Tài liệu Luận văn Thiết kế và tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp có nội dụng hóa học cho học sinh lớp 10 và 11 trường trung học phổ thông: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________
Nguyễn Thị Thanh Hà
Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học môn hóa học
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ HOÀNG OANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận
tình của TS. Phan Thị Hoàng Oanh cùng các thầy cô trong khoa Hoá truờng
ĐHSP TP. HCM, đặc biệt là thầy trưởng khoa – TS. Trịnh Văn Biều. Việc
hoàn thành đề tài cũng không thể thiếu sự giúp đỡ, ủng hộ tích cực của gia
đình, bạn bè đồng nghiệp và các em học sinh.
Chúng tôi xin trân trọng gửi đến quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp, các
em học sinh và tất cả mọi người lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân
thành.
Do đề tài còn mới mẻ nên chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp
để xây dựng cho đề tài hoàn thiện...
164 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1774 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thiết kế và tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp có nội dụng hóa học cho học sinh lớp 10 và 11 trường trung học phổ thông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________
Nguyễn Thị Thanh Hà
Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học môn hóa học
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ HOÀNG OANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận
tình của TS. Phan Thị Hoàng Oanh cùng các thầy cô trong khoa Hoá truờng
ĐHSP TP. HCM, đặc biệt là thầy trưởng khoa – TS. Trịnh Văn Biều. Việc
hoàn thành đề tài cũng không thể thiếu sự giúp đỡ, ủng hộ tích cực của gia
đình, bạn bè đồng nghiệp và các em học sinh.
Chúng tôi xin trân trọng gửi đến quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp, các
em học sinh và tất cả mọi người lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân
thành.
Do đề tài còn mới mẻ nên chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp
để xây dựng cho đề tài hoàn thiện hơn.
TP.HCM ngày 30 tháng 8 năm 2009
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH : ban chấp hành
BGH : ban giám hiệu
BGK : ban giám khảo
BTC : ban tổ chức
CNH – HĐH : công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CSVC : cơ sở vật chất
CTV : cộng tác viên
ĐHSP : Đại học sư phạm
GV : giáo viên
GVCN : giáo viên chủ nhiệm
HĐGD NGLL : hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
HS : học sinh
MC : người dẫn chương trình
NGLL : ngoài giờ lên lớp
NXB : nhà xuất bản
SGK : sách giáo khoa
THPT : trung học phổ thông
TB : trung bình
TN : thanh niên
TP : thành phố
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, Đảng ta
đã xác định: “Giáo dục nhân cách đa dạng, độc lập, đó là cơ sở của sáng tạo và
canh tân xã hội. Thế kỷ XXI là thế kỷ của tài năng và nhân cách đa dạng. Học để tự
khẳng định mình là tạo ra sự phát triển toàn diện con người với toàn bộ sự phong
phú, đa dạng vốn có của nhân cách cá nhân.” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần II khóa VIII năm 1996).
Như vậy, mục đích của việc dạy học ngày nay là giáo dục học sinh (HS)
thành những con người toàn diện, dạy chữ kết hợp với dạy người.
Từ những năm gần đây, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã đưa vào chương trình học
một nội dung mới: ngoài giờ lên lớp (NGLL). Mục tiêu chính của hoạt động này là
nhằm giáo dục tư tưởng, ý thức, tình cảm, thái độ của HS – giúp các em thực sự trở
thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”, để làm chủ tương lai của đất nước.
Thực tế, hoạt động này không quá xa lạ với chúng ta. Trước đây, đó có thể là những
giờ ngoại khóa, những buổi tham quan, các câu lạc bộ đội nhóm mà bất kì trường
trung học phổ thông (THPT) nào cũng có. Tuy nhiên, ba năm trở lại đây, cùng với
việc đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa (SGK), hoạt động NGLL được
chú trọng khá nhiều.
Khi đưa vào chương trình, hoạt động này trở nên khá mới mẻ, nên dù muốn
dù không cũng gặp nhiều khó khăn. Nội dung giáo dục vẫn phần nào khô cứng và
mang nặng tính chất lí thuyết, hình thức tổ chức còn hạn chế, đơn điệu, khiến cho
HS khó tiếp nhận. Bản thân giáo viên (GV) còn rất lúng túng vì chương trình mới,
lại chưa có một khóa học nào hướng dẫn cách tổ chức cho thật hiệu quả cả. Vấn đề
đang được các ban ngành quan tâm hiện nay là làm thế nào để những hoạt động
giáo dục NGLL thực sự không chỉ là hoạt động sinh hoạt chính trị được tổ chức
khá hình thức, hay chỉ là những hoạt động thực hành mở rộng bài học trên lớp, mà
trở thành những hoạt động đa dạng nhằm giúp HS chiếm lĩnh các kỹ năng sống –
cụ thể là kỹ năng giao tiếp và làm việc theo nhóm – là những kỹ năng hết sức quan
trọng trong việc học tập và trong cuộc sống của bản thân HS?
Với mong muốn đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL, nhằm giúp tiết
học thêm đa dạng, phong phú, giúp các em thấy được mối liên hệ giữa học chữ –
học làm người, thấy được sự gần gũi giữa hóa học và cuộc sống, qua đó tạo điều
kiện thuận lợi để giáo dục HS, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “THIẾT KẾ VÀ TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP CÓ NỘI DUNG HÓA HỌC CHO
HỌC SINH LỚP 10 VÀ 11 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế các hoạt động NGLL có nội dung hóa học.
Tổ chức và tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
NGLL, nhằm góp phần giáo dục toàn diện HS khối lớp 10 và 11.
3. Khách thể - đối tuợng nghiên cứu
Khách thể: quá trình giáo dục toàn diện HS ở trường THPT.
Đối tượng: việc thiết kế các hoạt động NGLL cho HS lớp 10 và 11 trường
THPT.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Hoàn thiện hệ thống cơ sở lí luận về hoạt động NGLL.
Tìm hiểu, điều tra thực trạng các tiết học NGLL ở trường THPT.
Xác định những nội dung của hóa học có thể kết hợp cùng với hoạt động
NGLL.
Sưu tầm, sáng tạo những hình thức kết hợp hóa học – NGLL.
Xây dựng tiết NGLL có nội dung hóa học.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm.
Tìm ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động NGLL.
5. Phạm vi nghiên cứu
Chương trình: khối lớp 10 và 11.
Nội dung: việc đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL tiết học sẽ thêm phong phú,
sinh động, thiết thực, nhờ vậy sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục, góp phần phát triển
năng lực và hoàn thiện nhân cách của HS.
7. Các phuơng pháp nghiên cứu
– Đọc và tham khảo các tài liệu.
– Quan sát.
– Trò chuyện, phỏng vấn.
– Dùng phiếu điều tra.
– Thực nghiệm sư phạm.
– Phân tích, tổng hợp.
– Phương pháp thống kê toán học.
8. Điểm mới của đề tài
Qua quá trình nghiên cứu và tổ chức thực nghiệm, đề tài đã có những đóng góp sau:
Về mặt lí luận: Góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động giáo dục NGLL:
– Bổ sung thêm về tác dụng của nội dung hóa học trong hoạt động giáo dục
NGLL.
– Đề ra những yêu cầu và qui trình thiết kế các hoạt động NGLL có nội
dung hóa học.
Về mặt thực tiễn:
– Thiết kế được 50 hoạt động gắn kết nội dung hóa học và nội dung NGLL,
tạo nên sự phong phú, đa dạng cho hoạt động, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
– Tổng kết các bài học kinh nghiệm giúp cho việc tổ chức các hoạt động có
hiệu quả hơn.
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử vấn đề
HĐGD NGLL là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà trường phổ thông
nói chung và trường THPT nói riêng. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài
giờ học các môn văn hóa trên lớp. Vì vậy, có thể nói hoạt động NGLL là một nội
dung mới, một tên gọi khác của các hoạt động ngoại khóa tại trường phổ thông. Có
thể chia hoạt động này thành hai giai đoạn:
1.1.1. Giai đoạn 1: Hoạt động được tổ chức một cách tự phát
Trước đây, hầu hết các trường THPT tổ chức hoạt động ngoại khóa một cách
tự phát chứ chưa đi vào hệ thống. GV tập trung vào việc lĩnh hội kiến thức chuyên
môn nhiều hơn việc rèn luyện những phẩm chất, kĩ năng, bồi dưỡng nhận thức cho
HS. Một số trường có tổ chức các buổi ngoại khóa bài bản thì lại tập trung chủ yếu
vào kiến thức chuyên môn, hoặc tạo nơi vui chơi, giải trí cho HS sau giờ học.
Trong thời gian này, chương trình giáo dục ở trường phổ thông không có
HĐGD NGLL. Việc tổ chức các hoạt động này cho HS được tiến hành qua văn bản
“Hướng dẫn giáo dục theo chủ điểm” mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ban hành bằng
chỉ thị số 1960 CT/1983. Sau đó, hàng năm Bộ Giáo dục & Đào tạo lại có văn bản
hướng dẫn bổ sung. Với văn bản hướng dẫn này, các nhà trường đã tổ chức thực
hiện HĐGD cho HS tuỳ theo điều kiện và khả năng cho phép [30, tr.3].
Nói một cách đơn giản là hoạt động NGLL chưa được chú trọng đúng mức
như hiện nay. Đó cũng là lí do vì sao trước đây, tài liệu viết về hoạt động NGLL
không nhiều. Có thể kể ra một số tài liệu như:
+ HĐGD NGLL ở trường THCS, của Đặng Vũ Hoạt (1999).
+ Thực hành tổ chức các HĐGD, của Hà Nhật Thăng (2005).
1.1.2. Giai đoạn 2: Hoạt động được đưa vào chương trình chính khóa
Bắt đầu từ năm học 2006 – 2007, cùng với việc cải cách nội dung, chương
trình SGK, hoạt động NGLL cũng được đưa vào chương trình như một phần của
việc học văn hóa. Nhờ vậy, hoạt động mới phát huy được hết tác dụng giáo dục đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách HS.
Từ đó, với mong muốn có thể đạt được mục tiêu đề ra ban đầu, việc nghiên
cứu về hoạt động này cũng được quan tâm nhiều hơn.
1. Hiện nay, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã xuất bản 3 tập sách cho 3 khối học
trong cấp THPT [6, 7, 8] như một kim chỉ nam cho HĐGD NGLL theo chủ điểm
từng tháng của từng khối. Việc làm này không những khẳng định HĐGD NGLL có
vai trò như một môn học chính thức mà còn giúp điều chỉnh, định hướng HĐGD
NGLL phát triển một cách hệ thống, đồng bộ.
2. Nhiều đề tài nghiên cứu từ cấp cơ sở lên tới cấp Bộ về hoạt động NGLL
cũng đã được thực hiện với mật độ ngày càng dày. Có thể nêu ra một số bài viết và
đề tài nghiên cứu như:
Một số bài viết về HĐGD NGLL:
Hội thảo Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa đối với việc nâng cao chất
lượng dạy và học trong nhà trường phổ thông do Viện nghiên cứu giáo dục
Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh tổ chức vào tháng 10/2007 với các đề tài:
+ “Một số biện pháp quản lý góp phần nâng cao chất lượng HĐGD NGLL ở
trường phổ thông hiện nay” – ThS. Trương Quang Dũng [15].
+ “Tổ chức HĐGD NGLL ở trường THCS Khánh hội A”– Trần Thị Minh Thi.
Chuyên đề “Quản lý hoạt động NGLL”, sáng kiến kinh nghiệm năm học
2007 – 2008 của GV Nguyễn Thị Thơm, trường tiểu học Đằng Giang [37].
Một số đề tài nghiên cứu về HĐGD NGLL:
“Đổi mới nội dung, phương pháp HĐGD theo chủ đề cho HS ở các trường
trung học cơ sở và trung học phổ thông tỉnh Hải Dương”– Chủ nhiệm đề tài: Th.S
Hoàng Văn Đoạt, Phó Giám đốc Sở Giáo dục & Đào tạo Hải Dương (2004).
“ Tìm hiểu tình hình triển khai thực hiện chương trình môn HĐGD NGLL ở
trường phổ thông trên địa bàn thị xã Thủ Dầu Một và huyện Thuận An” – Phạm
Phúc Tuy –Trần Thị Phượng (2005).
“Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng HĐGD NGLL”– đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường của GV Thái Thị Bi, Bộ môn Tâm lý, khoa Sư
phạm, trường Đại học An Giang (2006) [1].
“Thực hành tổ chức các HĐGD NGLL” – tiểu môđun trong môđun Công tác
đội và thực hành tổ chức HĐGD NGLL, do nhóm tác giả trường Cao đẳng Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh biên soạn (2007) [13].
“Tổ chức hoạt động NGLL có nội dung hóa học góp phần giáo dục toàn
diện HS ở trường THPT”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học của tác giả Lê Thị Kim
Dung (2008) [14]. Đây là công trình khoa học gần nhất với huớng nghiên cứu của
tác giả. Luận văn gồm 153 trang, nội dung nghiên cứu gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã xác định được vai trò quan trọng của hoạt động NGLL, đồng thời
làm sáng tỏ phương pháp thiết kế và tổ chức hoạt động NGLL.
Kết hợp kiến thức hóa học với hoạt động NGLL, làm rõ nhiệm vụ, tác
dụng và nguyên tắc hoạt động của hoạt động NGLL có nội dung hóa học.
Nêu rõ cách thức tổ chức và tiến hành hoạt động NGLL có nội dung hóa
học cụ thể cho từng loại hình: hoạt động NGLL theo chủ đề tháng và hoạt
động ngoại khóa hóa học.
Điều tra thực tế nhằm rút ra một số vấn đề thực tiễn của hoạt động NGLL
hiện nay ở TP. Hồ Chí Minh.
Phần 2. Thiết kế một số HĐGD NGLL có nội dung hóa học
Tác giả đã sáng tạo, thiết kế được:
+ 5 hoạt động NGLL theo chủ đề tháng: Sân chơi hấp dẫn, Lớp chúng
mình – các nguyên tố hóa học, Những món quà đặc biệt, Bảo vệ môi
trường, Hóa học và tài nguyên môi trường.
+ 3 hoạt động theo chủ đề ngoại khóa hóa học: Vui chơi cùng hóa học,
Hóa học lí thú, Cùng kể chuyện các nguyên tố hóa học.
Trong từng bài thiết kế, tác giả nêu rõ mục đích hoạt động, phần chuẩn bị,
cách tiến hành, và vai trò, tác dụng của nội dung hóa học trong hoạt động.
Phần 3. Tiến hành thực nghiệm và chứng minh tính khả thi của đề tài
Nhận xét về các bài viết và đề tài nghiên cứu:
Về mặt lí luận: các đề tài đều khẳng định được tầm quan trọng của HĐGD
NGLL đối với sự phát triển toàn diện của HS, đồng thời làm rõ nhiệm vụ, tác dụng
của hoạt động cùng những yêu cầu cụ thể để tổ chức hoạt động một cách hiệu quả.
Về mặt thực tiễn: các đề tài đã đi sâu vào khía cạnh thực tế, làm rõ, phân tích
thực trạng, cùng những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tổ chức. Qua đó tìm ra
những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động.
Tuy nhiên, việc gắn hóa học vào hoạt động NGLL nhằm giáo dục HS là một
đề tài mới mẻ, chưa được nghiên cứu rộng rãi. Cho tới nay, mới chỉ có luận văn
thạc sĩ của tác giả Lê Thị Kim Dung nghiên cứu sâu về vấn đề này. Ngoài những
công việc mà luận văn thực hiện được như đã nêu trên, chúng tôi nhận thấy:
Các hình thức đưa nội dung hóa học vào HĐGD NGLL chưa phong phú.
Mới chỉ có trò chơi ô chữ, tiểu phẩm, kể chuyện, thuyết trình, trò chơi hoạt động...
Một số hoạt động khá công phu, vượt quá khả năng “tự thực hiện” của HS.
Chưa phát huy được hết vai trò tự quản của HS trong hoạt động.
Phần bài học kinh nghiệm sau một số hoạt động còn sơ sài.
Chưa bổ sung được nhiều nội dung mới cho hệ thống cơ sở lí luận.
3. Bên cạnh đó, có một số đề tài nghiên cứu của sinh viên khoa Hóa trường
ĐHSP TP. Hồ Chí Minh cũng đề cập tới việc tổ chức ngoại khóa hóa học ở trường
phổ thông, nhưng lại không gắn cụ thể vào hoạt động NGLL.
1.2. Hoạt động
1.2.1. Khái niệm chung về hoạt động
Theo sách Tâm lý học đại cương [12, tr 35 – 38], hoạt động là mối quan hệ
tác động qua lại giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm
cả về phía thế giới, cả về phía con người. Trong mối quan hệ đó có hai quá trình
diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau:
Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hóa, trong đó chủ thể chuyển năng
lực của mình thành sản phẩm của hoạt động, có nghĩa là tâm lý của của con người
được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.
Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa: khi hoạt động con người chuyển
từ phía khách thể vào bản thân mình những qui luật, bản chất của thế giới tạo nên
tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân, bằng cách chiếm lĩnh thế giới đó.
1.2.2. Những đặc điểm của hoạt động
Hoạt động bao giờ cũng là “hoạt động có đối tượng”: đối tượng của hoạt
động là cái con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh (động cơ).
Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể.
– Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: mục đích của hoạt động là làm
biến đổi thế giới (khách thể), biến đổi bản thân chủ thể.
– Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: trong hoạt động con người
“gián tiếp” tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý trong đầu, qua việc sử dụng
công cụ lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ.
1.2.3. Các loại hoạt động
Có nhiều cách phân loại hoạt động:
1. Xét về phương diện cá thể: có 4 loại hoạt động là vui chơi, học tập, lao động và
hoạt động xã hội.
2. Xét về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần) có hai loại hoạt động:
– Hoạt động thực tiễn : tạo ra sản phẩm vật chất là chủ yếu.
– Hoạt động lý luận: tạo ra sản phẩm tinh thần.
3. Còn có cách phân loại khác, chia hoạt động thành 4 loại: hoạt động biến đổi, hoạt
động nhận thức, hoạt động định hướng giá trị, hoạt động giao lưu.
1.2.4. Cấu trúc hoạt động
Quan điểm A.N.Leochiev về cấu trúc vĩ mô của hoạt động, bao gồm 6 thành tố
và mối quan hệ giữa 6 thành tố này.
Khi tiến hành hoạt động :
■ Về phía chủ thể bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa 3 thành tố này, đó
là : hoạt động – hành động – thao tác. Ba thành tố này thuộc về các đơn vị thao tác
(mặt kĩ thuật) của hoạt động.
– Về phía khách thể (đối tượng hoạt động) bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ
giữa chúng với nhau, đó là: động cơ – mục đích – phương tiện. Ba thành tố này tạo
nên “nội dung đối tượng” của hoạt động (mặt tâm lí).
– Cụ thể là hoạt động hợp bởi các hành động. Các hành động diễn ra bằng các
thao tác. Hoạt động luôn hướng vào động cơ (nằm trong đối tượng) đó là mục đích
chung của hoạt động. Mục đích chung này được cụ thể bằng những mục đích cụ thể,
bộ phận mà từng hoạt động hướng vào. Để đạt mục đích con người phải sử dụng
các phương tiện.
■ Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác và nội
dung đối tượng của hoạt động, tạo ra sản phẩm của hoạt động. Có thể khái quát cấu
trúc chung của hoạt động như sau:
Chủ thể Khách thể
Hoạt động cụ thể Động cơ
Hành động Mục đích
Thao tác Phương tiện
Sản phẩm
1.2.5. Vận dụng lý thuyết hoạt động vào đề tài nghiên cứu
Dựa vào cấu trúc của hoạt động, chúng tôi có những vận dụng vào đề tài
nghiên cứu như sau:
■ Muốn tạo được một sản phẩm mới, đạt chất lượng – ở đây chính là sự lĩnh
hội tri thức, sự hình thành và phát triển kĩ năng, sự hoàn thiện dần về ý thức và tư
tưởng của HS, bản thân người thiết kế cần phải nắm rõ cấu trúc của hoạt động.
– Chủ thể của hoạt động ở đây là người tổ chức (có thể là GV hoặc chính HS),
người tham gia (HS); khách thể là các hoạt động NGLL có nội dung hóa học.
Cụ thể: giữa chủ thể và khách thể phải có sự tác động qua lại lẫn nhau. HS
tác động (thực hiện), làm cho hoạt động này phát huy, bộc lộ tác dụng của chúng.
Thông qua đó, HS lại thu về được kiến thức, kĩ năng, hình thành thái độ, nhận thức
mới.
■ Để làm được như vậy, khi thiết kế hoạt động, GV cần chú ý đến sự thống
nhất, xuyên suốt giữa động cơ, mục đích và phương tiện tiến hành. Hoạt động luôn
hướng vào động cơ. Do đó, các hoạt động NGLL thông qua các hình thức tổ chức
phải thu hút, hấp dẫn với người tham gia, và phải có tác dụng phát huy khả năng,
bồi dưỡng tư tưởng, nhận thức, tình cảm. Khi chủ thể tìm thấy mục đích của mình
trong đối tượng thì sẽ có nhiều nỗ lực hơn để giành được nó. Mặt khác, sự hấp dẫn,
thú vị của tiết học cũng có tác dụng tạo ra tâm lý thoải mái cho người tham gia,
thêm điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động.
■ Khi tiến hành hoạt động, về phía chủ thể (HS) có ba thành tố là hoạt động –
hành động – thao tác. Để việc rèn luyện kĩ năng, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực có
hiệu quả, khi tổ chức một hoạt động NGLL, GV cần chú ý đến thao tác, hành động
bao gồm thao tác làm việc theo nhóm, thuyết trình, tìm tư liệu, chất vấn, thao tác thí
nghiệm sao cho thật hợp lý, và đạt những yêu cầu đề ra. Chính sự hợp lý ấy sẽ tạo
nên mạch liên tục cho một chuỗi những thao tác, và khi những thao tác được sử
dụng một cách thuần thục sẽ dẫn tới kĩ năng được hình thành một cách nhanh
chóng, hiệu quả. Cũng thông qua những thao tác, hành động này mà dần hình thành
trong HS những nhận thức, năng lực mới.
1.3. Hoạt động giáo dục
Theo tài liệu Giáo dục học đại cương [11, tr.15], chúng ta có thể hiểu HĐGD
qua những vấn đề sau:
1.3.1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển
nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Thuật ngữ “giáo dục học” có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
– Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm cả việc dạy lẫn việc học cùng với hệ
thống các tác động sư phạm khác diễn ra ở trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà
trường cũng như trong và ngoài xã hội.
– Theo nghĩa hẹp, giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt đạo đức,
tư tưởng và hành vi…. nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ và
những hành vi thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội.
Như vậy, giáo dục trước hết là sự tác động của những nhân cách này đến
những nhân cách khác, tác động của những nhà giáo dục đến những người được
giáo dục, cũng như tác động của những người được giáo dục với nhau. Chính thông
qua những hoạt động của người học được thực hiện trong mối quan hệ nhất định mà
nhân cách của người học được hình thành và phát triển.
1.3.2. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách HS
Quá trình xã hội hình thành cá nhân con người được thực hiện do sự tác động
của nhiều nhân tố bên ngoài, trong đó có giáo dục. Giáo dục là một bộ phận của các
quá trình xã hội đó, tuy không thể thay thế cho toàn bộ các nhân tố và ảnh hưởng
của các quá trình xã hội, không thể một mình quyết định toàn bộ tiến trình phát triển
của cá nhân, nhưng lại đóng vai trò “chủ đạo” là định hướng, dẫn dắt sự phát triển
nhân cách. Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiện trong bốn phương diện sau:
Giáo dục chủ động đề ra mục đích, qui định phương hướng, nội dung và
mức độ của sự phát triển. Giáo dục căn cứ vào mục tiêu đào tạo tổng quát để
qui định mức độ phát triển cá nhân, bằng cách xây dựng chương trình giáo
dục cho từng loại đối tượng thích ứng với lứa tuổi, cấp học, loại trường, thời
gian, loại hình và phương pháp đào tạo.
Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố, tổ chức các hoạt động và giao
lưu nhằm tạo nên sự phát triển nhân cách thuận lợi.
Giáo dục tạo ra tiền đề cho tự giáo dục và hoạt động cá nhân. Trình độ,
khả năng tự giáo dục của cá nhân phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng đúng
đắn của giáo dục. Sự thống nhất giữa giáo dục và tự giáo dục còn tạo ra khả
năng tự đề kháng của cá nhân trước các tác động, ảnh hưởng tiêu cực của
hoàn cảnh xã hội.
Giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Sự định hướng của giáo dục
không chỉ thích ứng với các yêu cầu của xã hội hiện tại mà còn phải đi trước
hiện thực, hướng về tương lai để chủ động đón đầu và thúc đẩy sự phát triển.
Để giáo dục giữ vai trò chủ đạo và có tác động thực sự đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của HS, cần có sự kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục. Thành
công trong giáo dục chính là làm cho người được giáo dục nhận thức được và chấp
nhận những yêu cầu của nhà giáo dục và của tập thể, biến chúng thành của mình,
làm cho họ biết tự đề ra cho mình những mục tiêu phấn đấu trong cuộc sống, tự bồi
dưỡng và tự rèn luyện những phẩm chất và năng lực mới cho bản thân.
1.3.3. Nguyên tắc chung của tổ chức HĐGD
Đối với HS, để giáo dục phát huy vai trò to lớn của mình, theo tác giả Hà
Nhật Thăng [36, tr.11], cần tuân theo bốn nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: HS vừa là chủ thể vừa là khách thể giáo dục
Một mặt, HS là khách thể giáo dục, chịu sự tác động. Nhưng mặt quan trọng
hơn, với tư cách chủ thể, người HS chủ động tích cực lĩnh hội, rèn luyện, tạo lập
hành vi thói quen đạo đức và trong bản thân HS đã diễn ra quá trình chuyển vào
trong, tạo thành nội lực thúc đẩy cá nhân tự hoạt động.
Để thực hiện nguyên tắc này các lực lượng giáo dục cần thống nhất quan
điểm “lấy HS làm trung tâm” và tạo điều kiện tối đa để HS phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo. Kết quả của giáo dục không dừng ở mức độ nhận thức, thái độ, hành
vi của HS mà quan trọng hơn là khả năng tự chủ giáo dục mà các em đạt được.
Vì vậy, khi tổ chức các hoạt động NGLL, GV cần lưu ý mình chỉ là người cố
vấn, giữ vai trò “chủ đạo”, chứ không “chủ động”. Không nên định ra hẳn một
nguyên tắc, và ép buộc các em răm rắp thực hiện theo, mà nên để cho HS có cơ hội
phát huy hết khả năng sáng tạo của mình.
Nguyên tắc 2: Cá thể hóa và xã hội hóa HĐGD
HĐGD vừa mang tính cụ thể, biến dạng theo từng cá nhân, diễn ra theo từng
tình huống, lại vừa mang tính xã hội hóa cao. Mỗi HS đều có kinh nghiệm riêng,
thói quen, thái độ đã được hình thành ở mức độ khác nhau.
Để thực hiện được nguyên tắc này, tổ chức giáo dục cần xây dựng các tình
huống giáo dục phù hợp với các loại đối tượng. Mục đích và yêu cầu về giáo dục là
thống nhất nhưng cách làm, cách tổ chức hoạt động phải đa dạng, linh hoạt.
Những hoạt động được thiết kế trong tiết NGLL cần đa dạng, phù hợp với
tâm lí của từng nhóm HS. Ví dụ, với lớp học không sôi động, GV khó có thể bắt
đầu tiết học bằng màn thuyết trình khô khan. Thay vào đó, nên để cho các em khuấy
động không khí lớp bằng một vài trò chơi nho nhỏ. Cũng như vậy, trong từng tình
huống của hoạt động, mỗi HS sẽ có một cách nhìn nhận, xử lý khác nhau, GV
không nên áp đặt như thế là sai hay đúng.
Nguyên tắc 3: tiếp cận hệ thống và phát triển
Sự phát triển nhân cách của HS chịu sự tác động của các hệ thống: hệ thống
môi trường, hệ thống giáo dục, các nhân tố sinh học… Do đó việc xác định chức
năng và nhiệm vụ giáo dục cần phải xem xét đến tính hệ thống của hoạt động.
HĐGD là hoạt động luôn luôn biến động và phát triển không ngừng về nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức để phù hợp với đối tượng của nó là HS đang trưởng
thành và phát triển, trong điều kiện xã hội cũng đang biến đổi như vũ bão.
Để thực hiện được nguyên tắc này, các nhà giáo dục cần lưu ý các yêu cầu:
Xác định rõ chức năng, vai trò từng nhân tố và đặt HĐGD trong điều kiện
xã hội cụ thể.
Tổ chức HĐGD phải gắn bó hữu cơ với hoạt động dạy học nhằm hướng
tới mục tiêu giáo dục nhân cách toàn diện.
Có sự thống nhất cao giữa mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục, tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Luôn tạo động lực cho HS, luôn nhìn nhận các bản chất, xu hướng phát
triển của đối tượng giáo dục.
■ Khi thiết kế các HĐGD NGLL, GV cần lưu ý đảm bảo:
– Hoạt động có nội dung và mục đích gắn liền với mục đích giáo dục chung
sao cho HS thấy được sự liên hệ mật thiết giữa nội khóa và ngoại khóa, giữa các
môn học với nhau.
– Dựa vào mục tiêu cuối cùng cần đạt – giáo dục HS thành những con người
với đầy đủ phẩm chất chân – thiện – mĩ để đề ra hình thức hoạt động phù hợp.
Những mục tiêu này được qui định bởi mục tiêu giáo dục, nhu cầu xã hội, và tình
hình thực tiễn.
Nguyên tắc 4: kết hợp điều khiển với tự điều khiển
Một trong những nét bản chất nổi bật của HĐGD là làm cho HS có ý thức
đúng đắn, sâu sắc về nội dung, ý nghĩa xã hội của một vấn đề, một sự kiện…mà
hoạt động đề cập tới. Từ đó giúp các em tích lũy kinh nghiệm, có nhu cầu và thói
quen hành động đúng đắn, có nỗ lực và ý chí loại trừ xóa bỏ cái xấu.
HĐGD thực chất là hoạt động điều khiển và tự điều khiển. GV là người điều
khiển ở các bước: xác định mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức sao
cho phù hợp với đối tượng để đối tượng có thể hưởng ứng, tham gia tích cực nhất.
Tuy nhiên điều khiển ở đây không thể mang tính chất áp đặt mà mang tính
định hướng và điều chỉnh. Đối với một con người, nhất là HS phổ thông thì quá
trình phát triển nhân cách, sự hình thành phẩm chất đạo đức là quá trình phức tạp,
rất cần có sự định hướng và điều chỉnh. Giáo dục chỉ có thể tạo ra những nét phẩm
chất nhân cách bền vững khi nó được thực hiện bằng biện pháp có tác dụng kích
thích động lực bên trong của HS, dẫn tới vai trò tự điều khiển nhận thức thái độ,
hành vi của mình và đó được coi là yếu tố quyết định.
Do vậy, nội dung những hoạt động do GV đưa ra cần phải kích thích được tư
duy, sáng tạo của HS. Đó có thể là một tiểu phẩm, một trò chơi. Khi tham gia, HS
sẽ hình thành thói quen nhận xét, đánh giá và rút ra những bài học, kinh nghiệm cho
riêng mình. GV không áp đặt các em nhưng cần nhanh nhạy, linh hoạt để kịp thời
phát hiện và điều chỉnh khi có sai sót.
1.4. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Theo tài liệu bồi dưỡng thường xuyên [10, tr.61 – 68], chúng ta có thể hiểu
về HĐGD NGLL ở những khía cạnh sau:
1.4.1. Khái niệm
HĐGD NGLL là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà trường phổ thông
nói chung và trường THPT nói riêng. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài
giờ học các môn học văn hóa trên lớp. HĐGD NGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy
học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa
nhận thức và hành động, góp phần hình thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở HS.
HĐGD NGLL là con đường hoàn thiện nhân cách thế hệ trẻ.
1.4.2. Mục tiêu và vai trò
1.4.2.1. Mục tiêu
Như chúng ta đã biết, HĐGD NGLL là điều kiện tốt nhất để HS phát huy vai
trò chủ thể, tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập, rèn luyện toàn diện. Với
ý nghĩa đó, mục tiêu của HĐGD NGLL được thể hiện ở những điểm sau:
■ Về nhận thức: góp phần củng cố, mở rộng và khắc sâu kiến thức đã học trên
lớp, nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội, về những giá trị truyền
thống của dân tộc, biết tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và của thời đại;
có ý thức trách nhiệm đối với bản thân và xã hội, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp
cho bản thân.
■ Về kĩ năng: Củng cố vững chắc các kĩ năng cơ bản đã được rèn luyện từ
Trung học cơ sở để trên cơ sở đó tiếp tục phát triển các năng lực chủ yếu như : năng
lực tự hoàn thiện, năng lực giao tiếp ứng xử, năng lực thích ứng, năng lực hoạt động
chính trị – xã hội, năng lực tổ chức quản lý, năng lực hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh; có lối sống phù hợp với các giá trị xã hội.
■ Về tư tưởng: Bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học để từ đó có
thái độ đúng đắn trước những vấn đề của cuộc sống, biết chịu trách nhiệm về hành
vi của bản thân và đấu tranh tích cực với những biểu hiện sai trái của người khác,
biết cảm thụ và đánh giá cái đẹp trong cuộc sống.
Như vậy, việc đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL nhằm thỏa mãn
ba mục tiêu trên, sao cho HS thực sự trở thành chủ thể tích cực, sáng tạo nhằm phát
huy, phát triển tiềm năng của các em.
1.4.2.2. Vai trò
Makarenco – nhà sư phạm nổi tiếng của nước Nga đầu thế kỷ XX đã nói:
“Tôi kiên trì nói rằng các phương pháp giáo dục không thể hạn chế trong các vấn đề
giảng dạy, lại càng không thể để cho quá trình giáo dục chỉ thực hiện trên lớp học
mà đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất nước ta… Nghĩa là trong bất kì hoàn
cảnh nào cũng không được quan niệm rằng công tác giáo dục chỉ được tiến hành
trong lớp”. Ông đã nhấn mạnh: nhân cách HS được hình thành qua hai con đường
cơ bản là con đường dạy học trên lớp và con đường hoạt động NGLL.
Vai trò của HĐGD NGLL được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Là một HĐGD cơ bản được thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch, có
tổ chức, được tiến hành xen kẽ với chương trình dạy học và diễn ra trong suốt
năm học kể cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo dục, làm cho quá
trình đó có thể được thực hiện mọi nơi, mọi lúc.
Là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lí thuyết với thực
tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động, góp phần hình
thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở HS.
Góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách cho các em.
Là điều kiện tốt nhất để HS phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực, chủ động
Của các em trong quá trình học tập và rèn luyện.
Vừa củng cố, bổ sung kiến thức đã học, vừa phát triển các kĩ năng cơ bản của
HS phù hợp với yêu cầu, mục tiêu của giáo dục và đòi hỏi của xã hội.
Thu hút và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục, góp phần quan
trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Mặt khác, hoạt động NGLL còn có ảnh hưởng tích cực đến kĩ năng tổ chức và
quản lý thời gian của HS. Các hoạt động này chiếm mất một số buổi trong thời khóa
biểu của HS, trong khi nhiệm vụ chính của họ vẫn là học tập. Để có thể tham gia
được các hoạt động mà họ yêu thích, HS phải biết sử dụng thời gian một cách hiệu
quả, lập kế hoạch cá nhân một cách hợp lý nhất để có thể hoàn thành được mọi
nhiệm vụ (Rachel Hollrah, 2007) [15].
Với vai trò như vậy, HĐGD NGLL thực sự là một bộ phận hữu cơ của hệ
thống giáo dục ở trường THPT, cùng với hoạt động dạy và học trên lớp là một quá
trình gắn bó, thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp học.
1.4.3. Sự phân bố thời lượng và nội dung chương trình HĐGD NGLL
1.4.3.1. Thời lượng
– Theo “Kế hoạch giáo dục của trường THPT”: trong một tháng, bên cạnh
các môn học cụ thể còn có các hoạt động khác, trong đó có 4 tiết HĐGD NGLL và
2 tiết hoạt động tập thể”.
– Theo tài liệu bồi dưỡng thường xuyên của tác giả Từ Đức Văn [45] thì
“HĐGD NGLL được qui định thực hiện vào tiết sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, tiết
sinh hoạt lớp cuối tuần và 4 tiết hoạt động trong 1 tháng”.
1.4.3.2. Nội dung chương trình
HĐGD NGLL ở trường phổ thông tập trung vào 6 vấn đề lớn như sau:
– Lẽ sống của thanh niên trong giai đoạn CNH – HĐH đất nước.
– Tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình.
– Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
– Truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng, bảo vệ di sản văn hóa.
– Thanh niên với vấn đề lập thân, lập nghiệp.
– Những vấn đề có tính nhân loại như: bệnh tật, đói nghèo, dân số, môi
trường, giáo dục, phát triển, hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
Nội dung của HĐGD NGLL được cấu trúc theo các chủ đề. Ở trường THPT,
mỗi tháng là một hoạt động. Tuy các chủ đề không gắn trực tiếp với các ngày lễ
nhưng vẫn mang tính kế thừa. Để phù hợp hoàn cảnh, điều kiện học tập, rèn luyện
của HS trong 9 tháng của năm học và 3 tháng hoạt động hè, nội dung HĐGD NGLL
được cụ thể hóa thành 10 chủ đề:
– Tháng 9: Thanh niên với học tập, rèn luyện vì sự nghiệp CNH–HĐH đất
nước.
– Tháng 10: Thanh niên với tình bạn, tình yêu và gia đình.
– Tháng 11: Thanh niên với truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo.
– Tháng 12: Thanh niên với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
– Tháng 1: Thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
– Tháng 2: Thanh niên với lý tưởng cách mạng.
– Tháng 3: Thanh niên với vấn đề lập nghiệp.
– Tháng 4: Thanh niên với hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
– Tháng 5: Thanh niên với Bác Hồ.
– Tháng 6, 7, 8: Mùa hè tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.
1.4.4. Phương hướng đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL ở trường
THPT
HĐGD NGLL có thể được coi như một trong các hình thức đánh giá HS theo
quan điểm phát triển toàn diện và càng có ý nghĩa hơn nếu các hoạt động này có tác
động trở lại, giúp HS có thêm hứng thú, niềm vui trong học tập và rèn luyện đạo
đức. Vì vậy, HĐGD NGLL cần được nhà trường quan tâm đổi mới về hình thức,
nội dung và cách tổ chức thực hiện để HS tham gia với niềm ham mê, tự nguyện.
Đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL ở trường THPT phải theo
phương hướng sau:
1. Trước hết, phải đa dạng hóa các hình thức HĐGD NGLL, khắc phục tính
chất đơn điệu, lặp đi lặp lại một vài hình thức đã quá quen thuộc với HS và gây ra
nhàm chán, tẻ nhạt đối với các em.
Để thực hiện phương hướng này, cần gắn đổi mới hình thức hoạt động với đổi
mới phương pháp tổ chức hoạt động. Điều này thể hiện ở chỗ tăng cường tính chất
tương tác, tính chất sáng tạo của HS khi tham gia hoạt động. Tính sáng tạo là công
cụ nhận thức thiết yếu giúp HS nâng cao hiểu biết của mình qua hoạt động. Đổi mới
phương pháp tổ chức HĐGD NGLL là phải khuyến khích tính sáng tạo của HS.
2. Đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL cần định hướng vào việc phát
triển tính chủ động, tích cực, sáng tạo của HS, khả năng hoạt động độc lập, khả
năng tự đề xuất và giải quyết vấn đề trong hoạt động cũng như khả năng tự kiểm tra
đánh giá kết quả hoạt động của các em. Nói cách khác đó là phát huy khả năng tự
quản các HĐGD NGLL của HS. Đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL phải
kiên quyết khắc phục tính chất áp đặt, bao biện làm thay HS.
3. Đổi mới đánh giá kết quả hoạt động. Khi đánh giá phải bám sát vào mục
tiêu, đối chiếu với mục tiêu để xem xét mức độ thực hiện hoạt động của HS. Bởi vì
đánh giá là dịp giúp HS tự nhìn nhận được những tiến bộ cũng như những tồn tại
cần khắc phục trong quá trình tham gia và điều khiển hoạt động.
Đánh giá trong hoạt động cần nhấn mạnh kĩ năng, hành vi và thái độ, coi đó
là những yêu cầu cơ bản cần đạt được sau hoạt động. Phải để HS tự đánh giá và
đánh giá, đó chính là phương pháp đã được đổi mới.
1.4.5. Một số phương pháp tổ chức HĐGD NGLL
1. Phương pháp thảo luận
Là một dạng tương tác nhóm đặc biệt mà trong đó các thành viên đều giải
quyết một vấn đề cùng quan tâm nhằm đạt tới một sự hiểu biết chung.
Tạo cơ hội cho HS kiểm chứng ý kiến của mình, có cơ hội làm quen với
nhau, để hiểu nhau hơn.
Được sử dụng khi cần khuyến khích sự tham gia suy nghĩ và phát biểu tích
cực của mọi thành viên; khi vấn để đưa ra cần được bàn luận sâu sắc và kĩ lưỡng, sử
dụng nhiều kiến thức và kinh nghiệm để đánh giá, kết luận về một vấn đề, hay sáng
tạo ý tưởng mới.
2. Phương pháp sắm vai
Là phương pháp thực hành của HS trong một số tình huống ứng xử cụ thể
nào đó trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em.
Thường không có kịch bản trước, mà HS tự xây dựng trong quá trình hoạt
động. Phương pháp này rất có tác dụng trong việc rèn luyện kĩ năng về giao tiếp,
ứng xử của HS; được sử dụng khi cần đạt mục tiêu thay đổi thái độ của HS đối với
một vấn đề hay đối tượng nào đó.
3. Phương pháp giải quyết vấn đề
Là con đường quan trọng để phát huy tính tích cực của HS.
Được vận dụng khi HS phải phân tích, xem xét và đề xuất những giải pháp
trước một hiện tượng, sự việc nảy sinh trong quá trình hoạt động.
Giúp HS có cách nhìn toàn diện hơn trước các hiện tượng, sự việc nảy sinh
trong hoạt động, trong cuộc sống hàng ngày.
Để phương pháp này thành công, vấn đề đưa ra phải sát với mục tiêu của hoạt
động, kích thích HS tích cực tìm tòi cách giải quyết. Đối với tập thể lớp, khi giải
quyết vấn đề phải coi trọng nguyên tắc tôn trọng và bình đẳng, tránh gây căng thẳng
không có lợi cho việc giáo dục HS.
4. Phương pháp xử lí tình huống
Là phương pháp điển hình của phương pháp giải quyết vấn đề, phương
pháp sắm vai và cả phương pháp trò chơi.
HS được đặt mình trong các tình huống có vấn đề gắn với thực tiễn, đòi hỏi
phải có những hành động cụ thể đưa ra phương án giải quyết. Do vậy, trong các
HĐGD NGLL, có thể có các tình huống thực tế nảy sinh cần được xử lí kịp thời
(như: HS thảo luận lạc đề, bí không trả lời được vấn đề đặt ra, vấn đề đặt ra không
phù hợp với thực tiễn…) hoặc có những có vấn đề được tạo ra (như tình huống tiểu
phẩm để sắm vai, các trò chơi…) nhằm giúp HS có cơ hội rèn luyện các kĩ năng tìm
phương án giải quyết các tình huống.
Làm phong phú thêm tính hấp dẫn của các hoạt động và mang lại hiệu quả
cao cho các hoạt động.
Tuy nhiên, GV cũng cần lưu ý rằng: trong việc giải quyết các tình huống thực
tiễn, không phải bao giờ cũng có giải pháp duy nhất đúng. Cần phải khuyến khích
sự sáng tạo của HS trong những trường hợp này.
5. Phương pháp giao nhiệm vụ
Được dùng trong nhóm các phương pháp giáo dục.
Giao nhiệm vụ là đặt HS vào vị trí nhất định buộc các em phải thực hiện
trách nhiệm cá nhân. Giao nhiệm vụ cũng là tạo cơ hội để HS thể hiện khả năng của
mình, là dịp để các em được rèn luyện kĩ năng nhằm tích lũy thêm kinh nghiệm cho
bản thân.
Trong việc tổ chức HĐGD NGLL, giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lớp sẽ
tạo nên thế chủ động cho các em khi điều hành hoạt động. Điều đó sẽ giúp phát
triển tính chủ động, sáng tạo, khả năng ứng đáp trong mọi tình huống của HS. Cán
bộ lớp sẽ chủ động hơn trong việc phân công nhiệm vụ cho từng tổ, nhóm, cá nhân
với phương châm “lôi cuốn tất cả mọi thành viên trong lớp” vào việc tổ chức thực
hiện hoạt động.
Vì thế, muốn giao nhiệm vụ có kết quả, GV cần cố gắng đảm bảo nhiệm vụ
đó phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, với khả năng của các em.
6. Phương pháp trò chơi
Có thể sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau của HĐGD NGLL như
làm quen, cung cấp và tiếp nhận tri thức, đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và
củng cố những tri thức đã được tiếp nhận.
Phương pháp trò chơi có những thuận lợi như: phát huy tính sáng tạo; hấp
dẫn và gây hứng thú cho HS; giúp cho HS dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp chuyển
tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí thân thiện;
tạo cho HS tác phong nhanh nhẹn…
Vì vậy, tổ chức cho HS vui chơi là một loại hình HĐGD NGLL được vận
dụng phổ biến và có ý nghĩa tích cực.
1.4.6. Các bước thiết kế HĐGD NGLL
Bước 1: Đặt tên
Trước hết GV phải xác định tên gọi của hoạt động cần tổ chức, vì :
− Tên gọi của hoạt động là cơ sở để xây dựng nội dung và lựa chọn hình
thức thực hiện.
− Tên gọi có tác dụng định hướng về mặt tâm lí và kích thích được tích cực,
tính sẵn sàng của HS ngay từ đầu.
Yêu cầu của tên gọi:
+ Nêu rõ chủ đề, nội dung của hoạt động
+ Ngắn gọn, rõ ràng, chính xác
+ Tạo ấn tượng, gây sự hấp dẫn đối với HS
Bước 2: Xác định mục tiêu của hoạt động
Sau khi lựa chọn tên HĐGD NGLL, cần xác định rõ mục tiêu hoặc yêu cầu
giáo dục của HĐGD NGLL để chỉ đạo triển khai, định hướng hoạt động. Cần chú ý
vào ba yêu cầu giáo dục sau :
a) Về nhận thức: HĐGD NGLL nhằm cung cấp cho HS những hiểu biết,
những thông tin gì?
b) Về kĩ năng: qua HĐGD NGLL thực tế, cần bồi dưỡng hình thành cho HS
những kĩ năng gì?
c) Về thái độ: qua đó giáo dục cho HS về mặt tình cảm, thái độ gì?
Bước 3: Xây dựng kế hoạch hoạt động
GV phải vạch ra được tất cả các yếu tố, điều kiện cần chuẩn bị trước khi hoạt
động, những công việc và phương thức thực hiện công việc, và ai là người đảm
nhận công việc đó. Cụ thể là :
a) Xác định rõ và liệt kê những nội dung công việc dự định sẽ thực hiện theo
một trình tự nhất định.
b) Dự kiến một hệ thống các biện pháp để tiến hành HĐGD NGLL. Các biện
pháp này không bất biến mà có thể thay đổi trong quá trình thực hiện, vì vậy
cần có một số biện pháp dự trữ.
c) Người thực hiện : dự kiến và phân công nhiệm vụ cho từng người.
− GV: giữ vai trò chủ đạo, quan tâm, đôn đốc, động viên, hỗ trợ HS và
liên kết các lực lượng giáo dục khác.
− HS: chủ động, tích cực tham gia chuẩn bị.
– Các lực lượng giáo dục khác: quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện.
Bước 4: Xác định nội dung và hình thức của hoạt động
Các căn cứ để xác định nội dung và hình thức của hoạt động: chủ đề của hoạt
động, mục tiêu của hoạt động, điều kiện của hoạt động (về CSVC của trường, lớp,
năng lực HS, các lực lượng hỗ trợ…), thời điểm diễn ra hoạt động.
Bước 5: Chuẩn bị hoạt động
Giáo viên: giữ vai trò cố vấn nên khi dự kiến kế hoạch tổ chức hoạt động cần chủ
động, cụ thể và sáng tạo.
– Dự kiến được nội dung công việc, tiến trình hoạt động, điều kiện phương
tiện cũng như các lực lượng hỗ trợ cho hoạt động.
– Thông báo nội dung, yêu cầu, thời gian hoạt động và những dự kiến cho HS.
– Phân công nhiệm vụ cho cá nhân HS, nhóm.
– Góp ý kiến hoặc đưa ra gợi ý cho HS trong quá trình thực hiện nếu cần.
– Giúp HS giải quyết thắc mắc và gỡ bí trong những vấn đề liên quan đến kiến
thức chuyên môn, điều kiện CSVC, thí nghiệm hóa học…
– Động viên và thúc đẩy HS hoàn thành trách nhiệm được giao đúng kế hoạch.
– Nắm được nội dung, hình thức hoạt động của các nhóm khác trong hoạt
động chung, cùng có sự kết hợp điều chỉnh để toàn bộ chương trình hoạt động
có tính thống nhất và gắn kết.
– Hỗ trợ HS trong việc tìm và liên hệ với các lực lượng hỗ trợ.
– Rà lại nội dung, tiến trình, thời gian hoạt động, xem xét tính hợp lí, khả năng
thực hiện và kết quả cần đạt để có những điều chỉnh phù hợp, kịp thời.
Học sinh:
– Nắm được mục đích, yêu cầu và nội dung của hoạt động từ GV.
– Tham gia xác định hình thức hoạt động của nhóm.
– Xây dựng nội dung cụ thể: kịch bản cho tiểu phẩm, các hoạt động chi tiết…
– Phân công công việc và nhận sự phân công cùng kế hoạch chuẩn bị của từng
cá nhân, từng nhóm cũng như toàn bộ hoạt động.
– Tập dượt trình bày.
Bước 6: Tiến hành hoạt động
Giáo viên
– Giữ vai trò cố vấn, chỉ đạo cho HS thực hiện theo kế hoạch đã định trước.
– Động viên HS tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, phát huy vai trò cá nhân.
– Hỗ trợ, giúp BTC duy trì không khí sôi nổi, hứng thú, nhẹ nhàng, hấp dẫn.
– Quan sát, theo sát hoạt động của HS, hỗ trợ các em giải quyết tình huống
nảy sinh hoặc điều chỉnh kế hoạch nếu có trục trặc.
– Thực hiện kế hoạch dự trù trong trường hợp HS gặp thất bại.
Học sinh:
– Giữ vai trò chủ động.
– Thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề ra.
– BTC mạnh dạn, chủ động, sáng tạo thực hiện chương trình.
– Nhanh nhạy, linh hoạt trong việc xử lý các tình huống nảy sinh.
– Nhờ đến sự trợ giúp của GV khi cần.
Bước 7: Kết thúc hoạt động
– MC: lặp lại ý nghĩa của tiết NGLL.
– GV tổng kết, nhận xét, đánh giá, giúp HS rút kinh nghiệm.
Công việc quan trọng nhất trong phần này là đánh giá và rút kinh nghiệm.
Việc đánh giá rút kinh nghiệm thường được thực hiện khi kết thúc hoạt động, nhưng
cũng có thể thực hiện theo từng giai đoạn nếu thấy cần thiết. Việc làm này có thể do
các GV tự thực hiện; tổ chức cho cả GV và HS cùng thực hiện, hoặc GV tổ chức
cho các em HS tự nhận xét và rút kinh nghiệm để phát huy tính tích cực, chủ động
và tự quản của các em HS.
Nội dung đánh giá và rút kinh nghiệm
– Nêu ra tất cả những công việc đã thực hiện tốt hoặc chưa đạt yêu cầu, những
công việc chưa thực hiện được.
+ Khi nêu hiệu quả của công việc cần nêu rõ người thực hiện để tiện cho
việc tìm nguyên nhân ảnh hưởng và khâu rút kinh nghiệm tiếp theo.
+ Khi trình bày những thành tích đạt được cần phải có dẫn chứng minh
hoạ rõ ràng, cụ thể, chính xác và đầy đủ.
– Tìm hiểu, phân tích những nguyên nhân, điều kiện ảnh hưởng đến việc thực
hiện. Đề cập đến những nguyên nhân chủ quan (năng lực của người thực hiện,
việc chuẩn bị, sự phối hợp giữa các lực lượng) lẫn những nguyên nhân khách
quan (CSVC, phương tiện hỗ trợ, thời gian, không gian, thời tiết…).
– Tổ chức rút kinh nghiệm: hệ thống những việc đã thực hiện tốt để tiếp tục
phát huy và hoàn thiện; những việc chưa làm được hoặc chưa thực hiện tốt
nhằm đưa ra phương hướng điều chỉnh khắc phục. Phải đưa ra những đề xuất,
kiến nghị cụ thể, chi tiết nhằm phát huy tối đa những năng lực đã có và hạn
chế những thiếu khuyết trong các hoạt động tiếp theo.
1.5. HĐGD NGLL có nội dung hoá học
1.5.1. Khái niệm
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang [33, tr.227], thì “Mọi hoạt động trí – đức –
dục của HS do GV tổ chức, được sự hỗ trợ của các đoàn thể thanh thiếu niên và xã
hội, nằm ngoài chương trình và kế hoạch dạy học, diễn ra ngoài các bài học trên
lớp, bao gồm những lĩnh vực hoạt động rộng rãi trong lĩnh vực khoa học – hóa học
thì gọi là công tác ngoại khóa hay công tác giáo dục NGLL có nội dung hóa học.”
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập tới HĐGD
NGLL ở hai khía cạnh:
+ Tiết HĐGD NGLL theo chủ đề tháng trong qui định về chương trình của Bộ
Giáo dục & Đào tạo.
+ Ngoại khóa hóa học: những giờ sinh hoạt bao gồm những hoạt động rộng rãi
liên quan đến chủ đề hóa học.
1.5.2. Nhiệm vụ của HĐGD NGLL có nội dung hóa học
Nằm trong HĐGD NGLL nói chung, HĐGD NGLL có nội dung hóa học cũng
có những nhiệm vụ chính là phát triển toàn diện các mặt trí – đức – dục cho HS.
Ngoài ra, do tính chất “có nội dung hóa học”, mà hoạt động này có thêm những
nhiệm vụ sau:
– Phát triển hứng thú học tập hóa học, nâng cao và mở rộng học vấn hóa học.
– Kích thích sáng kiến, lòng ham hiểu biết hóa học và những vấn đề có liên
quan đến khoa học này.
– Rèn luyện kĩ năng giải quyết các vấn đề khoa học, óc thông minh và sự sẵn
sàng vận dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn.
– Giáo dục kĩ thuật tổng hợp, hướng nghiệp.
– Phát hiện và bồi dưỡng thiên tư, tài năng về hóa học.
– Huy động HS tham gia vào các hoạt động công ích về văn hóa – khoa học –
nghệ thuật có mang nội dung hóa học; tìm hiểu về môi trường, giữ gìn vệ sinh
môi trường.
– Tổ chức nghỉ ngơi, vui chơi giải trí một cách có trí tuệ và bổ ích.
1.5.3. Các nguyên tắc tổ chức hoạt động NGLL có nội dung hóa học:
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang [33, tr.229], để tổ chức một hoạt động ngoài
giờ có nội dung hóa học thành công và hiệu quả, cần tuân theo 8 nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: bảo đảm tính mục đích và tính kế hoạch của toàn bộ hoạt động
– Hoạt động đã được nằm trong kế hoạch của toàn năm học.
– Mục đích, hình thức, nội dung đã có dự kiến trong kế hoạch.
Nguyên tắc 2: đảm bảo tính thích hợp và tính hiệu quả
– Kế hoạch hoạt động phải khả thi: vừa sức, phù hợp về điều kiện (năng lực
HS, điều kiện kinh tế – CSVC, thời gian cho hoạt động…).
– Trong quá trình tổ chức hoạt động, cần tránh những câu hỏi quá dễ gây ra sự
nhàm chán, hay những vấn đề quá khó gây ra sự ức chế làm cho HS bế tắc.
Nguyên tắc 3: đảm bảo sự thống nhất của ngoại khóa với nội khóa
Ngoại khoá hướng về các tri thức, các kĩ năng không có trong chương trình
nhưng lại liên quan chặt chẽ và phục vụ việc củng cố hoặc nâng cao các tri thức và
các kĩ năng trong chương trình. Như vậy, kế hoạch ngoại khoá phải được xây dựng
trên cơ sở chương trình nội khoá, phù hợp với điều kiện thời gian cho phép. Thoát
ly nội khoá, ngoại khoá sẽ làm mất thời gian học tập và sẽ giảm hứng thú hoạt động.
Tuy nhiên, ngoại khóa không đồng nhất, lặp lại khô khan chương trình nội
khóa mà phải mang tính chất ơrixtic (tìm tòi, phát hiện, hấp dẫn, đa dạng, sáng tạo).
Nguyên tắc 4: bảo đảm sự thống nhất giữa sự chỉ đạo của GV với tính tự quản
của HS
– Hoạt động có tổ chức, kỉ cương nhưng phải phát huy tối đa sáng kiến, sáng
tạo, tự giác tích cực, chủ động của HS.
– Mỗi buổi sinh hoạt ngoại khóa về hóa học phải là của HS, do HS và vì HS.
GV giữ vai trò cố vấn và đạo diễn một cách thông minh, khéo léo mà kín đáo.
Nguyên tắc 5: nội dung sinh hoạt phải linh hoạt, phong phú nhưng cân đối giữa
các loại hình. Đồng thời hình thức tổ chức phải đa dạng, có thể kết hợp nội dung
hóa học với các loại hình văn hóa – nghệ thuật – lao động công ích khác.
Nguyên tắc 6: trong điều kiện khách quan cho phép, huy động tối đa HS tham
gia,không phân biệt giỏi kém.
Nguyên tắc 7: có sự tự nguyện, chủ động và hứng thú của HS.
Khi đã tự nguyện, tự giác, HS sẽ khắc phục mọi khó khăn hoàn thành nhiệm
vụ được giao, mặt khác, gặp thất bại các em sẽ không nản chí. Các nhóm HS tự
nguyện tham gia ngoại khoá là các nhóm bạn tâm đắc về ý thức và sở trường, như
vậy hoạt động ngoại khoá còn có tác dụng hình thành các tập thể HS liên kết với
nhau theo hứng thú. Trong các tập thể tự nguyện này, HS sẽ tự bộc lộ đầy đủ hơn
những kĩ năng, năng lực mà trong quá trình học tập các em ít được bộc lộ.
Nguyên tắc 8: huy động sự tham gia và giúp đỡ của nhà trường, chính quyền địa
phương, hội phụ huynh HS…
1.5.4. Các hình thức hoạt động có gắn hóa học thường được sử dụng
– Kể chuyện các nguyên tố, các nhà bác học…
– Biểu diễn thí nghiệm hóa học.
– Trò chơi: đố vui, giải ô chữ, trò chơi vận động.
– Giải bài tập hóa học.
– Đóng kịch, diễn tiểu phẩm trong đó có lồng ghép nội dung hóa học.
– Biểu diễn thời trang có nội dung hóa học.
– Thuyết trình, thảo luận.
– Đóng vai: nhà thanh tra môi trường, nhân viên tiếp thị phân bón…
1.6. Đặc điểm tâm lí học sinh THPT
1.6.1. Đặc điểm tâm lý
Theo tài liệu “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm” [20, tr.108], lứa tuổi
THPT có một số đặc điểm chung cần lưu ý như sau:
1. Sự phát triển của tự ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có tính chất đặc thù
riêng: thanh niên có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình
theo quan điểm về mục đích cuộc sống và hoài bão của mình. Các em không chỉ
nhận thức về cái tôi trong hiện tại, mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội,
trong tương lai. Không chỉ vậy, các em còn có khả năng phân tích, đánh giá sâu sắc
phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của những người xung quanh và của chính mình.
2. Đây là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan – hệ thống quan
điểm về xã hội, tự nhiên, về các nguyên tắc và qui tắc cư xử… Trong nhận thức của
các em xuất hiện nhu cầu đưa những tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi đạo đức đã
được lĩnh hội từ cấp học dưới vào một hệ thống hoàn chỉnh. Các em cố gắng xây
dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với các vấn đề xã hội, tư tưởng
chính trị, đạo đức. Trong lứa tuổi này, HS quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề liên
quan đến con người, vai trò của con người trong lịch sử, quan hệ giữa con người và
xã hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và tình cảm.
3. Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất. Điều quan
trọng đối với các em là được sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi, là cảm thấy mình
cần cho nhóm, có uy tín, có vị trí nhất định trong nhóm.
Nói chung, HS THPT ngày nay có những bước nhảy vọt về chất trong quá trình
học tập và rèn luyện. Các em mạnh dạn hơn, suy nghĩ táo bạo hơn, có những nhu
cầu mới hơn, đặc biệt là nhu cầu về hoạt động. Mặc dù hoạt động học tập vẫn là
hoạt động chủ đạo, song nội dung và tính chất hoạt động học tập ở lứa tuổi này khác
rất nhiều so với các lứa tuổi trước. Nó đòi hỏi ở các em tính năng động và độc lập
cao hơn, tư duy lôgic nhiều hơn. Những yêu cầu đó vừa phải được thể hiện trong
hoạt động học tập, vừa phải được cụ thể hóa trong các hoạt động tập thể.
Vì vậy, việc tổ chức HĐGD NGLL với những hình thức đa dạng do HS quản
lí và điều khiển đòi hỏi GV phải đổi mới các phương pháp tổ chức hoạt động, tránh
áp đặt một chiều hoặc chỉ cực đoan ở một vài hình thức quá quen thuộc, gây nhàm
chán cho HS.
Khi tổ chức cho HS các hoạt động NGLL, cần lưu ý tạo điều kiện cho HS có
cơ hội thể hiện sở trường, năng khiếu, qua đó tự khẳng định mình. Phải khuyến
khích, bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Cần
có sự phân chia đồng đều, hợp lý vai trò của từng thành viên, không để bất cứ HS
nào có suy nghĩ “mình không có vai trò trong nhóm”.
Cũng với việc đáp ứng tâm lý muốn “thể hiện” của lứa tuổi THPT như vậy,
những hình thức tổ chức hoạt động NGLL chúng tôi đưa ra đều mang tính chất đơn
giản, nhẹ nhàng, nhằm mục đích giúp HS có thể tự tổ chức, tự thực hiện, cho các
em thấy “tầm quan trọng” của mình đối với các bạn khác trong phạm vi lớp, trường.
Bên cạnh đó, do đặc điểm của lứa tuổi này (sự tự ý thức và hình thành thế giới
quan) mà cần để các em bộc lộ hết suy nghĩ, nhận thức của mình. Nhờ vậy, nhà giáo
dục có thể nắm bắt, hoàn thiện và điều chỉnh kịp thời khi có sai sót.
Mặt khác, cũng cần lưu ý giai đoạn này, mọi HĐGD phải được thực hiện một
cách “khôn khéo”, bài bản, tránh để HS hình thành những nhận thức, tư tưởng sai
lệch về xã hội, con người.
1.6.2. Tính tự quản của học sinh THPT
HĐGD NGLL có mục tiêu quan trọng là để cho HS tự điều khiển quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của mình thông qua hoạt động của chính bản thân. Do
đó, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi đặc biệt lưu ý tới tính tự quản của HS
trong các hoạt động.
Có thể nói tính tự quản của HS không chỉ là yếu tố đảm bảo sự thành công cho
các hoạt động mà còn là mục tiêu cần phải đạt được vì mục đích của hoạt động
ngoại khóa nhằm hoàn thiện các năng lực cần thiết cho HS trong đó quan trọng nhất
là tính tự chủ, tự khẳng định, năng lực tổ chức của HS.
Khái niệm: Năng lực tự quản là khả năng tự tổ chức, quản lý, tự giải quyết
những công việc của bản thân, của tập thể.
Những biểu hiện của năng lực tự quản: được mô tả qua mức độ tham gia
của HS cùng người lớn trong việc cùng tổ chức các hoạt động: Đề xuất ý tưởng –
thiết kế hoạt động – tổ chức thi công – rút kinh nghiệm.
– Đề xuất ý tưởng: biết dựa vào yêu cầu chương trình của HĐGD NGLL trong
từng tháng, từ đó đề xuất ra chủ đề, nội dung, hình thức hoạt động phù hợp với
đặc điểm, tình hình của lớp mình.
– Thiết kế hoạt động: biết lập kế hoạch, chương trình hoạt động, và chuẩn bị các
điều kiện cho việc tổ chức thành công hoạt động (chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức
nhân sự, CSVC, phương tiện, môi trường hoạt động,…)
– Tổ chức thi công: tổ chức, điều hành hoạt động theo kế hoạch đã được chuẩn
bị, biết động viên, phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong các hoạt động.
– Rút kinh nghiệm: biết kiểm điểm, rút ra các bài học thành công, thất bại để tổ
chức các hoạt động tiếp theo.
Để làm được như vậy, người GV cần có những lưu ý sau:
Tin tưởng khả năng của HS, các em hoàn toàn có thể tự quản được nếu có sự
tác động đúng cách của GV. Cần biết cách tạo cho HS sự tự tin vào chính mình
và tạo điều kiện để các em được thể hiện khả năng trong công việc tập thể.
Bồi dưỡng khả năng tự quản cho HS đòi hỏi GV phải kiên trì, phải có quá
trình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ HS từ thấp đến cao phù hợp với năng lực cụ
thể của các em, để các em tự giải quyết công việc từ đơn giản đến phức tạp.
Biện pháp trong giai đoạn đầu là cầm tay chỉ việc, sau đó để HS từng bước tự
lực giải quyết những công việc cụ thể trong toàn bộ tiến trình tổ chức hoạt
động, tiến tới tự quản hoàn toàn trong công việc. Phương hướng chung là tăng
dần khả năng tự quản của HS đi đôi với giảm dần sự tham gia cụ thể của GV
trong hoạt động cho đến khi các em có thể chủ động hoàn toàn. Khi HS gặp khó
khăn trong công việc, sự giúp đỡ của GV cần được thể hiện đúng lúc, đúng chỗ.
GV luôn giữ vai trò là người cố vấn, hướng dẫn chứ không phải là người làm
thay các em, càng không nên áp đặt mệnh lệnh đối với các em.
GV cần có nghệ thuật động viên, khuyến khích, giúp các em có sự tự tin vào
năng lực bản thân.
Với mục tiêu, nhiệm vụ như trên, HĐGD NGLL chỉ thực sự phát huy hiệu quả
khi HS tham gia hoạt động với tư cách là một chủ thể thực sự. Điều đó có nghĩa là
các em phải tự nguyện, tự giác tham gia các hoạt động, phải có đủ khả năng để tích
cực, chủ động tham gia vào các giai đoạn của việc tổ chức hoạt động. Chính vì thế,
bồi dưỡng khả năng tự quản cho HS trong các hoạt động NGLL là một việc cần
được các nhà giáo dục quan tâm hàng đầu [39, tr.3].
1.7. Phẩm chất người GV trong HĐGD NGLL [46]
1.7.1. Vai trò và nhiệm vụ của GVCN trong HĐGD NGLL
Hoạt động NGLL là một trong những nội dung giáo dục toàn diện HS với mục
đích tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp nhằm khắc sâu các bộ môn văn hóa bằng
cách tổ chức ngoài giờ học. Vai trò của GV đối với hoạt động này là không nhỏ, đặc
biệt GVCN là người trực tiếp chỉ đạo, cố vấn và giúp các em hoàn thành được
những kĩ năng cơ bản như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hoạt động, tự nhận thức bản
thân, kĩ năng xây dựng quan hệ cá nhân,…
Thực tế cho thấy, việc thực hiện hoạt động này bước đầu còn gặp một số khó
khăn, bất cập như về tổ chức, quản lí, chất lượng giáo dục… Đặc biệt đối với GV
THPT đang còn nhiều bỡ ngỡ, mặc dù đã có tập huấn, bồi dưỡng, song vẫn còn hạn
chế, có cách nhìn riêng đối với hoạt động này. Một số GVCN thực hiện vẫn còn
mang tính bắt buộc, chưa hiệu quả…
Để giải quyết được những khó khăn trước mắt, GV cần định hướng một số
nhiệm vụ quan trọng sau, góp phần thực hiện tốt :
1. Giáo dục tư tưởng cho HS có một thái độ đúng đắn đối với chương trình hoạt
động NGLL.
2. Xây dựng đội ngũ Ban cán sự lớp.
Cứ 2–3 HS chịu trách nhiệm chính trong việc chọn lựa, đề cử, giao nhiệm vụ
cho thành viên trong từng tổ thực hiện theo kế hoạch của GVCN. Đội ngũ Ban cán
sự luân phiên nhau làm việc, chỉ đạo tất cả mọi thành viên cùng tham gia hoạt động.
3. Tạo môi trường tổ chức hoạt động.
Cần thay đổi không gian, vị trí của từng tổ trong mỗi hoạt động, nhằm đảm
bảo nhóm hoạt động hiệu quả. Khi tổ chức nên sắp xếp bàn ghế trong lớp theo hình
chữ U, chữ V hoặc vòng tròn, không nên lặp lại một kiểu chỗ ngồi, dễ nhàm chán.
Trong quá trình tổ chức, cần tạo không khí thoải mái, tự tin, mạnh dạn để các
em tự do phát biểu những suy nghĩ riêng của mình. GV không nên áp đặt theo một ý
kiến duy nhất, bất biến, cần chú ý lắng nghe ý kiến của các em, phát huy tính tích
cực chủ động và sáng tạo.
4. Đổi mới nội dung và hình thức tổ chức chương trình.
Cần định hướng, đổi mới nội dung hoạt động của chương trình phù hợp với
nguyện vọng của HS. Hình thức không nên lặp lại, nên tạo nội dung hoạt động sinh
động, phong phú…
5. Chuẩn bị chu đáo khi thực hiện hoạt động.
– Chuẩn bị phương tiện, thiết bị cần thiết.
– Luyện tập nội dung hoạt động, định lượng thời gian.
– Chạy thử chương trình hoạt động.
– Dự kiến các tình huống xảy ra trong chương trình.
Sau mỗi chủ đề hoạt động nên cho HS viết báo cáo thu hoạch ( nhận định kết
quả đạt được, kiến nghị,…). Nên đưa hoạt động này vào nội dung đánh giá ý thức
rèn luyện nhân cách của HS để các em làm tốt hơn.
1.7.2. Những phẩm chất và kĩ năng cần có của người GV
1.7.2.1. Phẩm chất:
Có khả năng điều khiển chương trình hoạt động: nắm rõ trình tự nội dung
công việc, người thực hiện, thời gian thực hiện để triển khai, tổ chức tốt hoạt động.
Biết cách tiếp cận, huy động, phối hợp và điều hành các lực lượng giáo dục
khác tham gia tổ chức HĐGD NGLL.
Nhạy bén, linh hoạt, chủ động điều chỉnh và giải quyết kịp thời những tình
huống xảy ra ngoài dự kiến.
– Có khả năng quan sát, hướng dẫn để theo dõi, và giúp đỡ các em khi cần
thiết nhằm giảm bớt sự lúng túng của HS trong vai trò tự quản của mình. Đồng thời
phải có khả năng điều khiển để hình thành khả năng này cho chính các em HS.
– Có khả năng tiếp cận, tạo mối quan hệ thân mật để cùng các em tham gia
hoạt động.
– Biết cách động viên, khích lệ các em tự giáo dục, tự rèn luyện.
1.7.2.2. Kĩ năng
Với những nhiệm vụ trên, việc rèn luyện những kĩ năng tiến hành HĐGD
NGLL là một việc làm không thể thiếu được trong quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm của người GV. Để tổ chức một HĐGD NGLL hay thực hiện khâu tiến hành
HĐGD NGLL, người GV cần có một số kĩ năng sau :
– Kĩ năng tổ chức trò chơi
– Kĩ năng giao tiếp.
– Kĩ năng dẫn chương trình.
– Kĩ năng nói trước đám đông.
– Kĩ năng xử lí tình huống.
– Kĩ năng thuyết phục.
– Kĩ năng nắm bắt tâm lí HS.
– Kĩ năng tiếp cận, huy động, phối hợp các lực lượng xã hội tham gia tổ chức
HĐGD NGLL.
1.8. Thực trạng HĐGD NGLL ở truờng THPT tại TP. HCM
1.8.1. Mục đích điều tra
Chúng tôi tiến hành việc tìm hiểu thực tế HĐGD NGLL ở trường THPT tại
TP. HCM để nắm được các nội dung sau:
+ Tình tình tổ chức HĐGD NGLL từ năm học 2006 – 2007 đến nay.
+ Nhận thức của GV và HS về hoạt động NGLL.
+ Ý kiến của GV và HS để cải thiện hoạt động NGLL.
Từ sự phân tích, tổng hợp các nội dung tìm hiểu được, chúng tôi có cơ sở
thực tế cho vấn đề nghiên cứu và định hướng cho các hoạt động của đề tài.
1.8.2. Đối tượng điều tra
Bảng 1.1. Đối tượng điều tra
Đối tượng điều tra Số lượng HS
10D11 – THPT Tây Thạnh 46
11C11 – THPT Trần Phú 41
11A3 và 11B5 – THPT tư thục Nhân Văn 33; 34
11C2 –THPT Trần Phú 40
11A3 – THPT Tây Thạnh 43
1.8.4. Kết quả điều tra
1.8.4.1. Tình hình tổ chức
HĐGD NGLL ở trường THPT bắt đầu được đưa vào chương trình chính khóa
từ năm học 2006 – 2007. Năm đầu tiên, với nhiều bỡ ngỡ và lúng túng, hoạt động
chưa đạt hiệu quả cao. Nội dung khô khan, nặng về lí thuyết khiến HS cảm thấy
thiếu hứng thú.
Hầu hết cán bộ quản lí và GV có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của
HĐGD NGLL nên đã tổ chức được nhiều hoạt động để HS tham gia. Mỗi hoạt động
đều có nội dung giáo dục riêng và góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng
dạy – học trong nhà trường, đặc biệt là góp phần ngăn ngừa được các tệ nạn xã hội
xâm nhập vào trường học. Số HS tham gia các HĐGD NGLL đạt tỉ lệ tương đối,
nhất là các hoạt động thể dục thể thao, các buổi ngoại khoá khoa học, hoạt động
cắm trại…
Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ, GV và HS chưa nhìn nhận một cách đúng
đắn vai trò của HĐGD NGLL nên trong quá trình tổ chức, chỉ đạo và quản lí các
hoạt động còn nhiều hạn chế, hình thức còn đơn điệu, công tác kết hợp giữa các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường chưa đồng bộ, công tác kiểm tra, thi đua,
khen thưởng chưa kịp thời làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giáo dục.
Trên thực tế, nhiều trường THPT đã chú ý cải tiến về nội dung và hình thức
hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và thu hút sự tham gia của HS. Song
những cải tiến đó cũng chỉ là bộ phận, thiếu tính hệ thống và nhất là chưa khai thác
hết tiềm năng của HS. Do đó, vai trò chủ thể của HS đôi khi bị mờ nhạt, nội dung
hoạt động ít thay đổi, hình thức hoạt động thiếu tính đa dạng, dễ gây sự nhàm chán
trong hoạt động của HS.
CSVC của nhiều trường còn thiếu thốn, nhất là các trường ở vùng sâu, vùng
xa, các phương tiện thiết yếu phục vụ cho việc dạy học chính khoá còn chưa đủ, sân
chơi, bãi tập, nhà thi đấu, hội trường… vẫn còn là niềm mơ ước xa vời của nhiều
trường. Nguồn kinh phí dành cho HĐGD NGLL lại quá ít nên có muốn tổ chức
nhiều hoạt động cũng không thể thực hiện được.
1.8.4.2. Ý kiến của HS
Bảng 1.2. Ý kiến của HS về việc thực hiện hoạt động NGLL
Nội dung Các ý kiến Số lượng %
Quan trọng 150 63.3
Có cũng được, không có cũng không sao 87 36.7
1. Hoạt động
NGLL có quan
trọng không? Không quan trọng 0 0
GV thuyết trình 43 18.14
HS thuyết trình 187 78.9
HS chia nhóm thảo luận 122 51.47
Đóng kịch, diễn tiểu phẩm 58 24.47
Tổ chức trò chơi 102 43.03
2. Hình thức
hoạt động chủ
yếu em được
tham gia
Tham gia ngoại khóa 43 18.14
Cung cấp nhiều kiến thức bổ ích 110 4.64
Tạo môi trường vui chơi, giải trí 24 10.12
Mở rộng mối quan hệ, giao lưu bè bạn 120 50.63
Rèn luyện nhiều kĩ năng hay 30 12.65
3. Em thích hoạt
động này vì
Hình thức hoạt động vui, hấp dẫn 17 7.17
Nhàm chán, không sinh động 147 62
Hình thức cứ lặp đi lặp lại 180 75.95
Nội dung khô khan, giáo điều 166 70
4. Em không
thích hoạt động
này vì Không mang lại tác dụng gì 4 1.68
Bảng 1.3. Ý kiến của HS về tác dụng của hoạt động
Số lượng (theo mức độ đồng ý) Nội
dung
Các ý kiến
1 2 3 4 5
Mức độ
TB
Tạo môi trường vui
chơi, giải trí 26 96 115 0 0 2.37
Bồi dưỡng tư tưởng,
nhận thức 2 50 57 122 6 3.34
Củng cố kiến thức các
môn học trên lớp 33 50 56 98 0 2.92
Phát huy tính tự quản,
khả năng sáng tạo 16 84 67 43 27 2.91
Rèn luyện kĩ năng làm
việc tập thể 3 46 107 68 13 3.17
1. Theo
em, hoạt
động
NGLL
có tác
dụng
Rèn luyện kĩ năng sống 18 95 94 16 14 2.63
Hình thức thu hút 62 68 63 36 8 2.4
Nội dung hấp dẫn 33 48 138 16 2 2.6
Nội dung thiết thực 7 30 107 87 6 3.23
2. Đánh
giá hình
thức và
nội
dung
HĐ
Nội dung bổ ích 0 56 96 83 2 3.13
■ Nhận xét:
• Ý nghĩa: Phần lớn HS hiểu được ý nghĩa của các HĐGD NGLL (63,3%).
Các em đồng ý tác dụng quan trọng nhất của hoạt động NGLL là nhằm bồi dưỡng
tư tưởng, nhận thức cho HS (3,34).
• Hứng thú: Không mấy HS cảm thấy thực sự hứng thú với hoạt động này vì
những lí do như: hoạt động nhàm chán, không sinh động; nội dung khô khan, giáo
điều; hình thức cứ lặp đi lặp lại; không thấy tác dụng gì đáng kể… Trong các trường
THPT, số lượng HS tham gia đầy đủ các HĐGDNGLL cũng chỉ chiếm 56,67% số
HS toàn trường. Một số em thừa nhận: “Em tham gia hoạt động này chỉ vì nhà
trường bắt buộc. Có những bạn còn lấy môn khác ra học trong tiết NGLL.”
Điều đáng quan tâm là đa số HS hiện nay ngại tham gia các hoạt động NGLL.
Số HS có năng lực học tập thì chỉ chuyện tâm vào việc học các môn văn hoá. Số HS
chưa tích cực trong học tập thì lại dành thời gian cho các việc vui chơi, giải trí khác,
nhất là các trò chơi điện tử, các thông tin lệch lạc trên Internet… Thực tế đó đã dẫn
đến tình trạng ngày càng có nhiều HS hư hỏng, đua đòi, sống thực dụng, thờ ơ, bi
quan với cuộc sống, nói năng, hành xử thô bạo, thiếu văn hoá…
• Tác dụng: Theo ý kiến các em thì hoạt động NGLL chưa gây được nhiều
tác dụng đáng kể, mới chỉ xoay quanh việc cung cấp kiến thức, bồi dưỡng nhân sinh
quan cho HS. Còn một tác dụng không kém phần quan trọng là rèn luyện kĩ năng thì
lại rất ít thấy hiệu quả. Nếu có, cũng chỉ lặp lại kĩ năng thuyết trình và thảo luận.
Một phần vì HS không hứng thú tham gia, nên hoạt động cũng ít có cơ hội
phát huy tác dụng.
Các em cũng có suy nghĩ GV nên quan tâm đến nhu cầu của HS nhiều hơn,
điển hình như tiết học sẽ sinh động hơn nếu có trò chơi, có đóng kịch… HS sẽ tham
gia sôi nổi hơn nếu có cơ hội bộc lộ hết tài năng của mình…
1.8.4.3. Ý kiến của GV
Bảng 1.4. Ý kiến GV về việc thực hiện hoạt động NGLL
Nội dung Số lượng %
Nhà trường yêu cầu 7 58.3
Do hứng thú 2 16.67
Cảm thấy cần thiết cho HS 3 25
1. Thầy cô thực
hiện hoạt động
NGLL vì
Lí do khác 0 0
GV thuyết trình 1 8.3
HS thuyết trình 12 100
HS chia nhóm thảo luận 8 66.67
Đóng kịch, diễn tiểu phẩm 2 16.67
Tổ chức trò chơi 4 33.33
2. Hình thức thầy
cô sử dụng chủ
yếu trong hoạt
động
Tham gia ngoại khóa 3 25
Bảng 1.5. Ý kiến của GV về hiệu quả hoạt động và khó khăn khi tổ chức
Số lượng (theo mức độ đồng ý)
Nội dung Các ý kiến
1 2 3 4 5
Mức độ
TB
Nội dung ít phù hợp với
tâm lí HS
4 5 3 2.9
Thiếu ý tưởng sáng tạo 2 7 2 1 3.16
Thiếu thời gian chuẩn bị 1 6 3 2 3.5
Thiếu tài liệu, CSVC 3 5 4 0 2.08
Chưa được hướng dẫn
cụ thể cách tổ chức 3 4 3 2 2.33
1. Khó
khăn thầy
cô gặp
phải
Thiếu lực lượng hợp tác 1 3 6 2 3.8
Kiến thức 1 3 6 2 3.75
Kĩ năng 2 5 3 1 1 2.5
2. Hiệu
quả đối
với HS Tư tưởng 1 4 4 2 1 2.83
■ Nhận xét:
Một số BGH và GV chưa thực sự quan tâm hoặc chưa quan tâm đúng mức
đến hoạt động này, gần như cho rằng đó là nhiệm vụ, là hoạt động của tổ chức đoàn
thể. Nguyên nhân:
Chưa định hướng được nội dung, hình thức của hoạt động NGLL do thiếu tài
liệu tham khảo (2,08).
BGH chưa có biện pháp cụ thể về kế hoạch, cách tổ chức hoạt động (2,33).
Quan điểm: đây là hoạt động vui không quan trọng. Hoạt động thường mất
nhiều thời gian (3,5), nếu tổ chức không tốt không những không mang lại lợi ích
gì mà còn ảnh hưởng chất lượng hoạt động dạy và học trên lớp.
Tốn kém kinh phí mà không có nguồn chi, không có nguồn tài chính hỗ trợ.
Một số GVCN, cán bộ còn thiếu nhiệt tình, ngại đổi mới, ít quan tâm đầu tư
cho hoạt động; một số còn hạn chế về năng lực, thiếu sáng tạo (3,16).
Thiếu lực lượng hợp tác, giúp sức tổ chức (3,8).
Từ khó khăn dẫn đến tình trạng:
Trong kế hoạch năm học, hoạt động này chỉ được dành vài dòng chung chung,
đưa ra vài nội dung ngắn gọn thực hiện trong các dịp lễ kỉ niệm như nói chuyện
dưới cờ, nêu ý nghĩa trong dịp kỉ niệm ngày nhà giáo VN, ngày thành lập
đoàn… năm học nào cũng lặp lại hình thức đó gây tâm lý giáo điều, không thu
hút HS.
GV gần như quên nhiệm vụ giáo dục mà chỉ chú ý nhiệm vụ giảng dạy, nếu có
tham gia chỉ mang tính hình thức đối phó.
HS thụ động, lười tham gia các hoạt động sinh hoạt tập thể vì thiếu sự đôn đốc
nhiệt tình của GV.
Tổ chức quản lý, chỉ đạo còn lỏng lẻo; nội dung, hình thức đơn điệu, không lôi
cuốn, không đổi mới, chưa mang lại hiệu quả giáo dục thiết thực; việc kiểm tra,
đánh giá chưa chặt chẽ công bằng, công tác tổng kết đúc rút kinh nghiệm chưa
được quan tâm đúng mức.
Nói về thực trạng này, trên các báo đài cũng có khá nhiều ý kiến bức xúc, xin
nêu cụ thể một ý kiến như sau:
…….Trường thì giao khoán cho GVCN lớp từ khâu soạn giáo án đến giảng
dạy; trường lại thành lập một vài ban chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ dưới hình
thức tập trung; có trường bỏ luôn, không làm. Hình thức giảng dạy theo kiểu kiêm
nhiệm tạo thêm nỗi lo, sức ép cho GV. Nhiều người vừa làm chủ nhiệm, vừa dạy
chuyên môn, nay lại dạy thêm hoạt động NGLL và hướng nghiệp thì làm sao hoàn
thành tốt tất cả được. Hai hoạt động này tuy cũng được tính số tiết như những bộ
môn khác, nghĩa là số công lao động của GV được trả sòng phẳng, nhưng nguồn
kinh phí của các trường lại không thay đổi, không được thêm. Vậy trường tìm khoản
nào để thanh toán cho GV kiêm nhiệm, có dư dôi tiết?
Hơn nữa, chương trình hoạt động ấy còn đòi hỏi trang thiết bị để đáp ứng
được tính đa dạng, phong phú, hấp dẫn của nó, cho nên cũng cần đến kinh phí. Qua
tìm hiểu một số trường đang thực hiện, chúng tôi thấy hiệu quả, chất lượng dạy và
học hai hoạt động đó rất thấp, việc giảng dạy của thầy giáo, cô giáo chưa có tính
thuyết phục cao và HS chán nản, nhiều em tìm cách bỏ các tiết học này.
Chúng tôi cho rằng, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm có biện pháp để cải
thiện hai hoạt động nói trên vào các năm tới.
Trước hết, đào tạo GV tại chỗ có chuyên môn để đảm đương công việc. Về
lâu dài, cần đào tạo bài bản từ hệ thống các trường sư phạm để có những GV
chuyên trách giống như những bộ môn văn hóa. Ðồng thời, bổ sung kinh phí, CSVC
để nhà trường có đủ điều kiện giảng dạy.
Ðỗ Tấn Ngọc
(Quảng Ngãi)
( Trích Nhandan online ngày 8 tháng 1 năm 2007) mục diễn đàn
Tóm tắt chương 1
Trong chương này, chúng tôi đã thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản sau:
Nghiên cứu và xây dựng hệ thống cơ sở lí luận cho đề tài:
+ Nghiên cứu vị trí, vai trò, ý nghĩa của các HĐGD, đặc biệt là HĐGD
NGLL.
+ Nghiên cứu việc đưa hóa học vào HĐGD NGLL nhằm phát huy tác dụng
của cả hai lĩnh vực này. Làm rõ nhiệm vụ, tác dụng, yêu cầu và nguyên tắc
tổ chức của hoạt động này.
+ Nêu rõ phương pháp thiết kế và tổ chức hoạt động NGLL nói chung và
đặc biệt là cách tổ chức và tiến hành hoạt động NGLL có nội dung hóa học
với cụ thể 2 loại hình: hoạt động NGLL theo chủ đề tháng và hoạt động
ngoại khóa.
+ Nghiên cứu đặc điểm tâm lí HS cũng như những phẩm chất cần có của
GV để làm cơ sở xây dựng tiết NGLL hiệu quả, phù hợp với từng điều kiện
cụ thể.
Điều tra thực tế, tổng kết kết quả điều tra và rút ra một số vấn đề thực tiễn của
hoạt động NGLL ở TP.HCM từ năm học 2006 – 2007 đến nay:
+ Tình hình tổ chức chung.
+ Nhận thức của HS về hoạt động NGLL.
+ Ý kiến đóng góp của HS về việc tổ chức.
+ Ý kiến đóng góp của GV về những khó khăn, thuận lợi trong khâu tổ
chức.
Chương 2. THIẾT KẾ MỘT SỐ HĐGD NGLL
CÓ NỘI DUNG HÓA HỌC
2.1. Một số yêu cầu khi thiết kế các HĐGD NGLL có nội dung hoá học
Thiết kế một HĐGD là cả một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn, sáng tạo, linh
hoạt của người GV. Để thiết kế được một hoạt động NGLL có nội dung hóa học
thực sự phát huy hết tác dụng, chúng tôi đưa ra một số yêu cầu sau:
1. Về mục tiêu hoạt động:
– Bám sát vào chủ đề tháng, sao cho nổi rõ trọng tâm của tiết NGLL, không
biến tiết học thành giờ ngoại khóa hóa học.
– Phát huy tối đa tính tự quản của HS, GV chỉ là người gợi ý, dẫn dắt cho các
em. Nên chọn riêng một BTC. BTC này có thể là ban cán bộ lớp (những hoạt động
chung), nhóm cán sự bộ môn Hóa (khi chương trình có nội dung liên quan đến hóa
học), hay nhóm CTV hóa học (trong hoạt động ngoại khóa). Đôi khi, để HS có đất
“dụng võ”, GV có thể yêu cầu một tổ trong lớp phụ trách về một mảng hoạt động.
2. Về nội dung hoạt động:
Muốn có được những tiết HĐGD NGLL phù hợp và phát huy hết tác dụng,
GV cần có sự lựa chọn nội dung thật kĩ lưỡng. Để làm được như vậy, GV cần lưu ý
những điểm sau về nội dung hoạt động:
– Căn bản phải dựa trên chủ đề sinh hoạt từng tháng của tiết NGLL. Tuy nhiên
không phải chủ đề nào cũng có thể đưa hóa học vào, và cũng không phải nội
dung hóa học nào cũng thích hợp để lồng ghép vào hoạt động NGLL. Cần có sự
linh hoạt, nhịp nhàng trong hai nội dung này.
– Phù hợp với tình hình phát triển của xã hội đất nước.
– Phù hợp với khả năng của HS. Ví dụ: GV muốn HS thực hiện một thí nghiệm
gây ấn tượng ở phần mở đầu, thì cần xem xét thí nghiệm này tự HS có thể tiến
hành, và giải thích được hay không. Không nên sử dụng một thí nghiệm rất hấp
dẫn, thu hút, nhưng lại quá khả năng nhận thức của các em.
– Phải đáp ứng được nhu cầu, hứng thú, xu hướng phát triển của HS như: có sử
dụng thí nghiệm hóa học, có đóng kịch, phân vai…
– Phải có tính thực tế. Có thể cho HS đóng kịch nhưng nội dung kịch bản phải
gần gũi, xuất phát từ thực tế chứ không phải toàn bộ do trí tưởng tượng.
– Nội dung hóa học đưa vào phải có tác dụng rèn luyện kĩ năng, bồi dưỡng
nhận thức, thái độ. Ví dụ: chủ đề môi trường, chủ đề y tế…
– Nội dung hóa học trong hoạt động có mối liên hệ mật thiết tới nội dung học
chính khóa, giúp HS thấy được mối liên hệ giữa dạy chữ – dạy người.
3. Về cách kết hợp hóa học với hoạt động NGLL:
Theo chúng tôi, có 2 cách để lồng ghép nội dung hóa học với nội dung hoạt
động NGLL như sau:
– Sử dụng hóa học như một công cụ hỗ trợ hoạt động NGLL:
+ Thông qua hóa học để rèn luyện kĩ năng, thể hiện tình cảm, thái độ.
Ví dụ: Với chủ đề tháng 10 là “Thanh niên với tình bạn, tình yêu gia
đình”, GV có thể yêu cầu HS thực hiện một tiểu phẩm nói về tình yêu
trong đó có thí nghiệm hóa học.
+ Một phần của tiết NGLL có nội dung hóa học. Ví dụ: HS thuyết
trình về các ngành nghề liên quan trực tiếp đến các môn học trong nhà
trường THPT, trong đó có hóa học.
– Sử dụng hóa học như một nội dung chủ đạo của tiết NGLL: thường được
tiến hành trong các hoạt động ngoại khóa theo chủ đề như “Thanh niên và các vấn
đề mang tính toàn cầu: môi trường, y tế, rác thải”…
4. Về hình thức hoạt động:
Như đã nói ở phần cơ sở lí luận, HĐGD NGLL được tổ chức nhằm mục đích
giúp HS phát huy tính tối đa tự quản của mình, do đó những hình thức hoạt động
cần đơn giản, dễ tiến hành, khả năng thành công cao. Khi đó, HS có thể tự đứng ra
thiết kế và tổ chức dưới sự dẫn dắt, chỉ đạo của GV. Vì vậy, những hình thức hoạt
động cần đảm bảo những yêu cầu sau:
– Phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi THPT: vui nhộn, sinh động…
– Chỉ cần huy động ít thời gian và công sức, để HS không bị mất quá nhiều thời
gian vào hoạt động này.
– Cần tạo cơ hội cho HS bộc lộ hết sở trường, năng khiếu của mình.
– Phải phát huy được ưu điểm của hoạt động nhóm.
– Đảm bảo tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HS.
– Phù hợp với điều kiện thực tế: CSVC, thời gian, địa điểm, khả năng HS…
Riêng đối với những tiết NGLL thực hiện theo chủ đề tháng, GV cần lưu ý
không biến tiết NGLL thành tiết ngoại khóa hóa học. Có sự hỗ trợ, tác động qua lại
lẫn nhau nhưng vẫn phải xác định mục tiêu của tiết NGLL được ưu tiên trên hết.
Việc rèn luyện kĩ năng, bồi dưỡng tư tưởng nhận thức cần được nhấn mạnh, thể
hiện rõ nét, không quá chú trọng vào kiến thức chuyên môn.
Để làm được như vậy, bản thân GV hoặc HS giữ vai trò MC khi dẫn chương
trình không lái tiết NGLL thành một tiết chuyên về hóa, sao cho khi kết thúc hoạt
động, cái đọng lại trong đầu HS là kĩ năng, thái độ, chứ không chỉ là kiến thức.
5. Về thời gian cho từng hoạt động:
Với hai cách kết hợp nội dung hóa học với nội dung NGLL như trên, khoảng
thời gian dành cho từng hoạt động cũng khác nhau:
– Khi sử dụng hóa học như một phương tiện thể hiện tình cảm, thái độ: hoạt
động chỉ nên diễn ra trong thời gian tối đa là 5 – 7’.
– Khi nội dung hóa học là một phần của tiết học: hoạt động có thể diễn ra
xuyên suốt 1 tiết, nhưng trong trường hợp này, GV cần lưu ý đến phần kết thúc hoạt
động, nhấn mạnh trọng tâm kiến thức cần thu nhận. Nếu làm không khéo, HS dễ
lầm tưởng đây là tiết ngoại khóa hóa học.
– Khi nội dung hóa học được đưa vào hoạt động ngoại khóa: thông thường
hoạt động kéo dài từ 2 – 3 tiếng.
6. Về phạm vi sử dụng:
– Hoạt động theo chủ đề tháng: chỉ nên lồng ghép hóa học vào các hoạt động
vào 1 trong 3 tiết NGLL trong từng tháng. Những tiết còn lại, GV vẫn phải đảm bảo
thực hiện nghiêm túc như phân phối chương trình của Bộ.
– Hoạt động ngoại khóa: Chọn khoảng thời gian sau khi HS thi xong. Việc
chọn thời điểm như vậy có hai tác dụng. Một mặt, khi đó HS có nhiều thời gian
chuẩn bị, có thể o bế cho chương trình một cách kĩ lưỡng. Mặt khác, hoạt động cũng
là một cách tạo ra sân chơi thư giãn cho HS sau kì thi, không để các em sa đà vào
những trò chơi không lành mạnh ngoài xã hội.
7. Về đối tượng tham gia:
Khi thiết kế các hoạt động NGLL, GV cần lưu ý hoạt động phải thu hút được
sự tham gia của HS càng nhiều càng tốt.
– Trong hoạt động theo chủ đề tháng: phân công công việc cho từng cá nhân,
đó có thể là hoạt động chuẩn bị thảo luận, trang trí lớp học, chuẩn bị CSVC…
– Trong hoạt động ngoại khóa : giữa các hoạt động cần có trò chơi khán giả,
hay lập đội cổ động viên của từng lớp…
8. Về cơ sở vật chất:
– Phải phù hợp với khả năng của trường, lớp.
– Nằm trong khả năng chuẩn bị, thu xếp của HS.
2.2. Qui trình thiết kế các HĐGD NGLL có nội dung hoá học
Để thiết kế được một hoạt động NGLL có nội dung hóa học, theo chúng tôi,
cần thực hiện 9 bước sau:
Buớc 1. Xác định mục tiêu của hoạt động: cần có sự phân tích tỉ mỉ, kĩ lưỡng vì
không phải mục tiêu giáo dục nào cũng có thể cụ thể hóa thành các hoạt động
NGLL có nội dung hóa học.
Buớc 2. Đặt tên hoạt động.
Buớc 3. Tìm hiểu sơ bộ về khả năng, trình độ, nhu cầu, hứng thú của HS trước khi
tham gia hoạt động.
Buớc 4. Xây dựng hình thức hoạt động và những yêu cầu tương ứng.
- Hình thức hoạt động: như đã trình bày trong mục 2.1.
- Nội dung các yêu cầu: cần ngắn gọn, đầy đủ, chặt chẽ, dễ hiểu.
- Có qui định về cách đánh giá, cho điểm.
Buớc 5. Lựa chọn nội dung hoạt động: phù hợp với hình thức, sát với mục tiêu giáo
dục như mục 2.1.
- Thiết kế các nội dung gợi ý cho HS: thông qua hệ thống câu hỏi, hoặc chủ đề
thảo luận…
Buớc 6. Xem xét đối tượng tham gia hoạt động: có dự tính sự phân công cụ thể, bảo
đảm HS nào cũng có nhiệm vụ.
Buớc 7. Dự kiến các tình huống có thể xảy ra, nhằm chuẩn bị kĩ lưỡng các mặt:
– Cơ sở vật chất: đặc biệt là hóa chất, dụng cụ thí nghiệm.
– Những gợi ý cho HS về thí nghiệm vui, cách tiến hành thí nghiệm, kịch bản,
nguồn tìm tư liệu…
– Phương án dự phòng.
– Những lưu ý để việc tổ chức thành công.
Buớc 8. Chuẩn bị những nội dung cần làm khi kết thúc hoạt động:
– Những nội dung trọng tâm cần nhấn mạnh.
– Một số cách đánh giá hiệu quả hoạt động: bài thu hoạch, cho HS phát biểu ý
kiến…
– Những vấn đề cần nhận xét, đánh giá, trao đổi, rút kinh nghiệm.
Buớc 9. Xây dựng thành kịch bản, xem xét, chỉnh sửa cho phù hợp.
2.3. Các hoạt động NGLL theo chủ đề tháng
Trong phần này, chúng tôi thiết kế một số hoạt động GV có thể sử dụng lồng
ghép trong tiết NGLL theo chủ đề của các tháng 9, 10, 11, 12, 1, 3 và 4.
Với mỗi hoạt động, chúng tôi đưa ra các nội dung: mô tả hoạt động, tác dụng
và một số lưu ý giúp việc tổ chức có hiệu quả hơn. GV có thể linh hoạt, tự sáng tạo
nội dung của từng hoạt động cho phù hợp với tình hình thực tế.
Bảng 2.3. Các hoạt động theo chủ đề tháng
Chủ đề Hình thức hoạt động
Tháng 9: Các hoạt động
tìm hiểu về phương pháp
học tập tích cực
1. Bác học học như thế nào?
2. Trao đổi về phương pháp học tập từng môn
3. Học đi đôi với hành
4. Ô chữ học tập
5. Gây hứng thú học hóa bằng thí nghiệm
Tháng 10: Các hoạt động
về tình bạn, tình yêu và
gia đình
1. Kịch bản tình yêu
2. Chúng ta hiểu nhau như thế nào?
3. Lời tỏ tình dễ thương
4. Thơ tình hóa học
5. Nam sinh thanh lịch
6. Bạn ơi, bạn ở đâu?
Tháng 11: Các hoạt động
thể hiện truyền thống tôn
sư trọng đạo
1. Tình thầy trò
2. Câu chuyện hiếu học
3. Bức tranh tặng thầy
4. Pháo hoa dâng tặng thầy cô
Tháng 12: Các hoạt động
về nghĩa vụ bảo vệ Tổ
quốc của TN
1. Hóa chất gây hại cho môi trường như thế nào?
2. Tệ nạn trong học đường
3. Bùa trừ tà ma
4. Bạn biết gì về ma túy?
5. Khi Mị Châu là dân chuyên Hóa
Tháng 1: Các hoạt động
tìm hiểu về bản sắc dân
tộc
1. Em làm nhà khảo cổ
2. Tập quán quê ta
3. Điều kì diệu của tự nhiên
4. Học Hóa bằng ca dao
Tháng 3: Các hoạt động
tìm hiểu về ngành nghề
1. Tìm hiểu các ngành liên quan đến các môn học
2. Tiếp thị viên dễ thương
3. Nhân viên vệ sinh thực phẩm
4. Thanh tra viên môi trường
5. Chọn nghề theo phong trào, nên hay không?
6. Những nhà ảo thuật tài ba
7. Nghề nào có Hóa nhỉ?
Tháng 4: Các hoạt động
thể hiện tinh thần hợp tác
1. Tiếp sức với chai lọ
2. Đội ta cùng cố gắng
3. Giải bài tập đồng đội
4. Câu chuyện truyền tai
5. Đôi bạn cùng tiến
6. Ô chữ đoàn kết
2.3.1. Tháng 9: Các hoạt động tìm hiểu về phương pháp học tập tích cực
Trọng tâm của HĐGD NGLL tháng này là giúp HS nhận thức được sự đóng
góp của bản thân trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước chính là học tập tích cực
để tương lai phục vụ nước nhà. Vậy GV cần hướng HS tìm hiểu như thế nào là
phương pháp học tập tích cực, và làm thế nào để phát huy được tính tích cực đó?
2.3.1.1. Hoạt động 1: Bác học học như thế nào?
a. Mô tả hoạt động
– GV chia HS trong lớp thành các nhóm, mỗi nhóm từ 5 – 7 HS.
– Yêu cầu HS thực hiện những công việc sau:
+ Tìm tư liệu (bài báo, tranh ảnh…) về tấm gương
học tập của một nhà hóa học mà em yêu thích.
+ Trình bày sản phẩm trước lớp, bao gồm: một
bạn kể chuyện, nhóm trưng bày bài báo, tranh ảnh,
tư liệu về nhà hóa học đó. Có thể cho HS dựng
thành hoạt cảnh, hoặc đóng kịch minh họa.
Hình 2.1. Michael Faraday
– Yêu cầu:
+ Câu chuyện phải mang tính khoa học, chính xác, sát với nội dung em
đã từng học trên lớp.
+ Lời kể hấp dẫn, thu hút người nghe.
+ Có tác dụng giáo dục tư tưởng lành mạnh.
+ Thời gian kể ngắn, chỉ từ 3 – 4 phút.
– Sau khi kể xong, HS có nhiệm vụ:
+ Giải thích tại sao em yêu thích nhà hóa học này.
+ Thuyết phục các bạn trong lớp đồng ý với ý kiến của mình.
– GV cho HS giữa các tổ thi đua xem “câu chuyện nào gây nhiều ấn tượng
nhất”, “ai là người kể chuyện có duyên nhất?”…
b. Lưu ý
– GV cần nhấn mạnh với HS: đây là phần thi kể chuyện, chứ không phải
thuyết trình. Tránh để tình trạng HS lên “đọc thuộc lòng” một bài báo về một nhà
bác học rồi kết thúc.
– Để tránh nhiều nhóm cùng kể về một nhà bác học, GV có thể cho các em
bốc thăm chọn trước.
– Nên cho HS tìm hiểu về các nhà hóa học liên quan đến nội dung chính khóa.
– Phát huy tối đa sức sáng tạo bằng cách gợi ý cho HS:
+ Hóa trang theo hình tượng các nhà bác học.
+ Diễn hoạt cảnh minh họa.
+ Vừa kể chuyện vừa giao lưu với khán giả bên dưới.
– Vì hoạt động này chỉ có một bạn đứng lên kể chuyện (nếu không có hoạt
cảnh), những em khác chưa có cơ hội thể hiện, GV nên gọi bất kì một em khác
trong nhóm trả lời câu hỏi.
– Cuối giờ, GV nhận xét:
+ Phân tích bài học rút ra qua từng câu chuyện.
+ Áp dụng vào thực tế học tập của HS.
– GV cần lưu ý mỗi HS có một cách nhìn và cảm nhận khác nhau, không nên
áp đặt các em “tấm gương này hay hơn tấm gương kia” mà chỉ thi đua xem câu
chuyện nào gây nhiều ấn tượng nhất, hoặc ai là người kể chuyện hay nhất.
– GV có thể gợi ý phần thiết kế bảng điểm cho HS tự đánh giá lẫn nhau:
Mức độ đồng ý
1 2 3 4 5
Sức hấp dẫn của câu chuyện
Ý nghĩa thiết thực
Phương tiện hỗ trợ sinh động
Khả năng kể chuyện thu hút
2.3.1.2. Hoạt động 2: Trao đổi về phương pháp học tập từng môn
a. Mô tả hoạt động
– Chuẩn bị: + GV chia HS trong lớp thành các nhóm, mỗi nhóm từ 5 – 7 HS.
+ Từng nhóm phụ trách tìm hiểu về một trong các môn học: Toán, Lý, Hóa,
Văn, Anh Văn…
– Trình bày: yêu cầu mỗi nhóm cử một bạn đại diện thuyết trình về phương
pháp học tập môn đó với những nội dung:
+ Đặc điểm bộ môn (kiến thức, kĩ năng, độ khó…)
+ Cách học của bản thân, bạn bè, những người đi trước…
+ Những khó khăn và biện pháp khắc phục.
+ Nêu ví dụ thực tế bằng chính những kiến thức đã và đang học.
– Lưu ý: có thể gói gọn trong một chương hoặc một học kì.
– Lớp cùng thảo luận, trao đổi kinh nghiệm xung quanh môn học đó.
b. Lưu ý
– GV chú trọng vào những môn mà HS điểm chưa cao. Có thể gợi ý cho các
em tự chọn môn để nhóm phụ trách.
– Gợi ý cho HS học hỏi GV bộ môn, các anh chị lớp trên hoặc chính các HS
học giỏi trong lớp về phương pháp học tập.
– Kinh nghiệm sẽ quý báu hơn nếu được rút ra từ một cá nhân vượt qua khó
khăn để học tốt.
– Phần thảo luận dễ bị động về thời gian. GV cần lưu ý HS:
+ Câu hỏi thắc mắc phải rõ ràng và có trọng tâm.
+ Câu trả lời ngắn gọn, đủ ý. Nếu có ý kiến gì mới thì HS phát biểu, tránh
không lặp lại những ý giống của bạn.
+ Khi nội dung câu hỏi vượt quá tầm giải thích của HS thì GV cần hỗ trợ
kịp thời.
– Vì đây là một buổi thảo luận được tổ chức vào đầu năm học (tháng 9), có thể
HS chưa quen nhau, lớp thiếu sự sôi động, GV nên khuấy động không khí bằng
những trò chơi nho nhỏ trước khi bắt đầu.
– Khi nhận xét, GV cần lưu ý không có cách học nào là vạn năng đối với tất cả
các HS, hay tất cả các môn học. Mỗi HS tự cảm nhận và rút ra bài học cho riêng
mình. Các em có thể có những cách học khác nhau, nhưng đều phải tự giác, tích
cực, chủ động lĩnh hội kiến thức trong sách vở, trên thực tế và do thầy cô cung cấp.
– GV nên sưu tầm một số cách học từ những bộ môn khác để bổ sung cho HS.
– Thông qua thảo luận, GV có thể phần nào hiểu được suy nghĩ, tình cảm của
các em đối với GV bộ môn, và có sự góp ý điều chỉnh kịp thời. Do vậy, cần để các
em thoải mái bộc lộ hết tâm tư, suy nghĩ của mình.
2.3.1.3. Hoạt động 3: Học đi đôi với hành
a. Mô tả hoạt động
– GV giao cho một nhóm HS trong lớp chuẩn bị một tiểu phẩm, với gợi ý về
nội dung như sau:
+ Khi học về chất chỉ thị màu, GV nói có thể dùng những vật liệu trong
đời sống để làm chỉ thị thay cho miếng quỳ tím như: hoa dâm bụt, hoa
bắp cải đỏ, củ nghệ vàng,…. em thử làm thí nghiệm với những chất ấy.
+ Học xong chương Halogen, em về chỉ mẹ cách phân biệt muối iot và
muối thường, cách sử dụng chảo không dính đúng cách…
+ Học xong chương phân bón hóa học, về nhà lấy ngay các mẫu phân
bón dùng để bón cho cây kiểng “nghiên cứu”.
– Yêu cầu của tiểu phẩm:
+ Chỉ kéo dài từ 8–10’.
+ Có thí nghiệm đi kèm, đảm bảo: an toàn, thành công, vệ sinh. HS phải
giải thích được các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm.
+ Làm nổi rõ trọng tâm: muốn học giỏi cần phải mày mò, suy nghĩ, suy
luận, áp dụng ngay những kiến thức vừa học vào thực tiễn.
b. Lưu ý
– Kịch bản phải ngắn gọn, chủ yếu làm nổi bật trọng tâm: áp dụng kiến thức
vào thực tiễn, không đi dài dòng vào lời thoại nhân vật.
– GV chỉ gợi ý ý tưởng, kịch bản nên do chính HS viết. Như vậy, nội dung sẽ
gần gũi, và chân thực hơn.
– GV cần hỗ trợ cho HS chuẩn bị các dụng cụ thí nghiệm.
– Phát huy khả năng sáng tạo của HS trong việc tìm vật liệu thay thế hóa chất
thí nghiệm. Khuyến khích HS sử dụng chính các chất liệu trong đời thực.
– Yêu cầu HS thực hiện thí nghiệm trước để kiểm tra độ an toàn, khả năng
thành công. Góp ý chỉnh sửa nếu cần.
– Đội kịch nên chọn cả những HS nhút nhát cho các em phát huy khả năng.
Không nên chọn một nhóm chơi chung, vì như vậy dễ khiến các HS khác có cảm
giác GV ưu ái nhóm đó hơn.
– Để tăng khả năng vận dụng kiến thức, GV yêu cầu HS lấy thêm ví dụ cụ thể
về việc vận dụng kiến thức hóa học trong thực tiễn.
– Kiểm tra trước phần giải đáp hiện tượng trong kịch bản để đảm bảo HS
không bị sai kiến thức.
2.3.1.4. Hoạt động 4: Ô chữ học tập
a. Mô tả hoạt động
Hoạt động chuẩn bị: GV chọn ra hai nhóm HS.
– Nhóm thứ nhất chuẩn bị ô chữ với các yêu cầu sau:
+ Ô chữ gồm 8 – 10 từ hàng ngang.
+ Nội dung từ hàng ngang là các kiến thức về hóa học.
+ Giải xong ô chữ, HS sẽ rút ra từ khóa. Nội dung của từ khóa là đặc
trưng của phương pháp học tập tích cực, ví dụ: chủ động, tự giác…
– Nhóm thứ hai chuẩn bị bài thuyết trình về từ khóa đó.
Tiến hành:
– Nhóm thứ nhất đem ô chữ đố các bạn trong lớp.
– Khi giải được ô chữ rồi, HS cả lớp sẽ tập trung vào thảo luận về từ khóa ấy
với những gợi ý do nhóm 2 đưa ra.
b. Lưu ý
– Cũng như hoạt động 3, GV nên chọn ngẫu nhiên các thành viên trong nhóm
HS này. Có thể chọn cả những em yếu Hóa, và yêu cầu những bạn còn lại hỗ trợ.
– Đảm bảo tất cả các thành viên đều tham gia: có sự phân công công việc ngay
từ đầu. Ví dụ: mỗi bạn phụ trách 2–3 từ hàng ngang, một bạn thuyết trình, một bạn
tìm ví dụ minh họa…
– Nội dung ô chữ do GV gợi ý, nên soạn thảo theo chủ đề. Ví dụ: tên nguyên
tố, tên nhà bác học, tên hợp chất…
– Đảm bảo kiến thức trong ô chữ phải vừa sức với trình độ HS. Không tạo ra
một ô chữ với toàn kiến thức mới mẻ, GV lại mất thời gian giảng giải.
2.3.1.5. Hoạt động 5: Gây hứng thú học Hóa bằng thí nghiệm
a. Mô tả hoạt động
– GV nhờ một nhóm HS thực hiện thí nghiệm vui trước khi bắt đầu tiết học.
– Yêu cầu về thí nghiệm: vui nhộn, sinh động, đơn giản, dễ làm.
b. Lưu ý
– Thí nghiệm đơn giản, càng gây ấn tượng càng tốt. Sau khi thí nghiệm, MC
phát biểu: “Các bạn thấy đấy, môn học nào cũng có cái thú vị của riêng nó. Vậy thì
hôm nay, chúng ta cùng thảo luận xem: làm thế nào để tìm thấy những khía cạnh
thú vị ấy nhé!”
– Nếu hoạt động được tổ chức ở khối lớp 10, GV yêu cầu HS tập dượt thí
nghiệm trước, nhằm có sự điều chỉnh kịp thời nếu các em có sai sót.
– Không để cho HS quá tập trung vào phần mào đầu này. Ngay khi kết thúc thí
nghiệm, GV cần bắc ngay qua hoạt động chính của tiết học.
– Nên chọn một MC thuyết minh phần mở đầu cho thật dí dỏm.
2.3.1.6. Tác dụng của các hoạt động tìm hiểu về phương pháp học tập tích cực
1. Về nhận thức:
– Củng cố kiến thức hóa học.
– Mở rộng sự vận dụng kiến thức vào thực tiễn: qua hoạt động “Học đi đôi với
hành”.
– Thấy được vai trò của hóa học trong đời sống hàng ngày: dựa vào kiến thức
hóa học để giải thích một số hiện tượng thực tế.
– Học hỏi được phương pháp học tập và làm việc để dẫn đến thành công của
các nhà hóa học. Đó là tính kiên nhẫn, là lao động nghiêm túc, miệt mài, gian khổ.
Có những nhà hóa học đã thất bại, đã phải đánh đổi cả sức khỏe, tiền bạc, thậm chí
cả mạng sống cho những nghiên cứu khoa học của mình.
– Hiểu rõ học phải đi đôi với hành mới phát huy hết tác dụng.
– Biết khái niệm, tác dụng và yêu cầu của phương pháp học tập tích cực.
– Nắm được lí luận về cách học, đặc điểm cơ bản của cấp học và đặc trưng
từng bộ môn để rút ra cho bản thân phương pháp phù hợp.
– Cảm nhận được mỗi môn học đều có những nét thú vị riêng, cần đi sâu để
khám phá qua hoạt động “Gây hứng thú học Hóa bằng thí nghiệm”
2. Về kĩ năng:
– Kĩ năng tìm kiếm tư liệu trên báo, đài, internet; so sánh, phân tích, chọn lọc
để lấy những thông tin phù hợp nhất, quý giá nhất.
– Kĩ năng sưu tầm nhiều cách học từ sách báo, thầy cô, bè bạn.
– Kĩ năng kể chuyện: rèn luyện được tính tự tin, khả năng ăn nói lưu loát,
truyền cảm trước đám đông…
– Kĩ năng xử lí thông tin: biết dựa vào những yếu tố bất ngờ, thú vị để gây
cảm hứng cho khán giả qua những màn thí nghiệm, những câu chuyện kể.
– Khả năng diễn đạt, trình bày sản phẩm để thu hút khán giả.
– Khả năng thuyết phục các bạn đồng tình với ý kiến của mình: trong hoạt
động kể chuyện, khi thảo luận, thuyết trình…
– Từ kinh nghiệm của bạn bè, phân tích, chọn lọc, rút ra bài học, phương pháp
học tập cho bản thân.
– Bước đầu biết vận dụng phương pháp học tập tích cực vào các tiết học, môn
học cụ thể: hoạt động 2.
– Kĩ năng làm thí nghiệm: đối với HS khối 10, việc thực hiện kĩ năng này vẫn
còn nhiều lúng túng, nên đây là cơ hội cho các em rèn luyện.
– Kĩ năng làm việc tập thể: phân chia nhiệm vụ cho từng thành viên trong
nhóm phù hợp với nhu cầu, đặc điểm của mỗi bạn.
– Kĩ năng vận dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn: giải thích hiện tượng,
thực hiện phản ứng minh họa sự gắn kết hóa học – thực tiễn…
– Khả năng đóng kịch: giúp các em thêm tự tin, mạnh dạn trước mọi người.
– Phát huy khả năng sáng tạo: trong tiểu phẩm (kịch bản, thí nghiệm, hóa
chất…), trong chuyện kể (hoạt cảnh minh họa, lồng giọng, giả tiếng…)
– Kĩ năng thuyết trình, thảo luận.
3. Về tư tưởng, thái độ:
– Gây ấn tượng vui vẻ bằng những thí nghiệm nhỏ trước khi bắt đầu tiết học,
giúp HS có tâm trạng thoải mái, nhờ vậy việc trao đổi, thảo luận cũng diễn ra dễ
dàng hơn, các em dễ bộc lộ tâm tư, suy nghĩ hơn.
– Kích thích óc say mê tìm tòi, học hỏi những điều mới lạ khi ứng dụng kiến
thức hóa học vào thực tiễn như: lấy hoa dâm bụt thay cho chỉ thị màu, phân loại các
mẫu phân bón cho cây kiểng…
– Thêm khâm phục tinh thần làm việc của các nhà hóa học, và có ý thức học
hỏi, làm theo những tấm gương ấy.
– Biết trân trọng thành quả nghiên cứu mà nhân loại đã khổ công làm ra và để
lại cho thế hệ mai sau.
– Có ý thức học hỏi cái hay trong kinh nghiệm của người khác và rút ra kinh
nghiệm cho bản thân mình.
– Biết chia sẻ với nhau những gì tốt đẹp: kinh nghiệm học tập, những phương
pháp hay, những mẹo học cho dễ nhớ…
– Thêm yêu thích môn học nhờ cảm nhận được vai trò của nó trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống.
– Mạnh dạn trao đổi ý kiến, kinh nghiệm với nhau.
– Thêm chủ động, tự tin khi bước vào năm học vì đã nắm được một số điểm
căn bản của phương pháp học tập tích cực.
– Tạo cơ hội cho HS giao lưu với nhau: giữa các HS lớp 10, giữa lớp 10 và 11.
– Giúp HS gần gũi nhau trong quá trình phân vai, đóng kịch. Nhất là đối với
khối 10, đây là cơ hội giúp các em làm quen với môi trường và bạn bè mới.
– Bước đầu giúp HS làm quen với tính tự quản: tự thiết kế hoạt động dựa trên
sự gợi ý của GV.
2.3.2. Tháng 10: Các hoạt động về tình bạn, tình yêu và gia đình
2.3.2.1. Hoạt động 1: Kịch bản tình yêu
a. Mô tả hoạt động
– GV chia lớp thành 3 hoặc 4 tổ, mỗi tổ có thể từ 8 – 10 HS.
– Mỗi tỗ phụ trách về một tiểu phẩm, với những yêu cầu sau:
Nội dung: tình bạn, tình cảm nam nữ trong trường học.
Ý nghĩa sâu sắc, có tác dụng giáo dục.
Trong tiểu phẩm có thí nghiệm hóa học. Thí nghiệm cần đảm bảo: thành
công, an toàn, vệ sinh. Không được sử dụng các thí nghiệm gây độc hại,
cháy nổ nguy hiểm.
Thời gian diễn: 7 – 10’, quá 10’ sẽ bị trừ điểm.
Huy động tất cả các thành viên trong tổ đều tham gia: kịch bản, đạo diễn,
diễn viên, phục trang.
Mỗi vở kịch không quá 10 vai diễn và sử dụng tối đa 2 thí nghiệm.
Mỗi tổ có một MC dẫn chương trình, làm nhiệm vụ giới thiệu, và giải
trình ý kiến thắc mắc của các bạn.
– Thành lập một BGK gồm GVCN, GV bộ môn Hóa, cán sự bộ môn Hóa.
– Cho các tổ lần lượt diễn kịch, giải thích ý nghĩa của tiểu phẩm.
– Tổ được phép đố các bạn trong lớp: chúng tôi vừa thực hiện những phản ứng
nào trong vở kịch trên?
– BGK cho ý kiến nhận xét. Lớp bình chọn vở kịch được yêu thích nhất với
các tiêu chí: vui, ý nghĩa, phản ứng hay.
b. Lưu ý
– Vở kịch không được quá rườm rà, sẽ tốn thời gian, công sức của HS.
– Cho HS bốc thăm chọn chủ đề để khỏi trùng nhau.
– GV nên chia tổ theo sơ đồ lớp, vì hoạt động này cần nhiều thời gian, công
sức, tính hợp tác. HS trong cùng một tổ biết rõ sở trường, tính cách của nhau nên sẽ
có sự phân chia công việc hợp lí.
– Trong mỗi nhóm: nên chọn tổ trưởng, thủ quỹ, và thư ký (nếu cần), để dễ
dàng kiểm soát các em.
– GV cần duyệt trước nội dung các vở kịch về các mặt: thời gian, nội dung, ý
nghĩa truyền tải, thí nghiệm lồng ghép.
– Yêu cầu mỗi tổ có một bảng phân công nhiệm vụ từng thành viên, tránh tình
trạng có một số thành viên chỉ “dự giờ”.
– Quan sát, tìm ra HS có năng khiếu văn nghệ, có sở trường về thí nghiệm …
– Khi nhận xét, BGK cần nhấn mạnh ý nghĩa rút ra từ mỗi vở kịch.
2.3.2.2. Hoạt động 2: Chúng ta hiểu nhau như thế nào?
a. Mô tả hoạt động
– HS trong lớp được chia thành 4 đội. Mỗi đội cử một thành viên lên nhận một
phong bì bí mật gồm có 10 từ hoặc cụm từ.
– Hết 30 giây suy nghĩ, thành viên này sẽ diễn đạt cho đồng đội hiểu và nói lên
từ/cụm từ đó.
– Đồng đội: BTC chọn ra một thành viên để nghe và trả lời.
– Thời gian cho mỗi đội là 90 giây.
– Yêu cầu:
+ Dùng ngôn ngữ khoa học, không nói tiếng nước ngoài, không nói lái.
+ Không dùng tên quốc tế để suy ra công thức và ngược lại.
+ Trong lời giải thích không có bất cứ từ nào trong từ/ cụm từ cần diễn đạt.
+ Giải thích theo thứ tự từ trên xuống, nếu không diễn đạt được từ nào thì
“Bỏ qua”. Hết 10 từ, nếu còn thời gian mới quay lại.
– Cụ thể:
+ Không dùng 2 tiếng “hăng thoa” để nói về “thăng hoa”.
+ Không dùng Copper để nói về đồng.
+ Không nhắc nhau bằng cách “Bài hôm qua mới học về nguyên tố này”…
+ Khi nói đến khái niệm “thăng hoa”, thí sinh có cách giải thích sau: Hiện
tượng từ trạng thái rắn qua khí không qua lỏng gọi tên là gì?
b. Lưu ý
– Số lượng từ dành cho mỗi đội ít hay nhiều tùy vào thời gian, trình độ HS.
(thường sử dụng 10 từ).
– Khi tổ chức nên trình chiếu những từ/ cụm từ cho khán giả cùng xem, cùng
tư duy và đánh giá.
– GV gọi bất kì 2 bạn trong tổ, không nhất thiết phải là HS đều giỏi hoặc khá.
Để làm được như vậy, yêu cầu HS phải có sự tập dợt trước với nhau.
– GV cho trước các chủ đề: tên nguyên tố, nhà bác học, hiện tượng hóa học…
2.3.2.3. Hoạt động 3: Lời tỏ tình dễ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 90251-LVHH-PPDH018.pdf