Tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An: LUẬN VĂN:
Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát
triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì vốn là rất quan trọng,
nhiều khi mang tính quyết định. Thu hút đầu tư và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả là chìa
khóa thành công cho sự phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt đối với nền kinh tế còn đang
phát triển.
Cùng với nhiều địa phương trong cả nước, những năm qua, tỉnh Nghệ An có nhiều cố
gắng trong hoạt động xúc tiến đầu tư, ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo lập
môi trường thuận lợi … để thu hút vốn đầu tư. Nhờ đó, số lượng vốn đầu tư cả trong và
ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư không ngừng tăng lên. Kết
quả hoạt động từ các dự án của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng vào việc tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế môt cách tích cực, đúng hướng. Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, từ các tỉnh, thành phố ngoài tỉnh thật sự đã trở thành...
75 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1077 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát
triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì vốn là rất quan trọng,
nhiều khi mang tính quyết định. Thu hút đầu tư và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả là chìa
khóa thành công cho sự phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt đối với nền kinh tế còn đang
phát triển.
Cùng với nhiều địa phương trong cả nước, những năm qua, tỉnh Nghệ An có nhiều cố
gắng trong hoạt động xúc tiến đầu tư, ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo lập
môi trường thuận lợi … để thu hút vốn đầu tư. Nhờ đó, số lượng vốn đầu tư cả trong và
ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư không ngừng tăng lên. Kết
quả hoạt động từ các dự án của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng vào việc tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế môt cách tích cực, đúng hướng. Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, từ các tỉnh, thành phố ngoài tỉnh thật sự đã trở thành một bộ phận cấu thành
của nền kinh tế địa phương. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “...
Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, đồng thời coi trọng
huy động các nguồn ngoại lực; thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn...” [8, tr.71]. Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An
lần thứ XVI, Nhiệm kỳ 2005 – 2010 cũng đã tiếp tục nhấn mạnh: “… Có chính sách huy
động mọi nguồn vốn từ trong dân, từ ngoại tỉnh, từ nước ngoài, từ ngân sách… cho đầu tư
phát triển .. Vận dụng các quy định của pháp luật , ban hành các cơ chế, chính sách
ưu đãi, thông thoáng, thuận lợi cho nhà đầu tư” [30, tr.80]. Tuy vậy, so với nhiều địa
phương khác và đặc biệt là so với nhu cầu vốn đầu tư để góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh, thì hoạt động thu hút đầu tư ở Nghệ An còn
nhiều yếu kém, bất cập.
Việc phân tích khoa học, tìm nguyên nhân và đề ra các giải pháp cơ bản để thu hút được
nhiều vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước vào Nghệ An trong
thời gian tới là một nhiệm vụ cần thiết, cấp bách.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát
triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoạt động đầu tư nói chung đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập ở nhiều khía
cạnh hay giác độ khác nhau. Những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu, một số
bài viết xung quanh vấn đề: Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển; thu hút và quản lý
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hay nghiên cứu hoạt động thu hút đầu tư vào KCN,
KCX… Đáng chú ý một số công trình sau:
+ Tống Quốc Đạt (2004): “Những giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư
trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010” Luận án Tiến
sỹ, chuyên ngành Quản lý và KHH nền KTQD
+ Nguyễn Đẩu (2005): “Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển thành phố Đà
Nẵng” Luận án Tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý Kinh tế
+ Nguyễn Văn Thành (2006): “Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An
hiện nay” Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế chính trị
+ Nguyễn Văn Oánh: “Cải thiện môi trường đầu tư, bắt đầu từ đâu?” Bài đăng trên
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 1/2006
+ Vũ Thành Tự Anh: “Cạnh tranh xé rào hay cuộc chạy đua xuống đáy” Thời báo
Kinh tế Sài Gòn tháng 3/2006
+ Lê Khoa: “Vài suy nghĩ về chính sách thu hút đầu tư trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 5/2007.
+ Nguyễn Hoài Long: “Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của địa phương
trong việc thu hút đầu tư”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Tháng 9/2008.
+ Nguyễn Thế Vinh: “Phát huy lợi thế so sánh tạo bước đột phá phát triển Kinh tế -
Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Tháng 9/2008.
Hầu hết các công trình khoa học này tập trung nghiên cứu dưới giác độ thu hút, quản
lý, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp trong nước hoặc nước ngoài vào một địa phương cụ thể,
vào các khu công nghiệp, tìm ra những khó khăn, thách thức hoặc các giải pháp để thu hút
và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ yếu.
Tuy vậy, cho đến nay, vẫn chưa có khoa học nào nghiên cứu về thu hút vốn đầu tư
trực tiếp vào Nghệ An cho tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách có hệ thống dưới
giác độ của một luận văn hay luận án chuyên ngành quản lý kinh tế. Do vậy, việc nghiên
cứu thực trạng và đưa ra giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp cho phát
triển kinh tế ở Nghệ An hiện nay là vấn đề rất cần thiết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu:
Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp
vào các quốc gia, vùng lãnh thổ nói chung, địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng, đề xuất các
giải pháp, đặc biệt là các giải pháp về quản lý kinh tế nhằm tăng cường thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước vào
địa bàn tỉnh Nghệ An trong những năm tới.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, vốn đầu tư, thu hút vốn đầu
tư, cơ chế quản lý vốn đầu tư trực tiếp vào các quốc gia, vùng lãnh thổ.
- Làm rõ nội dung thu hút vốn đầu tư trực tiếp, tổng thuật kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư
trực tiếp cho phát triển kinh tế ở một số tỉnh, thành trong nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở Nghệ An thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút và
quản lý vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư FDI, đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư
trong nước vào Nghệ An; môi trường đầu tư, các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp
vào các địa phương và tỉnh Nghệ An.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh Nghệ An từ năm 2001 đến nay.(Bao gồm: Vốn FDI,
đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh) và phương hướng, giải pháp cơ bản để đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp giai đoạn 2008-2010, có tính đến năm 2015 và năm
2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn được dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, những lý luận kinh tế về thu hút đầu tư phát
triển KT-XH.
Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp chung: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống hóa,
trừu tượng hóa, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: Phân tích theo mô hình
thống kê, đánh giá, so sánh và tổng hợp từ các số liệu. Đồng thời, luận văn cũng kế thừa và sử
dụng có chọn lọc những thông tin đã có trong các công trình nghiên cứu của một số nhà khoa
học, nhà quản lý.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư và thu hút đầu tư vào quốc gia,
vùng lãnh thổ.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư
trực tiếp vào địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan quản lý nhà nước ở lĩnh vực thu hút đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế ở Nghệ An
và những người quan tâm đến lĩnh vực đầu tư.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư trực tiếp
Hiện nay đang tồn tại một số quan niệm khác nhau về đầu tư. Một số quan niệm tiêu
biểu:
- Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực
vốn lớn hơn. Vốn đầu tư là phần tích luỹ xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác dược đưa vào tái sản xuất
xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào một hoạt động nào
đó nhằm mục đích thu được một khoản lớn hơn.
- Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên…trong cùng một thời gian tương
đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội. Đặc điểm của đầu tư là thời gian
tương đối dài, những hoạt động kinh tế có thời gian dưới một năm không được gọi là đầu
tư.
- Theo luật đầu tư 2005 (có hiệu lực thi hành 01/7/2006) thì: “Đầu tư là việc nhà đầu
tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư” [29, tr.6].
Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư, bao gồm: Doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế; Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài; Hộ kinh doanh cá nhân ở trong và ngoài nước có hoạt động đầu tư [29,
tr.7].
Trong luận văn này, tác giả cho rằng: Đầu tư là quá trình bỏ vốn (tiền, nguyên
liệu, nhân lực, công nghệ, giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh…) vào các hoạt
động sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, người ta phân loại đầu tư theo các tiêu chí khác nhau.
- Theo lĩnh vực của nền kinh tế, có: Đầu tư sản xuất và đầu tư cho các hoạt động dịch
vụ.
- Theo nguồn vốn đầu tư, có: Đầu tư từ vốn NSNN, từ vốn vay hay vốn tự có của
DN, của dân cư, tín dụng…
- Căn cứ vào phạm vi biên giới quốc gia, quốc tịch và nơi đăng ký hoạt động theo
pháp luật của nhà đầu tư, hoạt động đầu tư gồm: Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam; Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư
nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành
hoạt động đầu tư.
- Căn cứ vào các phương thức đầu tư, phương thức sử dụng vốn đầu tư, hoạt động
đầu tư bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính
trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Từ việc
không trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động sử dụng vốn, nhà đầu tư không chịu trách
nhiệm về kết quả đầu tư. Đầu tư gián tiếp thường được thực hiện dưới các hình thức:
Chứng khoán và viện trợ (ODA).
+ Đầu tư trực tiếp: Là phương thức sử dụng vốn đầu tư mà nhà đầu tư tham gia trực
tiếp vào quản lý hoạt động đầu tư và quá trình sản xuất kinh doanh theo 2 hình thức:
Đầu tư chuyển dịch: Người bỏ vốn mua lại cổ phần của người khác nhằm tăng tỷ
trọng vốn góp để nắm quyền chi phối quá trình quản trị kinh doanh doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển: Là hình thức đầu tư nhằm tạo dựng nên năng lực mới (về lượng
hoặc về chất, chiều rộng hay chiều sâu) cho các hoạt động sản xuất, dịch vụ nhằm đạt mục
tiêu hiệu quả. Đầu tư phát triển thường ở dưới dạng: Xây dựng mới, mở rộng quy mô hiện
đại có đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực hoạt động của nền kinh tế hoặc doanh
nghiệp, tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Về thu hút đầu tư, dưới góc độ kinh tế đầu tư, lý thuyết về lực hút và lực đẩy của
luồng đầu tư cho rằng: luồng đầu tư trực tiếp được quyết định bởi các yếu tố thúc đẩy
đầu tư (push factors) từ bên ngoài và các yếu tố thu hút đầu tư từ bên trong (pool
factors). Các yếu tố từ bên ngoài gồm các yếu tố sản xuất có lợi thế so sánh từ nền
kinh tế có vốn đầu tư và môi trường kinh tế toàn cầu, các yếu tố từ bên trong gồm các
yếu tố sản xuất có lợi thế so sánh như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, môi trường
đầu tư, nguồn nhân lực, hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi … của nền kinh tế tiếp
nhận đầu tư [18].
Trong luận văn chỉ tập trung phân tích các yếu tố bên trong của nền kinh tế tiếp nhận
đầu tư.
Vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố (tiền tệ, máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, vị trí kinh doanh, bằng phát minh sáng chế…) được bỏ vào đầu tư nhằm đạt được
mục tiêu đã định.
Theo các cách phân loại đầu tư và theo các tiêu chí khác nhau, vốn đầu tư cũng được
phân thành nhiều loại khác nhau.
- Theo nguồn vốn có: Vốn nước ngoài và vốn trong nước.
- Theo phương thức đầu tư có: Vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp.
Khác với đầu tư gián tiếp là nguồn vốn được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính
thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị
trường tài chính, đầu tư trực tiếp có nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất
(xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất) nên
khó chuyển đổi hoặc thanh khoản. Đặc trưng nổi bật này chính là “ưu điểm” và tạo sự
“yên tâm” cho chính quyền địa phương thu hút đầu tư, tránh được sự rút vốn của nhà đầu
tư (nếu có) theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng lớn, ảnh hưởng
tới sự phát triển ổn định của địa phương.
Luận văn này tiếp cận hoạt động đầu tư và vốn đầu tư theo cả 2 cách phân loại như
trên.
1.1.2. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp đối với phát triển kinh tế
Có rất nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về vai trò của vốn đầu tư trực tiếp,
chúng tôi chỉ tập trung ở những vai trò chủ yếu sau:
a) Vốn đầu tư trực tiếp góp phần bổ sung quan trọng, giải quyết được khó khăn về
thiếu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân
Để có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, tất cả các nước đang phát triển và kém phát
triển, do tích luỹ nội bộ thấp, muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế đều cần phải có
vốn. Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư cũng không ngừng
tăng lên. Thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế cao thường gắn với tỷ trọng đầu tư lớn.
Nhờ có vốn đầu tư mà nhà nước cũng như doanh nghiệp có điều kiện đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế và đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết
các vấn đề văn hoá, xã hội.
Không chỉ đối với các nước nghèo và kém phát triển mà kể cả các nước phát triển,
vốn đầu tư là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Còn đối với các
nước chậm phát triển thì đây là nguồn lực hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Các
quốc gia này luôn rơi vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, lạc hậu về công nghệ và trình độ
quản lý. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang phát triển và kém phát triển, Paul
A.Samuelson đã ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này như là một vòng
nghèo đói, luẩn quẩn: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp; Tiết kiệm và đầu tư
thấp làm cho tỷ lệ tích luỹ vốn thấp, không đủ vốn cho đầu tư; Vốn đầu tư không đủ cho
nhu cầu sản xuất làm cho năng lực sản xuất giảm, năng suất nền kinh tế thấp, điều này dẫn
đến thu nhập bình quân thấp và lại quay trở về chu kỳ ban đầu.
Để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó, biện pháp hữu hiệu nhất có thể coi là bước đột phá là
tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, thu hút và huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài
nước để phát triển kinh tế, tạo ra tăng trưởng, làm cho thu nhập tăng lên.
b) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư trực tiếp được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, và thường đem lại hiệu quả kinh
tế cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu so sánh với các nguồn
vốn đầu tư gián tiếp hay các nguồn vốn viện trợ khác như: cổ phiếu, ODA hay NGO thì
dễ nhận thấy ưu điểm của vốn đầu tư trực tiếp. Đó là, ví dụ vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, nước chủ nhà không phải hoàn trả vốn, do vậy, các nước và vùng lãnh thổ nhận
đầu tư tránh được nợ, hạn chế được việc nhà đầu tư rút vốn ồ ạt qua cổ phiếu và không
phải chịu những ràng buộc về mặt chính trị, xã hội đối với chủ thể đầu tư. Đồng thời
vẫn tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Việc thu
hút đầu tư trực tiếp đã làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, mặt hàng mới, mở rộng thị
trường ngoài nước nhất là các sản phẩm của các ngành công nghiệp, nông lâm thủy hải
sản…từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia hay một địa phương
nhận đầu tư theo hướng CNH- HĐH.
c) Góp phần đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất, rút ngắn quá trình CNH
– HĐH
Khác với các hình thức đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp không chỉ đưa vốn vào địa
bàn nhận đầu tư mà cùng với vốn là kỹ thuật, công nghệ, bí quyết sản xuất kinh doanh,
năng lực maketing…Nhà đầu tư khi đưa vốn vào đầu tư và tiến hành sản xuất kinh doanh
ngoài việc sử dụng nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, họ còn chú trọng đầu tư vào
công nghệ cao để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nhằm tăng sức
cạnh tranh trên thị trường. Điều này góp phần nâng cao năng lực sản xuất và hiện đại hoá
nền sản xuất của địa phương thu hút đầu tư.
Nếu đứng trên góc độ của một doanh nghiệp thì vốn đầu tư là điều kiện cực kỳ quan
trọng để doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất. Nhờ có vốn
đầu tư mà doanh nghiệp có thể nghiên cứu sản xuất ra hoặc mua được những máy móc
thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại ở trong nước và trên thế giới. Từ
đó, nâng cao hơn năng lực cạnh tranh của mình. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ có
những doanh nghiệp nào biết ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ
mới một cách phù hợp thì mới thành công trong kinh doanh, giành được thắng lợi trong
cạnh tranh.
d) Mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo công ăn việc
làm và thu nhập cho người lao động
Có nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư trực tiếp; nguyên liệu, sản phẩm hay
một yếu tố nào đó trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp có thể được nhập khẩu
từ nước ngoài hay xuất bán ra nước ngoài, từ đó góp phần mở rộng quan hệ quốc tế. Có
thêm nhà đầu tư, có thêm tổ chức kinh tế hoạt động là tạo thêm việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì
đầu tư trực tiếp, (đặc biệt là FDI) cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi
có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối
với nước sở tại, nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dẫn đến chỗ đầu
tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng; Tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu với giá cao, dẫn đến chi phí sản
xuất lớn, chất lượng sản phẩm chưa cao, tính cạnh tranh thấp; Do sự chênh lệch về trình độ
quản lý và năng lực công nghệ nên các nước nhận vốn đầu tư nước ngoài có thể bị thua thiệt
trong các dự án liên doanh.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý thuận lợi hay không thuận lợi ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động
thương mại và đầu tư trực tiếp, đặc biệt là thu hút FDI. Vị trí địa lý càng thuận lợi thì mức
độ trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia và nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào càng lớn,
ngược lại sẽ gây trở ngại cho hoạt động kêu gọi, thu hút đầu tư do: tốn thời gian, tăng chi
phí vận tải, giảm hiệu quả kinh tế.
- Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên được coi là tiền đề vật chất cho sự phát
triển của đầu tư trực tiếp. Khí hậu thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi cũng như đất đai đảm
bảo cho việc xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện thu hút
đầu tư ở lĩnh vực nông nghiệp; nhiều danh lam thắng cảnh sẽ thuận lợi cho phát triển kinh
tế du lịch; mạng lưới sống ngòi với độ cao thuận lợi cho phát triển công nghiệp thủy điện;
vùng giàu về tài nguyên thiên nhiên sẽ có thuận lợi thu hút đầu tư hơn vùng nghèo tài
nguyên. Có nguồn tài nguyên lớn và đa dạng là tiền đề để thu hút đầu tư ở lĩnh vực công
nghiệp khai thác, chế biến.
1.2.2. Trình độ phát triển kinh tế
Tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế liên quan trực tiếp tới nhu cầu, khả
năng hấp thụ vốn đầu tư cũng như sự phát triển của thị trường trong nước. Một nền kinh tế
năng động, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định sẽ có nhu cầu và khả năng hấp thụ một
lượng vốn đầu tư lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, tăng trưởng cao sẽ tạo được nguồn tích
lũy cho chi tiêu của Chính phủ, doanh nghiệp vào hoàn thiện và phát triển kết cấu hạ tầng;
mở rộng được thị trường trong nước do sức mua của doanh nghiệp và cả người dân tăng
lên, từ đó thu hút đầu tư sẽ mạnh mẽ hơn.
1.2.3. Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư theo nghĩa chung nhất là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên quan
đến hoạt động đầu tư và ảnh hưởng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả đầu tư
của nhà đầu tư. Nội dung của môi trường đầu tư theo cách hiểu đầy đủ mà các nhà khoa
học đã nêu ra bao gồm: Môi trường pháp lý, kết cấu hạ tầng, thủ tục hành chính và môi
trường chính trị xã hội.
- Môi trường pháp lý: Để thu hút được đầu tư, pháp luật phải đảm bảo thực sự rõ
ràng, nhất quán, minh bạch, ổn định. Hệ thống pháp luật phải tạo một mặt bằng chung về
pháp lý cho mọi nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, xoá bỏ sự khác biệt giữa nhà đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài, phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc xây dựng luật đầu
tư phải đồng thời các luật liên quan khác như: Luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật
thuế… và ban hành các văn bản dưới luật đảm bảo kịp thời, nhất quán, mang tính khả thi
cao. Đồng thời, phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật có liên quan đến chính sách đầu tư để
tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đối với các
địa phương, ngoài những chính sách chung của Quốc hội, Chính phủ, các địa phương cũng
cần có những chính sách, văn bản cụ thể hóa, chi tiết hoá đối với hoạt động đầu tư trên địa
bàn địa phương mình như chính sách ưu đãi đầu tư, lĩnh vực ưu đãi đầu tư, danh mục các
dự án kêu gọi đầu tư…
- Kết cấu hạ tầng: Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nơi nào có kết cấu hạ tầng tốt thì
nơi đó có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và ngược lại. Vì vậy, xây dựng kết cấu
hạ tầng là điều kiện tiên quyết, bắt buộc không chỉ với đòi hỏi trước mắt mà cả lâu dài;
không chỉ tạo điều kiện để thu hút đầu tư mà còn cho sự phát triển bền vững của nền kinh
tế. Hệ thống giao thông vận tải được đảm bảo an toàn, tiện lợi sẽ góp phần giảm thiểu mức
tối đa chi phí lưu thông cho doanh nghiệp. Kho tàng, bến bãi, điện nước, thông tin liên lạc,
xử lý chất thải, phòng chống cháy nổ… ở các khu công nghiệp được xây dựng tốt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tổ chức SXKD. Ngoài ra hạ tầng xã hội như: các hoạt
động thương mại, dịch vụ kinh tế, bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí, nhà ở cho
người lao động … được chuẩn bị chu đáo cũng làm tăng sức thu hút đối với các nhà đầu
tư.
- Thủ tục hành chính: Trong hoạt động đầu tư, thủ tục hành chính ảnh hưởng đến thời
gian, chi phí và cơ hội đầu tư. Thủ tục hành chính rườm rà sẽ tốn nhiều thời gian, tăng chi
phí, mất cơ hội của nhà đầu tư khiến cho nhà đầu tư nản lòng. Cải cách hành chính, đặc
biệt là thủ tục hành chính đang là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách mà các địa phương đang
tập trung giải quyết hiện nay nhằm tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Nếu đơn giản hoá
các hình thức và thủ tục cấp phép đầu tư, rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, mở rộng việc
cho phép áp dụng hình thức đăng ký đầu tư đối với các danh mục dự án cần khuyến khích
đầu tư, loại bỏ những quy định không cần thiết cản trở đến hoạt động đầu tư sẽ thu hút
được đầu tư. Nếu không quy định rõ ràng, công khai thủ tục hành chính trên cơ sở đơn
giản hoá, không xử lý nghiêm khắc những trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực của
những người có liên quan đến hoạt động cấp phép, quản lý đầu tư sẽ làm hạn chế rất lớn
đến kết quả thu hút đầu tư.
- Môi trường chính trị - xã hội: Giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã
hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động đầu tư. Bởi lẽ khi tình hình chính trị bất ổn,
nhất là thể chế chính trị thay đổi cũng có nghĩa là mục tiêu, phương hướng phát triển và cả
phương thức đạt mục tiêu của cả một xã hội cũng thay đổi theo. Giữ vững ổn định chính trị
xã hội sẽ tạo được tâm lý yên tâm, tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào địa bàn.
Yếu tố quyết định vấn đề này là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước
pháp quyền trong việc xử lý kiên quyết, kịp thời và phù hợp với pháp luật những hành vi
vi phạm pháp luật, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của các thế lực phản động đảm bảo
quốc phòng an ninh.
Môi trường đầu tư là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới kết quả thu hút đầu tư. Môi
trường đầu tư tốt sẽ khuyến khích, tạo động lực để nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư với chi phí
và rủi ro thấp, lợi nhuận cao và góp phần mang lại hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn xã
hội. Mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ nào chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư cũng đều
hướng tới việc tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn với các yếu tố: Hệ thống cơ sở hạ
tầng đồng bộ, phát triển; Các thủ tục hành chính về đầu tư phải nhất quán, minh bạch,
thuận lợi và nhanh gọn; Chất lượng các dịch vụ hỗ trợ đầu tư được nâng cao; Các chỉ số
đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được cải thiện tích cực gồm: Chi phí gia nhập
thị trường thấp, nâng cao khả năng tiếp cận đất đai, chi phí về thời gian và chi phí không
chính thức mà doanh nghiệp phải bỏ ra không đáng kể, ưu đãi đối với DNNN, chính sách
phát triển kinh tế tư nhân được thực hiện tốt, đào tạo lao động được quan tâm và thực hiện
có hiệu quả.
1.2.4. Chính sách ưu đãi đầu tư
Chính sách ưu đãi đầu tư là công cụ nhằm thu hút đầu tư hoặc định hướng đầu tư theo
những mục tiêu phát triển nhất định. Chính sách đầu tư tác động trực tiếp đến việc khai
thác, phát huy các nguồn lực bên trong và thu hút các nguồn lực bên ngoài. Mặt khác,
chính sách đầu tư còn tác động đến sự phân bổ các nguồn lực một cách đúng hướng và đạt
hiệu quả cao.
Ưu đãi đầu tư được áp dụng tương đối phổ biến trên thế giới, đặc biệt ở các nước
đang phát triển. Thực tiễn một số nước trong khu vực đã cho thấy: Chính sách đầu tư đúng
quan trọng hơn nhiều so với nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nghĩa là sự phát triển của
một quốc gia, một địa phương phụ thuộc vào chính sách đầu tư hơn là bản thân các nguồn
lực khác.
Có nhiều biện pháp ưu đãi đầu tư khác nhau như miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, miễn giảm thuế nhập khẩu, miễn giảm tiền thuê đất, trợ cấp tín dụng, trợ cấp đầu
tư…
Việc xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư chủ yếu là công việc của Chính phủ. Tuy
nhiên, vai trò của chính quyền địa phương là hết sức quan trọng trong việc thực thi và vận
dụng sáng tạo, bằng cơ chế chính sách riêng trong khuôn khổ cho phép. Vấn đề là ưu đãi
phải cụ thể, thiết thực, có tính khả thi, đặc biệt là phải nhất quán và có xu hướng mở rộng.
Chính sách ưu đãi đầu tư của chúng ta hiện nay dường như chưa hiệu quả trong thu hút và
khuyến khích các hoạt động đầu tư. Hiệu quả thấp phần lớn là do tình trạng ưu đãi thuế
thừa - có nghĩa là, có nhiều nhà đầu tư vẫn thực thi dự án dù không có ưu đãi thuế. Tỷ lệ
ưu đãi thừa cao làm giảm một khoản thuế lớn lẽ ra có thể thu được. Trong một nghiên cứu
gần đây của VCCI về tình hình sử dụng ưu đãi đầu tư của DN Việt Nam, có hơn 80%
DNTN đang hưởng ưu đãi về thuế thừa nhận rằng ưu đãi đó không hề tác động đến quyết
định đầu tư của họ. Điều này cũng có nghĩa là tỷ lệ bao cấp đầu tư đến 70%, nghĩa là, để
tạo thêm một khoản đầu tư 100.000 đồng bằng ưu đãi thuế, ta phải từ bỏ 70.000 đồng tiền
thuế. Nhìn từ góc độ tài chính công, một nghiên cứu bao quát hơn ước tính chi phí cho ưu
đãi đầu tư bằng thuế hằng năm vào khoảng 0,7% GDP [23].
1.2.5. Dân số và nguồn lao động
Dân số và nguồn lao động là nhân tố quan trọng hàng đầu cho sự phát triển kinh tế -
xã hội nói chung và hoạt động thu hút đầu tư nói riêng. Trong dân số vừa có nguồn nhân
lực cần thiết cho hoạt động sản xuất vật chất, vừa là thị trường tiêu thụ các sản phẩm các
dịch vụ và xã hội. Quy mô số dân càng đông, thu nhập cao sẽ góp phần tạo ra thị trường
tiêu thụ càng lớn.
Vai trò quan trọng của dân số còn thể hiện ở tập quán, bản sắc văn hoá - những yếu tố
căn bản để hình thành sức mạnh riêng biệt của một địa phương. Người dân có văn hoá, kỷ
luật, tay nghề và trình độ quản lý sẽ là lợi thế cạnh tranh dài hạn; thói quen tiêu dùng là
động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển; đức tính thân thiện là tiềm năng để thu hút
du lịch và hợp tác kinh doanh; cần cù, sáng tạo là sức mạnh để tạo nên sự phát triển bền
vững.
Trong điều kiện hiện nay, chất lượng nguồn lao động được đặc biệt quan tâm. Khi
nhân loại đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba với nền kinh tế tri thức, rõ ràng không có
nguồn lực nào có thể thay thế được nguồn lao động, đặc biệt nguồn lao động chất lượng
cao. Đây được coi là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng các nguồn lực khác có
hiệu quả và cũng là nhân tố quyết định đến sự phát triển của một quốc gia hay vùng lãnh
thổ. Thực tiễn đã chứng minh, nhiều quốc gia tuy không giàu có về tài nguyên thiên nhiên,
nhưng nhờ có nguồn nhân lực dồi dào và trình độ kỹ thuật cao đã vươn lên thành cường
quốc kinh tế thế giới. Ví dụ điển hình là Nhật Bản - đất nước của những trận động đất, núi
lửa, đất đai kém màu mỡ, nghèo tài nguyên thiên nhiên… nhưng nhờ đức tính cần cù, ham
học hỏi, say mê nghiên cứu khoa học và sáng tạo của người dân…đã đưa Nhật Bản thành
cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ.
Nói tóm lại, dân số - nguồn lao động tạo cả “cung” và “cầu” cho nền kinh tế và
tham gia điều tiết mối quan hệ này. Vì vậy, mỗi quốc gia hay địa phương phải hoạch định
chiến lược phù hợp để định hướng, giáo dục, thúc đẩy vai trò của dân số và nguồn lao
động, đặc biệt là lao động có chất lượng cao nhằm thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế
xã hội.
1.2.6. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp thực chất là tổng hợp các biện pháp
lobby, tiếp thị quảng bá các hình ảnh về một quốc gia hay một địa phương và cung cấp các
dịch vụ đầu tư tốt nhất cho các nhà đầu tư để khuyến khích họ tăng cường đầu tư vào quốc
gia hay địa phương đó.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư có vai trò quan trọng trong việc phát huy nội lực để
thu hút được một giá trị và cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp tối ưu. Nếu so sánh, có thể coi công tác
vận động, xúc tiến đầu tư như là công tác “quảng cáo”, “tiếp thị” hay maketting trong kinh
doanh của doanh nghiệp, coi nhà đầu tư là “khách hàng” và chủ thể tiến hành công tác vận
động, xúc tiến đầu tư là các cấp chính quyền hay các cơ quan được uỷ quyền của các cấp
chính quyền và “sản phẩm” đưa ra quảng bá chính là thông tin về sự thuận lợi của môi trường
đầu tư của một quốc gia hay một địa phương đến các nhà đầu tư tiềm năng.
Không phải ngẫu nhiên, trong những năm gần đây, các cuộc viếng thăm nước ngoài
của các nguyên thủ quốc gia bao giờ cũng có các doanh nghiệp đi cùng. Hoạt động chính
trị của các chính khách không thể thoát ly hoạt động kinh tế của đất nước mà họ đại diện,
trong đó, vận động, xúc tiến thương mại và đầu tư là nội dung hết sức quan trọng.
1.3. KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ TỈNH
TRONG NƯỚC
1.3.1. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai nằm ở trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp
với các trung tâm công nghiệp, dịch vụ và du lịch lớn nhất của cả nước như: TP HCM,
Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng. Đồng Nai là tỉnh có nhiều tiềm năng, thế
mạnh trong phát triển kinh tế và công nghiệp, đó là: Vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên
thiên nhiên đa dạng, nguồn nhân lực có chất lượng, có các cơ sở công nghiệp từ những
năm trước, môi trường đầu tư thông thoáng, nguồn vốn dồi dào, chính quyền năng
động, đã có mối quan hệ sẵn có với các nước. Nhờ có những ưu thế đó mà trong hơn 15
năm qua (từ năm 1992 đến nay) tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đồng Nai được duy trì ở
mức rất cao, bình quân hàng năm giai đoạn 1991 - 1995 là 13,9%/năm; giai đoạn 1996
– 2000 là 12%/năm; giai đoạn 2001 – 2005 là 12,4%/năm. mức tăng trưởng GDP của
Đồng Nai cao hơn nhiều so với cả nước. Với mức độ tăng trưởng GDP bình quân hàng
năm như vậy, GDP của tỉnh Đồng Nai sẽ tăng gấp đôi trong 6 năm, nhanh hơn so với cả
nước khoảng 4 năm.
Kết quả đạt được kể trên là do tỉnh Đồng Nai đã tăng cường thu hút vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước, tạo ra sự “bùng nổ” đầu tư từ những năm 1995. Mức đầu tư tăng
mạnh từ 16,3% GDP năm 1991 lên 28,9% GDP năm1995. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm
1991 – 1995 đạt 5.479 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư nước ngoài chiếm 46,2 %. Chỉ tính
riêng thu hút FDI, năm 2007, tỉnh đã cấp phép và thu hút được 2,67 tỷ USD, tăng 2,4 lần
so với năm 2006 và tăng 2,2 lần so với kế hoạch. Nhờ đó, đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế
cao từ khoảng 6% trước năm 1990 lên 13% năm 1995 và 17% năm 1996 [6].
Từ thực tế phát triển kinh tế - xã hội cũng như hoạt động thu hút vốn đầu tư của tỉnh
Đồng Nai, có thể rút ra một số kinh nghiệm:
- Thứ nhất, phải kể đến tính năng động, sáng tạo của chính quyền tỉnh Đồng Nai.
Ngay từ những năm 1990, trong khi cơ chế chính sách của nhà nước chưa thật sự “mở
cửa” thì tỉnh Đồng Nai Đã chủ động cử đoàn cán bộ cấp cao do Bí thư Tỉnh uỷ dẫn đầu đi
nghiên cứu thu hút đầu tư ở Đài Loan, đây được coi là bước đi tiên phong, làm cơ sở cho
việc đẩy mạnh thu hút FDI từ những năm 1990 cho đến nay.
- Thứ hai, tỉnh đã biết khai thác tốt lợi thế về mặt địa lý của mình, đây là một yếu tố
rất quan trọng để thu hút đầu tư của tỉnh. Đồng Nai vừa nằm ở trung tâm của vùng kinh tế
động lực phía Nam, vừa gần các trung tâm kinh tế lớn như: TP HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu,
Lâm Đồng, đặc biệt là TP HCM. Đặc biệt lại có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi như: Địa
hình tương đối bằng phẳng, khí tượng điều hoà, thuỷ văn thuận lợI, đất đai thổ nhưỡng đa
dạng, tài nguyên tương đối phong phú…
- Thứ ba, Đồng Nai thường xuyên quan tâm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ
thuật. Hệ thống giao thông thuỷ bộ khá phát triển là tiền đề quan trọng cho việc thu hút
đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, còn có các yếu tố khác trong môi trường
kinh doanh như hệ thống cơ chế chính sách quản lý phù hợp, hấp đẫn các nhà đầu tư. Việc
chăm sóc tốt các nhà đầu tư trong hiện tại đã tạo được dư âm tốt để thu hút các nhà đầu tư
khác trong tương lai.
1.3.2. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Hà Tây
Hà Tây (đã nhập về Hà Nội từ 01/8/2008) là tỉnh có rất nhiều tiềm năng và thế mạnh
để tạo nên sức hút đầu tư tự nhiên. Thế nhưng, những năm trước đây, khi nói đến môi
trường đầu tư của tỉnh, các nhà đầu tư thường rất e ngại bởi những rào cản chủ yếu như:
công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, thủ tục đầu tư rườm rà, hành chính quan liêu,
sách nhiễu…Sau một thời gian dài nỗ lực với những biện pháp cải cách quyết liệt, Hà Tây
đã khẳng định vị thế của mình trong con mắt các nhà đầu tư. Từ vị trí xếp hạng gần cuối
bảng trong danh sách xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) khảo sát. Những năm gần đây, Hà Tây đã
có bước đột phá trong thu hút đầu tư. Từ cuối năm 2006, Hà Tây đã chính thức có tên
trong danh sách câu lạc bộ các địa phương thu hút FDI hơn 1 tỷ USD. Các dự án đầu tư
vào địa bàn tỉnh Hà Tây không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà còn có những chuyển biến
tích cực về chất lượng. Chỉ trong năm 2007, tỉnh đã cấp phép cho 30 dự án có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 836,2 triệu USD, tăng 58% về số dự
án và 5% về vốn đầu tư đăng ký so với năm 2006. Năm 2006, tổng số vốn FDI đăng ký là
794,9 triệu USD, gấp 10 lần so với năm 2005. Thu hút đầu tư trong nước cũng vậy, trong
năm 2007, toàn tỉnh thu hút được 58 dự án, tổng số vốn đăng ký đạt 7.668 tỷ đồng, tăng
38% về số dự án và gấp 5,75 lần tổng vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ năm 2006 (năm
2006 tăng 1,4 lần về số dự án và 2,86 lần về số vốn đăng ký so với năm 2005) [2].
Đạt được kết quả như trên, trước hết không thể không nhắc tới công tác vận động xúc
tiến đầu tư mà Hà Tây đã tổ chức thực hiện trong thời gian qua. Từ hội nghị gặp mặt các
nhà đầu tư tháng 12/2005 mà đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư và các tổ chức kinh tế đánh
giá rất cao, tỉnh luôn quan tâm việc quảng bá địa phương. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã thành
lập nhiều đoàn khảo sát, học hỏi kinh nghiệm và vận động đầu tư trực tiếp tại một số nước
như Nhật Bản và Hàn Quốc, qua đó nhiều dự án FDI được cấp phép trong 2 năm qua thì
đại đa số của các nhà đầu tư ở 2 quốc gia này. Thứ hai, chính quyền tỉnh Hà Tây cũng đã
ban hành nhiều chính sách nhằm cải thiện và nâng cao năng lực môi trường đầu tư; cải
cách một cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính, thực hiện phương châm “nhanh chóng,
thuận tiện, minh bạch”, thực hiện “một cửa” trong việc cấp phép đầu tư để rút nắn tối đa
thời gian cấp phép cho nhà đầu tư. Tỉnh đã tổ chức nhiều đợt tập huấn về pháp luật, đặc
biệt là Luật Đầu tư cho các đơn vị cấp sở, ban, ngành và các huyện, thị trong tỉnh. Hà
Tây được coi là tỉnh đầu tiên trong cả nước áp dụng phân cấp về cấp phép đầu tư theo
Luật Đầu tư mới. Thứ ba, công tác quy hoạch và giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất được
giải quyết có hiệu quả, tỉnh đã thành lập các ban giải phóng mặt bằng tại các địa
phương, không để cho các nhà đầu tư phải trực tiếp làm việc với dân. Công khai minh
bạch quy hoạch trên các phương tiện thông tin đại chúng…
Tóm lại, để có được kết quả thu hút đầu tư như trên, tỉnh Hà Tây đã “làm hết sức
mình nhằm hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư” [2].
1.3.3. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc
Mười năm trước đây, Vĩnh Phúc là một tỉnh thuần nông, có điểm xuất phát thấp, tỷ
trọng nông nghiệp chiếm đến 52,54% giá trị GDP, công nghiệp chỉ chiếm 12,86%;
GDP bình quân đầu người chỉ đạt gần 140 USD, thu ngân sách khoảng 100 tỷ
đồng/năm. Đến nay, qua tổ chức thực hiện chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư phát
triển kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được những thành tựu to lớn: Tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và duy trì ổn định trong nhiều năm; Năm 2007: Thu ngân sách đạt hơn
5.060 tỷ đồng; thu nhập bình quân đã đạt mức 900 USD/người/năm; Tỷ trọng công
nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm 60%, dịch vụ 25,24%, nông nghiệp chỉ còn 14,76%.
Tính đến cuối năm 2007, Vĩnh Phúc đã thu hút được gần 500 dự án đầu tư, trong đó có
134 dự án FDI và gần 380 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký hơn 2 tỷ
USD. Riêng năm 2007, Vĩnh Phúc đã thu hút được 30 dự án FDI với tổng số vốn đăng
ký là 802,834 triệu USD, chiếm 63,4% tổng số vốn đăng ký của cả giai đoạn 2002 -
2007. Trong đó, cơ cấu đầu tư phân theo lĩnh vực là: công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn
nhất với 82,62% về số dự án và 73% tổng số vốn đăng ký đầu tư (chiếm 90,58% tổng
số đầu tư FDI); lĩnh vực du lịch - dịch vụ - đô thị chiếm 13,9% số dự án và 24% tổng
số vốn đăng ký (4,93% vốn FDI); còn lại là lĩnh vực nông nghiệp và đào tạo nghề [1].
Thực tế cho thấy, ngay từ khi tái lập tỉnh, nhằm khai thác tốt tiềm năng và lợi thế của
tỉnh trong việc thu hút các dự án đầu tư, Vĩnh Phúc đã xây dựng và thực hiện đồng bộ các
biện pháp như tập trung quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch mặt bằng các khu, cụm công
nghiệp, quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn mới, cụ thể hoá và thực hiện chính sách
khuyến khích và thu hút vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước, ưu
đãi đầu tư trên cơ sở những chính sách của nhà nước đã ban hành… Có thể thấy rõ ba yếu
tố cơ bản, mang tính đột phá, làm nên thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
của tỉnh Vĩnh Phúc, đó là: Xây dựng các KCN chuẩn bị sẵn sàng về mặt bằng, chuyên
nghiệp hoá công tác xúc tiến đầu tư và đẩy mạnh cải cách hành chính.
- Về Khu Công nghiệp: tỉnh đã sớm có chủ trương quy hoạch các Cụm Công nghiệp,
trên cơ sở đó để xây dựng các Khu Công nghiệp, có định hướng, có quy mô và thế mạnh
phù hợp với từng khu vực, từng địa bàn dân cư, đặc biệt nhằm bảo vệ môi trường sinh thái.
Tính đến cuối năm 2007, Vĩnh Phúc đã có 06 KCN với tổng diện tích tự nhiên là 1.809,12
ha, nhiều KCN có tỷ lệ lấp đầy cao: KCN Quang Minh I đạt 97,12%, Quang Minh II đạt
60,96%, Khai Quang đạt 59,6%. Do các KCN của tỉnh đã phát huy hiệu quả cao, nên
UBND tỉnh đang tiếp tục trình Chính phủ tiếp tục phê duyệt thêm 07 KCN với tổng diện
tích 2.205 ha. Diện tích quy hoạch cho các Cụm Công nghiệp, KCN nhiều, hạ tầng ở các
KCN được chuẩn bị sẵn sàng là yếu tố tiên quyết cho thu hút đầu tư ở Vĩnh Phúc [1].
- Về vận động, xúc tiến đầu tư: Từ việc khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động
xúc tiến đầu tư đối với kết quả thu hút đầu tư, chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ trương
chuyên nghiệp hoá hoạt động này, đó là mời các công ty luật, các công ty tư vấn và các cá
nhân tham gia vào quá trình vận động đầu tư. Các đại lý quảng cáo thực hiện tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng và các phương tiện truyền thông khác; các đại lý
du lịch tổ chức các chuyến đi xúc tiến đầu tư ở nước ngoài; các viện nghiên cứu, các hãng
tư vấn và các hãng luật tập trung tìm hiểu, phân tích các công ty đa quốc gia để cung cấp
thông tin chính xác, kịp thời, phục vụ hiệu quả cho các cấp chính quyền khi làm việc với
các nhà đầu tư.
- Về cải cách hành chính: tỉnh có chủ trương đẩy mạnh các biện pháp cải cách thủ tục
hành chính thực hiện “một cửa liên thông”. Việc thực hiện cơ chế này là giao cho Ban
Quản lý cụm, khu công nghiệp của tỉnh làm đầu mối để đứng ra giải quyết toàn bộ các thủ
tục theo trình tự cần thiết cho nhà đầu tư, với phương châm: nhà đầu tư chỉ cần đến một
địa điểm là thực hiện được cả một quá trình từ tư vấn ban đầu đến hoàn thiện các thủ tục
cần thiết để cấp phép đầu tư trong thời gian ngắn nhất.
Cơ chế “một cửa liên thông” được triển khai đã khắc phục được tình trạng trước kia
về các thủ tục như giới thiệu địa điểm, thu hồi giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng, đánh giá tác động môi trường… thì các nhà đầu tư
vẫn phải tự làm việc trực tiếp với các ngành, các cơ quan liên quan. Chính điều này đã gây
không ít khó khăn, phiền hà cho nhà đầu tư như kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục, chi
phí tốn kém do phải đi lại nhiều lần đồng thời đây cũng là nguyên nhân phát sinh tiêu cực
làm nản lòng các nhà đầu tư.
Chương 2
THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
Ở NGHỆ AN
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI NGHỆ AN CÓ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, lãnh thổ của Nghệ An nằm trong
toạ độ từ 18 ◌۫˚35’ đến 20˚ 00’10’’ vĩ độ Bắc và từ 103˚ 50’25’’ đến 105 ˚40’30’’ kinh độ
Đông. Về phía Bắc, Nghệ An giáp với tỉnh Thanh Hoá, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía
Tây có đương biên giới dài hơn 419 km giáp với 3 tỉnh của nước Cộng hoà Dân chủ nhân
dân Lào là: Xiêng Khoảng, Hủa Phăn và Bôlikhămxay, phía Đông giáp với Biển Đông với
bờ biển dài 82 km.
Nghệ An nằm trên một số tuyến giao thông huyết mạch của đất nước, đường quốc lộ
1A, đường Hồ Chí Minh xuyên Việt, các tuyến quốc lộ ngang theo chiều Tây – Đông, Tây
- Bắc. Đầu mối giao thông lớn nhất của tỉnh là thành phố Vinh, đã được công nhận là đô
thị loại I. Mạng lưới đường bộ, đường sắt ở Nghệ An có thể dễ dàng thiết lập các mối quan
hệ kinh tế với các địa phương trong cả nước. Nghệ An có đường biên giới rất dài với nước
bạn Lào, thông qua các quốc lộ 7, 8 thuận lợi cho việc trao đổi với Lào và với vùng Đông
Bắc Thái Lan. Tiếp giáp với vùng biển rộng lớn ở phía Đông, có cảng Cửa Lò, một số
cảng nhỏ và cảng nước sâu Quỳnh Lập đang được quy hoạch xây dựng thuận lợi cho giao
lưu quốc tế và trong nước.
Nghệ An có diện tích tự nhiên là 16.488,45 km2, hiện nay là tỉnh rộng nhất cả nước
(chiếm đến 5% diện tích cả nước).
Về lâu dài, vị trí địa lý là một trong những lợi thế quan trọng của Nghệ An. Đặc biệt,
từ tháng 9/2008, thành phố Vinh đã được công nhận đạt tiêu chuẩn là đô thị loại I trực
thuộc tỉnh, sẽ trở thành trung tâm Kinh tế - Chính trị của khu vực Bắc Trung Bộ, góp phần
tạo điều kiện để tỉnh đóng vai trò là một trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ, hội nhập với
nền kinh tế cả nước và giao lưu với các nước láng giềng (Lào, Đông Bắc Thái Lan, đảo
Hải Nam của Trung Quốc). Tuy nhiên, xét riêng về thu hút đầu tư ở giai đoạn hiện nay thì
vị trí địa lý của tỉnh đang gây ra những khó khăn vì ở xa các trung tâm kinh tế và các cực
tăng trưởng kinh tế của cả nước, ảnh hưởng đến suất đầu tư, giá thành đầu tư của các nhà
đầu tư.
2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
- Khí hậu: Nghệ An thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự phân hoá theo chiều Bắc
Nam, chiều Đông Tây và theo cao độ của địa hình. Các sông lớn gồm có sông Cả, sông
Hiếu, sông Con, sông Giăng. Sông cả lớn nhất với dòng chảy chính dài 390 km.
Sông ngòi có giá trị lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, sông sẽ cung cấp và
thoát nước phục vụ sản xuất cho các doanh nghiệp, là điều kiện để phát triển công nghiệp
thuỷ điện. Tuy nhiên, cùng với yếu tố khí hậu, thuỷ chế cũng không đều theo mùa. Vì thế
thường xảy ra tình trạng lũ lụt, hạn hán ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp
và đời sống nhân dân.
- Tài nguyên sinh vật:
Nghệ An là tỉnh có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng. Đến nay, tổng
diện tích rừng của Nghệ An là 745.537 ha với tổng trữ lượng gỗ là 50 triệu m3. Rừng
nguyên sinh vườn quốc gia Pù Mát điện tích 91.113 ha, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
điện tích 50.000 ha với nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có tiềm năng đầu tư phát
triển công nghiệp chế biến lâm sản và nguyên liệu giấy cũng như phát triển kinh tế du lịch.
Nghệ An có 82 km bờ biển với diện tích 4.230 hải lý vuông, 6 cửa lạch, có trên 3.00
ha diện tích nước mặn, lợ, 12.000 ha ao hồ mặt nước ngọt có khả năng phát triển nuôi
trồng thuỷ sản. Trữ lượng hải sản ước tính trên 80.000 tấn. Bờ biển Nghệ An có nhiều bãi
tắm đẹp, nổi tiếng là bãi biển Cửa Lò, Nghi Thiết, Diễn Thành, Quỳnh Phương.
- Tài nguyên khoáng sản:
Nghệ An có nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn. Đá vôi trên 1 tỷ tấn, đá xây
dựng trên 1 tỷ m3. Riêng khu vực đá vôi Hoàng Mai có trữ lượng 350 triệu m3 dễ khai
thác, gần quốc lộ 1, đường sắt và cảng Nghi Sơn (Thanh Hoá). Ở một số vùng, núi đá vôi
tập trung thành một quần thể thuận tiện cho việc hình thành các KCN và vật liệu xây dựng
tập trung như Hoàng Mai, Kim Nhan…Đất sét làm nguyên liệu xi măng có trữ lượng 300
triệu tấn; 982 triệu tấn đá trắng (Quỳ Hợp, Quỳ Châu); đá bazan có trữ lượng 260 triệu m3
(Nam Đàn, Quỳ Hợp); 160 tấn đá granite (Tân Kỳ); sét làm gốm sứ cao cấp trên 300 triệu
tấn (Nghi Lộc, Đô Lương, Yên Thành, Tân Kỳ); 5 triệu tấn than (Tương Dương, Con
Cuông); Than bùn trên 10 triệu tấn (Tân Kỳ, Yên Thành); vàng sa khoáng tập trung nhiều
dọc sông Cả, sông Hiếu…
Nguồn tài nguyên của Nghệ An tập trung thành những quần thể, nguyên liệu chính và
nguyên liệu phụ ở gần nhau, có chất lượng cao, gần đường giao thông. Vì vậy rất thuận lợi
cho sản xuât xi măng, bột đá siêu mịn, gạch lát, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, phân vi
sinh,... Đây là một trong những yếu tố thu hút các nhà đầu tư đến với Nghệ An.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Đặc điểm kinh tế
- Quy mô kinh tế còn nhỏ bé, tổng giá trị sản xuất địa phương mới chiếm khoảng 2%
GDP của cả nước (tính theo giá hiện hành) trong khi dân số của tỉnh chiếm 3,64% dân số
cả nước. Năm 2007, GDP bình quân đầu người của tỉnh đạt 7,468 triệu đồng, cao hơn bình
quân của vùng Bắc Trung Bộ nhưng mới bằng 2/3 mức bình quân cả nước. Như vậy, tỉnh
có điểm xuất phát thuận lợi hơn một số tỉnh trong vùng nhưng lại không thuận lợi bằng
nhiều địa phương khác trong cả nước.
- Nền kinh tế tăng trưởng cao hơn nhiều trong 5 năm gần đây, cao hơn bình quân của
vùng Bắc Trung Bộ và cả nước. Giai đoạn 2001- 2005 tăng 10,25%, năm 2006 đạt 10,2%;
năm 2007 đạt 10,5%, ước thực hiện 2008 là 11% [32].
- Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế đã được nâng lên theo thời gian nhưng
mức cải thiện chưa lớn. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao. Tăng trưởng kinh tế của
tỉnh chủ yếu vẫn được tạo ra từ các ngành, các lĩnh vực truyền thống, dựa vào việc khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên; các ngành công nghiệp hiện đại hầu như chưa có.
- Cơ cấu ngành kinh tế của Nghệ An đã có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp
với sự gia tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong tổng sản phẩm GDP của tỉnh
(từ 14,2% năm 1995 lên 18,6% năm 2000 và 30,4% năm 2005; 31% năm 2006, 32,24%
năm 2007, ước đạt 33,45% năm 2008) [32], hiện là ngành có mức đóng góp lớn nhất cho
GDP của tỉnh. Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo đúng
quy luật của nền kinh tế thị trường với sự tăng trưởng nhanh và gia tăng dần tỷ trọng của
khu vực kinh tế ngoài nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, du lịch, khách sạn -
nhà hàng, xây dựng, giao thông vận tải.
Tuy nhiên, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Quy
mô hoạt động của các loại hình kinh tế tư nhân còn nhỏ bé, manh mún, đơn giản, vốn và
lao động ít, doanh thu thấp so với bình quân của cả nước, hiệu quả kinh doanh chưa cao.
Có đến hơn 35% số doanh nghiệp trong tổng số các DNNN làm ăn thua lỗ. Khu vực kinh
tế nhà nước chưa thực sự đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế của tỉnh. Đa số
các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, quá trình sắp xếp, tổ chức lại còn chậm. Mức độ đóng
góp cho GDP của tỉnh và xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
có tỷ trọng nhỏ, chủ yếu mới ở lĩnh vực công nghiệp. Ở khu vực này, vẫn dựa vào khai
thác tài nguyên thiên nhiên, gia công là chủ yếu, nên giá trị gia tăng không cao.
Cơ cấu kinh tế theo nội tỉnh cũng đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần chênh
lệch giữa các vùng, mở rộng đô thị, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tiềm năng, lợi
thế của từng địa phương trong tỉnh được khai thác ngày càng hiệu quả hơn. Nhìn chung,
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cả về cơ cấu ngành, thành phần kinh tế và lãnh thổ ở
Nghệ An diễn ra đúng hướng và phù hợp với mục tiêu phát triển cũng như tiềm năng, lợi
thế của tỉnh nhưng tốc độ chuyển dịch còn chậm, chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu
trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa mạnh.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng: Đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, hệ thống điện, hệ
thống cấp nước, hệ thống thông tin liên lạc, khu kinh tế và khu công nghiệp
+ Về đường bộ: Hiện có 528 km đường quốc lộ chạy qua địa phương (trong đó:
QL1A 91km, QL46 90km, QL48 122km, QL7 225 km); 132 km đường Hồ Chí Minh; 421
km đường tỉnh lộ và 3.670 km đường huyện lộ đã tạo thành mạng lưới giao thông liên
hoàn, nối liền các vùng kinh tế với nhau, toả ra các tỉnh trong cả nước cũng như các tỉnh
của nước CHDCND Lào và Đông Bắc Thái Lan.
+ Đường sắt: Trên dọc tuyến tỉnh, có 94 km đường sắt Bắc – Nam và 30 km nhánh
Cầu Giát – Nghĩa Đàn; 07 ga, trong đó có ga Vinh là một trong những ga trung chuyểm
hàng hoá lớn của cả nước.
+ Cảng biển: Cảng Cửa Lò đạt công suất 1,3 triệu tấn/năm là cửa ngõ thông ra biển
không chỉ phục vụ cho nhu cầu của nội tỉnh mà còn cho cả nước bạn Lào và vùng Đông
Bắc Thái Lan. Hiện nay đang quy hoạch để xây dựng thêm cảng nước sâu tại Quỳnh Lập,
Quỳnh Lưu phục vụ cho các dự án kinh tế lớn vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ.
+ Đường hàng không: Hiện đã có tuyến bay Vinh – TPHCM – Vinh, tần suất 02
chuyến/ngày với chủng loại máy bay A320. Sân bay Vinh đang được nâng cấp, lắp đặt
thêm hệ thống đèn tín hiệu để đảm bảo hoạt động trong điều kiện thời tiết xấu, mở rộng
đường băng cho vận hành của loại máy bay lớn hơn và mở thêm một số tuyến bay mới, kể
cả quốc tế trong tương lai gần.
+ Về hệ thống cấp điện, cấp thoát nước: Điện lưới quốc gia đã phủ hết 20/20 huyện,
thành, thị trong toàn tỉnh cung cấp gần 1 tỷ KWh hàng năm. Nhiều nhà máy thuỷ điện
đang được xây dựng khi đi vào hoạt động sẽ đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất
và sinh hoạt; Nhà máy nước Vinh với công suất 60.000 m3/ngày đêm, cung cấp gần 12
triệu m3 nước sạch hàng năm cho TP Vinh và vùng phụ cận, cùng với 13 nhà máy nước ở
các thị xã và thị trấn trước mắt đảm bảo cung cấp nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất
công nghiệp, dịch vụ.
+ Về hệ thống thông tin, bưu chính, viễn thông: Nghệ An là một trong số những địa
phương có trình độ và trang thiết bị thông tin, viễn thông phát triển nhất trong cả nước với
sự có mặt của hầu hết các mạng điện thoại cố định và di động, phủ sóng tất cả các huyện,
thành, thị trong tỉnh. Mạng viễn thông rộng phân bố khắp trong tỉnh với 105 tổng đài,
100% xã, phường, thị trấn đều liên lạc được bằng điện thoại. Đến cuối 2007, tỷ lệ số máy
điện thoại đạt 23,56 máy/100 dân [32].
+ Về khu kinh tế và khu công nghiệp
Hiện nay, Nghệ An có 01 Khu Kinh tế và 04 Khu Công nghiệp, gồm:
* Khu Kinh tế Đông Nam Nghệ An: Thành lập từ tháng 6/2007, tổng diện tích đã
được quy hoạch là 18.826,47 ha, hiện đang trình Chính phủ phê duyệt quy hoạch chung
và xây dựng những công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu.
* Khu Công nghiệp Bắc Vinh: Thành lập năm 1999, diện tích quy hoạch 143,17 ha.
Trong đó, giai đoạn I đã được phê duyệt là 60,16 ha. Hạ tầng ngoài hàng rào, gồm: Đường
nối với QL 1A, hệ thống cấp điện 22 KV, hệ thống cấp nước đã cơ bản hoàn thành. Hạ
tầng trong hàng rào đã xây dựng đạt 53% tổng mức đầu tư được phê duyệt.
* Khu Công nghiệp Nam Cấm: Thành lập năm 2003, diện tích quy hoạch được phê
duyệt là 327,83 ha. Đã cơ bản thực hiện bồi thường GPMB cho gần 300 ha, hoàn thành
đường dây 22 KV để cấp điện tạm thời. Đang tiến hành san lấp mặt bằng và xây dựng hệ
thống giao thông nội bộ.
* Khu Công nghiệp Hoàng Mai: Đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết, diện tích
291,86 ha, chưa đi vào hoạt động.
* Khu Công nghiệp Phủ Quỳ: Đang lập quy hoạch với diện tích dự kiến là 140 ha.
2.1.2.2. Nguồn nhân lực
Tổng số lực lượng lao động của Nghệ An trên 1,5 triệu người, trong đó có 32,5% qua
đào tạo và 21,2% được đào tạo nghề. Sau khi nâng cấp 03 trường trung cấp nghề lên thành
trường cao đẳng dạy nghề, xây dựng mới thêm 01 trường trung cấp chuyên nghiệp (trường
trung cấp tư thục Kinh tế - Kỹ thuật Công nghệ Việt Anh), 01 trường cao đẳng (cao đẳng tư
thục Hoan Châu), 01 trường đại học (đại học tư thục Vạn Xuân), đến nay toàn tỉnh có 03
trường đại học với hơn 30.000 sinh viên; 07 trường cao đẳng đào tạo nhiều lĩnh vực với quy
mô đào tạo trung bình 12.000 sinh viên/năm; 08 trường công nhân kỹ thuật và dạy nghề cùng
với hệ thống các trung tâm dạy nghề ở các huyện, thành, thị hàng năm đã đào tạo cho khoảng
32.000 – 35.000 lao động kỹ thuật.
Đào tạo nghề của tỉnh chuyển mạnh theo định hướng gắn với nhu cầu thị trường lao
động; cung cấp lao động có tay nghề, sức khoẻ, kỷ luật, tác phong công nghiệp, văn hoá
cho thị trường trong và ngoài nước. Đây là một lợi thế lớn để thu hút đầu tư trực tiếp vào
địa bàn Nghệ An.
2.1.3. Những đặc điểm khác
- Hỗ trợ của Chính phủ bằng các cơ chế chính sách đặc thù
+ Mười huyện miền núi phía Tây của tỉnh được hưởng cơ chế chính sách đặc thù
theo Nghị quyết 37/NQ-TW của Bộ Chính trị và Quyết định 147/2005/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về phát triển Kinh tế - Xã hội miền Tây Nghệ An.
+ Thành phố Vinh vừa được công nhận là đô thị loại I, được định hướng phát triển thành
trung tâm kinh tế - văn hoá của vùng Bắc Trung Bộ theo Quyết định 239/2005/QĐ-TTg và
Quyết định 24/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế chính
sách hỗ trợ phát triển Kinh tế - Xã hội đối với các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung
Bộ đến năm 2010.
+ Khu Kinh tế Đông Nam Nghệ An đã được thành lập theo Quyết định số
85/2007/QĐ-TTg ngày 11/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ, các dự án đầu tư vào Khu
Kinh Tế Đông Nam được hưởng ưu đãi đầu tư như các địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó
khăn.
- Nghệ An là nơi sản sinh ra nhiều nhân tài, nhà yêu nước. Kim Liên-Nam Đàn là
quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh- Anh hùng giải phóng dân tộc - Danh nhân văn hoá
thế giới. Cộng đồng những người Nghệ An ở nước ngoài, ngoại tỉnh với hơn 1,5 triệu
người công tác ở nhiều lĩnh vực, sinh sống ở nhiều quốc gia luôn hướng về quê hương,
mong muốn được đóng góp xây dựng quê hương Nghệ An giàu mạnh.
2.2. TÌNH HÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN THỜI GIAN QUA
Từ nhiều năm nay, hàng năm tỉnh Nghệ An đều thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp
vào thực hiện dự án tại tỉnh. Tuy nhiên, số lượng dự án và tổng vốn đầu tư có sự không
đồng đều qua các năm do các nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Sau đây là
nhưng phân tích cụ thể về thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào tỉnh như sau:
2.2.1. Về số lượng dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký
Trong những năm đầu thu hút đầu tư ở tỉnh Nghệ An còn thiếu kinh nghiệm và còn
nhiều hạn chế, song đầu tư trực tiếp trong giai đoạn này cũng đạt được những kết quả nhất
định. Tổng vốn đầu tư huy động thời kỳ 2001-2005 đạt 27.800 tỷ đồng, tăng 40% so với
thời kỳ 1996-2000. Giai đoạn 2001 – 2005, thu hút đầu tư trực tiếp trong nước có 102 dự
án với số vốn đăng ký là 17.268,51 tỷ đồng. Vốn thực hiện giai đoạn này đạt 8.590 tỷ, gấp
hơn 2,4 lần so với giai đoạn 1996-2000 [31].
Cùng với nhịp độ phát triển chung của đất nước công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp
luôn được chú trọng nhằm khai thác tiềm năng của tỉnh, tạo sự phát triển kinh tế xã hội.
Tổng nguồn vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh tăng lên hàng năm. Năm 2006, có 50 dự án được
cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 4.381,077 tỷ đồng. Năm 2007, tỉnh
thu hút được 36 dự án trong nước với tổng số vốn đăng ký là 10.976,735 tỷ đồng (tăng hơn
2 lần so với năm 2006). Đến tháng 5/2008, toàn tỉnh có 215 dự án đầu tư trực tiếp của các
nhà đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký là 40.638,693 tỷ đồng.
Biểu 2.1: TỔNG HỢP CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC Ở NGHỆ AN - GIAI ĐOẠN 2001-2008
___
Thời gian Từ 2001-2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng cộng
TT
Lĩnh vực
Số
dự án
Vốn
đăng ký
(Tỷ đồng)
Số
dự án
Vốn
đăng ký
(Tỷ đồng)
Số
dự án
Vốn
đăng ký
(Tỷ đồng)
Số
dự án
Vốn
đăng ký
(Tỷ đồng)
Số
dự án
Vốn
đăng ký
(Tỷ đồng)
I Công nghiệp 41 6.071,840 19 1.945,22 20 8.316,465 15 5.897,665 95 22.231,19
- Khai thác, chế biến 20 692,24 8 309,82 10 2.612,225 7 502,75 45 4.117,035
- Vật liệu xây dựng 10 1.659,8 7 93,96 7 2.189,14 4 533,37 28 4.476,27
- Cơ khí, chế tạo, lắp ráp 4 271,8 0 - 0 - 0 - 4 271,8
- Thuỷ điện 5 3.425 4 1.541,44 3 3.515,1 4 4.861,545 16 13.343,085
- Hoá chất 2 23 0 - 0 - 0 - 2 23
II Nông nghiệp 5 151,8 5 34,49 4 418,45 3 385,196 17 989,936
- Trồng trọt 0 - 4 32,22 4 418,45 1 313,846 9 764,516
- Chăn nuôi 5 151,8 1 2,27 0 - 2 71,35 8 225,42
III Bất động sản, dịch vụ, du lịch 50 10.667,87 20 2.187,987 7 2.113,34 6 1.479,91 83 16.449,107
- Khu đô thị, TT thương mại 25 7.287,6 13 1.147,398 3 516,1 6 1.479,91 47 10.431,008
- Du lịch, dịch vụ, khách sạn 25 3.380,27 7 1.040,589 4 1.597,24 0 - 36 6.018,099
IV Y tế, giáo dục 6 377 6 244,38 5 128,48 3 218,6 20 968,46
- Y tế 2 210 3 190,86 1 18,68 2 68,6 8 488,14
- Giáo dục 4 167 3 53,52 4 109,8 1 150 12 480,32
Tổng cộng 102 17.268,51 50 4.381,077 36 10.976,735 27 7.981,371 215 40.638,693
Giai đoạn 2001-2008 có 215 dự án, tổng vốn đầu tư 40.638,693 tỷ đồng (bình quân 189 tỷ đồng/dự án)
Nguồn: Sở KH và ĐT Nghệ An, Báo cáo thu hút đầu tư, Tài liệu phục vụ Hội nghị
BCH Đảng bộ tỉnh, Tháng 9/2008.
Một số dự án có tổng mức đầu tư lớn là: Khu liên hiệp khách sạn – sân gôn Cửa Lò
1.527 tỷ đồng; Thủy điện Khe Bố 2.530 tỷ đồng; Nhà máy sản xuất bao bì 690 tỷ đồng và
Nhà máy bia Sài Gòn – Sông Lam 1.592 tỷ đồng của Tổng công ty bia, rượu, nước giải
khát Sài Gòn (SABECO); Khu thương mại, văn phòng cho thuê, chung cư cao cấp
Vicentra của Tập đoàn T&M Trans gần 364 tỷ đồng; Dự án Vinh Plaza 650 tỷ đồng và
Khu khách sạn – Siêu thị cao cấp 300 tỷ đồng tại Cửa Lò của Công ty Vật liệu xây dựng
và xây lắp thương mại BMC (Bộ Công thương).
Về FDI, 02 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên vào Nghệ An được cấp phép
trong năm 1996 đều của nhà đầu tư Anh quốc là: dự án nhựa lỏng Shell Bitumen Cửa Lò
vốn đầu tư là 16 triệu USD, 100% vốn nước ngoài và dự án liên doanh mía đường Nghệ
An State & Lile với tổng vốn đầu tư là 90 triệu USD. Cho đến cuối năm 2005, toàn tỉnh
chỉ thu hút tổng cộng có 19 dự án FDI với tổng vốn đăng ký là 139,405 triệu USD. Trong
2 năm 2006 và 2007 có 5 dự án FDI, tổng số vốn đầu tư đăng ký là 81,81 triệu USD được
cấp giấy CNĐT gồm: Dự án sản xuất điện thoại di động 19.8 triệu USD (của công ty
TNHH Thiên Phú liên doanh với Trung Quốc); Khu vui chơi giải trí trên biển Cửa Lò 0,25
triệu USD (Hàn Quốc); Sản xuất hộp đựng bao bì tự hủy tại KCN Nam Cấm 1,7 triệu USD
(Công cy CP xây dựng công trình Cảng Nghệ An liên doanh với Singapo); Trồng rừng
nguyên liệu của Tập đoàn Innov Green 60 triệu USD (Đài Loan) và Trại tôm giống Nghệ
An của Công ty TNHH CP Việt Nam (Thái Lan) 0,06 triệu USD [Phụ Lục 5].
Đến nay, tỉnh Nghệ An thu hút được 24 dự án đầu tư FDI của các nhà đầu tư từ 09
nước và vùng lãnh thổ, gồm: Trung Quốc 09 dự án; Đài Loan 05 dự án; Hàn Quốc 03 dự
án; Vương quốc Anh 02 dự án; Nhật Bản, Mỹ, Singapo, Thái Lan, Hongkong mỗi nước 01
dự án. Tổng vốn đầu tư đăng ký chỉ đạt 221,215 triệu USD (trung bình tổng vốn đầu tư đạt
khoảng 9,2 triệu USD/dự án).
Một số dự án có tổng mức đầu tư lớn như Liên doanh Mía đường Nghệ An Tate &
Lyle 90 triệu USD, trồng rừng nguyên liệu của Tập đòan Innov Green 60 triệu USD; Sản
xuất, lắp ráp điện thoại di động và máy vi tính 19.8 triệu USD, Công ty Shell Bitumen 16
triệu USD… [Biểu 2.2].
Biểu 2.2: TỔNG HỢP CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ FDI Ở NGHỆ AN ĐẾN THÁNG 5-2008
T
T
Thời gian
Lĩnh vực
Đến
12/2005
Năm 2006
Năm
2007
Tổng cộng
Nước và vùng
lãnh thổ
Số
dự
án
Vốn
đăng
ký
(Triệ
u
USD)
Số
dự
án
Vốn
đăng
ký
(Triệ
u
USD)
Số
dự
án
Vốn
đăng
ký
(Triệ
u
USD)
Số
dự
án
Vốn
đăng
ký
(Triệ
u
USD)
I Công nghiệp
16
133,2
75
1
19,80
0
1 1,700 18
154,7
75
- Khai thác, chế
biến
12
114,4
00
1 1,700 13
116,1
00
TQuốc 5,
ĐLoan 3, Anh
1, Mỹ 1, Nhật 1,
Hàn Quốc 1,
Singapo 1
- Vật liệu xây
dựng
1 0,780 1 0,780 Hàn Quốc
- Cơ khí, chế tạo,
lắp ráp
1 2,000 2
21,80
0
02 nhà ĐT
Trung Quốc
- Hoá chất 2
16,09
5
1
19,80
0
2
16,09
5
Anh, Trung
Quốc
II Nông nghiệp 1 5,000 2
60,06
0
3
65,06
0
- Trồng trọt 1 5,000 1
60,00
0
2
65,00
0
02 nhà ĐT Đài
Loan
- Chăn nuôi 1 0,060 1 0,060 Thái Lan
III
Khách sạn,
thương mại,
dịch vụ
2 1,130 1 0,250 3 1,380
- Khách sạn 1 1,000 1 1,000 Hồng Kông
- Thương mại 1 0,130 1 0,130 Hàn Quốc
- Dịch vụ 1 1 0,250 Hàn Quốc
Tổng cộng 19
139,4
05
2
20,05
0
3 61,76 24
221,2
15
Nguồn: Sở KH & ĐT tỉnh Nghệ An, Báo cáo thu hút FDI, Tài liệu Hội nghị BCH
Đảng bộ tỉnh, tháng 9/2008.
Có thể nói, đây là một sự cố gắng lớn so với trước đây và so với các tỉnh trong khu
vực Bắc Trung bộ. Nguyên nhân của sự thay đổi tích cực này phải kể đến đó là sự quan
tâm của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao của tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh
trong ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Văn bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về
môi trường đầu tư đã giúp cho đầu tư đạt được kết quả khả quan.. Ngoài ra còn có nhiều
nguyên nhân khác như chủ trương chính sách và đặc biệt là những quyết sách điều hành cụ
thể của tỉnh Nghệ An rất đúng và rất quyết liệt. Khi tất cả các yếu tố luật pháp, tuyên
truyền đã được đảm bảo thì cũng cương quyết đấu tranh, thậm chí có những biện pháp
mạnh (như cưỡng chế để GPMB).
Tuy nhiên, tỷ lệ vốn thực hiện đạt thấp, nếu tính tổng vốn đầu tư từ 2001 đến nay,
vốn thực hiện chỉ đạt khoảng 57%; tỷ lệ vốn thực hiện bình quân hiện nay thấp do phần
lớn các dự án cuối năm 2006 và năm 2007 bao gồm các dự án đầu tư lớn như: 05 dự án
thuỷ điện 3.425 tỷ, Nhà máy xi măng Đô Lương 1.300 tỷ..đang trong quá trình triển khai
công tác chuẩn bị đầu tư nên tỷ lệ vốn giải ngân thấp. Ngoài ra, một số dự án chậm triển
khai do còn gặp khó khăn trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng.
2.2.2.Quy mô đầu tư
Về các dự án FDI: Có 09 đối tác thuộc 09 Quốc gia và vùng lãnh thổ đến đầu tư ở
tỉnh, đứng đầu vẫn là Trung Quốc với 09 dự án và vốn đăng ký 30,555 triệu USD chiếm
37,5% về số lượng dự án nhưng chỉ chiếm 13,8% về lượng vốn đầu tư FDI. Có 02 dự án
FDI có số vốn đầu tư rất lớn, chiếm đa số vốn FDI ở tỉnh, đó là dự án LD Mía đường NAT
& L, nhà đầu tư Vương quốc Anh với số vốn đầu tư 90 triệu USD và dự án trồng rừng
nguyên liệu ở các huyện miền núi, của nhà đầu tư Elite Green Co.Ltd (Đài Loan) tổng vốn
đầu tư là 60 triệu USD. Chỉ riêng 02 dự án này đã chiếm đến 67,8% tổng số vốn FDI vào
Nghệ An, còn lại 22 dự án của các nhà đầu tư khác, chỉ chiếm 32,2% tổng số FDI ở Nghệ
An. Qua đó có thể thấy, đối với các nhà đầu tư nước ngoài chỉ mới đầu tư khá lớn ở Nghệ
An trên lĩnh vực nông lâm nghiệp và một số dự án về khai thác, chế biến khoáng sản với
quy mô nhỏ, còn các lĩnh vực có giá trị gia tăng lớn, mà Nghệ An đang rất cần thì chưa thu
hút được.
Về đầu tư trong nước, các dự án lớn chủ yếu là do các Tập đoàn, Tổng công ty ở TP
HCM và Hà Nội đầu tư. Tỉnh cũng đã thu hút được một số dự án đầu tư trực tiếp, vốn khá
lớn của các doanh nghiệp ở nước ngoài và TP HCM mà người quê hương Nghệ Tĩnh làm
chủ hoặc tham gia hội đồng quản trị, như: Dự án Công viên trung tâm, Khu đô thị Quang
Trung, Vinh Tân của Công ty TECCO, Khu trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê và
căn hộ cao cấp VICENTRA… Các doanh nghiệp trong tỉnh thì chỉ đầu tư những dự án quy
mô vừa và nhỏ.
Một vấn đề đáng chú ý là các dự án có quy mô vốn đầu tư lớn ngày càng tăng và chủ
yếu tập trung trong lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản; bất động sản, (xây dựng khu
đô thị, khách sạn, dịch vụ và trung tâm thương mại); tiếp theo là thuỷ điện và sản xuất vật
liệu xây dựng vốn là thế mạnh của tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, nguồn lực này, thế mạnh này
của tỉnh là “hữu hạn” và “không bị giảm hay mất giá trị khi chậm khai thác chúng” do đó,
nhiều dự án đầu tư ở lĩnh vực này cũng nói lên sự thiếu đa dạng, thiếu cơ bản hay chưa
thật bền vững trong thu hút đầu tư trực tiếp ở Nghệ An.
Tính riêng các dự án đầu tư trong nước có 43 dự án với quy mô vốn đầu tư đăng ký
dưới 15 tỷ đồng, chiếm 20% tổng số dự án; 136 dự án có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng
đến dưới 300 tỷ đồng, chiếm 63,3% tổng số dự án; 36 dự án trong nước có quy mô vốn
đầu tư trên 300 tỷ đồng, chiếm 16,7% tổng số dự án. Đặc biệt, có 11 dự án có vốn đăng ký
đầu tư hơn 1000 tỷ đồng, chiếm 5,1% điển hình như: Dự án thuỷ điện Hủa Na 4.255 tỷ,
Thuỷ điện Khe Bố 2.530 tỷ, Khu đô thị Vinh Tân 2.150 tỷ, Tổ hợp sân golf, khách sạn và
biệt thự ở Cửa Lò 1.527 tỷ, Trung tâm thương mại Chợ Vinh 1500 tỷ, Nhà máy xi măng
Đô Lương 1.477,72 tỷ đồng…
Một khía cạnh khác, các dự án đầu tư trực tiếp thuộc lĩnh vực bất động sản, đặc biệt
là các dự án xây dựng các khu đô thị mới, thì tất cả các nhà đầu tư đều huy động vốn đóng
góp của khách hàng là các tổ chức, cá nhân trong tỉnh (theo luật định, nhà đầu tư được huy
động tối đa 70% sau khi thi công xong phần móng công trình), do vậy, thực chất trong
tổng số vốn đầu tư của dự án mà nhà đầu tư đăng ký có sự tham gia khá lớn của nguồn vốn
“nội tỉnh”. Điều đó làm giảm khả năng thu hút vốn của các nhà đầu tư “nội tỉnh” cho các
dự án khác.
2.2.3. Cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực
Tuy không đều, nhưng nhìn chung vốn đầu tư trực tiếp đã có ở hầu hết các lĩnh vực.
Hai năm trở lại đây, mới xuất hiện loại hình đầu tư công nghiệp thuỷ điện và đầu tư vào
trồng rừng nguyên liệu cho sản xuất giấy, bên cạnh đó có một số dự án thuộc lĩnh vực y tế,
giáo dục đào tạo. Lĩnh vực và ngành nghề đầu tư đang ngày càng phù hợp với tiềm năng,
lợi thế và định hướng quy hoạch phát triển bền vững kinh tế -xã hội của tỉnh đến năm
2020.
Các dự án đầu tư trực tiếp chủ yếu đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp khai thác, chế
biến với 45 dự án đầu tư trong nước, tổng vốn 4.117,035 tỷ đồng và 13 dự án FDI, tổng số
vốn 116,1 triệu USD; Xi măng và vật liệu xây dựng 28 dự án trong nước với tổng số vốn
4476,27 tỷ đồng và 01 dự án FDI 0,78 triệu USD; xây dựng khu đô thị và trung tâm
thương mại 47 dự án với tổng vốn đầu tư 10.431,008 tỷ đồng; lĩnh vực khách sạn, du lịch,
dịch vụ 36 dự án trong nước với vốn đăng ký đầu tư 6.018,099 tỷ đồng và 01 dự án FDI
0,25 triệu USD; thuỷ điện 16 dự án 13.343,085 tỷ đồng. Lĩnh vực nông nghiệp 17 dự án
trong nước với tổng vốn đầu tư 989,936 tỷ đồng và 02 dự án FDI 60,06 triệu USD; lĩnh
vực giáo dục đào tạo, y tế có 20 dự án vốn đầu tư 968,46 tỷ đồng [Biểu 2.1 và 2.2]
Cơ cấu đầu tư phân bổ chưa hợp lý. Giữa các ngành, lĩnh vực còn có sự chênh lệnh
khá lớn về số dự án và vốn đầu tư. Nếu tính theo tỷ trọng các ngành được đầu tư, lĩnh vực
sản xuất công nghiệp có 95 dự án chiếm tỷ trọng cao nhất với 47,3%, vốn đầu tư trong
nước 22.231,19 tỷ đồng chiếm 54,7% và FDI có 154,775 triệu USD chiếm 70% so với
tổng vốn FDI; tiếp theo là lĩnh vực bất động sản, dịch vụ, du lịch có 86 dự án chiếm 36%,
vốn đầu tư trong nước 16.449,107 tỷ đồng chiếm 40,48% và vốn FDI 2,38 triệu USD chỉ
chiếm 1%. Lĩnh vực nông nghiệp có 20 dự án chiếm 8,37%, vốn đầu tư trực tiếp trong
nước 989,936 tỷ đồng, chỉ chiếm 2,43%; vốn FDI 65,06 triệu USD chiếm 29,4%, đây là tỷ
trọng khá lớn trong cơ cấu nguồn FDI theo lĩnh vực đầu tư; Lĩnh vực y tế, giáo dục không
có dự án FDI nào, có 20 dự án đầu tư trong nước, chiếm 9,3% và tổng số vốn đăng ký đầu
tư là 968,46 tỷ đồng chiếm 2,37% trong tổng số các dự án đầu tư trong nước.
Một điều đáng phấn khởi là đã có 02 dự án FDI có quy mô vốn lớn (tổng cộng 150
triệu USD) đầu tư vào lĩnh vực nông lâm nghiệp ở Nghệ An. Trong đó, dự án liên doanh
mía đường Nghệ An Tate & Lyle hoạt động rất hiệu quả đã đem lại việc làm, thu nhập ổn
định cho hàng vạn nông dân trong tỉnh; dự án trồng rừng nguyên liệu giấy đang triển khai
thì gắn chặt với việc bảo vệ môi trường. Có thể nói, hai dự án này đảm bảo được yêu cầu
thu hút vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ở tỉnh một cách bền vững.
Nguồn: Báo cáo tổng kết Sở KH&ĐT tỉnh Nghệ An.
2.2.4. Phân bổ dự án đầu tư theo địa bàn hành chính
Hiện nay tất cả các huyện, thành phố, thị xã đều đã có dự án đầu tư trực tiếp. Ở khu
vực đô thị, gồm: Thành phố Vinh, Thị xã Cửa lò và Thị xã Thái Hoà (mới thành lập tháng
6/2008) có 99 dự án, chiếm tỷ lệ 41,4%; ở Khu Kinh tế Đông Nam và các Khu Công
nghiệp (Nam Cấm, Bắc Vinh, KCN nhỏ) có 34 dự án, chiếm tỷ lệ 14,2%; Khu vực 07
huyện đồng bằng (Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc, Đô Lương, Nam Đàn,
Hưng Nguyên) có 157 dự án, chiếm tỷ lệ 24,3% và khu vực 10 huyện miền núi còn lại
(Quế Phong, Quỳ Châu, Tương Dương, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Con
Cuông, Thanh Chương, Kỳ Sơn) có 48 dự án, chiếm tỷ lệ 20,1% tổng số dự án đầu tư trực
tiếp ở tỉnh [Biểu 2.4].
Biểu 2.4: TỔNG HỢP DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN
GIAI ĐOẠN 2001-2008 THEO ĐỊA BÀN
Cơ cấu Vốn đầu tư của các dự án đầu tư trong nước ở Nghệ An phân theo
lĩnh vực
40,48%
54,7%
2,43%
2,37%
Bất động sản
Nông-Lâm nghiệp Y tế, giáo dục
Công nghiệp
TT
Thời
gian
Khu
vực
Từ 2001-
2005
Năm 2006 Năm 2007
05 tháng
đầu
Năm
2008
Tổng
cộng
Ghi
chú
Số
dự
án
Tỷ lệ
%
Số
dự
án
Tỷ lệ
%
Số
dự
án
Tỷ
lệ
%
Số
dự
án
Tỷ
lệ
%
Số
dự
án
Tỷ
lệ
%
1
Khu Kinh
tế, Khu
Công
nghiệp
19 15,7 5 9,6 4
10,
2
6
22,
2
34
14,
2
Có 7
dự
án
FDI
2
Khu vực
đô thị (TP
Vinh và 02
Thị xã)
50 41,3 27 51,8 13
33,
3
9
33,
3
99
41,
4
Có 6
dự
án
FDI
3
Vùng
đồng bằng
(gồm 07
huyện)
34 28 15 29,0 8
20,
5
1 3,7 58
24,
3
Có 5
dự
án
FDI
4
Vùng
miền núi
(gồm 10
huyện)
18 15 5 9,6 14 36 11
40,
8
48
20,
1
Có 6
dự
án
FDI
Tổng cộng 121 100 52 100 39 100 27 100 239 100
Nguồn: Sở KH & ĐT tỉnh Nghệ An, Báo cáo kết quả thu hút đầu tư đến 5/2008, Tài
liệu Hội nghị Tỉnh uỷ 9/2008
Qua biểu 2.4 ta thấy: Tỷ lệ các dự án đầu tư trực tiếp trong Khu Kinh tế và các Khu
Công nghiệp so với tổng số dự án chiếm tỷ lệ rất thấp (14,2%), điều đó cũng nói lên sự bất
cập của hạ tầng Khu Kinh tế và các Khu Công nghiệp. Ngoài một số dự án phải gắn với
địa bàn do đặc điểm SXKD thì cũng có những dự án mà nhà đầu tư xin đầu tư ở ngoài các
Khu Công nghiệp tập trung do hạn chế của các Khu Công nghiệp.
Nếu tính riêng các dự án FDI thì thấy không có sự chênh lệch về số lượng dự án phân
bố ở cả 04 vùng: Khu Kinh tế và các Khu Công nghiệp 07 dự án, Khu vực đô thị 06 dự án,
vùng đồng bằng 05 dự án, vùng miền núi có 06 dự án. Song, về số lượng vốn đầu tư thì có
hơn 2/3 là ở các huyện miền núi (cho 02 dự án mía đường và trồng rừng), còn lại gần 1/3
tổng số vốn FDI (khoảng 60 triệu USD) cho hơn 20 dự án còn lại, cho thấy sự không đồng
đều trong phân bố cả về địa bàn và số lượng vốn của các dự án FDI ở Nghệ an.
Ngoài các Khu Công nghiệp, Thành phố Vinh và Thị xã Cửa lò, các huyện thu hút
được nhiều dự án nhất là Quỳnh lưu, Nghi Lộc và các huyện miền núi cao. Một điểm
chung dễ nhận thấy ở các địa phương này là có sự phát triển về kinh tế hơn các vùng khác,
hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển hơn hoặc là có lợi thế về tài nguyên, khoáng sản, thuỷ
điện. Điều này đặt ra vấn đề là chính sách như thế nào để thu hút vốn hiệu quả gắn với sự
phát triển hài hoà giữa các vùng miền trong tỉnh ?
2.2.5.Về hình thức đầu tư
Các dự án FDI chủ yếu là hình thức liên doanh với các doanh nghiệp trong nước. Chỉ
có 03 dự án 100% vốn nước ngoài (dự án Bật lửa gas Trung Lai, vốn đầu tư 2,0 triệu USD
của Trung Quốc; Nhà máy bột đá Omya, vốn đầu tư 4,0 triệu USD của Hàn Quốc và Nhà
máy chế biến đá vôi trắng Đông Hoằng, vốn đầu tư 2,0 triệu USD của Đài Loan). Có 02
dự án HĐHTKD đều ở lĩnh vực khai thác tài nguyên (dự án khai thác vàng Sông Hiếu, vốn
đầu tư 0,55 triệu USD của nhà đầu tư Trung Quốc và dự án đá trắng Mingsanstone, vốn
đầu tư 2,0 triệu USD của Đài Loan).
Ngoài 02 dự án FDI ở lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản thường được triển
khai dưới hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh với nước chủ nhà, số dự án 100% vốn
nước ngoài quá ít (chỉ có 03 dự án, 12,5%), đặc biệt, Nghệ An chưa thu hút được dự án
nào ở hình thức BOT, BO hay BT, những hình thức mà có nhiều ưu điểm đối với địa
phương thu hút và đã khá phổ biến ở những địa phương khác.
Các dự án đầu tư trực tiếp trong nước chủ yếu do các công ty cổ phần và công ty
TNHH đầu tư, rất ít hình thức đầu tư của doanh nghiệp tư nhân hay hình thức khác. Trong
tổng số 215 dự án đầu tư trực tiếp trong nước vào Nghệ An từ năm 2001 đến nay, có 146
dự án (chiếm 67,9%) ở hình thức Công ty cổ phần; có 61 dự án (chiếm 28,4%) ở hình thức
Công ty TNHH và chỉ có 08 dự án (3,7%) nhà đầu tư là Doanh nghiệp tư nhân hay ở mô
hình tư thục. Điều này cũng phản ánh xu thế chung về cổ phần hoá cũng như đa dạng hoá
các thành phần kinh tế, loại hình kinh tế ở nước ta hiện nay.
Biểu 2.5: CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN PHÂN THEO
HÌNH THỨC ĐẦU TƯ
STT Hình thức đầu tư Số dự án Tỷ lệ %
1 Đầu tư FDI 24 100
- Liên doanh 19 79,2
- 100% vốn nước ngoài 03 12,5
- Hợp đồng hợp tác kinh
doanh
02 8,3
2 Đầu tư trong nước 215 100
- Công ty cổ phần 146 67,9
- Công ty TNHH 61 28,4
- Hình thức khác (DN tư
nhân,Trường tư thục..)
08 3,7
Nguồn: Sở KH&ĐT tỉnh Nghệ An, Báo cáo thu hút đầu tư, 8/2008.
2.2.6. Về tình hình triển khai, đóng góp của các dự án đầu tư trực tiếp qua các
năm
Tính từ năm 2001 đến tháng 5/2008, trên địa bản tỉnh Nghệ An có 239 dự án đầu tư
trực tiếp còn hiệu lực, gồm 24 dự án FDI và 215 dự án đầu tư trong nước. Có 85 dự án đã
đi vào hoạt động (chiếm 35,6 %). Tỷ lệ vốn thực hiện đối với các dự án đầu tư chiếm
khoảng 57 % so với tổng vốn đầu tư đăng ký. Điều này cho thấy được tầm quan trọng của
nguồn vốn đầu tư trực tiếp đóng góp vào sự phát triển kinh tế của tỉnh Nghệ An.
Các dự án có vốn đầu tư trực tiếp giữ vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh. Riêng giá trị sản xuất hàng năm của các dự án FDI ước đạt 400-500 tỷ
đồng, giải quyết việc làm cho trên 2500 lao động trong các nhà máy và hàng vạn lao động
ở vùng nguyên liệu và dịch vụ phục vụ nhà máy. Điển hình là liên doanh mía đường Nghệ
An Tate & Lyle, cột điện bê tông Khánh Vinh, nhựa đường lỏng Bitumen… đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển một số vùng kinh tế trọng điểm (vùng Nghĩa Đàn,
Quỳ Hợp).
2.2.7. Áp dụng khoa học - công nghệ
Về tình hình áp dụng khoa học – công nghệ của các dự án đầu tư trực tiếp trên địa
bàn tỉnh cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức của Sở Khoa học và Công nghệ.
Tuy nhiên, có thể thấy việc áp dụng khoa học công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất chủ
yếu tập trung tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn như LD Mía đường NAT & L, Nhà
máy sản xuất bao bì, lon nhôm hai mảnh và bao bì Carton Công ty SABECO Sông Lam …
Các nhà đầu tư chủ yếu nhập khẩu máy móc, thiết bị từ các nước mới như: Hàn Quốc,
Trung Quốc, vùng lãnh thổ Hồng Kông, Đài Loan .. có trình độ trung bình trên thế giới.
Việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ từ các nước có trình độ phát triển tiên tiến như EU,
Mỹ…vẫn còn rất ít. Do vậy, để nâng cao trình độ khoa học công nghệ áp dụng trên địa bàn
tỉnh, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, tập trung vào các tập đoàn lớn có lợi thế về
vốn để tiếp cận và sở hữu công nghệ hiện đại.
Tóm lại, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài,
ngoại tỉnh đã góp phần thúc đẩy công cuộc CNH-HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP; thúc đẩy
xuất khẩu phát triển; tạo nguồn thu ngân sách lớn, ổn định và ngày càng tăng cho địa
phương; tạo tiền đề vật chất quan trọng để chuyển giao công nghệ, tiếp cận nền kinh tế trí
thức, hội nhập kinh tế quốc tế; hình thành tác phong lao động công nghiệp; thiết lập môi
trường đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với nền kinh tế thị trường và hội nhập.
2.3. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ VÀ NHỮNG
VƯỚNG MẮC TRONG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN HIỆN
NAY
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế
- Thu hút vốn đầu tư đạt thấp so với nhu cầu, tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Phần lớn
các dự án có quy mô nhỏ, chủ yếu trên các lĩnh vực chế biến lâm sản, khai thác chế biến
khoáng sản, khách sạn nhỏ… rất ít dự án lớn, công nghệ hiện đại nhằm tạo được sức “đột
phá” để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế của tỉnh (FDI: dự án khai thác vàng Sông Hiếu:
550.000 USD; Khách sạn Việt Lào 1 triệu USD; nhà máy thức ăn chăn nuôi gia súc: 1
triệu USD; liên doanh sản xuất keo: 95.000 USD; cửa hàng Huapheng: 130.000
USD…Dự án trong nước, như:Trang trại chăn nuôi đà điểu ở Diễn Châu: 2,27 tỷ đồng,
Nhà máy kem Đỗ Quyên 3 tỷ đồng, Nhà máy thức ăn gia súc TNT 4 tỷ đồng…).
- Số các dự án đăng ký nhiều, nhưng triển khai ít. Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn
đăng ký thấp, nhiều dự án có tiến độ chậm, có dự án bị giải thể (Có 01 dự án bị giải thể:
Liên doanh Hồng Thái – Sit, vốn đăng ký là 50 triệu USD; 27 dự án triển khai chậm hoặc
chưa triển khai: Dự án Hồ Cửa Nam, Khu du lịch Trung Đô, Khu du lịch Đảo Lan
Châu, Nghìn năm Thăng Long ở Mũi Rồng… với tổng số vốn đăng ký là 6.437,46 tỷ
đồng). Các dự án đầu tư vào các KCN còn nhỏ về quy mô, ít về số lượng, tiến độ chậm,
KCN Bắc Vinh đã có 13/14 dự án đi vào hoạt động, còn KCN Nam Cấm có 21 dự án
đầu tư nhưng chỉ mới có 06 dự án đi vào hoạt động, hiệu quả kinh doanh hạn chế.
- Tỷ trọng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp còn thấp và thiếu ổn định, hiệu
quả kinh tế do các dự án mang lại chưa cao, chưa tương xứng với sự quan tâm, tập trung
chỉ đạo của tỉnh ủy, UBND tỉnh.
- Hoạt động xúc tiến đầu tư còn thiếu và yếu. Công tác chuẩn bị, xây dựng tài liệu, dữ
liệu xúc tiến đầu tư không kịp thời, chất lượng thấp, hình thức nghèo nàn, chưa tương
xứng với yêu cầu và sự quan tâm của các nhà đầu tư. Cơ chế mới “một cửa liên thông” về
xử lý hồ sơ cho các dự án đầu tư ngoài Khu Kinh tế Đông Nam và các Khu Công nghiệp
tập trung thay thế Quyết định 4412/2004/QĐ-UBND chưa được ban hành do đó thủ tục
hành chính về đầu tư còn phải qua nhiều cơ quan, nhiều bước nên lãng phí thời gian, công
sức gây bức xúc cho các nhà đầu tư.
- Các cơ quan quản lý nhà nước chưa phục vụ tốt cho hoạt động của các doanh
nghiệp. Theo phản ánh của các doanh nghiệp tại các cuộc gặp mặt với đại diện lãnh đạo
tỉnh và các ngành thì:
+ Chi phí không chính thức còn cao, doanh nghiệp phải chờ đợi lâu, đi lại nhiều lần;
các hướng dẫn thủ tục về thành lập doanh nghiệp, xây dựng, đất đai, nộp thuế… còn lúng
túng, thiếu nhất quán
+ Những vướng mắc, khó khăn về giải phóng mặt bằng, thực hiện ưu đãi đầu tư…
cho các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư chưa được giải quyết kịp thời, thấu đáo,
dứt điểm nên các dự án này chưa triển khai hoặc triển khai chậm so với tiến độ dẫn đến tỷ lệ
vốn thực hiện so với vốn đăng ký thấp và ảnh hưởng tới tâm lý của các nhà đầu tư muốn triển
khai các dự án mới.
- Các ngành, các địa phương thiếu sự phối kết hợp một cách chặt chẽ, đồng bộ với
nhau trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các bộ, ngành trung ương, các địa phương có tiềm
năng và vận động, thu hút các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn, các nhà đầu tư trong
và ngoài nước. Do đó, hiệu quả công tác xúc tiến, vận động đầu tư còn thấp, khó thu hút
được các nhà đầu tư có tiềm năng vào các dự án lớn.
- Cơ sở hạ tầng, mặt bằng phục vụ đầu tư còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp tiến độ
phát triển đầu tư, ảnh hưởng tới tâm lý của nhà đầu tư. Việc chưa chuẩn bị sẵn sàng về
đất đai (đặc biệt đối với các dự án lớn cần mặt bằng sản xuất rộng) cũng như việc giải
phóng mặt bằng, đền bù, di dời và tái định cư dân khu vực đầu tư còn nhiều bất cập đã
hạn chế việc tiếp nhận các dự án mới cũng như đẩy nhanh tiến độ của các dự án đã
được cấp giấy chứng nhận đầu tư.
- Ngoài ra, một số trở ngại ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư nước ngoài như nguồn
nhân lực bất cập, nguồn nhân lực tại chỗ tuy dồi dào, nhưng chất lượng chưa cao, chủ yếu
là lao động phổ thông. Lao động có tay nghề cao, thạo ngoại ngữ còn thiếu; cạnh tranh gay
gắt do thị trường mở cửa theo lộ trình cam kết quốc tế, công nghiệp phụ trợ còn hạn chế,
chi phí đầu vào tăng (giá nguyên, vật liệu tăng, giá nhân công.v.v ); thời tiết khắc nghiệt,
nắng nóng kéo dài dẫn tới thiếu nước và điện phục vụ sản xuất; vẫn còn vướng mắc về thủ
tục pháp lý và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ …
2.3.2. Nguyên nhân làm hạn chế thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An
Thứ nhất, Nghệ An là tỉnh nghèo, kinh tế thị trường chưa phát triển, trình độ sản xuất
còn thấp, khoa học công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu cho sự
phát triển nền công nghiệp tiên tiến hiện đại. Tỉnh chưa có đủ tiềm lực để đầu tư phát triển
đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội: Hạ tầng khu kinh tế Đông Nam và các khu công
nghiệp tập trung, khu công nghiệp nhỏ chưa được đầu tư đúng mức chủ yếu là do ngân
sách tỉnh còn hạn hẹp. Theo thống kê, nguồn vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây
dựng và phát triển các KCN trong hơn 5 năm qua là 137,195 tỷ đồng (xấp xỉ 30 tỷ
đồng/năm). Trong đó, vốn cho đầu tư hạ tầng kỹ thuật chỉ khoảng 11 tỷ đồng/năm.
Ngành nghề trong tỉnh chưa phát triển. Lao động dôi dư nhiều. Tốc độ đô thị hoá
chậm. Bên cạnh đó, Nghệ An là địa phương nằm xa các trung tâm kinh tế lớn và các
cực tăng trưởng của cả nước; thời tiết không thuận lợi, thường xuyên có bão lũ, hạn
hán. Điều kiện đi lại còn khó khăn nên chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu
tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, việc ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư còn thiếu những yếu tố mà
nhà đầu tư cần, do vậy, chưa đủ sức thu hút các nhà đầu tư. Chính sách ưu đãi đầu tư
vào Nghệ An chưa đề cập đến việc tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận với các
nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, thiếu tính ổn định. Đặc biệt, có chính sách ban
hành “tiền hậu bất nhất” gây khó khăn và bức xúc cho nhà đầu tư. Giá thuê đất đã có
kết cấu hạ tầng vẫn cao hơn nhiều so với các tỉnh khác. Việc hỗ trợ vốn từ ngân sách
theo các chính sách đã ban hành vẫn thực hiện chậm chạp làm giảm lòng tin của các
nhà đầu tư.
Thứ ba, thủ tục hành chính của tỉnh Nghệ An đã được thực hiện một cách tích cực
nhưng chưa thật sự có hiệu quả. Các nhà đầu tư chưa hài lòng với cá điều kiện, thủ tục
đầu tư ở Nghệ An. Họ cho rằng, Nghệ An vẫn còn nhiều thủ tục rườm rà, quá nhiều
khâu, nhiều cấp, phiền hà hơn so với các địa phương khác. Một số cán bộ công chức có
thái độ cửa quyền, ban ơn gây khó dễ cho các nhà đầu tư, làm mất thời gian đi lại, giảm
lòng tin, mất cơ hội kinh doanh của nhà đầu tư. Trong lãnh đạo và chỉ đạo của tỉnh
thiếu tập trung, chưa đồng bộ, công tác phối hợp giữa các Sở, Ban, Ngành, địa phương
chưa tốt.
Thứ tư, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt bằng cho nhà
đầu tư còn chậm, mất rất nhiều thời gian của các nhà đầu tư. Năng lực hội đồng đền bù
cấp huyện còn yếu; thiếu tính kiên quyết trong quá trình triển khai thực hiện; công tác
tuyên truyền, vận động để người dân hiểu được lợi ích thiết thực và lâu dài trong việc
đền bù, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện các dự án đầu tư chưa được quan tâm
đúng mức và hiệu quả chưa cao.
Thứ năm, công tác vận động xúc tiến đầu tư chưa chuyên nghiệp, các hoạt động
còn thiếu tính chủ động và linh họat, còn nặng về tuyên truyền và quảng bá, chưa tiếp
cận với các đối tác đầu tư cụ thể theo từng dự án cụ thể, còn mang tính hình thức, việc
tiếp xúc trao đổi với nhà đầu tư trong và người nước quá ít. Các hình thức vận động,
thu hút đầu tư ở nước ngoài chưa đủ sức mạnh để tìm kiếm các doanh nghiệp lớn đầu tư
vào Nghệ An. Công tác chuẩn bị xúc tiến đầu tư như: lập, rà soát bổ sung quy hoạch
tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch sử dụng đất đai chưa được thực hiện thường
xuyên, kịp thời; Chuẩn bị cơ sở dữ liệu, tài liệu chưa đáp ưng yêu cầu tìm hiểu thông
tin của nhà đầu tư. Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư còn dàn trải; Tổ chức các cuộc
tiếp xúc, hội thảo xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước chưa có tính hệ thống; mục tiêu,
chỉ tiêu thiếu cụ thể. Thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư còn chung chung, thiếu cụ
thể, đôi khi thiếu nhất quán, dẫn đến sai lệch.
Cơ quan đầu mối, chủ trì tham mưu tổng hợp về công tác xúc tiến, vận động thu hút
đầu tư của tỉnh là Sở Kế hoạch và Đầu tư còn yếu về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ
năng xúc tiến đầu tư; cán bộ trực tiếp làm công tác xúc tiến đầu tư còn lúng túng, tính
chuyên nghiệp chưa cao.
Trong những nguyên nhân trên, nguyên nhân cơ bản là môi trường đầu tư chưa đáp
ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư. Một môi trường đầu tư hấp dẫn sẽ là động lực thu
hút mọi nguồn đầu tư cho sự phát triển của tỉnh. Các nhà đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận và
sự thuận lợi trong sản xuất sẽ đến với Nghệ An nếu có trong môi trường đầu tư hoàn thiện
và ổn định.
2.3.3. Những khó khăn vướng mắc và những vấn đề đặt ra trong việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An
- Về việc thực thi các quy định của Luật và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Nhà
nước liên quan đến hoạt động đầu tư
+ Trong việc ban hành chính sách ưu đãi đầu tư: Cũng như các nước trong khu vực,
Việt Nam đã đưa ra nhiều ưu đãi đầu tư hào phóng để thu hút đầu tư. Các địa phương cũng
đưa ra những chính sách ưu đãi riêng để “dành giật” các nhà đầu tư, tạo nên sự cạnh tranh
trong thu hút đầu tư giữa các địa phương. Cần phải đánh giá, nhìn nhận vấn đề này một
cách khoa học, khách quan để đạt được lợi ích chung, hiệu quả ở phạm vi quốc gia
Có rất nhiều loại ưu đãi đầu tư khác nhau, các ưu đãi đầu tư lại được quy định trong
các luật và văn bản dưới luật khác nhau, gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong
công tác quản lý ưu đãi đầu tư cũng như cho các nhà đầu tư trong việc nhận biết và tiếp
cận ưu đãi đầu tư. Hơn nũa, có những loại ưu đãi đầu tư được sử dụng nhằm đạt được đồng
thời nhiều mục tiêu khác nhau và đôi khi còn xung đột, triệt tiêu lẫn nhau. Ví dụ, vừa thu
hút đầu tư công nghệ cao lại vừa giải quyết công ăn việc làm, phát triển kinh tế địa phương
và cân bằng giới. Sự phức tạp càng được nhân lên do các địa phương tiếp tục đưa ra các ưu
đãi riêng của địa phương mình một cách tuỳ tiện, thậm chí phạm luật để cạnh tranh thu hút
đầu tư. Sự cạnh tranh này thường dẫn đến tình trạng “đua đến kiệt sức” trong nội bộ một
quốc gia [3].
+ Trong việc thi hành Luật đầu tư: Luật đầu tư thống nhất đã được ban hành năm
2005 đã góp phần tích cực cải thiện môi trường đầu tư ở trong nước. Nhưng theo đánh giá
của tổ công tác thi hành luật doanh nghiệp và luật đầu tư, hiện văn bản luật này đang nảy
sinh những vướng mắc và xung đột với một số luật hiện hành khác như Luật Bất động sản,
Luật Đất đai và Luật Doanh nghiệp. Đơn cử như khi cấp giấy chứng nhận đầu tư, yêu cầu
nhà đầu tư nước ngoài lần đầu phải có dự án đầu tư và quy định cơ quan đầu tư địa phương
phải quản lý địa điểm đầu tư, mục đích và nhu cầu sử dụng đất. Quy định này là thừa và
chồng chéo với luật đất đai. Hơn nũa khi cấp giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan chức năng
lại phải quản lý cả quy mô đầu tư và loại sản phẩm cũng là không phù hợp.
Khái niệm về DN có vốn ĐTNN cũng chưa được hiểu rõ, gây nhiều khó khăn cho cơ
quan quản lý cấp phép. Theo Luật DN, khi nhà đầu tư chiếm tỷ lệ vốn từ 51% trở lên được
coi là DN có vốn ĐTNN. Thế nhưng, với trường hợp DN nước ngoài mua lại cổ phần của
DN trong nước, và có tỷ lệ vốn lên tới 90% nhưng đại diện trong đăng ký kinh doanh vẫn
là người Việt Nam. Do vậy, cơ quan quản lý đầu tư địa phương lúng túng không biết
trường hợp này được coi là DN Việt Nam hay là DN có vốn ĐTNN ?
Một vấn đề khác nữa thể hiện sự bất cập trong quy định của luật, đó là không biết vị
trí của giấy chứng nhận đầu tư trong các thủ tục cấp phép. Có dự án nhận giấy phép đầu tư
rồi mới thực hiện đánh giá tác động môi trường, trong lúc có nhà ĐTNN phải mất khoảng
thời gian 2 năm mới nhận được giấy phép chứng nhận đầu tư bởi phải hoàn thành đánh giá
tác động môi trường trước. Có những trường hợp nhà đầu tư chịu khoản chi phí lên tới
hàng nghìn đô la để hoàn thành thủ tục đánh giá tác động môi trường nhưng vẫn chưa nhận
được giấy phép đầu tư [16]. Ngoài ra, còn nhiều vướng mắc giữa Luật Đầu tư và cam kết
WTO liên quan đến đầu tư không chỉ gây khó khăn không chỉ cho nhà ĐTNN mà cả cơ
quan quản lý nhà nước. Ví dụ, DN nước ngoài xin phép thành lập pháp nhân nhiều mục
tiêu như hai lĩnh vực xây dựng và phân phối. Đây là hai lĩnh vực có mức độ cam kết mở
cửa khác nhau. Lĩnh vực xây dựng không hạn chế về vốn nhưng lĩnh vực phân phối nhà
đầu tư nước ngoài tham gia không được vượt quá 49%. Trong trường hợp này thì các cơ
quan quản lý không biết dựa vào điều kiện nào để cấp phép cả [25].
+ Về hệ quả của phân cấp theo Luật Đầu tư 2005: Phân cấp theo Luật Đầu tư mới đã
tạo ra một không khí sôi động trong xúc tiến và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, một số vấn đề
đang đặt ra qua thời gian đầu thực hiện phân cấp quản lý đầu tư. Đó là, làm sao thực hiện được
cơ chế thông tin thống nhất, sự phối hợp trong thu hút đầu tư và thực hiện quy hoạch tổng thể
ngành, lĩnh vực ?
Thứ nhất, về thông tin phục vụ công tác quản lý nhà nước về đầu tư: Trước đây, với
sự phân cấp hạn chế, việc thống kê số liệu định kỳ phục vụ công tác quản lý nhà nước về
đầu tư tập trung qua một đầu mối là Bộ KH và ĐT nên số liệu nhanh chóng, kịp thời, đồng
bộ, còn hiện tại, chất lượng, tiến độ thông tin về tình hình thu hút đầu tư của các địa
phương phụ thuộc vào trình độ, trách nhiệm của cán bộ làm công tác quản lý đầu tư ở các
địa phương. Hơn nữa, thông tin này khó có thể đồng bộ được vì do tính không đồng đều ở
các địa phương.
Thứ hai, về xúc tiến đầu tư: Với sự chủ động, các địa phương có thể đi xúc tiến đầu
tư thẳng tới từng thị trường nước ngoài mà mình mong muốn, có thể dẫn đến tình trạng
nhiều tỉnh thành cùng đến một thị trường; trong 1 thời điểm ở một thị trường có thể có
nhiều đoàn xúc tiến đầu tư của Việt Nam cùng đến và chuyển tải những thông tin gần
giống nhau. Điều này gây nên sự lãng phí và nhàm chán cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, về thực hiện quy hoạch của ngành, vùng kinh tế mà rộng ra là cả nước: Nhiều
địa phương vì lợi ích cục bộ đã thu hút những dự án cùng lĩnh vực đã làm phá vỡ quy
hoạch chung, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Đơn cử như câu chuyện sân golf hiện nay:
Lấy kết quả từ khảo sát thực địa, Bộ KH và ĐT đã kết luận “trào lưu” xin chủ trương
kinh doanh sân golf trong vòng một năm qua cho thấy sự mất cân đối từ cơ cấu dự án, cơ
cấu vốn, đến suất đầu tư… Tính đến thời điểm trước 01/7/2006 (luật đầu tư có hiệu lực),
cả nước mới chỉ có 38 dự án được cấp phép, trong đó có 13 dự án đi vào hoạt động. Mọi
chuyện bắt đầu thay đổi sau khi Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 hướng dẫn
thi hành luật đầu tư được ban hành, theo đó việc xem xét, cấp giấy chứng nhận đầu tư
được phân cấp cho UBND cấp tỉnh, Ban quản lý Khu Kinh tế, Khu Thương mại đặc biệt
và Ban Quản lý Khu Công nghiệp. Tính từ 01/7/2006 đến 04/6/2008, cả nước đã có thêm
106 dự án có mục tiêu kinh doanh sân golf được cấp phép hoặc duyệt chủ trương thực
hiện, gấp 3 lần so với số dự án được cấp phép 16 năm trước đó cộng lại [38].
Tuy thế, sự phát triển quá nóng các dự án sân golf không phải lỗi tại các địa phương.
Bởi vì, theo quy định trước đây, việc cấp phép các dự án sân golf phải tuân theo một quy
trình chặt chẽ, có sự đánh giá, thẩm định của nhiều Bộ, Ngành trước khi trình lên Thủ
tướng Chính phủ quyết định. Bên cạnh đó, Luật ĐTNN trước kia cũng có quy định các dự
án có sử dụng đất đo thị từ 5ha trở lên hoặc đất khác từ 50ha trở lên đều phải báo cáo Thủ
tướng Chính phủ. Còn trong các văn bản luật hiện nay thì lại không có quy định nào coi
kinh doanh sân golf thuộc nhóm dự án cấm hay hạn chế đầu tư, thậm chí không thuộc diện
nhóm dự án phải tuân thủ quy hoạch ngành. Quy định về thẩm quyền phê duyệt hạn mức
sử dụng đất trên cũng không còn sau khi luật đầu tư chung được áp dụng.
- Về phía UBND và các ngành chức năng của tỉnh
+ Không nhất quán khi ban hành chính sách ưu đãi đầu tư. Quyết định 63/QĐ-UB
ngày 16/7/2003 của UBND tỉnh Nghệ An về một số chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu
tư vào các khu công nghiệp nhỏ trên địa bàn TP Vinh có một số ưu đãi cho doanh nghiệp
như: Được tính giá thuê đất nguyên thổ 100 đồng/m2 và được miễn giảm 15 năm đầu.
Nhưng theo Quyết định 67/QĐ-UB ngày 07/7/2006 của UBND về ban hành khung giá
thuê đất, thuê mặt nước trên địa bàn tỉnh thì lại nêu: Đất sử dụng làm mặt bằng sản xuất
kinh doanh của dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư ở TP Vinh là 0,45% trên đơn giá
từng khu vực. Như vậy, thay vì chỉ phải trả 100 đồng/m2 và được miễn 15 năm đầu theo
Quyết định 63/QĐ-UB, thì doanh nghiệp phải trả tiền đất gấp từ 40 đến 70 lần theo Quyết
định 67/QĐ-UB. Quyết định 63/QĐ-UB cũng khẳng định “giá thuê đất được ổn định trong
5 năm, sau 5 năm có điều chỉnh, sửa đổi thì mức điều chỉnh không quá 15% giá trị điều
chỉnh trước đó”. Nhưng chỉ sau 3 năm, nghĩa là chưa đến thời hạn điều chỉnh theo quyết
định cũ thì UBND tỉnh đã có một quyết định mới tăng giá đất lên từ 400% đến 700% so
với mức giá doanh nghiệp hứa hẹn được ưu đãi.
+ Về cách tính và tổ chức thu tiền thuê sử dụng đất, mặt nước. Hiện nay, theo Nghị
định 142/2005/ NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê
mặt nước, thì UBND các tỉnh, thành phố có trách nhiệm quy định cách tính, cách thu, tổ
chức thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trên địa bàn. Tuy nhiên, từ sự phân cấp này đã tạo ra
sự không thống nhất dẫn đến có sự chênh lệch về tiền thuê đất, gây khó khăn, bức xúc cho
các nhà đầu tư khi đầu tư ở các tỉnh khác nhau. Các tỉnh có Khu Công nghiệp phát triển và
điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, thì tính mức giá thuê đất chưa có hạ tầng (thống nhất
cho từng địa bàn, bằng 0,5% giá đất) cộng với phí sử dụng kết cấu hạ tầng(khác nhau, tuỳ
thuộc địa bàn, khu vực khác nhau), phương pháp tính này đơn giản, hợp lý nên dễ được
các nhà đầu tư đồng tình. Trong lúc đó, ở Nghệ An lại tính giá đất và hạ tầng riêng cho
từng khu vực, nhiều nơi áp dụng tuỳ tiện, không sát giá. Bên cạnh đó, nhà đầu tư phải nộp
tại Cục thuế tỉnh với tiền thuê đất nhiều lần, nhiều giai đoạn cho một hợp đồng thuê
đất(thường là 10 – 15 năm/1 lần nộp), trong lúc các nhà đầu tư có nguyện vọng thanh toán
ít đợt, thậm chí thanh toán 1 lần cho cả thời hạn thuê đất và nộp tại cơ quan thuế cấp
huyện, nơi thực hiện dự án để sát thực hơn. Điều này cũng ảnh hưởng đến thu hút đầu tư
nói chung.
+ Về phương pháp tính giá trị bồi thường đất nông nghiệp khi thu hồi và chính sách
hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất. Ở
lĩnh vực này, trước sự bất cập của Nghị định 197/2004NĐ/CP, ngày 03/12/2004 v.v “Bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất”, Chính phủ đã ban hành Nghị định
84/2007/NĐ/CP ngày 25/5/2007 v.v “Quy định bổ sung về cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự bồi thường, hỗ trợ tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết kiếu nại về đất đai”. Tuy nhiên, giá đền bù đất
nông nghiệp chênh lệch quá lớn (hàng chục đến hàng trăm lần) đối với đất đô thị hay đất
Khu Công nghiệp có hạ tầng(mặc dù vốn mà nhà đầu tư bỏ ra để đầu tư xây dựng hạ tầng
Khu đô thị và Khu Công nghiệp không lớn), hơn nữa, thực tế khoản kinh phí mà nông dân
nhận được từ việc bị thu hồi đất sản xuất không đủ cho việc chuyển đổi nghề, tạo việc làm
mới. Bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân(tuổi đời, trình độ đào tạo ,thói quen, kỷ luật lao
động... của nông dân) mà nhà đầu tư giải quyết được rất ít chỗ làm việc cho người lao
động nông nghiệp ở địa phương. Tất cả những vấn đề trên đây chính là nguyên nhân chính
trong việc khiếu kiện của nông dân nhiều vùng miền trong cả nước hiện nay.
+ Tổ chức cơ chế một cửa về thủ tục đầu tư và quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư
còn có khó khăn. Thực tiễn thời gian qua, việc cấp chứng nhận đầu tư cho các dự án đầu tư
trực tiếp vào địa bàn theo quy định của Luật Xây dựng và Luật Bảo vệ môi trường làm tốn
nhiều thời gian, công sức của các nhà đầu tư. Cụ thể là: Hồ sơ thiết kế cơ sở các dự án đầu
tư có xây dựng công trình, theo quy định của Luật Xây dựng và Nghị định 12/2005/NĐ-
CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng thì các nhà đầu tư trong hồ sơ đăng
ký cấp CNĐT cần có bộ hồ sơ thiết kế cơ sở được sở xây dựng thẩm định. Thủ tục này làm
cho nhà đầu tư tốn khoảng 15-20 ngày thuê tư vấn và thêm 20 ngày để thẩm định (theo
quy định). Như vậy, nhà đầu tư phải mất đến 35-40 ngày cho việc hoàn chỉnh hồ sơ thiết
kế cơ sở.
Về thực hiện xác nhận bảo vệ môi trường, theo quy định của Luật Môi trường, các dự
án đầu tư không thuộc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An.pdf