Tài liệu Luận văn Thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam: Luận văn
Thúc đẩy hoạt động xúc tiến
xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CÁC QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XTTM VÀ HỆ
THỐNG CÁC TỔ CHỨC XTTM TẠI VIỆT NAM................................... 9
1.1. Khái quát các quy định của Nhà nước về XTTM ........................ 9
1.1.1. Khái niệm và vai trò của XTTM .......................................... 9
1.1.2. Khái quát các quy định của Nhà nước về XTTM ............... 12
1.2. Hệ thống các tổ chức XTTM tại Việt Nam ............................... 15
1.2.1. Cấp quốc gia ..................................................................... 15
1.2.2. Các tổ chức XTTM và các hiệp hội ngành hàng ................ 17
1.2.3. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ XTTM ............................. 17
1.2.4. Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh ........................ 18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG X...
58 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thúc đẩy hoạt động xúc tiến
xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CÁC QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XTTM VÀ HỆ
THỐNG CÁC TỔ CHỨC XTTM TẠI VIỆT NAM................................... 9
1.1. Khái quát các quy định của Nhà nước về XTTM ........................ 9
1.1.1. Khái niệm và vai trò của XTTM .......................................... 9
1.1.2. Khái quát các quy định của Nhà nước về XTTM ............... 12
1.2. Hệ thống các tổ chức XTTM tại Việt Nam ............................... 15
1.2.1. Cấp quốc gia ..................................................................... 15
1.2.2. Các tổ chức XTTM và các hiệp hội ngành hàng ................ 17
1.2.3. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ XTTM ............................. 17
1.2.4. Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh ........................ 18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM ...................................................... 19
2.1. Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản ......... 19
2.1.1. Tình hình sản xuất nông sản.............................................. 19
2.1.2. Tình hình xuất khẩu nông sản ........................................... 24
2.2. Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản ........... 30
2.2.1. Hoạt động XTXK ở cấp quốc gia ....................................... 30
2.2.2. Hoạt động XTXK ở các Hiệp hội ....................................... 33
2.2.3. Hoạt động XTXK ở các doanh nghiệp ............................... 38
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ............................. 41
3.1. Những mặt thành công .............................................................. 41
3.2. Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó ................. 43
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XÚC
TIẾN XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM ................... 45
4.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách ....................................... 45
4.2. Nhóm giải pháp về hệ thống tổ chức ......................................... 46
4.3. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ........................... 47
4.4. Nhóm giải pháp về thông tin thị trường .................................... 49
4.5. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực tài chính ........................ 51
4.6. Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ sở hạ tầng ............................. 52
KẾT LUẬN ................................................................................................. 54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 56
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
HCTL Hội chợ triển lãm
NLTS Nông lâm thủy sản
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
VFA Hiệp hội Lương thực Việt Nam
VAFEC Trung tâm Tiếp thị Triển lãm Nông nghiệp và phát
triển nông thôn
VASEP Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Vietfores Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XTTM Xúc tiến thương mại
XTXK Xúc tiến xuất khẩu
EU Liên minh châu Âu
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh 1994 phân theo ngành
hoạt động ..................................................................................................... 21
Bảng 2.2: Diện tích trồng rừng tập trung và sản lượng gỗ khai thác giai đoạn
2006 - 2009 .................................................................................................. 22
Bảng 2.3: Giá trị sản xuất thuỷ sản theo giá so sánh 1994 phân theo ngành
hoạt động giai đoạn 2006-2009 .................................................................... 23
Bảng 2.4: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng NLTS chủ yếu ...................... 25
Bảng 2.5: Kinh phí nhà nước hỗ trợ hàng nông sản theo mặt hàng giai đoạn
2006-2009 .................................................................................................... 32
Bảng 2.6: Nội dung hỗ trợ XTTM của hàng NLTS năm 2006 và 2009 ......... 36
Hình 2.1: Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994 phân theo khu
vực kinh tế giai đoạn 2006-2009 .................................................................. 19
Hình 2.2: Số lượng đề án XTTM của các hiệp hội NLTS ............................. 34
Hình 2.3: Số lượng đề án XTTM phân theo nhóm ngành hàng ..................... 35
Hình 2.4: Nội dung hỗ trợ XTTM của hàng NLTS năm 2006 – 2009 ........... 36
Hình 2.5: Nhóm hàng XTTM phân theo thị trường năm 2006 – 2009 .......... 37
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ các tổ chức Xúc tiến thương mại của Việt Nam ................. 18
LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là một trong những chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay. Việt Nam là một nước nông
nghiệp với hơn 70% lực lượng lao động làm nghề nông, đất đai màu mỡ và
khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các
loại nông sản như lúa gạo, cà phê, cao su, chè, hạt tiêu, điều, hải sản, gỗ và
sản phẩm gỗ... Do đó, chúng ta luôn tự hào về những thành tựu trong xuất
khẩu thời gian gần đây như: đứng thứ hai về xuất khẩu gạo của thế giới, đứng
đầu về xuất khẩu cà phê-ca cao, hồ tiêu... Năm 2009, mặc dù vẫn chịu những
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng này vẫn đạt hơn 15,2 tỷ USD, vượt 8,5% chỉ
tiêu mà Chính phủ đề ra (14 tỷ USD). Tuy nhiên, tổng giá trị xuất khẩu nông
sản vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Người nông dân và
doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề này
và cũng chưa nhận được sự hỗ trợ kịp thời. Bên cạnh đó, nền nông nghiệp còn
bộc lộ những lỗ hổng cần phải giải quyết ngay như vấn đề vệ sinh an toàn
thực phẩm, dây chuyền công nghệ sản xuất, bảo quản sản phẩm, quy trình
đóng gói...
Bênh cạnh đó là xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế
giới đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến từng quốc gia trong đó có Việt Nam.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta được đánh dấu bởi những sự
kiện quan trọng như: gia nhập vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), tham gia vào diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO)... Đó thực sự
là cơ hội và cũng là thách thức không nhỏ đối với hàng nông sản của Việt
Nam. Do đó, để đưa nông sản Việt Nam vươn ra thị trường thế giới và khẳng
định được vị thế của nó thì cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động XTTM.
Sau một thời gian thực tập ở Cục xúc tiến thương mại, em nhận thấy
hoạt động XTTM đối với hàng nông sản xuất khẩu bên cạnh những thành
công nhất định thì vẫn còn những tồn tại cần khắc phục. Do đó, em đã chọn
đề tài nghiên cứu: “Thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng hoạt động XTTM đối với hàng nông sản qua đó
đánh giá những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại trong công tác
XTTM đối với mặt hàng này. Từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động XTTM đối với hàng nông sản của
Việt nam.
Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề tập trung nghiên cứu hoạt động XTTM
hàng nông sản của Việt Nam ở 3 khía cạnh: quốc gia, các hiệp hội ngành
hàng, tổ chức XTTM và doanh nghiệp trong khoảng thời gian từ năm 2006-
2009.
Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh các
số liệu và nghiên cứu lấy số liệu từ các báo cáo tổng hợp, các trang web, sách
báo, tạp chí liên quan tới đề tài này để thực hiện đề tài nghiên cứu.
Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, bảng chữ cái viết tắt, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, chuyên đề được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Các quy định của nhà nước về xúc tiến thương mại và hệ
thống các tổ chức XTTM tại Việt Nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam
Chương 3: Đánh giá hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam
Chương 4: Một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu
hàng nông sản của Việt Nam
CHƯƠNG 1: CÁC QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XTTM VÀ HỆ
THỐNG CÁC TỔ CHỨC XTTM TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái quát các quy định của Nhà nước về XTTM
1.1.1. Khái niệm và vai trò của XTTM
1.1.1.1. Khái niệm XTTM
Xúc tiến thương mại là thuật ngữ ra đời từ lâu cùng với sự hình thành
và phát triển của khái niệm marketing. Tuy nhiên, trong những thập niên gần
đây, các quốc gia, doanh nghiệp mới có sự quan tâm và chú trọng đến hoạt
động này. Qua thời gian, XTTM có rất nhiều các định nghĩa khác nhau như
sau:
- Theo cách truyền thống, XTTM được hiểu là hoạt động trao đổi và hỗ
trợ trao đổi thông tin giữa người bán và người mua, hoặc qua khâu trung gian
nhằm tác động tới thái độ và hành vi mua bán qua đó thúc đẩy việc mua bán,
trao đổi hàng hóa và dịch vụ chủ yếu nhằm mở rộng và phát triển thị trường.
- Trong cuốn “Essentials of Marketing” Jerome và William định nghĩa
như sau: “XTTM là việc truyền tin giữa người bán và người mua hay những
khách hàng tiềm năng khác nhằm tác động vào hành vi và quan điểm của
người mua hàng. Chức năng XTTM chính của nhà quản trị marketing là mách
bảo cho khách hàng mục tiêu biết đúng sản phẩm, đúng chỗ và đúng giá.”
- Còn Dennis W. Goodwin thì: “XTTM là một lĩnh vực họat động
Marketing đặc biệt có chủ đích được định hướng vào việc chào hàng, chiêu
khách và xác lập một quan hệ thuận lợi nhất giữa doanh nghiệp với các đối
tác và tập khách hàng tiềm năng nhằm triển khai các chính sách thuộc chương
trình Marketing hỗn hợp đã lựa chọn của doanh nghiệp”.
- Luật Thương mại Việt Nam (1999) đưa ra định nghĩa như sau:
“XTTM là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa và
cung ứng dịch vụ thương mại, bao gồm các hoạt động quảng cáo, hội trợ triển
lãm và khuyến mại”.
- “Xúc tiến thương mại (tiếng Anh: trade promotion) là hoạt động thúc
đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt
động khuyến mại, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội
chợ, triển lãm thương mại” theo bách khoa toàn thư mở định nghĩa.
Từ các định nghĩa trên chúng ta đi đến kết luận như sau: XTTM là một
hoạt động vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp xuất khẩu, là một bộ phận
không thể thiếu trong Marketing hỗn hợp, là cầu nối quan trọng giữa sản xuất
và tiêu dùng sản phẩm, là công cụ hữu hiệu để nhà nước thực hiện hỗ trợ
doanh nghiệp trong xuất khẩu.
1.1.1.2. Sự cần thiết của hoạt động XTTM trong giai đoạn hiện nay
Ngày nay cùng với sự phát triển như “vũ bão” của khoa học công nghệ,
xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại, việc cắt giảm các hàng rào thuế
và phi thuế đã giúp cho việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thế giới ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới trải qua cuộc
khủng hoảng và suy thoái kinh tế trầm trọng giai đoạn 2007-2008 đây vừa là
cơ hội cũng như thách thức đối với mỗi quốc gia trong quá trình Công nghiệp
hoá – Hiện đại hoá đất nước. Đồng thời cũng là một bài toán khó đặt ra cho
các doanh nghiệp “làm thế nào để đạt được các hiệu quả kinh tế, xã hội mà
vẫn hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch sản xuất và kinh doanh đề ra? Phải
tính toán và lựa chọn phương pháp quản lý và điều hành ra sao trong mọi lĩnh
vực để: sử dụng vốn, khoa học công nghệ sản xuất, nguồn nhân lực, mạng
lưới bán hàng, xây dựng uy tín doanh nghiệp, uy tín sản phẩm… nhằm đạt
được lợi thế cạnh tranh?”
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cùng với xu thế toàn cầu hóa và tự
do hóa thương mại trên thế giới đã mở ra những cơ hội, hướng đi mới cho các
doanh nghiệp trong việc củng cố và tăng cường hệ thống tổ chức và nâng cao
sức cạnh tranh. Ngày nay, hai yếu tố cơ bản tạo nên thị trường thế giới là:
cạnh tranh quyết liệt trên phạm vi toàn cầu và sự tiến bộ không ngừng về
khoa học kỹ thuật. Do đó, các doanh nghiệp phải có tầm nhìn chiến lược
mang tính toàn cầu và đa quốc gia, chứ không chỉ bó hẹp trong lãnh thổ của
một quốc gia.
Trong những năm qua, hầu hết các nước trong đó có Việt Nam chú
trọng đến việc ban hành hệ thống luật pháp, chính sách thương mại và đầu tư
hấp dẫn, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút vốn và công nghệ của
nước ngoài. Và xu thế này sẽ vẫn tiếp tục mạnh mẽ và sôi động hơn, đặc biệt
là tại khu vực năng động nhất: Châu Á - Thái Bình Dương trong thời gian tiếp
theo. Vì vậy XTTM là công cụ không thể thiếu và hữu hiệu trong chiến lược
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Từ khi Việt Nam là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới cũng
tạo ra những cơ hội to lớn để phát triển kinh doanh, mở rộng thị trường và đẩy
mạnh xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ khi phải cạnh tranh gay gắt và bình đẳng giữa
các doanh nghiệp với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài không những
trong xuất khẩu mà cả trên thị trường nội địa. Do vậy, hoạt động XTTM đã,
đang và sẽ đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển xuất khẩu
của các doanh nghiệp hiện nay.
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại toàn cầu hiện nay, khi hàng hóa
và dịch vụ được trao đổi buôn bán rất đa dạng và phong phú, để tồn tại và
phát triển các doanh nghiệp phải luôn tìm tòi, nghiên cứu đồng thời cải tiến
sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới.
Mặt khác, Việt Nam là nước nông nghiệp có điểm xuất phát thấp lại
tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới muộn hơn nhiều so với
các nước ở khu vực và trên thế giới, cho nên để giành được thị phần đáng kể
cho hàng hoá nói chung và hàng nông sản nói riêng đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn
từ phía doanh nghiệp, nhà nước và các bộ ngành, các tổ chức. Do đó, hoạt
động XTTM đóng vai trò đặc biệt quan trọng mở đường cho hàng nông sản
của Việt Nam thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường thế giới.
1.1.2. Khái quát các quy định của Nhà nước về XTTM
Nhận thức được tầm quan trọng và thiết thực từ hoạt động XTTM đối
với doanh nghiệp xuất khẩu, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp lý quy
định cụ thể, chi tiết đối với công tác XTTM nói chung và XTXK nông sản nói
riêng như sau:
Ngày 27 tháng 9 năm 2002, Bộ Tài chính ban hành Thông tư
86/2002/TT-BTC hướng dẫn chi hỗ trợ hoạt động XTTM đẩy mạnh xuất
khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Theo đó, Nhà nước sẽ dành
một khoản ngân sách tính trên kim ngạch xuất khẩu để hỗ trợ hoạt động
XTTM đẩy mạnh xuất khẩu theo các chương trình trọng điểm quốc gia. Mức
hỗ trợ sẽ là hỗ trợ 50% chi phí cho các hoạt động thông tin thương mại, hội
chợ, khảo sát, tư vấn và đào tạo, 70% chi phí đối với các hoạt động còn lại
như quảng bá thương hiệu quốc gia, xây dựng cơ sở hạ tầng… Nguồn vốn hỗ
trợ sẽ được lấy từ ngân sách bằng 0,25% tính trên trị giá tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước năm trước chuyển vào Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hình thành
nguồn hỗ trợ cho các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia.
Nghị định 37/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 4 tháng 4 năm 2006 về
việc quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại
trong đó quy định chi tiết về các hình thức khuyến mại; quảng cáo thương
mại; hội chợ, triển lãm thương mại. Có một số điểm cần lưu ý như:
- Chương trình khuyến mại phải được thực hiện hợp pháp, trung thực,
công khai, minh bạch và không được xâm hại đến lợi ích hợp pháp của người
tiêu dùng, của các thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân khác. Doanh nghiệp
thực hiện phải bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho khách hàng trúng
thưởng nhận giải thưởng và có nghĩa vụ giải quyết rõ ràng, nhanh chóng các
khiếu nại nếu có.
- Hàng mẫu đưa cho khách hàng, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách
hàng dùng thử phải là hàng hoá, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp mà
thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường.
- Thương nhân khi thực hiện các hình thức khuyến mại phải gửi thông
báo bằng văn bản về chương trình khuyến mại đến Sở Thương mại nơi tổ
chức khuyến mại chậm nhất 7 ngày làm việc trước khi thực hiện khuyến mại.
- Việc sử dụng sản phẩm quảng cáo thương mại có chứa đựng những
đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải được sự đồng ý của chủ sở
hữu đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đó.
Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ về ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình
xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010. Được xem như văn bản
đầu tiên và quan trọng về XTTM của Việt Nam do đó nó vẫn còn có những
bất cập như: thiên về hỗ trợ các mặt hàng truyền thống, nội dung hỗ trợ chưa
hoàn thiện, chưa có quy định cụ thể về thời hạn cấp tạm ứng kinh phí hỗ trợ
cho các Hiệp hội ngành hàng sau khi Chương trình được phê duyệt…Do đó
để nhằm nâng cao hơn nưa chất lượng và công tác XTTM thì Quyết định số
80/2009/QĐ-TTg ngày 21/5/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế
xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn
2006 – 2010, có hiệu lực và được thi hành từ ngày 15/7/2009. Đây được xem
là tín hiệu tích cực và thiết thực nhất trong nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp, tìm đầu ra cho hàng hóa và đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới
với rất nhiều điểm mới quan trọng như sau:
- Mở rộng hơn về đối tượng tham gia Chương trình XTTM quốc gia so
với trước đây với việc bổ sung các tổ chức XTTM (bao gồm cả các đơn vị chủ
trì) được nhận kinh phí hỗ trợ khi tham gia chương trình XTTM quốc gia của
các đơn vị chủ trì khác. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức XTTM của
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đại diện cho doanh nghiệp địa
phương tham gia vào hoạt động XTTM quốc gia để xúc tiến tiêu thụ các sản
phẩm đặc trưng, có lợi thế cạnh tranh của địa phương mình.
- Ngoài ra, Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Công Thương xem xét trình
Thủ tướng chính phủ phê duyệt các đề án XTTM của địa phương có hỗ trợ từ
ngân sách trung ương. Đây là cơ hội cho các địa phương có các mặt hàng xuất
khẩu trọng điểm của cả nước, có các đề xuất XTTM có khả năng đem lại lợi
ích cho cả một vùng kinh tế - xã hội và có cơ quan XTTM đủ năng lực có thể
đứng ra trực tiếp chủ trì các hoạt động XTTM quốc gia.
- Về nội dung hỗ trợ, có thêm ba loại hình hỗ trợ mới đã được bổ sung
để phù hợp với giai đoạn hiện nay. Trong đó, việc hỗ trợ các doanh nghiệp
Việt Nam tổ chức tiếp xúc với các nhà nhập khẩu nước ngoài vào giao dịch
mua hàng là nội dung được các hiệp hội ngành hàng và địa phương rất đánh
giá cao. Cùng với đó, Nhà nước cũng sẽ tổ chức hội nghị ngành hàng xuất
khẩu tại Việt Nam và các hoạt động XTTM nhằm mở rộng thị trường xuất
khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp chủ động thực hiện các hoạt động
XTTM tìm kiếm thị trường xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm nội địa.
- Những điểm mới về mức hỗ trợ: đối với một số nội dung, mức hỗ trợ
sẽ cao hơn so với mức hiện hành. Đặc biệt, Chương trình XTTM quốc gia sẽ
hỗ trợ kinh phí (cấp bù kinh phí) cho các hiệp hội, doanh nghiệp đã chủ động
tổ chức đoàn ra nước ngoài nghiên cứu, mở rộng thị trường xuất khẩu với kết
quả cụ thể.
1.2. Hệ thống các tổ chức XTTM tại Việt Nam
1.2.1. Cấp quốc gia
Hoạt động XTTM của nước ta được phối hợp thực hiện từ cấp Trung
ương (Chính phủ và các bộ ngành) đến các địa phương (Sở thương mại các
tỉnh) trong đó với đặc thù là cơ quan Chính phủ và các Bộ ngành nên các cơ
quan này không tham gia thực hiện hầu hết các hình thức XTTM mà chỉ hỗ
trợ các doanh nghiệp thực hiện thông qua các hoạt động như sau:
- Tổ chức phòng trưng bày cho các doanh nghiệp đăng ký tham gia trưng
bày, giới thiệu sản phẩm xuất khẩu.
- Làm cầu nối, trung gian giữa các doanh nghiệp
- Hỗ trợ về thông tin bằng việc xây dựng website; phổ biến thông tin về thị
trường trong ngoài nước và các văn bản pháp quy mới.
- Tổ chức các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài
- Giới thiệu hoặc tổ chức (hay phối hợp tổ chức) các hội chợ quốc tế, tạo
điều kiện cho các cơ quan, doanh nghiệp của quốc gia đối tác giao lưu, xúc
tiến mua bán hàng hoá, dịch vụ.
- Tổ chức các chương trình tập huấn về kỹ năng, cách thức tiếp cận các thị
trường nước ngoài.
Hoạt động XTTM của nước ta được phối hợp thực hiện ở các bộ ban
ngành và nhiều cơ quan của Chính phủ, trong đó Bộ Công thương là đơn vị
chủ chốt đối với thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại.
Bộ Công thương: là cơ quan nghiên cứu và hoạch định chính sách, soạn
thảo các văn bản liên quan đến hoạt động XTTM, đàm phán ký kết các hiệp
định thương mại song phương và đa phương, là cầu nối giữa các tổ chức
XTTM trong nước với các thương vụ và cơ quan đại diện của Việt Nam tại
nước ngoài, thực hiện các hoạt động thông tin thương mại, nghiên cứu thị
trường, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực…
Cục xúc tiến thương mại: là tổ chức trực thuộc Bộ Công Thương, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về XTTM, thương hiệu và đầu tư phát triển
ngành công nghiệp và thương mại theo quy định của pháp luật. Trong đó, Cục
XTTM có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau:
- Giúp Bộ trưởng Bộ công thương định hướng công tác XTTM: xây
dựng hoặc tham gia xây dựng chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật về
xúc tiến thương mại; trình cấp có thẩm quyền ban hành các quy trình, quy
phạm, quy chuẩn về xúc tiến thương mại; hướng dẫn và kiểm tra việc thực
hiện các quy định trên sau khi được duyệt.
- Nghiên cứu, dự báo và định hướng về thị trường trong nước và ngoài
nước để phát triển thị trường và sản phẩm thương mại; thu thập, xử lý và cung
cấp thông tin thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp công tác xúc tiến thương mại.
- Tổ chức tập huấn nhắm nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác
xúc tiên thương mại và bồi dưỡng kỹ năng tác nghiệp trong thương mại cho
cán bộ quản lý và kinh doanh thương mại.
- Chỉ đạo và hướng dẫn các Sở Công thương về quản lý nhà nước và
nghiệp vụ xúc tiến thương mại.
- Giúp Bộ trưởng Bộ Công thương chỉ đạo các đại diện thương mại ở
nước ngoài tiến hành công tác xúc tiến thương mại.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về xúc tiến thương mại.
Các bộ ngành có các bộ phận thực hiện công tác XTTM cũng phối hợp
hoạt động XTTM với Bộ công thương mà cơ quan đảm nhiệm thực hiện là
Cục XTTM. Vai trò của các bộ ngành cụ thể như sau:
Bộ Kế hoạch và đầu tư: thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại và
đầu tư nước ngoài.
Bộ Tài chính: thực hiện các hoạt động cung cấp nguồn kinh phí hỗ trợ
của nhà nước cho các chương trình XTTM của Bộ Công thương mà cơ quan
đảm nhiệm thực hiện là Cục XTTM.
Bộ Văn hoá – Thể thao và du lịch: thực hiện các hoạt động xúc tiến
thương mại du lịch, thực hiện công tác quản lý nhà nước về hoạt động quảng
cáo, khuyến mại trên phạm vi cả nước.
Ngoài ra các Bộ ngành khác cũng có các hoạt động xúc tiến thương mại
và phối hợp với Bộ công thương để hỗ trợ, giúp đỡ doanh nghiệp trong quá
trình phát triển sản phẩm, sản xuất và xuất khẩu nông sản, thâm nhập vào thị
trường quốc tế.
1.2.2. Các tổ chức XTTM và các hiệp hội ngành hàng
Việt Nam hiện nay có khoảng 200 hiệp hội doanh nghiệp, trong đó một
số hiệp hội đang ngày càng phát huy hiệu quả đặc biệt là phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và các hiệp hội ngành hàng NLTS như
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam,
Hiệp hội chè, Hiệp hội lương thực … Cụ thể về vai trò của Hiệp hội như sau:
- Hiệp hội đại diện và tăng cường quyền lợi cho các hội viên của mình
trong các quan hệ cả trong nước và quốc tế bao gồm việc duy trì đối thoại với
Chính phủ về luật và chính sách chi phối hoạt động nói chung và XTTM của
doanh nghiệp, quan hệ với các cơ quan tổ chức trong nước và nước ngoài
(thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, các văn phòng đại diện ở nước ngoài…).
- Cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh bao gồm đào tạo, tư vấn kỹ thuật,
tổ chức HCTL, hội thảo, hội nghị, mở rộng giao lưu quan hệ kinh doanh, thu
thập và cung cấp thông tin về những vấn đề có tác động đến hội viên.
- Các hoạt động khác như các hoạt động về nhân đạo, xã hội.
1.2.3. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ XTTM
Bao gồm các công ty quàng cáo, tư vấn kinh doanh, cũng cấp các dịch
vụ thông tin, tư vấn về thị trường xuất khẩu, thiết kế và phát triển sản xuất, tư
vấn về hệ thống pháp luật pháp quốc tế… các tổ chức này cũng có vai trò
không nhỏ trong công tác quảng bá, giới thiệu hình ảnh doanh nghiệp, thương
hiệu sản phầm đến người tiêu dùng, là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp
xuất khẩu với người tiêu dùng hiện nay.
1.2.4. Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh
Doanh nghiệp là đối tượng được sự hỗ trợ rất lớn về kinh phí của Nhà
nước và các bộ ngành có liên quan thông qua việc tham gia vào các chương
trình XTTM trọng điểm quốc gia mà các cơ quan chủ trì là các Hiệp hội
ngành hàng và các tổ chức XTTM phối hợp thực hiện. Hiện nay, hoạt động
XTTM thực sự là “cánh tay đắc lực” mở đường cho hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp. Hầu như các doanh nghiệp đều nhận thấy rằng XTTM hiệu quả
thì hoạt động kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng
phát triển. Do đó, doanh nghiệp luôn tích cực phối hợp hoạt động với các bộ
ban ngành và các tổ chức để thực hiện tốt công tác XTTM.
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ các tổ chức Xúc tiến thương mại của Việt Nam
Nguồn: Sinh viên tự tổng hợp
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT
KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM
2.1. Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản
2.1.1. Tình hình sản xuất nông sản
2.1.1.1. Tình hình sản xuất chung
Tình hình sản xuất các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ của
Việt Nam trong những năm gần đây đã cho thấy có sự thay đổi khá rõ nét và
phù hợp với quá trình Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước, được thể
hiện dưới hình sau:
Hình 2.1: Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994 phân
theo khu vực kinh tế giai đoạn 2006-2009
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhin vào hình 2.1, ta thấy tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh
1994 đã tăng lên qua các năm ở hầu hết các ngành công nghiệp, nông nghiệp
và dịch vụ. Trong ngành NLTS, tăng từ 79723 tỷ đồng năm 2006 lên đến
87653 tỷ đồng năm 2009 gấp gần 1,1 lần. Ngành công nghiệp và xây dựng
cũng tăng từ 174257 tỷ đồng năm 2006 lên đến 215047 tỷ đồng năm 2009 và
ngành dịch vụ tăng từ 171393 tỷ đồng năm 2006 lên đến 213209 tỷ đồng năm
2009 gấp 1,24 lần. Giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng lên là phù hợp với
quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế. Đối với cơ cấu kinh tế của nước ta giai đoạn 2006-2009 cũng có sự
chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng các ngành NLTS và tăng tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, ngành NLTS đã giảm 2% từ mức
19% năm 2006 xuống còn 17% vào năm 2009 còn ngành công nghiệp và dịch
vụ lại có xu hướng tăng 1% đạt tương ứng là 42% và 41% trong GDP năm
2009. Nhưng nói ngành NLTS giảm là không đúng vì ngành này vẫn tăng
trưởng đều qua các năm nhưng mức tăng trưởng luôn thấp hơn nhiều so với
các ngành công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy mà tỷ trọng của ngành NLTS luôn
giảm trong GDP trong các năm qua. Nhìn vào hình vẽ ta thấy có một điểm
đáng lưu ý, trong giai đoạn 2007-2008 mặc dù nền kinh tế của chúng ta chịu
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, lạm phát tăng,
tỷ giá hối đoái thay đổi gây ra những khó khăn trong xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ, ngành nông nghiệp thì gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, giá
nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, sự cạnh tranh về giá nông sản giữa các quốc
gia…nhưng giá trị tổng sản phẩm trong nước vẫn tăng lên một phần do đất
nước đang trong quá trình hội nhập WTO, cùng các chính sách mở cửa và nỗ
lực cải thiện môi trường kinh doanh của Chính phủ, các chương trình cải cách
hành chính, hỗ trợ về vốn tiếp tục đẩy mạnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh.
2.1.1.2. Tình hình sản xuất ngành nông lâm thuỷ sản
a. Tình hình sản xuất nông sản
Sau khi tìm hiểu về tình hình sản xuất chung của cả nước chúng ta xem
xét đến tình hình sản xuất nông sản trong những năm gần đây. Mặc dù không
ít những khó khăn nhưng nỗ lực cải tiến, đổi mới phương thức hoạt động và
sản xuất cũng những biện pháp hỗ trợ kịp thời, thích hợp đã giúp ngành này
vẫn tăng trưởng đều đặn qua các năm.
Bảng 2.1: Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh 1994 phân theo
ngành hoạt động
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm Tổng số
Chia ra
Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ
2006 142711 111613,0 27907,4 3190,6
2007 147846,7 115374,8 29196,1 3275,8
2008 156681,9 122375,7 30938,6 3367,6
2009 160081 123470 33133 3478
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng 2.1 ta thấy tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng
lên liên tục qua các năm từ năm 2006 là 142711 tỷ đồng lên đến 160081 tỷ
đồng vào năm 2009 tăng 1,12 lần. Trong đó các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi
và dịch vụ đều có xu hướng tăng lên nhưng tăng mạnh nhất là ngành chăn
nuôi mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng từ dịch bệnh như cúm gia cầm, dịch lợn tai
xanh… Ngành trồng trọt tăng 1,1 lần từ 111613 tỷ đồng năm 2006 lên đến
123470 tỷ đồng năm 2009 còn ngành chăn nuôi tăng 1,18 lần từ 27907 tỷ
đồng năm 2006 lên 33133 tỷ đồng năm 2009, dịch vụ trong ngành này có mức
tăng không đáng kể do người nông dân và doanh nghiệp sản xuất vẫn chưa có
sự chú trọng quan tâm đến hoạt động này như các nước trên thế giới. Nhìn
vào bảng ta cũng thấy được ngành trồng trọt luôn chiếm một tỷ trọng lớn và
ổn định trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp qua các năm, nhưng lại
có xu hướng giảm từ 78% năm 2006 xuống còn 77% vào năm 2009. Còn
ngành chăn nuôi đứng vị trí thứ hai chiếm tỷ lệ 20% vào năm 2006 tăng lên
21% vào năm 2009, ngành dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp không có sự
thay đổi vẫn là 2%. Điều này phù hợp với mục tiêu kế hoạch của ngành nông
nghiệp là chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng tăng nhanh tỷ
trọng chăn nuôi lên khoảng 45% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, tỷ trọng
ngành trồng trọt còn chiếm khoảng 49% và tỷ trọng dịch vụ nông nghiệp tăng
lên 6%.
b. Tình hình sản xuất lâm sản
Tình hình sản xuất lâm sản thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn như
vấn đề chặt phá rừng bừa bãi, tình trạng khai thác gỗ trầm trọng…đã là một
bài toán “nan giải” đối với các cơ quan chức năng. Dưới đây là tình hình sản
xuất lâm sản của nước ta thời gian gần đây:
Bảng 2.2: Diện tích trồng rừng tập trung và sản lượng gỗ khai thác giai
đoạn 2006 - 2009
Năm
Diện tích trồng rừng
tập trung (Nghìn ha)
Sản lượng gỗ khai
thác (nghìn m3)
Tổng giá trị sản xuất
lâm nghiệp (tỷ đồng)
2006 192,7 3128,5 6408,4
2007 189,9 3461,8 6603,1
2008 200,1 3562,3 6752
2009 212 3766,7 7008
Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua bảng số liệu 2.1, ta thấy được giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp
cũng liên tục tăng qua các năm đã tăng từ 6408,4 tỷ đồng năm 2006 lên đến
7008 tỷ đồng năm 2009 tăng gấp 1,09 lần. Trong đó diện tích trồng rừng tập
trung và sản lượng gỗ khai thác đều có xu hướng tăng như sau: diện tích trồng
rừng tăng 1,1 lần từ 192,7 nghìn ha năm 2006 lên đến 212 nghìn ha năm 2009
còn sản lượng gỗ khai thác tăng nhiều hơn là 1,2 lần từ 3128,6 nghìn m3 năm
2006 lên đến 3766,7 nghìn m3 năm 2009. Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy
rằng diện tích trồng rừng tăng không đáng kể so với lượng gỗ khai thác đó là
do những nguồn lợi lớn từ gỗ gây nên tình trạng chặt phá rừng bừa bãi điều
này sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến sự cân bằng môi trường sinh thái, giá trị sản
xuất ngành lâm nghiệp. Do đó, trong thời gian tới cần có những biện pháp cụ
thể và thích hợp để vừa bảo vệ và trồng rừng, khai thác rừng hợp lý để đạt
hiệu quả cao trong giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp.
c. Tình hình sản xuất thuỷ sản
Số liệu của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho thấy, sản
lượng nuôi trồng thuỷ sản năm 2006 của thế giới là 63 triệu tấn triệu tấn.
Trong đó, Việt Nam cung cấp gần 1,7 triệu tấn, vẫn giữ ở vị trí thứ 5, chỉ sau
Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Philippines.
Bảng 2.3: Giá trị sản xuất thuỷ sản theo giá so sánh 1994 phân theo
ngành hoạt động giai đoạn 2006-2009
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm Tổng số Thuỷ sản khai thác
Thuỷ sản nuôi
trồng
2006 42035,5 16137,7 25897,8
2007 46932,1 16485,8 30446,3
2008 50081,9 16928,6 33153,3
2009 52798 34743,0 18055,0
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng số liệu 2.3 ta thấy tổng giá trị sản xuất ngành thuỷ sản
của Việt Nam cũng ngày càng tăng lên qua các năm từ năm 2006 là 42035,5
tỷ đồng lên đến 52798 tỷ đồng năm 2009 gấp 1,25 lần. Trong đó có sự chênh
lệch rất lớn trong tỷ trọng giá trị giữa lĩnh vực thuỷ sản khai thác và thuỷ sản
nuôi trồng. Đối với lĩnh vực thuỷ sản khai thác tăng từ 16137,7 tỷ đồng năm
2006 với 2026,6 nghìn tấn lên đến 34743 tỷ đồng năm 2009 với 2,271 triệu
tấn tăng gấp 2,15 lần đây là một con số khá ấn tượng với ngành này. Còn thuỷ
sản nuôi trồng lại có xu hướng giảm 1,43 lần từ 25897,8 tỷ đồng năm 2006
với 1693,9 nghìn tấn xuống còn 18055,0 tỷ đồng năm 2009 với 2,517 triệu
tấn. Tình trạng mất cân đối giữa lĩnh vực thuỷ sản nuôi trồng và khai thác thời
gian qua là do việc khai thác bừa bãi đang làm nguồn lợi thủy sản bị đe dọa
nghiêm trọng và môi trường ô nhiễm nặng nề. Bên cạnh đó là những biến
động về thị trường và giá nguyên liệu đầu vào đã và đang làm cho nguồn lợi
thủy sản gần bờ bị đe dọa nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đời sống người dân và
tác động tiêu cực quá trình phát triển bền vững của ngành. Vì vậy cần có
chiến lược bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản Việt Nam trong thời gian
tới.
2.1.2. Tình hình xuất khẩu nông sản
Từ những con số ấn tượng trong quá trình sản xuất nhóm hàng NLTS
của Việt Nam thời gian qua thì tình hình xuất khẩu mặt hàng này cũng có
những thành công nhất định. Từ cuối năm 2007 đến đầu năm 2008, nền kinh
tế toàn cầu bắt đầu có những dấu hiệu khủng hoảng, suy thoái kinh tế và dấu
hiệu nhận thấy rõ ràng nhất đó là sự suy giảm nhanh chóng về nhu cầu nhập
khẩu NLTS trên thế giới trong khi nền kinh tế Việt Nam đang hướng đến sự
tăng trưởng về xuất khẩu mặt hàng lợi thế này.
Bảng 2.4: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng NLTS chủ yếu
Các mặt
hàng
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Lượng
(tấn)
Trị giá
(1000USD)
Lượng
(tấn)
Trị giá
(1000USD)
Lượng
(tấn)
Trị giá
(1000USD)
Gạo 4557511 1489970 4741858 2894441 5958300 2663877
Cà phê 1229233 1911463 1059506 2111187 1183523 1730602
Hạt điều 653863 165334 911019 177154 846683
Cao su 714877 1392841 658342 1603596 731383 1226857
Chè 114455 130833 104459 146937 134115 179494
Hạt tiêu 82905 271011 90250 311172 134261 348149
Lâm sản 2404097 2829283 2597649
Thuỷ sản 3763404 4510116 4251313
Nguồn: Tổng cục thống kê
a. Xuất khẩu gạo
Nhìn vào bảng 2.4 ta thấy kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam trong
giai đoạn 2007-2009 liên tục tăng từ 1,48 tỷ USD năm 2006 với sản lượng là
4,55 triệu tấn lên đến 2,66 tỷ USD năm 2009 với sản lượng là 5,95 triệu tấn
tăng 1,78 lần về giá trị và 1,3 lần về lượng. Mức tăng liên tục qua các năm đã
đưa gạo trở thành mặt hàng có tỷ trọng lớn nhất trong nhóm hàng NLTS xuất
khẩu của Việt Nam những năm qua.
Về cơ cấu chủng loại gạo: mặt hàng gạo 5% tấm vẫn chiếm ưu thế đang
là đối thủ cạnh tranh của gạo cấp trung và cấp thấp của Thái Lan. Bên cạnh đó
chúng ta cũng có những mặt hàng gạo tiềm năng như: gạo thơm Jasmine, nếp
hay các loại gạo đặc sản.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng năm cũng có sự biến
động do chịu ảnh hưởng của tình hình thế giới: năm 2006 là 12,59%; năm
2007 là 34,07% ; năm 2008 là 94,26% và năm 2009 là 92,03%. Như vậy tốc
độ tăng trường kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2005-2009 là 58,23%/năm.
Về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam không có sự biến động
nhiều. Năm 2005 là 40 thị trường, 2006 là 41 thị trường; sang năm 2007 là 63
thị trường, đặc biệt năm 2008 thị trường gạo xuất khẩu đã tăng lên gấp đôi là
128 thị trường. Các thị trường chính xuất khẩu gạo là Philippines chiếm hơn
một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (35%), Malaysia (9%), Singapore,
Đông, Đài Loan.
b. Xuất khẩu cà phê
Nhìn vào bảng 2.4 ta thấy trong giai đoạn từ 2007-2009 giá trị và lượng
cà phê xuất khẩu của Việt Nam đều có xu hướng giảm nguyên nhân được lý
giải là do yếu tố thời tiết, người nông dân bị các doanh nghiệp ép giá, hoặc
nếu được mùa thì lại đợi giá cao mới bán ra… Xuất khẩu cà phê giảm từ
1911463 nghìn USD năm 2006 xuống còn 1730602 nghìn USD năm 2009
giảm là 1,1 lần và cùng với xu hướng đó lượng cà phê xuất khẩu cũng giảm từ
1,229 triệu tấn năm 2006 xuống còn 1,183 triệu tấn năm 2009.
Về thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam liên tục tăng qua các
năm: năm 2006 là 52 thị trường; năm 2007 là 54 thị trường, năm 2008 là gần
100 thị trường. Hiện nay, xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam vào 10 thị
trường sau Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Ba Lan, Hàn Quốc, Pháp, Anh và
Nhật Bản. Mười thị trường này tiêu thụ 73,4% tổng sản lượng xuất khẩu cà
phê của Việt Nam.
c. Xuất khẩu cao su
Nhìn vào bảng 2.4 ta thấy xuất khẩu cao su của Việt Nam giai đoạn
2007-2009 cũng có xu hướng giảm giống như mặt hàng cà phê, giảm từ 1,392
tỷ USD vào năm 2007 xuống còn 1,226 tỷ USD vào năm 2009 giảm khoảng
1,135 lần. Tuy nhiên giá trị giảm nhưng lượng cao su xuất khẩu lại tăng từ
714877 tấn năm 2007 lên đến 731383 tấn năm 2009. Nguyên nhân được lý
giải là sau một thời gian tăng liên tục thì có xu hướng giảm vào năm 2008 do
ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã gây không ít khó khăn cho
các doanh nghiệp xuất khẩu cao su. Sau khi nền kinh tế thế giới đã qua cơn
suy thoái, sản xuất công nghiệp các nước phục hồi nguồn cung ra thị trường
giảm đã tác động đến giá cao su. Tuy giá cao su đã phục hồi nhưng lượng
hàng xuất khẩu với đơn giá này không nhiều nên năm 2009, mặc dù Việt Nam
đã xuất khẩu 731.383 tấn, đạt kim ngạch 1,2 tỷ USD, tăng 9,4% về lượng
nhưng giá trị vẫn giảm trên 26%.
d. Xuất khẩu hồ tiêu
Hồ tiêu cũng là một trong những mặt hàng nông sản thế mạnh của Việt
Nam hiện nay. Xuất khẩu hồ tiêu của nước ta giai đoạn 2007-2009 theo bảng
số liệu 2.4, cũng liên tục tăng lên từ 271011 nghìn USD năm 2007 lên đến
348149 nghìn USD năm 2009 tăng gấp 1,28 lần về giá trị và 1,6 lần về lượng
xuất khẩu do nhu cầu nhập khẩu hồ tiêu của thế giới tăng và giá cũng tăng.
Qua những con số trên ta thấy được mặt hàng hồ tiêu rất được ưa chuộng trên
thế giới và có nhiều thuận lợi hơn các mặt hàng khác trong xuất khẩu.
Về thị trường xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam giai đoạn 2006-2009 như
sau: năm 2006 là 53 thị trường, năm 2007 là 54 thị trường, còn năm 2008 là
91 thị trường. Hiện nay, hồ tiêu Việt Nam thâm nhập vào trên 100 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Các thị trường: Hoa Kỳ, Đức, Ấn Độ, Hà Lan,
Singapore… vẫn là các thị trường nhập khẩu chính của hồ tiêu Việt Nam. Sản
lượng xuất khẩu chiếm khoảng 50% lượng hồ tiêu xuất khẩu toàn cầu.
e. Xuất khẩu chè
Hiện nay ngành chè của Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh và
cũng đang từng bước khẳng định thương hiệu chè Việt trên thế giới. Xuất
khẩu chè của Việt Nam giai đoạn 2007-2009 ở bảng 2.4 cũng liên tục tăng từ
1,3 tỷ USD năm 2007 lên đến 1,79 tỷ USD năm 2009 tăng khoảng 1,37 lần và
lượng xuất khẩu cũng tăng tương ứng là 114455 tấn năm 2007 lên đến
179494 tấn năm 2009. Tuy nhiên trong năm 2008 lượng chè xuất khẩu lại có
xu hướng giảm 9,56% nhưng giá chè thì lại tăng 12,3% so với năm 2007. Giá
xuất khẩu chè tăng qua các năm nhưng so với giá thế giới thì giá chè xuất
khẩu của Việt Nam vẫn thấp do hầu hết các sản phẩm chè còn thiếu uy tín về
chất lượng và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu
chè có xu hướng tăng tuy nhiên so với các sản phẩm nông nghiệp khác như
gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều khả năng sinh lợi nhuận của chè vẫn còn kém xa
so với tiềm năng.
Về thị trường chính của xuất khẩu chè Việt Nam thì hiện nay là khoảng
73 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó các thị trường chính nhập khẩu chè
của Việt Nam là Liên Bang Nga, Irac, Pakistan, Đài Loan, Nhật Bản…
f. Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ
Nhìn vào bảng số liệu 2.4 ta thấy kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt
Nam qua các năm từ 2007-2009 có xu hướng tăng từ 2,4 tỷ USD năm 2007
lên đến 2,59 tỷ USD năm 2009 là khoảng 1,08 lần. Tuy nhiên có một điểm
đáng lưu ý là năm 2008 mặc dù khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng ngành
gỗ vẫn có mức tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng là 2,8 tỷ USD tăng 1,17 lần so
với năm 2007. Do khủng hoảng, thị trường tiêu thụ bị co cụm, nguyên liệu
đầu vào (nguồn nguyên liệu nhập khẩu chiếm tới 80%) bị siết chặt về cơ chế
và gia tăng giá cả, cùng với những khó khăn khác nảy sinh từ thị trường nội
địa... đã đẩy ngành xuất khẩu đồ gỗ trong nước đang đứng trước những khó
khăn to lớn. Tuy nhiên với sự hỗ trợ từ nhiều phía đặc biệt là các tổ chức tài
chính để giải quyết những khó khăn về nguồn vốn nên xuất khẩu gỗ năm
2008 đã có sự tăng trưởng khá ấn tượng.
Cơ cấu chủng loại sản phẩm gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt
Nam giai đoạn 2007-2009 thì đồ nội thất phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ
xuất khẩu ghế và các sản phẩm ghế là được các nước rất ưa chuộng và nhập
khẩu với số lượng lớn. Tiếp sau đó là nội thất văn phòng, gỗ nguyên liệu, ván
sàn, khung gương, khung tranh chiếm tỷ trọng nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam.
Về thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam: các thị
trường chính là Mỹ (chiếm 43,35%); Nhật Bản (chiếm 13,68%,); tiếp đến là
Trung Quốc (với 7,62%).
g. Xuất khẩu thủy sản
Nhìn vào bảng 2.4 ta thấy mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam
cũng có xu hướng tăng từ 3763404 nghìn USD năm 2007 lên đến 4251313
nghìn USD năm 2009 tăng gấp 1,13 lần. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu mặt hàng
này năm 2009 lại giảm 1,6% về lượng và 5,7% về giá trị so với năm 2008, lần
giảm đầu tiên sau 13 năm của ngành thuỷ sản. Nhưng đó vẫn kết quả khả
quan đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, trước những khó khăn về nguồn
nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, những hàng rào kỹ thuật mới, kiểm dịch chặt
chẽ và thường xuyên ban hành các tiêu chuẩn mới.
Trong cơ cấu chủng loại thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn
2007-2009 thì tôm vẫn là mặt hàng đứng đầu chiếm 38,4% tỷ trọng tổng giá
trị kim ngạch xuất khẩu, tiếp đến là mặt hàng cá tra, ba sa chiếm tỷ trọng xuất
khẩu gần 32%, rồi đến các mặt hàng cá ngừ, mực, bạch tuộc…
Về thị trường của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam: năm 2008 là 160 thị
trường với gần 70 loại sản phẩm khác nhau. Năm 2009 xuất sang 35 thị
trường chính, nhưng chủ yếu sang Nhật Bản, Hoa Kỳ.
2.2. Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản
2.2.1. Hoạt động XTXK ở cấp quốc gia
Với chức năng chính là quản lý nhà nước về XTTM và điều phối các
hoạt động này thì Nhà nước cũng phối hợp với các tổ chức, hiệp hội và doanh
nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động XTTM cụ thể như sau:
Một là, các quan chức cấp cao của Chính phủ cũng như các Bộ ban
ngành thực hiện ký kết các hiệp định song phương và đa phương nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản mở rộng thâm nhập
vào thị trường quốc tế. Một số hoạt động cụ thể như sau:
- Về quan hệ hợp tác song phương, từ sau khi mở cửa nền kinh tế đến
nay chúng ta đã có quan hệ thương mại với 165 quốc gia và vùng lãnh thổ
thuộc tất cả các châu lục, ký kết được các hiệp định quan trọng như ký hiệp
định thương mại Việt – Mỹ năm 2000, Hiệp định đối tác kinh tế Việt – Nhật
năm 2008... tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị
trường thế giới.
- Về quan hệ hợp tác đa phương, Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ
chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Vai trò đối
ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đã được thể hiện thông
qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ năm
1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, năm 2007 chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một
bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
Hai là, hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạt động
XTTM của các hiệp hội ngành hàng, các tổ chức XTTM: Hiện nay, các hiệp
hội ngành hàng trong hoạt động XTTM của doanh nghiệp có vai trò rất quan
trọng. Do đó, Nhà nước cũng ban hành nhiều văn bản, chính sách hỗ trợ và
tạo điều kiện thuận lợi cho Hiệp hội trong việc xây dựng đề án và tổ chức
thực hiện các chương trình XTTM.
Ba là, cung cấp thông tin, tổ chức các chương trình giới thiệu, quảng
bá sản phẩm, tổ chức diễn đàn, hội thảo, đào tạo và tư vấn, HCTL: Đối với
hoạt động này, nhà nước đã có những văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động
cung cấp thông tin, xây dựng cơ sở hạ tầng, ứng dụng thương mại điện tử ở
Việt Nam. Các cơ quan cung cấp thông tin của Chính phủ và các bộ ngành
như: Cục XTTM, Viện nghiên cứu thương mại, phòng thông tin của các Sở
địa phương, đài truyền hình công thương, báo công thương… là những địa chỉ
cung cấp thông tin thương mại quan trọng và thiết thực phục vụ doanh nghiệp
xuất khẩu. Trong trang web của Cục XTTM có đầy đủ các thông tin về thị
trường, ngành hàng, những điều cần biết về các thị trường…Các doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản có thể tìm thấy các thông tin đó trên các trang web
của các cơ quan của Chính phủ hoặc có thể tìm hiểu về thị trường qua các ấn
phẩm báo, tập chí. Bên cạnh đó, Chính phủ và các bộ ngành còn tổ chức cho
các cơ quan thông tấn báo chí nước ngoài đến viết bài tuyên truyền, quảng bá
về các sản phẩm nông sản của Việt Nam. Tổ chức các diễn đàn, hội nghị, hội
thảo, HCTL trong và ngoài nước giới thiệu về văn hóa ẩm thực - đất nước -
con người Việt Nam, vừa giới thiệu sản phẩm, vừa quảng bá hình ảnh, bên
cạnh đó có thể xúc tiến đầu tư và du lịch.
Bốn là, khảo sát và nghiên cứu thị trường, đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực. Hoạt động khảo sát thị trường hiện nay thường được kết với tổ chức
HCTL qua đó doanh nghiệp tham gia HCTL có cơ hội tìm hiểu về tình hình
kinh tế, hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đối tác, các điều cần lưu ý khi
kinh doanh xuất khẩu tại một thị trường cụ thế, thị hiếu người tiêu dùng…
Bên cạnh đó, các cơ quan của Chính phủ và bộ ngành, Cục XTTM hàng năm
cũng có những cuộc khảo sát các thị trường chính và các thị trường tiềm năng
của xuất khẩu nông sản Việt Nam qua đó có thể cung cấp thông tin nhanh
chóng, kịp thời diễn biến thị trường cho doanh nghiệp xuất khẩu. Công tác
đào tạo nguồn nhân lực cũng được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm, là
một trong những công việc quan trọng để thực hiện hoạt động XTTM phục vụ
xuất khẩu. Hàng năm ở nước ta vẫn tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về
kiến thức nghiệp vụ như marketing, quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu, ứng
dụng thương mại điện tử… để nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác
XTTM ở các tỉnh/thành phố, cử cán bộ đi học tập và trao đổi kinh nghiệm ở
nước ngoài, thuê các chuyên gia quốc tế đến giáng dạy ở trong nước.
Năm là, nguồn tài chính cho công tác XTTM của Nhà nước hỗ trợ. Nhà
nước đặc biệt quan tâm đến hoạt động hỗ trợ kinh phí cho XTTM từ nguồn
thu lấy từ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp và trích từ các nguồn thu của
Nhà nước.
Bảng 2.5: Kinh phí nhà nước hỗ trợ hàng nông sản theo mặt hàng
giai đoạn 2006-2009
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Tổng
kinh phí
được NN
phê duyệt
Kinh phí
đối với
hàng nông
sản
Tỷ lệ
Kinh phí
đối với
hàng thuỷ
sản
Tỷ
lệ
Kinh phí
đối với
hàng
lâm sản
Tỷ lệ
2006 144,74 24,558 17% 7,320 5% 8,923 6%
2007 174,13 17,707 10,17% 10,254 6% 13,929 8%
2008 122,73 10,755 8,76% 13,689 11% 6,196 5%
2009 179,99 17,112 9,5% 12,736 7% 4,143 2%
Nguồn: Cục XTTM
Theo như bảng 2.5 nguồn kinh phí của nhà nước hỗ trợ cho hàng NLTS
tăng lên qua các năm trong đó hàng nông sản chiếm tỷ trọng lớn nhất sau đó
là hàng thuỷ sản và cuối cùng là hàng lâm sản. Giai đoạn năm 2006 -2009
nguồn kinh phí hỗ trợ của nhà nước cho hàng nông sản ngày càng có xu
hướng giảm từ 24.558 tỷ đồng năm 2006 xuống còn 17.112 tỷ đồng năm
2009. Trong khi đó thì lại có xu hướng tăng đối với hàng thuỷ sản từ 7.320 tỷ
đồng năm 2006 lên đến 12.736 tỷ đồng năm 2009. Đối với hàng lâm sản, thời
gian gần đây nhà nước mới có sự quan tâm và hỗ trợ kinh phí cho mặt hàng
này để thúc đẩy xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ nhưng không nhiều như nông
sản và thuỷ sản. Trong số 3 nhóm hàng trên thì tỷ trọng kinh phí hỗ trợ của
nhà nước cho mặt hàng nông sản là lớn nhất chiếm gần 60% sau đó là thuỷ
sản (18%) và lâm sản (22%) vào năm 2006 đến năm 2009 lại có sự thay đổi
về kinh phí hỗ trợ giữa các mặt hàng này trong đó nông sản giảm xuống còn
50%, thuỷ sản tăng lên 38% và lâm sản là 12%. Sự chuyển dịch này phù hợp
với sự thay đổi trong cơ cấu nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước cho hoạt
động XTTM nhẳm mục tiêu thúc đẩy phát triển hài hoà và hiệu quả giữa các
mặt hàng.
2.2.2. Hoạt động XTXK ở các Hiệp hội ngành hàng
Hiện nay, Hiệp hội ngành hàng đóng vai trò rất quan trọng, là cầu nối
giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, người tiêu dùng,
cung cấp các thông tin cần thiết và kịp thời cho doanh nghiệp xuất khẩu, hỗ
trợ và tổ chức các chương trình HCTL chuyên ngành nông sản với quy mô
lớn ở trong và ngoài nước…
Hình 2.2: Số lượng đề án XTTM của các hiệp hội NLTS
Nguồn: Cục XTTM
Nhìn vào hình 2.7 ta thấy Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản là
đơn vị hoạt động mạnh và tích cực nhất, tỷ trọng các chương trình XTTM
được hiệp hội này thực hiện cũng khá lớn. Tiếp theo, là các hiệp hội như chè,
cà phê cao cao, cao su… Trong thời gian từ năm 2006-2009, tỷ trọng chương
trình XTTM của VASEP thực hiện chiếm 30% tỷ trọng các chương trình
XTTM của Hiệp hội, trong khi đó Hiệp hội chè chiếm 19%, Hiệp hội cà phê
ca cao và cao su cùng chiếm 10%, tiếp đến là Hiệp hội gỗ và lâm sản với tỷ lệ
là 9%... Qua số liệu dưới ta thấy được sự chênh lệch về số lượng các đề án
cho chương trình XTTM giữa các hiệp hội là khá lớn. Một phần cũng là do
thiếu năng lực xây dựng và thực hiện đề án của các Hiệp hội làm cho quá
trình thẩm định và phê duyệt đề án của các cơ quan bộ ngành gặp nhiều khó
khăn.
Hiệp hội cũng có sự phối hợp tích cực với Chính phủ và các bộ ngành
có liên quan trong công tác XTTM: trong thời gian gần đây việc xây dựng và
tổ chức thực hiện đề án trình lên Hội đồng thẩm định được xem xét và phê
duyệt ngày càng tăng. Cụ thể như sau:
Về cơ cấu nhóm ngành có sự thay đổi khá rõ nét về số lượng các
chương trình XTTM được thực hiện của Hiệp hội ngành hàng.
Hình 2.3: Số lượng đề án XTTM phân theo nhóm ngành hàng
Đơn vị: %
Nguồn: Cục XTTM
Theo như hình 2.8 từ năm 2006 đến 2009 ta thấy có thay đổi rõ nét về
số lượng đề án dành cho lĩnh vực nông lâm sản từ 40% vào năm 2006 với 61
đề án xuống còn 31% vào năm 2009 là 43 đề án XTTM. Trong khi đó nhóm
hàng xuất khẩu mới lại có xu hướng giảm qua các năm, nếu như năm 2006 là
25 đề án XTTM chiếm 16% được thực hiện thì sang năm 2009 chỉ còn là 9 đề
án. Đối với, nhóm hàng công nghiệp chế biến thì số lượng đề án XTTM có xu
hướng tăng giai đoạn 2006-2009 từ 36 lên 46 đề án XTTM tăng 10%. Sự thay
đổi trên có ý nghĩa quan trọng đối với từng ngành nhất là NLTS số lượng đề
án giảm nhưng chất lượng của các chương trình lại tăng lên do có sự phối hợp
tổ chức thực hiện giữa các Hiệp hội.
Căn cứ vào các hình thức XTTM được tiến hành trong 4 năm thực hiện
chương trình XTTM trọng điểm quốc gia như khuyến mại, quảng cáo, thông
tin thương mại, HCTL, trưng bày giới thiệu sản phẩm… Trong đó HCTL vẫn
là một trong những hình thức được các đơn vị chủ trì ngành nông nghiệp thực
hiện nhiều nhất và phổ biến nhất hiện nay, đồng thời cũng là hình thức được
các hiệp hội ngành hàng chú trọng và quan tâm để xây dựng đề án, chương
trình XTTM phục vụ cho doanh nghiệp.
Bảng 2.6: Nội dung hỗ trợ XTTM của hàng NLTS năm 2006 và 2009
Nội dung hỗ trợ 2006 2009
NLTS Tổng số NLTS Tổng số
Đào tạo 7 16 3 15
HCTL 21 58 25 79
Khảo sát thị trường 27 62 9 28
Thông tin thương mại 6 15 5 12
XD cơ sở hạ tầng 3 3 2 7
Grand Total 61 155 44 141
Nguồn: Cục XTTM
Hình 2.4: Nội dung hỗ trợ XTTM của hàng NLTS năm 2006 – 2009
Đơn vị: %
Nguồn: Cục XTTM
Nhìn vào bảng 2.8 và hình 2.4, ta thấy trong nhóm hàng NLTS có sự
thay đổi khá rõ nét trong nội dung hỗ trợ theo hướng tăng dần hỗ trợ tổ chức
HTCL trong và ngoài nước từ 33% năm 2006 lên đến 57% vào năm 2009
điều này được lý giải bởi hoạt động này khá thiết thực và phổ biến nên được
các doanh nghiệp tham gia rất nhiệt tình, mặt khác doanh nghiệp cũng có
những đề xuất với các cơ quan, bộ ngành nên tổ chức thêm nhiều các HCTL
chuyên ngành… Một nội dung hỗ trợ chiếm tỷ trọng lớn vào năm 2006 đến
42% là khảo sát thị trường thì lại có xu hướng giảm vào năm 2009 là 20%
thực ra thì sang năm 2009 có sự kết hợp giữa tổ chức hội chợ triển lãm và
khảo sát thị trường đối tác do đó thực ra hoạt động này vẫn có xu hướng ngày
càng tăng để tìm được các thị trường mới cho xuất khẩu nông sản. Các nội
dung khác chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số các nội dung hỗ trợ cho hàng
NLTS.
So sánh về khu vực thị trường cho hoạt động XTTM hàng nông sản thì
chiếm tỷ lệ lớn nhất vẫn là các hoạt động chiếm lĩnh thị trường nội địa, sau đó
là thị trường Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ còn châu Phi và châu Úc vẫn còn ít
các hoạt động.
Hình 2.5: Nhóm hàng XTTM phân theo thị trường năm 2006 – 2009
Đơn vị: %
Nguồn: Cục XTTM
Theo như hình 2.5 ta thấy có 3 khu vực thị trường là chiếm số lượng
lớn các chương trình XTTM đối với hàng nông sản được thực hiện nhất là
châu Á, Châu Âu và thị trường nội địa còn các thị trường khác chiếm tỷ lệ
nhỏ hơn. Trong đó, số lượng chương trình tăng lên ở các thị trường Châu Á từ
28% năm 2006 lên đến 33% vào năm 2009, châu Âu là từ 18% vào năm 2006
lên đến 28% năm 2009. Trong khi đó, thị trường Châu Mỹ lại có sự giảm đột
biến từ 12% năm 2006 xuống còn 2% năm 2009 đây có thể là do những chính
sách, quy định của Mỹ trong lĩnh vực NLTS bên cạnh đó là tình hình khủng
hoảng kinh tế Mỹ giai đoạn 2007-2008 cũng khiến cho số lượng các chương
trình đã giảm đột ngột. Cùng xu hướng giảm đó là thị trường trong nước mặt
dù chiếm số lượng lớn chương trình XTTM. Hai thị trường châu Úc và châu
Phi cũng đang có xu hướng tăng lên. Qua đó, ta thấy các thị trường châu Úc
và châu Phi là những thị trường tiềm năng và có lượng tiêu thụ lớn Hiệp hội
cần thực hiện tốt công tác XTTM để thiết thực thúc đấy xuất khẩu nông sản
của doanh nghiệp trong tương lại.
2.2.3. Hoạt động XTXK ở các doanh nghiệp
XTTM là một trong những hoạt động đầu tiên và quan trọng tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc phát triển xuất khẩu và mở rộng
thị trường nông sản nhất là trong bối cảnh khủng hoảng và suy thoái kinh tế
toàn cầu hiện nay. Đặc biệt là doanh nghiệp nông sản, do hàng nông sản chịu
nhiều ảnh hưởng của các rào cản kỹ thuật của các nước khác về vệ sinh an
toàn thực phẩm, môi trường sinh thái… Bên cạnh đó, sự nhận thức về vấn đề
này của người nông dân vẫn còn kém. Do đó, để tránh khỏi những rủi ro có
thể xảy ra trong quá trình nuôi trồng, sản xuất và xuất khẩu nông sản để ký
kết được các hợp đồng, biên bản ghi nhớ…
2.2.3.1. Công tác thị trường và sản phẩm nông sản
Đối với thị trường trong nước, hầu hết các doanh nghiệp đều thông qua
công cụ quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài,
truyền hình, tờ rơi…qua đó quảng bá sản phẩm, kích thích nhu cầu tiêu dùng
của khách hàng. Đối với thị trường nước ngoài, thông qua quảng cáo doanh
nghiệp nước ngoài cũng như người tiêu dùng có thể hiểu được tính năng,
công dụng, hiệu quả… của sản phẩm qua đó có được sự lựa chọn tốt nhất đối
với các sản phẩm nông sản.
Bên cạnh đó, thiết lập các website trên mạng cũng là một công cụ hữu
dụng giúp cho các sản phẩm nông sản được tiếp cận nhanh chóng và hiệu quả.
Nhưng công cụ này gần đây mới được các doanh nghiệp xuất khẩu chú trọng
và đẩy mạnh nhưng mục giới thiệu sản phẩm còn thiếu và sơ sài, trình bày
thiếu tính thẩm mỹ... Qua đó, thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp cũng
được đưa lên các trang web XTTM để quảng bá, giới thiệu.
2.2.3.1. Tham gia các HCTL nông sản trong và ngoài nước
Khảo sát thị trường trong và ngoài nước: Đây là một công việc quan
trọng giúp cho doanh nghiệp có thể nắm vững được tình hình kinh tế, thị hiếu
tiêu dùng, sở thích, phong tục tập quán…của nước nhập khẩu sản phẩm qua
đó quảng bá, giới thiệu sản phẩm với đối tác, tìm kiếm cơ hội giao thương, ký
kết hợp đồng. Công việc này doanh nghiệp thường thực hiện phối hợp với các
tổ chức XTTM để học hỏi và tiếp thu các kinh nghiệm trong khảo sát thị
trường mới.
Tham gia các HCTL quốc tế hàng nông sản: tham gia vào các HCTL có
quy mô lớn sẽ tạo sự thu hút, quan tâm của các doanh nghiệp, đối tác nước
ngoài do đó được các doanh nghiệp trong nước ủng hộ và hưởng ứng nhiệt
tình. Doanh nghiệp trong nước có thể giới thiệu các sản phẩm nông sản của
Việt Nam một cách trực tiếp và hiệu quả về các vấn đề liên quan đến sản
phẩm nông sản. Qua đó, khắc phục nhược điểm của sản phẩm, tạo hướng đi
mới trong việc phát triển và mở rộng thị trường nông sản của mình.
Tham gia các diễn đàn, hội thảo quốc gia và quốc tế về các vấn đề liên
quan đến nông sản được phối hợp tổ chức với các cơ quan XTTM có uy tín và
chất lượng đặc biệt là Cục XTTM đã có nhiều chương trình hợp tác với các
trung tâm XTTM các tỉnh/thành phố thực hiện chương trình hỗ trợ doanh
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực XTTM.
2.2.3.2. Tài chính đối với hoạt động XTTM của doanh nghiệp
Doanh nghiệp hầu như gặp khó khăn đối với tài chính phục vụ công tác
XTTM. Do nguồn lực tài chính của doanh nghiệp còn hạn chế nên công tác
XTTM của doanh nghiệp vẫn chưa được chú trọng. Đặc biệt là các doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản, một lĩnh vực có rất nhiếu biến động do các yếu tố
khách quan.
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
3.1. Những mặt thành công
Từ những con số ấn tượng trong kim ngạch xuất khẩu ngành nông, lâm,
thủy sản của Việt Nam trong chương 2 ta thấy được XTTM là một công cụ
quan trọng “mở đường và phát triển thị trường” cho hàng nghìn doanh
nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. XTTM đã từng bước
hình thành đội ngũ những doanh nghiệp năng động, có kinh nghiệm, nhạy bén
với sự thay đối của thị trường thế giới. Các doanh nghiệp cũng có cơ hội duy
trì mối quan hệ với các đối tác nước ngoài, tiếp cận và mở rộng thường xuyên
với các đối tác thông qua tham gia các hội chợ triển lãm nước ngoài, khảo sát
thị trường, đồng thời cập nhật những thay đổi về nhu cầu, thị hiếu ở những
thị trường khó tính, nắm bắt trực tiếp xu hướng phát triển chung của thế giới.
Các đơn vị chủ trì ngành nông nghiệp đã có kinh nghiệm hơn trong
việc xây dựng đề án và tổ chức thực hiện chương trình XTTM, từng bước
nâng cao năng lực, tính chuyên nghiệp và hiệu quả cung cấp dịch vụ quảng
bá, hỗ trợ doanh nghiệp. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện chương trình ngày
càng sát với thực tiễn và nhu cầu của các doanh nghiệp trong quá trình hội
nhập, điều đó được thể hiện ở tỷ lệ phê duyệt các đề án trong ngành của nhiều
đơn vị đạt rất cao, 100% hoặc gần 100% (Hiệp hội chè Việt Nam, Hiệp hội
chế biến xuất khẩu thủy sản, Trung tâm tiếp thị triển lãm NN&PTNT …).
Đồng thời, các hiệp hội ngành hàng đã xây dựng và quảng bá được thương
hiệu hàng hóa của mình với bạn hàng quốc tế như Chè Việt; tiêu Chư sê, Phú
Quốc… củng cố và phát triển thị trường truyền thống cũng như tìm kiếm, mở
rộng thị trường xuất khẩu mới. XTTM ngày càng nâng cao vị thế và vai trò
của Hiệp hội đối với doanh nghiệp trong nước cũng như với các hiệp hội
ngành hàng tương đồng của các nước khác.
Hệ thống tổ chức XTTM đã được hình thành và phát triển khá mạnh về
số lượng, bắt đầu có sự liên kết phối hợp hoạt động từ cấp trung ương đến các
địa phương, từ trong nước ra nước ngoài... Đến nay, hầu hết tất các các
tỉnh/thành phố đều đã có bộ phận chuyên trách về XTTM: 63 Sở công thương
trong đó đã có thêm cả chức năng xúc tiến đầu tư, xúc tiến du lịch, 45 trung
tâm XTTM và 27 phòng XTTM ở các tỉnh/thành phố, 67 Hiệp hội ngành hàng
trong đó có 16 hiệp hội ngành hàng về nông sản, các cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan Thương vụ và các trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại
nước ngoài đang đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp về
thông tin thị trường, khảo sát, quảng bá thương hiệu, tổ chức hoạt động
XTTM ở trong và ngoài nước.
Đội ngũ nhân lực: Đối với cấp quản lý, từng bước được nâng cao về
chất lượng và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như cán bộ làm công
tác XTTM... Đối với doanh nghiệp, thông qua các chương trình đào tạo đã
từng bước được nâng cao năng lực kỹ năng kinh doanh, xúc tiến thương mại
đẩy mạnh xuất khẩu của mình. Từ đó, góp phần giúp doanh nghiệp tham gia,
thực hiện các hoạt động XTTM chuyên nghiệp, hiệu quả hơn.
XTTM đã cung cấp những thông tin và định hướng về thị trường đến
các cơ quan quản lý và người sản xuất kinh doanh. Từ đó, góp phần quan
trọng trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ NLTS, làm cầu nối cho sản xuất
và tiêu thụ, thúc đẩy sản xuất phát triển. Bên cạnh đó, từng bước chủ động
điều tiết thị trường khi có biến động bất lợi: hạn chế sự phụ thuộc quá mức
vào những thị trường truyền thống ví như mặt hàng cá tra, cá basa của Việt
Nam và từng bước mở rộng thị trường xúc tiến xuất khẩu sang các thị trưởng
mới, tiềm năng như châu Phi, châu Úc.
3.2. Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó
Về cơ chế chính sách: chưa có chiến lược tổng thể cho sự phát triển
hoạt động XTTM từ cấp Trung ương đến các địa phương một cách thống nhất
và đồng bộ. Do đó, hoạt động XTTM nông sản chưa tương xứng với yêu cầu
ngày càng cao của cạnh tranh thương mại quốc tế, nhất là trong bối cảnh hội
nhập hiện nay đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp trong xuất khẩu
nông sản.
Về nguồn nhân lực: Số lượng cán bộ thực hiện công tác XTTM còn
thiếu và yếu. Đội ngũ cán bộ XTTM ở các tỉnh/thành phố vẫn còn tồn tại 2
hạn chế lớn đó là trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ. Hiện nay, ở
các địa phương rất khó khăn trong việc thu hút nguồn nhân lực cho hoạt động
XTTM có trình độ cao và kỹ năng giỏi. Bên cạnh đó, kỹ năng tiếng anh
chuyên ngành để làm cầu nối thực hiện XTTM giữa doanh nghiệp trong nước
với doanh nghiệp nước ngoài còn là một vấn đề cần phải quan tâm, đào tạo để
nâng cao trình độ. Do công việc này cần đến sự phối hợp, liên kết, ký kết các
hợp đồng…với các đối tác nước ngoài.
Về khả năng liên kết, phối hợp hoạt động: Hiện tại công tác XTTM
hàng nông sản của chúng ta vẫn còn rời rạc, không có sự gắn kết và thiếu tính
thống nhất giữa các cơ quan của Chính phủ, các hiệp hội ngành hàng với các
doanh nghiệp, người nông dân... Từ đó, ảnh hưởng đến khâu tiêu thụ sản
phẩm cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khấu. Bên cạnh đó, việc kết nối các
đối tác trước và tổ chức tiếp xúc tại hội chợ lại hạn chế, các đoàn khảo sát
thường mang tính chất du lịch nhiều hơn là việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh
thực sự.
Về năng lực thẩm định đối tác: Các tổ chức XTTM chủ yếu chỉ có khả
năng đưa tin cơ hội giao thương nhưng lại không có năng lực thẩm định đối
tác kinh doanh, cung cấp thông tin mang tính đại trà, chung chung thay vì
thông tin cụ thể theo yêu cầu của doanh nghiệp.
Về khả năng cung ứng dịch vụ XTTM: Nhu cầu của doanh nghiệp đa
dạng và phong phú nhưng năng lực cung cấp các dịch vụ của các tổ chức
XTTM thì lại vô cùng hạn chế. Mới chỉ có thể cung cấp các dịch vụ nào có
nhu cầu thấp và dễ triển khai, ít tạo hiệu quả và giá trị gia tăng cho doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, các tổ chức XTTM còn chưa có kinh nghiệm trong việc
tổ chức các hoạt động XTTM mang tầm cỡ quốc tế, thiếu tính chuyên nghiệp
và chiều sâu.
Về cơ sở hạ tầng phục vụ công tác XTTM: còn rất nghèo nàn và sơ sài.
Hiện nay, các địa điểm chuyên dụng để tổ chức HCTL ngành hàng nông sản ở
các địa phương hầu như là không đạt các tiêu chuẩn quốc tế và thường được
tổ chức tại các nhà văn hoá, công viên… hoặc nếu có địa điểm đạt yêu cầu
quốc tế thì chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng.
Bên cạnh đó, điều kiện về mặt bằng, bố trí gian hàng, không gian trưng bày…
vẫn còn sơ sài và thiếu tính thẩm mỹ. Hệ thống máy tính, công nghệ hiện đại
phục vụ công tác XTTM còn cũ và thiếu thốn ở các tỉnh/thành phố.
Về công tác thông tin thị trường: phục vụ công tác XTTM không được
cung cấp một cách đầy đủ và chính xác, dự báo còn hạn chế, nhất là thông tin,
dự báo đến tận người sản xuất kinh doanh về yêu cầu của thị trường, về xu
hướng biến động giá cả, thị hiếu của người tiêu dùng... do đó gây khó khăn
cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản.
Về tài chính cho XTTM: kinh phí dành cho công tác XTTM còn hạn
hẹp và các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính cho XTTM còn nhiều bất
cập. Mỗi năm, kinh phí của Nhà nước cấp cho hoạt động XTTM nông nghiệp
quá ít, chỉ khoảng trên 10 tỷ đồng. Thiếu kinh phí quảng bá, nhiều mặt hàng
nông sản ít có cơ hội được biết đến rộng rãi, ảnh hưởng phần nào đến việc
tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay mới được chú trọng ở một số nhóm ngành hàng
như thủy sản, đồ gỗ.
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XÚC
TIẾN XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM
4.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách
Tăng cường xây dựng chiến lược phát triển tổng thể của ngành nông
nghiệp và tổ chức thực hiện các chương trình XTTM trọng điểm quốc gia
theo ngành hàng nông sản một cách đồng bộ và thống nhất từ Trung ương đến
địa phương. Hiện nay, ngành hàng nông sản vẫn còn thiếu các đề án chi tiết
cho từng mặt hàng cụ thể như: gạo, chè, cà phê, cao su… và chiến lược phát
triển ngành gây khó khăn cho các cơ quan Chính phủ trong công tác quản lý
và tổ chức các chương trình, hoạt động XTTM một cách hiệu quả. Do đó,
trong những năm tiếp theo trên cơ sở mục tiêu và định hướng phát triển của
ngành cùng các dự báo về thị trường thế giới, Nhà nước cần có những văn
bản, chị thỉ hướng dẫn để xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển xuất
khẩu ngành nông nghiệp theo từng mặt hàng cụ thể.
Trong thực tế hoạt động XTTM đối với hàng nông sản còn nhiều hạn
chế. Các hoạt động khuyến mại, quảng bá, hội chợ triển lãm, hội chợ ẩm
thực... chưa được thực hiện một cách đồng bộ và chuyên nghiệp. Những lợi
ích từ hoạt động XTTM mang đến cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu
nông sản chưa nhiều. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp và người nông dân vẫn
chưa chú trọng đến công tác XTTM. Do đó, Chính phủ, Bộ NN&PTNT, Bộ
công thương và các Bộ ngành liên quan cần sớm xây dựng và hoàn thiện
khung pháp lý văn bản hướng dẫn cụ thể cho hoạt động XTTM đối với hàng
nông sản như chính sách hỗ trợ về kinh phí hoạt động, về hỗ trợ về cơ sở hạ
tầng, về nguồn nhân lực...
4.2. Nhóm giải pháp về hệ thống tổ chức
Hiện nay, dù doanh nghiệp có sản xuất sản phẩm với chất lượng tốt
nhưng nếu không đến được tay người tiêu dùng thì doanh nghiệp đó cũng
không thể nâng cao tính cạnh tranh được. Do đó, muốn sản phẩm đến tận tay
người tiêu dùng thì phải làm tốt công tác XTTM. Nguyên Bộ trưởng Bộ
Thương mại Trương Đình Tuyển cho rằng, “cần phải coi xúc tiến thương mại
là yếu tố nâng cao sức cạnh tranh. Để làm được điều đó, trước hết phải thể
chế hóa lại hệ thống xúc tiến thương mại từ trung ương đến địa phương,
nhằm đảm bảo tính liên kết sâu hơn, tính chỉ đạo cao hơn, thông suốt với
nhau hơn”. Hiện nay, hệ thống các tổ chức XTTM của Việt Nam đang phát
triển với số lượng rất lớn tuy nhiên sự liên kết giữa các địa phương, trung tâm
XTTM với các cơ quan của Chính phủ và bộ ngành rất lỏng lẻo và còn nhiều
bất cập. Bên cạnh đó, với một mạng lưới XTTM dày đặc như hiện nay mà đội
ngũ cán bộ chức năng của Nhà nước còn thiếu và khó có thể kiểm soát được
hết. Do đó, việc tái cấu trúc lại hệ thống XTTM của Việt Nam một cách thống
nhất và hoàn thiện từ Trung ương đến địa phương là rất cần thiết.
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính thông thoáng, các thủ tục liên
quan đến nguồn kinh phí cấp cho hoạt động XTTM được tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển các hoạt động XTTM hàng nông sản. Đó là một trong những
giải pháp quan trọng giúp cho Hiệp hội cũng như doanh nghiệp không mất
nhiều thời gian trong việc thực hiện các thủ tục hành chính của Nhà nước. Từ
đó, chủ động được nguồn kinh phí trong XTTM cũng như các hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp.
Chủ động, nhanh chóng nắm bắt và thực hiện các quy định cam kết
trong thương mại quốc tế và các quy định của luật pháp Việt Nam. Cập nhật
thường xuyên các thông tin, quy định của quốc tế liên quan đến mặt hàng
NLTS. Doanh nghiệp xuất khẩu NLTS thời gian qua chịu ảnh hưởng và thiệt
hại nặng nề từ những quy định khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ
người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái…đặc biệt là Mỹ và EU kiểm tra
khắt khe những sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam từ khẩu nuôi
trồng, sản xuất đến đóng gói và tiêu thụ. Do đó, việc tuyên truyên, phổ biến
kiến thức liên quan đến các quy định của quốc tế một cách nhanh chóng và
kịp thời sẽ giúp cho doanh nghiệp tranh được những tổn thất không đáng có.
Xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát thị trường, có chế tài xử phát
nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, buôn bán hàng
giả, kém phẩm chất. Thường xuyên có các cuộc thanh tra, kiểm tra tình hình
hoạt động công tác của hệ thống tổ chức, trình độ năng lực của nhân viên
XTTM...
Hệ thống các tố chức XTTM trong nước và nước ngoài hiện nay đang
ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, thì việc liên kết
hợp tác giữa các đơn vị trong nước với nhau cũng như với các cơ quan đại
diện ở nước ngoài còn rất bất cập. Điều đó cũng gây ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động xuất khẩu nông sản của các doanh nghiệp như thực hiện các hoạt
động ký kết hợp đồng, tham gia các hội chợ triển lãm...Do đó cần có những
giải pháp như sau: tăng cường liên kết thông qua hội nghị giao ban XTTM
thường niên, tổng hợp hoạt động XTTM trên cả nước, tăng cường liên kết,
phối hợp hoạt động với các cơ quan thương vụ của Việt Nam tại nước
ngoài…
4.3. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức của các Bộ,
ngành có chuyên môn giỏi, am hiểu thị trường để thực hiện tốt việc XTTM.
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, những thành tựu trong
các lĩnh vực khác nhau trên thế giới thì công tác đào tạo cho đội ngũ nhân lực
nói chung và nguồn nhân lực phục vụ công tác XTTM lại càng trở nên quan
trọng. Do những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hoạt động trao
đổi, liên kết, phối hợp với nước ngoài là rất thường xuyên do đó bên cạnh
kiến thức chuyên môn thì việc nâng cao trình độ ngoại ngữ cũng là một vấn
đề cấp thiết.
Thuê chuyên gia trong và ngoài nước để tư vấn phát triển xuất khẩu và
tư vấn thiết kế mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng giá trị gia tăng hàng
NLTS xuất khẩu. Hiện nay, trên thế giới đội ngũ các chuyên gia có kinh
nghiệm và giỏi về công tác XTTM rất nhiều do các nước khác đã thực hiện
công tác XTTM từ rất lâu còn Việt Nam mới chỉ thực sự quan tâm trong
những năm gần đây. Do đó, việc thuê chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy
và truyền đạt kiến thức kinh nghiệm XTTM về hàng nông sản của nước họ để
học hỏi và áp dụng một cách thích hợp vào hoạt động của nước ta.
Tạo môi trường làm việc năng động, chuyên nghiệp và có các chính
sách ưu đãi về tiền lương, thưởng đối với các cán bộ làm công tác XTTM có
kinh nghiệm, chất lượng và hiệu quả cao trong các cơ quan Nhà nước và bộ
ngành, Hiệp hội cũng như doanh nghiệp.
Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nhân lực làm công tác
XTTM theo các yêu cầu của công việc và nhiệm vụ phát triển sản phẩm và
mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp dựa trên chiến lược
phát triển kinh tế của đất nước, chiến lược phát triển của ngành hàng nông
sản. Từ đó, có kế hoạch đào tạo cụ thể để nâng cao trình độ chuyên môn về
hàng nông sản và kỹ năng XTTM của các cán bộ. Sau các khoá học, cần có
những buổi kiểm tra trình độ của học viên trong công tác XTTM. Bên cạnh
đó, đầu tư xây dựng cơ sơ vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy đào tạo về
XTTM theo hướng hiện đại hoá trang thiết bị, cung cấp các kiến thức cập nhật
mới nhất về XTTM cho các học viên, tạo điều kiện thuận lợi cho học viên có
thể tham gia các hoạt động XTTM thực tế ở trong và ngoài nước.
4.4. Nhóm giải pháp về thông tin thị trường
a. Về phát triển thị trường
Tổ chức tham gia học tập, tham quan việc XTTM của một số nước giàu
kinh nghiệm về XTTM trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc... trong đó,
Nhật Bản là một nước rất thành công trong hoạt động XTTM với các hoạt
động hỗ trợ xuất khẩu như: điều tra, theo dõi những thay đổi về chính sách
thuế quan, thị hiếu tiêu dùng và tình hình cạnh tranh của các nước trên thị
trường sở tại báo cáo về nước để phục vụ cho công tác hoạch định chính
sách song phương và các doanh nghiệp có nhu cầu tìm hiểu, tổ chức xây
dựng các phòng giới thiệu sản phẩm, triển lãm hàng của Nhật Bản ở nước
ngoài, thăm dò và tìm kiến những bạn hàng tương lai của Nhật Bản để giới
thiệu với các đối tác trong nước.
Chủ động nghiên cứu đề xuất các chương trình XTTM phù hợp với các
sản phẩm của vùng miền đã sản xuất ra để trình Chính phủ; thực hiện tốt việc
đàm phán để Chính phủ ký các hiệp định song phương và đa phương với các
nước.
Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đăng ký thương hiệu hàng hoá trên thị
trường thế giới, giới thiệu quảng bá sản phẩm thông qua các văn phòng đại
diện của Việt Nam tại nước ngoài, hỗ trợ công tác khảo sát thị trường mới
tiềm năng cho xuất khẩu nông sản. Hiện nay, rất ít các mặt hàng nông sản có
thương hiệu trên thế giới và có nhiều mặt hàng trước đây đã bị nước ngoài
đăng ký thương hiệu gây rất nhiều khó khăn cho việc xuất khẩu. Vì vậy, các
doanh nghiệp ngành hàng nên chủ động trong việc đăng ký thương hiệu với
các cơ quan chức năng để tránh gặp phải rủi ro trong xuất khẩu và ngược lại
các cơ quan này cũng tạo những điều kiện thuận lợi trong việc đăng ký của
doanh nghiệp.
Linh hoạt và chủ động theo dõi kịp thời những diễn biến của thị trường
nông sản qua đó có các biện pháp hỗ trợ đối với doanh nghiệp. Trong những
năm gần đây thì tình hình về giá cả nông sản, tỷ giá hối đoái, giá các nguyên
liệu đầu vào, giá dịch vụ vận chuyển… thay đổi từng ngày trên thị trường thế
giới cũng như ở Việt Nam. Do đó, các Bộ ngành cần có những chính sách kịp
thời để hỗ trợ cho doanh nghiệp trong xuất khẩu đồng thời doanh nghiệp cũng
cần có kế hoạch dự báo về thị trường để để thực hiện các biện pháp XTTM
thích hợp.
Tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia HCTL ở trong và ngoài nước,
thiết lập các trung tâm giới thiệu trưng bày sản phẩm nông, lâm, thủy sản ở
các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Mỹ...
Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào hệ thống các kênh phân phối hàng
nông lâm thủy sản qua đó ổn định và giữ vững được thị trường. Trong khi
mọi doanh nghiệp lớn nhỏ đều có cơ hội tham gia ngành bán lẻ, thì không
phải doanh nghiệp nào cũng được tham gia vào hệ thống phân phối. Ở mỗi
nước, trong khi một sản phẩm có thể xuất hiện ở hàng chục ngàn điểm bán lẻ,
thì mỗi nhà sản xuất thường chỉ có vài nhà phân phối được lựa chọn rất kỹ
lưỡng với các điều khoản hợp đồng hết sức chặt chẽ. Đó là điều dễ hiểu vì các
doanh nghiệp phân phối đóng vai trò một cầu nối sinh tử giữa nhà sản xuất và
thị trường. Do đó, nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ cụ thể để doanh
nghiệp xuất khẩu hàng nông sản tham gia vào các hệ thống này.
b. Về thông tin tuyên truyền
Ưu tiên triển khai thực hiện các dự án nhằm tăng cường năng lực thông
tin thương mại hàng nông, lâm, thủy sản thuộc Chương trình XTTM quốc gia
và các dự án xây dựng chiến lược phát triển ngành hàng nông sản giai đoạn
2015 và tầm nhìn năm 2020.
Tăng cường truyên truyền quảng bá nhằm phổ biến về chủ trương,
đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội, thông tin tổng hợp và có tính
dự báo trung và dài hạn về thị trường nông sản thế giới và của Việt Nam.
Có biện pháp quảng bá và hướng dẫn tiêu dùng hàng nông, lâm, thủy
sản của Việt Nam ngay tại thị trường Việt Nam. Sản phẩm này có thời gian sử
dụng không lâu và thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thời tiết do đó các
doanh nghiệp cần có hướng dẫn cụ thể về sản phẩm đến người tiêu dùng như
đối tác khi thực hiện giao thương.
Xây dựng và tổ chức mạng lưới thông tin quốc gia đáp ứng các yêu cầu
về thông tin thương mại phục vụ doanh nghiệp NLTS.
4.5. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực tài chính
Chính phủ hỗ trợ chi phí quảng bá mời khách nhập khẩu nước ngoài
đến giao dịch tại các hoạt động, sự kiện XTTM lớn của Việt Nam tại nước
ngoài (bao gồm các hội chợ triển lãm, các đoàn giao thương, XTTM). Kinh
nghiệm cho thấy, các hội chợ quốc tế ở nước ngoài thường có qui mô và tầm
cỡ rất lớn. Vì thế, để có thể dẫn dắt người tiêu dùng, các doanh nghiệp, nhà
nhập khẩu tới tiếp xúc với các gian hàng của doanh nghiệp Việt Nam cần phải
có một đội ngũ tuyên truyền, quảng bá ngay từ vòng ngoài để dẫn khách hàng
vào nơi trưng bày sản phẩm.
Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ kinh phí cho hoạt động XTTM một
cách ổn định để đảm bảo hoạt động hiệu quả. Do đó để đảm bảo kinh phí
XTTM cho ngành nông nghiệp đạt mức tối thiểu là 0,03 - 0,05% doanh thu
xuất khẩu NLTS.
Đối với việc tổ chức hội chợ, quảng bá sản phẩm hàng hóa trong nước
cũng như ngoài nước, giao cho các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện triển khai
theo yêu cầu, nội dung của Bộ, ngành chuyên môn. Phần chi phí do doanh
nghiệp đảm nhận, Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần khi hội chợ thành công.
Về kinh phí thực hiện tuyên truyền chính sách chế độ của nhà nước về
XTTM và các thông tin liên quan đến thị trường trên các phương tiện thông
tin đại chúng, Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí để cho các tổ chức, doanh
nghiệp.
Về kinh phí quảng bá thương hiệu, quảng cáo sản phẩm và XTTM của
các đơn vị, doanh nghiệp được Nhà nước xem xét hỗ trợ một phần khi sản
phẩm tiêu thụ có hiệu quả.
Tăng cường hợp tác quốc tế và tranh thủ các nguồn tài chính từ các tổ
chức quốc tế cho hoạt động XTTM.
Đổi mới cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
tăng cường chi phí cho hoạt động XTTM.
4.6. Nhóm giải pháp về hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng
Quy hoạch hạ tầng XTTM trên cả nước một cách hợp lý và hiện đại để
phục vụ cho hoạt động HCTL chuyên ngành nông nghiệp và các hoạt động
XTTM khác. Hiện nay, việc thiếu các địa điểm tổ chức HCTL quy mô lớn và
đạt tiêu chuẩn quốc tế đã gây ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và tổ chức
thực hiện và chất lượng của HCTL, đồng thời cũng tạo nên những khó khăn
cho doanh nghiệp ngành hàng nông sản bởi đây là nhóm hàng với thời gian
bảo quản không được lâu do đó nếu có những trung tâm triển lãm hàng nông
sản chuyên dụng, tầm cỡ quốc tế cho nhóm hàng này thì sẽ thu hút được
lượng lớn các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia.
Đối với doanh nghiệp, xây dựng và tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng
phục vụ cho công tác sản xuất và kinh doanh xuất khẩu thông qua việc đổi
mới quy trình sản xuất, đầu tư hệ thống máy móc hiện đại để nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm…
Tăng cường hợp tác quốc tế để tận dụng các nguồn lực về vốn, công
nghệ, nhân lực...cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ tốt công
tác XTTM hàng nông sản.
Ứng dụng và phát triển thương mại điện tử phục vụ cho các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng nông sản. Nhà nước có các cơ chế hỗ trợ thông qua hỗ
trợ nguồn kinh phí trực tiếp (các chương trình về phát triển thương mại điện
tử) hay gián tiếp (huy động từ các tổ chức quốc tế liên quan đến vấn đề
thương mại điện tử). Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần chủ động xây dựng
và ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp mình.
KẾT LUẬN
Xúc tiến thương mại là một trong những công cụ quan trọng trong việc
thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại của mỗi quốc gia. Với lợi thế tài
nguyên thiên nhiên và khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của mặt hàng nông
sản cho nên Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và hỗ trợ đến công tác
XTTM đối với mặt hàng này để thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp
hoá - hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế - xã hội.
Kim ngạch xuất khẩu NLTS chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của nước ta qua các năm. Tuy nhiên, sau khi
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mặt hàng nông sản đã gặp phải
không ít những khó khăn, trở ngại từ các rào cản kỹ thuật của các nước như:
quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về bảo vệ môi trường sinh
thái, dán nhãn sinh thái… Do đó, hoạt động XTTM đối với ngành hàng nông
sản lại càng trở nên đặc biệt quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động xuất khẩu và thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ những kết quả đạt
được trong kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản đã cho thấy có sự đóng góp
lớn từ XTTM. Bên cạnh đó, sự phối hợp và liên kết hoạt động giữa các cơ
quan của Chính phủ, Bộ ban ngành có liên quan, các tổ chức XTTM và doanh
nghiệp cũng là các nhân tố tạo nên một thành công lớn cho XTXK hàng nông
sản, góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển xuất khẩu
hàng nông sản giai đoạn 2009-2015 và tầm nhìn 2020.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hoạt động XTTM ở các Bộ ngành, các tỉnh địa
phương vẫn còn nhiều mâu thuẫn và bất cập trong quá trình xây dựng và tổ
chức thực hiện các chương trình XTTM. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, đội ngũ
nhân lực, khả năng cung ứng dịch vụ XTTM, nguồn ngân sách phục vụ hoạt
động XTTM còn thiếu và mang lại hiệu quả chưa cao. Do đó, trong thời gian
tới Chính phủ, các bộ ban ngành cần đưa ra các giải pháp cụ thể đổi mới và
nâng cao hiệu quả hoạt động XTTM trong tình hình thế giới có nhiều biến
động ảnh hưởng đến hàng nông sản xuất khẩu của nước ta. Từ đó đưa xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ nói chung cũng như hàng nông sản của Việt Nam
nói riêng đứng vững và khẳng định vị thế, thương hiệu trên trường quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2005), Giáo trình kinh tế quốc tế,
Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.
2. Cục chế biến thương mại NLTS và nghề muối - Bộ Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn (2009), Dự án xây dựng chương trình XTTM ngành
nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2009-2015 và định hướng đến
năm 2020.
3. Cục Xúc tiến thương mại – Bộ Công thương (2006-2009), Tổng hợp
báo cáo kết quả thực hiện Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia năm
2006 - 2009.
4. Tô Xuân Dân (1998), Chính sách kinh tế đối ngoại Lý thuyết và kinh
nghiệm quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
5. Nguyễn Việt Hòa (2009), Bài phát biểu về “Thực trạng tổ chức, thực
hiện hoạt động XTTM của ngành nông nghiệp theo chương trình XTTM quốc
gia”, Phòng Chính sách phát triển xuất khẩu, Cục XTTM.
6. Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Chính
phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại và
các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động khuyến mại;
7. Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ về ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình
xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010;
8. Quyết định Số 80/2009/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai
đoạn 2006 - 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày
03 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ.
9. Thông tư Số 86/2002/TT-BTC ngày 27 tháng 09 năm 2002 hướng dẫn
chi hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại đẩy mạnh xuất khẩu.
10. Các trang web:
www.agritrade.com.vn
www.agroviet.gov.vn
www.customs.gov.vn
www.gso.gov.vn
www.mof.gov.vn
www.vasep.com.vn
www.vietfores.org
www.vietrade.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam.pdf