Tài liệu Luận văn Thuật ngữ trong kinh doanh hiện đại và việc phổ cập tới các doanh nghiệp Việt Nam: Luận văn: Thuật ngữ trong kinh doanh hiện đại và việc
phổ cập tới các doanh nghiệp việt nam
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
I. Các khái niệm chung về chiến lược và chiến lược kinh doanh
1. Các quan điểm nhìn nhận chiến lược
Ý tưởng chiến lược ban đầu được hình thành trong lĩnh vực quân sự để chỉ những
kỹ năng và nghệ thuật sử dụng các lực lượng quân sự của những nhà chỉ huy, những
quyết định kế hoạch, hoạt động tầm cỡ lớn, có tác động bản lề nhằm xoay chuyển tình
thế, mang lại có lợi cho một bên tham chiến để giành thắng lợi cuối cùng. Trong cuộc
chiến, chiến lược mang tính nghệ thuật nhiều hơn khoa học, “chiến lược là nghệ thuật
chỉ huy các phương tiện để chiến thắng” hoặc “chiến lược là nghệ thuật để chiến đấu ở
vị trí ưu thế”.
Về sau, thuật ngữ chiến lược được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế, ban đầu để chỉ
cách thức hợp tác kinh doanh, cách đấu tranh trên thương trường.
Về nhiều phương diện, chiến lược trong kinh tế gi...
147 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 972 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thuật ngữ trong kinh doanh hiện đại và việc phổ cập tới các doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Thuật ngữ trong kinh doanh hiện đại và việc
phổ cập tới các doanh nghiệp việt nam
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
I. Các khái niệm chung về chiến lược và chiến lược kinh doanh
1. Các quan điểm nhìn nhận chiến lược
Ý tưởng chiến lược ban đầu được hình thành trong lĩnh vực quân sự để chỉ những
kỹ năng và nghệ thuật sử dụng các lực lượng quân sự của những nhà chỉ huy, những
quyết định kế hoạch, hoạt động tầm cỡ lớn, có tác động bản lề nhằm xoay chuyển tình
thế, mang lại có lợi cho một bên tham chiến để giành thắng lợi cuối cùng. Trong cuộc
chiến, chiến lược mang tính nghệ thuật nhiều hơn khoa học, “chiến lược là nghệ thuật
chỉ huy các phương tiện để chiến thắng” hoặc “chiến lược là nghệ thuật để chiến đấu ở
vị trí ưu thế”.
Về sau, thuật ngữ chiến lược được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế, ban đầu để chỉ
cách thức hợp tác kinh doanh, cách đấu tranh trên thương trường.
Về nhiều phương diện, chiến lược trong kinh tế giống chiến lược quân sự, đó là
cả hai đều sử dụng những điểm mạnh của mình để khai thác điểm yếu của đối thủ. Sự
khác nhau cơ bản của chúng là trong kinh tế chiến lược được hình thành, thực thi và
đánh giá với giả thiết có cạnh tranh, trong chiến lược quân sự dựa trên giả thiết có mâu
thuẫn đối kháng.
Trong kinh doanh người ta quan niệm chiến lược là cách thức để đấu tranh hợp
tác lẫn nhau giữa các nhà kinh doanh nhằm tạo ra thế vững chắc trên thị trường, để có
thể thu được nhiều lợi nhuận. Trong quản trị kinh doanh khái niệm chiến lược được
mở rộng nhiều hơn, thể hiện cụ thể qua các quan niệm sau:
- Chiến lược như là một kế hoạch, bởi vì chiến lược thể hiện một chuỗi các hành
động nối tiếp nhau hay là cách thức được định sẵn để có thể đương đầu với hoàn cảnh.
- Chiến lược như là một mô hình, vì ở một khía cạnh nào đó, chiến lược của một
tổ chức phản ánh được cấu trúc, khuynh hướng mà người ta dự định trong tương lai.
- Chiến lược như là một triển vọng. Quan điểm này muốn đề cập đến sự liên quan
của chiến lược với những mục tiêu cơ bản, thế chiến lược và triển vọng trong tương lai
của nó.
Đối với một doanh nghiệp chiến lược như là một hệ thống các quyết định nhằm
hình thành các mục tiêu hoặc các mốc mà doanh nghiệp phải đi tới. Nó đề ra những
chính sách và kế hoạch thực hiện các mục tiêu. Nó xác định loại hình và tư tưởng kinh
doanh của doanh nghiệp, tính chất của các đóng góp kinh tế và ngoài kinh tế mà doanh
nghiệp có thể thực hiện vì lợi ích của các thành viên, của toàn xã hội.
Tóm lại, một cách đơn giản nhất, chiến lược được hiểu là những kế hoạch được
thiết lập hoặc những hành động được thực hiện trong nỗ lực nhằm đạt tới mục đích của
tổ chức.
2. Các khái niệm liên quan đến chiến lược kinh doanh
2.1. Thế chiến lược và kế hoạch chiến lược
Thế chiến lược liên quan đến chiến lược và các hoạt động của doanh nghiệp ở
quá khứ, nó thể hiện vai trò, vị trí và thế đứng của doanh nghiệp trên thị trường cạnh
tranh.
Kế hoạch chiến lược là cách hướng về tương lai nhằm xác định thế chiến
lược dự kiến cho sau này và quy định các kế hoạch hành động nhằm tạo được thế
chiến lược đó. Tất cả các doanh nghiệp đều có thế chiến lược nhưng không phải doanh
nghiệp nào cũng có kế hoạch chiến lược bởi vì nó phụ thuộc vào quan hệ giữa cung -
cầu của doanh nghiệp với thị trường, phụ thuộc vào quan điểm kinh doanh của người
lãnh đạo doanh nghiệp.
2.2. Quyết định chiến lược và quyết định điều hành
+ Quyết định chiến lược nhằm xử lý những vấn đề thiết yếu trong những tác
động đan chéo nhau giữa doanh nghiệp với môi trường, và chúng có tầm quan trọng
thiết yếu đối với sự thành công của doanh nghiệp.
+ Quyết định điều hành chỉ liên quan đến các công việc được thực thi có hiệu quả
trong nội bộ doanh nghiệp.
3. Phân loại chiến lược
Chiến lược kinh doanh có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau,
việc xem xét phân chia này sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp. Dựa vào các căn cứ của chiến lược ta có thể chia
chiến lược theo hai căn cứ chủ yếu sau:
3.1. Căn cứ vào phạm vi chiến lược
Trong kinh doanh căn cứ vào phạm vi của chiến lược người ta chia chiến lược ra
làm hai loại cơ bản sau:
- Chiến lược chung hay còn gọi là chiến lược kinh doanh tổng quát của doanh
nghiệp thường đề cập những vấn đề quan trọng nhất, bao quát nhất và có ý nghĩa lâu
dài, quyết định vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Chiến lược này liên quan hướng
phát triển chủ yếu về hình ảnh tương lai của doanh nghiệp.
- Chiến lược bộ phận hay còn gọi là chiến lược kinh doanh từng đặc thù: nhằm
giải quyết từng vấn đề trong sản xuất, trong kinh doanh để thực hiện chiến lược tổng
quát, thông thường gồm có:
+ Chiến lược sản xuất
+ Chiến lược tài chính
+ Chiến lược thị trường
+ Chiến lược marketing
+ Chiến lược sản phẩm
+ Chiến lược phân phối
+ Chiến lược khuyến mãi
+ Chiến lược cạnh tranh
+ Chiến lược tổ chức nhân sự
+ Chiến lược kinh doanh thị trường quốc tế…
3.2. Căn cứ vào hướng tiếp cận thị trường
Sự hình thành các loại chiến lược theo căn cứ này trong thực tế rất đa dạng và
phong phú tuỳ theo trạng thái của mỗi doanh nghiệp mà triển khai chiến lược của
mình. Tuy nhiên các chiến lược này thường được xây dựng và mô phỏng theo các
chiến lược chuẩn. Hiện nay có các loại chiến lược chuẩn sau:
Bảng 1: Các loại chiến lược phổ biến
CÁC YẾU TỐ LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC
Sản phẩm Thị trường
Ngành
sản xuất
Cấp độ
ngành
Công nghệ
Hiện
tại
Mới
Hiện
tại
Mới
Hiện
tại
Mới
Hiện
tại
Mới
Hiện
tại
Mới
1. Tăng trưởng
tập trung
- Thâm nhập thị
trường
- Phát triển thị
trường
- Phát triển sản
phẩm
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
2. Phát triển
hội nhập
- Hội nhập dọc
ngược chiều
- Hội nhập dọc
thuận chiều
- Hội nhập
ngang
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
3. Phát triển đa
dạng hóa
- Đa dạng hóa
đồng tâm
- Đa dạng hóa
ngang
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
- Đa dạng hóa
hỗn hợp
X X X X X X
(Nguồn: Tạp chí phát triển kinh tế)
Chiến lược tăng trưởng tập trung: là các chiến lược chủ đạo đặt trọng tâm
vào việc cải thiện các sản phẩm, dịch vụ hoặc thị trường hiện có mà không thay đổi bất
kỳ yếu tố nào khác. Khi theo đuổi chiến lược này doanh nghiệp cần hết sức cố gắng để
khai thác mọi cơ hội có được về các sản phẩm hiện đang sản xuất hoặc các thị trường
hiện đang tiêu thụ bằng cách thực hiện tốt hơn các công việc mà họ đang tiến hành.
Lợi thế của chiến lược tăng trưởng tập trung là cho phép doanh nghiệp tập hợp mọi
nguồn lực vào các hoạt động sở trường và truyền thống của mình để khai thác điểm
mạnh. Chiến lược tăng trưởng tập trung có thể triển khai theo 3 hướng sau:
+ Chiến lược thâm nhập thị trường: là tìm cách tăng trưởng các sản phẩm
hiện đang sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên thị trường hiện đang tiêu thụ và công
nghệ hiện đại. Chiến lược này đòi hỏi doanh nghiệp phải thông qua các nỗ lực mạnh
mẽ về marketing như chính sách giá, chính sách phân phối, chính sách khuyến mãi
nhằm tăng sức mua của khách hàng hiện có và tăng thêm khách hàng mới.
Tuy nhiên, chiến lược này chỉ áp dụng đạt kết quả khi thị trường hiện tại chưa
bão hoà, thị phần của các đối thủ cạnh tranh đang giảm sút và doanh nghiệp hiện đang
có một lợi thế cạnh tranh, đồng thời tốc độ của doanh thu phải cao hơn tốc độ tăng chi
phí tối thiểu. Với chiến lược này có thể giúp doanh nghiệp tăng sức mua sản phẩm của
khách hàng hoặc lôi kéo khách hàng của các đối thủ cạnh tranh.
+ Chiến lược phát triển thị trường: là tìm cách tăng trưởng bằng con đường
thâm nhập vào các thị trường mới để tiêu thụ các sản phẩm hiện đang sản xuất tại
doanh nghiệp. Hướng chiến lược này đòi hỏi doanh nghiệp phải có hệ thống kênh phân
phối năng động và hiệu quả, đặc biệt là phải có đầy đủ nguồn lực để đẩy mạnh hoạt
động này như vốn, nhân lực, đồng thời doanh nghiệp cũng phải có năng lực sản xuất
để đáp ứng nhu cầu của thị trường mới.
+ Chiến lược phát triển sản phẩm: là tìm cách tăng trưởng thông qua phát
triển các sản phẩm mới để tiêu thụ trong các thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt
động, các sản phẩm mới này có thể do doanh nghiệp tự sản xuất hoặc sản xuất theo
hợp đồng, hoặc doanh nghiệp nhập từ bên ngoài bằng cách sáp nhập hoặc mua lại mô
hình của một hãng khác. Chiến lược này đòi hỏi doanh nghiệp phải có khả năng mạnh
về nghiên cứu và phát triển trong thời đại ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học kỹ thuật, các sản phẩm thường có chu kỳ ngắn do sản phẩm mới nhanh
chóng xuất hiện, do vậy hướng chiến lược này cho phép doanh nghiệp tạo ra thị trường
mới ngay trong thị trường hiện tại.
Ưu và nhược điểm của chiến lược tăng trưởng tập trung:
Lợi thế của chiến lược tăng trưởng tập trung là tập trung nguồn lực của doanh
nghiệp vào các hoạt động sở trường của mình. Khai thác các điểm mạnh, phát triển
quy mô trên nguyên tắc chuyên môn hóa tuyệt đối do đó rất có hiệu quả và cải thiện
được vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp đối với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
trên thị trường hiện có. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng một cách đơn độc chiến lược này
thì chưa tận dụng hết các cơ hội để phát triển toàn diện nếu còn nhiều nguồn lực về
vốn và con người.
Chiến lược phát triển hội nhập: là phát triển doanh nghiệp trên cơ sở thiết
lập và mở rộng mối quan hệ liên kết với các nhà cung cấp, các nhà trung gian phân
phối và tiêu thụ sản phẩm, hoặc đối thủ cạnh tranh. Sự liên doanh và hội nhập này sẽ
tạo ra một cấp độ quy mô mới, cho phép doanh nghiệp chủ động kinh doanh từ khâu
đầu đến khâu tiêu thụ hoặc tạo vị thế trên thương trường. Chiến lược hội nhập cũng có
thể triển khai theo 3 hướng:
+ Hội nhập dọc ngược chiều: là doanh nghiệp tìm sự tăng trưởng bằng cách
nắm quyền sở hữu hoặc tăng cường kiểm soát đối với các nguồn cung ứng nguyên
liệu. Chiến lược này nên áp dụng khi các nhà cung cấp còn quá cao hoặc các nhà cung
cấp không đủ khả năng thoả mãn những đòi hỏi của doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp
có yêu cầu đặc thù về nguyên liệu đầu vào. Tuy nhiên chiến lược này đòi hỏi doanh
nghiệp có đủ vốn và nhân lực cần thiết để đảm đương các hoạt động kinh doanh đa
dạng trên nhiều chức năng.
+ Hội nhập dọc thuận chiều: là doanh nghiệp tìm sự tăng trưởng bằng cách
nắm quyền sở hữu hoặc tăng sự kiểm soát đối với những trung gian phân phối và nhà
tiêu thụ. Các doanh nghiệp áp dụng chiến lược này khi hệ thống phân phối hiện nay
chưa hiệu quả hoặc các nhà phân phối đang có ưu thế và gây áp lực cạnh tranh với
doanh nghiệp làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hiện đang sản
xuất nguyên liệu rất mong muốn phát triển hội nhập thuận chiều bởi vì họ có thể chủ
động tạo ra các nguyên liệu đặc thù để có thể chế tạo những sản phẩm độc đáo, làm
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
+ Hội nhập ngang: là chiến lược hướng đến sự liên kết ngang hoặc tăng sự
kiểm soát đối với các đối thủ cạnh tranh, chiến lược này tạo cho doanh nghiệp gia tăng
vị thế cạnh tranh hoặc tính độc quyền, từ đó có thể nâng cao thị phần và kiểm soát thị
trường. Mặt khác, sự gia tăng quy mô có thể tạo nên sự gia tăng lợi nhuận do giảm chi
phí cận biên. Tuy nhiên, để sở hữu hoặc kiểm soát được đối thủ cạnh tranh đòi hỏi
doanh nghiệp phải có tiềm lực về tài chính và thị trường có khả năng quản lý thành
công một tổ chức được mở rộng. Đồng thời sự gia tăng quy mô nếu tập trung vào một
ngành hoặc một lĩnh vực sẽ đi cùng với sự gia tăng rủi ro.
Ưu và nhược điểm của chiến lược phát triển hội nhập:
+ Ưu điểm:
- Tiết kiệm được chi phí tổng cho các hoạt động trên các cấp độ ngành khác
nhau.
- Giảm được chi phí Marketing: rõ ràng nếu hội nhập sẽ giảm được chi phí mua
hàng và bán hàng.
- Bảo vệ được những bí mật công nghệ, duy trì được lâu dài những giá trị tài sản
vô hình.
- Kiểm soát chất lượng tốt hơn.
+ Nhược điểm:
Chiến lược hội nhập làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn phức tạp trong
công tác quản lý vì công tác quản lý sẽ phức tạp hơn trước rất nhiều, phải thay đổi cơ
cấu tổ chức quản lý, phải thực hiện một số chức năng mới.
Tuy nhiên nếu vượt qua những khó khăn trên doanh nghiệp sẽ có cơ hội chuyển
hướng tác động của mình sang một lĩnh vực mới có khả năng sinh lợi cao hơn.
Chiến lược phát triển đa dạng hóa: là chiến lược tăng trưởngdựa trên sự
thay đổi về công nghệ, sản phẩm, lĩnh vực kinh doanh nhằm tạo những cặp sản phẩm-
thị trường mới cho doanh nghiệp. Chiến lược đa dạng hóa không những hạn chế rủi ro
kinh doanh của doanh nghiệp vì lĩnh vực hoạt động mở rộng mà còn giúp tăng thêm
lợi nhuận từ những ngành nghề khác. Các doanh nghiệp sử dụng chiến lược này có thể
đa dạng hóa theo các hướng:
+ Đa dạng hóa đồng tâm: là việc đầu tư và phát triển những sản phẩm, dịch vụ
mới hướng đến những khách hàng thị trường mới nhưng những sản phẩm mới này có
sự liên hệ mật thiết với công nghệ sản xuất và hệ thống Marketing hiện có của doanh
nghiệp. Thông thường những sản phẩm mới này có khả năng hỗ trợ cho những sản
phẩm hiện tại, khi sản phẩm hiện tại bắt đầu bước vào thời kỳ bão hòa hoặc suy thoái.
Nói cách khác, những sản phẩm của doanh nghiệp có tính thời vụ và bằng cách đa
dạng hóa này tạo cho doanh nghiệp tính ổn định và liên tục trong sản xuất kinh doanh.
+ Đa dạng hóa ngang: là việc đầu tư và phát triển những sản phẩm mới hoàn
toàn khác với những sản phẩm hiện có của doanh nghiệp, nhưng vẫn cùng lĩnh vực
kinh doanh và hệ thống phân phối Marketing hiện có. Với chiến lược này doanh
nghiệp vẫn giữ được khách hàng hiện có của mình và hướng họ vào tiêu thụ những sản
phẩm mới. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có hệ thống kênh phân phối và
Marketing hiệu quả.
+ Đa dạng hóa hỗn hợp: là việc đầu tư phát triển những sản phẩm hoàn toàn
mới cả về công nghệ sản xuất, lĩnh vực kinh doanh cũng như thị trường khách hàng.
Chiến lược này thường được sử dụng để tăng quy mô và thị phần của doanh nghiệp
trong khi thị trường hiện tại sẽ bão hòa, doanh số đang giảm sút hoặc doanh nghiệp
đang nắm bắt những cơ hội kinh doanh mới. Tuy nhiên chiến lược này thường có rủi
ro cao vì chi phí lớn và sự thay đổi cơ bản trong kết quả của doanh nghiệp.
Chiến lược đa dạng hóa đòi hỏi doanh nghiệp phải có đội ngũ quản trị năng động
nhạy bén trong kinh doanh, doanh nghiệp phải sẵn sàng tiềm lực tài chính cho việc đầu
tư phát triển. Nhiều doanh nghiệp thường có xu hướng đánh giá quá cao những lợi ích
mà đa dạng hóa có thể tạo nên. Chẳng hạn doanh nghiệp có thể nhận thấy sự tăng
trưởng trong khi đa dạng hóa nhưng lại quên mất rằng tăng trưởng phải là hệ quả chứ
không phải là mục tiêu của chiến lược đa dạng hóa.
4. Các nguồn chiến lược
Thông thường trong một tổ chức điển hình, các chiến lược có thể do từ các nguồn
phát sinh sau đây:
4.1. Khởi thảo từ cấp trên đi xuống
Đây là một hoạch định đi từ trên xuống do lãnh đạo cấp cao soạn thảo, thường
với mục đích cấp bách để hướng dẫn cấp dưới trong các chương trình hành động của
họ. Xét về cơ bản, chiến lược loại này bắt nguồn từ nhiệm vụ, mục tiêu kinh doanh
chính của doanh nghiệp với phương thức quản trị theo chương trình hoặc theo chiến
lược chủ định của hội đồng quản trị Công ty trong một số trường hợp chiến lược do
khởi thảo từ cấp trên cho phép cấp dưới tuỳ ý linh hoạt, sáng tạo và có thể quyết định
trong một phạm vi nhất định. Nhưng đa phần các chiến lược loại này mang tính áp đặt
đối với cấp dưới với sức ép phải làm đúng theo mệnh lệnh của cấp trên nên làm hạn
chế sự năng động của cấp dưới.
4.2. Sự gợi mở từ dưới lên hoặc từ trên xuống
Trong thực tế hoạt động có những tình huống đặc biệt buộc người lãnh đạo phải
ứng phó linh hoạt để giải quyết một trường hợp bất thường. Lúc này cấp trên có thể
gợi ý để cấp dưới tuỳ nghi giải quyết; hoặc ngược lại cấp dưới có thể gợi ý cho cấp
trên đề ra một phương án hoặc đưa ra một quyết định mang tính tình thế. Sau đó, quyết
định hoặc phương án này biến thành tiền lệ cho các sự cố phát sinh về sau.
4.3. Do ngầm định của cấp trên
Trong hầu hết mọi trường hợp chiến lược do ngầm định được hình thành khi
Công ty chưa có chiến lược rõ ràng. Các nhân viên hoặc thuộc cấp sẽ quyết định hành
động theo cách họ hiểu qua động thái hoặc hành vi của cấp trên. Một chiến lược được
hình thành như thế không được tuyên bố từ người lãnh đạo.
4.4. Do sức ép tác động từ bên ngoài tổ chức
Cách hình thành chiến lược do sức ép bên ngoài hiện nay là phổ biến. Sức ép ở
tầm vĩ mô như các tác lực kinh tế, thể chế và pháp lý, xã hội, môi trường tự nhiên và
kỹ thuật công nghệ. Các tác lực trong ngành kinh doanh như đối thủ cạnh tranh (hiện
hữu lẫn tiềm tàng), nhà cung cấp, khách hàng và sản phẩm thay thế.
Nói chung, các chiến lược xét về cơ bản càng được xây dựng chu đáo và chặt chẽ
thì càng đảm bảo cho các chương trình hành động hoặc các kế hoạch tác nghiệp của
doanh nghiệp được vận dụng hiệu quả, tạo được ưu thế cạnh tranh và nhất là đáp ứng
theo yêu cầu các hoạt động phát triển của Công ty về lâu dài.
II. Căn cứ và nguyên tắc khi xây dựng chiến lược
1. Những căn cứ hình thành chiến lược kinh doanh
Trong việc xây dựng bất cứ chiến lược kinh doanh nào đều không thể thiếu ba
yếu tố chủ yếu sau: khách hàng, bản thân doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh. Mỗi
yếu tố là một thực thể sống và hoạt động với những quyền lợi cũng như mục đích
riêng của mình. Nó có ảnh hưởng đến chính bản thân doanh nghiệp và đặc biệt có vai
trò rất quan trọng trong việc xây dựng chiến lược của doanh nghiệp nên được gọi là
“bộ ba chiến lược”. Do đó công việc của người làm chiến lược là phải xây dựng chiến
lược theo cách mà từ đó doanh nghiệp có thể phân biệt mình với đối thủ cạnh tranh
một cách tích cực do sử dụng những sức mạnh tương đối của mình để thỏa mãn tốt
hơn nhu cầu của khách hàng.
Một chiến lược thành công là chiến lược đảm bảo được mức độ tương xứng giữa
sức mạnh doanh nghiệp với nhu cầu khách hàng cao hơn sự tương xứng của đối thủ
cạnh tranh. Đó gọi là thiết lập sự phù hợp phân biệt tích cực. Với cách đặt vấn đề như
trên, các nhà hoạch định chiến lược cần phải quan tâm đến các vấn đề sau:
- Nghiên cứu tất cả các khía cạnh quan trọng của các đối thủ cạnh tranh, cũng
như các yếu tố tác động đến thị hiếu của người tiêu dùng từ đó có biện pháp chuẩn bị
đối phó khi có cơ hội giành lại thế chủ động.
- Tạo ra một cơ chế đảm bảo sự chủ động cho các hoạt động chức năng để có thể
thiết lập được sự khác biệt tích cực giữa doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh. Bên
cạnh đó phải tiến hành nghiên cứu và phân loại khách hàng.
2. Các nguyên tắc cơ bản khi xây dựng chiến lược kinh doanh
Để thực hiện tốt việc xây dựng chiến lược doanh nghiệp phải đảm bảo một số các
nguyên tắc cơ bản sau:
- Tự đánh giá tổng hợp đúng đắn. Việc tiến hành đánh giá tổng hợp về cơ bản
bao gồm việc đặt ra hai câu hỏi: công việc làm ăn của chúng ta là gì? Chúng ta đang
tham gia vào công việc làm ăn nào? Phải đánh giá đúng chổ mạnh, chổ yếu, những hạn
chế trong các lĩnh vực chuyên môn và các mối quan hệ xã hội; phải hướng sự tập trung
vào khách hàng của mình để xem họ muốn gì và có thể mua cái gì, năng lực công nghệ
và các nguồn tài chính của mình để trả lời cho câu hỏi về việc định dạng của doanh
nghiệp.
- Ước định môi trường tương lai. Chiến lược định ra là để thực hiện trong tương
lai, vì vậy phải ước lượng tốt nhất về môi trường bằng cách dự đoán chúng. Trong mọi
dự đoán không bao giờ khẳng định hoàn toàn đúng cho tương lai, tuy nhiên mức độ sai
lệch càng nhỏ bao nhiêu thì chiến lược vạch ra càng có hiệu quả bấy nhiêu.
- Cơ cấu tổ chức phải đảm bảo cho việc xây dựng chiến lược. Ban quản trị cao
cấp có thể sử dụng sự hỗ trợ của ban tham mưu - kế hoạch để tiến hành dự đoán, lập ra
các tiền đề và triển khai các loại hình phân tích. Những người quản lý trực tiếp phải
kết hợp các thông tin này với quá trình ra quyết định.
- Sự tương thích trong chiến lược. Trong xây dựng chiến lược để có kết quả tốt
đòi hỏi phải thực hiện nguyên tắc đảm bảo cho các chiến lược tương thích, nghĩa là
chúng hợp với nhau.
- Các chiến lược dự phòng. Mỗi chiến lược đều chỉ hoạt động trong tương lai, mà
tương lai lại luôn thay đổi vì vậy phải có các chiến lược dự phòng để chủ động đối phó
với sự biến đổi trong tương lai.
III. Nội dung và tiến trình hình thành chiến lược
Sơ đồ các bước xây dựng và thực hiện chiến lược
Các bước của tiến trình xây dựng chiến lược có ảnh hưởng lẫn nhau và có thể
diễn ra đồng thời một lúc. Khi các nhà quản trị tập trung vào một bước cấu thành cụ
thể nào đó thì tất cả các thành phần khác phải được xem xét trước khi quyết định.
1. Phân tích môi trường
Phân tích môi trường sẽ cho một cách nhìn bao quát về các điều kiện khách quan
có thể đưa đến những khó khăn, thuận lợi gì cho công việc kinh doanh của doanh
nghiệp. Vì vậy, các yếu tố môi trường có ảnh hưởng sâu rộng đến việc xây dựng chiến
lược. Môi trường tổng quát mà tổ chức gặp phải có thể chia thành ba mức độ, có liên
hệ với nhau, đó là môi trường vĩ mô, môi trường tác nghiệp và hoàn cảnh tác nghiệp
và được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Mối liên hệ giữa các mức độ của môi trường tổng quát
Phân tích và lựa chọn các phương án chiến lược
Phân tích môi trường
Xác định chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu
Thực hiện chiến lược
Đánh giá kiểm tra việc tổ chức thực hiện chiến lược
1.1. Môi trường vĩ mô
Việc phân tích môi trường vĩ mô giúp doanh nghiệp trả lời một phần câu hỏi.
Doanh nghiệp đang trực diện với những gì? Có nhiều vấn đề khác nhau về môi trường
vĩ mô nhưng có thể chỉ chọn 5 vấn đề cơ bản sau:
Các yếu tố kinh tế: đây là những nhân tố có vai trò quan trọng hàng đầu và
ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh của mội doanh nghiệp. Các
nhân tố kinh tế ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thường là các giai đoạn phát triển trong chu kỳ kinh tế, nguồn cung cấp tiền, xu hướng
GNP, tỷ lệ lạm phát, lãi suất ngân hàng, chính sách tiền tệ, mức độ thất nghiệp, kiểm
Môi trường vĩ mô:
(Gồm các yếu tố nằm ở bên ngoài
tổ chức, định hình và có ảnh
hưởng đến các môi trường tác
nghiệp và nội bộ, tạo ra các cơ hội
và nguy cơ đối với tổ chức)
- Các yếu tố kinh tế
- Chính phủ và chính trị
- Các yếu tố xã hội
- Các yếu tố tự nhiên
- Các yếu tố công nghệ
Môi trường tác nghiệp:
(Gồm các yếu tố nằm ở bên ngoài
tổ chức, định hình và có ảnh hưởng đến
các môi trường tác nghiệp và nội bộ, tạo
ra các cơ hội và nguy cơ đối với tổ chức)
- Đối thủ cạnh tranh
- Người cung ứng
- Đối thủ tiềm ẩn
- Hàng thay thế
Hoàn cảnh tác nghiệp:
(Gồm các nguồn lực của tổ chức)
- Nhân lực sản xuất
- Nghiên cứu và phát triển
- Tài chính, kế toán
- Marketing
- Nề nếp tổ chức
soát giá, cán cân thanh toán… vì các yếu tố này tương đối rộng nên các doanh nghiệp
cần chọn lọc để nhận biết các tác động của nó là cơ hội hay nguy cơ đối với doanh
nghiệp.
Yếu tố Chính phủ và chính trị: việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh
hay không hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố pháp luật và nền chính trị của nước đó. Các
quy định về chống độc quyền, các luật về bảo vệ môi trường, các sắc luật về thuế, các
chế độ đãi ngộ đặc biệt, các quy định trong lĩnh vực ngoại thương, quy định về thuê
mướn và khuyến mãi, mức độ ổn định của Chính phủ sẽ tạo ra sự ưu tiên hay kiềm
hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể, do đó sẽ tác động trực tiếp
đén kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các ngành, vùng kinh
tế nhất định.
Yếu tố văn hóa xã hội: văn hóa xã hội ảnh hưởng một cách chậm chạp, song
cũng rất sâu sắc đến hoạt động quản trị và kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các vấn
đề về mức sống, phong cách sống, ước vọng về nghề nghiệp, tính tích cực về tiêu
dùng, tỷ lệ tăng dân số, dịch chuyển dân cư, xu hướng nhân chủng học, sở thích vui
chơi giải trí… có ảnh hưởng sâu sắc đến cơ cấu của cầu trên thị trường.
Yếu tố tự nhiên: các nhân tố tự nhiên bao gồm các nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên có thể khai thác, các điều kiện về địa lý, tình trạng ô nhiễm môi trường, sự thiếu
hụt năng lượng,... đều ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp song với mỗi loại
hình kinh doanh, cũng như mỗi yếu tố khác nhau thì có mức ảnh hưởng khác nhau.
Yếu tố kỹ thuật - công nghệ: trong phạm vi môi trường kinh doanh, nhân tố
kỹ thuật – công nghệ cũng đóng góp vai trò quan trọng, mang tính chất quyết định đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên xu thế ảnh hưởng của
nhân tố này đối với các ngành, các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau nên phải
phân tích tác động trưc tiếp của nó đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc
ngành cụ thể nhất.
1.2. Môi trường tác nghiệp
Các đối thủ cạnh tranh: sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa
quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phân tích từng đối thủ
cạnh tranh để nắm bắt và hiểu được các biện pháp phản ứng và hành động của họ. Tuy
nhiên, cần chú ý rằng mức độ ảnh hưởng của các đối thủ ở cùng khu vực thị trường bộ
phận mới ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của nhau. Phạm trù thị trường bộ phận
rộng hay hẹp lại tùy thuộc vào đặc điểm của sản phẩm dịch vụ và các điều kiện địa
hình, giao thông, cơ sở hạ tầng…
Khách hàng: là một bộ phận không thể tách rời trong môi trường cạnh tranh
của doanh nghiệp, sự tín nhiệm của khách hàng là tài sản có giá trị nhất của doanh
nghiệp. Sự tín nhiệm đó đạt được do biết thỏa mãn tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của
khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Khách hàng của doanh nghiệp có thể là người
tiêu dùng trực tiếp và cũng có thể là doanh nghiệp thương mại. Khi khách hàng là
doanh nghiệp thương mại thì quyền mặc cả của họ phụ thuộc vào các nhân tố cụ thể
như khối lượng mua hàng, tỷ trọng chi phí đầu vào của người mua, khả năng kiếm lợi
nhuận của người mua… Vì vậy, doanh nghiệp cần nắm bắt những vấn đề này để có
quyết định thích hợp.
Trong lĩnh vực kinh doanh, khách hàng (người mua) có tương đối nhiều thế
mạnh khi họ có các điều kiện sau:
+ Lượng hàng người mua chiếm tỷ lệ lớn như thế nào trong khối lượng hàng
hóa bán ra của người bán.
+ Việc chuyển sang mua hàng của người khác không gây nhiều tốn kém.
+ Người mua đưa ra nhiều tín hiệu đe dọa đáng tin cậy là sẽ hội nhập với các
bạn hàng cung ứng.
+ Sản phẩm của người bán ít ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của người mua.
Vì thế các doanh nghiệp cần phải lập các bảng phân loại khách hàng hiện tại và
tương lai, các thông tin thu thập từ bảng phân loại này là cơ sở định hướng quan trọng
cho việc hoạch định kế hoạch.
Người cung ứng: các doanh nghiệp cần phải quan hệ với các tổ chức cung
cấp các nguồn hàng khác nhau như: vật tư, thiết bị, lao động và tài chính. Bao gồm:
+ Những người bán vật tư, thiết bị,… họ có ưu thế là tìm kiếm lợi nhuận tối đa
bằng cách tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm hoặc đưa ra các dịch vụ đi kèm yếu tố
mua để tăng thế mạnh của mình từ đó có thể chèn ép hay tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp trong quá trình thu mua vật tư, thiết bị,…
+ Những nhà cung ứng tài chính, bất cứ một doanh nghiệp nào trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, trong những thời điểm nhất định kể cả doanh nghiệp làm ăn có
lãi đều phải vay vốn tạm thời từ các tổ chức. Nguồn tiền vốn này có thể được nhận
bằng cách vay ngắn hạn, dài hạn, hoặc phát hành cổ phiếu. Khi các doanh nghiệp tiến
hành phân tích về các tổ chức cung ứng tài chính thì trước hết phải xác định vị thế của
mình so với các thành viên khác.
+ Nguồn lao động cũng là phần chính yếu của môi trường cạnh tranh của doanh
nghiệp. Khả năng thu hút và giữ được các thành viên có năng lực là tiền đề bảo đảm
thành công cho doanh nghiệp, các yếu tố chính để đánh gía là trình độ đào tạo và
chuyên môn của họ, mức độ hấp dẫn tương đối của doanh nghiệp với tư cách là người
sử dụng lao động và mức tiền công phổ biến.
Đối thủ tiềm ẩn: là các đối thủ mới tham gia kinh doanh, họ đưa vào khai
thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được thị phần và các nguồn lực
trên thị trường. Mức độ tác động của các doanh nghiệp này đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của các doanh
nghiệp đó như quy mô, công nghệ chế tạo,… Chính vì vậy, doanh nghiệp khi xây dựng
chiến lược kinh doanh cần phân tích kỹ sự ảnh hưởng của nhân tố này đối với hoạt
động của doanh nghiệp.
Sản phẩm thay thế: sức ép của các sản phẩm thay thế làm hạn chế khả năng
làm ra lợi nhuận của sản phẩm hiện có và thu hẹp thị phần của doanh nghiệp, đẩy sản
phẩm hiện có nhanh đến thời kỳ suy thoái. Nếu không chú ý đến các sản phẩm tiềm
ẩn, doanh nghiệp có thể bị giảm thị phần. Vì vậy, phải không ngừng nghiên cứu và
kiểm tra các mặt hàng thay thế.
Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là kết quả của các cuộc bùng nổ về công
nghệ. Muốn đạt được thành công các doanh nghiệp phải cần chú trọng và giành một
nguồn lực nhất định để phát triển hay là vận dụng công nghệ mới vào chiến lược phát
triển sản phẩm của mình.
Từ sự phân tích về môi trường hoạt động ta có sơ đồ về mối liên hệ giữa các yếu
tố của môi trường hoạt động như sau:
Sơ đồ về mối liên hệ giữa các yếu tố của môi trường hoạt động
1.3. Hoàn cảnh tác nghiệp
Bao gồm tất cả các yếu tố bên trong của hệ thống doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp phải phân tích cặn kẽ các yếu tố nội bộ nhằm xác định rõ điểm mạnh và điểm
yếu của mình, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp để đạt được các lợi thế tối đa.
Các yếu tố liên quan đến nguồn nhân lực: con người cung cấp dữ liệu đầu
vào để hoạch định mục tiêu, phân tích môi trường, lựa chọn thực hiện và kiểm tra các
chiến lược của doanh nghiệp. Do đó nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng đối
với sự thành công của doanh nghiệp.
Yếu tố nghiên cứu và triển khai (R và D): một doanh nghiệp giữ vững vị trí
đi đầu trong ngành hay tụt hậu so với các doanh nghiệp khác trong các lĩnh vực như
phát triển sản phẩm mới, chất lượng sản phẩm… là do chất lượng của các nỗ lực
nghiên cứu và triển khai quyết định. Trình độ, kinh nghiệm, năng lực khoa học và việc
theo dõi thường xuyên các điều kiện môi trường ngoại lai là cơ sở cho công tác nghiên
cứu phát triển tốt.
Các đối thủ tiềm ẩn
Người mua
Các đối thủ cạnh tranh
trong ngành
Sự tranh đua giữa các
doanh nghiệp hiện có
Các đối thủ tiềm ẩn
Khả năng
ép giá
người
cung cấp
Khả năng
ép giá
người
mua
Nguy cơ bị các sản phẩm (dịch vụ) thay thế
Người cấp
Nguy cơ bị các đối thủ cạnh tranh mới thâm nhập
Yếu tố sản xuất: đây là một trong các hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp;
nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng đạt đến sự thành công của doanh nghiệp. Khả
năng sản xuất của doanh nghiệp thương tập trung chủ yếu vào các vấn đề năng lực sản
xuất như quy mô, cơ cấu, trình độ kỹ thuật sản xuất, hình thức tổ chức quá trình sản
xuất,… Các nhân tố này tác động trực tiếp đến chi phí kinh doanh cũng như thời hạn
sản xuất và đáp ứng cầu về sản phẩm dịch vụ. Đây là một trong các điều kiện không
thể thiếu tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Yếu tố tài chính kế toán: tình hình tài chính tác động trực tiếp đến kết quả và
hiệu quả kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Chức năng của
bộ phận tài chính bao gồm: phân tích, lập kế hoạch, kiểm tra việc thực hiện tài chính
và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bộ phận này cung cấp cho tất cả các lĩnh vực
khác các thông tin rộng rãi qua hệ thống kế toán.
Yếu tố Marketing: chức năng của bộ phận này đặt trọng tâm vào việc tạo ra
và duy trì các mối quan hệ giữa khách hàng với doanh nghiệp theo nguyên tắc đôi bên
cùng có lợi. Mục tiêu của Marketing là thỏa mãn các nhu cầu và mong muốn của
khách hàng bên ngoài và bên trong doanh nghiệp, đảm bảo được cung cấp sản phẩm
ổn định với chất lượng theo yêu cầu của sản xuất và giá cả phù hợp nhằm giúp doanh
nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh và đạt được lợi nhuận cao trong dài hạn.
Nề nếp tổ chức: nề nếp của một doanh nghiệp có thể là nhược điểm gây cản
trở hoặc là ưu điểm thúc đẩy việc hoạch định và thực hiện chiến lược. Nề nếp của tổ
chức là tổng hợp các kinh nghiệm, cá tính và bầu không khí của doanh nghiệp khi liên
kết với nhau tạo thành phương thức mà mỗi thành viên hoàn thành công việc ở đó. Đối
với mỗi doanh nghiệp, điều hết sức quan trọng là phải xây dựng được một nề nếp tốt
khuyến khích các nhân viên tiếp thu được các chuẩn mực đạo đức và thái độ tích cực
nhằm đạt được các mục đích của tổ chức.
Trong công tác xây dựng chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý
đến việc phân tích các điều kiện môi trường hoạt động của mình. Những phân tích về
môi trường bao trùm mọi lĩnh vực và ảnh hưởng đến tất cả các phương diện của quá
trình xây dựng chiến lược. Trong khi đương đầu với môi trường diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, các doanh nghiệp phải dựa vào việc phân tích đúng môi trường để
nhận diện tốt các cơ hội và nguy cơ cũng như các ưu, nhược điểm của doanh nghiệp,
có như vậy việc xây dựng chiến lược mới đạt hiệu quả tốt.
2. Xác định chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu và phân tích các mặt mạnh, mặt
yếu, cơ hội, nguy cơ
2.1. Xác định chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu của chiến lược
Chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu của doanh nghiệp, đây là thành tố đầu tiên của
tiến trình quản trị chiến lược, làm nền tảng cho việc soạn thảo hoặc hoạch định chiến
lược. Để có thể xác lập chức năng, nhiệm vụ và các mục tiêu cần theo đuổi, các doanh
nghiệp cần phải phân tích chính mình cũng như nghiên cứu khách hàng và tìm hiểu
các đối thủ cạnh tranh… và chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp cần được triển
khai và phát hoạ thành một loạt những mục tiêu cụ thể.
Thông thường các doanh nghiệp xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục
tiêu trước khi phân tích môt trường kinh doanh theo trình tự các thành tố cấu tạo mô
hình xây dựng chiến lược. Tuy nhiên một số ít các doanh nghiệp khác chủ trương
ngược lại khi họ tìm hiểu phân tích môt trường kinh doanh trước khi họ xác định
nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược. Nguyên nhân là họ cho rằng trong bối cảnh cạnh
tranh ngày càng gay gắt quyết liệt hiện nay thì thái độ khôn ngoan nhất là nên nghiên
cứu môi trường kinh doanh trước để xác định chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu chiến
lược được chuẩn xác và hiệu quả hơn. Trong đó, nhiệm vụ chiến lược là mục đích
chính của Công ty nhằm phân biệt đặc trưng của Công ty với các Công ty khác cùng
ngành.
Nhiệm vụ chiến lược cũng bao hàm triết lý của Công ty định hướng cho việc:
- Xác định tình hình hoạt động của Công ty trong hiện tại lẫn trong tương lai.
- Phân biệt Công ty với các đơn vị cùng ngành.
- Xác lập tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động hiện tại và tương lai.
Các mục tiêu của Công ty gồm các tiêu đích hoặc kết quả cụ thể mà Công ty
mong muốn đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
2.2. Phân tích các mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội, nguy cơ
Các cơ hội, nguy cơ đối với doanh nghiệp có thể rất nhiều, do đó cần phải sắp
xếp, đánh giá để chỉ ra những cơ hội tốt nhất, những nguy cơ xấu nhất, đồng thời giúp
cho doanh nghiệp tìm được mặt mạnh, mặt yếu.
Phân tích tổng hợp mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội, nguy cơ được gọi tắc là “S.W.O.T
analysis”. Mục đích của việc phân tích bày là phối hợp các mặt mạnh, các mặt yếu, các
nguy cơ và cơ hội thích hợp. Để phân tích đánh giá các mặt mạnh, yếu trước hết phải
liệt kê ra các mặt mạnh, yếu, cơ hội, nguy cơ theo thứ tự ưu tiên, sau đó tiến hành so
sánh một cách có hệ thống từng cặp tương ứng các yếu tố nói trên để tạo ra các cặp
phối hợp logic.
3. Phân tích đánh giá các phương án chiến lược
Các phương án chiến lược cấp doanh nghiệp có hai nhiệm vụ chính:
Một là, hoạch định những gì cấp doanh nghiệp cần làm và những gì doanh
nghiệp không cần làm.
Hai là, điều chỉnh cơ cấu và trọng tâm của các mặt hoạt động sản xuất kinh
doanh đã chọn.
Quy trình tổng quát của việc lựa chọn chiến lược tuân theo 4 bước sau:
Bước 1: nhận biết chiến lược hiện tại của doanh nghiệp. Ban lãnh đạo cần
biết vị trí hiện tại doanh nghiệp đang ở đâu và các chiến lược doanh nghiệp đang theo
đuổi là gì? Đó là căn cứ để lựa chọn chiến lược mới và khẳng định chiến lược đã có.
Bước 2: phân tích vốn đầu tư. Đây là bước thứ hai trong quá trình lựa chọn
chiến lược; có nhiều phương pháp phân tích vốn đầu tư, mà một trong các phương
pháp tối ưu là phan tích dựa trên ma trận danh mục vốn đầu tư, trong đó trục hành biểu
thị sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, trục tung biểu thị tiềm năng tăng trưởng
trong ngành.
Bước 3: lựa chọn chiến lược doanh nghiệp. Lãnh đạo doanh nghiệp có thể lựa
chọn chiến lược tổng quát hoặc một tổ hợp các chiến lược doanh nghiệp, trong đó:
- Bổ sung các đơn vị kinh doanh mới vào danh sách đầu tư.
- Loại bỏ các đơn vị kinh doanh cũ trong danh sánh đầu tư.
- Sửa đổi chiến lược kinh doanh của các dơn vị kinh doanh.
- Sửa đổi mục tiêu thành tích của doanh nghiệp.
- Chú trọng việc thay đổi những điều kiện làm cho thành tích đạt được có thể
thấp hơn so với khả năng thực tế dự báo.
- Giữ vững nguyên hiện trạng.
Bước 4: Đánh giá chiến lược đã chọn. Muốn đánh giá chất lượng được chọn
ban lãnh đạo cần đặt ra và trả lời một số câu hỏi liên quan đến chiến lược. Câu hỏi
quan trọng nhất là liệu chiến lược đề ra có đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp không?
4. Triển khai các chính sách và chương trình hoạt động tổng quát
Các chính sách phải có tác dụng phản ánh và giải thích mục tiêu, hướng dẫn đề ra
các quyết định nhằm thực hiện mục tiêu, do đó các chính sách cơ bản phải xuất phát từ
mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Các chính sách cơ bản thường có là:
- Chính sách Marketing: là động lực chủ yếu của toàn bộ hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, nó càn là trách nhiệm quan trọng về đóng của doanh nghiệp đối với
xã hội.
- Chính sách sản xuất: mua hay chế tạo, thời gian, số lượng, số lượng dự trữ các
loại sản phẩm.
- Chính sách tài chính: bao gồm chính sách về tiền mặt và khấu hao, mua hay
thuê sản xuất, những vấn đề liên quan đến vốn và lợi nhuận.
Các chương trình chiến lược: sau khi xác định mục đích, chức năng, các mục tiêu
dài hạn, chính sách, thì giai đoạn tiép theo là lập các chương trình chiến lược để thực
hiện các mục tiêu. Các chương trình chiến lược chỉ là những chương trình lớn nhằm
trả lời câu hỏi “làm như thế nào?” để đạt được mục tiêu. Muốn có các chương trình
mang lại hiệu quả cao phải lựa chọn các phương án, kết hợp một cách tối ưu các nguồn
lực với những tính toán chính xác về không gian và thời gian.
5. Tổ chức thực hiện chiến lược và kiểm tra chiến lược
Công tác tổ chức thực hiện chiến lược và kiểm tra chiến lược là giai đoạn rất
quan trọng và nó được thực hiện qua 5 bước chủ yếu sau:
Rà soát, xem xét lại mục tiêu, điều kiện môi trường và chất lượng: mục
đích trước nhất của bước này là nhằm đảm bảo những người thực hiện phải chịu trách
nhiệm đối với công việc mình thực hiện, nắm bắt chính xác nội dung chiến lược, lý do
tại sao nó được theo đuổi và mục tiêu tương ứng là gì? Việc soát xét lại như một bước
đánh giá cuối cùng về những mục tiêu và chiến lược đề ra. Quá trình tổ chức thực hiện
còn có thể tạo ra cơ hội phát hiện và đồng hóa những biến đổi về điều kiện môi trường
kể từ khi những phân tích cơ bản về điều kiện môi trường được tiến hành.
Đánh giá, điều chỉnh và đảm bảo nguồn lực: nguồn lực được hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm mọi nguồn lực từ nhân sự và các hoạt động của nó cho đến thiết bị
và nguồn lực tài chính.
Về đánh giá nguồn lực, tại một thời điểm nhất định phải tiến hành đánh giá lại
nguồn lực nhằm bảo đảm chắc chắn đã có hoặc có thể nhận được các nguồn lực với số
lượng và chất lượng cần thiết cho việc thực hiện chiến lược mới đã chọn. Việc đánh
giá đó còn có thể làm cơ sở cho ban lãnh đạo phân tích lại chi phí thực hiện. Điều
chỉnh nguồn lực là công việc luôn luôn cần thiết và do lãnh đạo cấp cao nhất cùng với
nhân viên các phòng chức năng tiến hành. Phải thường xuyên điều chỉnh nguồn lực cả
về số lượng lẫn chất lượng như việc nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật,
bổ sung nguồn vốn bằng tiền… để việc thực hiện chiến lược đảm bảo được độ tin cậy.
Đảm bảo nguồn lực là làm sao để có đủ nguồn lực phục vụ cho việc thực hiện
các chiến lược của doanh nghiệp một cách nhanh chóng, tập trung nguồn lực vào một
chiến lược nhất định thì mới có thể tranh thủ được cơ hội trước các doanh nghiệp khác.
Công việc chính trong việc đảm bảo nguồn lực là phân bổ nguồn vốn và chuẩn bị ngân
sách.
Xây dựng cơ cấu tổ chức: không một yếu tố riêng lẻ nào có thể quyết định
mô hình tổ chức của một tổ chức mà cơ cấu tổ chức chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
và các yếu tố thay đổi tuỳ theo từng trường hợp cụ thể sau:
+ Chiến lược: chiến lược và cơ cấu tổ chức là hai mặt không tách rời trong tổ
chức hiện tại. Thường thì cơ cấu tổ chức phải thay đổi khi có sự thay đổi về chiến lược
cấp bách của doanh nghiệp.
+ Quy mô và mức độ phức tạp: cơ cấu tổ chức phải đảm bảo quản lý được các
hoạt động của doanh nghiệp nhưng không được phức tạp quá mức cần thiết. Mức độ
phức tạp của cơ cấu tổ chức phải phù hợp với mức độ phức tạp của các nghiệp vụ.
+ Công nghệ: đặc điểm chung và mức độ phức tạp của công nghệ mà doanh
nghiệp sử dụng có thể ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức. Nói chung, cơ cấu tổ chức phải
được bố trí sao cho tăng cường được khả năng của doanh nghiệp để có thể hợp nhất
hoặc phản ứng trước sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ.
+ Mức độ biến động của môi trường kinh doanh: ở các doanh nghiệp hoạt động
trong môi trường ổn định thường xuất hiện cơ cấu tổ chức cứng nhắc, phong cách lãnh
đạo tập quyền. Ngược lại, đối với các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường luôn
biến động, cơ cấu tổ chức có quan hệ gắn bó hữu cơ, việc ra quyết định có tính chất
phân tán.
Thái độ của lãnh đạo cấp cao, thái độ của đội ngũ công nhân viên, và các khía
cạnh địa lý cũng ảnh hưởng lớn đến cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
Đưa ra các thay đổi chiến lược: các chiến lược, đặc biệt là chiến lược mới
thường đòi hỏi phải có những sửa đổi trong qúa trình thực hiện; ban lãnh đạo cấp cao
cần phải soạn thảo thật chặt chẽ mục đích và nội dung các sửa đổi để việc sửa đổi có
thể thực hiện được.
Đánh giá chiến lược: hoạch định chiến lược là một quá trình năng động tạo
điều kiện để phát triển các chiến lược một cách hữu hiệu. Khi đề ra kế hoạch chiến
lược lãnh đạo phải nhận thức được rằng phải có những sửa đổi chiến lược theo định
kỳ, tuy nhiên không nên sửa đổi chiến lược mỗi khi phát sinh vấn đề không quan
trọng.
IV. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng chiến lược kinh doanh đối với
doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường
1. Sự cần thiết
Kế hoạch, chiến lược là một hình tượng mới trong các doanh nghiệp khi tình
hình cạnh tranh trở nên gay gắt và nó trở thành một công cụ chủ yếu trong công tác
hoạch định của các doanh nghiệp để đảm bảo thành công trên thị trường. Lý do để
chứng minh sự cần thiết phải có kế hoạch, chiến lược có thể xem xét trên nhiều khía
cạnh sau:
- Phương pháp kế hoạch, chiến lược cũng cần một cách tiếp cận logic và hệ
thống ứng phó với môi trường kinh doanh ngày càng sôi động nhằm thích ứng và tạo
lợi thế cạnh tranh.
- Trong nền kinh tế thị trường vời sự cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay
thì công tác xây dựng chiến lược là hết sức quan trọng. Bởi lẽ, khi xây dựng dựng
chiến lược chúng ta mới đánh giá được những cơ hội, nguy cơ, mặt mạnh và mặt yếu
của Công ty từ đó có những biện pháp khắc phục thích hợp.
- Sự phát triển sản xuất, gia tăng của nhu cầu khiến cho các Công ty phải sản
xuất nhiều mặt hàng khác nhau, họ quan tâm nhiều yếu tố khi dự trù triển vọng và xác
định mục đích của Công ty.
Hơn nữa do quy mô và tính chất của các tổ chức hiện đại ngày càng tăng việc
thiết lập chiến lược giúp Công ty phối hợp các hoạt động trong tổ chức, lôi kéo các cấp
quản trị vào công việc chung.
- Hàm lượng khoa học kỹ thuật ngày càng tăng kéo theo sự lỗi thời nhanh chóng
của sản phẩm, nên trước khi tạo ra một sản phẩm cần phải tốn kém về nguồn kinh
doanh phí để nghiên cứu và phát triển nhưng phải đảm bảo bán sản phẩm ra thị trường
ở một lượng lớn. Việc bán hàng phải kéo dài trong một thời gian nhất định trong điều
kiện tự động hóa, trang thiết bị rất đắt. Vì vậy, khi quyết định đầu tư kinh doanh, các
doanh nghiệp phải đoán chắc họ sẽ bán được đủ số lượng ngày càng tăng để thu hồi
vốn đầu tư. Do đó cần phải tư duy chiến lược và thực hiện kế hoạch, chiến lược.
2. Xây dựng kế hoạch, chiến lược đối với Công ty Vật Liệu Xây Dựng – Xây Lắp
và kinh doanh nhà Thành phố Đà Nẵng
Đối với Công ty Vật liệu Xây dựng – Xây lắp và Kinh doanh nhà Thành phố Đà
Nẵng với tư cách là một doanh nghiệp Nhà Nước thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ
bao gồm: sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng, kinh doanh nhà ở và nhận thầu xây
lắp, thì nhiệm vụ tổ chức quá trình kế hoạch hóa chiến lược là vấn đề hết sức quan
trọng và cần thiết. Bởi lẽ, thông qua quá trình xây dựng kế hoạch, chiến lược Công ty
mới phân tích được các yếu tố bên ngoài, những cơ hội thuận lợi và những mối đe dọa
tác động đến nguy cơ hoạt động của Công ty. Đối với bản thân doanh nghiệp cũng
đánh giá được những điểm mạnh làm chổ dựa triển khai chiến lược và những điểm yếu
cần chấn chỉnh, sửa đổi hoặc dần dần huỷ bỏ.
Trong nền kinh tế thị trường, tất cả các doanh nghiệp đều phải tự chủ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi, tự ứng phó với mọi biến động
của môi trường kinh doanh, thì việc xây dựng kế hoạch, chiến lược để lựa chọn một
phương án kinh doanh tối ưu là vấn đề hết sức cần thiết. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh
doanh nhà ở, đặc trưng của sản phẩm là có giá trị cao, giá trị sử dụng lâu bền cố định.
Mặt khác, quyền sở hữu về sản phẩm nhà ở luôn luôn gắn liền với quyền sử dụng đất.
Nói cách khác, nhà ở là một lĩnh vực hết sức đa dạng, phong phú nhưng cũng khá
phức tạp. Kinh doanh nhà ở bị ảnh hưởng bởi những chính sách của nhà nước, bên
cạnh những cơ hội được đón bắt thì đồng thời những rủi ro có thể xảy ra, vì vậy cần
phải đánh giá thực chất, những điển mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp trong từng thời
điểm ứng với khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đồng thời phải xác định cụ
thể những yếu tố liên quan bên ngoài cũng như bên trong của doanh nghiệp, nghiên
cứu kỹ lưỡng đặc tính của khách hàng, các yếu tố cạnh tranh, cả việc dự đoán xu
hướng của môi trường tương lai.
Để thực hiện vấn đề này công tác kế hoạch hóa, chiến lược đóng vai trò quan
trọng và cần thiết. Đây là công tác không thể thiếu được trong quá trình hoạt động của
Công ty Vật liệu Xây dựng – Xây lắp và Kinh doanh nhà Thành phố Đà Nẵng.
PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
CÔNG TY VẬT LIỆU XÂY DỰNG – XÂY LẮP VÀ KINH DOANH NHÀ
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
I. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
Sau ngày đất nước Việt Nam hoàn toàn giải phóng, việc xây dựng lại cơ sở vật
chất kỹ thuật xã hội và nhu cầu cấp thiết của con người là hết sức cần thiết, do vậy Uỷ
Ban Nhân Dân Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng (cũ) có quyết định số 427/QĐUB ngày
12/10/1976 thành lập Công ty Vật Liệu Xây Dựng phục vụ cho các công trình trong và
ngoài tỉnh.
Trong giai đoạn đầu 1976 – 1985, hoạt động của Công ty hoàn toàn theo cơ chế
tập trung bao cấp, việc sản xuất, tiếp nhận, thu mua, cung ứng phân phối và tiêu thụ
sản phẩm vật liệu xây dựng chủ yếu theo phân bổ kế hoạch hàng năm của tỉnh giao
cho đơn vị.
Tiếp theo giai đoạn từ 1986 – 1992, do yêu cầu phát triển của đơn vị, đồng thời
để mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với tình hình mới, ngày 31/03/1986 uỷ ban
nhân dân Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) ra quyết định số 758/QĐUB tổ chức lại
Công ty vật liệu xây dựng thành xí nghiệp liên hiệp vật liệu xây dựng – đá xuất khẩu
Quảng Nam - Đà Nẵng và được bổ sung ngành nghề cơ khí xây dựng, sản xuất đá áp
lát, đá khối Granit xuất khẩu. Với chức năng nhiệm vụ mới được giao, Công ty đã trở
thành mũi đột phá đầu tiên trong ngành công nghiệp khai thác chế biến đá Granit xuất
khẩu của Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và khu vực miền trung, làm chuyên gia ch
ngành sản xuất đá của một số khu vực. Ngoài ra, Công ty còn tham gia hợp tác với
nước ngoài thành lập Công ty liên doanh VNI – GRANITEX.
Do sự phát triển lớn mạnh của Công ty, đồng thời để khép kín một dây chuyền
Sản xuất - Cung ứng - Xây lắp, ngày 02/11/1994 Công ty được Uỷ ban nhân dân Tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) giao thêm nhiệm vụ xây lắp, kinh doanh nhà và đổi tên
Công ty thành Công ty vật liệu xây dựng - xây lắp và kinh doanh nhà Quảng Nam - Đà
Nẵng nay đóng tại Thành phố Đà Nẵng.
Công ty hiện đang có trụ sở đóng tại 158 - Nguyễn Chí Thanh Thành phố Đà
Nẵng. Tổ chức doanh nghiệp theo hình thức doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp
nhân, thực hiện chế độ hạch toán kế toán độc lập, mở tài khoản tại ngân hàng Nhà
Nước, được sử dụng khuôn dấu theo quy định.
Công ty vật liệu xây dựng – xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng là đơn vị thực
hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Kinh doanh xi măng và vật liệu xây dựng
+ Sản xuất gạch hoa lát nền và gạch nung
+ Kinh doanh nhà
+ Xây dựng công nghiệp
+ Xây dựng công trình công cộng nhà ở
+ Sản xuất bê tông thương phẩm
+ Xây dựng công trình giao thông
+ Xây dựng công trình thuỷ lợi
II. Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty
1. Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty
2. Chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của các phòng ban
P
H
Ó
G
IÁ
M
Đ
Ố
C
1
PH
Ó
G
IÁ
M
Đ
Ố
C
2
Phòng
K
inh D
oanh
T
ổng H
ợp
Phòng
T
ổ C
hức
H
ành C
hính
Phòng
K
ế H
oạch
T
ổng H
ợp
Phòng
K
ế T
oán
Tài C
hính
Phòng
X
ây L
ắp và
K
inh D
oanh
N
hà
Phòng
K
ỹ T
huật
N
hà m
áy
gạch
Tuynen
X
í nghiệp
bê tông
thương
phẩm
X
í nghiệp
kinh doanh
xi m
ăng
vật liệu
xây dự
ng
X
í nghiệp
kinh doanh
xi m
ăng
vật liệu
xây dựng
C
ác đội
xây dựng
và công
trường trực
thuộc
X
í nghiệp
gạch hoa
Sơn T
rà
G
IÁ
M
Đ
Ố
C
* Ghi chú: Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
Giám đốc: giám đốc Công ty chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động và kết
quả sản xuất kinh doanh, phát triển đơn vị, chịu trách nhiệm trước pháp luật nhà nước,
trực tiếp chỉ đạo các phòng khác.
Phó giám đốc 1: giúp việc cho giám đốc Công ty (tham mưu) trực tiếp làm
giám đốc Xí nghiệp gạch hoa sơn trà, theo dõi, xí nghiệp gạch ngói Đồng tâm Tam kỳ
và phòng tổ chức hành chính.
Phó giám đốc 2: giúp việc cho giám đốc Công ty (tham mưu) trực tiếp quản
lý phòng xây lắp và kinh doanh nhà.
Kế toán trưởng: Giúp cho giám đốc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê và
điều lệ tổ chức kế toán nhà nước tròn hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Phòng kinh doanh tổng hợp: làm tham mưu cho giám đốc Công ty trong
công tác kinh doanh cung ứng các mặt hàng vật liệu xây dựng, khai thác đá nhập khẩu
trực tiếp các mặt hàng đất, xi măng phục vụ cho những yêu cầu cơ bản của các xí
nghiệp về nhu cầu vật tư, cung ứng vật tư kỹ thuật, quản lý giá thành bán. Ngoài ra
phòng còn kiêm nhiệm công tác tiếp thị, tiêu thụ sản phẩm do Công ty sản xuất ra.
Phòng kế toán tài chính: bảo đảm vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh,
kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn của đơn vị, chấp hành pháp lệnh kế toán thống
kê, chế độ ghi chép ban đầu, cung cấp số liệu kịp thời, tình hình hoạt động sản xuất ks
cho giám đốc và cấp trên, phát hiện những sai xát và sơ hở trong quản lý, chống tình
trạng buôn lỏng quản lý dẫn đến thua lỗ và vi phạm pháp luật, tổng hợp quyết toán tài
chính, hướng dẫn công tác hạch toán, quyết toán tài chính, thực hiện công tác báo cáo
thống kê và kiểm kê định kỳ, lập báo cáo theo quy định, phản ánh kịp thời tình hình
sản xuất kinh doanh lên giám đốc.
Phòng kế hoạch: giúp giám đốc làm công tác kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, xây
dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh để giao cho các đơn vị, lập dự án đầu tư và phát
triển, trực tiếp lo việc quảng cáo và chào hàng, lập kế hoạch đại tu, sữa chữa, phục hồi,
điều phối, thanh lý và mua sắm tài sản, xây dựng đơn giá tiền lương, giá thành, giá bán
sản phẩm, phân tích tình hình hoạt động kinh tế theo quý, năm, nghiên cứu và đề xuất
phương án phát triển mới, phát triển sản phẩm mới, định mức vật tư kỹ thuật, vật tư
lao động.
Phòng tổ chức hành chính
- Tổ chức quản lý hồ sơ lý lịch: lo thủ tục, chế độ chính sách nghỉ việc, mất sức,
về hưu theo dõi nâng lương, thi đua, kỷ luật, thực hiện vấn đề tuyển dụng.
- Công tác pháp chế: soạn thảo các văn bản hội nghị, hợp đồng tuyển dụng, quy
định hướng dẫn các pháp lệnh, các quy định của nhà nước cho cơ sở và cán bộ công
nhân viên.
- Hành chính quản trị: bao gồm văn thư lưu trữ, giao tế, lễ tân, y tế, an toàn lao
động, đánh máy, công cụ, quản lý dụng cụ hành chính, phòng cháy chữa cháy, trực
tiếp quản lý phòng vi tính.
Phòng xây lắp và kinh doanh nhà: thực hiện việc lập quy hoạch, khai thác
quỹ đất để thực hiện sản xuất kinh doanh phát triển nhà, phòng còn tham mưu cho lãnh
đạo Công ty về công tác xây lắp như: tìm và nhận thầu các công trình, nhận các thủ tục
liên quan đến dự thầu, đấu thầu, quản lý giám sát công tác kỹ thuật xây lắp, triển khai
hướng dẫn đội xây dựng thực hiện quy chế làm việc, kịp thời báo cáo cho giám đốc về
tiến độ, kỹ mỹ thuật chất lượng thi công, kết quả hoạt động, hỗ trợ cho đội xây dựng
trong việc tìm kiếm công trình và ký hợp đồng xây lắp với các chủ đầu tư.
Phòng kỹ thuật: thực hiện việc thiết kế thi công các công trình, dự án và công
tác đền bù giải tỏa.
Nhìn vào sơ đồ tổ chức quản lý của Công ty ta thấy có hai mối quan hệ chủ yếu
đó là quan hệ trực tuyến và quan hệ chức năng, với các mối quan hệ này tạo cho cơ
cấu của Công ty có những ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
- Bảo đảm sự quản lý trực tiếp của Giám đốc đến từng phòng ban, xí nghiệp là cơ
sở thực hiện các quyết định của ban Giám đốc Công ty một cách thống nhất, tạo thuận
lợi cho việc chỉ đạo tập trung trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Công ty thực hiện việc phân cấp trong quản lý tránh được những hiện tượng
trùng lặp, chồng chéo, đảm bảo sự vững mạnh trong toàn bộ cơ cấu quản lý.
- Đối với cơ cấu này giám đốc Công ty nhận thông tin nhanh nhất, đồng thời
được sự tham mưu của bộ phận quản lý.
- Có mối quan hệ chặt chẽ giữa các phòng ban, xí nghiệp với nhau làm giảm sự
độc quyền trong quản lý.
Nhược điểm:
- Sự linh động trong sản xuất các xí nghiệp bị hạn chế, những vấn đề phát sinh
làm ách tắc sản xuất, cản trở sản xuất, nhất là vấn đề phát sinh ngoài kế hoạch thì các
xí nghiệp không có quyền (hoặc quyền bị hạn chế) để giải quyết mà phải xin ý kiến
cấp trên.
- Do hình thức quản lý của Công ty tới các xí nghiệp nên mọi vấn đề chỉ đạo,
quản lý, đôn đốc thực hiện phải có những cán bộ quản lý của Công ty hoạt động tại xí
nghiệp đó nên xảy ra tình trạng lực lượng lao động gián tiếp tăng lên, tạo sự mâu thuẫn
nhất định giữa các ban, giám đốc các xí nghiệp với “người của Công ty” từ đó ảnh
hưởng đến nhất quán trong quản lý.
III. Môi trường kinh doanh của Công ty
1. Môi trường vĩ mô
Có rất nhiều các tác lực vĩ mô khác nhau ảnh hưởng và tạo ra những cơ hội và
nguy cơ đe dọa đối với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên ta có thể
quan tâm đến các nhân tố chủ yếu sau:
1.1. Môi trường kinh tế
Nền kinh tế nước ta đã chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà Nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển với
việc khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng thế mạnh trong nước cũng như nước ngoài.
Với các đơn vị kinh tế Nhà Nước trong đó có Công ty Vật liệu Xây dựng – Xây lắp và
Kinh doanh nhà Thành phố Đà Nẵng thì điều đó tạo cho đơn vị một cơ chế thông
thóang hơn, tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh bởi nó giảm được sự can thiệp sâu,
cứng nhắc và thiếu xác thực của Nhà Nước Trung Ương.
Về khía cạnh quan hệ kinh tế quốc tế, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại
giao với 170 nước, quan hệ thương mại với hơn 100 nước và vùng lãnh thổ đồng thời
có quan hệ tốt với nhiều tổ chức kinh tế quan trọng như ngân hàng thế giới (WB), quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF). Về quan hệ hợp tác đầu tư với nước ngoài, đã có hơn 50 nước và
vùng lãnh thổ tiến hàng đầu tư bằng nhiều hình thức vào Việt Nam trong đó phải kể
đến các nhà đầu tư lớn như Đài Loan, Hông Kông, Nhật Bản, Hàn quốc, Pháp… Với
quan hệ đối ngoại này cũng đã tạo điều kiện cho Công ty phát triển bởi qua đó Công ty
thu hút đâu tư, thực hiện liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài, tạo điều kiện
mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, cũng như Công ty có điều kiện học hỏi kinh
nghiệm và kiến thức về những công trình kiến trúc, xây dựng của các nước.
Trong xu hướng nền kinh tế nước ta đã và đang từng bước hội nhập và phát triển
theo xu thế chung của khu vực và thế giới, cùng với hiệp định thương mại Việt - Mỹ
năm 2001 đã mở ra hướng phát triển mới cho ngành xây dựng nói chung, cơ hội cho
Công ty nói riêng. Là một doanh nghiệp có truyền thống nhận thầu các công trình xây
dựng cho Thành phố cũng như các tỉnh lân cận và cung cấp nguyên vật liệu cho các
công trình xây dựng trong nhiều năm qua, Công ty đã và sẽ tiếp tục mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình nhờ vào tình hình tăng trưởng kinh tế trong nước và địa
bàn cùng với đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, thu nhập ngày càng
tăng nên ngày càng đòi hỏi nhiều về nhu cầu chi tiêu cho trang trí nội thất cũng như
xây dựng nhà ở, đường xá,… theo xu hướng và nhịp độ phát triển của thị trường. Đó là
cơ hội cho Công ty trong việc mở rộng và khai thác trong tương lai mà Công ty cần
đột phá.
Hơn nữa, hiện nay lãi suất ngân hàng tương đối ổn định và các đơn vị tài chính
Trung ương, địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi và ưu đãi nên Công ty có điều kiện
đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt khác, với việc quản lý chặt chẽ nền kinh tế,
đã kìm hãm tỷ lệ lạm phát bình quân 5%/năm đã giúp cho Công ty bảo đảm an toàn
trong kinh doanh.
Tóm lại, môi trường kinh tế trong và ngoài nước đã tạo nhiều cơ hội thuận lợi
cho Công ty đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình.
1.2. Môi trường chính trị pháp luật
Sự phát triển nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng không thể đặt ngoài mối
quan hệ với nền chính trị của nước đó. Nói đúng hơn chính trị là nền tảng cho sự phát
triển kinh tế của một nước. Vì vậy thành quả kinh tế mà chúng ta đạt được trong thời
gian qua không thể không kể đến sự đóng góp to lớn của nền chính trị Nhà Nước. Ở
Việt Nam, chính đặc trưng của nền kinh tế chính trị đã tạo ra một thuận lợi nho nhỏ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp
Nhà Nước nói riêng. Chúng ta phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong đó kinh tế Nhà Nước là thành phần kinh tế quan trọng, giữ vai trò chủ đạo
trong bối cảnh nền kinh tế mới. Do đó ở vài khía cạnh các doanh nghiệp Nhà Nước
vẫn được nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh về vấn đề mặt bằng, vốn, thủ tục hành
chính, thuế và nhiều ưu đãi khác… do vậy trong một chừng mực nào đó thì Công ty là
đơn vị thuộc Nhà Nước nên có nhiều lợi thế hơn so với các đơn vị thuộc các thành
phần kinh tế khác.
Tóm lại, môi trường chính trị pháp luật tương đối thuận lợi đã tạo điều kiện cho
quá trình phát triển đất nước nói chung và ngành xây dựng nói riêng trong đó có Công
ty. Tuy nhiên, trên khuôn khổ áp dụng chính sách kinh tế của Nhà Nước, Công ty nói
riêng và các doanh nghiệp khác nói chung còn nhiều hạn chế gây trở ngại cho phát
triển chẳng hạn như:việc mở rộng mặt bằng sản xuất còn phải qua nhiều khâu trung
gian, hay cơ chế quản lý ban hành liên tục bị Nhà Nước thay đổi gây ảnh hưởng đến
tính ổn định sản xuất kinh doanh của Công ty. Do vậy, điều cần thiết là Công ty phải
luôn nắm bắt thông tin kịp thời để dự đoán trước và có biện pháp chớp lấy thời cơ
cũng như khắc phục khó khăn trước tình hình đó, dưới góc độ nhìn nhận của Công ty
phải nhạy cảm để có thể đưa ra những chiến lược thích ứng phù hợp với nhu cầu Công
ty đang kinh doanh.
1.3. Môi trường văn hóa - xã hội
Yếu tố văn hóa xã hội cũng là một nhân tố vĩ mô ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
của ngành dệt may. Đối với nền văn hóa xã hội trong nước, Việt Nam là một nước có
truyền thống văn hóa lâu đời tuy nhiên do qua trình hội nhập trên thế giới nên văn hóa
Việt Nam cũng có nhiều thay đổi đáng kể như về cách ăn mặc, lối sống… Đồng thời
với mức sống ngày càng được cải thiện và thu nhập bình quân đầu người ngày càng
tăng làm cho nhu cầu về nhà ở cũng đòi hỏi đa dạng và phong phú hơn về quy mô,
trang trí, chất lượng…cũng như những kiến thức về chất lượng công trình xã hội ngày
càng cao hơn do đó ngành xây dựng nói chung và Công ty nói riêng phải nắm bắt được
những vấn đề này để có biện pháp cải thiện Công ty đáp ứng được các yêu cầu này.
1.4. Môi trường công nghệ
Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ như thiết bị
chuyên dùng dây chuyền sản xuất, công nghệ thông tin tiên tiến… đã tác động mạnh
mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Việc áp dụng những thành tựu
khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã đem lại kết quả đáng kể trong việc nâng cao chất
lượng sản phẩm, tạo nhiều mẫu mã đẹp, tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành đồng
thời rút ngắn chu kỳ sống của sản phẩm.
Công nghệ sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng ngày càng hiện đại làm cho
công suất và chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, đáp ứng thỏa mãn nhu
cầu của người dân. Trong những năm qua với việc hoàn thành dây chuyền hai nhà máy
xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn cùng với việc đầu tư xây dựng nhiều nhà máy xi
măng lớn như Tràng Kênh, Nghi Sơn… đã góp phần nâng cao sản lượng và chất lượng
xi măng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu người tiêu dùng. Riêng Thành phố Đà Nẵng
với việc hoàn thành nhà máy xi măng Hoà Khương đưa vào sử dụng và cải tạo mở
rộng nhà máy xi măng Hải Vân đã đáp ứng nhu cầu xây dựng ở địa bàn.
2. Môi trường vi mô
2.1. Thị trường và khách hàng
2.1.1. Thị trường
Thị trường tiêu thụ chủ yếu của Công ty là các tỉnh miền Trung, trong đó chủ yếu
là địa bàn Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, chiếm khối lượng tiêu thụ tương
đối lớn của Công ty trong năm 2002, tiếp đến là các tỉnh Quảng Ngãi, Gia Lai,
Kontum… Tuy nhiên, do sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp Nhà Nước cũng
như những doanh nghiệp tư nhân trong sản xuất vật liệu xây dựng ở các tỉnh Bình
Định, Phú Yên, Huế… với các mặt hàng chủ yếu là gạch hoa, gạch Tuynen, bê tông
thương phẩm… nên lĩnh vực vật liệu xây dựng của Công ty chưa chiếm lĩnh hết thị
trường các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, do đó chỉ tập trung ở một số thị trường
chủ yếu như Đà Nẵng, Quảng Nam, Gia lai - Kontum… Song đối với các loại vật liệu
xây dựng cao cấp như kính, gạch men, sứ vệ sinh, hàng trang trí nội thất… thì Công ty
chiếm thị phần khá lớn ở khu vực miền Trung nhờ sản phẩm có chất lượng cao, mẫu
mã đa dạng và giá thành hợp lý.
Về thị trường xi măng và vật liệu xây dựng
Trong những năm gần đây, thị trường tiêu thụ xi măng và vật liệu xây dựng của
Công ty cũng không có gì tiến bộ, thị trường chủ yếu vẫn là những thị trường cũ,
không mở rộng thêm thị trường nào thậm chí những thị trường cũ đã bị các doanh
nghiệp khác chiếm lĩnh mất, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình hoạt động của Công ty.
Điều này thể hiện rất rõ qua bảng số liệu sau:
Bảng 3: Thị trường tiêu thụ xi măng - vật liệu xây dựng chủ yếu của
Công ty trong năm 2002
Xi măng các loại
(tấn)
Gạch hoa
(viên)
Gạch các loại
(nghìn viên)
Thị trường
Số
lượng
Tỷ
trọng
Số
lượng
Tỷ
trọng
Số
lượng
Tỷ
trọng
Quảng Nam 13.150 16,44 150.000 16,67 4.000 40,00
Đà Nẵng 42.740 53,42 650.000 72,22 2.500 25,00
Quảng Ngãi 12.420 15,53 - - 1.000 10,00
Huế 7.671 9,59 - - 1.500 15,00
Phú Yên - - - - 1.000 10,00
Gia Lai – Kontum 4.019 5,02 100.000 11,11 - -
Tổng 80.000 100 900.000 100 10.000 100
Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy:
- Về thị trường xi măng, trong năm 2002 cũng như những năm trước đây thị
trường tiêu thụ của Công ty chủ yếu ở Thành phố Đà Nẵng, và tỉnh Quảng Nam,
chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng sản lượng tiêu thụ, cụ thể Đà Nẵng khoảng 53,42%,
Quảng Nam là 16,44%. Còn những tỉnh thành khác chỉ tiêu thụ được với số lượng nhỏ,
nguyên nhân là do Công ty không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp kinh
doanh trực tiếp ở những nơi này, bởi họ có ưu thế về chi phí cũng như thời gian vận
chuyển. Tuy nhiên trong thời gian đến, việc đẩy mạnh quy hoạch các khu đô thị cũng
như nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng ở các tỉnh Thành phố trong cả nước đang được
Nhà Nước chú ý đầu tư phát triển, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xi măng bởi
đây là nguồn nguyên liệu không thể thiếu trong các công trình xây dựng. Do đó, Công
ty cần có biện pháp để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ xi măng của Công ty hơn nữa.
- Về thị trường vật liệu xây dựng, cũng có nhiều thay đổi trong thời gian qua.
Đến nay, Công ty đã có một số biện pháp thay thế kinh doanh sản phẩm cũ không đạt
hiệu quả cao sang kinh doanh những mặt hàng mới như gạch Tuynen, bê tông thương
phẩm thay cho đá xây dựng, gạch ngói… Chính điều này làm cho thị trường tiêu thụ
của Công ty trong kinh doanh lĩnh vực vật liệu xây dựng cũng có nhiều thay đổi, song
thị trường chủ yếu vẫn là Thành phố Đà Nẵng và Quảng Nam.
- Đối với sản xuất gạch hoa, trong các năm qua tình hình tiêu thụ không có nhiều
biến đổi, vần là tiêu thụ chủ yếu ở địa bàn Đà Nẵng và Quảng Nam với tỷ trọng rất cao
trong tổng sản lượng tiêu thụ. Nguyên nhân là do đối với hoạt động kinh doanh này
trên thị trường đã ở trạng thái bão hoà, không thể nào tăng thêm được nữa. Vì vậy,
Công ty cần có chiến lược phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm này để đẩy
mạnh tình hình kinh doanh của Công ty.
- Đối với các loại gạch khác trong đó chủ yếu là gạch Tuynen, đây là loại sản
phẩm mới nên tình hình tiêu thụ sản phẩm này ở các thị trường chưa được phát triển,
tổng sản lượng tiêu thụ chỉ bằng gần 1% tổng sản lượng kinh doanh, tuy nhiên đây là
mặt hàng mới có nhiều triển vọng phát triển trong tương lai, do đó Công ty cần có
chiến lược thích hợp để quảng bá, đẩy mạnh, mở rộng thị trường tiêu thụ đối với mặt
hàng này.
Ngoài ra, trong những năm gần đây Công ty đã phát triển kinh doanh thêm mặt
hàng bê tông thương phẩm. Mỗi năm tiêu thụ được khoảng 15.000 m3, song thị trường
tiêu thụ chỉ ở địa bàn Thành phố Đà Nẵng do đặc thù của mặt hàng này sản xuất ra để
phục vụ cho các công trình xây lắp của Công ty trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
Về thị trường xây lắp
Phạm vi hoạt động xây lắp của Công ty được Bộ cho phép từ Quảng Bình đến
Bình Thuận. Tuy nhiên trong thực tế thị trường xây lắp của Công ty chủ yếu tập trung
tại Thành phố Đà Nẵng và Quảng Nam.
Hiện nay Công ty đang có quan hệ với một số chủ đầu tư ở Hà Nội và các tỉnh
phía Bắc. Do vậy Công ty đang lập thủ tục xin phép được mở rộng phạm vi hoạt động
xây lắp ở các thị trường trên nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và mở hướng phát triển cho
đơn vị.
Mặt khác theo quy định hiện nay, hình thức giao nhận thầu (chỉ định thầu) rất
hạn chế, chỉ áp dụng cho những công trình có quy mô nhỏ còn hầu hết các đơn vị xây
lắp phải tham gia đấu thầu mới có công trình xây dựng. Điều này càng làm cho Công
ty gặp khó khăn trong hoạt động xây lắp khi đối thủ cạnh tranh có nhiều ưu thế hơn
Công ty. Do đó trong thi công cần chú ý giám sát chặt chẽ chất lượng kỹ mỹ thuật và
đảm bảo an toàn lao động. Ngoài ra cần quản lý chặt chẽ tài chính và công nợ các đội
xây lắp để tránh rủi ro, tiếp tục đầu tư trang thiết bị để đảm bảo khả năng đấu thầu các
công trình có giá trị cao xây lắp cao.
Về khai thác quỹ đất và kinh doanh nhà
Đây là hoạt động quan trọng đóng góp vào doanh thu của Công ty rất lớn song
phạm vị hoạt động của lĩnh vực này chỉ tập trung tại địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Do
đó đây cũng chính là thị trường tiêu thụ chủ yếu của Công ty. Nhờ vào chính sách phát
triển Thành phố, nâng cấp các cơ sở hạ tầng và quy hoạch lại các khu dân cư cũng như
mở rộng đất đai đáp ứng như cầu sử dụng quỹ đất ngày càng tăng của người dân
Thành phố nên hoạt động kinh doanh của Công ty trong lĩnh vực này rất phát triển,
chẳng hạn như Công ty tham gia quy hoạch các khu dân cư Bắc Mỹ An, Thọ Quang
và Phía Tây Nam Hoà Cường, Xuân Hòa A…
Tóm lại, do hoạt động lâu năm trên khu vực thị trường miền Trung, đồng thời với
quy mô sản xuất kinh doanh khá lớn, uy tín và sản phẩm của Công ty được nhiều
khách hàng tín nhiệm và biết đến nhờ một số đặc tính quan trọng như chất lượng của
một số mặt hàng tốt, giá thành nhiều lúc hạ so với các đơn vị khác, cung cách tiếp
khách niềm nở… đã đưa khách hàng tìm đến Công ty và tạo ra mối làm ăn lâu dài với
Công ty. Điều này cho thấy sản phẩm của Công ty có một vị trí nhất định trên thị
trường. Vấn đề định vị sản phẩm đặt ra cho Công ty là làm sao khác biệt với sản phẩm
của các đối thủ cạnh tranh, đồng thời phổ biến vị trí của mình đến với khách hàng mục
tiêu, một khi sản phẩm của Công ty chưa thật sự có ưu thế mạnh hơn so với các đối thủ
cạnh tranh khác. Điều này có thể thực hiện được khi Công ty tập trung nghiên cứu chế
tạo sản phẩm mới có ưu thế hơn so với các sản phẩm trước. Như vậy, thị trường tiêu
thụ của Công ty ở tất cả các lĩnh vực đều tập trung chủ yếu là những thị trường trước
mắt ở miền Trung, nhất là Thành phố Đà Nẵng và Quảng Nam, do vậy chiến lược phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cần tập trung ở địa bàn Thành phố Đà
Nẵng và Quảng Nam. Ngoài ra trong quá trình xây dựng chiến lược Công ty cũng cần
quan tâm đến chính sách của Trung Ương cũng như của Thành phố để có chiến lược
phát triển lĩnh vực khai thác quỹ đất và kinh doanh nhà phù hợp với xu hướng phát
triển chung của đất nước nói chung, Thành phố nói riêng. Từ đó có thể mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa của Công ty.
Bảng 4: Cơ cấu doanh thu của Công ty
ĐVT: triệu đồng
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Loại hình sản xuất
kinh doanh
Doanh
thu
Tỷ
trọng
Doanh
thu
Tỷ
trọng
Doanh
thu
Tỷ
trọng
Kinh doanh xi măng 4.000 11,46 4.000 8,27 4.500 7,99
Sản xuất và kinh doanh vật
liệu xây dựng
2.000 5,73 2.000 4,19 8.500 15.09
Xây lắp 8.000 22,92 12.000 25,13 12.000 21,30
Khai thác quỹ đất và kinh
doanh nhà
20.909 59,89 29.750 62,41 31.336 55,62
Tổng cộng 34.909 100 47.750 100 56.336 100
Qua số liệu trên cho thấy tổng doanh thu của Công ty qua 3 năm tăng tương đối
ổn định, cụ thể năm 2001 tăng 36,78% so với năm 2000, song đến năm 2002
là17,98%, tuy có tăng nhưng ít hơn so với mức tăng của năm trước, nguyên nhân là do
sự biến đổi về doanh thu của từng loại hình kinh doanh chẳng hạn như trong năm 2001
tỷ trọng doanh thu kinh doanh xi măng chiếm 8,27% nhưng sang năm 2002 còn
7,99%, còn sản xuất vật liệu xây dựng năm 2001 chỉ có 4,19% song sang năm 2002 lại
tăng rất cao khoảng 15,09%, sở dĩ có sự tăng đột biến này là do năm 2002 Công ty lập
thêm xí nghiệp bê tông thương phẩm và nhà máy sản xuất gạch Tuynen đưa sản lượng
sản xuất ra nhiều hơn so với các năm 2000 và năm 2001, và quan trọng nhất là lĩnh
vực khai thác quỹ đất năm 2002 giảm còn 55,62% trong khi năm 2001 là 62,41%. Tuy
nhiên, đây chỉ là giảm về tỷ trọng còn về tuyệt đối doanh thu của các lĩnh vực vẫn tăng
đều. Điều này cho thấy hoạt động kinh doanh của Công ty phát triển đều qua các năm
phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế cả nước, song tốc độ phát triển vẫn
chưa ổn định.
Ngoài ra, do nhu cầu của xã hội cũng như điều kiện hiện tại của Công ty mà tỷ
trọng về doanh thu của từng loại hình sản xuất kinh doanh này trong cơ cấu loại hình
sản xuất kinh doanh có nhiều thay đổi, trong đó hoạt động kinh doanh xi măng có xu
hướng ngày càng giảm về tỷ trọng từ 11,76% năm 2000 giảm còn 7,99% song các lĩnh
vực khác lại tăng, nhất là lĩnh vực khai thác quỹ đất và kinh doanh nhà tăng cao nhất,
đem lại lợi nhuận chủ yếu cho Công Ty. Do đó, đây được coi là lĩnh vực giữ vững vị
trí chủ đạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.1.2. Khách hàng
Một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn và có vai trò quyết định nhất đến hiệu
quả của chiến lược kinh doanh cấp doanh nghiệp là yếu tố khách hàng. Chính vì vậy,
trong quá trình xây dựng chiến lược kinh doanh của Công ty thì việc phân tích nhân tố
khách hàng là điều hết sức cần thiết.
Do đặc điểm sản phẩm của Công ty cũng như do việc kinh doanh xi măng - vật
liệu xây dựng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu xây dựng cơ bản nên khách hàng của Công
ty là các đơn vị sản xuất kinh doanh, các tổ chức cá nhân có nhu cầu mua bán và sử
dụng các sản phẩm để phục vụ xây dựng, khách hàng của Công ty có thể chia thành
hai loại:
Khách hàng thường xuyên:
Là những khách hàng mua bán thường xuyên theo hợp đồng với số lượng lớn.
Đây là những khách hàng có mối quan hệ lâu dài với Công ty và có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động của Công ty.
Phần lớn các khách hàng thường xuyên mua với khối lượng lớn, bên cạnh đó do
thường xuyên mua hàng với khối lượng lớn nên Công ty đã có những ưu đãi đặc biệt
đối với các đơn vị, các công trình có vốn xây dựng cơ bản được Nhà Nước cấp, Công
ty thương mại dịch vụ… là những khách hàng thường xuyên mua khối lượng lớn,
chiếm tỷ trọng lớn trong khối lượng hàng hóa Công ty bán ra.
Khách hàng không thường xuyên:
Là những khách hàng chỉ mua sản phẩm của Công ty khi có nhu cầu (chủ yếu là
hộ gia đình, tổ chức…) họ không có hợp đồng mua hàng hoặc có hợp đồng theo từng
thương vụ ngắn hạn như các cửa hàng bán lẻ, các đại lý của Công ty phục vụ các
thương vụ bán lẻ, khách hàng không thường xuyên chiếm tỷ trọng không lớn so với
khối lượng hàng hóa Công ty bán ra.
Việc phân loại khách hàng như trên nhằm giúp Công ty nắm bắt nhu cầu hàng
hóa, có những chính sách về sản phẩm, đạt giá bán thích hợp, và những chính sách
khác đối với từng loại khách hàng, giảm giá, linh hoạt, phương thức thanh toán, giao
nhận, ưu đãi về điều kiện tín dụng.
Khả năng hiểu rõ về từng loại khách hàng là yếu tố bảo đảm cho sự thành công
của Công ty. Trên cơ sở phân loại Công ty có thể biết được khách hàng của mình là
người sản xuất, người bán lại hay các tổ chức khách hàng khác, từ đó có những chính
sách phù hợp để đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh của Công ty.
Bảng5: Khối lượng xi măng – vật liệu xây dựng bán ra giữa hai nhóm khách
hàng năm 2002
Quý
KHÁCH HÀNG ĐVT
I II III IV
Năm
2002
Thường xuyên
- Xi măng
Tấn
10.000
15.000
15.000
20.000
60.000
- VLXD khác 1000 viên 1.363 2.044 2.043 2.725 8.175
Không thường xuyên
- Xi măng
-VLXD khác
Tấn
1000 viên
2.000
273
7.000
954
6.000
816
5.000
682
20.000
2.725
Tổng
- Xi măng
- VLXD khác
Tấn
1000 viên
12.000
1.636
22.000
2.998
21.000
2.859
25.000
3.407
80.000
10.900
Qua bảng trên ta thấy khối lượng xi măng và vật liệu xây dựng bán ra giữa hai
nhóm khách hàng có sự chênh lệch khá lớn, khối lượng sản phẩm do khách hàng
thường xuyên tiêu thụ chiếm khoảng 75% so với khối lượng tiêu thụ của khách hàng
không thường xuyên, nguyên nhân là do Công ty tạo được uy tín mua bán lâu dài đối
với các tổ chức ở những năm trước đó, bên cạnh đó, Công ty cũng rất chú ý đến công
tác tiếp thị cho nhóm khách hàng thường xuyên này vì đây là một trong những khách
hàng quan trọng nhất đối với Công ty.
Ngoài ra, trong năm 2002 tình hình tiêu thụ qua 4 quý cũng có sự tăng giảm khác
nhau. Trong 4 quý thì quý I tiêu thụ thấp nhất cả của khách hàng thường xuyên và
không thường xuyên khoảng 15%, nguyên nhân là do quý này nằm trong dịp Tết nên
nhu cầu xây dựng giảm chủ yếu chỉ phục vụ cho các công trình của năm trước.
Tuy nhiên, đặc trưng của xây lắp và kinh doanh nhà là các sản phẩm có giá trị
cao, thời gian sử dụng lâu dài và nhất là trong điều kiện sống hiện nay, quyền sở hữu
nhà luôn gắn liền với quyền sử dụng đất. Do vậy, trước khi quyết định đầu tư xây dựng
công trình hay mua nhà ở, khách hàng thường lựa chọn theo sở thích và các yếu tố cần
thiết khác như: quy mô công trình, chất lượng xây dựng, mẫu mã kiến trúc, hiệu quả
kinh tế, địa điểm xây dựng, tập quán xã hội,… cùng với khả năng tài chính của khách
hàng và phương thức thanh toán của Công ty.
2.2. Về đối thủ cạnh tranh
Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Công ty trong lĩnh vực kinh doanh xi măng -
vật liệu xây dựng bao gồm:
+ Công ty xi măng vật liệu xây dựng Đà Nẵng.
+ Công ty xi măng Hải Vân.
+ Công ty sản xuất vật liệu xây dựng Nam Sơn.
Ngoài ra còn có Công ty thực phẩm Miền Trung được phép nhập khẩu xi măng
trực tiếp, xí nghiệp gạch cao, nhà máy gạch Đại Hiệp và Công ty kinh doanh vật liệu
xây dựng tư nhân… Trong số đó, mỗi Công ty có thế mạnh riêng nên khi hoạt động
trên cùng thị trường kinh doanh xi măng và vật liệu xây dựng đã tạo ra những lợi thế
kinh doanh khác nhau đối với mỗi mặt hàng, chẳng hạn:
- Công ty xi măng Hải Vân - Đà Nẵng là đơn vị trực tiếp sản xuất và cung ứng xi
măng cho thị trường khu vực miền Trung nên có thể cung cấp trực tiếp xi măng cho
người tiêu dùng với giá rẻ hơn so với giá xi măng Công ty bán ra. Đây chính là lợi thế
so sánh mạnh nhất của Công ty xi măng Hải Vân đối với Công ty, do đó Công ty khó
có thể cạnh tranh được với Công ty này. Hơn nữa, Công ty xi măng Hải Vân vừa là đối
thủ cạnh tranh vừa là nhà cung ứng xi măng cho Công ty nên Công ty cần chú trọng
hơn nữa đến mối quan hệ làm ăn này, Công ty nên tận dụng thời cơ là nhà cung cấp xi
măng truyền thống để đàm phán thu mua xi măng với giá rẻ hơn, đồng thời tìm kiếm
những nhà cung ứng xi măng khác để có sự lựa chọn đa dạng về cung ứng xi măng
cũng như có thể nâng cao doanh nghiệp khả năng cạnh tranh của Công ty.
- Công ty sản xuất vật liệu xây dựng Nam Sơn: là Công ty trực tiếp sản xuất gạch
cung cấp cho thị trường Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Đó cũng là thị
trường tiêu thụ chủ yếu của Công ty do đó thị phần tiêu thụ gạch các loại của Công ty
phải chịu nhường một phần cho Công ty này bởi họ là người sản xuất ra và bán trực
tiếp cho người tiêu dùng nên giá cả có phần rẻ hơn so với của Công ty. Đây chính là
đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Công ty trong hoạt động kinh doanh lĩnh vực gạch các
loại.
- Công ty xi măng vật liệu xây dựng Đà Nẵng: là Công ty tuy không trực tiếp sản
xuất các vật liệu xây dựng song với việc nhập khẩu các nguồn vật liệu xây dựng có
chất lượng cao hơn cũng đã là một lợi thế cao để đánh bại Công ty. Vì vậy, Công ty
cần tìm kiếm nguồn hàng có chất lượng tương đối cao, giá thành thấp hơn để có thể
cạnh tranh được với đối thủ này.
- Ngoài ra, đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Công ty hiện nay còn có Công ty thực
phẩm Miền Trung là công ty được quyền nhập khẩu trực tiếp, chất lượng hàng hóa tốt,
giá cả phải chăng nên Công ty cũng khó khăn trong việc cạnh tranh song do Công ty
này phải nhập khẩu nên chịu thuế nhập khẩu nên giá thành cũng cao hơn của Công ty
rất nhiều do đó Công ty có thể tận dụng lợi thế này để cạnh tranh với Công ty thực
phẩm Miền Trung.
Đối với hoạt động xây lắp và kinh doanh nhà:
So với các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ khác, hoạt động
xây lắp và kinh doanh nhà mang nhiều tính chất đặc trưng. Chẳng hạn, cạnh tranh diễn
ra không chỉ trong quá trình tạo ra sản phẩm mới, giá bán sản phẩm, các dịch vụ yểm
trợ mà còn diễn ra ở một số yếu tố khác như: quy mô công nghệ kỹ thuật, năng lực về
vốn, lao động, thiết bị, chất lượng và thời gian bảo hành sản phẩm, tài sản vô hình.
Ngoài ra, sự cạnh tranh còn diễn ra trực tiếp, gián tiếp ở hiện tại và tương lai. Chính vì
vậy nên đối thủ cạnh tranh trong hoạt động này là rất đa dạng.
Trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, ngoài Công ty vật liệu xây
dựng – xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng còn có 5 đơn vị cùng có chức năng xây lắp
và kinh doanh nhà cạnh tranh rất gay gắt với Công ty, bao gồm:
+ Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng Đà Nẵng.
+ Công ty xây dựng số 5
+ Công ty phát triển đô thị và khu công nghiệp Đà Nẵng.
+ Công ty phát triển và kinh doanh nhà Đà Nẵng.
+ Công ty đầu tư và phát triển nhà Đà Nẵng.
Cả 5 đơn vị nêu trên đều là các đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Công ty trong
hoạt động xây lắp và kinh doanh nhà. Chính những đối thủ này đã ảnh hưởng rất lớn
cản trở Công ty đẩy mạnh hoạt động kinh doanh lĩnh vực này. Tuy nhiên, mỗi đối thủ
cạnh tranh có những lợi thế riêng gây cản trở hoạt động của Công ty, vì vậy Công ty
cần phân tích, đánh giá từng lợi thế mà các đối thủ có thể gây ảnh hưởng đến mình, từ
đó có hướng đi thích hợp cho Công ty. Những lợi thế đó được thể hiện như sau:
- Đối với Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng Đà Nẵng là Công ty hoạt động
mạnh trên địa bàn cả nước nên quy mô hoạt động cũng rất lớn, trong đó ưu thế của
Công ty này là thiết bị hiện đại, vốn lớn, và quy mô công trình rộng, nên đã tạo nhiều
điều kiện cho việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Công ty xây dựng số 5: có nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng các công trình cơ sở
hạ tầng và kinh doanh nhà với địa bàn hoạt động là khu vực miền Trung.
- Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng có lợi thế là được Nhà Nước giao đất và
vốn để phát triển trong phạm vị hoạt động ở khu vực miền Trung
- Công ty phát triển đô thị và khu công nghiệp Đà Nẵng có ưu thế là được Nhà
Nước ưu tiên giao xây lắp các khu công nghiệp, điển hình là khu công nghiệp Điện
Nam - Điện Ngọc.
- Ngoài ra còn có Công ty phát triển và kinh doanh nhà Đà Nẵng và Công ty đầu
tư và phát triển nhà Đà Nẵng cũng có những lợi thế riêng trong hoạt động kinh doanh
nhà trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
Tuy các Công ty này có những đặc thù riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
nhà, song tất cả đều có ưu thế lớn nhất là thuộc doanh nghiệp Nhà Nước với vốn đầu
tư rất lớn, và không có một sự ưu tiên khác biệt nào của Nhà Nước đối với mỗi doanh
nghiệp nên tuỳ vào khả năng của mỗi Công ty mà có thể chiếm ưu thế trong hoạt động
kinh doanh của mình. Chẳng hạn, trong hoạt động kinh doanh, các Công ty này chỉ
kinh doanh chuyên môn hóa một lĩnh vực, đó là xây lắp và kinh doanh nhà; trong khi
đó Công ty do phải hoạt động sản xuất kinh doanh đa ngành nghề: vừa tiêu thụ xi
măng và vật liệu xây dựng vừa phải kinh doanh trong lĩnh vực xây lắp và kinh doanh
nhà nên việc chú trọng chuyên môn hóa sâu một lĩnh vực khó có thể thực hiện được
làm cho sức cạnh tranh của Công ty so với đối thủ này là hoàn toàn yếu hơn.
Hiện nay yếu tố cạnh tranh trở thành then chốt, ngày càng ảnh hưởng đến sản
xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, Công ty cần có những chính sách thích
hợp như phương thức thanh toán linh hoạt, điều kiện tín dụng ưu đãi đối với khách
hàng của mình, cố gắng hạn chế những điểm yếu, khai thác triệt để các điểm mạnh
nhằm mở rộng thị phần.
2.3. Các nhà cung ứng
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty mang tính chất bao hàm cả phương
thức bán sản phẩm, quá trình sản xuất sản phẩm gắn liền với nhu cầu các yếu tố đầu
vào bao gồm nguyên vật liệu, tiền vốn, đất đai, lao động, công nghệ, vật tư… gọi
chung là các yếu tố sản xuất. Do vậy, Công ty cần xác định các mối quan hệ làm ăn lâu
dài với các nhà cung ứng những yếu tố sản xuất này nhằm bảo đảm cho Công ty thực
hiện tốt các quá trình sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, một khi sự cạnh tranh gay gắt, nhu cầu xã hội gia tăng
thì đòi hỏi phải đảm bảo cho sản xuất và kinh doanh là yếu tố cần thiết, vấn đề đặt ra là
Công ty phải tự chủ tìm kiếm nguồn hàng cung cấp cho việc sản xuất và tiêu thụ của
mình, phần lớn các nhà cung ứng cho Công ty là các đơn vị Nhà Nước cung cấp với
khối lượng lớn, ổn định và có quan hệ làm ăn lâu dài.
Đối với mặt hàng xi măng
Trong những năm gần đây nhu cầu xi măng ngày càng tăng cao, song công suất
sản xuất xi măng trong nước hiện nay cũng tăng cao so với những năm 1995, đạt bình
quân từ 10,5 - 14,7 triệu tấn/năm nên đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội.
Tuy nhiên, đối với Công ty việc tìm nguồn cung ứng xi măng còn rất hạn chế, từ giai
đoạn năm 1995 - 1999 cho đến nay Công ty vẫn chỉ quan hệ mua bán với một số nhà
cung ứng nhất định, không tìm kiếm thêm nguồn cung ứng mới nào. Điều này làm hạn
chế khả năng chủ động lựa chọn nhà cung ứng, phải chịu sự chi phối của các nhà cung
ứng. Cụ thể, từ trước đến nay Công ty chỉ quan hệ làm ăn với các Công ty xi măng
Bỉm Sơn, Hải Vân, Hoàng Thạch, Hải Phòng, và Công ty xi măng Đà Nẵng với khối
lượng tiêu thụ ngày càng lớn. Trong đó, Công ty tiêu thụ nhiều nhất là xi măng của
Công ty Hải Vân, Bỉm Sơn, Hoàng Thạch bởi đây là những Công ty sản xuất xi măng
đạt chất lượng cao và giá cả hợp lý cũng như nó thuận tiện trong việc đi lại, vận
chuyển. Ngoài ra, Công ty còn làm đại lý cho Công ty xi măng Hải Phòng.
Tuy nhiên, để thuận lợi trong việc giao dịch đàm phán nhằm thu mua được nguồn
xi măng có giá rẻ hơn mà chất lượng vẫn được đảm bảo cho các công trình xây dựng
cũng như uy tín của Công ty, trong thời gian tới Công ty cần chú trọng tìm kiếm các
nhà cung ứng xi măng mới nhiều hơn nữa. Từ đó có thể sự linh động trong việc lựa
chọn, đàm phán cũng như chủ động ra giá, và yêu cầu một số điều kiện kèm theo có
lợi cho Công ty.
Mặt hàng nguyên vật liệu xây dựng
Công ty không còn nhận chỉ tiêu theo giá chỉ đạo của Nhà Nước từ năm 1992 mà
Công ty tự tìm kiếm nguồn nguyên nhiên liệu, vật tư để chủ động trong sản xuất trên
cơ sở ký hợp đồng lâu dài với các đơn vị cung ứng trong và ngoài Thành phố.
Công ty tổ chức giao nhận hàng tại cầu cảng đối với mặt hàng xi măng và giao
nhận tại cơ sở sản xuất đối với vật liệu xây dựng theo sự thoả thuận giữa Công ty và
nhà cung ứng.
Công ty đã gia tăng khối lượng sản xuất tiêu thụ, năng động trong kinh doanh
trên cơ sở chủ động tìm kiếm được nguồn hàng cung cấp cho kinh doanh và sản xuất,
giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng và tránh ép giá.
Hiện nay có các nhà cung ứng nguyên vật liệu chủ yếu cho Công ty như: các cơ
sở kinh doanh xăng dầu, xí nghiệp cung ứng than Quảng Ninh và một số đơn vị khác
trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam.
Về hoạt động xây lắp
Tham gia cung ứng vật tư cho hoạt động xây lắp của Công ty là các đơn vị sản
xuất xi măng vật liệu xây dựng, các đơn vị kinh doanh sắt, thép, các nhà sản xuất vật
tư trang thiết bị phục vụ công trình trong và ngoài Thành phố Đà Nẵng, trong đó có cả
Công ty, với những sản phẩm vật liệu xây dựng do mình sản xuất và kinh doanh, cùng
tham gia cung ứng vật tư cho công trình như các nhà cung ứng khác. Do đó đòi hỏi
Công ty phải có đầy đủ thông tin về các nhà cung ứng.
Về hoạt động khai thác quỹ đất và kinh doanh nhà
Đất đai dùng để phát triển kinh doanh nhà, hiện tại Công ty đang quản lý với một
diện tích tương đối rộng với 26.000 m2 và khoảng 2ha đất dự phòng đầu tư mở rộng và
đổi mới công nghiệp, trên cơ sở dụng quy hoạch lại các khu dân cư và tổ chức việc đền
bù giải toả, tái định cư cho người dân. Các quỹ đất này là do Nhà Nước giao nên hoạt
động của Công ty hoàn toàn phụthuộc vào Nhà Nước. Hiện nay, với nguồn quỹ đất do
Thành phố quản lý, việc hoạch định sử dụng đất đai để phát triển kinh doanh nhà của
Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn, so với các đơn vị tư vấn thiết kế xây dựng như Công
ty tư vấn thiết kế xây dựng số 7… là các nhà cung ứng các mẫu thiết kế nhà ở, bản đồ
quy hoạch khu dân cư phục vụ cho việc phát triển kinh doanh nhà thì Công ty phải
chịu nhiều thiệt thòi trong việc linh động kinh doanh lĩnh vực này. Nó ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty, nhất là trong giai đoạn 2005 – 2010 do khi
đó, quỹ đất của Thành phố Đà Nẵng ngày càng bị thu hẹp dần. Tuy nhiên, trong thời
gian tới Công ty cũng cần cố gắng để phát triển hơn nữa trong lĩnh vực này bởi nó đem
lại doanh thu lớn nhất trong các lĩnh vực hoạt động của Công ty.
2.4. Các trung gian
Các trung gian là cơ sở kinh doanh hỗ trợ cho Công ty trong việc môi giới bán
hàng và giao hàng của Công ty đến tận tay người tiêu dùng gồm:
Trung gian cung ứng và tiêu thụ
Những cửa hàng được phân bổ các nơi trong Thành phố hoặc các cửa hàng bán lẻ
của Công ty là các trung gian bán hàng, tiêu thụ sản phẩm cho Công ty, các trung gian
này tuy không ràng buộc chặt chẽ với Công ty trong việc tiêu thụ hàng hóa do họ có
đầy đủ phương tiện vận tải, kho bãi, địa điểm thuận lợi và hỗ trợ Công ty khi hàng tiêu
thụ chậm. Để thúc đẩy các trung gian bán hàng tiêu thụ sản phẩm của Công ty nhằm
tăng doanh số và thị phần, Công ty cần bán hàng theo phương thức trả chậm, giảm giá
cho khách hàng mua nhiều.
Trung gian tài chính
Cục đầu tư phát triển Đà Nẵng, Ngân hàng công thương Thành phố Đà Nẵng,
Ngân hàng ngoại thương Đà Nẵng, Ngân hàng đầu tư phát triển và các Ngân hàng cổ
phần khác là các trung gian tài chính của Công ty. Nhờ quá trình làm ăn lâu dài uy tín
kinh doanh và tín dụng, Công ty đã trở thành bạn hàng hàng lớn thường xuyên và được
ưu đãi trong vay vốn với khối lượng lớn để phục vụ sản xuất kinh doanh.
Trung gian vận chuyển
Trung gian vận chuyển của Công ty là các đội xe vận tải Nhà Nước và tư nhân
cộng với các đội xếp dỡ… được Công ty quan hệ thường xuyên, sẵn sàng phục vụ
Công ty chủ động trong việc tập kết hàng về Công ty và các cửa hàng, đưa hàng đến
tay khách hàng, tập kết vật tư đến tận chân công trình.
Trung gian dịch vụ tiếp thị
Đài truyền hình, truyền thanh Đà Nẵng, báo Đà Nẵng, báo Thanh niên, báo Lao
động… là các cơ sở dịch vụ tiếp thị giúp Công ty trong việc quảng cáo trên các
phương tiện truyền thông, báo chí trong khu vực và cả nước. Lực lượng này đã thực
hiện cho Công ty nhiều đợt quảng cáo, đưa tin, bài phản ánh về sự phát triển của Công
ty, giới thiệu và các sản phẩm mới của Công ty, các công trình chất lượng cao.
IV. Phân tích, đánh giá tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất cơ bản trong quá
trình kinh doanh của Công ty
1. Phân tích tình hình sử dụng lao động vào quá trình sản xuất kinh doanh của
Công ty
Tình hình nhân sự tại Công ty trong những năm qua được bố trí, sắp xếp một
cách hợp lý, điều này tạo nên một bộ máy quản lý thật vững chắc và góp phần đưa
Công ty ngày càng phát triển ổn định, điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 6: Đặc điểm nhân sự của Công ty qua 2 năm 2001 – 2002
2001 2002 2002/2001 (%)
* Tổng số lao động
+ Cơ cấu
- Nam
- Nữ
- Gián tiếp
- Trực tiếp
+ Chất lượng
- Đại học
- Trung cấp
- Sơ cấp – CNKT
- Chưa qua đào tạo
+ Thu nhập bình quân
250
175
75
80
170
40
25
185
0
750.000
377
228
149
115
262
50
30
297
0
850.000
150,8
130,29
198,67
143,75
154,11
125,00
120,00
160,54
0
113,33
đầu người (đ/tháng)
Trong tổng số 377 cán bộ công nhân viên toàn Công ty năm 2002, lao động nam
có 228 người chiếm 60,48% tổng số lao động cao hơn so với lao động nữ chỉ có 149
người chiếm 39,52% tổng số lao động và lao động trực tiếp là 262 người chiếm
69,49% cao hơn so với lao động gián tiếp có 115 người chiếm 30,51% Do đặc điểm
xây lắp và kinh doanh nhà, sản xuất vật liệu xây dựng có nhu cầu lao động trực tiếp là
lao động nam nhiều hơn, còn lao động nữ chủ yếu là thợ phụ và tập trung vào lao động
gián tiếp.
Hầu hết cán bộ công nhân viên của Công ty đã qua trường lớp đào tạo, có trình
độ nghiệp vụ khá, tay nghề chuyên môn thành thạo, trong đó:
+ Đại học: 50 người chiếm 13,26% tổng số lao động gồm 35 kỹ sư và 15 cử nhân
kinh tế.
+ Trung cấp: 30 người chiếm 7,96% tổng số lao động.
+ Sơ cấp CNKT: 297 người chiếm 78,78% tổng số lao động.
Như vậy, so với năm 2001, nguồn nhân lực năm 2002 có sự gia tăng về số lượng
cũng như chất lượng, chẳng hạn lực lượng lao động năm 2002 tăng 50,8% so với năm
2001, về chất lượng thể hiện qua trình độ chuyên môn, năm 2002 lao động của Công
ty có trình độ đại học tăng 25%, trung cấp tăng 20%, sơ cấp và công nhân kỹ thuật
tăng 60,54%, Công ty không có lao động chưa qua đào tạo. Điều này cho thấy Công ty
đã rất chú trọng đến nguồn nhân lực của Công ty, phân bổ lao động hợp lý “đúng
người đúng việc”. Đồng thời, Công ty cũng rất quan tâm đến đời sống của người lao
động, thu nhập bình quân tháng ngày càng tăng, cụ thể năm 2002 tăng so với năm
2001 là 13,33%.
Ta biết rằng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định chủ yếu đến kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh nên Công ty cần nhận thức kỹ vấn đề này và có nhiều
biện pháp hơn nữa để nâng cao chất lượng cũng như số lượng nguồn nhân lực của
Công ty.
2. Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố quan trọng, nó góp phần quyết định kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Đối với Công ty, hiện nay
trang máy móc thiết bị có số lượng tương đối lớn, đa dạng, nhãn hiệu phong phú. Tuy
nhiên để đánh giá tình hình khai thác và sử dụng máy móc thiết bị hiện có ta cần phải
xem xét trên các mặt: công suất thiết kế và thực tế huy động, vấn đề này được thể hiện
qua bảng sau:
Bảng7: Hệ thống các máy móc thiết bị của Công ty
ST
T
Loại máy ĐVT
Số
lượng
Công
suất
thiết
kế
Thực
tế
huy
động
Hệ
số
sử
dụng
Năm
trang
bị
1 Hệ máy nghiền sàn CM Hệ 02 6.000 5.100 0,85 1992
2 Máy nén khí Máy 01 5.800 4.930 0,85 1992
3 Máy khoan đá - 01 7.000 6.300 0,90 1992
4 Máy xúc C302 - 01 4.500 3.600 0,80 1990
5 Máy ủi ĐT75 - 01 3.600 2.700 0,75 1989
6 Máy tạo hình gạch - 02 4.500 3.600 0,80 1989
7 Máy cào khô - mịn đất - 02 5.600 4.200 0,75 1987
8 Máy cưa đá - 03 7.000 4.900 0,70 1986
9 Máy mài đá - 05 6.800 5.440 0,80 1989
10 Máy cắt cạnh - 04 4.900 3.675 0,75 1990
11 Máy mài bông - 04 9.600 8.640 0,90 1994
12 Máy đánh màu - 02 7.500 6.868 0.75 1993
13
Máy ép gạch hoa thuỷ
lực
- 02 5.800 5.120 0,80 1993
14 Hệ thống bơm thuỷ lực Hệ 03 10.000 8.000 0,80 1992
15 Máy khâu bao Máy 02 3.600 3.060 0,85 1991
16 Xe tải 75 tấn Chiếc 03 20.000 14.000 0,70 1993
17 Xe tải 15 tấn - 02 30.000 22.500 0,75 1986
18 Xe cẩu PH - 01 40.000 32.000 0,80 1982
19 Xe IFA - 01 42.000 39.000 0.75 2001
20 Trạm trộn ORU + ARA Trạm 02 56.000 47.000 0,90 1996
21 Trạm trộn IMI - 01 49.000 42.520 0,85 1997
22 Máy trộn bê tông Cái 04 42.000 35.000 0,85 1994
- 06 50.000 45.000 0,90 1995
Qua bảng tư liệu trên cho thấy máy móc thiết bị của Công ty trong những năm
gần đây đã được đổi mới khá nhiều, nhưng vẫn chưa loại bỏ những cái cũ. Bảng tư liệu
cho thấy vẫn còn một số máy móc lắp đặt từ những năm 1986 đến nay vẫn còn được
sử dụng mặc dù trong số đó đã được đổi mới, hiện đại hơn. Điều này ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất của Công ty, đồng thời do hạn chế về nguồn vốn nên phải đầu tư
đổi mới từng phần một dẫn đến dây chuyền hoạt động không đồng bộ không mang lại
hiệu quả hoạt động tối ưu nhất.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2002 và năm 2003 Công ty đã đưa
vào sử dụng Xí nghiệp bê tông thương phẩm và Nhá máy gạch Tuynen, Công ty đã
chú trọng đến việc trang bị máy móc thiết bị hiện đại hơn để cho ra những sản phẩm
có chất lượng tốt hơn, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt thì đòi hỏi
Công ty phải chú trọng nhiều hơn đến việc trang bị công nghệ.
Bên cạnh đó tình hình sử dụng máy móc thiết bị của Công ty trong những năm
qua còn tương đối thấp, hầu hết các máy móc không sử dụng hết công suất, với tình
trạng này Công ty cần có biện pháp đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị (cũ) để
nâng cao năng suất lao động, để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, đồng thời có kế hoạch trong công tác sử dụng máy móc
thiết bị để tận dụng hết các công suất.
3. Đặc điểm về mặt bằng sản xuất kinh doanh
Bảng 8: Hiện trạng mặt bằng và sử dụng mặt bằng của Công ty
Địa điểm Tổng diện tích (m2) Sử dụng So sánh (%)
1. Tại trụ sở Công ty 158 -
Nguyễn Chí Thanh
1000 100% 100
2. XN gạch hoa Sơn Trà 51/3 -
Điện Biên Phủ
600 - -
3. XN bê tông thương phẩm –
KCN Hoà Khánh
6.500 - -
4. Nhà máy gạch Tuynen Tam
Phước - Quảng Nam
3000 - -
5. XN KDXM – VLXD 600 - -
6. XN thi công cơ giới 3000 - -
7. Khai thác quỹ đất 58.000 26.000 m2 48,83
Tổng cộng 71.710 45.710 63,74
Qua biểu trên cho thấy hiện trạng sử dụng mặt bằng của Công ty nhìn chung là
rất tốt, bởi vì đại đa số mặt bằng được sử dụng 100%. Tổng diện tích mặt bằng toàn
Công ty là 71.710m2, bao gồm:
- Tại trụ giao dịch chính 158 - Nguyễn Chí Thanh Đà Nẵng có diện tích mặt
bằng là 1000m2 với kết cấu xây dựng khang trang hệ thống làm việc được trang bị khá
hiện đại.
- Xí nghiệp gạch hoa Sơn Trà có tổng diện tích mặt bằng 600 m2 với hệ thống
nhà xưởng, kho vật tư, kho thành phẩm.
- Xí nghiệp bê tông thương phẩm có diện tích 6.500 m2
- Nhà máy gạch Tuynen có diện tích khoảng 3.000 m2
- Xí nghiệp kinh doanh xi măng và vật liệu xây dựng có tổng diện tích là 600
m2 với hệ thống kho bãi có sức chứa lớn gồm 3 kho chính: Khánh dư, Điện biên phủ
và Đa mặn.
- Xí nghiệp thi công cơ giới với diện tích 3000 m2 gồm kho bãi, kho chứa
nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ nhằm phục vụ cho việc thi công các công trình.
- Khai thác quỹ đất với diện tích hiện nay vào khoảng 58.000 m2, với xu hướng
phát triển như hiện nay thì quỹ đất này sẽ tăng rất nhanh do nhu cầu về nhà ở tăng
nhanh, việc xây dựng các cơ sở hạ tầng dẫn đến phải giải toả các khu dân cư và thực
hiện việc tái định cư cho các hộ dân, bên cạnh đó Công ty còn tranh thủ cơ hội để
thắng thầu các dự án đầu tư có vốn tương đối cao để từ đó có thể nâng cao quỹ đất mà
Công ty khai thác.
4. Đặc điểm về vốn sản xuất kinh doanh
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều dựa vào nguồn thu tài chính. Do vậy việc
phân tích tình hình tài chính sẽ giúp ta nắm được một cách khái quát hơn các hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Bảng 9: Vốn sản xuất kinh doanh của Công ty trong 3 năm 2000 – 2002
ĐVT: tỷ đồng
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 So sánh (%)
Loại vốn Giá
trị
TT
(%)
Giá
trị
TT
(%)
Giá
trị
TT
(%)
2001/2000 2002/2001
1. Vốn cố định
- Tự có
- Ngân sách
- Vốn khác
4,5
0,8
0,7
3,0
51,72
9,20
8,04
34,48
5,0
1,1
0,7
3,2
52,63
11,58
7,37
33,68
17,0
8,1
0,7
8,2
77,27
36,82
3,18
37,27
11,11
37,50
-
6,67
240,00
636,36
-
156,25
2. Vốn lưu động
- Tự có
- Ngân sách
- Vốn khác
4,2
1,6
0,7
1,9
48,28
18,40
8,04
21,84
4,5
1,8
0,7
2,0
47,37
18,95
7,37
21,05
5,0
2,1
0,7
2,2
22,73
9,55
3,18
10,00
7,14
12,50
-
5,26
11,11
16,67
-
10,00
Tổng cộng 8,7 100 9,5 100 22,0 100 9,20 131,58
Qua số liệu trên cho thấy:
- Vốn sản xuất kinh doanh năm 2000 và 2001 tăng nhẹ khoảng 9,2% nhưng sang
năm 2002 tăng đột biến rất mạnh, khoảng 131,58% so với năm 2001. Nguyên nhân là
do năm 2002, Công ty có sáp nhập thêm xí nghiệp Bê tông Thương phẩm khoảng 5 tỷ
đồng và nảy sinh từ hoạt động đầu tư phát triển gạch Tuynen khoảng 7 tỷ đồng. Trong
đó:
+ Vốn cố định năm 2002 tăng rất cao so với năm 2001 theo nguyên nhân nêu
trên, còn thực chất năm 2002 không có gì tăng đột biến, chỉ có năm 2001 tăn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thuật ngữ trong kinh doanh hiện đại và việc phổ cập tới các doanh nghiệp việt nam.pdf