tiêu thụ, doanh nghiệp hoạt động không có lãi, không thu hồi được
vốn do đó không trả nợ được cho ngân hàng.
Một sai lầm nữa là đánh giá sai về phương diện kỹ thuật và phương
diện tài chính của dự án. Máy móc, trang thiết bị mà doanh nghiệp đầu tư
quá hiện đại, doanh nghiệp chưa có khả năng sử dụng, sửa chữa, không phù
hợp với cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện có hay quá lạc hậu, sử dụng không
hiệu quả. Năng suất dự kiến đặt quá cao không thể thực hiện được, phân bổ
chi phí, xác định giá thành sản phẩm không hợp lý, sự sẵn có hay khả năng
cung cấp các yếu tố đầu vào của sản phẩm... tất cả sẽ tác động tới kết quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thẩm định dự án đầu tư về khía cạnh
kỹ thuật là một điểm hạn chế vượt quá khả năng của cán bộ tín dụng do đó
đây cũng là một khâu rất dễ dẫn đến sai lầm.
Định giá tài sản cầm cố chênh lệch so với giá trị thực tế của nó. Giá
trị của tài sản thế chấp, cầm cố là cơ sở để ngân hàng xác định số tiền cho
vay, là vật đảm bảo ngân hàng thu hồi vốn đầu tư khi khách hàng mất khả
năng trả nợ. Định giá tài sản thế chấp quá cao sẽ dẫn tới quyết định cho vay
quá nhiều không phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng. Ngược lại,
định giá tài sản quá thấp thì khách hàng không vay được đủ lượng vốn cần
thiết cho đầu tư, họ phải đi vay thêm ở ngoài hay dùng vào việc khác dẫn
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
đến việc sử dụng vốn không đúng với mục đích xin vay. Cung cấp thừa hoặc
thiếu vốn cho khách hàng đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Bên cạnh
đó, cán bộ tín dụng cũng không thực sự có nhiều kinh nghiệm, chuyên môn
trong việc định giá tài sản nên rất dễ sai sót nhất là khi giá trị tài sản lại phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố không định lượng được như tiến bộ của khoa học
kỹ thuật, ý thức bảo quản giữ gìn của công nhân, giá trị tài sản, cách thức
khấu hao máy...
3.3.2. Công tác tổ chức Ngân hàng
Tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hóa và sắp xếp một cách có khoa
học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã qui
định cả về huy động vốn lẫn cho vay, quản lý tài sản nợ, tài sản có của ngân
hàng. Đây là cơ sở tiến hành nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động
tín dụng có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh khác nên
cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận
trong ngân hàng cũng như thiết lập quan hệ với các cơ quan tài chính, pháp
luật. Thiết lập mối quan hệ này sẽ tạo điều kiện quản lý có hiệu quả các
khoản vốn tín dụng,
phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề.
3.3.3. Đội ngũ cán bộ tín dụng
Khả năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức của cán bộ tín
dụng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tín dụng nói chung và hoạt động
tín dụng trung dài hạn nói riêng. Cán bộ tín dụng mà không có đạo đức
nghề nghiệp, coi tiền ngân hàng như thứ "tiền chùa", coi việc cho vay như là
một sự ban phát, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái, thậm
chí tham nhũng, nhận phong bao, quà cáp để rồi cho vay trái pháp luật: cho
vay không cần thế chấp, nhận thế chấp không cần kiểm soát... để rồi đến khi
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
vụ việc đổ bể thì để lại cho ngân hàng cả một khoản nợ không thu hồi được
ảnh hưởng đến uy tín chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng quyết định đến sự thành công
của công tác tín dụng. Cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ
năng, kinh nghiệm đánh giá chính xác tính khả thi của dự án, xác định được
tính chân thực của các báo cáo tài chính, phát hiện các hành vi cố tình lừa
đảo của khách hàng như: sửa chữa báo cáo tài chính, lập hồ sơ thế chấp giả,
dùng một tài sản thế chấp để đi vay ở nhiều nơi... từ đó phân tích được khả
năng quản lý doanh nghiệp và năng lực thực sự của khách hàng để quyết
định có cho vay hay không.
Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ tín dụng cần có sự hiểu
biết rộng về pháp luật, môi trường kinh tế xã hội, đường lối phát triển của
đất nước, của thị trường... dự đoán trước được những biến động có thể xảy
ra từ đó tư vấn cho khách hàng xây dựng lại phương án kinh doanh cho phù
hợp. Nghiệp vụ hoạt động ngân hàng càng phát triển đòi hỏi chất lượng
nhân sự ngày càng cao để sử dụng các phương tiện, phương pháp làm việc
hiện đại thích ứng với sự phát triển không ngừng của xã hội. Cán bộ tín
dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp và sự hiểu biết
rộng chính là cơ sở để nâng cao chất lượng công tác tín dụng trong hoạt
động của các ngân
hàng thương mại.
3.3.4. Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng theo nghĩa
rộng. Nhờ có thông tin tín dụng, ngân hàng có thêm cơ sở để đánh giá uy
tín, năng lực thực sự của khách hàng. Thông tin tín dụng càng nhanh càng
chính xác và toàn diện thì khả năng phòng chống rủi ro trong hoạt động kinh
doanh càng tốt. Hiện nay pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt
buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán thống kê kịp thời. Do số
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ kiểm toán do
vậy không phản ánh chính xác tình trạng tài chính của doanh nghiệp khi xét
duyệt cho vay thậm chí họ còn cố tình đưa số liệu sai lệch. Những món vay
trên thiếu cơ sở thiếu thông tin sẽ gặp rủi ro. Thông tin tín dụng có thể thu
thập được từ rất nhiều nguồn: từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng
Nhà nước, từ phòng thông tin tín dụng của các ngân hàng thương mại, qua
báo chí, các tổ chức nghề nghiệp... Tương lai với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, với sự lớn mạnh trong hoạt động và sự hợp tác mạnh mẽ giữa các
ngân hàng thì việc khai thác và xử lý thông tin sẽ đem lại kết quả tích cực
đối với các hoạt động tín dụng của ngân hàng.
3.3.5. Các yếu tố khác
Tình hình huy động vốn cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
trung và dài hạn. Vốn huy động trung và dài hạn là nguồn chủ yếu để cho
vay trung dài hạn. Vốn huy động càng lớn, ngân hàng càng có khả năng cho
vay những dự án có quy mô lớn, mở rộng hoạt động thẩm định. Nếu ngân
hàng sử dụng những nguồn vốn huy động ngắn hơn kỳ hạn mà ngân hàng
cho vay đối với khách hàng mà không dự kiến được nguồn vốn bù đắp thì
rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra. Tương tự như vậy, nếu ngân hàng cho vay dài
hạn với lãi suất cố định trong khi lãi suất huy động thường xuyên thay đổi
thì tiền thu được từ cho vay có khi không đủ trả lãi tiền gửi cho khách hàng.
Công tác phát triển tiền vay, kiểm soát sau khi cho vay, theo dõi nợ
góp phần ngăn chặn, hạn chế khách hàng sử dụng tiền vay sai mục đích,
đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng kế hoạch đã định.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG
VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI.
1. Sự hình thành bộ máy tổ chức.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội thành lập
theo Quyết định 51 ngày 27 tháng 6 năm 1988 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam về thành lập các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội. Khi
mới thành lập, NHNo&PTNT Hà nội tại trụ sở chính có các phòng sau: Tín
dụng, Kế hoạch, Tiền tệ-Kho quỹ, Tổ chức cán bộ, Văn phòng, Tiết kiệm và
nguồn vốn. Đồng thời NHNo&PTNT Hà nội lúc đó có 12 chi nhánh trực
thuộc tại các huyện: Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Mê Linh,
Sóc Sơn, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ, Sơn Tây, Ba Vì.
Đến năm 1991, Nghị quyết Quốc hội Khoá 8 bàn giao 6 huyện: Hoài
Đức, Thạch Thất, Đan Phượng, Phúc Thọ, Sơn Tây, Ba Vì về tỉnh Hà Tây
và huyện Mê Linh về tỉnh Vĩnh Phú.
Năm 1995, Quyết định của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam
bàn giao 5 huyện Đông Anh, Sóc Sơn, Từ Liêm, Gia Lâm, Thanh Trì về
trung tâm quản lý.Từ đó đến nay NHNo&PTNT Hà nội thành lập thêm các
chi nhánh sau:
-Năm 1994, NHNo&PTNT Hà nội thành lập chi nhánh Chợ Hôm.
-Năm 1995, NHNo&PTNT Hà nội thành lập 2 chi nhánh Đồng Xuân
và Thanh Xuân.
-Năm 1996, NHNo&PTNT Hà nội thành lập 2 chi nhánh: Tây Hồ và
Giảng Võ.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
-Năm 1997, NHNo&PTNT Hà nội thành lập chi nhánh quận Cầu
Giấy.
-Năm 1999, NHNo&PTNT Hà nội thành lập 2 chi nhánh Đống Đa và
Khu vực Tam Trinh.
-Năm 2002, NHNo&PTNT Hà nội thành lập 2 chi nhánh Tràng Tiền
và Chương Dương.
Những năm vừa qua, NHNo & PTNT Hà Nội đã có những hoạt động
tích cực trong việc cơ cấu lại bộ máy quản lý cũng như các phòng ban. Hiện
nay, với một mô hình tổ chức hợp lí, ngân hàng đã tập trung vào việc phát
huy vai trò và năng lực của từng bộ phận cũng như từng cá nhân trong việc
thúc đẩy hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển. Đội ngũ cán bộ
được trẻ hoá và có trình độ chuyên môn cao, nghiệp vụ vững vàng, 100%
cán bộ ngân hàng có trình độ Đại học và trên Đại học.
Hiện nay, mạng lưới hoạt động của NHNNo&PTNT Hà nội hiện nay
bao gồm: 01 Trụ sở chính, 10 chi nhánh Ngân hàng Quận-Khu vực trực
thuộc và 33 phòng giao dịch dàn trải trên các Quận nội thành. Các chi nhánh
Ngân hàng trực thuộc là: NHNo&PTNT Hai Bà Trưng, NHNo&PTNT
Hoàn Kiếm, NHNo&PTNT Tây Hồ, NHNo&PTNT Ba Đình,
NHNo&PTNT Chương Dương, NHNo&PTNT Thanh Xuân,
NHNo&PTNT Cầu Giấy, NHNo&PTNT Đống Đa, NHNo&PTNT khu vực
Tam Trinh, NHNo&PTNT khu vực Tràng Tiền.
Hiện tai, tại trụ sở chính của NHNo&PTNT Hà Nội có môt giám đốc,
hai phó giám đốc và 9 phũng ban là: Kế toán, Kế Hoạch, Ngân quỹ, Kinh
doanh, Kiểm soát, Tổ chức cán bộ-đào tạo, Thanh toán quốc tế, Vi tính,
Hành chính; hoạt động theo Quyết định 169 ngày 7 tháng 9 năm 2000 của
Chủ tịch HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam ban hành Quy chế tổ chức và hoạt
động của Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam. Về nhân sự, NHNo&PTNT
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Hà nội có 396 cán bộ, nhân viên; trong đó 165 người tại trụ sở chính và 231
người tại các chi nhánh Ngân hàng Quận-Khu vực trực thuộc.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh
Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Hà Nội bao gồm có một Giám đốc,
giúp việc cho Giám đốc là hai phó Giám đốc. Ngân hàng No&PTNT Hà Nội
có 9 phòng ban để thực hiện chức năng chuyên môn của mình đó là các
Phòng: Phòng kế hoặch, Phòng hành chính, Phòng thanh toán quốc tế,
Phòng kinh doanh, Phòng kế toán, Phòng Ngân quỹ, Phòng kiểm soát,
Phòng vi tính và Phòng tổ chức cán bộ - đào tạo. Các Phòng ban này thực
hiện chức năng chuyên môn của mình lấy ví dụ như Phòng kế hoặch có chức
năng nghiên cứu đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn
trên địa bàn Hà Nội, tổng hợp theo dõi các chỉ tiêu kế hoặch kinh doanh và
quyết toán kế hoặch đến các chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn...vv.
Phòng thanh toán quốc tế thực hiện các chức năng như: thanh toán quốc tế
qua mạng SWIFT, thanh toán nhờ thu, chuyển tiền với nước ngoài, thanh
toán biên mậu. Những Phòng ban trên hoạt động và chịu trách nhiệm trực
tiếp trước Giám đốc và Phó giám đốc theo lĩnh vực phân công quản lý. Bên
cạnh đó NHNo& PTNT Hà Nội còn có Hội đồng tín dụng với nhiệm vụ xem
Phòn
g kÕ
hoạch
Giám đốc
Phã g iám đốc
Phòn
g
hành
chÝn
h
Phòn
g
TTQ
T
Phòn
g kinh
doanh
Phòn
g
ngân
quỹ
Phòn
g Tổ
chức
cán
bộ
Phòn
g kÕ
toán
Phòn
g
kiểm
soát
Phã g iám đốc
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
xét việc giải trình của các thành viên, kiểm soát trước về mặt pháp lý của dự
án và tham gia ý kiến để giám đốc ra quyết định. Thành phần của Hội đồng
tín dụng này bao gồm: Giám đốc chi nhánh làm chủ tịch hội đồng tín dụng,
Phó giám đốc phụ trách tín dụng, trưởng phòng kinh doanh trực tiếp thẩm
định dự án, trưởng phòng kế toán, trưởng phòng ngân quỹ, trưởng phòng kế
hoặch, cán bộ trực tiếp công tác phòng ngừa rủi ro
3. Tình hình hoạt động
3.1. Huy động vốn
Nguồn vốn của kinh doanh của Ngân hàng có thể hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau như: vốn điều lệ, vốn vay, vốn huy động, vốn tài trợ, lợi
nhuận để lại… song cơ bản nhất và quan trọng nhất vẫn là nguồn vốn huy
động – nó minh chứng cho khả năng tồn tại và chức năng trung gian tài
chính của một ngân hàng. Làm thế nào để tạo ra một chính sách thu hút vốn,
tạo tiền đề cho quá trình đầu tư ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đạt được hiệu
quả cao luôn là mục tiêu được đặt lên hàng đầu của NHNo&PTNT Hà nội.
Trong nhiều năm qua, sự vận hành của nền kinh tế thị trường đã tạo ra một
hệ quả tất yếu là có sự cạnh tranh mạnh mẽ trong hầu khắp các ngành nghề
kinh doanh cũng như giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế. Hoạt động ngân hàng
cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của quy luật này-đặc biệt khi nó kinh
doanh một đối tượng khác với mọi ngành kinh tế là tiền tệ. Trong những
năm qua, NHNo&PTNT Hà nội dã luôn chú trọng trong việc hoạch định
chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn trên địa bàn thành phố.
Năm 1999, chi nhánh đã tái thành lập phòng Kế hoạch để điều phối việc huy
động vốn. NHNo&PTNT Hà nội có những hình thức huy động vốn sau:
+ Nhận tiền gửi của đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân và tiền gửi tiết
kiệm.
+ Phát hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
+ Vay vốn của NHNN, NHNo&PTNT Việt Nam và các tổ chức tín
dụng khác.
Hà nội là trung tâm kinh tế của cả nước nên là địa bàn tập trung của
rất nhiều doanh nghiệp với các ngành nghề kinh doanh vô cùng đa dạng và
nhu cầu về vốn là rất lớn. Vì vậy, NHNo&PTNT Hà nội luôn chú trọng mở
rộng thêm mạng lưới kinh doanh để thu hút nguồn vốn nội tệ đáp ứng các
nhu cầu tín dụng đa dạng của các doanh nghiệp; đồng thời khai thác ngoại tệ
để thoả mãn nhu cầu thanh toán với nước ngoài của các doanh nghiệp xuất
khẩu. Việc mở rộng thêm mạng lưới kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho chi
nhánh phát huy vai trò của mình với chức năng là trung gian thanh toán. Nó
cũng chứng tỏ uy tín của chi nhánh trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là
qua khả năng thantoán kịp thời. So với những ngày đầu khi mới thành lập
với nguồn vốn 16 tỷ, sau hơn 10 năm hoạt động, nguồn vốn kinh doanh của
NHNNo&PTNT Hà nội đã tăng trưởng 384 lần, tạo thế và lực vững chắc
cho chi nhánh trong việc cung ứng vốn cho các nhu cầu của các doanh
nghiệp có quan hệ giao dịch, góp phần phát triển kinh tế cho Thủ đô. Ngoài
ra, trong năm 2002 cũng như nhiều năm trước đó, NHNNo&PTNT Hà Nội
đã cung ứng một khối lượng lớn vốn đáng kể cho toàn ngành để điều hoà
chung trong cả nước. Để tăng trưởng nguồn vốn ổn định và vững chắc,
NHNNo&PTNT Hà nội đã thu hút mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các
tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, xã hội, các trường học, bệnh viện trên
địa bàn Thủ đô nên trong năm 2002, các loại nguồn vốn đều tăng trưởng khá
trong đó tiền gửi có kỳ hạn chiếm trên 70% nguồn vốn, tạo điều kiện thuận
lợi cho chi nhánh có thể đầu tư cho các dự án vay vốn trung, dài hạn lớn.
Đặc biệt từ năm 2000, NHNNo&PTNT Hà nội đã triển khai huy động nguồn
vốn ngoại tệ trong các tầng lớp dân cư, chỉ sau 8 tháng thực hiện, đến cuối
năm 2000, NHNNo&PTNT Hà nội đã có 15 triệu USD tiền gửi tiết kiệm,
cùng với các nguồn vốn ngoại tệ khác, NHNNo&PTNT Hà Nội đã chủ động
đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Theo kết quả kinh doanh năm 2002, nguồn vốn của NHNNo&PTNT
Hà Nội đạt 6.152 tỷ, tăng 44,5% so với 2001, trong đó:
+ Nguồn vốn nội tệ: 5.378 tỷ, tăng 39.1% so với 2001, kết cấu như
sau:
Bảng 1: Kết cấu nguồn vốn nội tệ.
Năm 2001 Tỷ trọng Năm 2002 Tỷ trọng
Tiền gửi TK 429,6 10,3 467 tỷ 8,7
Kỳ phiếu 1447,8 34,6 1.982 tỷ 36,9
TGTCKT 735,8 17,6 852 tỷ 15,8
TG, TVTCTD 1415,6 33,9 1.921 tỷ 35,7
Tiền gửi Kho bạc 151,6 3,6 156 tỷ 2,9
(Nguồn: Phòng kế hoặch kinh doanh NHNo&PTNT Hà Nội)
-Tiền gửi tiết kiệm 467 tỷ, chiếm 8.7% nguồn nội tệ, tăng 59,4% so với
2001
-Kỳ phiếu 1.982 tỷ, chiếm 36,9% nguồn nội tệ, tăng 73,7% so với 2001
-TG TCKT 852 tỷ, chiếm 15,8% nguồn nội tệ, tăng 4% so với 2001
-TG, TV TCTD 1.921 tỷ, chiếm 35.7% nguồn nội tệ, tăng 32,3% so với
2001
-TG Kho bạc 156 tỷ, chiếm 2,9% nguồn nội tệ, giảm 2,5% so với năm 2001
+ Nguồn vốn ngoại tệ: 774 tỷ (tương đương với 50 triệu USD), tăng
98% so với 2001, kết cấu như sau:
Bảng 2: Kết cấu nguồn vốn ngoại tệ.
Năm 2001 Tỷ trọng Năm 2002 Tỷ trọng
Tiền gửi TK 305,3 tỷ 56,5 497 tỷ 62,8
Tiền gửi TCKT 44,3 tỷ 8,2 47 tỷ 6,1
TGTCTD 124,9 tỷ 23.1 149 tỷ 19,3
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Kỳ phiếu 65,9 tỷ 12,2 72 tỷ 9,3
(Nguồn: Phòng kế hoặch kinh doanh NHNo&PTNT Hà Nội)
-Tiền gửi tiết kiệm 497 tỷ, chiếm 64,2% nguồn ngoại tệ, tăng 43,2% so với
2001
-Tiền gửi TCKT 47 tỷ, chiếm 6,1% nguồn ngoại tệ, tăng 9,35 so với 2001
-TG TCTD 149 tỷ, chiếm 19,3% nguồn ngoại tệ,tăng 1,48% so với 2001
-Kỳ phiếu 72 tỷ, chiếm 9,3% nguồn ngoại tệ
Để có được những kết quả khả quan trên, NHNNo&PTNT Hà Nội đã
có những cố gắng không nhỏ trong từng bước thay đổi phong cách giao dịch
với khách hàng, đồng thời vận dụng lãi suất một cách linh hoạt phù hợp với
cơ chế thị trường; bên cạnh đó còn tổ chức thu tiền gửi tại gia đình những
khoản tiền từ 50 triệu đồng trở lên. Những hoạt động này đã tạo cho người
dân một tâm lý yên tâm và vững tin khi gửi tiền vào NHNNo&PTNT Hà
nội. Do vậy nguồn vốn tiền gửi dân cư tăng trưởng nhanh hơn, từ đó tạo thế
chủ động cân đối nguồn vốn vào đầu tư tín dụng, nhất là đầu tư trung và dài
hạn. Một yếu tố rất thuận lợi ở đây là niềm tin của những người dân đối với
ngân hàng. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường, đời sống của đại bộ phận dân cư trong thành phố đã được từng
bước cải thiện, nguồn nhàn rỗi nhờ vậy cũng tăng. Tiền gửi đã và đang là
một nguồn đáng kể chiếm tỷ trọng khá lớn trong nguồn vốn huy động của
NHNNo&PTNT Hà nội. Điều này thể hiện: Năm 2002, NHNNo&PTNT Hà
Nội đã đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn 40% mà Hội đồng Quản
trị NHNNo&PTNT Việt nam đã giao đầu năm, các Ngân hàng Quận-Khu
vực trực thuộc đã quan tâm đến nguồn vốn nên có nguồn vốn tăng trưởng
nhanh là Tam Trinh 333,3%, Hoàn Kiếm 123,3%, Hai Bà Trưng 82%,
Thanh Xuân 38,5%, Tây Hồ 38,5%; đặc biệt Ngân hàng Chương Dương và
Tràng Tiền tuy mới hoạt động 6 tháng cuối năm nhưng đã huy động được
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
nguồn vốn khá lớn. Trong huy động nguồn vốn nội tệ, các ngân hàng vừa
chú trọng khối lượng vừa chú trọng đến chất lượng, tuy năm 2002 mặt bằng
lãi suất trên địa bàn có tăng, nhưng các ngân hàng đã khai thác được các
nguồn vốn có lãi suất hợp lý nên mặc dù một bộ phận lãi kỳ phiếu đã trả lãi
trước và một bộ phận lãi kỳ phiếu trả lãi sau chưa hạch toán từ tháng 9/2002
nhưng lãi suất đầu vào thực tế nguồn vốn nội tệ giảm 9,3% so với 2001, đây
là ưu điểm nổi bật rất quan trọng mà từng chi nhánh ngân hàng trực thuộc
NHNo&PTNT Hà Nội cần phân tích thực trạng của đơn vị mình để phát
huy cho các năm sau. Tuy vậy, NHNNo&PTNT Hà Nội cũng phải chú ý đến
một số tồn tại trong công tác huy động vốn: Nguồn vốn tuy tăng trưởng
44,5% nhưng nguồn vốn nội tệ tăng chậm hơn ngoại tệ nên đã ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh cuối cùng không cao. Một số ngân hàng Quận nhận
tiền gửi của các TCTD với thời hạn ngắn nhưng lãi suất lại quá cao, nên
nguồn vốn tuy lớn nhưng hiệu quả lại thấp. Trong thời gian tới
NHNNo&PTNT Hà Nội sẽ phải tìm cách khắc phục.
3.2. Hoạt động tín dụng :
Song song với việc tạo ra một chính sách huy động vốn hiệu quả, khả
năng hoạt động tín dụng và thu hồi vốn cũng luôn là mối quan tâm của một
ngân hàng. Khác với hoạt động tín dụng của NHNN Việt nam, hoạt động tín
dụng của NHNNo&PTNT Hà nội nói riêng cũng như của các ngân hàng
thương mại nói chung là nhằm mục tiêu lợi nhuận dựa trên nguyên tắc “đi
vay để cho vay’’. Do đó chất lượng tín dụng luôn được các ngân hàng
thương mại đặt lên hàng đầu. Trong quá trình cho vay tại chi nhánh
NHNNo&PTNT Hà Nội, các món vay đều được áp dụng các quy trình
nghiệp vụ của ngành một cách đúng đắn, đảm bảo hiệu quả và chất lượng tín
dụng. Hiện nay, NHNNo&PTNT Hà Nội tiến hành những hoạt động tín
dụng sau: cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, trong đó hoạt động cho vay đóng
vay trò chính yếu.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ cho vay của chi nhánh được cụ
thể hoá trong Quy định cho vay đối với khách hàng ban hành kèm theo
Quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/03/2002 của Chủ tịch HĐQT
NHNo&PTNT Việt Nam.
NHNNo&PTNT Hà Nội đáp ứng nhu cầu vay vốn của mọi thành
phần kinh tế và các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Chi nhánh cũng đặc biệt
chú trọng tới vấn đề cấp tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo, tạo điều
kiện cho những khách hàng này có vốn để sản suất kinh doanh. Qua đó, góp
phần tích cực xoá đói giảm nghèo, dần dần nâng cao chất lượng đời sống
của một bộ phận dân cư. Đến với NHNNo&PTNT Hà nội, khách hàng có
thể lựa chọn một trong số các phương thức cho vay đa dạng phù hợp với nhu
cầu và dự kiến hoạt động kinh doanh của mình. Chi nhánh sẽ dựa trên
những điều kiện vay vốn như năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự của khách hàng; khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn
cam kết; mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp để quyết định cấp tín dụng
hay không. Mức cho vay được căn cứ theo nhu cầu của khách hàng, tỷ lệ
vốn vay so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay, khả năng trả nợ của khách
hàng nhưng không vượt quá 15% vốn tự có, trừ trường hợp đối với khoản
vay từ các nguồn vốn uỷ thác hoặc khách hàng vay là các TCTD. Đặc biệt,
Quyết định số 11/QĐ-HĐQT-03 ngày 18/01/2001 của Chủ tịch HĐQT
NHNNo&PTNT Việt nam ban hành quy định phân cấp phán quyết mức cho
vay tối đa đối với một khách hàng đã cụ thể hoá vấn đề này. Theo đó
NHNNo&PTNT Hà Nội được phân cấp mức phán quyết cho vay tối đa như
sau: 100 tỷ đối với doanh nghiệp nhà nước, 20 tỷ đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và 2 tỷ đối với hộ sản suất tư nhân, cá thể. Mức phán
quyết cho vay tối đa bao gồm số tiền ngân hàng bảo lãnh; dư nợ cho vay
ngắn, trung, dài hạn bằng nội tệ, ngoại tệ từ nguồn vốn của hệ thống
NHNNo&PTNT. Tuy nhiên, các loại hình kinh doanh dịch vụ khác như cho
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
vay hộ nghèo, dịch vụ tín dụng uỷ thác đầu tư, các chương trình cho vay
theo chỉ định của Chính phủ không áp dụng quy định này.
Thủ tục pháp lý trong cấp vốn cho mọi khách hàng luôn đảm bảo cho
việc nắm mọi thông tin cần thiết và đầy đủ về khách hàng, tạo thuận lợi cho
chi nhánh trong việc đánh giá khả năng thu hồi vốn cũng như tạo cho khách
hàng ý thức về nghĩa vụ trả nợ. Tuỳ theo loại khách hàng, phương thức vay,
chi nhánh và khách hàng lập một bộ hồ sơ, cụ thể:
+ Hồ sơ do khách hàng lập và cung cấp: hồ sơ pháp lý, hồ sơ vay vốn;
nếu là pháp nhân, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân còn phải cần
thêm hồ sơ kinh tế.
+ H ồ sơ do chi nhánh lập: Báo cáo thẩm định, tái thẩm định; biên bản
họp hội đồng tín dụng (trong trường hợp phải họp Hội đồng tín dụng); các
thông báo như thông báo từ chối cho vay, thông báo từ chối cho vay, thông
báo gia hạn nợ, thông báo nợ quá hạn; sổ theo dõi cho vay-thu nợ.
+Hồ sơ do chi nhánh và khách hàng cùng lập : hợp đồng tín dụng;
giấy nhận nợ; hợp đồng bảo hiểm tiền vay; biên bản kiểm tra sau khi vay;
biên bản xác nhận rủi ro bất khả kháng.
Những giấy tờ trên được lập theo mẫu tại danh mục các mẫu biểu
(kèm theo quy định cho vay đối với khách hàng). Bộ hồ sơ cho vay sẽ được
lưu giữ và bảo quản bởi phòng kế toán (hồ sơ pháp lý và hồ sơ vay vốn) và
phòng tín dụng ( hồ sơ kinh tế ). Những tài liệu này chứa đựng những thông
tin thiết yếu liên quan tới khách hàng, là cơ sở quan trọng đối với việc kiểm
tra, giám sát và xử lý vốn vay - những khâu quan trọng nhất của quá trình
cấp tín dụng. Các cán bộ tín dụng của chi nhánh luôn chú trọng đầu tư thời
gian cho việc thẩm định, kiểm tra trước khi cho vay cũng như theo dõi quá
trình cấp tín dụng. Do đó vấn đề này được quy định rõ trong hướng dẫn
thẩm định, tái thẩm định các điều kiện vay vốn của doanh nghiệp và hướng
dẫn nội dung thẩm định cho vay đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác. Sau
khi nghiên cứu hồ sơ khách hàng lập, cán bộ tín dụng sẽ lập một bản báo
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
cáo thẩm định, tái thẩm định gồm nội dung những điều kiện vay vốn (đã
được thẩm tra là đúng với hồ sơ) và những đánh giá của mình, ý kiến của
trưởng phòng kinh doanh và ý kiến của giám đốc (phê duyệt cho vay hay
không).
Để quá trình thẩm định và tái thẩm định đảm bảo tính chính xác, một
đòi hỏi tất yếu là đội ngũ cán bộ tín dụng đảm nhiệm chức năng thẩm định
phải có một trình độ cao, vững vàng về nghiệp vụ; nắm bắt và vận dụng linh
hoạt và đúng đắn các kiến thức về kinh tế, xã hội, chính trị không những ở
trong nước mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Nhận thức rõ điều này, các
cán bộ tín dụng của NHNNo&PTNT Hà nội luôn đề cao tinh thần trách
nhiệm trong công việc, góp phần bảo đảm sự an toàn và hiệu quả trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Với đội ngũ cán bộ có năng lực và nhiệt tình
trong công việc, NHNNo&PTNT Hà nội trong những năm qua đã thường
xuyên đạt các chỉ tiêu kế hoạch được giao và đạt hiệu quả cao trong hoạt
động kinh doanh của mình.
Năm 2002, dư nợ đạt 2003 tỷ, tăng 27,45 so với 2001, đạt chỉ tiêu
tăng trưởng tín dụng mà NHNNo&PTNT Việt nam giao .Về lãi suất tín
dụng thực thu của toàn thành phố năm 2002 khá hơn năm 2001, riêng lãi
suất nội tệ đạt 0,669%, tăng 0,098% so với năm 2001. Về chất lượng tín
dụng: Nợ quá hạn đã hạch toán 57 tỷ, chiếm 2,82%, tăng 0,26% so với năm
2001.Trong năm 2002, NHNNo&PTNT Hà nội đã tích cực thu hồi nợ quá
hạn nhưng cũng trong năm 2002 đã trích rủi ro và xử lý được nợ tồn đọng
lớn nhất từ trước tới nay nên làm cho nợ quá hạn của các ngân hàng giảm
xuống.
Trong năm 2002, NHNNo&PTNT Hà nội đã mở rộng đầu tư tín dụng
cho các thành kinh tế, chú trọng mở rộng cho vay trung dài hạn để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, mở rộng quy mô sản suất, trong năm
đã áp dụng phương thức đầu tư tín dụng đồng tài trợ đối với 2 dự án lớn đó
là cho Tổng Công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng vay 206 tỷ đồng để xây
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
dựng Nhà máy kính nổi Bình dương, Công ty Sứ Thanh trì 30 tỷ để xây
dựng Nhà máy sứ Bình dương, Tổng công ty Máy động lực và máy nông
nghiệp vay 12 triệu USD để đầu tư xây dựng dự án xe BUS xuất khẩu sang
IRAQ....
Việc đầu tư tín dụng năm 2002 được tập trung cho các dự án thực sự
có hiệu quả không phân biệt thành phần kinh tế đã góp phần tích cực cho
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
trong cơ chế thị trường. Nợ trung, dài hạn của NHNNo&PTNT Hà nội
chiếm 37,2% tổng dư nợ. Nhờ đổi mới kinh doanh nên 2002 có thêm trên 18
doanh nghiệp vay vốn tín dụng tại NHNNo&PTNT Hà nội .
Bên cạnh tổ chức cho vay các dự án lớn tập trung NHNNo&PTNT Hà
nội còn mở rộng cho vay sinh hoạt đối với công chức, viên chức, sĩ quan,
công nhân viên quốc phòng trong các doanh nghiệp, trường học, bệnh viện,
lực lượng vũ trang, với gần 400 tỷ đồng, do vậy đã hỗ trợ cho nhiều gia đình
cải tạo, sửa chữa nhà ở, mua sắm các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình
nhằm nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trước hết là khối hành
chính sự nghiệp.
Cho vay hộ nghèo Năm 2002, được sự giúp đỡ của các quận, phường
NHNNo&PTNT Hà nội đã giải ngân cho gần 700 hộ nghèo vay 2.100 triệu
đồng một số đã tạo thêm được công ăn việc làm , thu nhập tăng, đời sống
được cải thiện, trả nợ ngân hàng sòng phẳng. Cuối năm 2002 còn 835 hộ có
dư nợ vay ngân hàng 2.300 triệu đồng, tuy số lượng hộ vay và dư nợ cho
vay hộ nghèo của NHNNo&PTNT Hà nội không lớn nhưng
NHNNo&PTNT Hà nội đã góp phần cùng các cấp các ngành của Hà Nội
thực hiện chương trình 03 của thành uỷ Hà Nội về xoá đói giảm nghèo trên
điạ bàn Hà Nội.
3.3. Hoạt động kinh doanh đối ngoại :
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Song song với việc đáp ứng nhu cầu vốn nội tệ, NHNNo&PTNT Hà
nội cũng luôn quan tâm tới việc đảm bảo nguồn ngoại tệ để kịp thời cung
cấp cho khách hàng. Chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước trong những
năm qua đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam dần dần hoà nhập vào
mạch phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp và các tổ
chức kinh tế trong nước đã thực hiện giao dịch ngoại thương với các đối tác
nước ngoài trong nhiều ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Tình hình đầu
tư nước ngoài vào Hà Nội trong thời gian qua đang có dấu hiệu cải thiện và
phục hồi. Trong những năm qua, NHNNo&PTNT Hà nội đã luôn là người
đồng hành đáng tin cậy của nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong hoạt
động ngoại thương. Cho vay bằng ngoại tệ tại NHNNo&PTNT Hà nội áp
dụng với các đối tượng sau :
- Cho vay để thanh toán cho nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hoá dịch
vụ;
- Các dự án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất
khẩu;
- Để trả nợ nước ngoài trước hạn ;
- Cho vay đối với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài;
- Cho vay dưới hình thức chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu
Hiện nay, chi nhánh cho vay các ngoại tệ chuyển đổi mạnh như Đô la Mỹ
(USD), Ơ Rô (EUR), Yên Nhật (JPY) và các loại ngoại tệ khu vực biên giới
như nhân dân tệ Trung Quốc, đồng Kip Lào, đồng Riên Campuchia. Lãi suất
cho vay ngoại tệ được thực hiện theo quy định hiện hành của Tổng giám đốc
NHNNo&PTNT Việt Nam. Năm 2002 NHNNo&PTNT Hà nội tiếp tục mở
rộng nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đến nay NHNNo&PTNT Hà nội đã có
quan hệ đại lý và thanh toán với 600 Ngân hàng và chi nhánh Ngan hàng
nước ngoài, phát triển nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ kể cả Nhân dân tệ và tổ
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
chức thanh toán biên mậu nhằm đảm bảo thuận lợi cho khách hàng có quan
hệ mua bán với Trung quốc. Do vậy doanh số hoạt động tăng trưởng khá:
Về xuất khẩu:
- Đã gửi chứng từ đòi tiền 74 món, trị giá 1,8 triệu USD.
- Đã thu tiền 65 món trị giá 1,5 triệu USD.
Về nhập khẩu: Mở 877 LC trị giá 100,9 triệu USD, thanh toán LC
992 món trị giá 92,4 triệu USD, nhờ thu 311 món trị giá 4,5 triệu USD,
thanh toán TTr 1.202 món trị giá 36,7 triệu USD.Thu phí dịch vụ 191 triệu
USD.
Năm 2002, tỷ giá giữa đồng USD và đồng Việt Nam không ngừng
tăng trong khi giá xuất khẩu nhiều mặt hàng giảm mạnh như cà phê, gạo và
các hàng nông sản khác làm cho xuất khẩu chậm, đồng thời gây tâm lý cho
nhiều doanh nghiệp không muốn bán ngoại tệ cho ngân hàng làm cho ngoại
tệ vốn đã khan hiếm từ năm 2000 thì sang năm 2002 càng khan hiếm hơn.
Thấu hiểu khó khăn của doanh nghiệp cũng là khó khăn của ngân hàng nhất
là trong quan hệ quốc tế, nên NHNNo&PTNT Hà nội đã tìm nhiều giải pháp
kể cả phải chấp nhận mua kỳ hạn và cung ứng cho nhiều doanh nghiệp với
giá giao ngay và chấp nhận lỗ về tỷ giá để đảm bảo cung ứng đủ lượng
ngoại tệ cần thiết cho doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ tích cực của NHNN
Việt Nam và của NHNNo&PTNT Viẹt nam đã bán cho NHNNo&PTNT Hà
nội 46,2 triệu USD để thanh toán nhập khẩu phân bón nên phần lớn các nhu
cầu về ngoại tệ trong năm đều được đáp ứng tương đối kịp thời và đầy đủ,
không để xảy ra tình trạng thanh toán chậm mà ngược lại NHNNo&PTNT
Hà nội còn được nhiều ngân hàng nước ngoài tín nhiệm vì đã làm tốt công
tác thanh toán quốc tế và nhờ vậy một số doanh nghiệp kể cả một số Tổng
Công ty 90 - 91 đã thực hiện thanh toán qua NHNNo&PTNT Hà nội. Kết
quả đã mua được 109 triệu USD, 692 triệu Yên Nhật, 16 triệu EUR và bán
cho khách hàng để thanh toán 100,4 triệu USD, 692 triệu Yên Nhật và 15,7
triệu EUR.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
3.4. Về Tài chính, thanh toán và Ngân quỹ:
Về công tác thanh toán, với khối lượng nguồn vốn lớn của các
doanh nghiệp có quan hệ rộng trên phạm vi cả nước nên công tác thanh toán
của NHNNo&PTNT Hà nội năm 2002 càng trở nên phức tạp và khẩn trương
hơn các năm trước, tuy vậy NHNNo&PTNT Hà nội đã tổ chức tốt công tác
thanh toán vốn cho các doanh nghiệp không để chậm chễ hoặc sai xót.
Trong năm 2002 đã chuyển tiền điện tử 24.476 món với 12.137 tỷ đồng,
tăng 2,3 lần số món thanh toán so với năm 2001 mà không để xảy ra nhầm
lẫn cho khách hàng.
Về kết quả tài chính, chênh lệch thu chi tăng 120%, trích rủi ro tăng
25% so với năm 2001, đạt kế hoạch NHNNo&PTNT Việt nam giao cả năm,
đảm bảo đủ tiền lương cho người lao động theo quy định chung của
NHNNo&PTNT Việt Nam.
Về ngân quỹ : với màng lưới 33 điểm giao dịch rải rác trong nội
thành lại hay bị ách tắc giao thông, nhưng NHNNo&PTNT Hà nội đã tổ
chức tốt công tác Ngân quỹ nên vừa đảm bảo đầy đủ và kịp thời tiền mặt
giao dịch với khách hàng nhất là dân cư, vừa mở rộng diện thu tiền mặt tại
chỗ cho một số doanh nghiệp như Công ty bia Hà Nội, Nhà máy thuốc lá
Thăng long, Công ty bia Việt Hà, vừa cung ứng kịp thời chính xác các nhu
cầu thu chi của khách hàng nhất là chi xã hội cho các Chi nhánh kho bạc,
các trường Đại học ...
Năm 2002,tổng thu 8.457, tăng 83% so với năm 2001 tổng chi 4.579
tỷ,tăng 85% so với năm 2001
Quá trình thu chi tiền mặt được chấp hành nghiêm túc các quy trình ra
vào kho, điều chuyển tiền, kiểm tra, kiểm kê tiền mặt và giấy tờ có giá theo
đúng các quy định của Ngân hàng Nhà nước và của NHNNo&PTNT Việt
nam nên luôn đảm bảo an toàn tiền trong kho cũng như trong quá trình điều
chuyển, không xảy ra tình trạng tham ô lợi dụng quỹ công.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Trong năm, cán bộ bộ phân kho quỹ đã nêu nhiều tấm gương liêm khiết
đã trả 615 món tiền thừa cho khách hàng với số tiền 792 triệu đồng, có món
tới 200 triệu và 3 món, mỗi món 100 triệu được khách hàng khen ngợi, đồng
thời với đức tính cần cù tỷ mỷ và thận trọng trong thu chi đã phát hiện 14
triệu đồng tiền giả.
3.5. Hiện đại hoá Ngân hàng - đổi mới công nghệ:
Để từng bước hiện đại hoá hoạt động công nghệ thông tin, hoàn chỉnh
nối mạng thông tin nội bộ giữa NHNNo&PTNT Hà nội với các
NHNNo&PTNT Quận và khu vực nên việc tổng hợp tình hình cũng như
điều hành kinh doanh được thực hiện kịp thời.
NHNNo&PTNT Hà nội là đơn vị đầu tiên được Tổng giám đốc
NHNNo&PTNT Việt nam cho mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ đối với cán bộ
làm công tác kế toán các chương trình ứng dụng, năm 2001 NHNNo&PTNT
Hà nội đã tổ chức 7 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ vi tính như : Chế độ chuyển
tiền điện tử, thanh toán bù trừ, chương trình dự thu dự chi, mua bán ngoại tệ,
đến nay 100% cán bộ kế toán đã thực hiện thành thạo các quy trình nghiệp
vụ hiện có của NHNNo&PTNT Việt nam như giao dịch thanh toán, chuyển
tiền điện tử, thông tin báo cáo, thanh toán liên hàng qua mạng máy tính, đối
chiếu liên hàng, thông tin tín dụng , quản lý nhân sự, thanh toán quốc tế, mọi
giao dịch trực tiếp với khách hàng đều được thực hiện trên máy tính.
Do yêu cầu hội nhập trong khu vực, nhằm nhanh chóng hiện đại công
nghệ ngân hàng, tháng 12 năm 2001 NHNNo&PTNT Hà nội đã thành lập
phòng Vi tính, đây là việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay phù
hợp với xu thế hiện đại hoá ngày càng nhanh chóng về công nghệ thông tin
tạo điều kiện cho NHNNo&PTNT Hà nội sớm hoà nhập vào hệ thống Ngân
hàng trong khu vực và thế giới.
3.6. Các công tác khác:
NHNNo&PTNT Hà nội luôn chú trọng đến các công tác hỗ trợ cho kinh
doanh đó là:
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Công tác quản lý và điều hành: Nhận thức được những khó khăn và
thách thức trong năm 2002. Ban lãnh đạo NHNNo&PTNT Hà nội đã xác
định phương châm hoạt động đúng đắn, đặt mục tiêu an toàn , tiết kiệm và
hiệu quả lên hàng đầu; tập trung chấn chỉnh các hoạt động Ngân hàng rà
soát lại các quy trình nghiệp vụ và bộ máy tổ chức, nhân sự, công tác chỉ
đạo điều hành luôn luôn theo sát các diễn biến về nguồn vốn, đầu tư vốn để
từ đó có sự chỉ đạo kịp thời về lãi suất và đảm bảo khả năng chi trả.
Công tác kiểm soát: được nâng cao cả về chất lượng, kết hợp cả hai
hình thức ; kiểm soát từ xa và tại chỗ, đã có tác dụng ngăn ngừa được sớm
những sai sót vi phạm.
Công tác đào tạo: Năm 2002,NHNNo&PTNT Hà nội đã tổ chức đào tạo
tại chỗ các nghiệp vụ tín dụng, kế toán, vi tính và ngân quỹ cho đội ngũ cán
bộ vào những ngày nghỉ cuối tuần đạt kết quả tốt.
II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
HÀ NỘI
1. Thực trạng tín dụng trung và dàI hạn tại Ngân hàng Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Bảng 3: Cơ cấu cho vay theo thời hạn
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Chỉ tiêu
Số tiền Tỷ
trọng
Số tiền Tỷ
trọng
Số tiền Tỷ
trọng
1. Dư nợ
Ngắn hạn
Trung dài
hạn
2. Doanh
số cho
vay
Ngắn hạn
Trung dài
hạn
3. Doanh
số thu nợ
Ngắn hạn
Trung dài
hạn
1.235.945
959.993
275.952
2654510
1645796
1008714
3.574.627
1787314
1787313
77,67%
22,33%
62%
38%
50,01%
49,99%
1.571.150
1.109.269
461.881
3.424.007
1985924
1438083
3.668.286
1.836.648
1.252.154
70,60%
29,40%
58%
42%
50,07%
49,93%
2.002.709
1.258.545
744.164
4.193.504
2.305.589
1.887.915
3.761.945
2.156.313
1.605.632
62,84%
37,16%
54,98%
45,02%
57,32%
42,68%
(Nguồn: Phòng kế hoặch kinh doanh NHNo&PTNT Hà Nội)
Nhìn vào bảng ta thấy tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dàI hạn trong các
năm vừa qua có sự tăng đều đặn cả về số tương đối và số tuyệt đối. ĐIểm lại
tình hình dư nợ của Ngân hàng những năm gần đây ta có thể thấy như sau;
nếu như năm 2000 dư nợ tín dụng trung và dài hạn 275.952 triệu đồng,
chiếm 22,23% tổng dư nợ; nhưng đến năm 2001dư nợ trung và dài hạn của
Ngân hàng là 461.881, chiếm 29,40% tổng dư nợ; đến năm 2002 dư nợ
trung và dài hạn của Ngân hàng là 744.164, chiếm 37,16% tổng dư nợ trong
Chuyên đÒ tốt nghiệp Vò Văn Cường
Lớp Ngân Hàng - 41C
Ngân hàng. Thông qua con số này cho ta thây sự phát triển mạnh mẽ của
Ngân hàng đối với tín dụng nói chung và đặc biệt là tín dụng trung và dài
hạn nói riêng.
Tương tự như vậy, doanh số cho vay và doanh số thu nợ cũng tăng
mạnh mẽ qua các năm. Năm 2000, doanh số cho vay trung và dài hạn mới là
1008714 triệu đồng, chiếm 38%; đến năm 2001 doanh số cho vay trung và
dàI hạn đạt 1438083 triệu đồng, chiếm 42%; năm 2002 doanh số cho vay
trung và dàI hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà
Nội là1887915 triệu đồng, chiếm 45,02% trong tổng doanh số cho vay.
Cơ cấu cho vay trung và dài hạn theo ngành kinh tế tại NHNo&PTNT Hà
Nội.
Bảng 4: Cơ cấu cho vay trung và dài hạn theo ngành kinh tế.
đơn vị: triệu đồng
Năm 2001 Năm 2002 Ngành
Dư nợ Tỷ lệ Dư nợ Tỷ lệ
1.Ngành công nghiệp
2.Ngành nông nghiệp
3.Ngành thương mại
dịch vụ
4.Ngành lâm nghiệp
5.Ngành khác
338.836
0
63.197
9.238
50.610
73,36%
0%
13,68%
2%
10,96%
617.210
0
107904
8.930
10120
82,94%
0%
14,50%
1,2%
1,36%
Tổng 461.881 744.164
(Nguồn: Phòng kế hoặch kinh doanh NHNo&PTNT Hà Nội)
Từ số liệu trên ta có biểu đồ về dư nợ tín dụng trung và dài hạn theo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng chất lượng tín dụng và một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.pdf