Luận văn Thông tin khoa học đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay

Tài liệu Luận văn Thông tin khoa học đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN: THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thứ nhất: Xem xét dưới góc độ lý luận TTKH, cần tìm ra cách thức tối ưu để gắn TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời đại ngày nay, khái niệm "thông tin" đã mang tính phổ biến có ý nghĩa toàn cầu, toàn nhân loại, phổ cập trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thuật ngữ: "thời đại thông tin", "xã hội thông tin", "ưu thế thông tin" v.v... đang được lưu truyền rộng rãi, thậm chí có một số nhà lý luận còn cho rằng có cả "nền kinh tế thông tin". Thực vậy, ở Tây Âu, trong những năm gần đây, ngành công nghệ thông tin phát triển với tốc độ nhanh gấp 2 - 3 lần các ngành khác. Ngay từ năm 1993, khối lượng giá trị được tạo ra từ thông tin (bao gồm công nghệ thông tin và cả hoạt động dịch vụ mang tính thông tin) đã bằng khoảng 50% giá trị sản xuất công nghiệp của Tây Âu. Hiện nay, ở Mỹ người ta ước tính giá trị khu vực thông ti...

pdf152 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 961 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thông tin khoa học đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thứ nhất: Xem xét dưới góc độ lý luận TTKH, cần tìm ra cách thức tối ưu để gắn TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời đại ngày nay, khái niệm "thông tin" đã mang tính phổ biến có ý nghĩa toàn cầu, toàn nhân loại, phổ cập trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thuật ngữ: "thời đại thông tin", "xã hội thông tin", "ưu thế thông tin" v.v... đang được lưu truyền rộng rãi, thậm chí có một số nhà lý luận còn cho rằng có cả "nền kinh tế thông tin". Thực vậy, ở Tây Âu, trong những năm gần đây, ngành công nghệ thông tin phát triển với tốc độ nhanh gấp 2 - 3 lần các ngành khác. Ngay từ năm 1993, khối lượng giá trị được tạo ra từ thông tin (bao gồm công nghệ thông tin và cả hoạt động dịch vụ mang tính thông tin) đã bằng khoảng 50% giá trị sản xuất công nghiệp của Tây Âu. Hiện nay, ở Mỹ người ta ước tính giá trị khu vực thông tin chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Còn trên phạm vi toàn cầu, năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin đạt 7,1%, cao gấp hơn 2 lần tăng trưởng bình quân GDP của toàn thế giới 1). Dưới góc độ lý luận, thông tin đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu nhưng chủ yếu là nghiên cứu về bản chất thông tin, vai trò của thông tin, vai trò xã hội của thông tin, còn đi sâu vào lĩnh vực hẹp là TTKH (TTKH) thì chưa được đề cập thỏa đáng, có thể nói là rất ít, chỉ thoáng qua. Đặc biệt là vai trò chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, tác động của TTKH đối với với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam chưa được nghiên cứu thấu đáo. Do vậy, khía cạnh lý luận về vận dụng TTKH vào lĩnh vực kinh tế - xã hội cần được nghiên cứu tiếp. Ngày nay, TTKH là một hoạt động quan trọng không thể thiếu không chỉ đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học và giáo dục - đào tạo, mà cũng rất cấp thiết đối với hoạt động thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa v.v.. Thí dụ, xử lý dữ liệu về biến động thị trường thế giới: như giá vàng, các ngoại tệ mạnh, về giá dầu thế giới hiện nay 1) Xem:Báo cáo toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam năm 2006, Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh, tr.2. v.v... đòi hỏi một sự phân tích tổng hợp về kinh tế chính trị, về kinh tế - kỹ thuật, về chính trị và xã hội thế giới, phải phân tích các dữ liệu có căn cứ khoa học, để có chính sách ứng phó quốc gia. Nếu nối mạng được toàn bộ các dữ liệu thông tin về tài chính, ngân hàng, đầu tư, xuất - nhập khẩu, công nghiệp - nông nghiệp, cũng như có đầy đủ thông tin về kinh tế đối ngoại, về chính trị thế giới, về các điều kiện tự nhiên và xã hội khác v.v... thì chúng ta sẽ có các biện pháp phát triển kinh tế nói chung, cũng như góp phần đối phó với khó khăn kép của nền kinh tế nước ta như vừa lạm phát cao lại vừa tăng trưởng chậm và hiệu quả kém. Có TTKH từ sự nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu trong nước cũng như nghiên cứu quốc tế, nắm bắt và xử lý kịp thời các thông số kinh tế - xã hội, xử lý linh hoạt các biện pháp điều chỉnh về đầu tư, xuất - nhập khẩu, về lãi suất tín dụng ngân hàng, về tài chính và ngân sách v.v... chúng ta sẽ kìm hãm được lạm phát cao hiện nay và có khả năng kéo lạm phát xuống mức một con số, để rồi kéo về mức lạm phát tối ưu. Nói chung, nếu nắm được những TTKH, những dữ liệu có tính chính xác, được xử lý một cách khoa học, đảm bảo độ tin cậy thì chúng ta sẽ giải quyết được các vấn đề, trong đó vấn đề trung tâm là kinh tế - xã hội một cách hiệu quả. TTKH là nhân tố không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hơn thế còn là tăng trưởng có hiệu quả, nâng cao chất lượng tăng trưởng, gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội một cách tối ưu. TTKH là phạm trù riêng trong tập hợp chung của hai phạm trù lớn là thông tin và khoa học. Nó vừa nằm ở lĩnh vực thông tin, lại đồng thời nằm ở lĩnh vực khoa học, vừa mang nội dung thông tin, vừa mang bản chất khoa học. Còn nhiều khía cạnh TTKH cần được đi sâu nghiên cứu về phương diện lý luận, chẳng hạn như: phân biệt thông tin với tri thức, phân biệt thông tin với truyền thông và tuyên truyền, phân biệt thông tin nói chung với TTKH; xác định những dấu hiệu riêng của phạm trù TTKH; nghiên cứu vị trí TTKH trong hoạt động nghiên cứu khoa học và với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội; nghiên cứu chức năng đặc thù của TTKH và quan hệ giữa các chức năng đó với kinh tế - xã hội nước ta, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, với thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. Việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực thông tin (tri thức) để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu rất cấp bách. Đó cũng chính là yêu cầu đối với TTKH - thu nhận được nhiều thông tin (tri thức), xác định rõ các đối tượng thông tin, đồng thời quản lý được thông tin để đáp ứng các nhu cầu về TTKH khác nhau, mà trọng tâm là phát tỉển kinh tế - xã hội. Phạm trù TTKH là sự thống nhất biện chứng của hai phương diện: thông tin và khoa học, cùng nằm trong một chu trình vận động của tri thức. TTKH chính là sự truyền bá khoa học, là thông qua những công cụ nhất định (các công cụ và phương pháp truyền tin) để phổ cập tri thức, đưa tri thức vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (khoa học, kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, quân sự v.v...). Nếu chúng ta coi toàn bộ hoạt động khoa học (xét về bản chất, nội dung của hoạt động khoa học) gồm hai khâu cơ bản: 1) Sản xuất (nghiên cứu), sáng tạo tri thức (khoa học); 2) Đưa tri thức vào sử dụng, phục vụ cho các đối tượng sử dụng, là khâu lưu thông và tiêu dùng tri thức. TTKH vì thế có vai trò, chức năng riêng đối với khoa học và đối với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. TTKH là bộ phận không thể thiếu, bộ phận cơ bản vừa độc lập tương đối với nghiên cứu khoa học, đồng thời lại nằm ngay trong tiến trình nghiên cứu: thông tin dữ liệu để chuẩn bị cho ý tưởng. Có thể nói rằng, TTKH chính là xử lý một cách khoa học về nội dung các thông tin, tức là xác định, thẩm định giá trị tin và tổ chức sử dụng các giá trị tin. Vì thế TTKH khác với thông tin nói chung và các hình thức cụ thể khác của thông tin, TTKH là việc tìm ra bản chất của tin và đưa ra hệ thống tin phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng chính trị, kinh tế, xã hội v.v... phục vụ cho các đối tượng với những nhu cầu tương ứng. Trong muôn vàn biểu hiện các thông tin khác nhau thì giá trị nội dung đích thực chỉ có một. Vì thế phải xác định tin nào đúng, tin nào sai, cần có cách xử lý để đi đến kết luận tính chân lý. TTKH chính là xử lý, thẩm định nội dung (giá trị tin), hệ thống các nội dung thông tin để giúp cho người nắm thông tin có điều kiện tìm ra tính chân lý hoặc chí ít cũng tiến gần nhất đến chân lý. Đối tượng nghiên cứu của TTKH cũng là một khía cạnh mới, là nghiên cứu về nội dung, bản chất của tin. Trong đời sống có rất nhiều tin, xác định tính chính xác của thông tin, mức độ khoa học của tin, xác định ý nghĩa xã hội của tin và phương pháp sử dụng thông tin cụ thể v.v... Đó cũng là đối tượng nghiên cứu của TTKH. Trong trường hợp này TTKH lại như là một phân ngành khoa học hẹp. Đây là một ‘‘khoảng trống” còn chưa được nghiên cứu thấu đáo. Mục tiêu cao nhất của TTKH là đưa tri thức, góp phần đắc lực để tri thức được ứng dụng vào đời sống một cách có hiệu quả, mà trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội. Tri thức là một nguồn lực, một nguồn vốn vô cùng to lớn mà chi phí để sử dụng nó nói chung là không lớn (không tương xứng với chi phí tạo ra tri thức), nhiều trường hợp nhờ TTKH mà sử dụng tri thức không phải chi trả, nó chỉ phụ thuộc vào khả năng nắm nguồn lực tri thức. Một trong các yếu tố để nắm nguồn lực đó là TTKH. Hiện nay sử dụng TTKH phục vụ cho đời sống, trước hết phục vụ cho phát triển kinh tế, đang là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy đề tài này hy vọng góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn, trong việc sử dụng TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay. TTKH cũng là khái niệm bao gồm hai nghĩa cơ bản, khi xét về phương diện vận hành: - Hoạt động xử lý tri thức, khía cạnh nội dung khoa học của thông tin. - TTKH là hình thức xử lý nội dung thông tin một cách có tổ chức, có quy chế hoạt động theo hệ thống, là lĩnh vực thông tin trong hoạt động khoa học, gắn với nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội về lưu thông và cung ứng tri thức. Tuy nhiên, trong thực tế, chủ yếu người ta mới chỉ đề cập đến thông tin nói chung, chưa chú ý phân biệt thông tin với TTKH. Thậm chí, chỉ coi thông tin, TTKH như là một hoạt động bên ngoài, có quan hệ chứ không phải có cấu tạo hữu cơ về nội dung trong hoạt động khoa học, nằm trong hệ thống khoa học. Hơn thế, thông tin trong hoạt động kinh tế và xã hội được sử dụng ở cấp độ "tin tức", "thông báo", còn TTKH nghĩa là thông tin ở cấp độ lý tính, quy luật, bản chất của thông tin thì chưa được chú ý đến mức cần thiết phải có. Thứ hai: Xem xét sự cần thiết nghiên cứu đề tài dưới góc độ sử dụng TTKH phục vụ cho sự phát triển kinh - xã hội nước ta hiện nay (nói cách khác là xem xét nhu cầu về TTKH trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội). Theo tinh thần nghị quyết Đại hội X của Đảng, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu để đến năm 2020, về cơ bản, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng nhiều biện pháp, trong đó khoa học là một nhân tố quan trọng hàng đầu, phải đi trước nhiều bước. TTKH cũng là một nhân tố trong hệ thống khoa học. Nó là nhân tố tri thức, một nguồn lực để phục vụ cho quá trình đẩy nhanh sự phát triển này và đặc biệt là để phát triển hài hòa, đảm bảo cân đối giữa các mặt: kinh tế với xã hội, kinh tế với an toàn sinh thái, vật chất với tinh thần, hiện tại với tương lai. Ngay cả trong thời điểm hiện nay đang có mâu thuẫn căng thẳng giữa tăng trưởng với khó khăn về tài chính - ngân hàng và đời sống của đa số người dân bị giảm sút, đặc biệt là người có thu nhập thấp, người nghèo gặp khó khăn. Những thành tựu của đổi mới đang bị đe dọa do hạn chế của chất lượng tăng trưởng. Trước tình hình đó, TTKH phải góp phần tích cực và có hiệu quả thiết thực để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của cuộc sống. Hiện nay, nhu cầu xã hội về TTKH là rất lớn, TTKH đang phải trả lời, phải tham gia giải quyết nhiều vấn đề do thực tiễn kinh tế - xã hội đất nước đặt ra, ví dụ: - Làm thế nào để có thông tin với chất lượng, hàm lượng tri thức khoa học cao cho sự phát triển, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển với tốc độ và hiệu quả kinh tế cao, vừa thỏa mãn được nhu cầu xã hội (với những qui chế, hạn định nào đấy), hay nói cách khác là kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, đáp ứng phát triển toàn diện hài hòa, có hiệu quả các nguồn lực. - TTKH góp phần cung cấp những tri thức khoa học cho việc giải quyết hài hòa giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. - TTKH phải cung cấp tri thức khoa học cho đổi mới và phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. - TTKH phải cung cấp những luận cứ lý luận và thực tiễn cho việc phát triển kinh tế với tốc độ cao nhưng đồng thời phải thu hẹp dần khoảng cách về thu nhập và đặc biệt là nâng cao nhanh hơn mức sống cho các nhóm, bộ phận dân cư có thu nhập thấp, chú trọng xóa đói và giảm nghèo, cải thiện nhiều hơn mức sống cho người nghèo và tầng lớp dân cư yếu thế, phát triển kinh tế với giải quyết các nhu cầu xã hội của cộng đồng. - TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển bền vững về xã hội, về sinh thái, tiết kiệm tài nguyên. - TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển kinh tế có hiệu quả, đồng thời tạo cơ sở thúc đẩy phát triển nền văn hóa Việt Nam XHCN, dân tộc, đại chúng và tiên tiến, phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng con người Việt Nam, xây dựng một nền kinh tế giàu tính văn hóa và nhân văn Việt Nam v.v... - TTKH phải đáp ứng được nhu cầu tri thức cho lãnh đạo - quản lý về phát triển, về tư duy kinh tế - xã hội cũng như phổ cập tri thức cho người dân, để người dân hình thành tư duy kinh tế - xã hội hợp lý, lành mạnh nhất. - TTKH phải tạo được dữ liệu để dự báo chính xác xu thế của kinh tế thế giới, đặc biệt là phương diện xã hội của sự phát triển này v.v... Như vậy, xem xét từ góc độ TTKH phục vụ cho hoạt động kinh tế - xã hội hiện nay, với nền kinh tế nước ta đã đến lúc phải chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh đồng bộ, hài hòa của sự tăng trưởng và hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới, việc nghiên cứu để gắn kết đề TTKH đối với phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết, vì TTKH là phương tiện của sự phát triển và ngược lại, sự phát triển kinh tế - xã hội luôn có nhu cầu nhiều hơn, cao hơn về TTKH: - Nhu cầu tri thức khoa học, nhu cầu trí tuệ của sự phát triển ngày càng lớn, vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính cấp bách trước mắt. Để đảm bảo cho đất nước phát triển đúng quỹ đạo XHCN, cần có đường lối đúng, chính sách khoa học và biện pháp hợp lý, linh hoạt. Nhu cầu TTKH trở nên cấp bách, nó đảm bảo cho việc cung cấp tri thức để đề ra đường lối, chính sách có tính khoa học hơn, chính xác hơn. - Nhu cầu cập nhật để hiện đại hóa: nền kinh tế thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, kinh tế thông tin. Vì vậy, TTKH như là một phương tiện, phương thức hữu hiệu để thúc đẩy tiến trình đó. Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, vừa phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, lại đồng thời kết hợp với hiện đại hóa (ở qui mô, trình độ và lĩnh vực nào có thể) nền kinh tế và xã hội, vì vậy càng phải cập nhật tốt nhất kiến thức trên các lĩnh vực: khoa học, kỹ thuật - công nghệ, kinh tế, chính trị, văn hóa và cả tư tưởng phát triển, cũng như cả các lĩnh vực tinh thần khác v.v... để phục vụ có hiệu quả cho tiến trình phát triển của đất nước. Ở đây, TTKH được xem như một phương tiện, một yếu tố tiên phong trực tiếp của lực lượng sản xuất. - Nhu cầu TTKH về các vấn đề xã hội gắn với sự phát triển kinh tế còn ít được quan tâm giải quyết thỏa đáng. Thí dụ: xử lý thông tin về tính chính trị, tính nhân văn - văn hóa - dân trí- tâm lý - đạo đức của sự phát triển kinh tế, về quản lý nội bộ của các công ty trên thế giới, chống tội phạm và tham nhũng ở các công ty cổ phần và công ty tư nhân (thường chúng ta chỉ hay nhấn mạnh ở khu vực nhà nước), nội dung của xã hội dân sự và sự phát triển của nó ở Phương Tây, ở Phương Đông cũng như ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bảo hiểm xã hội và an sinh cho các đối tượng và trường hợp khác nhau, thông tin về các vấn đề xã hội mang tính chính trị như an ninh xã hội, dân chủ trong đời sống của thời mở cửa và hội nhập với thế giới bên ngoài v.v.., đều cần có những phân tích, xử lý khoa học về phương pháp và nội dung. - Nhu cầu TTKH về an ninh kinh tế ngày càng cấp thiết, sự hòa quyện an ninh kinh tế với an ninh xã hội ngày càng tăng lên. - Nhu cầu TTKH về khía cạnh kinh tế của các lĩnh vực văn hóa tinh thần, khoa học, nghệ thuật, thể thao, chính trị - xã hội và ngược lại, cần có TTKH về khía cạnh văn hóa (xã hội) trong kinh tế. - Nhu cầu đánh giá thực trạng sử dụng TTKH, vai trò chức năng của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Công tác này hiện còn nhiều bất cập và hạn chế cần được khắc phục. Nguồn lực TTKH chưa thực sự được phát huy. Đây cũng là một phương diện lý luận và thực tiễn có tính liên ngành: thông tin, khoa học, kinh tế và xã hội cần được nghiên cứu. Trên các phương diện lý luận và thực tiễn phát triển của đất nước về kinh tế - xã hội, cũng như gắn với lĩnh vực chuyên môn hẹp (TTKH), đang đặt ra nhu cầu nghiên cứu đề tài: TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Như vậy, sự cần thiết nghiên cứu đề tài này xuất phát từ hai phương diện cơ bản: 1) Cần nghiên cứu rõ hơn những vấn đề về lý luận TTKH, để TTKH gắn với thực tiễn kinh tế - xã hội; 2) Sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta đang ngày càng đòi hỏi, càng có nhu cầu lớn hơn về tri thức, do đó có nhu cầu cao hơn về TTKH, đòi hỏi nhiều hơn về TTKH. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ngoài đã có nhiều tác giả nổi tiếng nghiên cứu về lĩnh vực thông tin, ví như: A. Toffler và D. Bell ở Mỹ, A. Eliacov, B.L. Inozemsev ở Nga, Paul A. David, Domonique Foroy ở Pháp v.v... Dưới góc độ nghiên cứu quan hệ giữa thông tin với kinh tế - xã hội, có thể nêu ra một số tác giả và công trình tiêu biểu: - Afanasev V.G. Thông tin xã hội và quản lý xã hội, Hà nội, 1979. - Jashin G.E. Thông tin kinh tế là gì? Tài liệu dịch, ký hiệu TC2210, Thư viện Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. - Rezman L.Đ. Xã hội thông tin và vai trò của viễn thông trong sự hình thành xã hội thông tin 2). Nội dung đề cập đến ảnh hưởng của công nghệ thông tin và sự hình thành khái niệm xã hội thông tin, sự tác động xã hội của thông tin. - Inozemsev B.L. Kinh tế hậu công nghiệp và xã hội hậu công nghiệp3). Nội dung đề cập đến kinh tế và xã hội hậu công nghiệp, đến xu thế gia tăng vai trò của thông tin. - Eliacov A. Ưu thế thông tin của Mỹ và Nga 4). Tác giả nêu lên ưu thế thông tin của Mỹ so với Nga. Do vậy, xét từ góc độ đóng góp vào nền kinh tế, thì thông tin ở Mỹ có vai trò lớn hơn nhiều so với ở Nga. - Tikhovovich E.A. Thời đại thông tin và những vấn đề cấp thiết của nền kinh tế 5). Tác giả xem thông tin như là một điều kiện của phát triển kinh tế, coi kinh tế mang bản chất thông tin. - Meitus. V. Doanh nghiệp ảo trong xã hội thông tin 6). Ở đây đề cập đến một khía cạnh mới của kinh tế: hình thành xí nghiệp mới (ảo) do tác động của thông tin. 2) T/c: "Những vấn đề triết học”( tiếng Nga), số 3/2001, tr.3-9. 3) T/c: "Khoa học và xã hội”(tiếng Nga), số 3/2001, tr.140-152. 4) T/c: "Đối thoại”(tiếng Nga), số 11/2005. 5) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”( tiếng Nga), số4/2005. 6) T/c: "Các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý”(tiếng Nga), số 4/2006. - Meliansev B. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới 7). Tác giả chỉ ra vai trò biến đổi mang tính cách mạng của kinh tế do ảnh hưởng của cách mạng thông tin. - Eliacov A. Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục 8). Tác giả chứng minh sự phát triển tiếp tục nhanh hơn của cách mạng thông tin và nền kinh tế phải thích ứng. - Sapra G. Nền kinh tế thông tin 9). Ở đây tác giả đã đưa một khái niệm hoàn toàn mới hẳn: nền kinh tế thông tin. Nói chung, những vấn đề lý thuyết chung về thông tin đã được nghiên cứu từ lâu và khá nhiều ở nước ngoài. Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về thông tin hoặc liên quan đến thông tin kinh tế - xã hội, ví dụ: - Nguyễn Nhâm. Thông tin kinh tế và quản lý kinh tế ở cơ sở, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987. Tài liệu đề cập về cung cấp dữ liệu trong quản lý kinh tế. - Lê Xuân Hòa. Điều tra và xử lý thông tin trong quá trình quản lý, Nxb Thống kê, 1999. Tài liệu đề cập về nghiệp vụ xử lý tin một cách cụ thể ở dạng đơn giản. - Viện TTKH xã hội. Những thách thức trong xã hội thông tin (Tập tài liệu tham khảo nội bộ, năm 2001). Tài liệu này đề cập nhiều về các khía cạnh chung của thông tin với sự phát triển nói chung. - Hàn Viết Thuận (chủ biên). Giáo trình Hệ thống thông tin kinh tế (Đại học Kinh tế Quốc dân), Nxb Lao động - xã hội, 2004. Tài liệu hướng dẫn tra cứu, tìm tin, dữ liệu kinh tế. - Nguyễn Hữu Hùng. Thông tin từ lý luận tới thực tiễn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005. Tác giả nêu phương pháp luận về sử dụng thông tin, chủ yếu dưới góc độ thông tin học để phục vụ cho nghiên cứu về các vấn đề khác. - Vũ Đình Hòe, Tạ Ngọc Tấn, Vũ Hiền. Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Các tác giả đã nêu lên vai trò 7) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 2/2001. 8) T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 8/2006. 9) T/c: "Nhà kinh tế”(tiếng Nga), số 10/2005. truyền thông phục vụ cho lãnh đạo, quản lý. - Đường Vinh Sường: Thông tin kinh tế với quản lý nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004. Tác giả chủ yếu đề cập đến vai trò của thông tin để chế định đối với những khuyết tật của kinh tế thị trường. (Công trình này về thực chất là công bố kết quả đề tài cấp bộ của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: ‘‘Thông tin kinh tế với việc khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường” do chính tác giả chủ nhiệm đã được nghiệm thu năm 2000. Nội dung cơ bản của nó là thông tin kinh tế phải giúp cho việc quản lý nhà nước chủ động chế ngự những khuyết tật bẩm sinh của kinh tế thị trường. - Hoàng Ngọc Kim. TTKH với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề tài cấp cơ sở của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Nội dung chủ yếu là nêu lên khía cạnh thông tin nói chung với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không nghiên cứu TTKH độc lập, đúng nghĩa cần có. Đã có một số công trình nghiên cứu thực tiễn có liên quan đến thông tin, ví dụ như: - ThS. Đoàn Thị Hải Yến và cộng sự. Nghiên cứu phương pháp xây dựng Báo cáo tổng quan kinh tế quí (Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2008). - Một số tài liệu khác như: Cẩm nang báo cáo kinh tế quí, Cẩm nang xây dựng bản tin ngoại thương (tài liệu của Trung tâm Thông tin và Dự báo Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2000) v.v... Cũng cần khẳng định rằng việc cập nhật và đưa thông tin về kinh tế - xã hội thì rất nhiều và thường xuyên, nhưng ít có những công trình mang tính chuyên nghiệp dưới góc độ TTKH ở các cơ quan kinh tế, các cơ quan nghiên cứu, hoạt động thông tin. Về phương diện này ít có những công trình nghiên cứu tương xứng. Tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên chưa đề cập đến hoặc chưa đạt đến độ cần có về phạm vi và chiều sâu, còn nặng về thông tin và nhẹ về khoa học, còn thiên về mô tả mà chưa đi sâu nghiên cứu bản chất vấn đề dưới góc độ TTKH. Do vậy cần có những công trình đi sâu nghiên cứu một số nội dung sau: - Khu biệt rõ phạm trù TTKH. Các công trình đã có mới giải quyết thuần túy lý luận thông tin (các công trình nước ngoài), hoặc nặng về mô tả thông tin nói chung (công trình trong nước). Nhiều công trình vẫn chưa tách biệt được TTKH với thông tin nói chung. Trong thực tiễn ít tác giả khu biệt, phân định rõ điều này. - Mối quan hệ giữa TTKH (chứ không phải thông tin nói chung) với tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. - Làm rõ hơn các chức năng cơ bản của TTKH đối với kinh tế - xã hội, định vị TTKH trong sự phát triển kinh tế - xã hội. - Khảo sát đánh giá khách quan thực trạng tác động của TTKH đối với tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian vừa qua, tổng kết những bài học kinh nghiệm để sử dụng có hiệu quả TTKH phục vụ quá trình phát triển này. Cũng đã có một số đề xuất, nhưng vì những lý do khác nhau, nay mới có điều kiện để nghiên cứu tốt hơn. - Đưa ra được các giải pháp mới, có tính khả thi cao và hiệu quả để TTKH phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nền kinh tế nước ta đang đứng trước yêu cầu phải phát triển với tốc độ cao để khắc phục sự tụt hậu so với khu vực và thế giới, đồng thời phải đảm bảo chất lượng tăng trưởng, phải phát triển theo đúng quĩ đạo XHCN, phải giải quyết tốt yêu cầu kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, phát triển theo nguyên tắc tái sản xuất mở rộng bền vững (về xã hội và sinh thái). Điều đó đòi hỏi mọi lực lượng xã hội phải nỗ lực, trong đó TTKH là một yếu tố - một lực lượng tiền phong của sự phát triển. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ khỏa lấp được "những lỗ hổng” khoa học và thực tiễn, do các nghiên cứu trước đó để lại. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu Nghiên cứu để tạo ra được một công trình lý luận có tính hệ thống về TTKH, tìm ra cơ chế, phương thức để TTKH gắn nhiều hơn, chặt chẽ hơn với thực tiễn kinh tế - xã hội, để TTKH vừa có được ý nghĩa khoa học lại vừa mang ý nghĩa thực tiễn thiết thực, nâng cao tính hiệu quả của TTKH, để TTKH trở thành một trong những nhân tố tích cực hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, đóng góp cụ thể vào việc nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, đồng thời kinh tế hài hòa với khía cạnh xã hội và các khía cạnh khác của sự tăng trưởng. Nhiệm vụ * Làm rõ phạm trù TTKH: - Phát hiện, khái quát và bổ sung những nét mới, hoàn chỉnh hơn về nội hàm, đặc trưng của phạm trù TTKH. - Bổ sung những điểm mới, nêu bật các vai trò, chức năng chung của TTKH (trong mối liên hệ trực tiếp với phát triển kinh tế - xã hội). * Làm rõ ý nghĩa thực tiễn của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay: - Đưa ra được một đánh giá mới (đầy đủ và thuyết phục hơn so với các công trình đã được nghiên cứu có liên quan đến chủ đề này) về vai trò, chức năng của TTKH trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ đã qua. - Rút ra những bài học kinh nghiệm về sử dụng TTKH phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. * Tìm ra các giải pháp cụ thể hóa chức năng của TTKH để TTKH phục vụ một cách hiệu quả cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, để đảm bảo cho kinh tế nước ta vừa có tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng và giải quyết tốt các vấn đề xã hội: - Về quan điểm, phương thức chung để thực hiện vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. - Về những vấn đề cụ thể hóa vai trò, chức năng của TTKH (gắn với kinh tế - xã hội), để TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới. 4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu TTKH ứng dụng, tức là nghiên cứu bản chất khoa học của thông tin trong mối liên hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội, nghiên cứu một lĩnh vực độc lập của sự gắn kết 2 phạm trù với nhau: thông tin khoa học và kinh tế - xã hội. Nghiên cứu cấu trúc của TTKH phục vụ cho yêu cầu tổng thể về đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Phạm vi nghiên cứu - Lý thuyết: khảo sát những vấn đề cơ bản liên quan đến nội hàm của phạm trù TTKH, nghiên cứu thêm và bổ sung để làm rõ hơn vai trò, chức năng thực tiễn kinh tế - xã hội của TTKH. - Thực tiễn: những vấn đề nằm trong giới hạn kinh tế và xã hội, những vấn đề TTKH liên quan đến kinh tế và xã hội. Không chỉ coi TTKH tác động đến các vấn đề kinh tế, các vấn đề xã hội của kinh tế mà xem thông tin các vấn đề xã hội tác động ngược lại đối với kinh tế, đặc biệt kinh tế tác động lại chính TTKH. - Thời gian và không gian: từ năm 1986 đến nay, trong không gian kinh tế và xã hội Việt Nam, đặc biệt chú ý giai đoạn từ 2001 đến nay và dự báo trong tương lai. Phương pháp nghiên cứu - Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu lý luận, nghiên cứu kinh tế - xã hội. Đặc biệt lưu ý: tư duy lôgic gắn với lịch sử; coi thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội là thước đo, là tiêu chuẩn cơ bản nhất để đánh giá về tính đúng đắn của lý luận, của tư tưởng, của một đường lối, chính sách, biện pháp nào đó; - Phương pháp tư duy lý luận: nghĩa là phải trừu tượng hóa một cách khoa học. Phải đúc kết thực tiễn bằng tư duy lý luận, khái quát lý luận phải dựa vào hệ thống các phạm trù nhất định làm công cụ tư duy. Để nghiên cứu về thực tiễn đa dạng, tư duy về một vấn đề phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và hướng về thực tiễn nhưng khám phá thực tiễn phải bằng tư duy khoa học (lý luận); - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (phương pháp nghiên cứu thông tin với phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, khoa học kinh tế). Ở đây là đề cập đến việc phải vận dụng các công cụ của thông tin học để xử lý tư liệu, vận dụng những kiến thức triết học xã hội để áp dụng vào tư duy về thông tin và các vấn đề kinh tế và xã hội, vận dụng tư duy kinh tế chính trị để giải quyết những khía cạnh sở hữu và lợi ích, quan hệ giai cấp và giai tầng xã hội, quan hệ phân phối lợi ích..., từ quan điểm lợi ích để xem xét mục đích, nội dung và ý nghĩa của thông tin, thông tin vì ai và bằng cách nào v.v... Như vậy không chỉ có tư duy hệ thống mà còn phải có tư duy liên hoàn, tư duy tổng thể. - Phương pháp khảo cứu, điều tra - thống kê, phân tích - tổng hợp, đối chiếu và so sánh giữa lý luận với lý luận, giữa lý luận với thực tiễn, giữa thực tế này với thực tế khác v.v..; - Phương pháp kế thừa: Trên cơ sở nghiên cứu tổng quát toàn bộ những giá trị khoa học của các công trình (có thể nắm được) đã có để tránh lặp lại, kế thừa và lựa chọn những kết luận đã có (mà tác giả thừa nhận) rồi mới có thể suy nghĩ và sáng tạo mới. 5. Nội dung nghiên cứu Kết cấu nội dung cơ bản gồm lời mở đầu, 3 chương, kết luận: Mở đầu: Khái quát về lý do, mục đích, phương pháp, nội dung, ý nghĩa nghiên cứu Chương 1: Vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Chương 2: Thực trạng TTKH phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta Chương 3: Những giải pháp để TTKH đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới KT-XH ở nước ta hiện nay Kết luận chung Danh mục tài liệu tham khảo 6. Ý nghĩa của đề tài Đề tài là một công trình độc lập, có giá trị khoa học mang bản sắc riêng và giá trị thực tiễn rõ rệt: bổ sung và phát triển thêm một bước lý luận về TTKH và gắn TTKH với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội; nó vừa có tính thời sự của việc nghiên cứu, phản ánh nhu cầu cấp bách của thực tiễn, vừa gắn lý luận với thực tiễn, phát huy vai trò tiền phong của lý luận để tác động chủ động, tích cực, có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội. * Về lý luận - Tạo ra một sản phẩm khoa học có tính liên ngành: thông tin và kinh tế, thông tin và xã hội, phản ánh tính đặc trưng của thời đại: thời đại thông tin và kinh tế tri thức; - Sẽ "vẽ” được hình hài mới về phạm trù TTKH, làm cho nó có "da thịt” đầy đủ hơn; nét riêng mà các tác giả sẽ thực hiện trong nghiên cứu là đưa ra một phương pháp tiếp cận chính xác hơn đối với phạm trù TTKH, tránh sự đồng nhất TTKH với thông tin nói chung. Đưa ra cách hiểu, cách vận dụng lý luận thông tin vào thực tiễn của một vấn đề phức hợp; - Bổ sung và phát triển rõ hơn về vai trò, chức năng, tác động của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, làm rõ TTKH là một yếu tố - một lực lượng hàng đầu của lực lượng sản xuất trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay; - Đây là một sản phẩm gắn kết hai nội dung: khoa học ở lĩnh vực thông tin và kinh tế - xã hội, gắn kết TTKH với phát triển kinh tế xã hội, một bước tiến về sự thống nhất biện chứng giữa khoa học - lý luận với thực tiễn; - Nêu rõ TTKH như là dòng sông chuyên chở tri thức, kinh nghiệm, lý luận khoa học phục vụ cho xã hội nói chung và sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng; - Đề tài cũng khám phá những nét mới về chức năng TTKH để đáp ứng nhu cầu về tri thức; - Khái quát, tổng kết, đúc kết mới về lý luận thông qua nghiên cứu các tài liệu, thông tin mới và nghiên cứu thực trạng TTKH trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, rút ra được các bài học kinh nghiệm về ứng dụng TTKH để phát triển kinh tế - xã hội; - Tầm quan trọng của TTKH cần được nhận thức tốt hơn; - Đề tài phản ánh được chức năng thực tiễn của thông tin. * Về thực tiễn, có thể vận dụng những kết quả nghiên cứu vào việc phát triển kinh tế - xã hội hiện nay + Tác động vào các chủ thể của xã hội, các chủ thể nhận thức đúng tầm quan trọng của TTKH là một nguồn vốn đặc biệt - nguồn vốn tri thức, khoa học, lực lượng to lớn mà trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta còn chưa được chú trọng đúng mức. (Các ngành, các cấp, các địa phương, các đơn vị khoa học và kinh tế cần phải sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả hơn); + Giúp cho các cơ quan quản lý khoa học và kinh tế đánh giá đúng, mới về thực trạng, vai trò, chức năng của TTKH thời gian qua trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Gợi ý cho các cấp, các ngành và đặc biệt là các nhà quản lý sử dụng TTKH như là lực lựng xung kích, đi tiên phong (thậm chí phải đi trước nhiều bước), mở đường cho việc giải quyết các vấn đề (về khoa học, về thực tiễn nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng); Giúp cho các cơ quan nghiên cứu, quản lý và các cơ quan đang trực tiếp vận hành, sử dụng, cán bộ khoa học cũng như người lao động có cách hiểu, cách tiếp cận tốt hơn về TTKH, có được hệ giải pháp mới để sử dụng TTKH vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay; - Kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ mới giúp cho các cơ quan quản lý khoa học và hoạch định chính sách về TTKH; - Làm tài liệu mới với những nội dung mới nhất định để phục vụ cho các cán bộ khoa học kinh tế và hoạt động thông tin, cho các đối tượng có nhu cầu tìm hiểu về TTKH gắn với thực tiễn kinh tế - xã hội. 7. Sản phẩm của đề tài - Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài dày 170 trang đánh máy A4); - Báo cáo tóm tắt 25 trang; - Bản kiến nghị (khoảng 10 - 15 trang A4); - Sản phẩm trung gian: Kỷ yếu gồm + Các chuyên đề; + Các bài viết, bài tổng hợp, các nghiên cứu nhỏ và chi tiết. - Đĩa CD ghi toàn bộ kết quả nghiên cứu. Chương 1 VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.1. KHÁI NIỆM THÔNG TIN VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC 1.1.1. Khái niệm thông tin Khái niệm thông tin dưới các góc độ sinh học, triết học, điều khiển học quản lý, kinh tế học, xã hội học v.v... được đề cập khác nhau nhưng đều có những nét chung. Khái niệm thông tin liên quan đến các khái niệm tri thức. Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội 10). Thuật ngữ "Thông tin" theo tiếng Anh: information (có nguồn gốc từ tiếng Latinh), là sự giải thích, sự trình bày. Theo quan niệm của chúng tôi, thông tin là sự truyền tin. Thông tin chính là sự truyền tải tri thức trong xã hội. Thông tin là các kiến thức, tri thức được làm thành các dữ liệu, tin tức để lưu chuyển, phổ biến và sử dụng giữa những cá nhân hay tập thể và cộng đồng xã hội với các qui mô và trình độ khác nhau. Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm thông tin có bản chất chung như sau: - Thông tin là một phạm trù của nhận thức, nó thông qua việc sử dụng các công cụ biểu hiện đặc trưng để nhận thức thế giới khách quan. - Nội dung thông tin là tri thức bao gồm tri thức cũ và tri thức mới, được vật thể 10) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hà Nội - Đà Nẵng, 1997, tr 998. hoá bởi các công cụ lao động và sản phẩm lao động, các công cụ đặc thù của thông tin như sách báo, các phương tiện truyền thanh, truyền hình, các thiết bị điện tử v.v… và đặc biệt là chính con người - con người có tích luỹ tri thức ở các mức độ khác nhau. Đó là sự phản ánh thế giới hiện thực được con người thu nhận bằng hình thức thông tin. Thông tin chính là sự chuyển tải (dịch chuyển) tri thức giữa con người với con người. Tri thức là nội dung đích thực của thông tin, là sản phẩm của ý thức - nhận thức của chúng ta. Vì thế, thông tin phụ thuộc vào hoạt động ý thức của con người. Thông tin được truyền tải bằng những hình thức và công cụ đặc trưng của quy trình nhận thức, dưới dạng các dấu hiệu có tính lôgic bằng ngôn ngữ riêng, có vật mang tin cụ thể để chứa đựng thông tin như sách, báo, truyền hình, truyền thanh v.v... và biểu hiện dưới dạng tiếng nói, cử chỉ, ngôn ngữ, chữ số, bảng biểu, sơ đồ v.v... gọi là các dữ liệu. - Các thành tố cơ bản của thông tin gồm: + Tri thức là nội dung thông tin, là dữ liệu để được xử lý, truyền tải, lưu thông. + Đối tượng dùng tin: gắn liền với nhu cầu cá nhân hay tổ chức cụ thể nào đó, phục vụ cho hiểu biết, cho đời sống kinh tế - xã hội hay cho cá nhân, cho học tập hoặc nghiên cứu, giảng dạy v.v... + Chủ thể xử lý thông tin là con người (cá nhân hay tập thể, tổ chức) với các công cụ, phương tiện để làm tin, thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền tải tin theo các cấp độ và qui mô khác nhau. - Đặc điểm về giá trị của thông tin: khác với các sản phẩm vật chất, của giá trị thông tin không bị tiêu dùng hết, không bị hao mòn, không bị mất đi do tiêu dùng, ngược lại nó dễ dàng được sao chụp lại và truyền tải. Nhiều khi người dùng tin không phải trả chi phí vì tin đã được đăng tải, công bố rộng rãi. Nó được làm giàu và phong phú thêm không ngừng do quá trình lưu thông và sử dụng tri thức. Do vậy, thông tin tiết kiệm được nhân trí rất lớn cũng như các lượng vật chất và tài chính để sáng tạo ra tri thức mới, mà nhiều khi không thể sáng tạo lại được những tri thức mà người khác đã tạo ra. - Sở hữu giá trị trong thông tin: Trong quá trình sản phẩm thông tin được chuyển đưa cho người khác tiêu dùng thì người chủ sở hữu giá trị tri thức vẫn không mất quyền sở hữu (càng được khẳng định rõ hơn khi Luật sở hữu trí tuệ ra đời); - Lưu trữ sản phẩm thông tin: tương đối độc lập về thời gian, tuỳ theo nhu cầu và giá trị của tin, cũng như trình độ hiểu biết của người làm thông tin; về không gian cũng rất linh hoạt và nhiều khi rất dễ dàng, thí dụ: có thể lưu trữ thông tin bởi các thư viện khác nhau, nhưng cũng có thể lưu trữ thông tin bằng chính đời sống xã hội hiện thực hàng ngày, bằng con người thông qua văn hoá và sản xuất, thông qua sinh hoạt xã hội. - Chi phí bảo quản: Nói chung, không cần chi phi lớn để bảo quản, xử lý, lưu chuyển giá trị thông tin, nếu so sánh với chi phí để sáng tạo ra giá trị thông tin. - Thông tin là sản phẩm sạch đối với môi trường. - Thông tin có ưu điểm liên kết, vì thế mà thu hẹp khoảng cách không gian và thời gian của những đối tác liên kết với nhau 11). Bản chất tự nhiên của thông tin Dưới góc độ sinh học và triết học, nhiều người cho rằng mô hình thông tin là cơ sở tồn tại của toàn bộ giới tự nhiên 12). Đi xa hơn nữa, nhiều nhà nghiên cứu cũng có chung một quan điểm rằng, thông tin là thực thể phát triển của tự nhiên và xã hội. Theo Giáo sư I. Iuzvisin (Nga): "Thông tin - đó là tất cả ngọn nguồn của những nguyên nhân đầu tiên của các hiện tượng và quá trình trong các cấu trúc vĩ mô và vi mô của toàn thế giới" 13). Bản chất đặc biệt của thông tin chính là quan hệ lợi ích. Đây là vấn đề tưởng như cách xa với nhau nhưng thực ra, đó mới là điểm nhấn trong nội dung thông tin. Trong tự nhiên thông tin là hình thức phản ánh, phản xạ tự nhiên giữa các tế bào của mỗi thực thể sinh vật, là sự phản ứng của sinh thái, sự sống. Thí dụ, cảm giác nóng lạnh thì bộ não con người phải thông báo cho bộ phận cơ thể tìm cách xử lý việc nóng 11) Xem: A.Eliacov, T/c: "Đối thoại" (tiếng Nga) số 11/2001. 12) Xem: I. Freigenberg, R. Rovinxki. Mô hình thông tin của tương lai với tính cách là một chương trình phát triển. T/c: "Những vấn đề kinh tế” (tiếng Nga), số 5/2000. 13) Dẫn theo: E.A.Tikhonovich, T/c:"Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 4/2005. hay lạnh, cái bụng đói thì phải có sự thông báo cho bộ phận nạp nguồn năng lực. Một người đàn ông nhờ con mắt của mình trông thấy một người phụ nữ đẹp thì lập tức con mắt có sự thông báo cho bộ phận trí não và xúc cảm cần phải tỏ thái độ ra sao cho phù hợp. Như vậy, thông tin tự nhiên là mối liên hệ tự nhiên giữa các tế bào các bộ phận nhỏ nhất của sinh vật với nhau. Thông tin xã hội là mối liên hệ xã hội giữa các đơn vị cá thể hay tập thể xã hội với cấp độ và quy mô khác nhau. Thông tin của xã hội loài người là một hình thức hoạt động mang tính tri giác, là thông tin xã hội ở các cấp độ và phạm vi khác nhau. Thông tin xã hội là một dạng khác của thông tin nói chung. Thông tin xã hội loài người bao gồm 2 cấu tử hợp thành: dạng thông tin tự nhiên (thông tin sinh vật) và thông tin riêng có của xã hội loài người (thông tin loài người). Thông tin xã hội là sự nhận thức tự giác của con người. Đương nhiên nó vẫn mang những đặc điểm do phản ánh vật chất làm cơ sở cho phản ánh xã hội. Thông tin xã hội là mối liên hệ xã hội ở các cấp độ khác nhau do sinh hoạt xã hội mà có thể nảy sinh ra ở phạm vi nhỏ nhất là giữa 2 cá nhân với nhau và ở cấp độ lớn nhất là thông tin toàn cầu với rất nhiều những sự đan xen và mâu thuẫn của tầng tầng lớp lớp các sự kiện tự nhiên và xã hội phức tạp. Ngày nay, bên cạnh khái niệm thông tin đã xuất hiện khái niệm xã hội thông tin. Ở đây xin lưu ý, rằng khái niệm xã hội thông tin được hiểu không chỉ về phương diện kỹ thuật - công nghệ và cả phương diện xã hội của thông tin, là sự tác động và lan toả mạnh mẽ, nhanh chóng của thông tin đối với các quan hệ xã hội. Tốc độ tăng của sản xuất tri thức mang tính "bùng nổ". Theo A.Toffler (Mỹ), 13 thế kỷ đầu công nguyên loài người chỉ xuất bản được 1.000 loại sách, riêng thế kỷ XIV sách được xuất bản được bằng tổng cộng của 13 thế kỷ trước, hiện nay cứ 1 giờ xuất bản hơn 1.000 loại. Theo Jamas Martin, một nhà xã hội học nổi tiếng Anh, rằng để tăng tri thức lên 2 lần, ở thế kỷ XIX là mất 50 năm, đầu thế kỷ XX là 30 năm, đến những năm 1950 là 10 năm, hiện nay khoảng 3 năm. Có 90% tri thức được tạo ra trong 50 năm gần đây, gấp 19 lần tổng lượng tri thức của xã hội loài người có được trong gần 10.000 năm trước 14). 14) Dẫn theo Shu Yongqing. Xã hội loài người đi về đâu - Tài liệu phục vụ nghiên cứu của Viện TTKH xã hội, số 2002 - 76 và 77, tr. 3. Ở các nước kinh tế phát triển, lĩnh vực dịch vụ chiếm khoảng trên 50% tổng số việc làm, mà trong đó dựa vào sự phát triển của thông tin. Nhật Bản và Mỹ, đã đi tiên phong trong việc xây dựng xã hội thông tin, sau đó Châu Âu nhanh chóng nhập cuộc. Năm 1994 Ủy ban cộng đồng Châu Âu đã đưa ra kế hoạch hành động: "Con đường đi vào xã hội thông tin của Châu Âu", năm 1995 Phần Lan đưa ra chương trình: "Con đường đi vào xã hội thông tin của Phần Lan", năm 1996 Đức đưa ra chương trình: "Đường vào xã hội thông tin của Đức", và ngay sau đó đã được các nước khác như: Anh, Đan Mạch, Nga đồng loạt hưởng ứng. Trong báo cáo kinh tế của Tổng thống Mỹ B. Clinton tháng 1/2001, có nói rằng: "Lĩnh vực công nghệ thông tin đang biến thành chủ đạo của nền kinh tế Mỹ, nên ở nền kinh tế mới việc sản xuất và phổ biến công nghệ thông tin có thể đặt dấu ngang bằng, nghĩa là về thực chất, hai cái đó là một" 15). Bản chất của quan hệ kinh tế cũng là thông tin Thông tin là điều kiện và là máu thịt của đời sống kinh tế. Nền kinh tế là tổng hòa toàn bộ các yếu tố, các bộ phận, tức là tổng hòa toàn bộ các quan hệ cung - cầu với hàng tỉ hành vi giao tiếp về cung - cầu; mua - bán, hàng hóa - tiền tệ. Sự phân công của nền kinh tế chính là nội dung vật chất của thông tin, đó là thông tin của trao đổi vật chất - xã hội. Nó có cội rễ từ sinh hoạt vật chất, từ nhu cầu trao đổi chất trong tự nhiên của loài người. Ở đây khía cạnh thông tin là ở chỗ: mọi hành vi trao đổi mua - bán chính là thông tin vật chất. Các mối liên hệ cơ bản như sản xuất - phân phối - trao đổi và tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội là những khâu thông tin kinh tế cơ bản, những khâu đảm bảo cho sự vận hành liên tục, đổi mới và phát triển không ngừng. Có nhận định rất mạnh dạn, rằng thông tin không chỉ là một trong những nguồn lực kinh tế quan trọng nhất mà còn là sản phẩm cuối cùng của toàn bộ nền kinh tế. Hơn thế, một số nhà kinh tế còn khẳng định, cần phải nghiên cứu của cải vật chất trên phương diện bản chất thông tin của chúng. Điều đó có nghĩa là, ý nghĩa kinh tế của việc sở hữu các yếu tố vật chất bị quy định hoàn toàn bởi giá trị của thông tin được 15) Economic Report of the President, 2001. Wash. 2001 - P. 10 - Dẫn theo GS,TS. A. Eliacov. Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục, T/c: “Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế”(tiếng Nga) số 5/2006. chứa đựng trong chúng 16). Thông tin với thị trường Nội dung khái niệm thông tin trong thời đại kinh tế thị trường mang yếu tố thị trường. "Thị trường là một hệ thống thông tin phức tạp mà trong tiến trình phát triển, tiến hóa có thể hình thành cơ chế độc đáo về sự đơn giản và tính hiệu quả bằng công cụ truyền thông tin đến mọi người tham gia thị trường là giá cả. Nhờ đó mà đưa ra những quyết định đúng đắn và thực hiện những dự tính, do đó con người tham gia vào hệ thống thì phải nắm được thông tin đầy đủ về hệ thống kinh tế nói chung. Họ cần phải biết giá sản phẩm mà họ sản xuất, biết hết các nguồn lực cần thiết để sản xuất" 17). Và "Như vậy, thị trường đã tìm được một công cụ có hiệu quả để tập trung và truyền tải thông tin về tình trạng của nền kinh tế để mỗi người tham gia hệ thống đó khi đưa ra các quyết định. Sự độc đáo của cơ chế đó là ở chỗ khi ra các quyết định cá nhân vì lợi ích riêng của mỗi người tham gia vào đời sống kinh tế, cơ chế đó cho phép đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực ở quy mô toàn cầu. Đó cũng chính là "bàn tay vô hình" của thị trường" 18). Nền kinh tế được vận hành, hoạt động chính là nhờ có hệ thống thông tin chằng chịt giữa cung và cầu, giữa các hành vi kinh tế. Các tiếp xúc, liên hệ kinh tế từ các cấp độ thấp nhất, nhỏ hẹp nhất đến cấp độ cao nhất đều mang bản chất thông tin. Nội hàm thông tin ở đây được hiểu là sự trao đổi qua lại giữa hai hoặc nhiều đơn vị, bộ phận kinh tế với nhau. Thí dụ, trong một gia đình nông dân, mọi quan hệ nội bộ trong gia đình là quan hệ kinh tế có tính khép kín, là những hành vi hợp tác với nhau giữa các thành viên trong gia đình. Trong đó, có vai trò điều khiển của người chủ đơn vị kinh tế gia đình, đồng thời có quan hệ hưởng ứng (chịu sự chỉ huy, phân công) của các thành viên hoặc một thành viên tự sắp xếp công việc của mình từ đầu đến cuối. Đó là quan 16) Xem: B. Meljansev. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới; R. Svulev. Sự biến đổi của nền kinh tế công nghiệp, vấn đề đo lường kinh tế. T/c: “Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 2/2001. 17) A. Movsesian - Dẫn theo I. Shiscov. Chủ nghĩa tự do quá khứ, hiện tại và tương lai, T/c:“Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế" (tiếng Nga), số 11/2004. 18) I. Shiscov. Chủ nghĩa tự do quá khứ, hiện tại và tương lai, T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế" (tiếng Nga), số 11/2004. hệ thông tin kinh tế cục bộ nhỏ nhất. Theo cách gọi của một số nhà nghiên cứu hiện nay, gọi hành vi kinh tế của cá nhân như vậy là kinh tế nanô. Về thực chất, đó là những quan hệ trao đổi hoạt động giữa các thành viên trong đơn vị kinh tế cấp nhỏ nhất. Quan hệ kinh tế vi mô là toàn bộ những vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như giá cả, khối lượng nguồn lực mà doanh nghiệp thu được và phân bổ, tức là các quan hệ kinh tế chi phối mang tính tuyến tính. Như vậy, quan hệ thông tin kinh tế ở đây là thông tin theo tuyến tính, ví như sự biến động giá cả thị trường làm cho các cấp, các ngành, các khu vực và toàn bộ nền kinh tế cũng như kinh tế thế giới phải điều chỉnh giá cả thay đổi. Còn như quan hệ giữa các chủ thể với nhau trong khu vực, chẳng hạn như trong một địa phương cấp tỉnh, đấy là quan hệ thông tin hỗn hợp. Đó là mối liên hệ (thông tin) giữa các ngành, các doanh nghiệp trong vùng tạo thành một liên kết kinh tế khu vực, đó là quan hệ thông tin kinh tế tổng hòa khu vực, liên hệ ngang (phi tuyến tính). Trên thực tế quan hệ kinh tế đồng thời diễn ra trên phạm vi chiều ngang và chiều dọc ở cấp vĩ mô, tức là nền kinh tế mỗi nước. Xét trên bình diện thế giới là nền kinh tế siêu vĩ mô, kinh tế toàn cầu. Mối liên hệ kinh tế luôn là liên hệ kinh tế toàn cầu, quan hệ thông tin toàn cầu, có thể ảnh hưởng nhiều ít, trực tiếp hay gián tiếp với kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế vùng, kinh tế mini (kinh tế doanh nghiệp), kinh tế nanô. Như vậy, bản chất của các quan hệ kinh tế cũng là một quan hệ thông tin đặc biệt, đó là sự trao đổi, phối hợp, phân phối lợi ích giữa các cá nhân hay tập thể trên những bình diện và các cấp độ khác nhau, cũng là những quan hệ lợi ích. Thông tin nằm trong bản chất của các hành vi kinh tế, nó như là tế bào máu thịt của mọi quan hệ kinh tế, trong mua và bán, trong quan hệ giữa các doanh nghiệp cũng như nội bộ với nhau, trong quan hệ thị trường v.v... Một số nhà khoa học đã đưa ra khái niệm nền kinh tế thông tin, có thể kể tên họ như: Manschk (1898 - 1977), các nhà kinh tế được giải thưởng Nôben như: G. Stigler, J. Stigletz, G. Akerfof, A. Spens và nhiều người khác nữa. Họ có những luận chứng cho rằng: xã hội hiện đại dựa vào nền kinh tế thông tin, trên cơ sở đó mà hình thành nên xã hội thông tin. Nền kinh tế thông tin được hiểu theo nghĩa: nền kinh tế này dựa vào thông tin làm nền tảng, yếu tố thông tin đóng vai trò tiên phong của sự phát triển nói chung và trước hết là KH - CN, đóng vai trò chính trong đời sống kinh tế - xã hội, giá trị do khu vực thông tin tạo ra chiếm tỷ trọng lớn trong tổng GDP của quốc gia, công nghệ thông tin và các ảnh hưởng dây chuyền của nó có ý nghĩa rất lớn đối với toàn xã hội và nền kinh tế, sản phẩm thông tin là sản phẩm tiêu biểu của nền kinh tế, hay nói cách khác thì sắc màu thông tin đã bao phủ lên nền kinh tế và đời sống xã hội. Đi xa hơn nữa, nhiều nhà khoa học đã sử dụng khái niệm thời đại thông tin với ý nghĩa là thông tin có vai trò quan trọng mang tính tự nhiên và máu thịt trong đời sống xã hội, với sự lan toả của thông tin dưới nhiều hình thức. Cũng tương tự như vậy, một số nhà xã hội học đã sử dụng phạm trù xã hội thông tin, coi xã hội đó như một giai đoạn phát triển của thời kỳ hậu công nghiệp (A. Toffler). Trong khi một số ít dự báo khẳng định cuộc cách mạng thông tin đã chấm dứt, thì nói chung nhiều nhà nghiên cứu lại chứng minh tiềm năng to lớn của cuộc cách mạng thông tin và nó đang phát huy mạnh mẽ (A. Eliacov). Điều này cũng đòi hỏi tư duy kinh tế phải tương đồng với thông tin, TTKH và với các dự báo khoa học. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính cuộc cách mạng thông tin đòi hỏi phải có tư duy khoa học mới, rằng tư duy khoa học không theo kịp với TTKH. Thí dụ, cách đây gần 50 năm nhà khoa học S. Lem đã dự báo, có nguy cơ khoa học - kỹ thuật bị tụt hậu. Những dự báo về cải tiến mạnh mẽ chế tạo động cơ và năng lượng nhưng thực tế thì không có sự tiến triển đáng kể. Từ đầu những năm 1960 đã có các dự báo: cuối những năm 1960 nhân loại sẽ chế tạo ra động cơ tên lửa i- ôn và nguyên tử, đến đầu những năm 1990 sẽ có những thí nghiệm động cơ quang tử. Nhưng hiện nay, tốc độ máy bay và sự an toàn cũng không cao, nhiên liệu dầu mỏ vẫn là chủ yếu. Nguyên nhân là do không chấp nhận sự cảnh báo của TTKH, không kết hợp được với tư duy kinh tế. Có ý kiến khá xác đáng rằng, phải lập một môn khoa học mới nghiên cứu về thông tin theo nghĩa rộng nhất, nó chỉ rõ bản chất của thông tin, các quy luật ảnh hưởng và tác động của nó đối với xã hội và áp dụng vào kinh tế - xã hội. Do đó, cần có mô hình tư duy thông tin có tính toàn cầu, trao đổi giữa tất cả mọi nhà khoa học các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy, tư duy kinh tế phải dựa trên mô hình tư duy thông tin. Có như vậy, mới có cơ sở khoa học chung để đưa ra các hướng phát triển có hiệu quả. Có ý kiến đánh giá rằng, một lý do khiến cho kinh tế Liên Xô bị tụt hậu là do không phát triển đáng kể hệ thống thông tin dân chủ, các bộ phận cấu thành của nó là điều khiển học kỹ thuật, điều khiển học sinh học, điều khiển học kinh tế, tư duy chính trị - xã hội v.v... không theo kịp sự phát triển chung của thế giới. Ở đây, cần lưu ý tính khách quan của khoa học và TTKH, như P.Sorokin đã từng nói, rằng khoa học phải không được quỵ lụy và luồn cúi bất kỳ ai 19). TTKH phải như là một phân hệ của khoa học nói chung để tác động khách quan vào việc nhân đạo hóa kinh tế. Ở đây cần lưu ý rằng, khoa học kinh tế có phương pháp lựa chọn tối đa lợi ích cho việc giải quyết những vấn đề đặt ra trước mắt nó, song chúng ta không thể không chú ý đến một đặc điểm là khoa học kinh tế cũng như TTKH thuộc lĩnh vực tri thức, do đó, chúng phải xuất phát từ bản chất của con người, lối suy nghĩ và học vấn của con người. Tính khách quan của TTKH càng cao thì hiệu quả nhân văn của kinh tế - xã hội càng lớn. Tóm lại, bản chất của thông tin là thông tin về con người xã hội, con người là trung tâm của thông tin, dù thông tin đó nói về hành tinh xa xôi hay các vấn đề cụ thể của đời sống thường nhật của chúng ta. Do phân loại học về thông tin nên mới có khái niệm thông tin xã hội, trường hợp này coi các vấn đề xã hội là đối tượng của thông tin. Mục tiêu cuối cùng vẫn là con người nên thông tin xã hội là nội dung chính của thông tin, mọi hình thức thông tin khác về thực chất là phục vụ cho thông tin xã hội và nối dài cánh tay của thông tin xã hội. Những điều vừa nói trên đây cũng đặt ra cho chúng ta suy nghĩ về tính lan toả và ảnh hưởng nhiều mặt của thông tin và do đó phải suy nghĩ nhiều đến vấn đề dân chủ trong thông tin và sử dụng thông tin vì con người, vì lợi ích xã hội. 1.1.2. Khái niệm TTKH và đặc trưng của TTKH Từ khái niệm thông tin lại sinh ra những khái niệm mang tính phái sinh khác như thông tin học, TTKH, TTKH - công nghệ, TTKH xã hội, TTKH kinh tế v.v.... Tức là phân tách ra thành các thông tin chuyên ngành và thậm chí chuyên biệt hơn nữa. 19) Xem: P. Sorokin. Lịch sử không chờ đợi, nó đưa ra tối hậu thư, T/c: "Khoa học và đời sống”(tiếng Nga), số 10/1989. Thông tin học là một khoa học nghiên cứu về thông tin 20). Ngay từ những năm 1960 ở Mỹ cũng đã đưa ra quan điểm như vậy. Thông tin học là khoa học nghiên cứu về lý luận, về công cụ, cách thức xử lý thông tin, lưu trữ và khai thác thông tin, xét về mặt nghiệp vụ - kỹ thuật thông tin. TTKH là một khái niệm đề cập đến thông tin ở bình diện nội dung của thông tin, là góc độ xem xét tính khoa học của thông tin, tức là nghiên cứu nội dung thông tin (xử lý nội dung của tin, xác định rõ bản chất của tin, lưu chuyển các giá trị khoa học của tin). Như vậy không thể nói rằng, TTKH là đối tượng của thông tin, mà TTKH là nội dung của thông tin. Còn đối tượng của thông tin chính là diễn biến các sự kiện, các quá trình. Theo quan điểm của chúng tôi thông tin bao gồm hai bộ phận hợp thành: + Bộ phận thứ nhất là bộ phận hình thức của thông tin, tức là công cụ, phương tiện, phương pháp, cách khai thác thông tin, cách tổ chức tìm tin. Đó là thông tin học và các hoạt động cùng với các công cụ truyền tin gắn liền với lưu trữ và lưu chuyển tri thức. Đây chính là Thông tin học với chức năng kỹ thuật - công nghệ và tổ chức của thông tin. + Bộ phận thứ hai là nội dung của thông tin. Đây là bộ phận chủ yếu. Nó xác định nội dung thông tin: xác định giá trị của tin, trình độ, hàm lượng tri thức của tin hay là hàm lượng khoa học của tin và khai thác tri thức. Khi nói đến TTKH là người ta hay nhấn mạnh đến thu thập, khai thác, xử lý thẩm định khoa học của sản phẩm (tất nhiên thẩm định khoa học được thực hiện ở rất nhiều nơi, nhiều lần và nhất là trong quá trình sử dụng, nhưng thẩm định TTKH là một khâu quan trọng đầu tiên), lưu chuyển tri thức, sự truyền bá tri thức, chuyển giao, làm lan tỏa tri thức. Đây như là phương diện xã hội của thông tin. Đương nhiên, hoạt động thông tin thường là đan chéo và lồng chặt giữa hai phương diện của thông tin. Chỉ nói về TTKH thì cũng có các tầng nấc của nó, có các hình thức trực tiếp và gián tiếp làm TTKH. Thí dụ như thuần tuý phân loại danh mục các tài liệu đã rõ ràng về nội dung là TTKH có tính gián tiếp, nó chủ yếu là phục vụ 20) Từ điển Tiếng Việt: Trong Tân từ điển học, Nxb Hà Nội - Đà Nẵng, 1996, Hoàng Phê chủ biên, tr. 920. giản đơn như cho mượn sách, vào sổ sách tư liệu; còn làm các công việc như tìm kiếm tin, xác định nội dung tin, dịch thuật, biên tập, tổng hợp tin, bình thuật tin và đính chính thông tin v.v... là làm TTKH một cách trực tiếp. Điều này cũng phù hợp với quan niệm của C. Mác về phân loại sản xuất trực tiếp và sản xuất có tính chất gián tiếp. Liên quan đến TTKH là khái niệm hoạt động TTKH. Trong mối liên hệ và so sánh, khu biệt với nhau giữa hai khái niệm này thì có thể xác định như sau: TTKH, xét theo nghĩa rộng là đồng nhất với hoạt động TTKH. Bởi vì, trong quá trình tiến hành TTKH là phải có sự tổ chức thông tin, tổ chức tìm tin và sử dụng tin, lưu trữ tin, phục vụ đối tượng dùng tin. Đi kèm với điều đó là phải có con người, có bộ máy, đòi hỏi phương tiện tổ chức và phương tiện tài chính, vật chất để thực hiện thông tin. Còn theo nghĩa hẹp thì TTKH là phạm trù hẹp hơn phạm trù hoạt động TTKH. Nói cách khác hoạt động TTKH là bao gồm TTKH và các điều kiện đảm bảo cho nó vận hành, thực hiện. TTKH thường được hiểu chỉ là các loại hoạt động thông tin phục vụ cho khoa học. TTKH là bộ phận cơ bản của hoạt động TTKH. Trên một phương diện, nếu xét theo quan hệ nội dung và hình thức thì: hoạt động khoa học là nội dung và TTKH là hình thức thể hiện. Phần nội dung là sáng tạo tri thức, còn phần hình thức thể hiện kết quả nghiên cứu các sản phẩm khoa học được biểu hiện, được công bố qua sách báo, ấn phẩm, công trình v.v... Đây chính là TTKH (báo tin, báo cáo, thông báo kết quả nghiên cứu sáng tạo v.v..). Xét trên phương diện khác, hoạt động khoa học dưới góc độ sáng tạo bao gồm ba khâu cơ bản: khâu thứ nhất, hoạt động chuẩn bị tin, tìm tư liệu, dữ liệu, tài liệu, phân tích sơ bộ về tài liệu phục vụ cho nghiên cứu; khâu thứ hai, nghiên cứu khoa học, tức là lĩnh vực trực tiếp sáng tạo ra tri thức mới, đây là lĩnh vực chủ yếu của hoạt động khoa học. Nó bao gồm từ sáng chế, thử nghiệm, ứng dụng và sản xuất thử (áp dụng vào mô hình kinh tế - xã hội cụ thể); khâu thứ ba, phổ biến kết quả của khâu thứ hai, đưa vào đời sống xã hội, dưới các hình thức và các điều kiện cụ thể, đưa các kết quả nghiên cứu khoa học vào đời sống hoạt động khoa học như công bố trên báo chí, xuất bản phẩm và tuyên truyền ứng dụng v.v... Trong đó, khâu thứ nhất và khâu thứ ba của quy trình nêu trên là hoạt động TTKH, còn khâu thứ hai là nghiên cứu khoa học. Sự phân biệt như vậy chỉ có ý nghĩa tương đối, giống như trong kinh tế, chu trình tái sản xuất xã hội bao gồm sản xuất và lưu thông sản phẩm (hàng hóa). Tương tự như vậy, hoạt động khoa học cũng bao gồm 2 loại chức năng: sản xuất khoa học, tức là sáng tạo, phát minh, tạo ra sản phẩm khoa học và lưu hành sản phẩm khoa học. TTKH chính là lưu hành sản phẩm khoa học. Thực ra, quá trình hoạt động TTKH ở một chừng mực nhất định cũng có tính nghiên cứu khoa học. Bởi vì, để phân loại tính chất của một tư liệu đòi hỏi phải nghiên cứu, so sánh, phải có kiến thức nhất định nào đó mới có thể thẩm định tri thức của một công trình hay giá trị tri thức của tư liệu, sáng chế, phát minh. Ngược lại, chính trong quá trình sáng tạo là phải đồng thời làm thông tin. Không chỉ thông tin mở đầu, đi trước cho việc nghiên cứu mà trong quá trình nghiên cứu cũng phải có những thông tin mới. Bản thân việc nghiên cứu giỏi cũng là đã có thông tin tốt. Những người nghiên cứu giỏi chính là những người làm thông tin giỏi nhất. Họ biết rằng cái gì cần và cái gì không cần, cần nghiên cứu như thế nào, đó chính là nhà nghiên cứu giỏi xử lý thông tin, đồng thời biết cách khai thác sử dụng thông tin. Bởi vì, bảo quản tư liệu cho nghiên cứu là bảo vệ chính điều kiện nghiên cứu. Cũng cần lưu ý là, không chỉ có thông tin phục vụ cho nghiên cứu khoa học mới là TTKH, mà cả những xử lý khoa học về thông tin để ứng dụng lý luận khoa học và thực tiễn phục vụ cho đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng, sức khỏe, môi trường v.v... đều là TTKH . Như vậy, TTKH không chỉ là phục vụ cho khâu sáng tạo, mà trước hết TTKH là thẩm định, công bố, phổ biến kết quả nghiên cứu sáng tạo để áp dụng vào cuộc sống. TTKH là thông tin mang tính xã hội, nhưng TTKH không phải là thông tin phổ thông, đại chúng. Nhiều khi rất khó phân biệt TTKH với thông tin đại chúng. Ví dụ, tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng là thông tin, nhưng có phải là TTKH không? Tin tức thời sự chính trị - xã hội có nằm trong phạm trù TTKH không? Cắt nghĩa vấn đề này rất phức tạp và khó khăn. Ở đây, cần có một nguyên tắc phân định như sau: TTKH là thông tin có nội dung xử lý, thẩm định về nội dung khoa học. Các thông tin có cơ sở đảm bảo độ tin cậy cao nếu có khâu xử lý, thẩm định, tức là bao hàm nội dung TTKH. Các thông tin đại chúng nói chung mới chỉ là những cứ liệu ban đầu và nhiều khi hỗn loạn, về một sự kiện có thể có các tin khác nhau. Có tin là đúng đắn, có tin sai lệch. Điều đó là tất nhiên. Chỉ thông qua thẩm định, xác định theo những cách thức nhất định, mới rõ được mức độ chính xác, giá trị của từng thông tin. Ở góc độ này thì TTKH là một nội dung cấu thành của nghiên cứu khoa học. Trong thực tế, bất cứ một ai khi tiến hành nghiên cứu một đề tài nào cũng đều phải làm công việc TTKH trước khi bắt tay vào nghiên cứu cái mới, tức là phải xem đề tài đó đã được nghiên cứu chưa và đã được nghiên cứu như thế nào, kết quả ra sao, có cần tiếp tục nghiên cứu hay phải tiếp cận theo hướng khác, khía cạnh khác. Trong quá trình nghiên cứu, rất cần phải làm TTKH để bổ sung kiến thức và dữ liệu cho nghiên cứu, nhờ TTKH mà phát hiện ra nhu cầu mới, đề tài mới cho nghiên cứu hay sáng tạo, gợi ra ý tưởng cho nghiên cứu. Như vậy trong trường hợp này TTKH là một nội dung, một bộ phận cấu thành hữu cơ của nghiên cứu khoa học. Theo nghĩa rộng, TTKH là nói đến khai thác chất xám (sự tinh chiết chất xám), giá trị khoa học trong thông tin nói chung. Nó phải được phân biệt với TTKH theo nghĩa hẹp, sự khai thác giá trị khoa học và phục vụ nghiên cứu có tính tổ chức, tính chuyên nghiệp, chỉ là hoạt động thông tin gắn với nghiên cứu và truyền bá khoa học. TTKH và thông tin đại chúng là hai phương diện đề cập khác nhau của thông tin, nói chung thông tin đại chúng cũng hàm chứa các giá trị khoa học (tri thức). Tuy nhiên, thông tin đại chúng chủ yếu chỉ mang ý nghĩa thông báo vấn đề xã hội, thông báo xã hội. Có những loại thông tin chỉ mang tính tuyên truyền, thông báo, có thông tin chỉ có ý nghĩa giải trí hay thuần tuý là quảng cáo v.v... Thông tin đại chúng và TTKH có sự khác biệt. Bản chất cơ bản của thông tin là mang ý nghĩa khoa học, mang nội dung khoa học. Nó phản ánh, là sự khái quát hiện thực đời sống tự nhiên hay xã hội nhất định nào đó. Tuy nhiên, tin hay thông tin nhiều khi chỉ mới là phản ánh mang tính cảm tính, mang tính hình thức bên ngoài về sự vật hiện tượng khách quan, các tin rời rạc chưa được coi là đúng, là chính xác, là bản chất. Thí dụ, tin thời sự về tác hại của các cơn bão đổ vào Miền Trung tháng 9 và 10/09, gây thiệt hại nặng nề cho một số nơi như Phú Yên, Quảng Ngãi, Bình Định, Đà Nẵng. Đặc biệt là cơn bão số 9 (tháng 10/2009) gây lũ lụt khủng khiếp ở Phú Yên. Có ý kiến cho là do thiên tai bất ngờ, chúng ta bất khả kháng, người dân không kịp đối phó nên nhiều người bị chết vì bão lũ (khoảng 90 người) và rất nhiều tài sản của dân bị lũ cuốn trôi. Đấy là những thảm hoạ kinh hoàng. Ý kiến khác lại cho rằng do khi nước lũ đang ào ạt đổ mạnh thì đồng thời các nhà máy điện trên sông Ba Hạ và sông Hinh cũng buộc phải xả nước hồ chứa, vì mức nước ở hồ thuỷ điện đã vượt quá mức an toàn, nếu vỡ đập thì cực kỳ nguy hiểm cho hạ lưu. Việc xả lũ đó đã làm cho hạ lưu bị lũ lụt tăng cao lên với mức độ khủng khiếp hơn. Nếu không có việc xả lũ của hồ thuỷ điện thì mức độ ngập lụt ở hạ lưu được giảm bớt. Có ý kiến bào chữa cho việc xả lũ, rằng nơi không có nhà máy điện xả lũ thì vẫn có lũ lụt! (Hoàng Trung Hải). Cũng có ý kiến cho rằng, do hạn chế về khả năng dự báo bão và chuẩn bị chống bão chưa tốt, trong đó có việc chủ động xả bớt nước ở các hồ chứa của các nhà máy điện, tuyên truyền ý thức đầy đủ cho người dân và chuẩn bị ứng phó cao nhất và hợp lý nhất của Nhà nước và toàn xã hội, của cả nước cho mọi đối tượng vùng nguy cơ bị nạn, trước hết là những người yếu thế nhất. Ví dụ vừa nêu nói lên rằng chỉ dựa vào một ý kiến thì chưa thoả đáng. Kết luận cho ví dụ vừa nêu phải là: thiên tai là ngoài ý muốn nhưng vẫn có thể chủ động phòng tránh và hạn chế, mức độ hạn chế thiệt hại hay tránh được là phụ thuộc trước hết vào dự báo thiên tai, các phương án chủ động và hợp lý nhất (thông báo tin bão kịp thời, điều tiết các hồ chứa nước của các hồ thuỷ điện, di rời dân ra khỏi nơi nguy hiểm, chằng giữ nhà cửa và bảo vệ các tài sản, chuẩn bị lực lượng cứu hộ v.v...) để tránh hay hạn chế sự tàn phá của thiên tai, cứu trợ kịp thời cho người dân khi thiên tai xảy ra. Phương án lâu dài là cần phải xem lại qui hoạch và có thể điều chỉnh nếu cần. Phải đi sâu phân tích bản chất của các hiện tượng, phải có sự phân tích khái quát và xâu chuỗi các tin để tìm ra tính quy luật của các hiện tượng và sự vật từ các tin đơn lẻ, chú trọng đi sâu vào thông tin mang tính giải thích bản chất của hiện tượng. Vì vậy TTKH gắn với nhận thức bản chất và mang tính lựa chọn. TTKH chính là nghiên cứu tin, giúp cho người ta nắm được bản chất của vấn đề. Phải qua các hoạt động mang tính TTKH thì mới chọn lọc được từ các thông tin đại chúng, mới có thể xác định được tính chân lý của thông tin. TTKH là nội dung của thông tin nói chung, nó là sự thẩm định, xử lý, thanh lọc thông tin, phân tích để phục vụ cho việc tìm kiếm, khám phá bản chất sự vật, hiện tượng. Theo nghĩa hẹp, TTKH là một loại hình thông tin mang tính chuyên nghiệp, mang tính nghiên cứu được phân biệt với các loại hình thông tin mang tính thời sự, rao vặt, giải trí. Vì thế TTKH có chức năng - nhiệm vụ như là một phần của chức năng - nhiệm vụ hoạt động khoa học. Thông qua TTKH để giúp cho việc lựa chọn tri thức, các thành tựu khoa học và kinh nghiệm của nhân loại trải qua nhiều thế hệ được tích luỹ lại. Trong xã hội hiện đại, nhiệm vụ TTKH chủ yếu được đảm nhiệm bởi các cơ quan tổ chức, cá nhân hoạt động chuyên nghiệp về thông tin. Các tổ chức và cá nhân chuyên nghiệp làm chức năng TTKH chỉ là đại diện, là tiêu biểu và là lực lượng chủ yếu của TTKH. Cần tách bạch TTKH theo nghĩa rộng với TTKH theo nghĩa hẹp. Bản thân nội hàm của khái niệm TTKH là rất rộng, nó bao hàm những hoạt động thông tin mang ý nghĩa xử lý tin (khoa học) nhưng không phải là TTKH chuyên nghiệp. Chẳng hạn, các đài phát thanh và truyền hình không phải là những cơ quan chuyên nghiệp về TTKH nhưng trong nội dung hoạt động của họ, trong các nội dung thông tin của họ đều có nội dung TTKH. Vì vậy, khi nói đến các TTKH chúng ta không cần thiết phân biệt theo hình thức tổ chức TTKH mà chủ yếu là nói về TTKH theo bản chất của nó tức là có sự thẩm định giá trị khoa học của tin và đưa tin, sử dụng tin. Ngoài thông tin đặc thù phục vụ trực tiếp cho hoạt động khoa học, trên thực tế còn có các thông tin báo chí, sách, truyền thanh và truyền hình, băng từ, đĩa CD ROM v.v… và thậm chí cả trong dân gian, tức là có các loại hình thông tin phổ thông, đại chúng. Các hình thức thông tin như vậy vẫn hàm chứa những kiến thức khoa học, có dung lượng giá trị khoa học nhất định (với nhiều cấp độ rất khác nhau). Nó thể hiện ở hai khía cạnh: + Đều là sản phẩm trí tuệ, những đúc kết từ thực tiễn cuộc sống đa dạng, mọi mặt hàng ngày. Nhưng chỉ ở dạng đưa tin, chưa đi sâu phân tích chuyên ngành. + Có một số chương trình mang tính khoa học phổ thông, những thông tin đó chủ yếu là phổ biến kiến thức khoa học. Như vậy, những hình thức này đều có nội dung khoa học, có thể không có tổ chức chuyên nghiệp để xử lý nội dung khoa học, không thuộc về phạm trù hoạt động TTKH chuyên nghiệp, nhưng thực ra đó là những thông tin ít nhiều đều có việc xử lý và phổ biến (một cách tự nhiên) tri thức khoa học, mặc dù ở đấy chẳng ai nghĩ đến có TTKH. Ở đây khái niệm TTKH lại rộng hơn khái niệm hoạt động khoa học trong thực tiễn. Như vậy theo nghĩa rộng nhất, TTKH là tất cả mọi thông tin có yếu tố lựa chọn và thẩm định giá trị khoa học về nội dung tin. Vì thế hàm lượng nội dung khoa học của các thông tin có được là nhờ TTKH phát hiện và xử lý (có tính chuyên nghiệp hoặc không phải hoạt động chuyên nghiệp về thông tin). TTKH được định hình ở nguồn tin và người tổ chức xử lý cung cấp, phục vụ tin. Vì thế cũng có quan niệm coi TTKH là dịch vụ khoa học và nằm ngoài hoạt động khoa học, chứ không nằm trong khái niệm hoạt động nghiên cứu khoa học. Quan niệm như vậy là sai lầm vì: thứ nhất, không thấy được rằng TTKH là một nội dung, một khâu của quá trình hoạt động khoa học; thứ hai, là chia tách máy móc thông tin với nghiên cứu. Nghiên cứu luôn luôn dựa vào TTKH, gắn liền với thông tin và có lúc song hành với thông tin, với sự giúp đỡ, mách bảo của thông tin. Bản thân người nghiên cứu đồng thời cũng là người làm tin, làm thông tin cho chính mình. TTKH là một hình thái ý thức xã hội, là hoạt động mang tính xã hội, song không có nghĩa là nó chỉ phản ánh lĩnh vực xã hội theo nghĩa hẹp, mà nó bao quát toàn bộ từ lĩnh vực tự nhiên đến lĩnh vực xã hội, từ sản xuất vật chất đến sản xuất tinh thần, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc, từ con người sinh học đến con người xã hội, từ con người cá nhân và cá thể đến con người tập thể và cộng đồng, xã hội nói chung, từ con người kinh tế man dại đến con người kinh tế tri thức, từ xã hội cổ sơ đến xã hội công nghiệp, đến xã hội hậu công nghiệp, hay xã hội thông tin, từ xã hội kinh tế sang xã hội hậu kinh tế (hoặc phi kinh tế). Khái niệm TTKH gắn liền với truyền bá khoa học. Theo nghĩa đó giáo dục và đào tạo cũng tương đồng với phạm trù TTKH. Bởi vì khi thầy truyền đạt kiến thức cho trò thì thầy luôn luôn phải xử lý kiến thức và thông tin, truyền bá khoa học cho học sinh. Đấy là công việc mang tính TTKH đích thực. Khái niệm TTKH gắn liền với khái niệm nhận thức, mà nhận thức lại chính là nội dung chủ yếu của hoạt động tri thức. TTKH (nhận thức) chính là thu thập thông tin, so sánh thông tin, đưa thông tin (tri thức) vào hệ thống tri giác và hệ thống tri thức. Vì thế khái niệm xã hội thông tin cũng tương đồng với khái niệm xã hội tri thức. Có một đặc điểm rất quan trọng là xã hội thông tin, xã hội tri thức là đặc trưng chủ yếu của xã hội đã đạt được trình độ khoa học - công nghệ, giáo dục, văn hóa, kinh tế ở trình độ cao, trình độ mà Phương Tây gọi là xã hội hậu công nghiệp. Thậm chí có một số nhà nghiên cứu còn gọi là xã hội hậu kinh tế, hay xã hội phi kinh tế, tức là xã hội không phải coi kinh tế là trọng tâm, mà coi các giá trị tinh thần, nhân văn, nhận thức được đưa lên hàng đầu. TTKH như là một thành tố của nhận thức và phát triển, mà vai trò chức năng của nó ngày càng tăng lên trong xã hội thông tin hay xã hội tri thức, xã hội hậu kinh tế. Vì thế khái niệm thông tin và khái niệm nhận thức, xã hội thông tin và xã hội tri thức là song hành với nhau, thêm vào đó, khái niệm TTKH đi liền với khái niệm truyền bá tri thức. TTKH luôn luôn có mặt cùng với việc sáng tạo và sử dụng tri thức khoa học. Tuy nhiên, TTKH chỉ trở thành một lĩnh vực hay một ngành chuyên biệt khi xuất hiện in ấn và lưu giữ thông tin bởi các kho sách, tủ sách của hệ thống các thư viện và được phát triển mạnh mẽ gấp bội bởi công nghệ thông tin. TTKH trở thành một bộ phận quan trọng, có tính độc lập nhất định khi mà lĩnh vực thu thập, xử lý, lưu trữ và lưu hành tri thức được thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan chuyên môn như thư viện, lưu trữ khoa học, phổ biến thông tin. Cũng có thể nói TTKH định hình rõ nét và hoàn chỉnh khi ra đời ngành Thông tin học - khoa học xử lý, lưu trữ, nghiên cứu và truyền bá tri thức. Hệ thống các cơ quan thư viện, thông tin (bao gồm lưu trữ) là "trái tim, mạch máu" của TTKH. TTKH chuyên nghiệp là hoạt động có tổ chức, được định hình ở một cơ cấu hoạt động thông tin gắn với tổ chức khoa học hoặc một công việc có tính chất khoa học và trí tuệ. Nó có những cán bộ khoa học với trình độ nhất định phù hợp với các yêu cầu chuyên môn cụ thể. Đặc trưng cốt lõi nhất của TTKH chuyên nghiệp là việc có chủ định, có sự tự giác xử lý nội dung tin, tìm ra giá trị của thông tin. Thí dụ, bàn về khái niệm thị trường, có thể có rất nhiều tin, nhiều bài, nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến, nhưng tuyển chọn làm tài liệu để lưu trữ và phục vụ bạn đọc thì chỉ nên lựa chọn một số tin, bài có giá trị tiêu biểu và mang tính đại diện, đồng thời phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Điều này đòi hỏi trình độ chuyên môn nhất định của cán bộ TTKH, nhiều khi đòi hỏi vừa có tính chuyên môn sâu, lại phải có ngoại ngữ và có kiến thức nhất định về thông tin học, hơn nữa công việc đó còn đòi hỏi phải có sự khách quan khi lựa chọn tin. Xử lý tin là mấu chốt nhất của TTKH. Xác định điều này để thấy rằng TTKH khác với lưu kho tư liệu hay lưu chuyển tư liệu, mà TTKH trước hết là dò tin, nắm tin, khai thác, xử lý nguồn tin, bình thuật và giới thiệu tin. Cơ sở vật chất chủ yếu của TTKH chuyên nghiệp là nguồn tư liệu khoa học. Vì vậy các thư viện chính là những nơi chủ yếu lưu giữ thông tin và là bộ mặt, là cốt vật chất của TTKH nói riêng và tiềm lực khoa học của một cơ quan khoa học nói chung. Đó là hình thức cơ bản của TTKH. Tuy nhiên, để cho nguồn lực đó “vận động, sống động” thì lại phụ thuộc rất nhiều vào TTKH. Kết luận: TTKH là hoạt động khai thác và xử lý (bao gồm cả dịch thuật, biên tập, chỉnh lý, bình thuật, giới thiệu), thẩm định nội dung khoa học của sản phẩm khoa học đã được công bố để đưa vào phục vụ cho nghiên cứu, hay phục vụ cho đào tạo, cho việc ứng dụng vào kinh tế và xã hội nói chung. 1.2. VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.2.1. TTKH tạo cơ sở dữ liệu khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội Sự phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới trong suốt thế kỷ XX và nhất là trong vòng hơn 50 năm qua đã chứng minh rằng, để phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả đòi hỏi phải có sự chủ động tự giác của con người, của cộng đồng, của xã hội. Nói cách khác là sự phát triển phải được điều tiết trên cơ sở nhu cầu thị trường, xã hội. Muốn có được điều đó, tức là có các chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hợp lý thì phải có cứ liệu cho dự báo kinh tế dài hạn cũng như các kế hoạch phát triển. Vai trò quan trọng của TTKH là chuẩn bị các cứ liệu, số liệu, tài liệu, ý kiến về khoa học - kỹ thuật và công nghệ, về kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng, về đối nội và đối ngoại, về văn hóa xã hội v.v… về rất nhiều lĩnh vực đa dạng và các ngành khác nhau, từ cơ sở cho đến trung ương, trong nước và quốc tế. Các TTKH, với ý nghĩa là tin tức, dữ liệu được xử lý, thẩm định ở mức độ nhất định và có độ tin cậy sẽ là các số liệu hay dữ liệu để cho các cán bộ lập kế hoạch phát triển tham khảo. Do sự bùng nổ của thông tin nên việc xử lý thông tin có ý nghĩa quyết định đối với TTKH. Chỉ có xử lý tốt các dữ liệu mới tạo lập được các dữ liệu khoa học nghiêm túc. TTKH ngày càng đóng vai trò tích cực hơn đối với quá trình phát triển kinh tế. Nó như là một yếu tố tiên phong để chuyển hóa khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. TTKH không phải là khâu gián tiếp, tách rời với các quá trình sản xuất, các quá trình kinh tế mà TTKH gắn liền với các hoạt động kinh tế. Nó như là một yếu tố bên trong, thiếu nó thì các quy trình, các quá trình phát triển kinh tế không thể vận hành. Bởi vì tiền đề đầu tiên của bất cứ hành vi kinh tế nào đều phải có các số liệu, các căn cứ khoa học do TTKH cung cấp. Chẳng hạn, để sản xuất một sản phẩm máy tính thì phải xét xem nhu cầu, ai đang hoặc sẽ tham gia cung cấp, loại thiết bị nào sẽ xuất hiện v.v... Việc đó phải nhờ đến TTKH, nhờ các thông tin về nhu cầu mà nhà sản xuất sẽ có phương án dự báo, lập kế hoạch dài hạn, kế hoạch ngắn hạn cũng như các kế hoạch triển khai tác nghiệp. Mọi hoạt động kinh tế dù là cấp siêu vĩ mô, vĩ mô, trung mô, vi mô, mini, hay nanô đều cần có thông tin cập nhật. Các dữ liệu khoa học phản ánh nhu cầu, bao gồm nhu cầu dài hạn, nhu cầu tạm thời v.v... đều cần được nghiên cứu đầy đủ. Ở các nước kinh tế phát triển đều có các cơ quan nghiên cứu như viện hay trung tâm nghiên cứu để nắm bắt nhu cầu. Trong điều kiện kinh tế thị trường hay kinh tế kế hoạch việc nắm nhu cầu đều là điều kiện tiền đề để xây dựng các kế hoạch, đảm bảo cân đối tổng hợp. Thí dụ, đầu năm 2007, giá cà phê cao gấp 2 lần so với 3 năm trước đây nhưng khoảng 7 - 8 năm trước, nhiều nhà trồng cà phê ở Tây Nguyên đã đốn chặt cây cà phê để trồng thứ khác vì giá cà phê xuống quá thấp, giỏi lắm chỉ đủ chi phí chăm bón. Gần đây nông dân một số nơi ở Nam Bộ lại chặt bỏ cây ăn quả để trồng lúa. Vậy nhà nước nên khuyến khích nông dân mở rộng diện tích trồng cây gì? Hiện tượng đầu tư phong trào đã từng diễn ra với cà phê, mía đường, nuôi tôm, cá basa v.v... Đó là do thông tin chưa đầy đủ, thiếu luận chứng khoa học, thông tin chưa thực sự là TTKH. Nếu TTKH dự báo được xu hướng của nhu cầu, dự đoán được xu hướng và tính quy luật của chu kỳ tăng giảm giá từng mặt hàng, phân tích được khả năng cung ứng, nếu thu thập và xử lý tốt các dữ liệu khoa học thì sẽ giúp cho mọi hoạt động kinh tế ngay từ khâu đề ra chủ trương, chính sách như các kế hoạch sản xuất, kinh doanh cụ thể, sẽ đảm bảo tính hiệu quả. Quy trình thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho sự phát triển kinh tế -xã hội bao gồm những bước chủ yếu sau: - Tập hợp tin ("quét tin") tức là việc thu thập một cách bao quát mang tính điểm tin, tìm đầu tin, lên danh mục các bài và hệ thống sơ bộ về tin có liên quan đến lĩnh vực kinh tế - xã hội. Công việc này tưởng như đơn giản, nhưng đòi hỏi tư duy kinh tế - xã hội và biết cách phong tỏa nguồn tin, gọi tin. - Phân loại các tin gồm những bài báo, công trình khoa học đã công bố các tài liệu có nội dung khoa học gắn với kinh tế. Nhiệm vụ đặt ra ở đây là xác lập hệ tiêu chí nhất định để phân loại tư liệu, tài liệu, xếp đặt các tin. Công tác TTKH sẽ giúp các nhà nghiên cứu, những người sử dụng tin có được những kỹ thuật cần thiết để nắm thông tin cần thiết. - Phân tích tin: Đây là một yêu cầu cao của thông tin nói chung và thông tin kinh tế nói riêng. Các cơ quan, đơn vị, cá nhân có chức năng làm thông tin, dù trực tiếp hay gián tiếp phục vụ cho sự phát triển kinh tế thì cuối cùng đều phải phân tích, thẩm định nội dung thông tin. Thí dụ, cuối năm 2006 trên thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ trong vòng 1 năm chỉ số VNIndex tăng lên 500 điểm (104%), từ 305,28 điểm (31/12/2005) lên 809,86 điểm (18/12/2006) 21). Người làm thông tin phải thẩm định con số đó có chính xác không? Phải có phương thức nhờ các chuyên gia thẩm định, sử dụng các tài liệu khác để so sánh, có thể trước hết là dựa vào tài liệu của Ủy ban Chứng khoán nhà nước. Chỉ một con số đó cũng đã nói lên nhiều khía cạnh kinh tế: một thị trường vốn rất to lớn đã mở ra, các nhà đầu tư rất đa dạng và linh hoạt, có thể thu hút vốn đầu tư lớn; nền kinh tế đã năng động hẳn lên; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang có vấn đề (định giá thấp tài sản doanh nghiệp khi cổ phần hóa) nên mới làm cho giá cả cổ phiếu trên thị trường chứng khoán tăng vọt. Tuy nhiên, cuối năm 2007 thị trường chứng khoán bắt đầu có dấu hiệu giảm sút và năm 2008 rơi vào tình trang lao đao, có lúc chỉ số VNIndex xuống dưới 300 điểm, và năm 2009 đã có sự phục hồi trở lại nhưng rất yếu, đến đầu năm 2010 mới vượt qua được mốc 500 điểm và khó có khả năng đột biến tăng dài như thời kỳ 2006 - đầu năm 2007. Do không xử lý 21) Theo TS. Lê Văn Châu: Những vấn đề cần quan tâm đối với thị trường chứng khoán nước ta, Báo Nhân dân ngày 15/1/2007, tr. 8. được nguyên nhân tăng giảm nên nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ đã bị thiệt hại nặng. Ngay cả VTV1, vào lúc chứng khoán bùng nổ cuối năm 2006, đã quảng cáo rùm beng về cơ hội vụt lên giàu có nhờ mua chứng khoán, chắc chắn đã gây nên tác động tâm lý cho không ít người lao động và dẫn đến hành động thiếu cân nhắc một cách khoa học. Nhưng bên cạnh đó, có một số người giỏi nắm thông tin và phân tích thông tin nên đã hành động đúng, họ nhanh chóng giàu lên nhờ tham gia thị trường chứng khoán, chủ yếu là các đại gia. Ở đây ta thấy rõ được vai trò của phân tích sự kiện kinh tế và dự báo kinh tế - xã hội. C. Mác đã chỉ ra rằng, chứng khoán là tư bản giả (vốn ảo), nghĩa là nó không làm tăng năng lực sản xuất tương ứng với tổng giá trị vốn chứng khoán, với số tiền chu chuyển trên các sàn giao dịch chứng khoán, mà chủ yếu chỉ có ý nghĩa phân phối lợi ích, dịch chuyển vốn giữa những người sở hữu thông qua biến động giá cả cổ phiếu (tăng hoặc giảm). Khi mà giá cả cổ phiếu trở về thăng bằng thì cũng triệt tiêu phần ảo. Ở đây đòi hỏi phải có sự phân tích chuyên môn cao về những hiện tượng như vậy. - Khâu thẩm định nội dung tin để đưa vào hệ thống cơ sở dữ liệu cũng như để phục vụ cho các nhu cầu cụ thể trong nghiên cứu nói chung và phát triển kinh tế - xã hội nói riêng là rất quan trọng. Đó cũng là một công việc đồng thời và song song với quá trình phân loại tin. Các tin tức kinh tế mang tính thời sự về hiệu quả không chỉ gồm các thông tin mang tính thị trường mà những kiến thức, những giá trị khoa học (chỉ có thể đưa lại hiệu quả lâu dài) đều có ý nghĩa kinh tế. Vì thế, khi thẩm định giá trị của chúng cũng gặp những khó khăn. Không phải các giá trị khoa học nào cũng có thể nhận thức được ngay, bởi nó phụ thuộc vào trình độ của người xử lý, thẩm định thông tin và lưu giữ thông tin. - TTKH có vai trò lưu trữ tư liệu khoa học. Chức năng thu thập lưu trữ kiến thức, tư liệu cho hoạt động kinh tế là chức năng trung tâm của xử lý thông tin phục vụ cho khoa học kinh tế và phát triển. Vai trò này thuộc về hệ thống các thư viện, kho lưu trữ tư liệu, cơ sở dữ liệu cùng với bộ máy tổ chức cán bộ tương ứng. Trước đây lưu trữ chỉ có thể bằng tư liệu in ấn, sách báo và băng từ, phim ảnh và cả hiện vật. Ngày nay, nhờ cách mạng thông tin, việc lưu trữ cũng được cách mạng hóa. Đó là lưu trữ nhờ công nghệ kỹ thuật số, không chỉ lưu trữ bằng các kho sách khổng lồ, mà còn lưu trữ bằng các thư viện số, thư viện ảo. Lưu trữ cung cấp tư liệu, tài liệu cho nghiên cứu lý luận, xử lý thống kê, đồng thời tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. 1.2.2. TTKH góp phần hình thành tư duy kinh tế một cách khoa học Tư duy kinh tế là hình thức phát triển cao của hoạt động sáng tạo, hoạt động kinh tế của con người. Đó là hình thức của nhận thức nhưng được áp dụng vào lĩnh vực kinh tế. Tư duy kinh tế bao gồm từ khâu giản đơn là nhận thức một số khái niệm đơn giản về lợi ích của những hoạt động trực tiếp cho đến hình thức cao là nắm được tính quy luật, quy luật của sự vận động kinh tế, hiểu biết được hiện tượng và bản chất của các quá trình kinh tế, dự báo xu hướng vận động, đề ra các chương trình kế hoạch cho hoạt động kinh tế. Tư duy kinh tế được hình thành từ thấp đến cao, từ những khái niệm đơn giản đến hệ thống phạm trù, quy luật phức tạp của kinh tế. Trên phương diện nhận thức, có thể chia ra hai con đường: con đường thứ nhất, nhận thức tự phát, qua kinh nghiệm rồi đến nhận thức khoa học; con đường thứ hai là nhận thức tự giác, thông qua con đường được đào tạo, được cập nhật kiến thức một cách chủ động để nắm tri thức. TTKH có vai trò hình thành tư duy kinh tế cho con người là bằng con đường nhận thức tự giác. Có thể một người nào đó, trẻ tuổi, chẳng hạn như sinh viên, nhờ qua nhà trường và các phương tiện TTKH, có thể nắm được kiến thức nhất định mà nhân loại đã tích lũy, nhiều hơn rất nhiều so với một người tự học, mò mẫm qua kinh nghiệm. Các bước, các trình độ hình thành tư duy kinh tế là: tư duy triết học, tư duy xã hội, tư duy kinh tế chính trị, tư duy kinh tế ứng dụng, tư duy nhân văn. Tư duy nhân văn kinh tế là làm kinh tế cho ai, vì ai. Một số nhà tài phiệt kinh tế, giàu có mặc dù trong kinh doanh thì rất nghiệt ngã, nhưng về mặt xã hội thì lại là những nhà từ thiện lớn. Họ làm giàu rồi dành phần lớn tài sản cá nhân để phục vụ cho mục đích từ thiện. Chẳng hạn như Bill Gates ở Mỹ, một số doanh nhân Việt Nam hiện nay cũng đã và đang có ý thức đó. Trình độ cao hơn của tư duy nhân văn kinh tế là: mục đích hoạt động kinh tế của cá nhân không mâu thuẫn với lợi ích của tập thể, của cộng đồng, của xã hội cả trước mắt và lâu dài, hoạt động kinh tế của cá nhân còn nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Vì thế, nhân đạo hóa kinh tế là một nội dung của tư duy kinh tế hiện đại. Tư duy kinh tế được hình thành thông qua các thứ bậc khác nhau - Tư duy triết học: tức là cách nhìn nhận thế giới, là phương pháp biện chứng trong quan niệm về phát triển và phương pháp duy vật lịch sử trong xem xét xã hội loài người. Khi vận dụng vào phát triển kinh tế, nó tạo ra nền tảng tư duy ban đầu, từ cách nhìn nhận tổng quát cho đến triết lý hành động trong hoạt động kinh tế. Bất cứ một hoạt động kinh tế nào cũng là hiện tượng xã hội, là chọn lựa giải pháp lợi ích về kết hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội sao cho hiệu quả. Tư duy triết học chỉ mới tạo ra định hướng lợi ích, cách nhìn nhân sinh cho hành vi của mình. - Tư duy triết học xã hội là tư duy về sử dụng lực lượng xã hội để mưu lợi ích kinh tế. Bất cứ cá thể hay tập thể nào cũng đều có một tư duy triết học xã hội là hình thức cụ thể hơn của tư duy triết học biện chứng và lịch sử đối với phát triển kinh tế. - Tư duy kinh tế chính trị: hình thành sự nhận thức tổng quát về phát triển kinh tế, tương tác giữa chế độ kinh tế với chế độ sở hữu, mối quan hệ giữa các yếu tố hạ tầng kinh tế với thượng tầng kiến trúc, nghiên cứu chế độ phân phối lợi ích, tính quy luật chung sự vận động của nền kinh tế v.v.... - Tư duy kinh tế ứng dụng: tư duy có được từ các hình thức và trình độ tư duy ở trên tích hợp lại. Có thể thông qua con đường tự phát, tự nhận thức. Trường hợp "Thần đèn" Nguyễn Cẩm Lũy, một người vốn xuất thân từ nông dân chuyển qua làm xây dựng, tự sáng tạo ra phương pháp di dời công trình kiến trúc nhỏ từ vị trí này sang vị trí khác mà vẫn nguyên dạng. Đó là nhờ quan sát, đúc kết dân gian. Dân gian đã từng gánh nhà (gỗ, tre), di chuyển đồ vật nặng bằng thủ công (kéo pháo ở mặt trận Điện Biên Phủ cũng là một ví dụ). Qua tích lũy dần dần, tư duy của ông Nguyễn Cẩm Luỹ chuyển hóa thành tư duy hệ thống. Ngược lại, nói chung là ở các nền kinh tế và khoa học phát triển thì tư duy kinh tế được hình thành theo trình tự từ tư duy cơ bản đến tư duy ứng dụng, từ nhận thức trừu tượng đến nhận thức cụ thể. Và đương nhiên là có quá trình ngược lại, giống như trường hợp ông Nguyễn Cẩm Lũy, cuối cùng ông cũng phải dựa vào tính toán kỹ thuật: lực đẩy và kéo, bàn trượt v.v..., phải viện đến hoa khọc hay tư duy khoa học, nhưng diễn ra một cách tự phát và trải qua giai đoạn kinh nghiệm chủ nghĩa. “Thần đèn” phía Bắc là ông Đỗ Quốc Khánh đi sau “Thần đèn” phía Nam Nguyễn Cẩm Luỹ nhưng lại dựa trước hết vào khoa học, vào nguyên lý thuỷ động lực để tính toán một cách căn cơ khoa học việc di chuyển vật nặng (toà nhà) sẽ chắc chắn thành công hơn. Điều này nói lên vai trò của tính khoa học tự giác, với sự tiền phong mách bảo của thông tin thực tiễn. Tư duy kinh tế phải đạt đến trình độ nhận thức lý luận và áp dụng vào trong hoạt động thực tiễn. Một đất nước muốn phát triển, muốn có một nền kinh tế phát triển, tất yếu phải dựa vào một tư duy kinh tế mạnh. Tư duy đó thường do một cá nhân hay một nhóm nhỏ đề xướng, sáng tạo nên và được phổ cập, nhân rộng trong cộng đồng xã hội. Và để có được tư duy kinh tế mạnh, chắc chắn, không thể phủ nhận vai trò của TTKH. Cuối những năm 1980, chúng ta đã hình thành hệ quan điểm tư duy kinh tế XHCN mới, trong đó có quan niệm về quan hệ kinh tế thế giới, toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới. Nhờ những thông tin về cải cách kinh tế của Trung Quốc, của các nước công nghiệp mới (NICs) như: Hàn Quốc, Xingapo, Thái Lan, Malaixia hay khu vực phát triển kinh tế mới như: Đài Loan, Hồng Kông của Trung Quốc, chúng ta đã đẩy lùi được tư tưởng lo ngại, bảo thủ. Từ đó chúng ta mạnh dạn mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển mạnh các quan hệ kinh tế đa nguyên. Như vậy, TTKH bao gồm có thông tin kinh tế, là một nhân tố trực tiếp của lực lượng sản xuất hiện đại. TTKH không còn là kết quả thụ động của nghiên cứu khoa học mà đã trở thành yếu tố tiên phong của khoa học với vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp. Vai trò của khoa học tự nhiên và công nghệ thường dễ được thừa nhận, vì kết quả áp dụng được định lượng ngay sau nghiên cứu triển khai, được luận chứng hiệu quả kinh tế. Còn trong khoa học xã hội và nhân văn thì nhiều khi không luận chứng được một cách định lượng các hiệu quả kinh tế của các giải pháp nghiên cứu đã đưa ra. Đó là do đặc điểm một số điều kiện áp dụng đụng chạm đến tính tổng hợp, trước hết là tư duy rồi đến tính vĩ mô chính trị - kinh tế - xã hội, đến nền tảng chế độ kinh tế xã hội. Chẳng hạn, kết quả nghiên cứu của C. Mác ở tập I Bộ "Tư bản" đã khẳng định: bóc lột giá trị thặng dư là mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa, muốn thay đổi nền sản xuất đó thì phải làm cách mạng xã hội. Kết luận đó lập tức được giai cấp công nhân và những trí thức tiến bộ ủng hộ, song không dễ gì thực hiện ngay được việc xóa bỏ chế độ làm thuê tư bản chủ nghĩa, mà phải trải qua rất nhiều những biện pháp, bước đi và các hình thức khác nhau, qua nhiều trăm năm. Giá trị công phá của nó là vô cùng lớn, nhưng khi tập I Bộ "Tư bản" đã được xuất bản mà vẫn không có dư luận khoa học và truyền thông lên tiếng. Để thực hiện mục tiêu đó phải có thông tin tuyên truyền, bình luận. Lúc bấy giờ các nhà lý luận tư sản không chịu lên tiếng, vậy cho nên, Ph. Ăngghen đã phải viết bài giới thiệu, bình luận. Sau đó Bộ "Tư bản" mới được hưởng ứng, mới có tiếng vang và làm đảo lộn tư duy xã hội. Tuy khoa học xã hội, TTKH xã hội thường có tác động, ảnh hưởng chậm, theo đường vòng nhưng cũng không ít trường hợp TTKH có tác động tức thì và nhanh chóng. Khi chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước phù hợp với nhu cầu khách quan, được thông báo kịp thời, đã nhanh chóng phát huy tác dụng, có sức công phá mạnh mẽ, tạo bước phát triển nhảy vọt mang tính cách mạng, chẳng hạn như các chủ trương đổi mới kinh tế và xã hội của Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986). Hay như mới đây, chủ trương của Đại hội X cho phép đảng viên làm giàu không hạn chế (trong khuôn khổ pháp luật), đã kích thích các đầu tư tư nhân mạnh mẽ hơn. 1.2.3. TTKH khởi nguồn cho tư duy sáng tạo cái mới nói chung và cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng TTKH có một vai trò trực tiếp đáng kể đối với hoạt động sáng tạo. Thông qua những dữ liệu có được, người làm chủ thông tin sẽ bật ra những ý tưởng mới. Nói đến sáng tạo tức là nói đến tác động làm xuất hiện cái mới. Trong kinh tế - xã hội cũng vậy, TTKH có ý nghĩa to lớn đối với những đề xuất, gợi ý cho những ý tưởng để đưa ra các giải pháp phát triển mới. Thí dụ, thông tin về những nhân tố mới, mang tính "phá rào" bảo thủ và trì trệ của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong thời kỳ kinh tế cũ ở Việt Nam, đầu những năm 1980, khi có thông tin Xí nghiệp liên hiệp đánh cá Vũng Tầu - Côn Đảo vào đầu năm 1981 đã áp dụng chế độ khoán đánh bắt hải sản cho các đội tàu (Báo Nhân dân 26/1/1981), đã gợi ra một hướng mới trong tư duy kinh tế. Cùng với những thông tin khác từ thực tiễn mang tính khởi nguồn đổi mới khác, đã làm nẩy nở một hướng quản lý kinh tế kiểu mới là khoán cục bộ. Đó là chế độ khoán nội bộ doanh nghiệp. Sau đó dần dần hình thành nên quan điểm mới, mang tính tổng thể trong sản xuất công nghiệp, chế độ 3 kế hoạch ra đời (kế hoạch pháp lệnh, kế hoạch thỏa thuận và kế hoạch phụ của doanh nghiệp), rồi khoán hộ trong nông nghiệp theo Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng khóa IV (1981). Ngay như mới đây, nhờ có thông tin về TTKH được xử lý kịp thời, các nhà lãnh đạo và quản lý Nhà nước Việt Nam đã nhanh chóng đề ra và thực hiện những giải pháp kinh tế - xã hội hợp lý để vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới. Đầu năm 2008, Chính phủ đã thực hiện điều chỉnh thị trường tài chính - tiền tệ để chống lạm phát, điều chỉnh đầu tư và tiêu dùng, tức là chống phát triển nóng. Nhưng từ đầu năm 2009, Chính phủ lại phải nhanh chóng đưa ra các giải pháp kích cầu (chống sự phát triển nguội lạnh - trì trệ), với gói kích cầu khoảng 1 tỷ USD, vì nhận thấy kinh tế thế giới có dấu hiệu suy thoái nặng nề, làm giảm đầu tư và xuất khẩu. Nhờ vậy, vào cuối năm 2009, kinh tế nước ta có thể được coi là đã ra khỏi suy thoái sớm hơn so với nhiều nền kinh tế khác trên thế giới. Đầu tư tuy bị ảnh hưởng nhưng vẫn tăng 15,3%, đạt 7,042 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu tuy bị giảm 9,7% so với năm 2008 nhưng vẫn đạt 56,584 tỷ USD, thất nghiệp 2,9% trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn như vậy vẫn có thể chấp nhận được, lạm phát 6,52%, tỷ lệ hộ nghèo 13,4%, đời sống người dân tương đối được đảm bảo và được quan tâm hơn. GDP năm 2009 tăng 5,32%. Nhiều đại diện của các quốc gia và các tổ chức quốc tế đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong điều hành kinh tế trong hai năm 2008 và 2009. TTKH đóng vai trò dẫn dắt tư duy sáng tạo. Mọi sáng kiến phát minh đều phải dựa trên các thông tin, dữ kiện đã có. Do vậy, nguồn thông tin về TTKH phong phú, chính xác sẽ là chất xúc tác, là ngọn nguồn của sáng tạo và phát triển. Ở Việt Nam, TTKH nói chung đã có tác động tích cực đối với tư duy xã hội, trong đó ảnh hưởng rộng đối với sự phát triển kinh tế. Tính sáng tạo của tư duy khoa học có ảnh hưởng rất lớn, khởi đầu cho các ý tưởng mới, sáng tạo, đột phá. Trong lĩnh vực kinh tế, TTKH cũng là tiền đề để phân tích, tổng kết thực tiễn kinh tế. Ở đây, TTKH luôn đóng vai trò tiền đề, vai trò mở đường cho tư duy kinh tế. Không có thông tin thì không có tư duy. Vì vậy, quy mô và trình độ phát triển của TTKH tác động trực tiếp đến tư duy kinh tế. Trong xã hội tiền tư bản, ngay cả trong CNTB thời kỳ trước cách mạng thông tin, thì tính chất manh mún của tư duy kinh tế là khá phổ biến. Song, khi có sự trợ giúp của công nghệ thông tin, tốc độ tư duy, trong đó tư duy kinh tế là trung tâm đã có bước thay đổi mang tính đột phá. Ở Việt Nam tư duy kinh tế bao cấp, đơn nguyên trong những năm xây dựng CNXH cho đến khoảng 1985- 1986 đã phải nhường chỗ cho tư duy kinh tế đa nguyên thị trường. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng có lẽ: thứ nhất, là từ thực trạng khó khăn của nền kinh tế nước ta đầu những năm 1980 đã tạo áp lực buộc tư duy phải mở ra để giải quyết vấn đề thực tiễn khó khăn đang đè nặng lên đời sống xã hội; thứ hai, là do thông tin từ sự cải cách và mở cửa thành công của các nước và khu vực như Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo, Thái lan và cải cách, mở cửa của Trung Quốc v.v... Những thông tin đó cộng với thực tiễn của đất nước đã xua tan chủ nghĩa giáo điều, duy ý chí, nhận thức rõ ràng hơn con đường phát triển của đất nước, của tiến trình hiện thực đi lên CNXH; thứ ba, là nhờ thông tin từ những mô hình khai phá lúc đầu mang tính tự phát, nhưng được Trung ương nắm bắt và ủng hộ, biến thành tự giác, phản ánh đúng nhu cầu khách quan của cuộc sống kinh tế đất nước. Không có thông tin về đi đầu trong xóa bao cấp ở An Giang, ở Thành phố Hồ Chí Minh, ở Đồ Sơn (Hải Phòng) v.v... thì khó có thể làm lung lay và thay đổi được cơ chế bảo thủ, trì trệ trước đó; thứ tư, nhờ thông tin về chuyển biến chính trị, kinh tế và xã hội ở các nước XHCN Liên Xô, Đông Âu. Giữa những năm 1980 hầu hết các nước XHCN đều bắt đầu tư tưởng đổi mới. Đó là những thông tin báo hiệu tích cực, mặc dù vào thời điểm đó, chúng ta chưa thật sự hiểu rõ và tường tận nội dung đổi mới như sau này chúng ta thực hiện, nhưng chúng ta đã đi đúng hướng là cởi trói cho lực lượng sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân dân và đảm bảo cho các lượng vũ trang, từng bước thay đổi cơ chế kinh tế và cơ cấu kinh tế rồi tiến đến đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới chính trị. TTKH khởi nguồn cho tư duy mới, sáng tạo mới. Thông qua sự bổ sung, cập nhật thường xuyên kiến thức mới của mỗi chủ thể trong xã hội. Mọi kiến thức đều quan trọng, đặc biệt là kiến thức cơ bản, là nền tảng để loài người xây dựng nên một lâu đài tri thức. Tuy nhiên, để phát triển, để làm phong phú vốn tri thức, phải có những thông tin mới, những bổ sung mới. Đó là nhờ TTKH, chính các TTKH giúp ta suy nghĩ về điều mới để giải quyết những vấn đề do thực tiễn, trước hết là đòi hỏi thực tiễn kinh tế đặt ra. Chẳng hạn, vào đầu những năm 1980, trong khi chúng ta vẫn còn loay hoay với việc hoàn thiện chế độ công hữu, không biết xử lý nạn khủng hoảng thâm hụt của nền kinh tế như thế nào, thì những thông tin về cải cách mở cửa ở Trung Quốc được tiến hành từ năm 1978 hay sự phát triển của các con rồng Châu Á như Hàn Quốc, Xingapo, Đài Loan, Hồng Kông từ những năm 1960 đã gợi ý cho dư luận bằng các tài liệu TTKH. Tất nhiên không phải TTKH về cái mới luôn đi thẳng vào tư duy và phát triển theo đường thẳng. Có những lý luận mới lúc đầu chỉ là những gợi ý cho trao đổi, cho tranh luận. Thí dụ, thông tin về các con đường phát triển khác nhau trên thế giới, cụ thể, ở các nước Đông Nam Á chẳng hạn, lúc đầu không ít người trong chúng ta e ngại. Nhưng thông tin thì vẫn tự tìm đường đi cho mình. Vì khoa học không thể nói dối. Cái quan trọng là những thông tin mới giúp chúng ta xem xét vấn đề ở trạng thái động. Một ví dụ khác về lý luận nhà nước hiện nay, một câu hỏi được đặt ra là vị trí của nhà nước trong kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội, nhà nước thuộc thượng tầng kiến trúc hay hạ tầng cơ sở, thực tế nhà nước đang làm chức năng kinh tế và như là một chủ thể kinh tế trong xã hội hiện đại, ở nhiều nơi, nhà nước đóng vai trò phân phối lại trên 50% GDP. Ngay cả nước Mỹ, năm 2002 Quốc hội Mỹ đã phê chuẩn một đạo luật cho phép Tổng thống trực tiếp đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại mà không cần phải xin ý kiến của Quốc hội. Từ đó gợi ra vấn đề phải thảo luận thêm về vai trò, vị trí chức năng của nhà nước, không thể coi giản đơn nhà nước là lĩnh vực chính trị, là thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội. Ngày nay các cuộc viếng thăm lẫn nhau giữa lãnh đạo nước này với nước kia về thực chất và chủ yếu là nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế. TTKH góp phần trực tiếp hình thành tư duy khoa học cho người lao động trong hoạt động kinh tế - xã hội. Bản thân người lao động trong quá trình hoạt động kinh tế - xã hội, theo con đường tự phát, kinh nghiệm dần dần hình thành nên phương pháp, cách thức, kỹ năng về tổ chức, kế hoạch và vận hành trong hoạt động kinh tế - xã hội. Khi khoa học, giáo dục và đặc biệt là truyền thông phát triển thì tư duy khoa học của người lao động được hình thành thuận lợi hơn. Đôi khi chỉ nhờ một bài báo hay một chương trình phát thanh mà người ta tiếp cận được với một kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, hay lối sống. Các tác giả kinh điển của tư duy khoa học là A. Smith, D. Ricardo và một số nhà khoa học khác đã đóng vai trò rất lớn trong việc đặt nền móng cho tư duy khoa học về hoạt động kinh tế. C. Mác là nhà khoa học vĩ đại với tư cách là triết gia, nhà kinh tế chính trị học có ảnh hưởng nhất đến việc hình thành nên tư duy kinh tế - xã hội cho tất cả những người lao động với một tư duy mới. Lao động không chỉ là phương pháp để con người duy trì sự tồn tại, mà còn là phương thức hoàn thiện con người; lao động không chỉ vì gánh nặng kinh tế mà còn là niềm vui để thỏa mãn nhu cầu của con người. Tư duy lao động mới, với ý nghĩa rằng lao động không chỉ là phương thức sinh tồn, mà còn là phương thức tái sản xuất ra xã hội với chất lượng cao hơn, trong đó mỗi người vừa là cá thể tự do, vừa là thành viên liên hiệp xã hội. T

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.pdf
Tài liệu liên quan