Tài liệu Luận văn Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam và bài học kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước: Luận văn
Thực trạng chất lượng cán bộ,
công chức Việt Nam và bài học
kinh nghiệm nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức của các nước
2
MỞ ĐẦU
Cải cách hành chính nhà nước Việt Nam đang là một chủ đề thời sự được
nhiều người quan tâm và đặc biệt sau những vụ án làm sai nguyên tắc quản lý ,
nhận hối lộ, "rút ruột" các công trình xây dựng cơ bản, . . . của một bộ phận cán
bộ có chức, có quyền thoái hóa, biến chất được phanh phui trước ánh sáng của
pháp luật. Những sự thật đau lòng đó đang "gióng lên những hồi chuông cảnh
tỉnh" cho nhà nước ta, đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn nhận lại vấn đề chất
lượng cán bộ, công chức trong điều kiện hiện nay, từ đó tìm ra những giải pháp
hạn chế những điểm yếu và nâng cao những điểm mạnh của họ để cho nền hành
chính của nước ta thực sự trong sạch và vững mạnh hơn, để nhà nước thực sự là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đề án này ra đời nhằm mục đích giúp cho
chúng ta có một cái nhìn sơ lược về cán bộ, công chức của Vi...
43 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1702 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam và bài học kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng chất lượng cán bộ,
công chức Việt Nam và bài học
kinh nghiệm nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức của các nước
2
MỞ ĐẦU
Cải cách hành chính nhà nước Việt Nam đang là một chủ đề thời sự được
nhiều người quan tâm và đặc biệt sau những vụ án làm sai nguyên tắc quản lý ,
nhận hối lộ, "rút ruột" các công trình xây dựng cơ bản, . . . của một bộ phận cán
bộ có chức, có quyền thoái hóa, biến chất được phanh phui trước ánh sáng của
pháp luật. Những sự thật đau lòng đó đang "gióng lên những hồi chuông cảnh
tỉnh" cho nhà nước ta, đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn nhận lại vấn đề chất
lượng cán bộ, công chức trong điều kiện hiện nay, từ đó tìm ra những giải pháp
hạn chế những điểm yếu và nâng cao những điểm mạnh của họ để cho nền hành
chính của nước ta thực sự trong sạch và vững mạnh hơn, để nhà nước thực sự là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đề án này ra đời nhằm mục đích giúp cho
chúng ta có một cái nhìn sơ lược về cán bộ, công chức của Việt Nam. Ngoài
phần mở đầu và kết luận Đề án được chia làm 3 chương
Chương 1 Cơ sở lý luận
Chương 2 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam và bài học
kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước
Chương 3 Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ công chức.
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đến nay đã có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu đưa ra các khái
niệm , định nghĩa về nguồn nhân lực của một quốc gia. Tuy không hoàn toàn
giống nhau, nhưng có thể hiểu một cách nôm na là nguồn nhân lực chính là
nguồn lao động. Tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế xã hội, nguồn lao động sẽ
được phân bổ khác nhau trong bốn lĩnh vực hoạt động sau:
-Hoạt động trong lĩnh vực quản lý hành chính công bao gồm từ nhân viên
đến nhà lãnh đạo.
-Hoạt động trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp từ sơ cấp, trung cấp đến
cao cấp.
-Hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở công tác nghiên cứu lẫn
triển khai ứng dụng.
-Lao động trong các nghành nghề khác nhau như sản xuất kinh doanh và
dịch vụ.
Thực tế cho thấy: sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia, một lãnh
thổ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của nguồn nhân lực này.Vì vậy nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là vấn của mọi thời đại và đặc biệt cần thiết với tình
hình của nước ta hiện nay.
1.1 Hành chính và cải cách hành chính
1.1.1 Khái niệm về hành chính
Là hệ thống tổ chức của nhà nước bao gồm bộ máy nhân sự và thể chế
nhà nước về tổ chức và cơ chế hoạt động, có chức năng thực thi quyền hành
pháp bằng hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tức là quản lý công việc
hàng ngày của Nhà nước còn gọi là hành chính công hay hành chính công
quyền.
1.1.2 Tính tất yếu của việc cải cách hành chính
Cải cách hành chính – Vấn đề của mọi chế độ nhà nước. Hành chính, xét
từ giác độ thể chế trong nhà nước pháp quyền là một cơ cấu của quyền hành
pháp. Khi nói hành pháp là để đặt bộ máy quản lý bên cạnh các quyền lập pháp
và quyền tư pháp. Như ở nước ta đó là mối quan hệ giữa Chính phủ
4
- Cơ quan thực thi pháp luật , Quốc hội - cơ quan lập pháp và toà án - cơ
quan tư pháp. Nhưng hành pháp với nghĩa là cơ quan ở trung ương muốn thực
hiện được vai trò quản lý các quá trình của đời sống xã hội thì cần có một hệ
thống tổ chức theo chiều ngang và chiều dọc. Chiều ngang như các cơ quan
cùng vị thế nhưng khác nhau về chức năng và đối tượng (như các bộ ở trung -
ương và các cơ quan trong cùng một cấp ở địa phương) và chiều dọc như các
cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương ở nước ta. Thực chất quyền hành
pháp và quyền hành chính chỉ là một: một bộ máy, một đội ngũ, một hệ thống
điều hành, hệ thống chính sách. Có khác chỉ là đặt nó trong quan hệ khác nhau
mà thôi.
Vậy xét từ giác độ thể chế, bộ máy hành chính nước ta từ chỗ tư duy
thành lập các bộ chuyên ngành sâu (thành lập các bộ bám sát các ngành kinh tế
kỹ thuật), được cải cách theo hướng thành các bộ theo hướng đa ngành; từ giai
đoạn nhập tỉnh đến chỗ chia lại dân cư, đơn vị và lãnh thổ hành chính; từ chỗ
xoá bỏ chức vụ trưởng thôn (hình như xem nó giống như mô hình lý trưởng, xã
trưởng ngày xưa chăng), lấy bộ máy hợp tác xã vốn là thể chế kinh tế làm luôn
chức năng quản lý xã hội (chủ nhiệm hợp tác thu tiền làm đường, sửa chùa,
dựng đội văn nghệ vì không có bộ máy tự quản hành chính ở thôn (làng, ấp,
bản) đến chỗ các đơn vị cộng đồng thôn làng cần có cơ chế tự quản hành chính
phân biệt với bộ máy điều hành sản xuất.
Công việc vì vậy cần có sự phân định rõ: hợp tác là bộ máy điều hành sản
xuất, trưởng thôn là cơ cấu tự quản hành chính ở nông thôn. ở đó có sự cải cách
thể chế.
Cũng không mấy ngạc nhiên khi mà, hiện nay vấn đề cấp hành chính
đãđược hiến pháp qui định, nhưng hẳn sự bất cập về tầng nấc các cấp chính
quyền ở đô thị vẫn còn không ít sự tranh luận. Mấu chốt pháp lý xuất phát từ
hiến pháp. Nhưng hiến pháp là sản phẩm tư duy có tính ổn định tương đối, còn
sự vận động, nhất là trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế của xã hội có khi diễn ra
hàng ngày, hàng tháng, hàng năm. Hiến pháp năm 1992 ban hành vào thời điểm
bản lề của sự thay đổi cơ chế (có thể nói giai đoạn bản lề bắt đầu từ năm 1986
5
cho đến hiện nay). Vì vậy trong khi hiến pháp qui định một số cấp ở nông thôn
và thành thị có vị thế pháp lý tương đương thì ở nông thôn sự vận động thay đổi
chậm hơn nhiều so với các hoạt động đô thị.
Giữa thành thị và nông thôn còn chứa đựng sự khác biệt giữa hai loại cơ
cấu hành chính tổng thể và các yếu tố bên trong của các cấp đó. ít nhất ta nhìn
thấy những đặc trưng về đối tượng quản lý khác hẳn: qui mô lãnh thổ, đặc điểm
dân cư, phương thức cư trú và lao động sản xuất giữa nông thôn và thành thị.
Nếu ở nông thôn mỗi gia đình có một giếng nước thì ở thành thị cả thành phố
chỉ có "một giếng nước" ? Nếu ở nông thôn người ở địa phương này không thể
có quyền sử dụng ruộng đất sản xuất ở địa phương khác thì ở đô thị gần như
hoàn toàn ngược lại: người ta ở chỗ này nhưng đi làm, kiếm sống, công tác lại ở
nơi khác.v.v. . . Vậy nên yếu tố tầng nấc hành chính phiền hà do thiết kế cấp
hành chính trùng khớp về cấp như thế đã bộc lộ sự phiền hà. (Tất nhiên sự phiền
hà rất đa dạng chứ không phải chỉ ở việc cấu trúc đô thị)
Hành chính là cơ quan quản lý xã hội nên thiên chức của nó gắn với thực
tiễn sinh động của xã hội. Xã hội luôn là một thực thể vận động (vì xã hội là xã
hội của những con người với những hoài bão, ý tưởng, nguyện vọng luôn thay
đổi theo hướng căn bản tích cực). Vì thế hành chính với tính cách là bộ máy
điều hành các hoạt động xã hội không thể nhất thành bất biến, nghĩa là nó phải
thay đổi, bám sát đời sống. Thời bao cấp và quản lý theo kiểu tập trung quan
liêu thì bộ máy cũng được hình thành theo phương thức nhấn mạnh (thậm chí
quá mạnh) vai trò của các quyết định tập thể, các cơ quan ra quyết định; coi nhẹ
các quyết định cá nhân và các chức vụ của những người đứng đầu. Nhưng
chuyển sang cơ chế thị trường và đời sống dân sự ngày càng phát triển, các mối
quan hệ, dao gạch dân sự liên quan đến lợi ích, quyền và trách nhiệm của công
dân ngày càng tăng thì quyền và trách nhiệm cá nhân phải được xác lập. Công
việc điều hành hành chính hàng ngày liên quan đến công dân và tổ chức dứt
khoát liên quan đến vị trí, chức vụ của một người nhiều hơn là một tổ chức (chủ
tịch, phó chủ tịch UBND; chứ không phải uỷ ban; trưởng phó phòng chứ không
6
phải phòng, cán bộ thuế, địa chính chứ không phải phòng thuế, phòng địa chính,
trưởng phó công an chứ không phải phường, đồn công an...).
Khi xã hội đã vận động ờ trình độ cao hơn của nền kinh tế, văn minh hơn
về nhu cầu văn hoá, hiện đại hơn về sử dụng và hưởng thụ các tiện nghi thì quản
lý theo kiểu cũ chắc chắn sẽ không thể chấp nhận được. Thời của xe đạp thì
thường người ta đi kiểu gì cũng ít rủi ro, va chạm, vậy nên ai chen lên đi trước,
đi bên nào của con đường cũng chẳng quan trọng lắm. Nhưng tâm lý đó của thời
nay ở người dân thì rất nguy hiểm đến tính mạng.
Nếu tâm lý đó có ở người thực thi công quyền như người công an hay
thanh tra giao thông thì không thể duy trì được trật tự xã hội và không thể giải
quyết được khi xuất hiện tranh chấp. Mấy chục năm trước đây khi phương tiện
còn ít và nghèo nàn, cơ sở hạ tầng thấp kém số lượng và qui mô các phương tiện
giao thông gia tăng thì những máy bắn tốc độ, giấy phép lái xe máy cũng như là
vật thừa; nạn mãi lộ trên đường liên quan đến vi phạm luật giao thông không có
môi trường phát sinh; số người tai nạn và tử vong lên tới mấy chục người mỗi
ngày cũng không có trong các số liệu thống kê. Nhưng bây giờ thì mọi sự hình
như quay ngược 180 độ? Nói cách khác xã hội thay đổi thì quản lý hành chính
phải thích ứng. Cái gì trì trệ nhất thiết phải đổi mới; đổi mới một cách tự phát
chưa đáp ứng thì nhất thiết nó phải là động lực của ý chí trong nhận thức nói
chung và tư duy của người quản lý nói riêng của người công chức. Vì thế cải
cách hành chính phải được coi là quyết sách của Nhà nước nói chung và Chính
phủ nói riêng.
Cải cách hành chính cần tới cải sự đồng bộ của hệ thống pháp luật thực
định Với vị trí là cơ quan thực thi pháp luật, hành chính tự đặt nó vào mối quan
hệ với lập pháp. Nghĩa là, muốn thực thi hiệu quả pháp luật trong xã hội thì phải
có những đạo luật chặt chẽ, cụ thể, dễ hiểu và có tính khả thi cao (nếu là điều
ngược lại, như qui định trừu tượng, khó hiểu thì đương nhiên ảnh hưởng đến
hoạt động quản lý điều hành của quản lý hành chính).
Hành chính cũng tự đặt nó vào nhiệm vụ cụ thể của chính nó thông qua
năng lực trình độ và bản lĩnh của đội ngũ đông đảo nguồn nhân của chính mình.
7
Nói cách khác, giả thiết như chúng ta có hệ thống pháp luật thực định có tính
khả thi cao nhưng trao cho những cán bộ thiếu năng lực, thiếu mẫn cán hoặc
tham Ô trục lợi thì tính khả thi của luật pháp cũng trở thành “bất khả thi".
Hành chính phiền hà mất thời gian và vật chất của người dân do qua nhiều
tầng nấc mới nẩy ra tư tưởng cải cách một cửa" (theo tôi, bản chất của một cửa
là làm mọi thủ tục nhanh hơn, chất lượng hơn, tín nhiệm hơn với người dân chứ
không phải nó hơn ở con số một hay là hơn một. Thí như nếu "một cửa!' mà mất
ba ngày và một triệu đồng trong khi ba cửa mất một buổi sáng và 500 nghìn
đồng thì con số một cửa chẳng có ích gì). Và muốn một cửa cũng hợp pháp thì
hệ thống văn bản liên quan đến con dấu hợp pháp từ chỗ của nhiều bộ phận nay
chỉ còn một cũng phải qui định rõ, nghĩa là cũng cần tới ban hành văn bản.
Cải cách về tổ chức, thể chê' có liên quan đến con người từ các giác độ:
kỹ năng, bản lĩnh, kiến thức... Khi thay đổi phương thức quản lý ắt sẽ dẫn đến
thay đổi đối tượng, phạm vi, qui trình của quản lý. Vì thế việc từ bỏ cơ chế chủ
quản được chấp nhận và thực hiện, chắc chắn sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản
trong rèn luyện và thực hành chuyên môn, trong phong cách, lề lối thậm chí tính
cách của người công chức: thay lối làm việc kiểu quan liêu, quan hệ xin cho, sự
trì trệ về nghiệp vụ (vốn không phải sở trường và chức năng của người ở vị trí
hoạch định chính sách) bằng việc giúp cho các chính trị gia cho những người
điều hành ở bên trên trong hoạch định chính sách, tăng cường công tác và
nghiệp vụ thanh tra.
Xét theo bản chất cố hữu nhà nước là công cụ giai cấp, mà còn giai cấp có
nghĩa là còn có người no kẻ đói. Vậy nên tham nhũng là căn bệnh của nhà nước
nói chung, không phải chỉ của nhà nước bóc lột. Nhà nước không có tham nhũng
hiện chỉ có trong lý luận và sách vở mà thôi. Nhưng xuất phát từ bản chất của
nhà nước và tính đại diện giai cấp của nó thì trong nhà nước của người lao động
bệnh tham nhũng phải là thói xấu và rất khó nảy sinh mới đúng về nguồn gốc và
bản chất, mới phải trong lẽ sống và văn hoá văn minh của chế độ. Tiếc thay thực
trạng hiện nay tham nhũng như một mặt trận mà ngày nào cũng có “ súng nổ”; ít
nhất là nổ trên báo chí và công luận, trong các hoạt động thanh tra, toà án kiểm
8
tra kiểm soát trong hệ thống điều hành. Vì vậy chống tham nhũng chắc chắn
phải là một nội dung quan trọng trong xây dựng thể chế rèn luyện con người của
cải cách hành chính hiện nay.
Lãng phí trong công vụ là một khái niệm có vẻ không “nguy hại” mấy
nhưng những số liệu khổng lồ về thất thoát, kém hiệu quả trong quản lý do lãng
phí cho thấy sự nguy hại của lãng phí ở chỗ nó góp phần làm nghèo đất nước,
làm hư cán bộ (coi thường công sản mà coi trọng của riêng; thiếu trách nhiệm
trong hoạch định chính sách trong hạch toán các công trình kế hoạch liên quan
đến chi tiêu tài sản công quĩ; tạo ra thói vô trách nhiệm, vô cảm trong tiêu xài
hoang phí của công...).
Vì vậy vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ công chức là một vấn đề then
chốt trong công cuộc cải cách hành chính nước ta hiện nay.
1.2 Cán bộ, công chức
1.2.1 Các khái niêm cơ bản1
Khái niệm cán bộ
-Khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta vào những năm 30
của thế kỷ XX, để chỉ một lớp người, những chiến sĩ cách mạng đã hy sinh, gian
khổ đấu tranh giành độc lập dân tộc, và sau này, trong thời kỳ kháng chiến
chống pháp, được dùng phổ biến để chỉ tất cả những người thoát ly tham gia
hoạt động kháng chiến, để phân biệt với nhân dân. Theo cách hiểu thông thường,
cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính
quyền, Đảng, đoàn thể, quân đội; Dưới góc độ hành chính, cán bộ được coi là
những người có mức lương từ cán sự trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức
lương thấp hơn cán sự. Hiện nay, ở nước ta khái niệm cán bộ được dùng với
nhiều nghĩa khác nhau:
Trong tổ chức Đảng và đoàn thể thường được dùng với hai nghĩa: một là,
chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến trung ư-
ơng( cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hôi viên;
1 TS. Thang Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương, Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức, NXB Chính Trị Quốc Gia.
9
hai là, những người làm công tác chuyên trách hưởng lương trong các tổ chức
Đảng, đoàn thể. Trong quân đội là những người giữ cương vị chỉ huy từ tiểu đội
trưởng trở lên ( cán bộ tiểu đội, trung đội, đại đội, cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn,
sư đoàn, . . .) hoặc sĩ quan từ cấp úy trở lên. Trong bộ máy nhà nước, khái niệm
cán bộ về cơ bản được hiểu với nghĩa trùng với nghĩa trùng với khái niệm công
chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc ngạch hành
chính, tư pháp, lập pháp, kinh tế, văn hóa xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được
hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo.
Khái niệm công chức.
Công chức là một khái niệm chung được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc
gia trên thế giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường
xuyên trong cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương.
Khái niệm công chức mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc vào
tính chất đặc thù của mỗi quốc gia cũng như từng từng giai đoạn lịch sử cụ thể
của từng nước. Do đó, trong thực tế rất khó có một khái niệm chung về công
chức cho tất cả các quốc gia. Ở Việt nam, khái niệm công chức được hình thành,
phát triển và ngày càng hoàn thiện gắn với sự phát triển của nền hành chính nhà
nước. Điểm khởi đầu của sự hình thành khái niệm công chức ở Việt nam là việc
ban hành sắc lệnh số 76/SL, ngày 20-5-1950 của chủ tịch nước Việt nam dân
chủ cộng hòa về quy chế công chức. Theo quy chế này, phạm vi công chức là rất
hẹp, chỉ những người được tuyển dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các
cơ quan Chính phủ, tức là đội ngũ công chức hành chính nhà nước, theo cách
nói hiện nay.
Sau đó, suốt một thời gian khá dài (từ đầu những năm 1960 đến cuối
những năm 1980), khái niệm công chức ít được sử dụng, thay vào đó là khái
niệm cán bộ công nhân viên chức nhà nước, không phân biệt công chức, viên
chức với công nhân. Khi thực hiện công cuộc đổi mới, trước những yêu cầu
khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước và đòi hỏi phải
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, thuật ngữ công chức được sử
dụng trở lại. Nghị định 1 69/HĐBT ngày 25 -5 - 1 99 1 quy định như sau: "Công
10
dân Việt nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
trong một công sở của nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước
hay nước ngoài đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà
nước cấp gọi là công chức".
Khái niệm trên đã nêu khá dầy đủ các dấu hiệu cơ bản về công chức trong
nền hành chính hiện đại, phù hợp với quan niệm chung của các quốc gia trên thế
giới. Đây là một bước chuyển quan trọng để tiến tới xây dựng chế độ công chức
trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên khi quy định những đối tượng là công chức và
không phải là công chức ( tại điều 2 của nghị định này) thì lại bộc lộ một số hạn
chế sau:
Một số đối tượng như cảnh sát, những người làm công tác nghiên cứu
khoa học, giáo viên, nhà báo, nghệ sĩ. . . chưa được xếp vào loại nào. Ở điều 2
của Nghị định này đã qui định "tất cả những người làm việc trong các cơ quan,
tổ chức nhà nước" là công chức nhà nước, nhưng trên thực tế không thể đồng
nhất khái niệm "cơ quan nhà nước" với "công sở nhà nước" vì không phải mọi
cơ quan, tổ chức nhà nước đều là công sở nhà nước ( ví dụ: Quốc hội là cơ quan
nhà nước nhưng không phải là công sở nhà nước).
Khái niệm viên chức. Theo nghị định 1 1 6/2003/NĐ-CP ngày 1 0- 1 0-2003,
Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong các
đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước và nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp
luật. Như vậy, Viên chức là những nhân viên làm việc trong các cơ quan y tế,
giáo dục, khoa học- công nghệ, văn hóa thông tin, thể dục thể thao, . . . của
Đảng, nhà nước và của các đoàn thể nhân dân, các hội nghề nghiệp, mà lâu nay
vẫn được gọi là công chức sự nghiệp.
- Công chức dự bị. Theo pháp lệnh công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003
và nghị định số 1 1 5/2003/NĐ-CP ngày 1 0- 10-2003 của chính phủ về chế độ
công chức dự bị, " công chức dự bị là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, được tuyển dụng để bổ sung cho đội ngũ cán bộ,
11
công chức quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi bổ
sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 29-4-2003"
Công chức dự bị được phân công làm việc có thời hạn tại các cơ quan, tổ
chức sau:
+ Văn phòng Quốc Hội; .
+ Văn phong Chủ tịch nước;
+ Toàn án nhân dân các cấp;
+ Viện kiểm soát nhân dân các cấp;
+ Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ;
+ Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban nhân dân quận, huyện,
thành phố thuộc tỉnh.
+ Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
1.2.2. Phân loại cán bộ, công chức.
a. Theo đặc thù và tính chất công việc
Theo cách phân loại này ta có thể dễ dàng hình dung được công việc của
từng loại cán bộ, công chức. Cách phân loại này rất tết cho việc quy hoạch công
chức, vì dễ dàng trong việc sắp xếp, tổ chức, đào tạo, và có thể đáp ứng yêu cầu
của từng loại công việc khác nhau. Có thể chia công chức hành chính nhà nước
thành các loại chính như sau:
- Công chức lãnh đạo. Đây là những công chức giữ những cương vị chỉ
huy trong điều hành công việc, họ là những người được quyền ra các quyết định
quản lý, tổ chức và điều hành những người dưới quyền thực hiện công việc
- Công chức chuyên gia. Họ là những người có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, có khả năng nghiên cứu, đề xuất những phương hướng, quan điểm và
thực thi công việc chuyên môn phức tạp.
Công chức thi hành công việc. Đây là những người thực thi công việc thi
hành công vụ, thừa hành công việc, nhân danh quyền lực của nhà nước. Họ
không có thẩm quyền ra quyết định như các cán bộ, công chức lãnh đạo, họ
12
cũng được trao những thẩm quyền nhất định trong phạm vi công tác của mình
khi thực thi công việc.
- Nhân viên hành chính. Họ là những người thừa hành nhiệm vụ do các
công chức lãnh đạo giao phó, phục vụ trong bộ máy nhà nước. Trình độ chuyên
môn kỹ thuật của nhân viên hành chính ở mức thấp, nên họ phải tuân thủ sự
hướng dẫn, chỉ bảo của cấp trên.
b. Theo trình độ đào tạo.
Đây là căn cứ cơ bản để xét mức lương, phân công sắp xếp các vị trí công
việc cho cán bộ, công chức. Theo điều 4 nghị định 1 17/2003/ NĐ-CP ngày
10/10/2003 của chính phủ, công chức được chia thành các loại A, B, C Công
chức loại A là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo
chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học; công chức loại B là những người
được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục nghề
nghiệp; công chức loại C là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu
trình độ đào tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
c. Theo ngạch bậc.
Ngạch công chức dùng để chỉ trình độ, năng lực, khả năng chuyên môn
và ngành nghề của công chức. Mỗi ngạch thể hiện một trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và có những tiêu chuẩn riêng . Theo quyết định 414/TCCP ngày
29/5/1993 của Bộ trưởng, trưởng ban Tổ chức-cán bộ chính phủ, công chức
hành chính có 11 ngạch:
1 . Chuyên viên cao cấp
2. Chuyên viên chính
3 . Chuyên viên
4. Cán sự
5 . Kỹ thuật viên đánh máy
6. Nhân viên đánh máy
7 . Nhân viên kỹ thuật
8. Nhân viên văn th
9. Nhân viên phục vụ
13
1 0 . Lái xe cơ quan
1 1 Nhân viên bảo vệ
1.3 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức
1.3.1 Vị trí vai trò của cán bộ, công chức.
a. Vị trí.
V I Lênin đã từng viết: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra trong hàng ngũ của mình những
người lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào". Như vậy, cán bộ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành
công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là những người đại diện cho
nhân dân hay một nhóm người có cùng lợi ích, họ có khả năng tổ chức, lãnh
đạo, thống nhất các ý kiến và giải quyết các mục tiêu chung của người dân. Họ
là những người tiên phong đi đầu để khơi dậy sức mạnh của mỗi cá nhân tổng
hợp thành sức mạnh to lớn của một tập thể.
Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với cán bộ, công chức là mối
quan hệ nhân quả. Đờng lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai
đoạn, trong từng thời kỳ do những cán bộ, công chức đề ra và cũng là những
người chỉ đạo để thực thi những đường lối và nhiệm vụ đó, do vậy chỉ có đội
ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực mới có thể đề ra được
đường lối đúng, mới có thể cụ thể hóa, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối và thực
hiện tốt đường lối. Không có đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh thì cho dù
đường lối và nhiệm vụ chính trị đúng đắn đến đâu cũng khó có thể trở thành
hiện thực.
Cán bộ, công chức là cầu nối giữa Đảng, chính phủ và quần chúng nhân
dân. Họ là những người mang các chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
tuyên truyền và giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành. Do Việt Nam vẫn là
một quốc gia nghèo, nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, nông dân lạc
hậu, trình độ học vấn chưa cao, dẫn đến sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp
luật còn rất thấp, vai trò của người cán bộ, công chức lúc này là hết sức quan
14
trọng. Không chỉ đơn thuần là truyền đạt những đường lối, chủ trương của Đảng
và nhà nước, cán bộ, công chức còn là hệ thống phản hồi thông tin, nắm bắt tình
hình triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước, những yêu cầu, kiến nghị của nhân dân, phản ánh lại cho
Đảng và nhà nước để có thể điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp
với tình hình thực tế.
b. Vai trò (thể hiện qua 4 mối quan hệ).
- Quan hệ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
- Quan hệ với bộ máy(các cơ quan tổ chức lãnh đạo quản lý).
- Với công việc. . .
- Với quần chúng nhân dân.
1.3.2 Sự cần thiết phải xây dựng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức.
Vai trò của nhà nước có sự thay đổi căn bản trong điều kiện chuyển đổi
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước phải được chuyển đổi cho
phù hợp với những thay đổi của nền kinh tế - xã hội. Cần phải tách công việc
hành chính nhà nước với phục vụ, cung cấp dịch vụ cho xã hội; tách chức năng
hoạch định chính sách với tổ chức thực thi cụ thể; tách quản lý hành chính nhà
nước với sản xuất, kinh doanh; tách hành chính với sự nghiệp dịch vụ. Nhà nước
cần tập trung sức vào các hoạt động công cộng cốt lõi, có tầm quan trọng then
chết đối với sự phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động .
- Sự phân cấp, phân quyền trong quá trình quản lý là một điều không thể
thiếu khi quản lý một tổ chức. Nhà nước là một tổ chức lớn, có rất nhiều mảng
công việc, để thực hiện những công việc này thì nhất thiết chia ra cho các tổ
chức, cá nhân đảm nhiệm. Nhà nước sẽ chuyển giao một số cho các cơ quan
hành chính địa phương và các tổ chức xã hội dưới các hình thức da dạng như ủy
quyền, phân cấp, xã hội hóa, . . . Sự phân cấp và ủy quyền này sẽ làm quá trình
thực hiện các công việc nhanh hơn, tránh được hiện tượng trùng lặp, chồng chéo
công việc.
15
- Sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ của nhà nước nói chung, phân công,
phân cấp quản lý của nền hành chính nói riêng đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có
những thay đổi tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có đủ trình
độ, năng lực, phẩm chất cũng như thẩm quyền để thực thi việc quản lý hành
chính nhà nước.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ảnh hưởng đến hệ thống kỹ thuật trong tổ
chức hành chính cần phải hiện đại hóa tổ chức hành chính, hoàn thiện cơ cấu
pháp lý, cải cách bộ máy hành chính, phát triển đội ngũ cán bộ. Với sự phát triển
mạnh mẽ của lĩnh vực công nghệ thông tin và đặc biệt là những ứng dụng trong
công tác quản lý, với sự ra đời của chính phủ điện tử đòi hỏi đội ngũ cán bộ,
công chức ngày càng phải được hoàn thiện nâng cao hơn nữa về chất lượng, có
như vậy mới đáp ứng được các yêu cầu mới trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế.
Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước đang trở thành một bộ phận
quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, với bốn nội dung quan trọng. Thứ
nhất phải đổi mới cơ chế về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệuquả thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ chế và thủ tục hành
chính, tập trung trước hết vào xóa bỏ những quy định mang nặng tính hành
chính quan liêu, bao cấp, gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và nhân dân,
kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Xây dựng và thực hiện chơng trình
đổi mới thể chế trong từng năm. Bảo đảm các văn bản pháp quy có nội dung
đúng đắn, nhất quán, khả thi. Chỉ đạo sát từ khâu soạn thảo, thông qua đến phổ
biến, thực hiện và tổng kết.
Đổi mới phương thức và quy trình xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp
giữa các ngành, các cấp có liên quan, coi trọng sử dụng các chuyên gia liên
ngành và dành vai trò rất quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của doanh
nghiệp. Đặc biệt tăng cường việc chỉ đạo, kiểm tra, nâng cao kỷ luật và hiệu lực
thi hành pháp luật trong bộ máy nhà nước và trong xã hội. Thứ hai, phải kiện
toàn tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước với
hoạt động kinh doanh, xúc tiến việc đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động
16
và quy chế làm việc của các cơ quan nhà nước. Thực hiện mạnh mẽ việc phân
cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với nâng cao tính tập trung, thống nhất
trong việc ban hành thể chế. Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp,
từng tổ chức, từng cá nhân.
Đề cao trách nhiệm cá nhân, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Khắc
phục tình trạng trùng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ trong
công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của tòa hành chính
trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính. Tách cơ quan hành chính công
quyền với tổ chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động
không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận
lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng
như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn trật tự trị an xóm, phường . . .
Xúc tiến nhanh và có hiệu quả việc hiện đại hóa công tác hành chính, dặc
biệt là ứng dụng công nghệ thông tin. Kiện toàn bộ máy và tinh giản biên chế
một cách cơ bản. Có chính sách giải quyết thỏa đáng số người dôi ra.
Thứ ba, Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức.
Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chơng trình, nội dung sát
hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường. Đổi mới và đa vào nền nếp việc thực
hiện quy chế tuyển chọn, đề bạt, khen thởng, kỷ luật, nghỉ hưu.
Thực hiện nguyên tắc người phụ trách công việc có quyền hạn và trách
nhiệm trong việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ, công chức dưới quyền. Thanh lọc
những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm; chuyển đổi công tác những người không
đủ năng lực.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở,
bảođảm cho dân tiếp xúc dễ dàng các cơ quan công quyền, có điều kiện kiểm tra
cán bộ, công chức, nhất là những người trực tiếp làm việc với dân.Thứ tư, ngăn
chặn và đẩy lùi tham nhũng, quan liêu. Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham
nhũng cũng phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu
17
tranh chống tham nhũng; khen thởng người phát hiện đúng những vụ tham
nhũng. Thực hiện các biện pháp ngăn chặn tham nhũng, quan liêu:
+ Đổi mới và hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính, kiên quyết chống tệ
cửa quyền, sách nhiễu, “xin - cho" và sự lắc trách, vô kỷ luật trong công việc
Thực hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức đã quy định trong
pháp luật.
+ Tăng cường quản lý, kiểm tra, ngăn chặn lãng phí, tham nhũng tiền và
tài sản công, nhất là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
+ Thực hiện quy chế dân chủ và công khai tài chính ở cơ sở và các cấp
chính quyền; thực hiện chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ lãnh đạo các cấp,
các ngành. Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân và phương tiện thông tin
đại chúng.
+ Cải cách tiền lương đi đôi với tăng cường giáo dục và kiểm tra việc
thực hiện công vụ của cán bộ, công chức
Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ công
chức hành chính là một nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính nhà
nước. Việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ công chức không chỉ nhằm đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi bức xúc nội tại của nguồn nhân lực nhà nước, mà còn là
nhân tố có tính quyết định trong việc thực hiện chương trình tổng thể cải cách
nền hành chính nhà nước. Các mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng,
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như các kết quả đạt được phải đảm
bảo tính đồng bộ và phù hợp với mục tiêu chung của cải cách nền hành chính,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước. Đất nước ta đã thoát khỏi chiến
tranh hơn 30 năm, nhưng các thế lực thù địch, chống phá vẫn còn rất nhiều,
chúng vẫn đang thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm thủ tiêu vai trò
lãnh đạo của Đảng, làm tha hóa, biến chất đội ngũ cán bộ, từ đó thực hiện mưu
đồ chuyển hóa chính trị, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng muốn lợi
dụng sự đổi mới, sự chuyển tiếp giữa các thế hệ cán bộ của ta, thông qua các
quan hệ kinh tế, văn hóa, ngoại giao,.. để làm đội ngũ cán bộ của ta "tự diễn
biến" đi lệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó đòi hỏi cán phải
18
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, có tinh thần yêu
nước, sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.3.3 Những khó khăn và thách thức.
- Những vấn đề có tính lý luận trong việc tổ chức bộ máy nhà nước và
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa được làm rõ.
- Tình trạng thấp kém của nền kinh tế và ngân sách nhà nước còn rất hạn
hẹp. Đây là thách thức lớn nhất của đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức hiện nay.Tình trạng kém phát triển kinh tế của đất nước là
nguồn gốc và là cơ sở cho việc duy trì tình trạng bảo thủ, trì trệ, kém năng động,
thiếu tinh thần hợp tác trong công việc, chính những điều đó là những nhân tố
ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng, quản lý, phát triển và nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức. Trình độ thấp kém về năng xuất lao động xã hội và
chậm phát triển của nền kinh tế không cho phép có một ngân sách, tài chính dồi
dào để có thể thực hiện triệt để các biện pháp như: tăng mức tiền lương để có thể
đáp ứng được những nhu cầu cơ bản, giảm biên chế, đào tạo lại, tuyển mới để
nhanh chóng đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như thực hiện các chế độ
đãi ngộ thỏa đáng hay việc dùng các biện pháp kinh tế để khuyến khích cán bộ,
công chức nâng cao trình độ, tận tâm với công việc và thu hút nhân tài trong xã
hội cho nền công vụ.
Điều 8 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
quy định: " Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền". Điều 2 pháp lệnh
cán bộ công chức sửa đổi bổ sung năm 2003 quy định: " Cán bộ, công chức là
công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn
luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực
hiện tết nhiệm vụ, công vụ được giao". Trong khi đó Cán bộ, công chức không
được hưởng bất cứ một đặc quyền, đặc lợi nào. Để tạo điều kiện tết nhất cho cán
bộ làm việc và cống hiến, chúng ta thường có những chính sách ưu đãi nhất định
19
với cán bộ, song những chính sách này phần lớn do những người đứng đầu cơ
quan, đơn vị hay đội ngũ cán bộ chủ chốt đề ra, cho nên trong thực tế chính sách
đối với cán bộ thường bị lợi dụng để biến cán bộ từ " công bộc", “đầy tớ” trung
thành của nhân dân trở thành "ông chủ” của nhân dân, thành những người được
hưởng những đặc quyền, đặc lợi hợp pháp. Vì vậy nhiều người mơ ước được
làm cán bộ, công chức không phải để công hiến mà vì lợi ích cá nhân. Hơn nữa,
nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội
nhập kinh tế quốc tế, những yếu tố mới của thị trường đang hình thành và biến
đổi nhanh chóng, đòi hỏi người cán bộ, công chức phải thích ứng được. Đây là
đòi hỏi không dễ có thể thỏa mãn được, nhất là trong điều kiện vẫn còn tồn tại
nhiều tàn dư của tư tưởng cũ thời kỳ bao cấp.
- Sự thách thức do chuyển đổi cơ chế, sự tồn tại dai dẳng những thói quen
của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những thói quen đó đã ăn sâu vào nếp
nghĩ, phong cách làm việc của cán bộ, công chức, nhất là những bộ phận công
chức có lợi ích gắn liền với cơ chế đó, từ đó làm cho nền hành chính nói chung
và việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng khó thoát ra khỏi sự chi
phối, ràng buộc của cơ chế cũ để phù hợp với cơ chế mới, đáp ứng được các yêu
cáu của thời kỳ mới. Hơn nữa, chúng ta tiến hành cải cách hành chính, xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản
lý, chưa có tiền lệ trong quản lý phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; nhiều việc vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Đó là một
thách thức lớn trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ công chức
trong điều kiện hiện nay.
Sự cạnh tranh thu hút nhân tài của các khu vực kinh tế tư nhân và các
công ty nước ngoài. Sự kiện ngày 7/1 1/2006 Việt Nam được gia nhập vào tổ
chức thương mại quốc tế WTO, Sự kiện Việt Nam là nơi tổ chức cuộc họp của
diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á thái bình dương APEC từ ngày 13 đến 19/1
1/2006 và sự kiện tập đoàn Intel nâng vốn đầu tư vào nhà máy sản xuất Chíp
máy tính tại khu công nghiệp kỹ thuật cao thành phố Hồ Chí Minh lên 1 tỷ USD.
Với những sự kiện tiêu biểu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
20
Nam năm 2006 đã cho thấy Việt Nam là một điểm đến của các nhà đầu tư trong
tương lai. Khi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được mở rộng thì số người làm
việc trong các dự án, các cơ sở liên doanh, hoặc các xí nghiệp nước ngoài tăng
lên đã tạo ra một đội ngũ làm công ăn lương mới có trình độ, phong cách mới và
có điều kiện, mức thu nhập cao hơn nhiều so với khu vực hành chính. Năm 1999
nhà nước đã quy định mức lương tối thiểu từ 487.000 đồng/tháng đến 626.000
đồng/tháng áp dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước
ngoài, trong khi mức lương tối thiểu chung là 180.000 đồng/tháng và sau đó
tăng lên 210.000 đồng/tháng rồi 290.000 đồng/tháng, từ tháng 10/2005 là
350.000 đồng/tháng2. Trên thực tế, những chuyên gia, người lao động có trình
độ cao làm việc trong các khu vực tư nhân và các khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có mức thu nhập cao hơn nhiều so với cán bộ, công chức nhà nước. Từ
chênh lệch về thu nhập, dẫn đến tình trạng " Chảy máu chất xám" của nguồn
nhân lực khu vực nhà nước.
1.3.4 Những yêu cầu về chất lượng cán bộ, công chức trong công cuộc
cải cách hành chính ở Việt Nam
a. Các đặc trưng cơ bản của cán bộ, công chức Việt nam.
Cán bộ, công chức là chủ thể của nền công vụ, lao động của họ là một dạng của
lao động quyền lực, lao động thực thi pháp luật. Họ có quyền giải quyết mọi
công việc theo đúng cương vị, quyền hạn theo luật định, đồng thời có nghĩa vụ
thực thi mọi nhiệm vụ theo đúng chức trách được giao trong cơ quan, tổ chức
nhà nước nhất định. Xét dưới góc độ xã hội -chính trị, người cán bộ, công chức
nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Còn xét dưới góc độ xã
hội - dân sự thì người cán bộ, công chức đảm nhận vai trò lao động sáng tạo
trong một lĩnh vực lao động đặcthù là lao động quyền lực, khác với lao động sản
xuất, kinh doanh và các dạng lao động xã hội khác, sản phẩm lao động của họ là
các quyết định quản lý, các đạo luật, các bản án, . . .Quyền lực của nhà nước suy
2Nguồn : ngày 26/9/2005
21
cho cùng cũng là quyền lực của nhân dân, vì quyền lực ấy do nhân dân tạo ra,
nhân
dân là nguồn cội của quyền lực nhà nước. Song bản chất nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đòi hỏi rất cao ở sự thống nhất giữa hai
phương diện ấy, cho nên người cán bộ, công chức nhà nước là " công bộc" của
dân chứ không phải là "quan dân", "quan cách mạng" như chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật trở thành sức mạnh quyền
lực, pháp luật ngự trị trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Cán bộ, công chức là
những người thực thi pháp luật, thực thi quyền lực của nhà nước do vậy họ phải
là những người tinh thông, am hiểu pháp luật, thực hiện đúng pháp luật. Đồng
thời qua quá trình thực tiễn thực thi pháp luật, chính họ là người sáng tạo pháp
luật, là lực lượng tham muư đề xuất ý kiến để tạo nên một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực
nhà nước, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Nhân
dân là cái gốc của một xã hội, nhà nước ra đời để phục vụ cho lợi ích của một
giai cấp( hoặc một nhóm người có chung lợi ích), nhưng để tồn tại được thì nhà
nước đó phải hài hòa lợi ích của mọi người dân, tức là phục vụ nhân dân. Vai trò
to lớn của nhân dân đã được bác Hồ khẳng định rất rõ qua câu nói của người:
"dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Cán bộ,
công chức là những người được dân giao quyền để thực thi công vụ, họ được h-
ởng lơng từ ngân sách nhà nước, mà ngân sách nhà nước chính là do nhân dân
đóng góp, vì vậy về mặtđạo lý và cả pháp lý phải có bổn phận phục vụ nhân dân,
phải là công bộc của dân.
- Cán bộ, công chức phải có đầy đủ chuẩn mực đạo đức của một nền công vụ
chính qui hiện đại. Để thực hiện và hoàn thành tết công việc của mình và để
thực sự trở thành công bộc của dân, cán bộ, công chức, ngoài tài năng và trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ cần phải có đầy đủ các chuẩn mực đạo đức " cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư”. - Trung thành với Đảng, chính phủ, với tổ
22
quốc và nhân dân. Trong bối cảnh mới của nền kinh tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ,
công chức phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, Chính
phủ, Tổ quốc và nhân dân, phải có kiến thức và năng lực thực tiễn quản lý kinh
tế xã hội, có phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, tận tụy, tận trí phục vụ
sự nghiệp
chung của đất nước.
Cán bộ, công chức là nòng cốt, tiên phong trong việc bảo vệ kỷ cương
phép nước và các quyền tự do, quyền con người. Yêu cầu của nhà nước pháp
quyền là đặt con người vào vị trí trung tâm, là mục tiêu, là giá trị cao nhất, vì thế
đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ phải đề cao trách
nhiệm pháp lý trong bảo vệ quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân, không
được vi phạm đến tự do và bất cứ quyền lợi và lợi ích hợp pháp nào của công
dân; phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, không được quan liêu, cửa
quyền và vô trách nhiệm.
- Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng đi đầu trong đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác của bộ máy nhà nước.Với
địa vị pháp lý và bổn phận của mình, đội ngũ cán bộ, công chức phải gương mẫu
trong công cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và các tiêu cực khác
trong bộ máy nhà nước. Nếu đội ngũ cán bộ, công chức không phải là lực lượng
tiên phong trong cuộc đấu tranh này thì khó có thể có được bộ máy nhà nước
trong sạch và vững mạnh.
b. Yêu cầu về chất lượng của cán bộ, công chức Việt nam trong thời
kỳ mới.
- Yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức. Yêu cầu về phẩm chất chính trị
là yêu cầu cơ bản của người cán bộ, công chức. Đó là sự trung thành và bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và con đường mà Đảng đã lựa chọn.
Yêu cầu về phẩm chất chính trị còn được thể hiện qua sự gương mẫu, lòng nhiệt
tình, tận tụy có tinh thần và ý thức trách nhiệm cao với công việc, tận tâm và tận
trí phục vụ nhân dân. Đạo đức của người cán bộ, công chức được thể hiện ở ý
thức, niềm tin vào định hướng xã hội chủ nghĩa, biết tôn trọng, giữ gìn kỷ luật,
23
kỷ cương, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có lối sống lành mạnh,
không tham ô, lãng phí và có trách nhiệm cao trong thực thi công vụ, có lòng
nhân ái, vị tha, biết cách cư xử đúng đắn trong các mối quan hệ. Đó là những
phẩm chất đạo đức cá nhân không thể thiếu ở mỗi người cán bộ, công chức. Bên
cạnh những phẩm chất đạo đức cá nhân người cán bộ, công chức còn phải có
đạo đức nghề nghiệp, đó là ý thức và trách nhiệm pháp lý đối với nghề nghiệp
mà họ theo đuổi. Đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ, công chức được thể
hiện ở tinh thần trách nhiệm và đề cao kỷ luật trong thi hành công vụ. Đó là ý
thức luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao, kể cả khi gặp khó khăn, bất
lợi. Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người cán bộ, công chức không những
phải biết tiết kiệm cho mình, mà quan trọng hơn nữa là phải biết tiết kiệm cho
nhà nước, cho nhân dân, có nh vậy mới hạn chế và chống được bệnh lãng phí
thường xảy ra trong các cơ quan nhà nước. Đạo đức nghề nghiệp của người cán
bộ, công chức còn thể hiện ở sự ngay thẳng, công bằng trong thực thi công vụ
theo pháp luật. Phải có những con người ngay thẳng trong bộ máy nhà nước,
giám nói ra những điều sai trái, phê bình thẳng thắn những cá nhân thiếu tinh
thần trách nhiệm, vạch trần bộ mặt thật của những cá nhân thoái hóa biến chất
để nhà nước và xã hội xử lý, có như vậy công cuộc cải cách hành chính mới đạt
được hiệu quả, bộ máy nhà nước mới trong sạch và gọn nhẹ.
- Yêu cầu về văn hóa. Văn hóa là cơ sở để hình thành tác phong, phong
cách và lối sống của con người, là nền tảng tạo nên phẩm chất, cốt cách của
người cán bộ, công chức. Vai trò của văn hóa ngày càng được coi trọng không
chỉ trong đời sống xã hội. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay văn hóa được
coi nh một giá trị nội sinh, nó làm cho giá trị kinh tế tăng lên. Văn hóa doanh
nghiệp mạnh sẽ làm cho thơng hiệu và uy tín của doanh nghiệp tăng lên từ đó
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Ngày nay người
tiêu dùng khi mua một sản phẩm họ không chỉ coi trọng chất lượng sản phẩm
mà họ còn quan tâm đến bao bì của sản phẩm, chất lượng và dịch vụ của nhà
cung c.ấp sản phẩm. Các giá trị đó chính là văn hóa của doanh nghiệp, ai thực
hiện được các yêu cầu đó một cách tốt nhất thì người đó sẽ dành chiến thắng
24
trên thị trường. Yêu cầu về văn hóa đòi hỏi người cán bộ, công chức phải có
kiến thức liên ngành cần thiết, có kiến thức sâu rộng về các vấn đề kinh tế chính
trị, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử và truyền thống văn hóa của dân tộc để giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Yêu cầu về trí tuệ. Ngày nay với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế
đời sống con người trong xã hội được cải thiện và đặc biệt mặt bằng dân trí được
tăng lên cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đòi hỏi người
cán bộ, công chức phải có trình độ kiến thức và năng lực tư duy khoa học sáng
tạo.
Trong một số ngành, lĩnh vực và đối với ngạch chuyên viên trở lên thì
trình độ đại học là bắt buộc và tối thiểu. Một số ngành và lĩnh vực khác phải là
trên đại học. Yêu cầu trí tuệ hóa đội ngũ cán bộ, công chức buộc người cán bộ,
công chức phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ kiến thức và năng lực
trí tuệ của mình, đồng thời nhà nước cần phải có chính sách, chế độ và tạo điều
kiện để cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng và bổ xung kiến thức để
phục vụ công tác thực thi đạt hiệu quả cao nhất.
- Cán bộ, công chức phải có ý thức pháp luật, am hiểu, tôn trọng luật pháp
và thông lệ quốc tế. ý thức pháp luật của cán bộ, công chức có những đặc thù so
với ý thức pháp luật của các đối tượng khác trong xã hội, thể hiện ở chỗ ý thức
pháp luật của cán bộ, công chức trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng và
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, áp dụng
pháp luật, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật ý thức pháp luật của cán bộ,
công chức ảnh hởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đời
sống nhà nước, xã hội và công dân. Hành vi của cán bộ, công chức có thể làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hay nhiều quan hệ pháp luật, có thể mang
lại lợi ích hoặc thiệt hại về vật chất, tinh thần cho các đối tượng khác trong hoặc
ngoài cơ quan hành chính nhà nước; nó có thể làm phát sinh, chi phối tư tưởng,
tình cảm pháp luật và cả hành vi pháp luật của rất nhiều đối tượng trong xã hội.
Vì vậy mỗi cán bộ đều phải am hiểu về pháp luật và biết áp dụng pháp
luật
25
vào hoạt động công vụ để giải quyết các vấn đề thuộc chức trách, nhiệm vụ của
mình. Nếu cán bộ, công chức có trình độ hiểu biết pháp luật toàn diện, sâu sắc
có thái độ tôn trọng pháp luật, có hành vi tích cực chấp hành pháp luật thì hiệu
quả hoạt động sẽ cao. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật kém, nhiều cán bộ, công
chức có hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ có tác động rất xấu, thậm chí không thể
duy trì trật tự, kỷ cương trong Nhà nước và xã hội.
Vì lẽ đó vấn đề hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhóm
này có ý nghĩa rất quan trọng. Một thực tế đang diễn ra trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta đó là vấn đề am hiểu về luật pháp quốc tế của các
doanh nghiệp cũng như cán bộ, công chức còn rất hạn chế, đây là một cản trở
lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, điển hình là các vụ kiện bán phá giá
tôm và cá Ba sa vào thị trường Mỹ, giầy da ở thị trường ấn Độ cà phê ờ thị
trường Brazil . . . Để có thể hội nhập với thế giới và không bị thiệt thòi đòi hỏi
đội ngũ cán bộ, công chức phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề này
để có định hướng và giải pháp để nâng cao sự hiểu biết về pháp luật và thông lệ
quốc tế để đáp ứng được các điều kiện và yêu cầu mới trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Yêu cầu về chuyên môn hóa hiện đại hóa cán bô, công chức Ngoài
những đặc điểm cơ bản trên đối với từng nhóm, từng bộ phận cán bộ, công chức
lại có những yêu cầu đặc biệt, cụ thể riêng.
26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CỦA CÁC NƯỚC
2.1 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay.
2.1.1 Thực trạng qua các số liệu thống kê.
Nhìn gần hai mươi năm qua khi đất nước ta ở thời kỳ đầu đổi mới, chuyển
đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, công tác cán bộ
nói chung, đội ngũ cán bộ, công chức nước ta nói riêng, đứng trước nhiều thử
thách trong đó có những thử thách trực tiếp đặt ra cho công tác đào tạo, bồi dư-
ỡng đó là: Mặt bằng trình độ, kiến thức của cán bộ, công chức thấp, lại không
đồng đều, bất cập với những yêu cầu của công cuộc đổi mới. Do được đào tạo
và hoạt động trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nên rất lúng túng và bỡ
ngỡ trước bước chuyển đổi cơ chế quản lý và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực
Khi xếp vào các ngạch bậc công chức đại bộ phận cán bộ, công chức thiếu, nợ
các tiêu chuẩn về trình độ (lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn,
ngoại ngữ và sau này là tin học). Có những cán bộ, công chức khi xếp vào
ngạch, hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ thiếu tới 3 đến 4 tiêu chuẩn về trình độ
và từ đó vấn đề trả nợ về tiêu chuẩn trình độ được đặt ra bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Thấy rõ sự bất cập ấy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã
được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và xác định là nhiệm vụ quan trọng
trong công tác cán bộ, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và cải cách hành
chính nhà nước. Nghị quyết Trung ương 3 khóa 8 về Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã xác định đào tạo, bồi d-
ưỡng cán bộ là một trong những giải pháp lớn xây dựng đội ngũ cán bộ và công
tác cán bộ. Ngày 20/1 1/1996 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số
874/TTG về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tại quyết định này
mục tiêu, đối tượng, nội dung công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức
được xác định rõ ràng. Hai hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống cơ sở
tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được xác định từ Trung ơng
đến địa phương. Tiếp theo là quyết định 74/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
27
phủ về phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 200
1 - 2005 vấn đề tập trung giải quyết trong giai đoạn này là nâng cao trình độ
năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, đồng thời cũng để cán bộ,
công chức xóa được nợ về tiêu chuẩn trình độ của mình.
Hơn 10 năm thực hiện, công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức đã
đạt được những kết quả đáng kể đó là: đã tạo được phong trào học tập trong toàn
thể cán bộ, công chức; mặt bằng về trình độ, kiến thức của đội ngũ cán bộ, công
chức được nâng lên rõ rệt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao trong đó có một
số cán bộ, công chức về mặt trình độ và năng lực hoạt động đã theo kịp được
trình độ của các nước trong khu vực và quốc tế.
Đại bộ phận số cán bộ, công chức thiếu nợ đã trả được nợ, sau thời gian
phấn đấu học tập về cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức nước ta đã đủ các tiêu
chuẩn về trình độ, có nhiều cán bộ, công chức đã phấn đấu học tập để có trình
độ chuyên môn cao hơn và chuyên sâu hơn yêu cầu của ngạch bậc công chức.
Chỉ tính 5 năm gần đây 2001 - 2005 tổng số cán bộ, công chức được đào tạo bồi
dỡng khoảng 2.852.000 lợt người, trong đó có 407.000 lượt cán bộ, công chức
được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; 894.000 lượt người được đào tạo,
bồi dưỡng về kiến thức quản lý nhà nước; 1 076.000 lượt người được đào tạo,
bồi dưỡng về chuyên môn; 37.000 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về ngoại
ngữ và gần 96.000 lượt người được đào tạo bồi dưỡng về tin học; gần 292.000
đại biểu hội đồng nhân dân các cấp tỉnh, huyện, xã được trang bị kiến thức và kỹ
năng hoạt động; 50.000 lượt người được trang bị về kiến thức hội nhập kinh tế
quốc tế theo quyết định số 137/2003/QĐ-TTg ngày 1 1/7/2003 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công
tác hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2003 - 2010. Ngoài ra, còn có 15.000 lượt
cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài trong đó cán bộ quản lý
và
công chức nguồn là 6.000 lượt người3.
3 Tạp chí tổ chức cán bộ số tháng 1 năm 2006
28
2.1.2 Đánh giá chung về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
- Những ưu điểm chủ yếu.
+ Hầu hết cán bộ, công chức có tư tưởng chính trị vững vàng kiên định
với mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trung thành với tổ quốc, với nhân dân.
+ Đa số cán bộ, công chức cần cù chịu khó học hỏi phấn đấu vươn lên
thực hiện tết các mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra.
+ Mặc dù trong điều kiện tiền lương và thu nhập thực tế còn thấp, lại chịu
nhiều tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nhưng số đông cán bộ công chức
giữ được phẩm chất đạo đức, tư cách và lối sống lành mạnh, khắc phục những
khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ.
- Những hạn chế và yếu kém.
+ Trình độ năng lực quản lý kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, thiếu hụt
kiến thức về kinh tế thị trường, về quản lý nhà nước, về pháp luật, ngoại ngữ,
tin học và kỹ năng hành chính, cũng như tri thức về khoa học kỹ thuật, công
nghệ hiện đại do đó năng xuất và hiệu quả lao động còn thấp.
+ Đội ngũ cán bộ công chức ngày càng tăng về số lượng nhưng vẫn còn
tình trạng vừa thừa vừa thiếu.Thiếu cán bộ công chức hành chính chuyên ngành,
cán bộ quản lý giỏi; thừa cán .bộ, công chức không đủ phẩm chất, năng lực yếu
không đáp ứng được nhu cầu công việc.Nhiều ngành và địa phương gặp khó
khăn trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo chủ chốt, thiếu cán bộ hoạch định
chính sách ở tầm chiến lược . . .
+ Tinh thần hợp tác và phong cách làm việc của các cán bộ, công chức
còn yếu và chậm đổi mới.
+ Công tác xây dựng và qui hoạch cán bộ cha có tầm nhìn xa, bố trí cán
bộ chủ yếu vẫn theo tình huống, tình trạng hụt hẫng giữa các thế hệ cán bộ, công
chức trong các cơ quan vẫn còn phổ biến, thiếu cán bộ, công chức nòng cốt, kế
cận có trình độ chuyên môn cao và các chuyên gia hoạch định chính sách chiến
lược. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong những năm qua còn
những tồn tại cần khắc phục và cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết
trong thời gian tới. Tồn tại thứ nhất là công tác quản lý nhà nước đào tạo, bồi d-
29
ưỡng cán bộ, công chức còn nhiều bất cập: sự quản lý đối với công tác đào tạo,
bồi dưỡng còn chưa thống nhất; các văn bản quản lý ban hành cha kịp thời; công
tác kiểm tra đánh giá việc tổ chức thực hiện các văn bản quản lý chưa thường
xuyên, có những văn bản sau một thời gian thực hiện không hề có đánh giá, tổng
kết. Công tác kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức còn nhiều lúng
túng, cha khoa học, cha gắn với sử dụng cán bộ sau đào tạo, bồi dưỡng. Không ít
trường hợp xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cha dựa trên các căn cứ xác
thực, có nơi mở lớp chủ yếu để giải quyết vấn đề kinh phí, giao khoán cho các
cơ sở đào tạo thực hiện thiếu sự phối hợp, kiểm tra đôn đốc và 'đánh giá tổng
kết. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo phụ trách và chuyên viên làm công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức không ổn định, kiêm nhiệm vừa thiếu và vừa yếu về
năng lực hoạt động quản lý đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước.
Thứ hai, sự chuyển biến của các cơ sở đào tạo còn chậm chưa đáp ứng yêu cầu
học tập của cán bộ, công chức. Đó là nội dung chương trình và phương pháp dạy
và học chậm được cải tiến,. nội dung còn trùng lắp, nặng lý thuyết nhẹ kỹ năng
nghiệp vụ, thực hành; phương pháp học tập nặng về truyền thụ kiến thức, cha
phát huy vai trò tích cực chừ động của người học. Đội ngũ giảng viên trong các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhất là giảng viên quản lý nhà nước
vừa thiếu lại vừa yếu, chưa được đào tạo có hệ thống cả về nội đung và phương
pháp giảng dạy. Bên cạnh đó, trang thiết bị, cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng chưa đáp ứng với yêu cầu cải tiến về nội dung và phương pháp. Thứ
ba, sự phối hợp, huy động các nguồn lực đề nâng cao chất lượng hiệu quả đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức còn hạn chế. Đó là sự phối hợp giữa các cơ
quan quản lý đào tạo các cơ sờ đào tạo với nhau và giữa các cơ quan quản lý với
các cơ sở đào tạo có nhiều nơi, nhiều việc chưa tốt, có những quy định chồng
chéo, mâu thuẫn nhau, có những trùng lắp không cùng nhau kịp thời tháo gỡ nên
đã dẫn đến tình trạng rất khó khăn trong việc thực hiện của các cơ sở đào tạo. Sự
phối hợp giữa các nguồn lực lượng nước, giữa nguồn lực trong nước với nước
ngoài và giữa các nguồn lực hỗ trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế cũng
chưa thật chặt chẽ, do đó dẫn đến sự trùng lắp đối tượng, nội dung, chương trình
30
gây sự lãng phí không nhỏ về sức người và kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức.
+ Một số cán bộ, công chức bị suy giảm về phẩm chất đạo đức, tinh thần
trách nhiệm kém, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng . . .Một số nguyên nhân gây
nên những hạn chế và yếu kém của cán bộ, công chức.
+ Chủ yếu do bản thân cán bộ, công chức không chịu rèn luyện tu
dưỡng.Có những người đã cống hiến, chịu đựng gian khổ hy sinh gắn bó với
đồng bào trong thời kỳ kháng chiến, nhưng nay đã bị gục ngã trước sự tấn công
của đồng tiền bất chính và các cám dỗ khác trong cuộc sống.
+ Do cơ sở pháp lý để quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội còn nhiều
lỏng lẻo, sơ hở, thiếu đồng bộ nên đã tạo điều kiện để phát sinh những vi phạm
về đạo đức và phẩm chất của người cán bộ, công chức.
+ Công tác tổ chức cán bộ còn nhiều .bất cập, việc lựa chọn cán bộ quản
lý vào những vị trí đứng đầu quan trọng còn thiếu công khai minh bạch.Việc sử
lý vi phạm các cán bộ còn chưa nghiêm và chưa đồng bộ.
+ Tiền lương và thu nhập thực tế của cán bộ, công chức còn thấp chưa đủ
để nuôi sống bản thân và gia đình ở mức trung bình của xã hội, chưa tương
xứng với khu vực doanh nghiệp và tư nhân.
Trên đây là một trong những nguyên nhân làm cản trở công cuộc cải cách
nền hành chính nhà nước và đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước nói chung.
2.2 Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của
các nước trên thế giới
2.2.1 Kinh nghiệm về tiền lương
Nguyên tắc của chính sách tiền lương ở các nước phát triển là:
+ Tiền lương bằng nhau cho các công việc như nhau được thực hiện trong
các điều kiện giống nhau.
+ Tiền lương khác nhau căn cứ vào những khác biệt về công việc đã hoàn
thành, trách nhiệm được giao, và các yêu cầu, phẩm chất của công việc đòi hỏi.
+ Tiền lương của công chức cần được trả tương xứng với tiền công của
khu vực tư nhân. (lưu ý, ở đây tương xứng không có nghĩa là ngang bằng).
31
+ Các cơ cấu tiền lương của công chức phải được xem xét định kỳ và rà
soát lại một cách hệ thống để bảo đảm hiệu lực liên tục của chúng. Một kinh
nghiệm đối với các nước có nền công vụ phát triển là trả lương ở mức có thể so
sánh được (không hoàn toàn là ngang bằng) với mức lương cho các kỹ năng
tương đương có thể so sánh theo thị trường, nghĩa là theo sự trả công của khu
vực tư nhân và các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, đây cũng không phải là
một vấn đề dễ dàng thực hiện, vì nó không thuần tuý là vấn đề kỹ thuật, mà nó
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính trị, các quy định của pháp luật, các quy
tắc., quy định của cơ quan hành pháp, ảnh hưởng của một số chính sách công . .
. Chẳng hạn, ở Vương quốc Anh, Cơ quan nghiên cứu về chế độ tiền lương cho
hoạt động công vụ đã thiết lập các hệ số tiền lương trong nền công vụ theo các
mức trả tiền thù lao ngoài khu vực nhà nước. Bằng cách sử dụng tiêu chí so sánh
công bằng với tiền lương ở khu vực tư nhân, họ tiến hành các cuộc điều tra
thường xuyên về việc chi trả tiền công để xác định các hệ số lương chính yếu
cho mỗi bậc cơ bản trong hoạt động công vụ Từ đó họ đề nghị tăng tiền lương
cho công chức nhà nước, đôi khi còn cao hơn các mức lương của nhân viên ở
khu vực tư nhân. Và ở đây các hiệp hội viên chức đã đóng vai trò rất quan trọng
trong việc thực hiện những nghiên cứu liên quan đến tiền lương này. ở Anh, l-
ương của những công chức cao cấp hàng đầu của nền công vụ do Cơ quan xem
xét các mức lương cao ấn định. Hay ở Xingapo, một nguyên tắc trả lương của
chính phủ là trả lương cho công chức theo mức thị trường với cùng loại hình
công việc, khả năng và trách nhiệm để có thể giữ được những người có tài làm
việc trong nền công vụ.
Xây dựng kê'hoạch tiền lương khoa học, hợp lý là khâu vô cùng quan
trọng trong chính sách tiền lương ở các nước. Trên thực tế có hai cách tiếp cận
chính để xác định tiền lương cho hoạt động công vụ: Cách thứ nhất là thử và sai,
tức là xác định mức lương nào sẽ thu hút và giữ được những nhân viên có các kỹ
năng phù hợp. Bản chất của phương pháp này là phương pháp hậu kiểm và do
vậy ít có tác dụng. Cách tiếp cận thứ hai được sử dụng rộng rãi hơn, là so sánh
32
với khu vực tư nhân. Cả hai cách tiếp cận này không hoàn toàn loại trừ lẫn nhau,
mà trái lại, các phương pháp này có thể hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Tiến hành phân loại công việc là khâu quan trọng hàng đầu để xây dựng
kế hoạch tiền lương. Có nhiều cách phân loại công việc, nhưng trên thế giới có
thể quy thành hai cách phân loại chính là theo ngạch, bậc và không theo ngạch,
bậc. Các kế hoạch theo ngạch, bậc bảo đảm tiền lương bằng nhau cho các công
việc như nhau trong phạm vi mỗi nghề và giữa các nghề với nhau. Cách phân
loại này còn có lợi thế là ổn định về mặt quản lý hành chính, và thích hợp cho
các tổ chức lớn có hàng trăm loại công việc, bởi vì chỉ cần thiết lập các mức chi
trả cho một số lượng nhỏ các ngạch, bậc.
Ngược lại, các kế hoạch không theo ngạch, bậc chỉ có thể trả tiền lương
như nhau cho các công việc như nhau trong phạm vi cùng một nghề. Lợi thế cơ
bản của việc phân loại này là tính đơn giản, do vậy dễ thiết kế và áp dụng. Nó có
thể thực hiện thay đổi tiền công đối với mỗi loại công việc vào bất kỳ lúc nào có
nhu cầu mà không làm ảnh hưởng đến toàn bộ kế hoạch tiền lương.
Cả hai cách phân loại này đều có những ưu điểm, nhược điểm. Nhìn
chung, chúng có thể bù trừ lẫn nhau giữa một bên là tính linh hoạt trong các kế
hoạch trả lương không theo ngạch, bậc với một bên là sự công bằng trong cách
phân loại theo ngạch, bậc , hay nói một cách khác giữa hiệu quả ngắn hạn và
hiệu quả dài hạn. Việc áp dụng hai cách phân loại này, cán được cân nhắc đối
với thực tế từng nước. Tuy nhiên, đối với nhiều nước đang phát triển, có thể tính
đến việc áp dụng đồng thời cả hai cách: sử dụng hệ thống phân loại không theo
ngạch, bậc, trong khi từng bước tiến hành xây dựng một kế hoạch phân loại theo
ngạch, bậc khả thithực hiện có tính chất thử nghiệm kế hoạch đó.
Chú trọng đến thành tích công tác là một kinh nghiệm mà ngày nay nhiều
nước có nền công vụ tiên tiến thường quan tâm khi xác định lương cho công
chức. Thậm chí một số nước đi theo hướng thiết lập trong ngành công vụ các hệ
thống tiền lương hoàn toàn gắn với việc thực thi nhiệm vụ của công chức. Từ
năm 1992, Malaixia áp dụng một chính sách tiền lương mới gọi là hệ thống trả
công mới (NRS). Trong đó, một hệ thống thẩm định hiệu quả công tác đã được
33
giới thiệu để áp dụng cho cả tăng lương lẫn đề bạt. Đặc điểm chính của hệ thống
này là lương thâm niên đã không còn được trả tự động mà dựa vào hiệu quả
công tác. Singapo cũng thực hiện chính sách tiền lương theo hiệu quả dựa vào
hệ thống thẩm định hiệu quả.
Hơn nữa công chức Singapo còn được tăng lương theo hiệu quả của
nhóm.
Phần tăng này được trả nh một khoản thưởng hàng năm và chia thành 2 đợt Liên
hiệp Vương quốc Anh cũng đang chuyển dán theo hướng áp dụng một hệ thống
tiền lương gắn với việc thực thi nhiệm vụ cho tất cả các công chức, mặc dù cho
đến nay có các công chức cao cấp, các cán bộ sự nghiệp khoa học và các chuyên
viên chuyên ngành khác được hưởng lương theo cơ chế này. Việc nâng lương
hàng năm trong phạm vi một ngạch cho công chức phụ thuộc vào sự phân loại
thông qua việc đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, căn cứ vào mục tiêu công tác.
Với sự phát triển nhiều loại hình cơ quan, các bộ và các cơ quan đã xây dựng
các thảo thuận khung, trên cơsở đó phát triển các hệ thống tiền lương gắn với
việc thực thi nhiệm vụ riêng cho cơ quan mình....Có thể nói, ngày nay, hệ thống
trả lương gắn với thành tích công tác là một phần không thể thiếu đối với các
nước đang cảicách cơ quan triệt để.
Thành lập cơ quan đứng ra chịu trách nhiệm bảo vệ các quyền lợi về
chính sách đãi ngộ, tiền lương cho công chức là một mô hình hay ở các nước
phát triển (như Mỹ, Nhật ). Chẳng hạn ở Mỹ, để bảo vệ quyền lợi công chức,
năm 1972, chính quyền đã định ra: " Luật đối chiếu, so sánh tiền lương tại Liên
bang" trong đó quy định lương của công chức nhà nước phải tương đương với
lương của công nhân viên chức tại các xí nghiệp tư doanh. Pháp luật Mỹ còn
quy định: Cục trưởng Văn phòng quản lý nhân sự Cục trưởng Cục dự toán và
hành chính, Bộ trưởng Bộ lao động, có nhiệm vụ phối hợp điều tra, so sánh tiền
lương giữa các cơ quan chính phủ và xí nghiệp tư doanh. Hàng năm đa ra kiến
nghị trình Tổng thống điều chỉnh mức lương công chức hành chính nói chung.
Hay ở Nhật, Cơ quan Nhân sự Quốc gia hàng năm có nhiệm vụ tiến hành đánh
34
giá và đưa ra các kiến nghị về mức lương để bảo đảm tương xứng với nhiệm vụ
và trách nhiệm thuộc vị trí và chức trách của từng công chức.
2.2.2 Kinh nghiệm về các biện pháp khuyến khích.
Ngoài lương, người công chức còn được . hưởng các lợi ích khác như:
Các khoản phụ cấp: phụ cấp khu vực, phụ cấp tiền nhà, phụ cấp làm thêm giờ,
phụ cấp khó khăn; trợ cấp ốm đau, trợ cấp cho vợ, chồng và những người phụ
thuộc, trợ cấp tàu xe đi công tác;lương hưu, bảo hiểm y tế, bảo hiểm trách
nhiệm, các dịch vụ xã hội và nhà ở được bao cấp một phần hoặc toàn bộ các loại
nghỉ phép chế độ ( nghỉ đẻ, nghỉ phép năm, nghỉ thăm người thân), nghỉ hưu, và
nhiều các chế độ khác. Các lợi ích ngoài lương này có thể đóng vai trò tích cực
trong tổng thể các khoản thù lao nếu được thiết kế tốt. Tuy nhiên vẫn có một số
khoản lợi ích ngoài lơng lại có thể làm suy giảm động cơ làm việc và gây biến
dạng các yếu tố khuyến khích (chẳng hạn tiền thù lao tham dự hội nghị được sử
dụng ở nhiều nước, một số khoản phúc lợi có tính bao cấp như nhà ở và đi lại
bằng phương tiện công hoặc miễn phí có thể nằm ngoài ngân sách). Một trong
những biện pháp quan trọng để giải quyết tốt các lợi ích ngoài lương, đó là cần
xác định và lượng hoá được các lợi ích này để có thể làm căn cứ so sánh tiền thù
lao giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân và hạn chế những ảnh hưởng của
việc lạm phát làm suy giảm tiền lương thực tế. Có thể xác định mức tương đối
của tổng quỹ lương nhà nước bằng cách định nghĩa nó như là một phần của GDP
hoặc của tổng chi tiêu là hợp lý và có vẻ đáng tin cậy hơn cả.
Các khoản tiền thưởng cho việc hoàn thành niệm vụ là một biện pháp
khuyến khích bằng tiền hữu hiệu đối với việc nâng cao hiệu quả công tác. Một
số nước như Mỹ, Hà Lan áp dụng trả các khoản tiền thởng một lần cho các
thành tích đặc biệt. Xingapo áp dụng trả tiền thưởng cho việc hoàn thành nhiệm
vụ bằng ba tháng lương cho các quan chức cấp cao, chiếm khoảng 1 % tổng số
viên chức nhà nước. Ngoài ra Xingapo còn trao các phần thưởng về chất lượng
dịch vụ tết cho các nhân viên trong việc tiếp xúc và làm việc với công dân. Hàn
Quốc, dựa vào số điểm mà công chức có được sau đánh giá, căn cứ vào nhiều
tiêu chí khác để cứ ba tháng một lần lại thưởng tiền cho nhân viên.
35
Ngoài biện pháp khuyên khích bằng tiền, hình thức thưởng và công nhận
về mặt tinh thần cũng là các công cụ rất hữu ích trong việc thúc đẩy hiệu quả
công tác- miễn là các biện pháp này được sử dụng một cách sáng suốt và tránh
sự loè bịp, phô trương. Biện pháp này sẽ càng trở nên quan trọng đối với những
nước có hạn chế về tài chính và không đủ các quỹ cho việc khuyến khích bằng
tiền. Các biện pháp này có thể gồm:
+ Các biện pháp thưởng và công nhận trong cơ quan, ngành;
+ các danh hiệu vinh dự quốc gia;
+ Các khả năng lựa chọn phát triển sự nghiệp;
+ Các giải pháp lựa chọn sau nghỉ hưu
+ Các phán thưởng và sự công nhận của cả nhóm.
Có nhiều loại phần thưởng quốc gia, ví dụ: Danh sách vinh dự hàng năm
của Anh, Huân chương Bắc đẩu bội tinh ở Pháp. Các giải thưởng cấp cơ quan
ngành có thể được trao tặng hàng năm cho cá nhân hoạt động hiệu quả dưới
dạng giấy chứng nhận, huân chương hoặc bằng khen. . . Và các cơ quan nên
được phép tự điều hành chế độ khen thưởng phù hợp với mỗi cơ chế tổ chức của
mình. Lễ khen thưởng phải được tổ chức nơi tụ tập đông đảo mọi người, được
thông báo rộng rãi trên báo chí và các phương tiện truyền thông khác.
2.2.3 Bài học rút ra cho Việt Nam.
Giải quyết tết chính sách tiền lương và các chính sách đãi ngộ về phúc lợi
là một trong những biện pháp quan trọng để khắc phục tình trạng hoạt động kém
hiệu quả của bộ máy nhà nước cũng như hạn chế nạn tham nhũng .
- Việc xác định mức lương tối thiểu phải căn cứ vào sự biến động của giá
cả sinh hoạt, quan hệ cung - cầu lao động và mức sống của các tầng lớp dân cư;
đồng thời áp dụng hình thức trả lương, trả thưởng linh hoạt để bảo đảm cuộc
sống trung bình cho cán bộ, công chức và giá đình họ. Ngoài ra, các cơ cấu tiền
lương của Nhà nước cần phải được rà soát, xem xét định kỳ và điều chỉnh lại để
bảo đảm hiệu lực liên tục của chúng cũng như để đảm bảo mức thu nhập thực tế
của đội ngũ cán bộ, công chức
36
- Để thu hút người tài cho chính phủ, tránh "chảy máu chất xám", Chính
phủ cần có các giải pháp mạnh để điều chỉnh tiền lương khu vực nhà nước tương
đương với tiền lương do thị trường quyết định, ít nhất là đối với một số khu vực
có tính cạnh tranh cao. Có thể học tập kinh nghiệm của các: nước trong giải
quyết vấn đề này, họ nhằm vào 3 cơ chế sau: thực hiện điều chỉnh tiền lương
theo xu thế của khu vực tư nhân; áp dụng các phụ cấp đặc biệt, độc lập với tiền
lương cơ bản cho các vị trí công tác trong khu vực nhà nước đang chịu áp lực
cạnh tranh thị trường; thực hiện chế độ tiền thưởng hoặc một khoản tăng lương
theo hiệu quả công tác.
Trước mắt, chúng ta chưa thể áp dụng việc trả lương dựa trên hiệu quả
công việc như một số nước đã thực hiện. Bởi vì để làm được điều đó, cần phải
có một hệ thống quản lý nguồn nhân lực chặt chẽ và phát triển; trước hết, các
chức danh, chức vụ phải được xác định rõ thông qua phương pháp đánh giá nghề
nghiệp và mục tiêu của cá nhân phải được xác định rõ ràng. Nhưng chúng ta có
thể vận dụng một vài yếu tố của phương thức trả lương gắn với thực thi nhiệm
vụ vào hệ thống tiền lương cơ bản mang tính truyền thống. Ví dụ tiến hành việc
nâng lương trước niên hạn cho những cán bộ, công chức hoàn thành xuất sắc
công việc hoặc có thành tích đặc biệt, mang lại lợi ích cho đất nước. Hoặc ngoài
các mức lương tăng hàng năm cố định dựa trên cơ sở thâm niên và công việc
hoàn thành ở mức tối thiểu có thể áp dụng các "hàng rào hiệu suất" (như
Singapo) mà công chức phải vượt qua dưới hình thức thi sát hạch để có thể được
nâng bậc lương sớm trước thời hạn. Thưởng cho những công chức trẻ có thành
tích và triển vọng phát triển được hưởng học bổng du học ở nước ngoài, tham dự
các hội nghị quốc tế hoặc được làm chuyên gia tư vấn cho khu vực tư nhân. . .
37
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
3.1 Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Từ tình hình, kết quả và tồn tại nêu trên vấn đề đặt ra cần tập trung vào
đổi mới nhận thức về vai trò vị trí của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, từ việc đổi mới quan niệm cán bộ, công chức là người có nghề nghiệp,
cũng như các ngành nghề khác nhất thiết phải được đào tạo và bồi dưỡng một
cách hệ thống và bài bản. Muốn vậy, cần thấy rõ giai đoạn tập trung để nâng cao
trình độ kiến thức và thông qua đó để cán bộ, công chức trả được nợ về tiêu
chuẩn ngạch bậc công chức là chủ yếu đã cơ bản hoàn thành hiện đang chuyển
sang giai đoạn mới đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng hoạt động của
cán bộ, công chức là chủ yếu bao gồm nâng cao cập nhật kiến thức; đào tạo kỹ
năng, nghiệp vụ và giáo dục đạo đức công chức trong đó đào tạo kỹ năng là
trọng tâm. Để thực hiện được bước chuyển biến nêu trên, thứ nhất, ngoài kế
hoạch 5 năm, hàng năm Đảng và Nhà nước cần có chiến lược xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, trong đó hai lực lượng chủ yếu là cán bộ, công chức hành
chính và cán bộ, công chức cơ sở, trên cơ sở đó cải tiến công tác quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; tăng cường phân cấp và thực hiện
triệt để các quy định về phân cấp đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức hiện hành.
Cán nghiên cứu để có cơ chế và chính sách phân cấp đào tạo, bồi dưỡng viên
chức cho các ngành và địa phương. Việc phân cấp đào tạo bồi dưỡng viên chức
cho các bộ, ngành và địa phương cần được thực hiện một cách toàn diện từ việc
phân cấp quản lý, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
đến việc xây dựng chương trình, cấp chứng chỉ v.v...
Thứ hai, chuyển hướng căn bản về nội dung: từ cung sang cầu; từ đào tạo
theo tiêu chuẩn sang đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh, năng lực. Muốn vậy
cần giải quyết hai vấn đề cơ bản sau:
- Xây dựng lại hệ thống chương trình; hình thành hai loại chương trình:
loại chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn ngạch và loại chương trình đào tạo
theo chức danh cán bộ lãnh đạo quản lý. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng
38
theo tiêu chuẩn ngạch công chức hiện nay cần được cấu trúc lại gọn hơn và thiết
thực hơn. Đồng thời, xây dựng hệ thống chương trình mới liên thông từ chương
trình đào tạo tiền công vụ đến các chương trình chuyên viên, chuyên viên chính
và chuyên viên cao cấp. Chương trình đào tạo tiền công vụ là chương trình đào
tạo cơ bản vừa mang tính lý luận, kỹ năng nhiệm vụ các chương trình bồi dưỡng
cho chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp là những chương trình
mang tính cập nhật, nâng cao, tập trung vào kỹ năng nghiệp vụ. Xây dựng hệ
thống chương trình đào tạo theo chức danh cán bộ lãnh đạo quản lý. Đây là hệ
thống chương trình mang tính mềm dẻo về nội dung, nhưng bắt buộc đối với các
đối tượng quy định. Trước mắt cần tập trung ưu tiên xây dựng các chương trình
đào tạo cho các chức danh chủ tịch xã, chủ tịch huyện, lãnh đạo cấp vụ, cấp sở.
Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy và học: chuyển từ "dạy" sang hướng
dẫn; nghe và tiếp thu một cách thụ động sang tự học. Điều này đòi hỏi phải có
sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của người "thầy" và "trò"; đào tạo xây
dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cáu mới và thay đổi phương pháp dạy và
học, trong đó chủ yếu là hướng dẫn, trao đổi thông tin, kinh nghiệm quản lý,
công tác; cùng nhau bàn bạc, thảo luận tìm biện pháp giải quyết vấn đề một cách
tối ưu nhất.
Thứ tư xây dựng củng cố hệ thống cơ sở đào tạo đầu ngành về cung cấp
cán bộ như: học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, học viện hành chính
Quốc gia, Khoa Khoa học quản lý trường Đại học Kinh tế quốc dân,.. các trường
chính trị cấp tỉnh,thành phố về cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện dạy và học
theo phương pháp mới. Đối với hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức các bộ, ngành cần sớm có văn bản hướng dẫn thống nhất về tổ chức và
hoạt động để các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các bộ, ngành có
tính ổn định lâu dài và được đầu tư một cách thỏa đáng. Cần nghiên cứu cơ chế
khuyến khích các bộ, ngành, địa phương, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, liên kết trong đào tạo để sử dụng và phát huy được năng lực của các
cơ sở đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức.
39
Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ở
ngoài nước, tập trung vào các đối tượng cán bộ quản lý, cán bộ nguồn, các
chuyên gia đầu ngành và đội ngũ giảng viên. Đồng thời, tăng cường hình thức
đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước có sử dụng chương trình tài liệu và sự hướng
dẫn của các chuyên gia nước ngoài.
Thứ sáu thực hiện tốt việc giáo dục chính trị, tư tưởng và ý thức
tráchnhiệm đối với nhân dân, với đất nước của cán bộ, công chức. Phải làm sao
để họ thực sự tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên quyết đấu tranh
chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu đối với nhân dân.
3.2.1. Đổi mới phương thức hành chính
Điều hành của hệ thống hành chính Nhà nước, từng bước hiện đại hóa trang thiết
bị công sở, trang bị các phương tiện làm việc cán thiết, nhằm nâng cao năng suất
làm việc của cán bộ, công chức. Để làm được điều đó cần phải giải quyết một số
vấn đề sau:
a) Xác định rõ phương thức điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ theo hướng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo điều hành vĩ
mô đối với toàn xã hội thông qua việc xây dựng, ban hành và kiểm tra việc thực
hiện chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;
b) Hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc xây dựng, thực hiện chính sách; xác định rõ các nguyên tắc
làm việc, quy chế hoá quy trình giải quyết công việc của các cơ quan hành chính
nhà nước các cấp, theo hướng mỗi việc phải có một tổ chức, một cá nhân chịu
trách nhiệm, việc nào chưa thể giao tách bạch cho một cơ quan thì phải quy định
cơ quan chủ trì kèm theo quy chế phối hợp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành
chính, đề cao trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức bằng các quy định cụ
thể, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước;
c) Quy trình giải quyết công việc trong các cơ quan hành chính nhà nước
phải được chuẩn hoá và công khai hoá; hệ thống các biểu mẫu, giấy tờ ", hành
chính được sử dụng thống nhất trong các cơ quan hành chính nhà nước ;
d) Xây dựng quy hoạch tổng thể hệ thống công sở của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp; đồng thời định rõ
40
kế hoạch đầu tư sửa chữa, cải tạo nâng cấp, xây dựng công sở; xây dựng tiêu
chuẩn hoá chế độ về trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan hành
chính nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức hành chính nhà nước, làm cơ sở
xác định nguyên tắc đầu tư, thứ tự đầu tư và bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn có tính đến hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
KẾT LUẬN
Trên đây là những cái nhìn sơ lược về cán bộ, công chức trong công cuộc
cải cách hành chính của Việt Nam. Để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức
theo đúng tinh thần của Đảng và nhà nước đã đề ra đòi hỏi phải có sự cố gắng
nỗ lực của các ban ngành, đoàn thể.
41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Các văn bản pháp luật về cán bộ, công chứcm biên chế và chính quyền
địa phương. Nxb Thống kê,HN,2004.
2.Chế độ nhân sự các nước,Nxb,Chính trị quốc gia,HN,1994.
3. Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước,Nxb Thống kê,Hà
nội,2001
4. PGS – TS Nguyễn Phú Trọng, PGS – TS Trần Xuân Sâm, Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, Nxb Thống kê,Hà nội,2001
5. Pháp lệnh cán bộ công chức ban hành năm 1998 và pháp lệnh cán bộ,
công chức sửa đổi bổ xung năm 2003.
6. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền.Hệ thống
công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới.Nxb Chính trị quốc
gia,HN,2004.
7. Tô Tử Hạ.Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
hiện nay, Nxb, Chính trị quốc gia, HN, 1998.
8. Ts.Thang Văn Phúc và Ts.Nguyễn Minh Phương.Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
9. Văn kiện của Đảng và nhà nước về cải cách hành chính.
10. Website:
42
MỤC LỤC
Mở đầu....................................................................................................... 1
Chương 1: Cơ sở lý luận ............................................................................ 2
1.1. Hành chính và cải cách hành chính ..................................................... 2
1.1.1 Khái niệm về hành chính .................................................................. 2
1.1.2 Tính tất yếu của việc cải cách hành chính ......................................... 2
1.2. Cán bộ, công chức ............................................................................... 7
1.2.1. Các khái niệm cơ bản ....................................................................... 7
1.2.2. Phân loại cán bộ, công chức ............................................................. 10
1.3 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức ................................................................................................. 11
1.3.1 Vị trí vai trò của cán bộ, công chức ................................................... 11
1.3.2 Sự cần thiết phải xây dựng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức. . 12
1.3.3 Những khó khăn và thách thức .......................................................... 16
1.3.4 Những yêu cầu về chất lượng cán bộ, công chức trong công cuộc cải
cách hành chính ở Việt Nam ................................................................................ 18
Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam và bài học
kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước ...................... 24
2.1 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay .............. 24
2.1.1 Thực trạng qua các số liệu thống kê. ................................................. 24
2.1.2 Đánh giá chung về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. ... 25
2.2 Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các
nước trên thế giới ................................................................................................. 28
2.2.1 Kinh nghiệm về tiền lương ................................................................ 28
2.2.2 Kinh nghiệm về các biện pháp khuyến khích .................................... 31
2.2.3 Bài học rút ra cho Việt Nam .............................................................. 33
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức 35
3.1 Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. .. 35
3.2.1. Đổi mới phương thức hành chính điều hành của hệ thống hành
chính nhà nước ..................................................................................................... 37
Kết luận ..................................................................................................... 38
43
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... 39
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam và bài học kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước.pdf