Luận văn Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quang Nam

Tài liệu Luận văn Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quang Nam: Luận văn Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quang Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khu kinh tế mở Chu Lai (KKTM )- Khu kinh tế mở đầu tiên của Việt Nam, được Chính phủ thành lập tại Quyết định số 108/2003/QĐ-TTg ngày 5-6-2003 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nhằm thử nghiệm các thể chế, chính sách mới, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, phù hợp với các thông lệ quốc tế qua đó có thêm kinh nghiệm cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và chính trị trong giao thương, dịch vụ quốc tế và trong nước để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam, góp phần tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội cho toàn khu vực miền Trung. Hơn 3 năm xây dựng kể từ ngày thành lập, KKTM Chu Lai đã thu hút được một lượng vốn đầu tư nhất định từ các nguồn vốn trong và ngoài nước. Tuy nhiên so với yêu cầu thu hút đầu tư để phát triển KKTM Chu Lai thì kết quả đạt được còn quá thấp, chưa ...

pdf88 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quang Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quang Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khu kinh tế mở Chu Lai (KKTM )- Khu kinh tế mở đầu tiên của Việt Nam, được Chính phủ thành lập tại Quyết định số 108/2003/QĐ-TTg ngày 5-6-2003 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nhằm thử nghiệm các thể chế, chính sách mới, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, phù hợp với các thông lệ quốc tế qua đó có thêm kinh nghiệm cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và chính trị trong giao thương, dịch vụ quốc tế và trong nước để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam, góp phần tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội cho toàn khu vực miền Trung. Hơn 3 năm xây dựng kể từ ngày thành lập, KKTM Chu Lai đã thu hút được một lượng vốn đầu tư nhất định từ các nguồn vốn trong và ngoài nước. Tuy nhiên so với yêu cầu thu hút đầu tư để phát triển KKTM Chu Lai thì kết quả đạt được còn quá thấp, chưa đủ điều kiện để đẩy mạnh phát triển. Vốn ngân sách nhà nước đầu tư trong hơn 3 năm qua khoảng 900 tỷ đồng, với tiến độ này thì phải mất trên 20 năm mới có thể tạo ra một cơ sở vật chất ban đầu cần thiết cho sự phát triển của KKTM. Các nguồn vốn trong tnước và vốn đầu tư nước ngoài đăng ký khá nhiều (1,4 tỷ USD) nhưng vốn thực tế triển khai thì còn rất thấp (160 triệu USD) chiếm 10% vốn đăng ký- đặc biệt thấp hơn nhiều so với khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi - khu kinh tế cận kề với KKTM Chu Lai. Đây chính là điểm yếu, nếu không được khắc phục kịp thời thì việc xây dựng thành công khu kinh tế mở đầu tiên ở nước ta khó có thể thực hiện được. Làm thế nào để thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư, nguồn vốn ấy ở đâu? bao nhiêu? đang là nỗi trăn trở của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Quảng Nam và của ban Quản lý KKTM Chu Lai. Vì vậy, đề tài " Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quang Nam " được chọn có ý nghĩa về mặt lý luận, đặc biệt là đối với việc phát triển KKTM Chu Lai tỉnh Quảng Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế xã hội nói chung và để phát triển các ngành, các khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Song Khu kinh tế mở - mô hình kinh tế đầu tiên của Việt Nam được triển khai trên địa bàn Chu Lai thuộc tỉnh Quảng Nam, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu với tư cách là một luận văn hoặc luận án. Do vậy đề tài luận văn này không trùng lặp với bất kỳ một công trình nào khác 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Làm rõ các luận cứ khoa học về vốn đầu tư, nhu cầu, khả năng đáp ứng và các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút các nguồn vốn đầu tư vào khu kinh tế mở. - Tìm hiểu một số kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư phát triển khu kinh tế mở của Trung Quốc. - Đánh giá, phân tích tình hình thu hút vốn đầu tư taị khu KTM Chu Lai Tỉnh Quảng Nam. - Đề xuất những giải pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện của khu KTM Chu Lai nhằm thu hút với tốc độ cao hơn vốn đầu tư vào khu KTM Chu Lai trong thời gian đến. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nguồn vốn trong và ngoài nước có thể thu hút được để đầu tư phát triển khu kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Vốn tồn tại dưới nhiều dạng, đề tài nghiên cứu giới hạn ở phạm vi vốn tiền tệ. - Nguồn vốn trong nước được giới hạn ở nguồn vốn ngân sách và có tính chất ngân sách, vốn của các tổ chức tín dụng và vốn doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. - Nguồn vốn nước ngoài tập trung ở nguồn vốn FDI. - Thời gian từ khi thành lập KKTM Chu Lai (2003) đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài - Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng cơ sở phương pháp luận. - Sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và các phương pháp khác của khoa học kinh tế. 6. Những đóng góp của luận văn Về mặt khoa học: Trên cơ sở nghiên cứu về vốn, nhu cầu, khả năng và các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư, đề ra các giải pháp thu hút vốn để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết. Chương 1 VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI TỈNH QUẢNG NAM 1.1. ĐẶC ĐIỂM KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI Khu kinh tế mở (KKTM) Chu Lai là khu vực có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia nhưng có không gian kinh tế riêng biệt, có môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi nhất theo các quy định hiện hành, bao gồm hạ tầng kỹ thuật-hạ tầng xã hội và cơ chế chính sách quản lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, phù hợp với cơ chế thị trường nhằm khuyến khích đầu tư và khuyến khích xuất khẩu [21, tr.2]. So với khu công nghiệp và khu chế xuất KKTM có điểm giống nhau là được áp dụng những chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, các thủ tục hải quan thuế khoá được nới lỏng và giảm nhẹ, cơ chế quản lý thông thoáng,quyền tự quyết của các doanh nghiệp được tôn trọng và phát huy ở mức độ cao. Những quy định này có khác biệt với quy định chung và được Nhà nước cho phép áp dụng riêng. Điểm khác nhau ở chỗ, KKTM có nội dung hoạt động kinh tế rộng, đa dạng hơn, hay còn gọi là mô hình khu trong khu, gồm khu thương mại tự do, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu du lịch, khu đô thị có cả dân cư sinh sống… Một mô hình kinh tế-xã hội tổng hợp. + KKTM là nơi áp dụng các thể chế, cơ chế chính sách mới, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, phù hợp với thông lệ quốc tế cho các loại hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, qua đó có thêm kinh nghiệm cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. - Áp dụng các mô hình, động lực mới cho sự phát triển kinh tế, khắc phục những vướng mắc trong cơ chế và chính sách hiện hành trong khi chưa có điều kiện thực hiện trong phạm vi cả nước. - Phát triển sản xuất,tạo ra những sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng ra thị trường thế giới. - Tạo việc làm, thúc đẩy việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. - Khai thác các lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý kinh tế và chính trị trong giao thương, dịch vụ quốc tế và trong nước để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội cho toàn bộ khu vực miền Trung thu hẹp khoảng cách phát triển giữa khu vực này với các vùng khác trong cả nước. + Tổ chức hoạt động KKTM Chu Lai: KKTM Chu Lai gồm hai khu: Khu phi thuế quan và khu thuế quan. - Khu phi thuế quan thuộc KKTM Chu Lai là khu vực được xác định trong quy hoạch chi tiết gắn với một phần cảng tự do. Khu phi thuế quan có hàng rào cứng ngăn cách với các khu vực xung quanh. Trong khu phi thuế quan không có khu dân cư. - Khu thuế quan là khu vực còn lại của KKTM Chu Lai ngoài khu phi thuế quan.Trong khu thuế quan có các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị, khu du lịch, khu dân cư và khu hành chính. - Hoạt động của khu phi thuế quan gắn với khu cảng tự do thuộc cảng Kỳ Hà,bao gồm các hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu và hàng phục vụ tại chỗ bao gồm cả gia công và tái chế, thương mại hàng hoá bao gồm cả xuất khẩu, nhập khẩu, chuyển khẩu,tạm nhập tái xuất, phân phối siêu thị bán lẻ, thương mại dịch vụ bao gồm phân loại đóng gói,vận chuyển giao nhận hàng hoá quá cảnh, bảo quản, kho tàng, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng... xúc tiến thương mại, bao gồm giới thiệu sản phẩm, hội chợ triển lãm, đặt chi nhánh văn phòng đại diện các công ty trong và ngoài nước và các hoạt động thương mại khác. - Việc quan hệ trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa khu phi thuế quan với nước ngoài và giữa và doanh nghiệp trong khu phi thuế quan với nhau được xem như việc quan hệ trao đổi giữa nước ngoài với nước ngoài. Các tổ chức kinh tế hoạt động trong khu phi thuế quan được xuất khẩu ra nước ngoài và nhập khẩu từ nước ngoài tất cả hàng hoá dịch vụ mà pháp luật Việt Nam không cấm. Hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào khu phi thuế quan hoặc hàng hoá từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài không phải nộp thuế xuất nhập khẩu. Không hạn chế thời gian lưu trữ hàng hoá trong khu phi thuế quan. Đối với khu cảng tự do thuộc cảng Kỳ hà, cho phép tàu nước ngoài được trực tiếp vào làm hàng, không phải làm thủ tục xuất nhập cảnh đối với người, chỉ làm thủ tục đối với tàu tại phao số 0. Hàng hoá ra vào khu thuế quan thuộc KKTM Chu Lai phải tuân theo các quy định của pháp luật về mặt hàng, thuế xuất nhập khẩu nhưng được áp dụng các thủ tục hải quan thuận lợi nhất. Hàng hoá được tự do lưu thông giữa khu thuế quan và nội địa. Quan hệ trao đổi hàng hoá giữa khu phi thuế quan và khu thuế quan trong KKTM Chu Lai và nội địa được coi như trao đổi giữa nước ngoài với Việt Nam, phải tuân theo các quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu. Các cá nhân và tổ chức kinh tế trong khu thuế quan và nội địa chỉ được nhập và xuất từ khu thuế quan và vào khu thuế quan những hàng hóa, dịch vụ mà pháp luật Việt Nam không cấm Hàng hoá nhập từ khu phi thuế quan vào khu thuế quan và nội địa hoặc hàng hoá xuất từ nội địa và khu thuế quan vào khu phi thuế quan phải chịu thuế xuất nhập khẩu và chịu sự giám sát của hải quan cửa khẩu. Nguyên liệu, vật tư hàng hoá do doanh nghiệp trong khu phi thuế quan nhập từ thị trường nước ngoài nhưng không sử dụng hết và các thứ phẩm còn lại có giá trị thương mại được phép bán tại thị trường nội địa sau khi hoàn tất thủ tục hải quan [21, tr.7-8]. Các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu và vận chuyển hàng quá cảnh thực hiện theo các quy định chung. + Cơ chế chính sách đối với khu KTM Chu Lai Cơ chế chính sách có vai trò quyết định trong việc thu hút đầu tư phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, cơ chế thông thoáng với các ưu đãi vượt trội cho phép các nhà đầu tư tìm thấy các lợi ích kinh tế nhiều hơn so với đầu tư vào các khu kinh tế khác. Vì vậy, cơ chế ưu đãi đầu tư vào Chu Lai được ưu đãi trên các mức độ và lĩnh vực sau: - Về chính sách thuế: * Tất cả các dự án đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai được hưởng các ưu đãi tối đa áp dụng đối với địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của luật đầu tư và các ưu đãi khác theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trường hợp về cùng một vấn đề mà các văn bản quy phạm pháp luật quy định các mức ưu đãi khác nhau thì áp dụng mức ưu đãi cao nhất. * Hàng hoá, dịch vụ sản xuất, tiêu thụ trong khu phi thuế quan và hàng hoá dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan không chịu thuế giá trị gia tăng. * Hàng hoá dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được sản xuất, tiêu thụ trong khu phi thuế quan hoặc được nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. * Hàng hoá dịch vụ từ nội địa và khu thuế quan đưa vào khu phi thuế quan được áp dụng thuế suất giá trị gia tăng là 0%. Hàng hoá dịch vụ từ khu phi thuế quan đưa vào khu thuế quan và nội địa chịu thuế giá tri gia tăng theo quy định của pháp luật hiện hành. * Hàng hoá có xuất xứ từ khu thuế quan và nội địa và hàng hoá nhập khẩu vào khu phi thuế quan được miễn thuế nhập khẩu. * Hàng hoá sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp tại khu phi thuế quan có sử dụng nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài khi nhập khẩu vào nội địa Việt Nam chỉ phải nộp thuế nhập khẩu đối với phần nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu cấu thành trong sản phẩm hàng hoá đó. * Các dự án đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai được áp dụng mức thuế ưu đãi cao nhất và thời gian miễn giãm dài nhất trong quyđịnh hiện hành của luật thuế thu nhập doanh nghiệp cụ thể như sau: Thuế suất 10% trong 15 năm từ khi có thu nhập chịu thuế. Được miễn 100% trong 4 năm đầu và giảm 50% cho 9 năm tiếp theo. * Nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị,phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng mà trong nước chưa sản xuất được, được nhập khẩu để tạo tài sản cố định, được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, vật tư linh kiện phục vụ sản xuất trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất - Về sử dụng đất và cho thuê mặt bằng: Toàn bộ diên tích mặt đất, mặt nước đã được quy hoạch dành cho đầu tư phát triển của khu KTM Chu Lai được giao một lần cho BQLKKTM Chu Lai. BQLKKTM Chu Lai tổ chức giải phóng mặt bằng theo quy định chung để giao đất, cho thuê đất đã được đền bù giải toả cho nhà đầu trư.Việc giao và cho thuê đối với từng dự án cụ thể do BQLKKTM Chu Lai quyết định căn cứ vào nhu cầu của dự án không phân biệt quy mô diện tích. BQLKKTM Chu Lai chịu trách nhiệm việc sử dụng có hiệu quả quỹ đất, đã được giao. Các cá nhân, tổ chức kinh tế trong nước được giao đất hoặc thuê đất, các tổ chức và cá nhân nước ngoài được thuê đất để thực hiện dự án đầu tư. Gía cho thuê đất do BQLKKTM Chu Lai quyết định theo từng dự án và từng giai đoạn phù hợp với thực tế và bảo đảm khuyến khích đầu tư trên cơ sở khung giá quy định của Nhà nước. Thí điểm đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án trong đó có quyền sử dụng đất trong việc giao đất cho thuê đất trong khu KTM Chu Lai đối với các nhà đầu tư. Ban quản lý KKTM Chu Lai là cơ quan thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, xác định giá giao, cho thuê đất,miễn giảm tiền thuê đất, giao đất trên cơ sở khung giá và chế độ miễn giảm đươc UBND tỉnh Quảng Nam quy định. - Về thủ tục đầu tư. Thủ tục đầu tư tại KKTM thực hiện theo mô hình “một cửa tại chỗ” thuận lợi cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư đầu tư vào Chu Lai chỉ đến một cửa duy nhất là BQLKKTM tại đây nhà đầu tư được hướng dẫn mọi thủ tục và giải quyết trong thời gian nhanh nhất. Đối với các thủ tục thành lập doanh nghiệp, cấp phép đầu tư, ưu đãi đầu tư thuộc thẩm quyền của ban thì có thể giải quyết trong ngày, trường hợp không thuộc thẩm quyền thì được hướng dẫn chu đáo và trợ giúp chi tiết như các thủ tục về đăng ký mã số thuế, cấp quyền sử dụng đất,... Cách làm này đã giúp rút ngắn thời gian làm thủ tục cho nhà đầu tư, tránh phiền hà nhũng nhiễu và tiêu cực trong bộ máy công quyền làm cho nhà đầu tư yên tâm khi đến với Chu Lai. Để làm được điều đó các bộ ngành Trung ương đã uỷ quyền và phân cấp mạnh cho BQL thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn như sau: Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư trong nước và cấp giấy phép đầu tư nước ngoài. Bộ Thương mại uỷ quyền quản lý hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá formD. Bộ Xây dựng uỷ quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết các khu chức năng trong khu KTM Chu Lai. UBND Tỉnh Quảng Nam uỷ quyền thực hiện một số quyền hạn và nhiệm vụ cuả mình cho BQLKKTM Chu Lai về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, trên địa bàn kinh tế mở. Bộ Tài chính đã ban hành thông tư hướng dẫn chế độ tài chính áp dụng cho KKTM Chu Lai. KKTM Chu Lai được phát triển bằng các nguồn vốn sau đây: + Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ xây dựng cấc công trình kết cấu hạ tầng quan trọng cấp thiết cho sự vận hành của KKTM Chu Lai. + Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. + Vốn của doanh nghiệp và dân cư trong nước: thông qua các dự án đầu tư trực tiếp và các hình thức phát hành trái phiếu công trình hoặc các đối tượng có nhu cầu sử dụng hạ tầng ứng trước một phần vốn. Mở rộng hình thức tín dụng đồng tài trợ. + Vốn nước ngoài: khuyến khích ở mức cao nhất việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm các hình thức đầu tư BOT, BT, BTO… vốn của các tổ chức tín dụng, vốn của các tổ chức cá nhân nước ngoài. Các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội của khu KTM Chu Lai được đưa vào danh mục ưu tiên gọi vốn ODA. Ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho KKTM Chu Lai theo mục tiêu kế hoạch hằng năm. Cho phép BQLKKTM Chu Lai được dùng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Ban Quản lý khu KTM Chu Lai được phép phát hành trái phiếu công trình trong nước để huy động vốn đầu tư. Ban Quản ký KKTM được phép thu phí hoặc lệ phí các công trình hạ tầng tiện ích công cộng trong khu KTM Chu Lai [21, tr.8-9]. + Quản lý nhà nước đối với khu KTM Chu Lai BQLKKTM Chu Lai do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập nhằm thực hiện việc quản lý tập trung thống nhất hoạt động trên các lĩnh vực đầu tư, phát triển kinh tế tại khu kinh tế mở Chu Lai Ban quản lý là cơ quan quản lý nhà nước có tư cách pháp nhân, có con dấu mang hình quốc huy, có biên chế, có kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp, là đầu mối kế hoạch được cân đối vốn vây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước. Trưởng Ban Quản lý KKTM Chu Lai do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Các phó trưởng ban do Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam bổ nhiệm. Các bộ ngành có liên quan ở TW có trách nhiệm phối hợp với UBND tỉnh Quảng Nam uỷ quyền và hướng dẫn để ban quản lý khu KTM Chu Lai thực hiện cơ chế quản lý “một cửa tại chỗ” có hiệu quả. Ban Quản lý KKTM Chu Lai có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Xây dựng quy hoạch tổng thể và điều lệ hoạt động của KKTM Chu Lai trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; lập các quy hoạch chi tiết và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, tổ chức phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết và điều lệ hoạt động. Xây dựng danh mục các dự án đầu tư và kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện. - Cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, chứng chỉ xuất xứ hàng hoá tại KKTM Chu Lai và các chứng chỉ khác theo uỷ quyền cuả cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Giao hoặc cho các nhà đầu tư thuê đất, mặt nước để thực hiện dự án đầu tư. - Xây dựng khung giá và lệ phí trình cơ quan thẩm quyền xem xét ban hành để triển khai thực hiện tại khu kinh tế mở Chu Lai. - Làm đầu mối giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, triển khai và thực hiện các dự án đầu tư tại khu KTM Chu Lai. - Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan trong việc đảm bảo mọi hoạt động trong KKTM phù hợp với quy chế này và điều lệ hoạt động của KKTM Chu Lai. - Thực hiện nhiệm vụ quản lý và sử dụng các nguồn thu ngân sách được đầu tư trở lại trên địa bàn KKTM Chu Lai theo đúng quy định, quản lý các dự án xây dựng bằng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tại khu KTM Chu Lai. - Tổ chức, triển khai, gíơi thiệu, đàm phán,xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. Vai trò khu KTM Chu Lai đối với sự phát triển của tỉnh Quảng Nam: - Một số định hướng lớn và mục tiêu phát triển tỉnh Quảng Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2015: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ 19 xác định một số mục tiêu và chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2006-2010 như sau: + Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 14%/năm. Đến năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 900USD. + Gía trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 28%, các ngành dịch vụ tăng bình quân hằng năm 18%, đến năm 2010 tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 82% GDP. + Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 1.150 triệu USD, tăng bình quân trên 27%/năm. + Tăng tỷ lệ thu ngân sách bình quân hàng năm khoảng 20% đến năm 2010 đáp ứng cơ bản nhu cầu chi thường xuyên của tỉnh. + Giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo còn toàn tỉnh còn dưới 18% theo tiêu chí mới, hoàn thành chương trình xoá nhà tạm trên toàn tỉnh. + Giải quyết việc làm mới khoảng 180.000 lao động; chuyển dịch cơ cấu lao động sang lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm trên 45%... Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Nam đến năm 2015 xác định Quảng Nam phải đạt các tiêu chí cơ bản để đến cuối năm 2015 trở thành tỉnh Công nghiệp [23, tr.3-4]. Để thực hiện mục tiêu xây dựng Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp theo quy hoạch tổng thể được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX xác định vai trò đầu tàu của khu kinh tế mở Chu Lai trong sự phát triển của tỉnh Quảng Nam như sau: “Khu kinh tế mở Chu Lai có vai trò đặc biệt quan trọng, làm đột phá mở cửa và tạo động lực, cần sớm hình thành khu thương maị tự do, phát triển cảng biển Kỳ Hà có quy mô đón được tàu từ 2-3 vạn tấn, phát triển các khu du lịch lớn, các khu dịch vụ,các khu công nghiệp và khu chế xuất, các ngành dịch vụ hàng hải,hàng không, thúc đẩy phát triển sân bay Chu Lai thành sân bay trung chuyển hàng hoá quốc tế. Tích cực phát triển các dịch vụ tài chính, tạo điều kiện tiền đề và từng bước hướng đến hình thành trung tâm tài chính Chu Lai. Song song với chức năng đầu tàu về kinh tế, cần tập trung phát triển Chu Lai thành một trung tâm đào tạo nghề và đào tạo đại học. Quy hoạch, sắp xếp lại dân cư vùng Đông Thăng Bình và Duy Xuyên để triển khai giai đoạn 2 khu KTM Chu Lai trước mắt là triển khai các dự án về du lịch” [8, tr. 47-48]. Vì vậy, tập trung đầu tư xây dựng khu KTM Chu Lai là nhiệm vụ chính trị, kinh tế hàng đầu của tỉnh Quảng Nam trong thời kỳ từ nay đến năm 2010 và 2020. Sự thành công của khu KTM Chu Lai quyết định đến sự thành công của tỉnh Quảng Nam trong vịêc phát triển kinh tế -xã hội. Mọi sự biểu hiện trì trệ, không phát triển hoặc chậm phát triển đều làm phương hại đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam. 1.2. NHU CẦU VỐN ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI Khác với các yếu tố tài nguyên và lao động, các lọai tài sản như máy móc, thiết bị, nhà xưởng và các loại nguyên vật liệu, bán thành phẩm dùng cho sản xuất, mặc dù cũng là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất song bản thân chúng lại là kết quả đầu ra của các quá trình sản xuất trước đó. Nói cách khác, đó là những tài sản được sản xuất ra nhằm để tiếp tục sản xuất ra các loại hàng hoá khác được gọi là tài sản sản xuất. Để có được tài sản sản xuất đó, cần phải tiến hành các hoạt động đầu tư. Đối với các loại tài sản như nguyên liệu, bán thành phẩm thì hoạt động đầu tư đơn giản chỉ là việc bỏ tiền ra để mua sắm chúng. Để tạo ra các sản phẩm như máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất hay cả một nhà máy thì hoạt động đầu tư là một quá trình lâu dài và phức tạp hơn. Toàn bộ số tiền và giá trị các tài sản được đưa vào đầu tư để tạo ra các tài sản sản xuất được gọi là vốn sản xuất. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, sau nhiều năm tích luỹ, toàn bộ vốn cho nền kinh tế là rất lớn và rất đa dạng. Theo mục đích sử dụng, không chỉ có vốn sản xuất trực tiếp phục vụ cho việc sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ hàng hoá, mà còn bao gồm khối lượng đáng kể và phong phú các hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng khác phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Theo hình thức tồn tại cụ thể của vốn, không chỉ có vốn tồn tại dưới dạng vật thể (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, công trình kiến trúc) mà còn bao gồm các loại vốn phi vật thể. Đó là kết quả của các hoạt động đầu tư cần thiết cho hoạt động của nền kinh tế nhưng sản phẩm của nó không tồn tại dưới dạng vật thể mà tồn tại dưới dạng phát minh sáng chế, các giải pháp hữu ích hay đơn thuần chỉ là những khoản đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ngoài ra, vốn còn tồn tại dưới dạng các tài sản tài chính (tiền, các lọai cổ phiếu trái phiếu,các loại công nợ khác). Tiền là tài sản tài chính, cần thiết đảm bảo cho các hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường, liên tục. Còn các loại cổ phiếu, trái phiếu các loại công nợ khác là phương thức để chuyển tiết kiêm thành đầu tư. Tuy nhiên loại vốn này chỉ được xem xét dưới góc độ doanh nghiệp. Tóm lại, vốn là kết quả của đầu tư để tạo các tài sản nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, vốn chủ yếu tồn tại dưới hình thức máy móc, thiết bị, nhà xưởng... và hàng tồn kho [11, tr.136-137]. Trong nền kinh tế mở, vốn cho sự đầu tư phát triển của một quốc gia chủ yếu được cung ứng từ các nguồn lực tài chính sau đây: + Các nguồn vốn trong nước: Nguồn vốn trong nước thể hiện sức mạnh nội lực của một quốc gia. Nguồn vốn này có ưu điểm là ổn định, bền vững, chi phí thấp, giảm thiểu được rủi ro và hậu quả xấu đối với nền kinh tế do những tác động từ bên ngoài. Nguồn vốn trong nước chủ yếu được hình thành từ các nguồn tiết kiệm trong nền kinh tế. Mặc dù, thời đại ngày nay các dòng vốn nước ngoài ngày càng trở nên đặc biệt không thể thiếu được đối với các nước đang phát triển, nhưng nguồn vốn từ tiết kiệm trong nước vẫn giữ vị trí quyết định. - Tiết kiệm của ngân sách: Là tổng chênh lệch dương giữa tổng các khoản thu mang tính không hoàn lại (chủ yếu là thuế) với tổng chi tiêu dùng của ngân sách. Tiết kiệm ở khâu tài chính này sẽ hình thành nên nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Đối với các nước đang phát triển, do tiết kiệm của nền kinh tế bị hạn chế bởi yếu tố thu nhập bình quân đầu người. Cho nên để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và mở rộng đầu tư đòi hỏi phải giá tăng tiết kiệm NSNN trên cơ sở kết hợp chính sách thuế và chi tiêu. - Tiết kiệm doanh nghiệp: Là số lãi ròng có được từ kết quả kinh doanh. Đây là nguồn cơ bản để các doanh nghiệp tạo vốn cho đầu tư phát triển. Quy mô tiết kiệm của doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố trực tiếp như: hiệu quả kinh doanh, chính sách thuế, sự ổn định kinh tế vĩ mô… - Tiết kiệm dân cư: Là khoản tiền còn lại của thu nhập sau khi đã phân phối và sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Quy mô tiết kiệm khu vực dân cư chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố trực tiếp như: trình độ phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, chính sách lãi suất, sự ổn định kinh tế vĩ mô… Trong nền kinh tế thị trường, số tiền tiết kiệm của khu vực dân cư có thể chuyển hoá thành nguồn vốn đầu tư thông qua các hình thức như: gửi tiết kiệm vào các tổ chức tín dụng, mua chứng khoán trên thị trường tài chính, trực tiếp đầu tư kinh doanh. Có thể nói, tiết kiệm khu vực dân cư giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống tài chính. Nếu tiết kiệm ngân sách không đáp ứng nhu cầu chi đầu tư thì buộc nhà nước phải tìm đến nguồn vốn của khu vực này để thoả mãn băng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. + Các nguồn vốn ngoài nước: So với nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài có ưu thế là mang lại ngoại tệ cho nền kinh tế. Tuy vậy, nguồn vốn này luôn chứa ẩn những nhân tố tiềm tàng gây bất lợi cho nền kinh tế, đó là sự lệ thuộc, nguy cơ khủng hoảng nợ sự tháo chạy đầu tư, sự gia tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm trong nước… Như vậy, vấn đề huy động vốn nước ngoài đặt ra những thử thách không nhỏ trong chính sách huy động vốn của các nền kinh tế đang chuyển đổi, đó là: Một mặt phải ra sức huy động vốn nước ngoài để đáp ứng tối đa nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá; mặt khác phải giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn nước ngoài để ngăn chặn khủng hoảng. Để vượt qua những thách thức đó, đòi hỏi nhà nứơc phải sử dụng tốt các công cụ tài chính trong việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi cho sự vận động vốn nước ngoài, điều chỉnh và lựa chọn các hình thức thu hút vốn sao cho có lợi cho nền kinh tế. Vốn nước ngoài có thể thu hút được dưới các hình thức sau: - Tài trợ phát triển chính thức (ODA): Đây là nguồn vốn thuộc chương trình hợp tác phát triển do Chính phủ các nước ngoài hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức liên Chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ. Nguồn vốn ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại, các khoản cho vay ưu đãi, - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đây là nguòn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào một nước để đầu tư trực tiếp bằng việc tạo ra những doanh nghiệp. FDI trong những thập kỷ qua đã tăng rất nhanh, tốc độ tăng trung bình của toàn thế giới là 24% thời kỳ 1986-1990 và 32% vào đầu thập kỷ 90. Điều này minh chứng rằng, FDI đã và đang trở thành hình thức huy vốn đầu tư nước ngoài phổ biến ở nhiều nước đang phát triển khi mà các luồng dịch chuyển vốn từ các nước phát triển đi tìm cơ hội đầu tư ở nước ngoài để gia tăng khai thác về lợi thế so sánh [18, tr.15-16]. Mục đích của việc xây dựng các khu kinh tế tự do hay khu kinh tế mở là nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội tại một khu vực hay một địa bàn kinh tế được quy hoạch. Nhà nước chủ trương xây dựng khu KTM Chu Lai nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển khu kinh tế này làm điểm tựa lôi kéo và thúc đẩy phát triển kinh tế của khu vực miền Trung theo yêu cầu hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Do vậy, khu KTM Chu Lai là khu kinh tế đặc biệt, đó là khu kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định sản phẩm sản xuất theo công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến, có khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế phù hợp với xu thế hội nhập. Để có thể thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài, thì ngoài việc có một cơ chế chính sách đầu tư thông thoáng, hấp đẫn đối với các nhà đầu tư thì việc xây dựng một kết cấu hạ tầng đồng bộ đảm bảo các tiện ích phục vụ cho các nhà đầu tư là điều không thể thiếu đối với các khu kinh tế. Nguồn vốn để đầu tư xây dựng khu KTM Chu Lai được chính phủ xác định cụ thể như sau: - Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng cấp thiết cho sự vận hành của KKTM. Đây là nguồn vốn có tính chất kích thích thường không lớn, dùng để đầu tư cho một số ít các công trình trọng điểm có tính kích nổ cho khu kinh tế - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Đây là nguồn vốn ưu đãi được Nhà nước cho vay với lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài thường được vay để đầu tư xây dụng kết cấu hạ tầng hoặc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thông qua quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước hoặc ngân hàng phát triển. Nguồn vốn này thường không lớn và có các điều kiện đảm bảo khi vay. - Vốn doanh nghiệp và dân cư trong nước: Thông qua các dự án đầu tư trực tiếp và các hình thức phát hành trái phiếu công trình hoặc các đối tượng có nhu cầu sử dụng kết cấu hạ tầng ứng trước một phần vốn. - Vốn nước ngoài: Đây là nguồn vốn được khuyến khích ở mức cao nhất nhằm thu hút đầu tư là nguồn vốn chính,quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất, quyết định sự thành công của khu kinh tế, bởi lẽ việc xây dựng khu kinh tế nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu. Vốn nước ngoài được thu hút bao gồm vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp bằng nhiều hình thức như:BOT, BT, BTO….[21, tr.10] + Khả năng của tỉnh Quảng Nam về vốn đầu tư cho khu kinh tế mở Chu Lai. Tỉnh Quảng Nam được tái lập từ năm 1997, đến nay vẫn còn là một trong những tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người dưới mức bình quân chung của cả nước, GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt hơn 400USD, kế hoạch đến năm 2010 là 900USD đạt mức bình quân chung cả nước [8, tr. 43]. Thu ngân sách chưa đảm bảo chi thừơng xuyên, hàng năm phải nhờ trợ cấp ngân sách của TW và nằm trong khu vực phát triển đầy khó khăn, cho nên nguồn lực tài chính của Quảng Nam sẽ không đảm bảo để phát triển chính mình mà chủ yếu phải dựa vào bên ngoài bao gồm các nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách TW, các nguồn có tính chất ngân sách, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các loại vốn đầu tư cần thu hút để xây dựng khu kinh tế mở bao gồm: + Vốn bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng và xây dựng các khu tái định cư. Bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tạo ra mặt bằng phục vụ cho nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội, cũng như các dự án đầu tư phát triển kinh tế của các nhà đầu tư trong khu kinh tế mở. Vốn này có đặc điểm là phải dùng tiền mặt với số lượng lớn, thanh toán một lần và không được chiếm dụng dây dưa, không sinh lợi trực tiếp, khó huy động. Nguồn vốn này được đầu tư cho các công việc cụ thể như: chi tiền bồi thường thiệt hại về đất đai, nhà cửa, công trình kiến trúc của nhân dân, tổ chức khi có công trình, đất đai bị thu hồi trong các khu kinh tế. Đồng thời, nguồn vốn này còn dùng để xây dựng các khu tái định cư, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho nhân dân trong vùng bị giải toả, xây dựng các công trình hạ tầng đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong khu dân cư mới. Với tổng diện tích quy hoạch xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai trên 30.000ha trong đó hơn 50% đất đai phải bồi thường thiệt hại cho nhân dân, hàng chục ngàn hộ dân phải di dời giải toả trắng đến nơi ở mới, đòi hỏi phải có việc làm ổn định và ổn định đời sống, hàng loạt các khu dân cư mới mang tính chất đô thị ra đời, các khu dân cư nông thôn, các làng chài mới phải được hình thành để thay thế cho các làng cũ bị giải toả, các công trình hạ tầng kỹ thuật- xẫ hội cần phải được xây dựng. Điều đó đòi hỏi Chu Lai cần một lượng vốn rất lớn để thực hiện công tác quan trọng này + Vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội: Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc đóng vai trò nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế xã hội, được diễn ra một cách bình thường. Kết cấu hạ tầng có vai trò to lớn trong sự phát triển khu kinh tế, nó đảm bảo những điều kiện vật chất thuận lợi nhất để các cơ sở sản xuất và dịch vụ hoạt động có hiệu quả, không có một kết cấu hạ tầng hoặc có nhưng không đồng bộ, chất lượng kém thì không thúc đẩy sản xuất phát triển có khi còn tác dụng ngược lại. Vì vậy, kết cấu hạ tầng là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, một khu kinh tế Kết cấu hạ tầng có tính chất hệ thống và đầu tư đồng bộ, thì mới phát huy tác dụng được. Vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng thường rất lớn bao gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội như: Giao thông, điện, cấp thoát nước, Bưu chính viễn thông, xử lý môi trường, trường học, bệnh viện các khu dân cư đô thị, các khu công nghiệp... Vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong khu kinh tế mở Chu Lai nhu cầu hàng tỷ USD - Nguồn vốn đáp ứng cho phát triển kết cấu hạ tầng phải được huy động từ nhiều nguồn khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất khác nhau của các công trình. Các công trình kết cấu hạ tầng dùng chung, không trực tiếp sinh lợi, thường được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, các công trình hạ tầng có tính chất riêng lẽ hoặc chỉ có tác dụng trong một pham vi nhất định, có sinh lợi thì được huy động từ nguồn vố vay, vốn của các doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng. Trong điều kiện mới được thành lập, kết cấu hạ tầng ban đầu còn thiếu, khả năng tài chính hạn chế trong khi đó yêu cầu xây dựng KKTM đòi hỏi phát triển nhanh. Vì vậy, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng trong KKTM Chu Lai là một vấn đề vừa mang tính chất cấp bách trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài. + Vốn phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ: Mục tiêu quan trọng hàng đầu của việc đầu tư xây dựng KKTM Chu Lai là nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư từ trong và ngoài nước nhằm đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh doanh, các loại hình dịch vụ với nhiều hình thức đầu tư khác nhau nhằm biến khu vực Chu Lai thành nơi phát triển sôi động, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá có giá trị xuất khẩu cao. Suy cho cùng việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng hoàn thiện và đồng bộ, việc xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi đặc thù, việc thiết lập một bộ máy hành chính năng động, hoạt động có hiệu quả, việc tạo ra một môi trường đầu tư, hấp dẫn đều nhằm mục tiêu thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội. Vốn đầu tư thu hút ngày càng nhiều, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng cao điều đó càng đánh giá sự thành công của các khu kinh tế. Với mục tiêu phát triển khu kinh tế theo mô hình khu trong khu, với nhiều khu chức năng như: khu công nghiệp, khu đô thị, khu du lịch, khu thương mại tự do, các trung tâm đào tạo,các khu vui chơi giải trí đặc biệt. Vì vậy, nhu cầu thu hút vốn đầu tư trong khu kinh tế là rất lớn cho giai đoạn trước mắt và lâu dài. Vốn đầu tư trong lĩnh vực này là vốn đầu tư sinh lợi trực tiếp, thường được đầu tư từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước, họ có thể là các cá nhân hay tổ chức hay pháp nhân khác hình thành theo quy định của pháp luật hiện hành. Ngoài ra, trong khu kinh tế mở còn có nhu cầu vốn để xây dựng các khu đô thị theo quy hoạch,vừa đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển các khu dân cư nguồn vốn này được huy động chủ yếu thông qua các chủ đầu tư kinh doanh đô thị, hoặc là huy động từ các loại trái phiếu như trái phiếu công trình đô thị. Tóm lại, nhu cầu vốn đầu tư xây dựng và phát triển khu kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam là rất lớn nó bao gồm nhiều chủng loại khác nhau,ứng với mỗi loại vốn khác nhau thì có các nguồn thu hút đầu tư cũng khác nhau phù hợp với tính chất và đặc điểm của vốn. Vì vậy, tìm kiếm khả năng thu hút vốn đầu tư và thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai là nhiệm vụ có ý nghĩa cấp bách chiến lược cần phải được khẩn trương triển khai thực hiện 1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI Thu hút vốn đầu tư nói chung, thu hút vốn đầu tư vào KKTM Chu Lai nói riêng chịu tác động bởi nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, cụ thể như sau: 1.3.1. Môi trường chính trị xã hội Sự ổn định chính trị xã hội đóng vai trò quyết định đối với việc thu hút vốn đầu tư. Ổn định chính trị luôn là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà đầu tư nước ngoài, vì có ổn định chính trị thì các cam kết của Chính phủ nước chủ nhà với các nhà đầu tư về sở hữu vốn,các chính sách ưu tiên định hướng phát triển mới được thực hiện. Đây là những vấn đề có thể nói, được nhà đầu tư quan tâm nhất vì nó tác động mạnh đến các yếu tố rủi ro trong đầu tư, tất nhiên trong hoạt động đầu tư, nhất là hoạt động đầu tư nước ngoài là phải chấp nhận mạo hiểm, nhiều khi mạo hiểm và độ rủi ro cao lại đi liền với một tỷ suất lợi nhuận cao. Ảnh hưởng của môi trường chính trị xã hội thể hiện rõ ràng ở các nước có nền chính trị ổn định đã thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng như: dòng vốn FDI đổ vào các nước Singapore, Malaisia, trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ 20 nhiều hơn hẳn vào Thái Lan và Philipin, tình hình đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc, Việt Nam trong những năm gần đây cũng ngày càng tăng lên với tốc độ cao điều đó tiếp tục khẳng định giữ ổn định chính trị ngày càng trở nên quan trọng hàng đầu trong thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài và ngay cả khi đã đầu tư vào một nước nào đó mà tình hình chính trị mất ổn định thì khả năng các nhà đầu tư phải tính đến là có nên tiếp tục đầu tư hay chuyển đến một nơi khác an toàn hơn. Kinh nghiệm cho thấy nhiều quốc gia có lợi thế to lớn về tài nguyên thiên nhiên, về thị trường rộng lớn song lại gặp khó khăn về thu hút đầu tư do có xung đột về chính trị. Vì vậy, sự ổn định về chính trị là yếu tố đầu tiên để nhà đầu tư xem xét quyết định có đầu tư hay không. 1.3.2. Cơ chế chính sách và thủ tục hành chính Cơ chế chính sách là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của môi trường đầu tư. Cơ chế chính sách tiến bộ, hấp dẫn, có lợi ích cao, phù hợp với thông lệ quốc tế là một tiêu chí quan trọng để nhà đầu tư lựa chọn quyết định đầu tư. Cơ chế chính sách chính là hệ thống pháp luật được Nhà nước ban hành nhằm khuyến khích đầu tư bao gồm các ưu đãi đầu tư và các biện pháp đảm bảo cho các ưu đãi được thực hiện trên thực tế. Cùng với hệ thống cơ chế chính sách về đầu tư, đi liền với nó là một môi trường pháp lý đồng bộ, thể hiện ở các định chế pháp lý hoàn thiện như: Hiến pháp, toà án kinh tế, trọng tài kinh tế, hệ thống kiểm toán quốc gia... Cùng với phương thức vận hành của chúng,môi trường pháp lý hòan thiện phù hợp với thông lệ quốc tế, một mặt tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm trong hoạt động, mặt khác đó cũng chính là căn cứ và công cụ hữu hiệu để nhà nước kiểm soát các hoạt động đầu tư nước ngoài. Chính từ các vấn đề có tính nguyên tắc nêu trên yêu cầu đỏi hỏi phải phát triển hệ thông thông tin, dịch vụ tư vấn pháp lý nhanh chóng và chuẩn xác, trung thực giúp cho hoạt động đầu tư và quản lý đầu tư nước ngoài vừa đúng hướng vừa chặt chẽ đồng thời tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Cùng với cơ chế chính sách ưu đãi, thông thoáng cần phải có thủ tục hành chính đơn giản, dễ thực hiện, ít khâu trung gian và thời gian thực hiện ngắn. Để có được một thủ tục như vậy, ngoài việc có một hệ thống văn bản pháp luật khoa học quy định rõ ràng rành mạch trách nhiệm của các chủ thể, cần xây dựng một quy trình làm việc khoa học với một đội ngũ cán bộ công chức viên chức có trình độ chuyên môn cao, một tinh thần trách nhiệm tận tuỵ và có chế độ khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh.Thủ tục hành chính gọn nhẹ cho phép giải quyết mọi công việc nhanh chóng vừa tiết kiệm thời gian vừa tránh được lãng phí và tạo được niềm tin cho nhà đầu tư, điều đó cũng nói lên trình độ tổ chức và quản lý quốc gia hoặc địa bàn của các cấp chính quyền từ TW đến địa phương. Ở các nước phát triển môi trường pháp luật hoàn thiện,nền hành chính được cải cách và đội ngũ công chức được chuyên nghiệp hoá cao nên thủ tục hành chính tương thích với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong khi đó ở các nước đang phát triển, pháp luật chưa đồng bộ, chất lượng chưa cao, nhiều lĩnh vực chưa có quy định, thậm chí còn có sự chồng chéo nhau. Đội ngũ cán bộ công chức chưa được đào tạo bài bản. Đặc biệt tinh thần trách nhiệm và tệ nạn tham nhũng đang còn phổ biến và nghiêm trọng đang là một thách thức trong tiến trình phát triển của đất nước nói chung và thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. Vì vậy, cải cách thủ tục hành chính thực hiện mô hình “một cửa tại chỗ" nhằm rút ngắn thời gian giải quyết công việc, là một trong những tiêu chí đánh giá môi trường đầu tư của các quốc gia và từng địa phương. Có thể nói rằng cơ chế chính sách và thủ tục nói riêng, môi trường pháp lý nói chung là điều kiện có tính chất cốt lõi để thu hút các nhà đầu tư. Kinh nghiệm thành công của nhiều quốc gia trên thế giới trong quá trình cải cách hội nhập cho thấy: Quốc gia nào có chính sách cởi mở, thông thoáng,thủ tục hành chính được thuận tiện thì thu hút vốn đầu tư lớn. Trung Quốc bằng chính sách xây dựng các đặc khu kinh tế ven biển với nhiều ưu đãi vượt trội nên trong một thời gian các khu kinh tế này đã tạo nên một sức phát triển thần kỳ làm cơ sở cho Trung Quốc đẩy mạnh cải cách mở cửa đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nên một Trung Quốc phát triển nhanh như ngày nay. 1.3.3. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội Từ hoạt động FDI, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đi đến nhận xét: "ưu đãi thuế cũng tốt nhưng không tốt bằng cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội và đơn giản hoá thủ tục đầu tư”. Bởi lẽ, hoạt động kinh tế, hoạt động đầu tư bao giờ cũng tồn tại trong một môi trường kinh tế xã hội nhất định. Môi trường xã hội gắn với một cộng đồng người với những phong tục, tập quán, lối sống, có thể bao gồm nhiều dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Môi trường kinh tế phụ thuộc vào nhiều nhân tố như tài nguyên thiên nhiên, cơ cấu kinh tế… trong đó kết cấu hạ tầng kinh tế đóng vai trò quan trọng. Do vậy, chỉ khi xây dựng được một kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội phù hợp, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thì mới có thể thu hút vốn đầu tư nói chung và nguồn vốn FDI nói riêng Hệ thống hạ tầng tác động trực tiếp đến hiệu quả đầu tư, hệ thống hạ tầng đồng bộ, chất lượng tốt trực tiếp làm giảm chi phí đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh, vì vậy sẽ mang lại lợi nhuận cao đáp ứng được mục tiêu của các nhà đầu tư. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, nhiều quốc gia quan tâm đến việc xây dựng không chỉ kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ hiện đại như hệ thống giao thông, năng lượng, bưu chính viến thông, cấp thoát nước, hệ thống kho tàng, bến bãi... mà còn quan tâm đến việc xây dựng nhà cửa, trường học cho gia đình và con em của các nhà đầu tư có nơi sinh hoạt và học tập để các nhà đàu tư yên tâm làm việc lâu dài. Ở Singapore còn cho phép các nhà đầu tư và gia đình họ cư trú dài hạn hoặc nhập quốc tịch Singapore khi đầu tư vào đây với một số vốn theo quy định, coi đó như một chính sách đòn bẩy. Vì vậy, quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong việc phát triển kinh tế ở một quốc gia hay trong một khu kinh tế. 1.3.4. Nguồn nhân lực Lịch sử loài người đã chứng minh vai trò quyết định của lao động với sự phát triển kinh tế xã hội. Ngày nay khoa học công nghệ phát triển cao, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, nhưng cũng không thể thay thế được vai trò của con người. Hơn nữa, nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ, thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế. Quá trình đó, có thể nhấn mạnh vai trò của nguồn lực lao động ở những khía cạnh sau: + Lao động là nhân tố quyết định cho việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Khi phân tích các bộ phận cấu thành nguồn lực phát triển kinh tế, hầu hết các quốc gia đều khẳng định các nguồn lực chủ yếu là lao động, tài nguyên thiên nhiên,vốn và khoa học công nghệ. Nhưng cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc tái tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại. Không dựa trên nền tảng phát triển cao của nguồn lao động về thể chất, trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, lòng nhiệt tình thì không thể sử dụng hợp lý các nguồn lực trên. Thậm chí thiếu nguồn lực lao dộng chất lượng cao có thể làm lãng phí, cạn kiệt và huỷ hoại các nguồn lực khác. + Lao động là một bộ phận của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Chi phí lao động, mức tiền công thể hiện sự cấu thành của nguồn lực trong hàng hoá dịch vụ. Như vậy, chi phí nguồn lực lao động trở thành mhân tố cấu thành mức tăng trưởng của nền kinh tế. Hơn nữa, là một bộ phận dân số, nguồn lao động tham gia tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ xã hội. Như vậy, với tư cách là một bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Nguồn lao động không chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia, mà còn là điều kiện bắt buộc trong quá trình phát triển các khu kinh tế. Để xây dựng và phát triển khu kinh tế, nguồn lao động tại chỗ đáp ứng đủ về số lượng, đảm bảo yêu cầu về chất lượng là vô cùng quan trọng là tiêu chí hàng đầu sau khi nhà đầu tư quyết định đầu tư vào đó. Bởi lẽ, ngoài việc phải đáp ứng nguồn nhân lực một cách thông thường để vận hành hoạt động của các nhà máy công ty trong khu kinh tế, vấn đề đặt ra hiện nay là phải đảm bảo các yếu tố cạnh tranh và nâng cao hiêụ quả đầu tư của các doanh nghiệp. Cho nên địa bàn nào, khu vực nào có nguồn lao động dồi dào, đội ngũ cán bộ, công nhân được đào tạo cơ bản, điều kiện sinh hoạt cho công nhân, cán bộ kỹ thuật càng thuận lợi càng thu hút càng dễ dàng hơn các nhà đầu tư đến với khu vực đó, đây là tiêu chí cạnh tranh đồng thời cũng là môi trường đầu tư quan trọng cần phải được hoàn thiện. Vì vậy, đảm bảo một nguồn lao động dồi dào về số lượng, phù hợp về cơ cấu ngành nghề và có chất lượng cao là điều kiện không thể thiếu đối với việc phát triển các khu kinh tế trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và nhân tố con người trở thành quyết định hơn bao giờ hết. 1.3.5. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nguồn tài nguyên Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nguồn tàì nguyên thiên nhiên có tầm quan trọng to lớn trong việc thành công hay thất bại trong việc xây dựng khu kinh tế. Việc xác định đúng vị trí để xây dựng các khu kinh tế có ý nghĩa quyết định 50% của sự thành công 50% còn lại phụ thuộc vào vai trò còn lại của các nhân tố khác. Dễ dàng nhận thấy vị trí địa lý chính là môi trường đầu tư tự nhiên mà thiên nhiên tạo ra cho con người, điều kiện ấy thoả mãn các yêu cầu của sự phát triển, nếu thoả mãn ngày càng nhiều các điều kiện thì sự thuận lợi càng lớn và ngược lại. Để xác định một vị trí cho một khu kinh tế người ta thường dựa vào nhiều tiêu chí song về mặt địa lý kinh tế thì đó là nơi phải hội tụ được các yếu tố cơ bản sau: - Trước hết đó phải là nơi có điều kiện giao thông thuận lợi nhất là cảng biển nước sâu, gần với đường hàng hải quốc tế, nơi thông thương với các quốc gia và vùng lãnh thổ về các quan hệ buôn bán trao đổi. Lịch sử phát triển việc buôn bán trên thế giới đã khẳng định cảng biển là nơi khởi đầu cho sự phát triển của nền ngoại thương từ thời kỳ chủ nghĩa trọng thương cho đến thời kỳ mở cửa hội nhập hiện nay. Cảng biển nước sâu bao giờ cũng là nhân tố hàng đầu cho sự phát triển, đó không chỉ đơn thuần về mặt giao thương mà còn là điều kiện để giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Cùng với sự cần thiết của cảng biển, trong điều kiện ngày nay khi khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khi các quốc gia hình thành ngày càng nhiều các khu kinh tế với các chức năng kinh doanh tổng hợp như các mô hình các đặc khu kinh tế, các khu kinh tế mở, các khu kinh tế tự do thì yếu tố sân bay đã trở thành tiêu chí không thể thiếu trong sự phát triển của các khu kinh tế. - Đồng thời hệ thống đường bộ nối liền giữa các vùng trong một quốc gia hoặc nối liền giữa các quốc gia cũng là nhân tố cần thiết cho sự phát triển. Hệ thống đường bộ bao gồm đường sắt và đường bộ nội vùng và liên vùng. - Một điều kiện không kém phần quan trọng nơi xây dựng khu kinh tế phải gần với các trung tâm đô thị phát triển hoặc đầu mối thương mại để vừa là cơ sở hậu cần cho sự phát triển về các mặt: tiêu thụ hàng hoá, cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, nguồn lao động và các hạ tầng kinh tế - xã hội khác. Tất nhiên ở những vị trí địa kinh tế thuận lợi như vậy thì bao giờ đi liền với nó cũng có những khu vực kinh tế phát triển kèm theo. Thực tế xây dựng các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc cho thấy việc chọn địa điểm cho các đặc khu có tính chất quan trọng đầu tiên. Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến có ưu thế đặc biệt về cảng biển và sân bay quốc tế, hệ thống giao thông, đặc biệt Thẩm Quyến chỉ cách Kowloon thuộc trung tâm kinh tế tầm cỡ thế giới của Hồng Kông có 32km, cách Quảng Châu - thủ phủ tỉnh phát triển hàng đầu Trung Quốc là Quảng Đông chỉ có 145km, các đặc khu kinh tế khác như Sán Đầu, Hạ Môn, Chu Hải, Hải Nam cũng có các đặc điểm tương tự. Tóm lại, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, là yếu tố tác động đến việc sinh lợi nhuận lớn nên thường được quan tâm khảo sát, chọn lựa kỹ càng trước khi quyết định đầu tư. Vị trí đầu tư lý tưởng là vị trí đáp ứng được nhiều nhất các yếu tố nêu trên hoặc ít nhất cũng là các yếu tố cơ bản về: giao thông, thị trường và mặt bằng bố trí sản xuất. 1.3.6. Chiến lược xúc tiến đầu tư Xúc tiến đầu tư là hoạt động quảng bá hình ảnh một quốc gia, một địa phương hay một khu kinh tế, để mọi đối tác quan tâm đến vấn đề đầu tư có điều kiện tìm hiểu kỹ về cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư, về nhu cầu đầu tư, về điều kiện kết cấu hạ tầng, về nguồn nhân lực về thị trường tiêu thụ và các vấn đề có liên quan khác. Đó là những nội dung mà các nhà đầu tư nghiên cứu làm cơ sở cho viêc quyết định đầu tư. Có thể nói công tác xúc tiến đầu tư chính là hoạt động đối ngoại trong đầu tư, tức là hoạt động đưa thông tin đầu tư ra bên ngoài và đến với các đối tượng có nhu cầu đầu tư. Vì vậy, xúc tiến đầu tư là một trong những chiến lược quan trọng của mọi quốc gia trong quá trình phát triển. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá ngày càng diễn ra sâu sắc, đầu tư nước ngoài đang trở thành xu hướng tất yếu, là một trong những biện pháp quan trọng để các nước đang phát triển thay đổi cơ cấu đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Ngoài các nhân tố cơ bản trên ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để đầu tư phát triển. Một số nhân tố có tính chất nội tại như nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước và có tính chất ngân sách Nhà nước được quyết định bởi chủ trương đầu tư, khả năng về nguồn vốn của Nhà nước đầu tư hàng năm cho khu kinh tế... có ý nghĩa to lớn ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào khu KTM Chu Lai. Làm rõ bản chất của các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư là cơ sở lý luận rất quan trọng để phân tích đánh giá tình hình thực tiễn và đề ra các giải pháp thiết thực để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát triển các khu kinh tế nói riêng, địa phương và quốc gia nói chung. 1.4. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ THU HÚT VỐN ĐỂ XÂY DỰNG KHU KINH TẾ MỞ Ở TRUNG QUỐC Từ đầu những năm 80 thế kỷ XX, Trung Quốc đã lần lượt cho ra đời nhiều loại hình khu kinh tế mở. Đợt thứ nhất là các đặc khu kinh tế như: Thẩm quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn và Hải Nam. Đợt thứ hai là 15 thành phố ven biển được tuyên bố trở thành các vùng kinh tế mở cửa, với 18 vùng phát triển kinh tế kỹ thuật ở các thành phố đó. Đợt thứ ba, mở rộng các vùng kinh tế mở cửa ra 61 thành phố thuộc cấp huyện, 43 thành phố thuộc cấp quận và những vùng rộng lớn thuộc bán đảo Liêu Đông, vùng ven biển Bột Hải, bán đảo Sơn Đông… Thẩm Quyến là một đặc khu kinh tế được xây dựng đầu tiên, từ một huyện nằm dọc ven biển, sau đó phát triển ra nơi khác. Hiện nay Trung Quốc có 5 Đặc khu kinh tế với tổng diện tích trên 35.000km2, dân số trên 10 triệu người. Năm 1996 các đặc khu kinh tế của Trung Quốc đã tạo ra giá trị sản lượng trên 315 tỷ USD, xuất khẩu 30 tỷ USD (bằng 25-30% kim ngạch xuất khẩu cả nước). Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến được các chuyên gia kinh tế đánh giá là một đặc khu thành công nhất của Trung Quốc về mọi phương diện. Mới chỉ thành lập sau 20 năm mà đặc khu kinh tế Thẩm Quyến từ một vùng hoang vắng dọc ven biển đã trở thành trung tâm kinh tế đứng đầu đất nước Trung Quốc, có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 34%/ năm. Năm 1996 giá trị sản phẩm công nghiệp của thành phố tăng lên 1500 lần so với lúc chưa xây dựng (1979) số sản phẩm xuất khẩu trên 60% đã đi đến trên 70 nước trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm khoảng 1,5 lần [1, tr.28- 29]. Thành công trong việc thu hút vốn đầu tư của đặc khu kinh tế Thẩm Quyến nói riêng, của các khu KTM ở Trung Quốc nói chung có nhiều nguyên nhân hợp thành đáng lưu ý: - Cơ chế chính sách ưu đãi là mối quan tâm hàng đầu, là chìa khoá cho sự thành công trong thu hút vốn đầu tư ở Trung Quốc. Chỉ thị của Chính phủ cho đặc khu Thẩm Quyên chỉ rõ: “Chỉ cho chính sách không cho tiền”. Đó là các chính sác ưu đãi về thuế - hệ thống thuế đơn giản và ưu đãi; về tín dụng - cho phép mở ra nhiều loại hình tín dụng, kể cả ngân hàng nước ngoài, tạo cơ hội cho phát triển các tổ chức tài chính trung gian; về quản lý ngoại hối- nới lỏng chính sách quản lý ngoại hối nhằm tự do hoá thương mại... Đặc biệt, chính sách ưu đãi hợp lý,kết hợp hài hoà lợi ích và mục tiêu quốc gia và của các nhà đầu tư. Chính cơ chế quản lý gọn nhẹ đơn giản, thông thoáng đã hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Hoa kiều ở nước ngoài, các chính sách ưu đãi cũng phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp chung của Trung Quốc và mạnh dạn phân cấp quyền lực và trao quyền tự chủ cho các đặc khu, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. - Huy động vốn xây dựng kết cấu hạ tầng bằng nhiều hình thức, trong đó vốn ngân sách tập trung trong những năm đầu cho những công trình trọng yếu, đồng thời thực hiện mạnh mẽ cơ chế bán quyền sử dụng đất, cơ chế “mượn gà đẻ trứng”- tức là khi muốn xây dựng một công trình nào đó, chính quyền công bố quy hoạch, phân tích hiệu quả, rồi kêu gọi mọi người góp vốn xây dựng, sau này sẽ xem xét ưu tiên khi công trình hoàn thành. - Không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư, chính quyền Thẩm Quyến cho rằng để thu hút đầu tư thì ưu đãi về thuế chưa đủ mà cần phải có một môi trường đầu tư hấp dẫn nhất là cơ sở hạ tầng kể cả hạ tầng cứng và hạ tầng mềm. Qua nghiên cứu các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc có thể rút ra một số bài học thực tiễn sau: + Phải xây dựng được hành lang pháp lý nhất quán, tạo được các ưu đãi đặc biệt về tài chính, tín dụng, ngoại hối, đất đai, lao động, cư trú, xuất nhập cảnh và kết cấu hạ tầng đồng bộ cả về kỹ thuật lẫn xã hội để hấp dẫn các nhà đầu tư. + Phải xây dựng cơ chế đặc biệt với thủ tục hành chính đơn giản, thuận lợi, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Song phải có cơ chế giám sát các hoạt động kinh tế trong khu để đảm bảo chủ quyền quốc gia. + Phải xây dựng một kết cấu hạ tầng đồng bộ cả về kỹ thuật lẫn xã hội với chất lượng cao để tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư + Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức để thu hút vốn cho đầu tư phát triển, đặc biệt là cho xây dựng kết cấu hạ tầng. Kết kuận chương 1 KKTM Chu Lai là KKTM đầu tiên của Việt Nam, được Chính phủ thành lập được thực hiện các cơ chế chính sách hấp dẫn và thông thoáng, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo ra vùng kinh tế động lực cho sự phát triển của tỉnh Quảng Nam nói riêng và của khu vực miền Trung nói chung, qua đó rút kinh nghiệm cho mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. KKTM Chu Lai được thành lập nhằm thu hút vốn đầu tư. Vốn đầu tư lại có vai trò quan trọng có tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển của KKTM Chu Lai. Vốn đầu tư phát triển KKTM Chu Lai bao gồm nhiều chủng loại khác nhau, được hình thành từ các nguồn khác nhau trong và ngoài nước bao gồm vốn của ngân sách nhà nước và các nguồn có tính chất ngân sách, vốn của các tổ chức tín dụng, vốn của các doanh nghiệp, vốn của dân cư... Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển KKTM Chu Lai rất lớn không chỉ cho xây dựng kết cấu hạ tầng mà còn chính là để phát triển sản xuất kinh doanh. Việc thu hút vốn đầu tư chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau nhưng lại có mối quan hệ tác động biện chứng với nhau. Đó là các nhân tố về môi trường chính trị xã hội; cơ chế chính sách; kết cấu hạ tầng; nguồn nhân lực, các điệu kiện về vị trí địa lý, nguồn tài nguyên… Xác định đúng đắn vai trò, vị trí của KKTM Chu Lai, làm rõ tầm quan trọng và nhu cầu vốn đầu tư, phân tích có hệ thống các nguồn hình thành cùng với các nhân tố ảnh hưởng và tìm hiểu kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư ở các khu kinh tế mở của Trung Quốc là cơ sở lý luận và thực tiễn cần thiết cho việc phân tích đánh giá tình hình thu hút đầu tư và đề ra các giải pháp khả thi để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư để xây dựng thành công KKTM Chu Lai tỉnh Quảng Nam. Chương 2 THỰC TRẠNG THU HÚT CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI THỜI KỲ 2003-2006 2.1 TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI TRONG 4 NĂM 2003 - 2006 2.1.1. Về số lượng + Nguồn vốn ngân sách Nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho khu kinh tế mở Chu Lai được thực hiện theo chương trình hỗ trợ có mục tiêu hàng năm trên cơ sở danh mục các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời, Nhà nước cho phép BQLKTM Chu Lai dùng quỹ đất để tạo vốn phát triển hạ tầng, được phép phát hành trái phiếu công trình trong nước để huy động vốn đầu tư ngoài mức khống chế đối với mức huy động của tỉnh Quảng Nam, được thu phí hoặc lệ phí sử dụng các công trình hạ tầng, tiện ích công cộng trong khu KTM Chu Lai. Kết quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách hàng năm cho khu KTM Chu Lai mặc dù tăng lên trong 2004, 2005 song đến năm 2006 thì nguồn đầu tư bắt đầu giảm dần, năm 2003: 40 tỷ, năm 2004: 140 tỷ, năm 2005: 410 tỷ năm 2006: 234 tỷ [28, tr.9-10]. Với tổng vốn đầu tư trong các năm qua 824 tỷ một mức đầu tư còn quá thấp chưa đủ để xây dựng các công trình lớn. Nguồn vốn này tập trung cho một số hạ tầng chủ yếu như giao thông chính, công trình cầu cảng số 2, hạ tầng một số khu công nghiệp, hạ tầng một số khu dân cư. Ngoài nguồn thu từ ngân sách nhà nước đầu tư tập trung. Các nguồn thu khác được Chính phủ cho phép như: nguồn thu từ tài nguyên khoáng sản, nguồn thu từ quỹ đất, thu phí, lệ phí chưa được tập trung khai thác. Vì vậy, nguồn thu này không đáng kể. Trong 4 năm qua các nguồn thu này chỉ thu được trên 1 tỷ đồng nên chỉ sử dụng để hỗ trợ ngân sách tại địa bàn trong việc xây dựng các công trình hạ tầng nhỏ, hỗ trợ cho công tác quản lý hiện trạng về xây dựng. + Vốn đầu tư phát triển sản xuất: Tháng 6-2003 ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập khu KTM, UBND tỉnh Quảng Nam đã tổ chức lễ công bố thành lập KKTM, tại hội nghị này đã có 20 nhà đầu tư trong và ngoài nước đăng ký đầu tư vào khu KTM với tổng vốn đầu tư khoảng 160 triệu USD, ngoài ra Ban Quản lý KKTM và UBND tỉnh Quảng Nam cũng đã tổ chức nhiều chương trình xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước như tổ chức xúc tiến đầu tư tại Trung Quốc, Singapore, Malaisia, Hàn Quốc,Thái Lan. Ngoài ra kết hợp các chuyến công tác, lãnh đạo tỉnh đã tổ chức giới thiệu về KKTM tại Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Ucraina... Với những cố gắng nỗ lực như trên hơn 3 năm qua KTTM Chu Lai đã thu hút được 130 dự án đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 1,4 tỷ USD trong đó có 84 dự án được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là:772 triệu USD, trong đó có 39 dự án đang hoạt động với tổng vốn đầu tư là:155 triệu USD [3, tr.8-9]. 2.1.2. Về cơ cấu a) Phân theo nguồn vốn đầu tư, có 43 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký là 636 triệu USD chiếm tỷ trọng 45,5% bao gồm các quốc gia và vùng lãnh thổ như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ, Pháp, Italia, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Hồng Kông... vốn đầu tư trong nước là 795 triệu USD chiếm tỷ trọng 54,5% [3, tr.7]. Tuy vậy, trong tổng số 130 dự án nêu trên có một số dự án không có khả năng triển khai thực hiện đầu tư. Vì vậy, đến thời điểm 31-12-2006, trên địa bàn KKTM Chu Lai có tổng cộng 56 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 531 triệu USD. Được phân chia cụ thể như sau: - Dự án đăng ký đầu tư: 13 dự án, tổng vốn đăng ký 200 triệu USD. - Dự án được cấp phép đầu tư: 43 dự án, tổng vốn đăng ký 331 triệu USD trong đó có 14 dự án đang hoạt động với tổng vốn 148 triệu USD. - Trong tổng số dự án đó thì dự án có vốn đầu tư nước ngoài là 28 dự án, tổng vốn đăng ký 271 triệu USD chiếm tỷ trọng 51%, dự án trong nước 28 dự án, tổng vốn đăng ký 4160 tỷ đồng bằng260 triệu USD chiếm tỷ trọng 49% [3, tr.9]. b) Phân theo ngành nghề đầu tư: Dự án công nghiệp: 31, tổng vốn: 354,2 triệu USD chiếm tỷ trọng 66,66%. Dự án du lịch:19, vốn đăng ký 123,2 triệu USD chiếm tỷ trọng 24,85%. Dự án thương mại dịch vụ:3, vốn đăng ký 16,1 triệu USD chiếm tỷ trọng 4%. Dự án nông lâm thuỷ sản: 1, vốn đăng ký: 1,15 triệu USD. Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng: 2, vốn đăng ký: 14,6 triệu USD [3, tr.9]. Các dự án đầu tư vào KKTM Chu Lai đi vào hoạt động đã thu hút gần 3000 lao động tại chỗ với thu nhập bình quân khoảng trên 1 triệu đồng/ tháng, hàng năm đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng trăm tỷ đồng, trong đó đáng kể nhất là máy lắp ráp ôtô Chu Lai- Trường Hải mỗi năm đóng góp trên 100 tỷ đồng, Công ty Đầu tư và phát triển Kỳ Hà- Chu Lai bình quân 3 năm qua mỗi năm đóng góp cho ngân sách khoảng 300 tỷ đồng thuế xuất nhập khẩu qua Cảng Kỳ Hà [28, tr.8]. Hơn 3 năm qua, trong điều kiện KKTM đầu tiên mới ra đời, cùng một lúc vừa phải thực hiện nhiều nhiệm vụ nặng nề chưa có tiền lệ trong lịch sử phát triển kinh tế của Việt Nam như: Vừa xây dựng cơ chế chính sách, triển khai thực hiện công tác quy hoạch, xây dựng một số công trình hạ tầng thiết yếu, vừa phải thu hút vốn đầu tư để phát triển, nên những kết quả đạt được nêu trên trong thu hút đầu tư thể hiện nỗ lực to lớn của tỉnh Quảng Nam và khu KTM Chu Lai. Kết quả ấy góp phần tạo ra diện mạo ban đầu cho khu KTM, bước đầu giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo điều kiện tiền đề và kinh nghiệm cho sự phát triển giai đoạn sau. Tuy nhiên so với nhu cầu phát triển khu KTM Chu Lai thì những kết quả ấy còn nhỏ bé, chưa khẳng định được sức mạnh và lợi thế của khu KTM đầu tiên của Việt Nam. Do vậy, phân tích làm rõ các vấn đề tồn tại trong xây dựng và phát triển khu KTM, nhất là trong thu hút đầu tư, xác định rõ các nguyên nhân, tìm ra các lợi thế và hướng đi mới phù hợp với xu thế hội nhập và đặc thù của của Chu Lai là việc làm hết sức cần thiết vừa mang ý nghĩa cấp bách trước mắt vừa có tính chất chiến lược lâu dài đối với sự phát triển khu kinh tế mở Chu Lai. 2.2. NHỮNG TỒN TẠI TRONG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI 2.2.1. Đối với nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng + Từ nguồn thu ngân sách nhà nước Nguồn thu từ ngân sách nhà nước đầu tư cho kết cấu hạ tầng được xác định ban đầu bằng cơ chế tài chính khá hấp dẫn. Nhà nước để lại toàn bộ nguồn thu phát sinh trên địa bàn khu KTM để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đồng thời cũng cho phép khu KTM Chu Lai được huy động các nguồn vốn khác từ trong và ngoài nước. Song cơ chế nguồn thu không được thực hiện một cách nhất quán mà thực chất là cơ chế này không thực hiện trên thực tế. Vì vậy, nguồn thu không ổn định, thiếu vững chắc trong cân đối đầu tư dẫn đến bố trí vốn không tập trung cho các công trình trọng điểm, cho nên tình trạng công trình dàn trải rộng khắp trên địa bàn, công trình hoàn thành đưa vào sử dụng ít, công trình dở dang chiếm trên 80% vốn đầu tư. + Từ các nguồn thu khác có tính chất ngân sách Nguồn vốn xây dựng KKTM Chu Lai được xác định không chỉ từ nguồn ngân sách tập trung của TW mà còn là các nguồn thu khác có tính chất ngân sách như: nguồn tín dụng ưu đãi, nguồn vay tồn ngân kho bạc nhà nước, nguồn trái phiếu công trình hoặc nguồn trái phiếu chính phủ. Các nguồn vốn này thường sử dụng để hỗ trợ cho các dự án đầu tư thuộc diện đặc biệt ưu đãi đầu tư hoặc bổ sung cho các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng. Tuy vậy, trong thời gian qua do chưa chú trọng khai thác nguồn vốn này, nên khu KTM Chu Lai không huy động được một lượng vốn nào cả, mà chỉ dựa vào nguồn ngân sách vì thế việc thu hút vốn đầu tư cho xây dựng vốn đã khó lại càng thêm khó khăn hơn. Tóm lại: Các nguồn vốn đầu tư có tính chất ngân sách hoặc vay ưu đãi đầu tư còn là một điểm yếu mà trong thời gian đến Chu Lai cần quan tâm khai thác nhiều hơn nữa nhằm bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển. + Từ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) Đây là một nguồn vốn có tiềm năng lớn được Thủ tướng Chính phủ cho phép KTTM Chu Lai đưa vào danh mục kêu gọi đầu tư nhằm xây dựng các công trình hạ tầng vừa thiết yếu cho nhu cầu phát triển, vừa có khả năng thanh toán vốn vay này, như các công trình giao thông trong các khu đô thị, đường trục chính nối các khu chức năng, các công trình hạ tầng xã hội như trường dạy nghề, bệnh viện... Tuy vậy, nguồn vốn này do chưa được quan tâm,nên trong thời gian qua chưa thu hút được, kể cả công tác chuẩn bị danh mục dự án đầu tư để đăng ký cũng chưa được chú ý, đây là một thiếu sót cần nghiêm túc rút kinh nghiệm để khai thác có hiệu quả nguồn vốn này nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu trong khu KTM Chu Lai. + Từ các nguồn thu tại chỗ: Các nguồn thu tại chỗ trên địa bàn khu KTM có tiềm năng rất lớn như nguồn thu từ khai thác tài nguyên khoáng sản (cát, titan), nguồn thu từ đất bao gồm đất nguyên liệu phục vụ san lấp mặt bằng cho các công trình xây dựng, nguồn thu tiền sử dụng đất trong việc xây dựng các khu dân cư, nguồn khai thác quỹ đất trong các khu đô thị, nguồn thu từ phí, lệ phí được phép để lại theo quy định. Có thể nói các nguồn thu này tuy không có ý nghĩa quyết định,song có vai trò bổ sung và góp phần làm tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển, nếu tổ chức khai thác tốt, nguồn thu này thì trong giai đoạn đầu xây dựng, hằng năm có thể thu được hàng chục tỷ đồng, trong đó nguồn thu từ quỹ đất có ý nghĩa to lớn, nhất là trong giai đoạn nhu cầu đất ở tăng lên. Ngoài các nguồn vốn đầu tư nói trên, nếu biết tổ chức tốt việc thu hút đầu tư thì cũng có thể bổ sung một lượng vốn ứng trước từ các nhà đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên địa bàn nhất là các nhà đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng. Tóm lại, việc huy động vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong khu kinh tế mở Chu Lai trong thời gian qua có nhiều nỗ lực to lớn, đã thu hút trên 800 tỷ đồng để đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu, song cũng bộc lộ nhiều thiếu sót, khuyết điểm cần phải rút kinh nghiệm để khắc phục trong thời gian đến. 2.2.2. Đối với nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh + Vốn đăng ký nhiều, vốn cấp phép tương đối khá, vốn triển khai trên thực tế còn rất thấp: Qua 2 năm hoạt động số vốn đăng ký đầu tư đã lên đến 1,4 tỷ USD, vốn đầu tư theo cấp phép đạt 50% so với vốn đăng ký. Tuy vậy, đến nay trên thực tế nhiều dự án đăng ký nhưng không thực hiện đầu tư, có những dự án đã hết thời hạn nghiên cứu nhưng không có thông tin phản hồi, có những dự án sau khi cấp thoả thuận địa điểm, đã quá thời hạn nghiên cứu nhưng các nhà đầu tư hoàn toàn không có thông tin gì đối với Ban Quản lý KKTM. Vì thế ở thời điểm này, trên địa bàn KKTM Chu Lai chỉ có 56 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 437,4 triệuUSD, với 43 dự án được cấp phép đầu tư, với tổng vốn 253 triệu USD và hiện có 19 dự án đang hoạt động với tổng vốn đầu tư 148,8 triệu USD [28, tr.7]. Rõ ràng so với vốn đăng ký đầu tư ban đầu, thì mức độ triển khai trên thực tế là quá thấp, chỉ đạt khoảng 30% so với vốn đăng ký ban đầu có tính khả thi, vốn cấp phép đầu tư chỉ còn 15% và vốn triển khai trên thực tế chỉ khoảng 10% so với tổng vốn đăng ký ban đầu. + Vốn tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có doanh nghiệp lớn và các tập đoàn kinh tế lớn. Trong số các doanh nghiệp đăng ký đầu tư vào khu kinh tế, phần lớn là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có vốn đăng ký dưới 5 triệu USD, với tỷ lệ trên 80% danh mục dự án, các dự án có vốn đăng ký hàng chục triệu đô la rất ít và triển khai trên thực tế chỉ có một dự án có vốn trên 40 triệu USD đang triển khai thực hiện là nhà máy lắp ráp ô tô Chu Lai- Trường Hải. + Vốn tập trung chủ yếu ở một số nước và vùng lãnh thổ châu Á là chủ yếu: Vốn đăng ký đầu tư nước ngoài vào Chu Lai chủ yếu là các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á như: Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông. Malaisia, Philipin... Các nước châu Âu, Mỹ cũng có đăng ký đầu tư nhưng số lượng bé và chưa thực hiện đầu tư. Điều đáng nói là hầu hết các dự án đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài đang triển khai ở Chu Lai lại tập trung vào các ngành không thuộc danh mục khuyến khích đầu tư như: khai thác tận thu khoáng sản, khai thác cát thô xuất khẩu, khai thác đá xây dựng. Trong số các dự án đang hoạt động tại Chu Lai hiện nay thì các dự án loại này chiếm trên 50% về mặt số lượng. + Chưa thu hút được nhà đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: Thu hút vốn đầu tư vào Chu Lai trong thời gian qua mới chỉ tập trung cho các nhà đầu tư thứ cấp, song lại là các nhà đầu tư nhỏ, với các ngành nghề kinh doanh không được định hướng và chọn lọc mà không chú ý đến việc kêu gọi các nhà đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đây mới chính là các nhà đầu tư chiến lược cần tìm, chính họ mới là người tạo ra hạ tầng để thu hút đầu tư, đồng thời là người tổ chức thu hút đầu tư có hiệu quả nhất. Nhận thức chưa đúng vấn đề này và triển khai thực hiện xúc tiến đầu tư chưa đúng mục tiêu, chưa có định hướng, đặc biệt chưa tìm ra các nhà đầu tư hạ tầng là nguyên nhân rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế mở trong thời gian qua. Nhìn chung, trong 4 năm qua thu hút đầu tư phát triển khu KTM Chu Lai mặc dầu bước đầu đạt được một số kết quả rất đáng ghi nhận trong điều kiện còn hết sức khó nhăn, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, cơ chế chính sách chưa đồng bộ, bộ máy còn non trẻ. Tuy vậy, so với yêu cầu phát triển khu kinh tế mở thì những kết quả đạt được còn rất nhỏ, tồn tại đã nêu và phân tích trên đang là trở ngại đồng thời cũng là thách thức ro lớn mà chúng ta cần phải tập trung giải quyết, tất nhiên đây là những vấn đề đòi hỏi phải được giải quyết một cách đồng bộ với sự tham gia của nhiều cấp nhiều ngành và cũng cần có thời gian nhất định. Để làm được việc đó, điều quan trọng hàng đầu là phải tìm ra nguyên nhân khách quan và chủ quan, đặt nó trong mối quan hệ nội tại và trong mối liên hệ vùng, lãnh thổ, mối quan hệ đầu tư quốc tế trong điều kiện mở cửa, hội nhập nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức WTO, để từ đó có các giải pháp khắc phục nhằm phát triển khu kinh tế mở theo mục tiêu đặt ra của Bộ Chính trị và theo quyết định thành lập của Thủ tướng Chính phủ. 2.23. Những nguyên nhân hạn chế thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam 2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan * Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và còn nhiều yếu kém + Hệ thống cảng biển chưa được quy hoạch và đầu tư để có thể đón tàu có tải trọng lớn vào làm hàng nên yếu tố “mở” về đường biển chưa được khai thông, chưa có đủ điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Thực vậy, cảng Kỳ Hà với độ sâu hiện có của luồng vào cảng có đoạn chỉ 6m, nếu chỉ duy tu nạo vét hàng năm thì cũng chỉ có thể đón tàu công suất dưới 7000DWT vào làm hàng. Trong khi đó yêu cầu vận tải biển phục vụ cho xuất nhập khẩu hàng hoá thì cần phải có cảng container cho tàu tải trọng ít nhất từ 10.000 đến 20.000 DWT vào cảng thì chi phí vận chuyển mới có điều kiện hạ thấp. Việc cảng Kỳ Hà chưa được đầu tư nâng cấp mở rộng để tiếp nhận tàu có công suất lớn là một trong những yếu tố bất lợi về hạ tầng trong việc thu hút vốn đầu tư vào khu KTM. Trên thực tế nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi nghiên cứu các cơ hội đầu tư vào Chu Lai họ đều thấy sự hấp dẫn của cơ chế vượt trội song khi nghiên cứu về vận tải biển thì quy mô nhỏ của cảng chính là lý do để trong một số trường hợp họ không quyết định đầu tư. + Các trục giao thông chính kết nối giữa các khu chức năng chưa được đầu tư và lưu thông thuận lợi trực tiếp làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn nên chưa thu hút được nhiều các nhà đầu tư đến với Chu Lai. Một số khu công nghiệp đang trong quá trình triển khai thi công thiếu các hạ tầng cơ bản như hệ thống xử lý nước thải công nghiệp, các trục giao thông liên khu... Điều này chưa đảm bảo cho các nhà đầu tư vào Chu Lai, một số nhà đầu tư đã thực hiện dự án thì họ phàn nàn về điều kiện hạ tầng và việc cung cấp các tiện ích. + Sân bay Chu Lai được xem là linh hồn của khu KTM, là lợi thế duy nhất có trong các khu kinh tế ở Việt Nam là điều kiện tối quan trọng đểTW chọn Chu Lai làm nơi xây dựng khu KTM đầu tiên ở nước ta, song cho đến nay mới chỉ là sân bay vận chuyển hành khách nội địa, một tuần 2 chuyến từ Thành phố HCM đến và ngược lại, hiện chưa có đường bay đi Hà Nội. Lợi thế cuả nó về trung chuyển hàng hoá và hành khách quốc tế đang còn là tiềm năng nên chưa có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Việc đầu tư và khai thác sân bay Chu Lai gắn liền với sự phát triển của KKTM Chu Lai và khu kinh tế Dung Quất. Song vấn đề đặt ra là phải có chủ trương và kế hoạch đầu tư cho sân bay một cách khả thi bởi nó là kết cấu hạ tầng cần phải được đầu tư trước, làm cơ sở cho các nhà đầu tư thuộc các ngành và lĩnh vực tiếp tục thực hiện theo định hướng phát triển của khu KTM Chu lai. + Hạ tầng một số khu công nghiệp đang đầu tư chưa đồng bộ cả về mặt bằng, điện, nước và các yếu tố khác: Đến nay Chu Lai đã đầu tư xây dựng 2 khu công nghiệp với tổng diện tích khoảng trên 250 ha, đây là một sự cố gắng lớn trong điều kiện chưa có nhà đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng, chính nhờ vậy mới có điều kiện để thu hút các nhà đầu tư vào khu kinh tế như đã nêu trong phần đánh giá thu hút đầu tư. Song đầu tư xây dựng các khu công nghiệp ở Chu Lai trong thời gian qua còn quá nhiều bất cập, chưa đảm bảo cấp điện một cách nhanh chóng và thuận lợi cho nhà đầu tư. Việc đảm bảo nguồn nước cho sản xuất hiện đang rất khó khăn. Một mặt, công suất nhà máy nước tại Chu Lai chưa đảm bảo đáp ứng cho nhà đầu tư, mặt khác nhà máy nước hiện nay mới chỉ đảm bảo nước sinh hoạt, nước phục vụ sản xuất chưa được lắp đặt và cung ứng kịp thời Điều đáng nói là do không có chủ đầu tư phát triển hạ tầng các khu công nghiệp nên khi san lấp mặt bằng xong thì các dịch vụ về điện, nước và các đảm bảo khác như thông tin liên lạc, điện chiếu sáng công cộng và các dịch vụ khác khi các nhà đầu tư có nhu cầu không có tổ chức nào đứng ra giải quyết cho nhà đầu tư. Đây là tồn tại do quá trình triển khai ban đầu chưa có bài bản, vừa làm vừa học nên không tránh khỏi sai sót. Chính vì vậy, đã gây nhiều phiền toái cho các nhà đầu tư và tạo ra sự kém hấp dẫn trong môi trường đầu tư. + Hạ tầng xã hội chưa đảm bảo cho phát triển một khu kinh tế lớn. Hiện tại chưa có trường đào tạo nghề chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của nhà đầu tư, chưa có bệnh viện đáp ứng về quy mô và chất lượng khám và chữa bệnh phục vụ cho các nhà đầu tư cũng như con cái và gia đình họ. Trên thực tế, một số nhà đầu tư triển khai công tác tuyển dụng lao động có tay nghề cao, các cán bộ kỹ thuật, các chuyên gia gặp không ít khó khăn. Trong quy hoạch xây dựng KTTM có bố trí đất để xây dựng các công trình công cộng song trên thực tế chưa có kế hoạch đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng xã hội trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Vì vậy, làm cho môi trường đầu tư ở KKTM vốn đã chưa hấp dẫn càng trở nên kém hấp dẫn hơn. + Hạ tầng các khu dân cư tái định cư cũng chưa được đầu tư xây dựng kịp thời và đồng bộ nên việc giải phóng mặt bằng hiện đang gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường đầu tư nhất là trong các khu công nghiệp và khu du lịch. Các khu đô thị chưa được quy hoạch và chưa có nhà đầu tư có năng lực về tài chính để khởi động, hạ tầng các khu du lịch, các khu vui chơi giải trí chưa được đầu tư xây dựng góp phần làm cho môi trương đầu tư tại Chu Lai chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. * Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập Về cơ chế chính sách: Từ khi hàng loạt các khu kinh tế ra đời cho đến tháng 11-2006,Chu Lai không những không thể hiện được tính chất vượt trội vốn có của mình mà còn có nhiều mặt thể hiện sự tụt hậu hơn so với các quy định chung của pháp luật hiện hành và so với nhiều khu kinh tế khác trong cả nước. Điều này diễn ra như một tất yếu bởi vì, từ năm 2003 đến nay luật pháp nước ta đã có nhiều thay đổi ngày càng thông thoáng hơn theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, cùng với việc ra đời sau của các khu kinh tế trong cả nước trong khi đó khung pháp lý của khu KTM Chu Lai chậm thay đổi. Cụ thể trên các lĩnh vực như: + Ưu đãi về thuế: Chu Lai có nhiều lĩnh vực không được ưu đãi bằng các khu kinh tế khác như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu một số nguyên nhiên vật liệu: Hầu hết các khu kinh tế hiện nay đều được hưởng thuế thu nhập cá nhân bằng 50% thuế suất quy định của Nhà nước, trong khi Chu Lai không được hưởng ưu đãi này. Một số ngành và lĩnh vực quan trong khi đầu tư vào các khu kinh tế khác thì được hưởng thuế suất về thuế lợi tức doanh mghiệp với tỷ lệ 10% suốt đời dự án trong khi ở Chu Lai không được ưu đãi này. + Về xây dựng kết cấu hạ tầng: Hầu hết các khu kinh tế, các nhà đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng đều được hưởng thuế suất thuế lợi tức ở mức đặc biệt và bằng 50% so với các khu kinh tế khác. + Về cơ chế quản lý: khu kinh tế mở Chu Lai vẫn còn trực thuộc tỉnh Quảng Nam về mặt kế hoạch và tài chính nên chưa chủ động trong việc lập và bố trí kế hoạch đặc biệt trên lĩnh vực tài chính hoạt động của khu kinh tế mở Chu Lai như một đơn vị dự toán cơ sở. + Về cơ chế tài chính: Cơ chế tài chính cho Chu Lai không còn thực hiện theo cơ chế được Chính phủ quy định tại Quyết định 108 mà được thực hiện theo quy định chung của luật ngân sách nên có nhiều khó khăn về nguồn thu cho phát triển khu kinh tế mở + Quy chế hoạt động của khu phi thuế quan: chưa được ban hành và triển khai trên thực tế + Cơ chế ưu đãi về vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đang gặp khó khăn cả về bên trong lẫn bên ngoài hàng rào: Theo cơ chế hiện hành thì Nhà nước chỉ hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng ngoài hàng rào các khu công nghiệp, khu chức năng trong khu kinh tế. Việc đầu tư xây dựng bên trong chỉ thực hiện đối với các khu công nghiệp trong vùng đặc biệt khó khăn nên Chu Lai không được hưởng ưu đãi này. Mặt khác, để xây dựng khu kinh tế cần phải có nguồn vốn đầu tư hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng của ngân sách TW song nguồn thu này không đáp ứng cho nhu cầu xây dựng các công trình thiết yếu trong giai đoạn đầu. * Hoạt động xúc tiến đầu tư còn nhiều yếu kém,biểu hiện trên một số khía cạnh cụ thể như: + Hình thức tổ chức XTĐT còn đơn giản, chủ yếu là tổ chức các cuộc hội nghị giới thiệu cơ chế chính sách trong và ngoài nước đối với các doanh nghiệp theo các đoàn do các cơ quan của Chính phủ tổ chức mà chưa tổ chức được các cuộc XTĐT độc lập với sự tham gia của các nhà đầu tư dành riêng cho khu kinh tế mở Chu Lai. + Chưa xác định các đối tác chiến lược cần kêu gọi đầu tư một cách chủ động để từ đó tổ chức xúc tiến một cách bài bản mà thường rơi vào tình trạng bị động, lúng túng hoặc là tháp tùng các đợt xúc tiến đầu tư chung chung thiếu sự chuẩn bị chu đáo hoặc không được bố trí thời gian hợp lý để giới thiệu nội dung mà mình cần hoặc là phải tiếp đón quá nhiều các nhà đầu tư nhỏ lẽ. Trong khi đó không đến được với các nhà đầu tư lớn hoặc các nhà đầu tư lớn cũng không đến được với Chu Lai. Chu Lai đang cần các nhà đầu tư lớn nhất là các nhà đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng và các nhà đầu tư vào các khu chức năng để chính họ là những người kêu gọi các nhà đâù tư thứ cấp khác vào đầu tư trong các khu của họ làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng. + Chưa xây dựng các nhóm ngành, các danh mục dự án cần ưu tiên kêu gọi đầu tư một cách chủ động. + Chưa có bộ máy chuyên nghiệp làm công tác XTĐT mà chủ yếu dựa vào phòng xúc tiến đầu tư thuộc ban quản lý khu kinh tế mở Chu Lai để thực hiện việc này nên hiệu quả mang lại chưa cao. + Kinh phí đầu tư cho công tác này còn hạn chế, hằng năm ngân sách nhà nước đầu tư cho công XTĐT khoảng vài trăm triệu đồng thì chưa đủ điều kiện để tổ chức các các cuộc xúc tiến đầu tư quy mô được, chưa kết hợp các nguồn kinh phí xúc tiến đầu tư từ các doang nghiệp. + Công tác nghiên cứu về xúc tiến đầu tư chưa được chú trọng,chưa có bộ phận có trách nhiệm, có năng lực và được đầu tư đầy đủ các phương tiện và điều kiện làm việc, chưa kết nối với các cơ quan xúc tiến đầu tư của Trung ương trên địa bàn một cách có hiệu quả. + Chưa coi trọng việc đào tạo cán bộ cho công tác quan trọng này, mà thường sử dụng cán bộ một cách tuỳ tiện theo ý muốn chủ quan của cán bộ lãnh đạo. + Công cụ phục vụ công tác xúc tiến đầu tư chưa được tăng cường nhất là hoạt động của website chưa tốt, chưa xây dựng được mạng lưới cộng tác viên trong và ngoài nước một cách rộng rãi. * Mô hình “một cưả tại chỗ” chưa đựơc thực hiện triệt để. Có thể nói rằng,việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa tại chỗ” là một bước tiến lớn trong công cuộc cải cách hành chính ở nước ta và đựơc thực hiện đầu tiên tại khu kinh tế mở Chu Lai, song trên thực tế còn nhiều vướng mắc cụ thể là: + Mặc dù có những cố gắng nhất định nên công tác cấp phép đầu tư và một số thủ tục khác được thực hiện khá nhanh, song việc phối hợp giữa các bộ phận chưa được chặt chẽ, đặc biệt là chưa xây dựng quy trình đầu tư theo cơ chế môt cửa nên trên thực tế có sự thiếu đồng bộ ở các khâu sau khi cấp phép như: cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các ưu đãi về thuế, cùng nhà đầu tư giải quyết kịp thời các phát sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư. Thủ tục đầu tư vừa có phần chậm như đã phân tích trên nhưng lại có phần lỏng lẻo do chưa có quy định về trách nhiệm của nhà đầu tư khi được cấp phép đầu tư nhất là trách nhiệm về tài chính nếu như chủ đầu tư không thực hiện theo hợp đồng đã ký kết. Lợi dụng tình hình này trong thời gian qua có không ít nhà đầu tư đến đăng ký đầu tư chiếm đất, hoặc có tình trạng chuyển nhượng dự án cho các nhà đầu tư khác dưới nhiều hình thức khác nhau song Ban Quản lý Chu Lai không biết. + Khi có vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất, việc phối hợp giải quyết chưa kịp thời và hiệu quả, làm giảm niềm tin đối với nhà đầu tư nhất là vấn đề giải phóng mặt bằng, cung cấp điện và nước. + Đối với một số dự án thẩm quyền cấp phép đầu tư thuộc TW thì thời gian cấp phép không thực hiện được theo yêu cầu của nhà đầu tư. + Bộ máy cán bộ làm công tác trên lĩnh vực này còn nhiều bất cập nhất là về kiến thức quản lý nhà nước và ngoại ngữ, tinh thần trách nhiệm chưa cao, một số có tư tưởng ỷ lại. + Điều hành của lãnh đạo chưa thật sự quán triệt nguyên tắc một cửa tại chỗ, chưa xác định đầu mối giải quyết công việc có tính chất tổng hợp và cơ quan phối hợp giải quyết, vì vậy công việc khi được giao và trên thực tế triển khai thường gặp vướng mắc. + Cơ sở vật chất phục vụ cho việc thực hiện mô hình một cửa tại chỗ còn thiếu và không tập trung: Chưa có trụ sở làm việc chính thức, thiếu các công cụ cần thiết khác. + Chưa xem cải cách thủ tục hành chính là một yếu tố của môi trường đầu tư có tính chất quyết định khi các ưu đãi đầu tư khác không còn nữa hoặc không đóng vai trò quyết định nữa. * Nguồn nhân lực trên địa bàn KKTM trình độ thấp, số đông chưa qua đào tạo. + Nguồn lao động trên địa bàn KKTM Chu Lai có số lượng dồi dào với gần 600.000 người, hàng năm tỉnh quảng nam có gần 50.000 lao động đến tuổi cần việc làm trong đó khu vực các huyện đồng bằng và ven biển chiếm hơn 80% nguồn lao động. Tuy vậy, chất lượng nguồn lao động còn thấp. Theo số liệu thống kê tỷ lệ nguồn lao động qua đào tạo còn ở mức thấp mới đạt tỷ lệ 25%. + Cơ sở đào tạo công nhân lành nghề và cán bộ kỹ thuật còn thiếu và yếu. Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có 1 trường Đại học mới được thành lập- Đại học Phan Châu Trinh, 3 trường cao đẳng, 3 trường trung học kỹ thuật một trường dạy nghề và các trung tâm dạy nghề ở một số huyện, thị. Quy mô đào tạo của các trường còn nhỏ, chất lượng đào tạo còn thấp, phần lớn các doang nghiệp phải thực hiện việc đào tạo lại trước khi sử dụng. Điều quan trọng hơn là trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập còn thiếu và lạc hậu, kinh phí đầu tư cho lĩnh vực này còn rất thấp. Việc hình thành các trường đào tạo nghề chất lượng cao, các trường đại học được lãnh đạo tỉnh quan tâm song việc hình thành trên thực tế và việc triển khai có hiệu quả còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Việc liên kết với các trường đại học trong cả nước để mở các hệ đào tạo đại học theo các hình thức không chính quy chất lượng thấp. Công tác đào tạo lại và bồi dưỡng nguồn nhân lực trong các cơ quan đơn vị chưa được chú trọng. Kế hoạch hoá việc đào tạo nghề gắn với quy hoạch phát triển sản xuất chưa thực hiện tốt, chưa có sự gắn bó chặt chẽ và trách nhiệm giữa các cơ quan sản xuất và đào tạo. * Cơ cấu tổ chức bộ máy KKTM chưa được ổn định: Khu kinh tế mở Chu Lai có quy mô lớn về mặt diện tích, trong giai đoạn một diện tích quy hoạch là 27.000 ha, giai đoạn hai trên 50.000 ha, lớn gấp nhiều lần khu công nghiệp, khu chế xuất ở các nơi khác. Khu KTTM Chu Lai được tổ chức theo mô hình khu trong khu bao gồm: Khu công nghiệp, khu du lịch,khu thương mại tự do, khu đô thị, cảng biển và sân bay, KKTM là nơi đi đầu trong thực hiện cơ chế chính chính sách, nơi thực hiện các mô hình và động lực mới để hội nhập. Tuy vậy, bộ máy tổ chức, chức năng nhiệm vụ lại được quy định như ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất. Từ khi thành lập đến nay mô hình quản lý khu kinh tế mở có sự thay đổi nhiêù lần, 3 năm hoạt động, 3 lần thay đổi, nội dung chính của các lần thay đổi là nhằm điều chỉnh chức năng nhiệm vụ (theo hướng ban không trực tiếp làm chủ đầu tư mà làm nhiệm vụ quản lý đầu tư) tinh gọn đầu mối các phòng ban chức năngvà điều chỉnh nhiệm vụ của lãnh đạo ban. Chính sự thay đổi nhiều ấy làm cho tổ chức thiếu ổn định, chưa đủ thời gian để đánh giá tính hợp lý của từng mô hình. Việc thay đổi cán bộ lãnh đạo chủ chốt đi liền với việc điều chỉnh tổ chức và sự xáo trộn đội ngũ cán bộ đã tạo ra sự mất ổn định về bộ máy và con người của ban quản lý KKTM Chu Lai. Bên cạnh đó, năng lực quản lý và chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu cao của KKTM. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ chưa được quan tâm đúng mức nên năng lực làm việc với các nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài. Kiến thức ngoại ngữ và pháp luật đầu tư theo thông lệ quốc tế còn yếu. Cơ cấu cán bộ mất cân đối, thừa cán bộ kỹ thuật, nhưng lại thiếu cán bộ trên các lĩnh vực như: kinh tế đối ngoại, luật quốc tế, tài chính, kinh tế phát triển... Chưa có cơ chế ưu đãi để thu hút cán bộ có năng lực khoa học và thực tiễn về công tác tại khu kinh tế mở. Hiện tượng cán bộ có năng lực không muốn công tác tại Chu Lai có xu hướng ngày càng gia tăng. Có thể nói những yếu kém trong công tác tổ chức bộ máy và công tác cán bộ trong thời gian qua vừa là tồn tại vừa là nguyên nhân căn bản trực tiếp gây nên những tồn tại và nguyên nhân khác ảnh hưởng to lớn đến tình hình thu hút đầu tư vào Chu Lai, đây chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. * Giải phóng mặt bằng tái định cư, ổn định việc làm cho ngườì dân còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp. + Giải phóng mặt bằng không đảm bảo tiến độ cho các dự án đầu tư vào khu kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau mà chủ yếu là do chưa coi trọng quy hoạch các khu tái định cư và chưa đầu tư đúng mức cho việc xây dựng khu tái định cư nên không có chỗ để bố trí lại dân cư khi thực hiện việc GPMB. + Chính sách ổn định việc làm cho người dân sau khi giải toả tuy đã được ban hành song chưa đáp ứng nhu cầu ổn định việc làm, nâng cao thu nhập của người dân sau giải toả. Đây là công việc khó khăn do mối quan hệ giữa chi phí bồi thường và môi trường đầu tư. Chi phí bồi thường cao, hỗ trợ tái định cư và chuyển đổi nghề lớn thì công tác GPMB dễ thực hiện,nhưng ngược lại sẽ làm tăng chi phí đầu tư kết cấu hạ tầng và làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. + Chưa phân định trách nhiệm giải phóng mặt bằng, tái định cư cụ thể giữa chính quyền địa phương và Ban Quản lý khu kinh tế mở Chu Lai. + Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, mặt trận và các đoàn thể trong công tác phức tạp này. * Công tác quy hoạch, kế hoạch hoá đầu tư chưa được coi trọng đúng mức: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội KKTM Chu Lai đến năm 2020 chưa được thực hiện, nên gặp lúng túng trong định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực. Chưa phân kỳ đầu tư, chưa xác định rõ nguồn vốn đầu tư. Vì vậy, chưa xác định rõ ràng danh mục các dự án ưu tiên và các công trình trọng điểm trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, điều này trực tiếp ảnh hưởng đến việc xây dựng kết cấu hạ tầng và thu hút vốn đầu tư vào KKTM Chu Lai Quy hoạch chi tiết các khu chức năng chưa được thực hiện một cách cơ bản, nên một số dự án đầu tư khi triển khai gặp trở ngại, làm mất cơ hội đầu tư. Công tác kế hoạch còn nhiều yếu kém, chưa xác định công trình đầu tư trọng tâm trọng điểm, nên đầu tư tràn lan, trải rộng, nhất là trong điều kiện thiếu vốn nên một số công trình hạ tầng không phát huy được hiệu quả đầu tư do không hoàn thành và đưa vào sử dụng đúng tiến độ. Trong khi đó các công trình hạ tầng thiết yếu cần phải được sớm đầu tư và hoàn thành trong một thời gian nhất định để phát huy hiệu quả thu hút đầu tư thì không đủ vốn để thực hiện. Chưa có kế hoạch dài hạn 5 năm, chưa có kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm do vậy việc triển khai công việc trên thực tế nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng rất tuỳ tiện, phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người điều hành. Điều hành kế hoạch thiếu khoa học, không tập trung, không theo quy định của nhà nước, không đảm bảo quy trình đầu tư. Vì vậy, trên thực tế tiến độ xây dựng các công trình hạ tầng chậm. Đây là khâu yếu kém không đáng có trong quản lý điều hành đã tạo ra những khó khăn trong lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng, trong việc định hướng xúc tiến đầu tư, trong việc xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách, trong việc bồi thường thiệt hại giải phóng mặt bằng và cả trong việc xây dựng các khu dân cư. 2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan + Khu kinh tế mở là mô hình kinh tế mới, lần đầu tiên được thực hiện thí điểm ở Viêt nam, trên địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và quản lý điều hành khu kinh tế chưa đáp ứng, điều kiện hạ tầng còn yếu kém, các yếu tố của kinh tế thị trường còn trong tình trạng sơ khai. Nên các khó khăn phức tạp, những yếu kém tồn tại là điều khó có thể tránh khỏi. + Các bộ ngành TW chưa thật sự vào cuộc, chưa coi việc xây dựng khu kinh tế mở là của mình, mà đó là việc của địa phương, Không những thế lại có mặt chủ quan là cho ra đời hàng loạt các khu kinh tế ven biển và cửa khẩu có cùng nội dung hoạt động tương tự trong khi chưa có tổng kết đánh giá về hoạt động của khu kinh tế, nhất là KKTM Chu Lai - khu kinh tế được hình thành đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2003. + Nhiều chính sách, luật mới ban hành sau khi KKTM Chu Lai ra đời có nhiều tiến bộ hơn so với các quy định của Chính phủ về cơ chế ưu đãi cho khu kinh tế mở Chu Lai, làm cho cơ chế ưu đãi của Chu Lai không còn tính chất vượt trội nữa, như các luật về thuế xuất nhập khẩu, luật thương mại, luật hải quan, luật đất đai, đầu tư, luật doanh nghiệp... Trong khi đó các quy định về ưu đãi đầu tư tại Chu Lai lại được quy định bởi một quyết định cá biệt của Chính phủ nên gặp khó khăn trong việc áp dụng các quy định này, tồn tại này đến tháng 11-2006 mới được giải quyết bằng việc ban hành Quyết định số 253/QĐ-TTg ngày 6/11/2006 sửa đổi các quy định nói trên. Bên cạnh đó, các khu kinh tế ra đời sau khu kinh tế mở Chu Lai lại có lợi thế hơn do được quy định theo các luật này. + Định hướng phát triển khu kinh tế chưa rõ, chưa xác định được tiêu chí để xây dựng khu kinh tế: Hiện nay nước ta chưa xây dựng được tiêu chí thành lập khu kinh tế. Vì vậy, khi thành lập khu KTM Chu Lai, từ khi có chủ trương đến khi có quyết định thành lập phải mất đến gần 5 năm, làm mất đi nhiều cơ hội đầu tư. Đến nay vẫn chưa có quy hoạch phát triển và phân bố các KKT trên phạm vi cả nước, nên gây khó khăn trong việc định hướng đầu tư và phát triển, đặc biệt là xác định nhiệm vụ chính cho từng khu kinh tế gắn với các điều kiện kinh tế- xã hội và lợi thế riêng có của mình. Khu kinh tế Dung Quất mặt dù ra đời sau nhưng được kế thừa và xây dựng trên nền tảng của khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất nên thuận lợi trong phát triển. Trong khi đó KTTM Chu Lai khi thành lập,mục tiêu hàng đầu là áp dụng các cơ chế chính sách vượt trội và các mô hình động lực mới để thu hút đầu tư, rút kinh nghiệm cho hội nhập. Nhưng trên thực tế các ưu đãi đầu tư ấy chưa được triển khai bao nhiêu thì sự ra đời hàng loạt các khu kinh tế khác đã phủ định cơ chế ưu đãi đầu tư vượt trội của KKTM Chu Lai. 2.2.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc thu hút vốn đầu tư trong điều kiện hiện nay đối với khu kinh tế mở Chu Lai - Những thuận lợi cơ bản: + Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo ra những thuận lợi cơ bản về thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung trong đó có KKTM Chu Lai. Đặc biệt với lợi thế có sân bay trung chuyển hàng hoá quốc tế được TW quy hoạch, Chính phủ chọn Sân bay Chu Lai là dự án trọng điểm quốc gia giai đoạn 2006-2010 và cho phép đầu tư theo hình thức BOT nguồn vốn nước ngoài. Khu thương mại tự do được Chính phủ giao cho Bộ Thương mại chủ trì xây dựng khung pháp lý cũng thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài. + Sự tập trung trong chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ của các bộ ngành TW ngày càng nhiều hơn, cụ thể và hiệu quả hơn. Bởi lẽ, xây dựng và phát triển các khu kinh tế bây giờ đã trở thành nhiệm vụ chung của cả nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sắp trình Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển các khu kinh tế trong phạm vi cả nước, một số cơ chế chính sách cho các khu kinh tế sắp sửa được ban hành sẽ là nhưng thuận lợi mới trong sự nghiệp phát triển khu kinh tế ở Việt Nam nói chung và khu KTM Chu Lai nói riêng. + Xu hướng các dòng vốn đầu tư nước ngoài nhất là các nước Đông Bắc Á, châu Mỹ, châu Âu như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp, Ý... đang có xu hưóng đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng. Các quan hệ đối ngoại song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản, Việt Nam - Mỹ, Việt Nam - Trung Quốc đang mở ra các triển vọng to lớn trong thu hút đầu tư, cùng với môi trường đầu tư cuả nước ta đang ngày càng được cải thiện sẽ là thời cơ chung để thu hut đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Chính phủ vừa mới ban hành quy chế hoạt động của Khu kinh tế mở Chu Lai thay thế cho Qyết định 108 ban hành năm 2003 đã bị lạc hậu so với quy định của pháp luật hiện hành cùng với các ưu đãi vượt trội trong khu thương mại tự do sắp sửa ban hành là một lợi thế mới mà chỉ ở khu kinh tế mở Chu Lai mới có. + Cơ sở hạ tầng được xây dựng trong gần 4 năm qua với nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng như: Sân bay Chu Lai, Cảng biển Kỳ Hà, hạ tầng các khu công nghiệp Bắc Chu Lai, Tam Hiệp và các công trình hạ tầng khác bước đầu phát huy hiệu quả. Các dự án đã đầu tư vào khu kinh tế mở bước đầu thành công có tác dụng lan toả tích cực trong việc thu hút đầu tư ngày càng có tính chất thực tiễn hơn. + Kinh nghiệm thu hút đầu tư trong những những năm qua sẽ là tiền đề quan trọng trong việc thu hút đầu tư trong thời gian đến, nhất là việc xác định các nhà đầu tư chiến lược, xác định các chủ đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng các khu chức năng, đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư... + Các tập đoàn kinh tế lớn nước ngoài cũng đã chú ý đến khu kinh tế mở Chu Lai ngày càng nhiều hơn và thường xuyên giữ mối quan hệ thông tin về dự án đầu tư như tập đoàn sửa chữa máy bay hạng nặng AWAAA - Bỉ, Tập đoàn ICORPA Canada về dự án đầu tư sân bay Chu Lai, Tập đoàn Suma Dubai về dự án đầu tư khu du lịch cao cấp, tập đoàn tài chính Fleming-Anh, tập đoàn Bourbon investement - Pháp, tập đoàn Citico-Hồng kông, tập đoàn tài chính Nam Phi về chế tác kim cương và nhiều các nhà đầu tư từ các quốc gia và vùng lãnh thổ đến tìm hiểu và đầu tư vào khu KTM. + Nguồn vốn đầu tư của ngân sách TW cho Chu Lai cũng được đầu tư tập trung hơn. Nguồn vốn khai thác trên địa bàn cũng ngày càng gia tăng nhất là nguồn thu từ đất, nguồn khai thác tài nguyên khoáng sản, nguồn thu thuế phát sinh trên địa bàn và các nguốn vốn huy động hợp pháp khác như nguồn vốn ODA, nguồn vốn ứng trước của các nhà đầu tư, nguồn thu cấp quyền sử dụng đất. + Đội ngũ cán bộ công chức ngày càng trưởng thành và có thêm kinh nghiệm trong công tác. Hơn 4 năm xây dựng, với những thành công bước đầu thu được, kể cả những bài học có được từ kinh nghiệm thực tiễn đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý và công chức, viên chức của khu KTM Chu Lai không ngừng trưởng. - Những khó khăn thách thức Bên cạnh những thuận lợi cơ bản có tín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quang Nam.pdf
Tài liệu liên quan