Tài liệu Luận văn Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt khoá học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn PSG.TS. Phan Trọn...
141 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1891 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn, các thầy cơ giáo đã tạo điều
kiện giúp đỡ tơi trong suốt khố học.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn PSG.TS. Phan Trọng
Thưởng người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt quá trình học
tập và hồn thành luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn tới Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái
Nguyên, Trường THPT Trại Cau - Đồng Hỷ - Thái Nguyên đã tạo điều kiện
và nhiệt tình giúp đỡ tơi về mọi mặt trong suốt thời gian học tập và hồn
thành luận văn.
Tơi xin tỏ lịng biết ơn chân thành tới bạn bè và gia đình những người
đã động viên, khích lệ tơi để hồn thành tốt luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
HỌC VIÊN CAO HỌC
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
2.1. Về thơ ................................................................................................. 2
2.1.1. Trước cách mạng ......................................................................... 2
2.2.2. Sau cách mạng............................................................................. 4
2.2. Về văn xuơi ........................................................................................ 7
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 10
4. Đĩng gĩp mới của Luận văn ................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 10
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................... 11
Chương 1. SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45 ............................ 12
1.1. Bối cảnh văn hố, xã hội Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 .................... 12
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hố - xã hội ........................... 12
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hướng, nhĩm phái văn học .... 15
1.1.3. Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hồn thiện
về thể loại ....................................................................................... 17
1.2. Vị trí vai trị của Thế Lữ trong sự hình thành và phát triển của một số
thể loại văn học mới............................................................................ 20
1.2.1. Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ ......................................... 22
1.2.2. Sự xuất hiện của Thế Lữ ................................................................ 25
Chương 2. NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN TRONG THƠ THẾ LỮ ... 30
2.1. Quan điểm nghệ thuật của Thế Lữ - Một bước tiến so với quan điểm
nghệ thuật của văn học trung đại ......................................................... 30
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại ...................... 30
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ ................................................ 33
2.2. Những cách tân về hình thức và nội dung nghệ thuật .......................... 39
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
2.2.1. Thế Lữ - Một sự đổi mới về cảm hứng sáng tạo ........................... 39
2.2.1.1. Thiên nhiên............................................................................. 39
2.2.1.2. Tình yêu ................................................................................. 45
2.2.1.3. Cõi tiên ................................................................................... 50
2.2.2. Cách tân về hình thức (hình thức biểu hiện) ................................. 59
2.2.2.1. Đổi mới cấu trúc câu thơ ........................................................ 60
2.2.2.2. Phong phú về thể thơ .............................................................. 67
2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh bằng chất liệu hội hoạ ........... 70
2.2.2.4. Tài hoa trong nghệ thuật diễn tả âm thanh ............................. 74
2.2.2.5. Nhạc điệu trong thơ Thế Lữ ................................................... 76
2.3. Tiểu kết ............................................................................................. 79
Chương 3. THẾ LỮ VỚI NHỮNG ĐĨNG GĨP VỀ VĂN XUƠI
NGHỆ THUẬT ............................................................ 81
3.1. Thế Lữ với thể loại văn xuơi mới ........................................................ 81
3.2. Truyện trinh thám ................................................................................. 84
3.2.1. Nguồn gốc truyện trinh thám ........................................................ 84
3.2.2. Thế Lữ với thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam ....................... 85
3.2.2.1. Cốt truyện ............................................................................... 85
3.2.2.2. Nhân vật ................................................................................. 90
2.2.2.3. Cách giải mã độc đáo trong truyện trinh thám của Thế Lữ ... 93
3.3. Truyện kinh dị ................................................................................... 100
3.3.1. Truyện kinh dị tiếp nối dịng truyện truyền kỳ ........................... 100
3.3.2. Sự khác biệt giữa truyện kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ .....101
3.3.2.1. Nghệ thuật kể chuyện ........................................................... 104
3.3.2.2. Nghệ thuật tả ........................................................................ 108
3.3.2.3. Cách giải thích khoa học trong truyện kinh dị của Thế Lữ . 116
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 133
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giai đoạn 1930 - 1945, xã hội Việt Nam cĩ nhiều chuyển biến
sâu sắc. Sự gặp gỡ của văn minh Phương Tây sự tiếp thu mạnh mẽ và rộng rãi
những tinh hoa văn hố thế giới đã thúc đẩy văn học Việt Nam bứt ra khỏi hệ
hình trung đại trì trệ, để tiến hành cơng cuộc hiện đại hố với sự tăng tốc đặc
biệt. Văn học Việt Nam thay đổi từ diện mạo tới nội dung, hàng loạt những
thể tài, thể loại mới hình thành và phát triển, một đội ngũ đơng đảo các nhà
văn sung sức tung hồnh trên khắp mọi lĩnh vực văn chương. Một trong
những đại diện xuất sắc của đội ngũ này là Thế Lữ.
Thế Lữ thuộc số ít những nghệ sĩ đa tài của nền văn học nghệ thuật trước
cách mạng. Là "khởi điểm của những khởi điểm", ơng khơng chỉ là người mở
đầu cho phong trào Thơ mới, mà cịn là người khai phá nền kịch nĩi Việt Nam,
là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuơi nghệ thuật như tiểu thuyết
trinh thám, truyện đường rừng, truyện kinh dị, truyện khoa học,... ở những lĩnh
vực văn chương này ơng luơn bộc lộ đầy đủ cốt cách của người đi "tiên phong"
với những thể nghiệm mới mẻ trên cả bình diện nội dung lẫn hình thức.
Mặc dù đã cĩ rất nhiều cơng trình, bài viết về sự nghiệp văn chương
của Thế Lữ, chúng tơi vẫn mong muốn tìm hướng tiếp cận mới đối với sáng
tác của ơng ngõ hầu nhìn nhận rõ hơn những điểm sáng mới trong thế giới
nghệ thuật phong phú của nhà văn tài ba này. Đặt sáng tác của ơng trong sự
phát triển nhanh chĩng của văn học Việt Nam ba thập niên đầu thế kỷ XX,
trong sự phát triển đa dạng của thể loại và thể tài văn học, trong sự tìm kiếm
nghệ thuật rốt ráo, so sánh với các sáng tác của các nhà văn, cách tân cùng
thời, chúng tơi muốn tìm hiểu sâu sắc hơn những thành tựu nghệ thuật của
ơng, từ đĩ nhằm khẳng định vị trí, vai trị đĩng gĩp của ơng trong cơng cuộc
hiện đại hố văn học dân tộc.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Mặt khác, hiện sáng tác của Thế Lữ, trong đĩ cĩ mảng thơ của ơng, đã
được đưa trở lại giảng dạy trong nhà trường ở cả cấp trung học cơ sở và trung
học phổ thơng. Nên việc đi sâu nghiên cứu văn tài của ơng là hết sức cần
thiết. Đối với người viết luận văn, việc thực hiện đề tài là quá trình học hỏi,
trang bị cho bản thân vốn kiến thức đầy đủ về một tác gia lớn nhằm đáp ứng
tốt hơn cho cơng tác giảng dạy trong nhà trường.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Là sứ giả tiên phong của trào lưu văn học lãng mạn, sáng tác của Thế
Lữ được các nhà biên khảo lịch sử, các nhà nghiên cứu văn học hết sức quan
tâm tiến hành khảo sát và nghiên cứu. Tuy vậy, mức độ đánh giá về văn
nghiệp của Thế Lữ ở mỗi thể loại văn học, mỗi giai đoạn lịch sử cĩ khác
nhau.
2.1. Về thơ
2.1.1. Trước cách mạng
Ngay từ khi mới ra đời thơ Thế Lữ đã được hoan nghênh nhiệt liệt.
Vào những năm 1933, 1934, 1935, 1936 các cây bút viết văn, viết phê bình
trong và ngồi nhĩm Tự lực văn đồn như: Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách,
Nguyễn Nhược Pháp, Lê Tràng Kiều... đã đăng bài nhiệt liệt ủng hộ, cổ vũ
ca ngợi Thế Lữ.
Nhất Linh là người đầu tiên cĩ cơng phát hiện, cĩ bài giới thiệu Thế Lữ
trên báo Phong hố (số 54 - 1933) Nhất Linh khẳng định Thế Lữ là "một
nhân vật mới trong làng thơ mới". Trên báo Phong hố (số 97, 11/5/1937)
Nguyễn Tường Bách nhiệt tình tán dương Thơ mới, lấy thơ Thế Lữ làm mẫu
rồi nhận định "Những bài thơ của ơng Thế Lữ đã tỏ ra rằng Thơ mới đã vượt
ra những khuơn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một con đường khá
rộng rãi tốt đẹp hơn nhiều". Khi phân tích một số bài thơ Nguyễn Nhược Pháp
cho rằng: "Đối với sự miêu tả những tình cảm nhẹ nhàng, ơng Thế Lữ đã thực
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
sự chứng tỏ một tài năng lớn". Trên Hà Nội báo (số 14 ngày 8/4/1936) Lê
Tràng Kiều cho rằng hồn thơ, cảm hứng của Thế Lữ "dồi dào" "ơng Nguyễn
Thế Lữ cĩ thể ngồi chung chiếu với ơng Nguyễn Khắc Hiếu mà khơng
ngượng ngùng". Đến bài thơ mới Thế Lữ đăng ở Hà Nội báo (số 24 ngày
7/6/1936) khi so sánh bài Tiếng sáo Thiên thai của Thế Lữ với đoạn Nguyễn
Du tả tiếng đàn của nàng Kiều, Lê Tràng Kiều nhận xét "Các tài nghệ của Thế
Lữ về phương diện này quả khơng kém Nguyễn Du là mấy".
Khơng phải ngẫu nhiên khi tuyển chọn 46 thi sĩ để đưa vào tập Thi
nhân Việt Nam, Hồi Thanh - Hồi Chân đã trân trọng đặt Thế Lữ ở vị trí
đầu tiên. Và trong tiểu luận Một thời đại trong thi ca, Hồi Thanh đã tơn
vinh Thế Lữ là "đệ nhất thi sĩ" và ngợi ca "Độ ấy thơ mới vừa ra đời - Thế
Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chĩi khắp cả trời thơ Việt Nam (...) Thế
Lữ đã dựng thành nền Thơ mới ở xứ này (...) Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ
xưa phải tan vỡ".
Năm 1942 trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã dành những
trang viết về Thế Lữ. "Ơng là thi sĩ cĩ cơng đầu trong việc xây dựng nền thơ
mới. Phan Khơi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý
đến Thơ mới mà thơi, cịn Thế Lữ mới chính là người cho ta tin cậy ở tương
lai của Thơ mới [69 - 309]".
Ngồi những ý kiến đánh giá (với những ý nghĩa bênh vực, cổ vũ cho
Thơ mới trong giai đoạn phơi thai) của các nhà phê bình nghiên cứu, các bạn
đồng nghiệp dành cho Thế Lữ chúng ta cịn thấy xuất hiện trong cơng trình
nghiên cứu Việt Nam văn học sử của Dương Quảng Hàm. Trong cơng trình
nghiên cứu này, tác giả đã đặt Thế Lữ vào hàng những người cải cách, đề cao
Thế Lữ, cho rằng đĩ là nhà thơ cĩ ngơn từ mới lạ, diễn tả trung thực ý tưởng
và hình ảnh trong thơ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Là "một ngơi sao sáng khắp trời thơ Việt Nam" nhưng danh vọng chĩi
lọi đã bị mờ đi nhanh chĩng. Sau đĩ tác giả Thi nhân Việt Nam cũng phải than
thở về sự lạnh nhạt của cơng chúng đối với Thế Lữ "Tơi thấy xung quanh tơi
người ta lạnh lùng quá. Thế Lữ cơ hồ đã đi theo phần đơng trong Văn đàn bảo
gián [14 - 51]. Bởi vì chỉ mấy năm sau, thơ Thế Lữ khơng cịn đáp ứng thị
hiếu, tâm lý của lớp cơng chúng mới. Cĩ thể nĩi khi Thế Lữ viết lời tựa giới
thiệu "Thơ thơ" của Xuân Diệu thì chính ơng đã viết "chiếu nhường ngơi" cho
nhà thơ trẻ mới nhất trong các nhà thơ mới đĩ.
Thơ mới lãng mạn nĩi chung và thơ Thế Lữ nĩi riêng ngay từ khi mới
ra đời đã gây được luồng dư luận xơn xao một thời. Người khen thì khen hết
sức mà người chê cũng khơng tiếc lời, đặc biệt là những cây bút đứng trên lập
trường quan điểm cách mạng phê phán như Hải Triều, Hồ Xanh... Họ đã chế
giễu nhiều nhà Thơ mới trong đĩ cĩ Thế Lữ. Nhưng rồi cũng như quy luật tất
yếu của lịch sử, phong trào Thơ mới được đơng đảo cơng chúng văn học nhất
là lớp độc giả thanh niên đĩn nhận.
2.2.2. Sau cách mạng
Sau Cách mạng tháng Tám ở miền Bắc đứng trên quan điểm cách mạng,
phong trào Thơ mới được nhìn nhận và đánh giá khác trước. Từ năm 1945 -
1975 Thơ mới cũng như văn học lãng mạn nĩi chung đều bị coi là tiêu cực.
Trong tập Nĩi chuyện thơ kháng chiến năm 1951 Hồi Thanh cho rằng:
"Những vần thơ buồn tủi và bơ vơ ấy là những vần thơ cĩ tội. Nĩ xui con
người ta buơng tay cúi đầu do đĩ làm yếu sức ta và làm lợi dụng cho giặc. Sự
thật khách quan là thế" [103 - 25].
Khơng chỉ tác giả Thi nhân Việt Nam mà nhiều nhà thơ trong phong
trào Thơ mới như Thế Lữ - Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Xuân Diệu...
đều nhìn lại một cách nghiêm khắc. Trong bài Những sợi dây trĩi buộc tơi
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
trên con đường phấn đấu đăng trên tạp chí Văn nghệ (số 47 năm 1953) - Thế
Lữ phủ định hầu như tất cả mọi đĩng gĩp của mình vào nền văn học.
Khoảng năm 1956 - 1957, Thơ mới tuy vẫn bị phê phán nhưng đã được
nhìn lại với con mắt rộng hơn và Thế Lữ vẫn được coi là trường hợp cĩ nhiều
yếu tố tích cực hơn cả. Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (Tập 5 tủ sách
ĐHSP - Nxb GD 1962), Nguyễn Trác cũng dành một chương viết về Thế Lữ
và tập Mấy vần thơ.
Tháng 3 - 1963, trong một lần nĩi chuyện, nhà thơ Tố Hữu tâm sự "Tơi
cũng thích nhạc điệu và hơi thở của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy
Cận... trong tâm hồn các anh lúc đĩ tơi tìm thấy những nỗi băn khoăn đau
buồn của những người cùng thế hệ, địi hỏi tự do, ước mơ hạnh phúc, tuy các
anh chưa tìm thấy lối ra và nhiều khi rơi vào chán nản [39].
Năm 1966, Phan Cự Đê cho ra đời một chuyên luận cơng phu và tồn
diện về Phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ơng đã phê phán khuynh hướng
thốt ly tiêu cực, đồng thời ghi nhận tấm lịng yêu nước, yêu dân tộc, yêu
cuộc sống của các nhà Thơ mới. Đặc biệt, ơng đề cao Thế Lữ với tinh thần
dân tộc tinh thần yêu nước khá rõ nét qua bài thơ Nhớ rừng.
Trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 của Nguyễn Hồnh
Khung (Nxb GD 1973), ơng đã dành cả một mục trong chương 3 - Phong trào
Thơ mới để nhìn nhận Thế Lữ như là người tiêu biểu đầy đủ của cái "tơi" Thơ
mới. Ơng đánh giá cao những yếu tố tiến bộ và ngịi bút tài hoa dồi dào của
Thế Lữ.
Ở miền Nam, sau Cách mạng, Thơ mới cũng là đối tượng được các nhà
phê bình nghiên cứu quan tâm. Đã cĩ nhiều bài tiểu luận về tác giả, tác phẩm
về phong trào Thơ mới đăng tải trên các tạp chí Bách khoa nghiên cứu văn
học... Đặc biệt là sự xuất hiện khá nhiều tập hồi ký chuyên khảo, chuyên luận
về thi ca tiền chiến như Lược thảo về thơ của Uyên Thao (Nxb 1967), Thi ca
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Việt, Nxb 1969. Đặc biệt là cuốn Việt Nam
thi nhân tiền chiến (Nxb 1968 - 1969), Nguyễn Tấn Long nhận định: "Thế Lữ
đặt cho Thơ mới một nền mĩng vững chắc, ơng gây được niềm tin mãnh liệt
trong lịng khách yêu thơ, những sáng tác của ơng vừa xuất hiện đã khua
những tiếng vang sâu rộng; tựa như tia lửa loé sáng trong màn đêm, những
hồn thơ cịn đang mị mẫm sợ sệt cái táo bạo của Thơ mới, bỗng nhiên bắt
được mục tiêu tiến bước...".
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, văn học lãng mạng nĩi chung trong đĩ cĩ
Thế Lữ đã được thẩm định lại. Nhiều bài nghiên cứu chuyên luận của các tác
giả Hà Minh Đức, Nguyễn Hồnh Khung, Trần Đình Hượu, Phan Cự Đê, Vũ
Ngọc Phan… đã đánh giá lại trào lưu lãng mạn nĩi chung dưới ánh sáng của
tư duy mới.
Những năm 1984 - 1987 liên tiếp cĩ nhiều bài viết về Thế Lữ. Trong
Từ điển văn học tập 1 Nguyễn Hồnh Khung khẳng định "Ngịi bút của Thế
Lữ khá dồi dào, già dặn, tạo nên được những bức tranh đẹp, thi vị (...) Thế Lữ
đã đĩng gĩp quan trọng vào việc hiện đại hố thơ ca Việt Nam, khẳng định
biểu hiện giá trị sinh động của Thơ mới.
Năm 1987 trong cuốn Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thơng, Lê
Bảo viết "Nếu trước đĩ ít lâu, Tản Đà dạo khúc nhạc đầu với "Non nước nặng
một lời thề vẫn cịn sáo nhị thì Thế Lữ đã đem đến cho sân khấu âm nhạc một
giọng kèn đồng".
Năm 1989, Hà Minh Đức khi viết khải luận Phong trào thơ mới Việt
Nam thời kỳ 30 - 45 đã nhận xét: "Thế Lữ, người mở đầu cho phong trào Thơ
mới, ơng hồng của chủ nghĩa lãng mạn đã kết hợp được trong thơ tình cảm
chân thực và mở rộng với chất lãng mạn, thanh cao".
Vào dịp kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ mới đã cĩ rất nhiều bài nghiên
cứu về văn nghiệp của Thế Lữ. Đáng chú ý phải kể đến cuốn sách Nhìn lại
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
một cuộc cách mạng trong thi ca của Hà Minh Đức (năm 1993) đã chọn hai
bài thơ Nhớ rừng và Cây đàn muơn điệu của Thế Lữ xếp đầu danh sách.
Năm 1997 cĩ bài Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong của Phan Trọng
Thưởng (Tạp chí Văn học số tháng 7) và các bài của Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Xuân Sanh (báo Văn nghệ) nhân kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh
Thế Lữ.
Năm 2000 Nxb KHXH đã cơng bố tập 25 trong hệ thống trọn bộ 42 tập
của Tổng tập văn học Việt Nam. Cuốn sách được in nhiều nhà thơ trong đĩ
tập Mấy vần thơ tập mới của Thế Lữ được in lại tồn bộ. Năm 2002 cĩ tiểu
luận Thế Lữ - người mở đầu một trào lưu thơ ca của Hà Minh Đức. Tác giả đã
cĩ cái nhìn bao quát sâu sắc làm nổi bật hồn thơ Thế Lữ.
Năm 2005, Phạm Đình Ân cho ra đời cuốn Thế Lữ - tác gia tác phẩm.
Cuốn sách đã cĩ cái nhìn tổng quát về tồn bộ văn nghệ và những bài viết về
Thế Lữ.
Ngồi những bài nghiên cứu nĩi trên đã cĩ rất nhiều những luận văn
thạc sĩ nghiên cứu về thơ Thế Lữ, song những luận văn này chỉ mới đề cập
thơ Thế Lữ ở những khía cạnh nhất định, chưa nghiên cứu sâu về những đĩng
gĩp của Thế Lữ trong cơng cuộc hiện đại hố văn học. Ở luận văn này, chúng
tơi sẽ làm rõ vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học giai đoạn 1930 - 1945.
2.2. Về văn xuơi
2.2.1. Như trên đã nĩi, Thế Lữ thuộc vào số ít những nghệ sĩ đa tài của
nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Ơng khơng chỉ là người mở đầu cho
phong trào Thơ mới mà cịn là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuơi
nghệ thuật như truyện kinh dị, truyện trinh thám, truyện đường rừng... song
hoạt động nghiên cứu về sự nghiệp văn xuơi của Thế Lữ vẫn chưa được sự
chú ý của nhiều bạn đọc.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Người đầu tiên nghiên cứu văn xuơi của Thế Lữ là Vũ Ngọc Phan.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan viết "về thơ, người ta thấy rõ các
thi cốt, các chân tài của Thế Lữ. Về tiểu thuyết, tuy loại truyện trinh thám ơng
chưa thành cơng, nhưng về những truyện ghê sợ, ơng đã chứng tỏ là một tiểu
thuyết gia cĩ biệt tài". Cũng trong cuốn sách này ơng cho rằng: "Vàng và Máu
của Thế Lữ là một tiểu thuyết mà tác giả tỏ ra một văn gia cĩ biệt tài. Nghệ
thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ ở đây đã lên tới trình độ cao" [26 - 27 - 28].
Tác giả Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam Văn học giản ước tân biên
đã dành 11 trang nĩi về những truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh thám
của Thế Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho Thơ
mới cịn cĩ một Thế Lữ văn xuơi đặc sắc.
2.2.2. Từ giữa những năm 1980 đến nay, trong khơng khí đổi mới
mạnh mẽ của xã hội, nhiều tiểu thuyết của Tự lực văn đồn, nhiều tập thơ
lãng mạn được xuất bản với số lượng lớn. Song văn xuơi của Thế Lữ nĩi
chung cũng như các truyện kinh dị, truyện trinh thám của Thế Lữ vẫn được
đánh giá rất cao.
Báo văn nghệ số 23 ra ngày 3/6/89 đăng bài Thương tiếc nhà thơ Thế
Lữ, tác giả Tế Hanh viết: "Ở nơi anh cái chất mở đường đi tiên phong thật rõ
ràng, trong thơ, trong truyện, trong báo chí, trong sân khấu" [26 - 383].
Nguyễn Hồnh Khung trong Lời giới thiệu bộ sách 8 tập Văn xuơi lãng
mạn Việt Nam 1930 - 1945 viết: "Ngơi sao rực rỡ nhất của phong trào Thơ
mới thời kỳ đầu, cũng là cây bút văn xuơi đặc sắc, dồi dào, đề tài và bút phát
khá đa dạng. Ơng được biết trước hết là ở loại truyện kinh dị (...) rồi loại
truyện tình lãng mạn đường rừng (...) và nhất là truyện trinh thám, ơng là một
trong những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết ở nước ta...".[37-423]
Năm 1991, trong cuốn Thế Lữ - cuộc đời trong nghệ thuật tác giả Hồi
Việt cĩ bài: Thế Lữ như tơi viết trong bài viết của mình ơng đánh giá rất cao
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
những truyện quái dị của Thế Lữ so với các nhà văn cùng thời. Ơng khẳng
định: "Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn giàu tưởng tượng, giàu mộng mơ nhưng
ơng lại rất tỉnh táo trong phương pháp suy luận khoa học” [26-412; 413].
Tiếp đến trên tạp chí Văn học số 7 năm 1997, Phan Trọng Thưởng cĩ bài
Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong. Tác giả đã khẳng định: "Với loại truyện li
kỳ rùng rợn Thế Lữ đã đạt đỉnh cao của loại truyện này" chỉ sau khi tập Mấy
vần thơ ra đời được ít lâu Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh vực văn xuơi với hai sở
trường là tiểu thuyết ly kỳ rùng rợn và tiểu thuyết trinh thám như Vàng và Máu
(Đời nay-1937), Bên đường thiên lơi (1936); Mai Hương và Lê Phong (1937)...
Với Vàng và Máu, ơng cĩ thể được coi là tác giả đạt đỉnh cao nghệ thuật của
loại truyện này [76-13]. Cũng trong bài viết này Phan Trọng Thưởng đã khẳng
định cơng lao to lớn của Thế Lữ trong việc mở ra khuynh hướng mới cho văn
chương nhĩm Tự lực văn đồn: "Cùng với Lan Khai và một vài tác giả khác
chuyên viết về loại truyện đường rừng, bí hiểm văn xuơi Thế Lữ mở ra một
khuynh hướng mới của văn chương Tự lực văn đồn [76-13].
Năm 2003 trên Tạp chí Văn học số 8, Phạm Đình Ân cĩ bài viết Thế Lữ
trong Tự lực văn đồn. Trong bài viết này bên cạnh việc khẳng định vị trí, vai
trị và đĩng gĩp của Thế Lữ với nhĩm Tự lực văn đồn tác giả cịn khẳng định
"Văn xuơi nghệ thuật của Thế Lữ cũng cĩ một vẻ đẹp riêng, hấp dẫn cho thấy
một khía cạnh đáng lưu ý ở tài năng Thế Lữ [2-68].
Nhìn chung, nhiều năm qua văn xuơi của Thế Lữ được học tập và
nghiên cứu rất đơn giản và dè dặt. Trong phạm vi nhà trường, học sinh khơng
được tiếp cận với các tác phẩm văn xuơi, ít được biết đến Thế Lữ ở phương
diện nhà phê bình văn học, nhà dịch thuật, nhà nghệ sĩ đa tài, nhà đạo diễn sân
khấu. Song ở luận văn này, chúng tơi muốn nghiên cứu một khía cạnh nhỏ
trong mảng văn xuơi của Thế Lữ đặc biệt là trong truyện trinh thám và truyện
kinh dị để khẳng định Thế Lữ - tác giả tiên phong của thể loại truyện này.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài trên, luận văn sẽ nghiên cứu một cách cụ thể những
sáng tác của Thế Lữ giai đoạn 1930 -1945 ở hai lĩnh vực Thơ và Văn xuơi
(khơng khảo sát nghiên cứu hoạt động sân khấu, báo chí, lý luận, phê bình
văn học). Đặc biệt, luận văn này sẽ làm rõ hơn vị trí tiên phong của Thế Lữ
đối với một số thể loại văn học trong chặng đường văn học 1930 - 1945 nĩi
riêng và nền văn học nước nhà nĩi chung. Đúng như nhận định của PGS. TS
Phan Trọng Thưởng: Thế Lữ - Nghệ sĩ hai lần tiên phong và đánh giá của Lê
Đình Kỵ trong lời giới thiệu Tuyển tập Thế Lữ: "Cho đến nay trong lịch sử
văn học Việt Nam khơng cĩ một tên tuổi nào đáng được xếp bên cạnh Thế Lữ
trong hai loại sáng tác khá độc đáo này" [2b - 55, 56].
4. ĐĨNG GĨP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Từ các thành tựu nghệ thuật tiêu biểu trên các lĩnh vực Thơ và văn
xuơi, luận văn này nghiên cứu đánh giá vị trí của Thế Lữ với tiến trình văn
học Việt Nam thời kỳ 30 - 45 một cách cĩ hệ thống theo quan điểm nghiên
cứu mới nhất.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, trong quá trình thực hiện đề tài chúng
tơi chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử: Nhằm nghiên cứu tác giả, tác phẩm dưới gĩc
nhìn của lịch sử văn học để làm nổi bật vị trí, vai trị của Thế Lữ trong tiến
trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trong quá trình triển khai luận văn
chúng tơi sử dụng phương pháp thẩm mĩ truyền thống và phương pháp thống
kê khi tiếp cận tác phẩm.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
- Phương pháp so sánh: Với quan điểm lịch sử trên đây luận văn sẽ cố
gắng so sánh Thế Lữ trên cả bình diện lịch đại và đồng đại để gĩp phần làm
sáng tỏ vai trị "mở đường", "tiên phong" của Thế Lữ đối với văn học Việt
Nam giai đoạn 30 - 45 ở một số thể loại.
6. CẤU TRƯC LUẬN VĂN
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Sự xuất hiện của Thế Lữ trong bối cảnh văn học Việt Nam
thời kỳ 30 - 45
Chương 2: Những phẩm chất cách tân trong thơ Thế Lữ
Chương 3: Thế Lữ với những đĩng gĩp về văn xuơi nghệ thuật
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Chương 1
SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45
1.1. BỐI CẢNH VĂN HỐ, XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ 1930 - 1945
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hố - xã hội
Hiện thực đời sống xã hội khơng chỉ là đối tượng phản ánh một nền văn
học nhất định mà cịn là nhân tố làm nảy sinh chính nền văn học ấy. Theo mối
quan hệ biện chứng này thì vào đầu thế kỷ XX, xã hội nước ta đã xuất hiện
đầy đủ tiền đề cho một nền văn học hiện đại ra đời.
Đến đầu thập kỷ 30 của thế kỷ này, thực dân Pháp đã thực hiện ở Việt
Nam hai cuộc khai thác thuộc địa lớn nhằm bù đắp những thiệt hại kinh tế ở
chính quốc do cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất gây ra. Xã hội Việt Nam do
đĩ cũng biến đổi theo. Các đơ thị mọc lên rất nhanh theo đà phát triển của
kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Việc buơn bán bắt đầu sơi động ở các thành phố
lớn. Bộ máy viên chức của thực dân và phong kiến đã cĩ qui mơ hồn chỉnh.
Một tầng lớp tiểu tư sản được hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất đến đầu thập kỷ 30 đã phát triển đơng đảo và chiếm một tỷ lệ khơng nhỏ
trong dân số các đơ thị. Theo thống kê niên giám của Đơng Dương năm 1932
- 1933, số trí thức tân học bao gồm học sinh, sinh viên và viên chức đã lên tới
35 vạn người.
Hầu hết các tầng lớp và giai cấp trên đều sống ở các đơ thị. Một lối
sống tư sản hố được gọi là "văn minh thành thị" lan tràn trong giai cấp tư sản
và tiểu tư sản lớp trên. Lối sống đơ thị hố được thể hiện rõ trong cách ăn mặc
của thanh niên nam nữ. Cuối thập kỷ 30 người ta thấy xuất hiện nhiều thiếu
nữ Hà Thành mặt đánh phấn, mơi đỏ chĩt, áo màu, giày cao gĩt, chơi ping
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
pơng, tennis. Nam thanh niên thành thị giàu sang cũng đua nhau ăn mặc
khơng kém thiếu nữ.
Cĩ thể nĩi, những đổi mới trong sinh hoạt của các tầng lớp trên đây sẽ
dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ, cảm xúc trong chính bản thân những con người
này. Gĩp phần vào sự thay đổi đĩ cịn do sự tiếp xúc với văn hố phương Tây
mà đặc biệt là với văn học lãng mạn Pháp.
Năm 1915, thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt buộc phải bãi bỏ
thi Hương ở Bắc Kỳ. Năm 1919 khoa thi Hội cuối cùng ở Huế đã kết thúc chế
độ khoa thi cử phong kiến. Từ đây, trong các trường học, học sinh bắt đầu say
sưa với văn hố Pháp mà đặc biệt là văn học lãng mạn Pháp. Người ta bắt đầu
ca ngợi thơ lãng mạn của Huygơ, Lamartine, Musset,... Nhiều người rất thích
bài thơ "Le Lac" (Cái hồ) của Lamartine, mê nhân vật Atala trong tác phẩm
cùng tên của Chateaubriand.
Sự tiếp xúc văn hố trên đây đã đem đến cho tầng lớp thanh niên tiểu tư
sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung
động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khơng giống các cụ ngày xưa
nữa. Điều này đã được Lưu Trọng Lư nêu lên cơng khai trong buổi diễn thuyết
ở nhà Học Hội Quy Nhơn hồi tháng 6 năm 1934: "Các cụ ta ưa những màu đỏ
chĩt ta lại ưa những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm
khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cơ gái xinh xắn, ngây
thơ, các cụ coi như làm một điều tội lỗi ta thì cho là mát mẻ như đứng trước
một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hơn nhân, nhưng đối
với ta thì trăm hình muơn trạng, cái tình say đắm, cái tình thống qua, cái tình
gần gũi, cái tình xa xơi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu..." [5-21].
Sự tiếp xúc với văn hố phương Tây và lối sống đơ thị hố cũng làm
cho ý thức cá nhân nảy nở và phát triển rất nhanh lấn át ý thức cộng đồng xưa
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
cũ. Những con người trong xã hội ngày càng muốn khẳng định cái tơi cá nhân
của mình trong gia đình và cả ngồi xã hội, điều này được biểu hiện rất rõ
trong văn học. Vì vậy, một quan niệm mới về văn chương cũng đồng thời
xuất hiện.
Đến thế kỷ XX, với sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đơng đảo và lối
sống đơ thị hố, với ảnh hưởng của văn hố phương Tây... ý thức cá nhân mới
nảy sinh và phát triển mạnh mẽ trong tầng lớp thị dân mà trước hết là ở bộ
phận trí thức tân học. Họ cĩ quan điểm hồn tồn khác với thế hệ trước về cái
đẹp, về đạo đức, nhân sinh và đặc biệt là về văn hố nghệ thuật. Họ cho rằng
những quy phạm chặt chẽ của thi pháp cổ đã trở thành vật cản trên chặng
đường tự do dân chủ hố nền văn học nước nhà. Họ lên tiếng chống lại sự trĩi
buộc trái tự nhiên của thi pháp cổ mang tính phi ngã đã một thời là mẫu mực
cho các sáng tác văn chương nghệ thuật. Họ địi hỏi một sự cách tân để thoả
mãn nhu cầu thẩm mỹ mới và để kích thích cá tính sáng tạo trong lĩnh vực
nghệ thuật văn chương.
Cĩ thể nĩi, lối sống đơ thị hố và sự tiếp xúc văn hố phương Tây của
một số tầng lớp dân chúng Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ này là tiền
đề quan trọng cho xu hướng hiện đại hố đời sống xã hội, trong đĩ cĩ văn
học. Ngồi ra, gĩp phần khơng nhỏ vào sự đổi mới của xã hội nĩi chung và
văn nghệ nĩi riêng cịn phải kể đến vai trị của báo chí.
Từ năm 1913, báo chí bắt đầu đổi mới và cĩ khuynh hướng, chương
trình rõ rệt hơn, hình thức báo chí cũng được cải tiến. Báo chí thời nay được
xuất bản bằng các thứ tiếng Tàu, Pháp, Quốc Ngữ và đơi khi cả chữ Nơm nữa.
Về sau, những trí thức tân học của ta đã cổ động cho chữ quốc ngữ và dùng
nĩ làm phương tiện phổ biến. Văn hố, khoa học tiến bộ gĩp phần thúc đẩy
bánh xe lịch sử tiến lên. Chính báo chí đã hoạt động sơi nổi khiến chính
quyền thực dân và Chính phủ Nam triều phải bãi bỏ chế độ thi cử lỗi thời làm
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
cho nền Hán học ở Việt Nam sụp đổ hồn tồn. Báo chí cũng là diễn đàn để
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trao đổi ý kiến đánh giá tác phẩm, phổ
biến lý luận kinh nghiệm sáng tác. Đặc biệt, báo chí cịn gĩp phần đấu tranh
cho sự thắng lợi của văn hố tiến bộ, cho sự tồn thắng của chữ quốc ngữ, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới văn học.
Tham gia vào cơng cuộc đổi mới cĩ một số tri thức Hán học chịu ảnh
hưởng của sinh hoạt đơ thị tư sản và văn hố phương Tây thơng qua Tân Thư
Trung Quốc như Tàn Đà, Nguyễn Bá Học, Hồng Ngọc Phách, Phan Khơi,...
nhưng chủ yếu vẫn là tầng lớp tri thức tân học. Những cây bút này đã tạo nên
trên văn đàn cơng khai ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ hai trào lưu
văn học là văn học hiện thực và văn học lãng mạn chủ nghĩa. Hai trào lưu này
đều đấu tranh thốt khỏi hệ thống thi pháp cổ trung đại và đã thực sự đĩng
gĩp cĩ hiệu quả vào tiến trình hiện đại hố nền văn học Việt Nam.
Thế Lữ cũng thuộc kiểu tri thức nghệ sĩ mới tiểu tư sản ở một thuộc địa
nửa phong kiến trong số những văn nghệ sĩ, những nhà hoạt động khoa học xã
hội - nhân văn nĩi trên. Ơng xuất hiện từ năm 1932 và trưởng thành trong 13
năm (1932 - 1945) cĩ một vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình hiện đại
hố văn học nước nhà trước Cách mạng tháng Tám.
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hƣớng, nhĩm phái văn học
Thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
hết sức gay gắt. Từ đĩ dẫn đến những cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng
và ý thức hệ, sự tác động qua lại hết sức phức tạp của các khuynh hướng và
phương pháp sáng tác khác nhau.
Năm 1930 là năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đĩ cũng
là năm xuất hiện phong trào Xơ Viết Nghệ Tĩnh, mở đầu cho dịng văn học vơ
sản và các khuynh hướng lãng mạn, hiện thực phê phán đã phát triển thành
dịng độc lập.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Từ 1923 đến 1931 Nguyễn Cơng Hoan đã khẳng định phương pháp
hiện thực phê phán trong thể loại truyện ngắn (Răng con chĩ của nhà tư sản,
Oẳn tà roằn, Thật là phúc, Ngựa người và người ngựa...).
Trong hai năm 1930 - 1931 Ngơ Tất Tố viết những tiểu phẩm văn học
nổi tiếng trên các báo phổ thơng, Đơng Phương với các biệt hiệu Thiết Khẩu
Nhi; Thục Điểu,... Năm 1931 cũng là năm tác phẩm đầu tay của Vũ Trọng
Phụng ra đời (Khơng một tiếng vang).
Năm 1932 đánh dấu một bước phát triển đột biến của dịng văn học
lãng mạn: Báo Phong hố; Văn xuơi Tự lực văn đồn; Phong trào Thơ mới...
Từ 1930 - 1935 cũng nổ ra hàng loạt cuộc tranh luận lớn nhỏ: cuộc tranh luận
về Nho giáo giữa Phan Khơi, Trần Trọng Kim và Tản Đà; cuộc tranh luận
xung quanh vấn đề Thơ mới. Báo Phong Hố cho đăng hàng loạt phĩng sự
dài chủ trương bỏ cũ theo mới. Tất cả những cuộc tranh luận đĩ phản ánh
cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong kiến, đại gia đình phong kiến với chủ nghĩa
cá nhân tư sản, cuộc đấu tranh của tình cảm cá nhân, ý thức cá nhân chống lại
những khuơn khổ gị bĩ, lối suy nghĩ và ngơn ngữ khuơn sáo của thơ ca một
lớp nhà nho đã lỗi thời, đã tàn tạ. Tự Lực Văn Đồn đề xướng phong trào Âu
hố, đề cập đến cuộc xung đột giữa mới và cũ, lên án gia đình phong kiến,
bênh vực tình yêu lứa đơi, bênh vực chủ nghĩa cá nhân tư sản.
Văn học lãng lạn thời kỳ 30 - 45 gần như chiếm địa vị độc tơn trên thi
đàn văn học cơng khai. Bắt đầu với nhĩm Tự Lực Văn Đồn và Phong trào
Thơ mới. Ngồi nhĩm Phong hố, Ngày nay cịn phải kể đến các nhĩm Hà
Nội báo (Huy Thơng, Lưu Trọng Lư, Thái Can, Nguyễn Nhược Pháp), Tiểu
thuyết thứ bảy (Thâm Tâm, Trần Huyền Trân; Lai Ba, Ngọc Giao, Thanh
Châu), Tao Đàn (Nguyễn Tuân, Phạm Hầu, Lưu Kỳ Linh), Xuân Thu Nhã
Tập (Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Đồn Phú Tứ...). Ngồi làng văn
đất Hà Thành cịn phải kể đến các nhĩm Sơng Thương (Bàng Bá Lân, Anh
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Thơ), nhĩm Huế (Nam Trân, Nguyễn Đình Thư), nhĩm Bình Định (Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,...).
Ở nước ta, các nhà văn lãng mạn ít khi thành lập trường phái và cĩ
những tuyên ngơn nghệ thuật riêng. Tuy nhiên ở thời kỳ này chúng ta cũng
thấy được quan điểm thẩm mĩ của họ qua một số bài thơ của Thế Lữ (Cây đàn
muơn điệu), Xuân Diệu (Cảm xúc, lời thơ, Gửi hương), những bài phát biểu
của Lưu Trọng Lư trong cuộc tranh luận về nghệ thuật (1935 - 1936) và cuối
cùng người ta đã nghe thấy âm thanh của chủ nghĩa "nghệ thuật vị nghệ thuật"
từ những bản nhạc dạo đầu của Cây đàn muơn điệu của Thế Lữ.
Như vậy, văn học thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ nở rộ và phát triển các
khuynh hướng, nhĩm phái văn học cùng với khuynh hướng văn học hiện thực
phê phán, văn học lãng mạn, đặc biệt là phong trào thơ mới đã gĩp phần rất
quan trọng trong việc đưa văn học Việt Nam tiến thẳng vào thời kỳ hiện đại.
Một trong những người cĩ cơng đầu tiên phải kể đến là Thế Lữ - người cĩ vai
trị mở đường cho Thơ mới nĩi riêng và cho cả giai đoạn văn học 1930 - 1945
nĩi chung.
1.1.3. Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hồn thiện
về thể loại
Cùng với sự chuyển biến của tình hình xã hội, văn học thời kỳ từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1945, đặc biệt từ đầu những năm 30 trở đi, đã phát triển
nhanh chĩng đạt nhiều thành tựu to lớn. Chỉ trong vịng hơn một thập niên,
các khu vực các dịng văn học đều vận động, phát triển với nhịp độ khẩn
trương, mau lẹ. Điều đĩ thể hiện ở sự phát triển về số lượng tác giả và tác
phẩm, sự hình thành và đổi mới các thể loại văn học và độ kết tinh ở những
tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Tiểu thuyết từ trước năm 1930 cịn ít ỏi và cĩ phần đơn giản, thậm chí
một số chỉ là phỏng tác. Đến những năm 30, thể loại này trở nên phong phú
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
và thật sự đổi mới, nhất là ở cách dựng truyện, tổ chức kết cấu và xây dựng
tính cách nhân vật. Nhĩm Tự lực văn đồn với những tác phẩm thành cơng
của Nhất Linh, Khái Hưng đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới.
Tiếp đĩ là những tiểu thuyết cĩ giá trị của Vũ Trọng Phụng. Ngơ Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nam Cao... đã đưa thể loại này lên đến đỉnh cao.
Truyện ngắn thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ, nhanh chĩng. Chưa
bào giờ truyện ngắn Việt Nam lại phong phú, đặc sắc như thế: truyện ngắn
trào phúng của Nguyễn Cơng Hoan; truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Hồ Zếnh, truyện ngắn phong tục của Tơ Hồi, Bùi Hiển, Kim
Lân; truyện ngắn cĩ khả năng tạo nên bầu khơng khí Vang bĩng một thời của
Nguyễn Tuân; truyện ngắn viết về đời tư, về cái hằng ngày, dựng lên được cả
thế giới "sống mịn", mang tư tưởng sâu sắc, ý nghĩa khái quát rộng lớn với
nhiều trang phân tích tâm lý đạt tới trình độ bậc thầy của Nam Cao... Chỉ sau
hơn một thập niên, chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều truyện ngắn đặc sắc,
trong đĩ một số truyện ngắn cĩ thể coi là kiệt tác.
Phĩng sự và tuỳ bút cũng phát triển mạnh được kết tinh trong những
sáng tác của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngơ Tất Tố, Nguyễn Tuân. Về bút
ký, tuỳ bút phải kể đến Xuân Diệu và đặc biệt là Nguyễn Tuân - một cây bút
tài hoa, độc đáo với nhiều tác phẩm đặc sắc.
Trong lĩnh vực thơ ca, phong trào Thơ mới đã đem lại sự đổi thay sâu
sắc với đội ngũ thi sĩ đơng đảo, đa dạng, phong phú về phong cách nghệ thuật.
Hồi Thanh khẳng định trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ cĩ một
thời đại phong phú như thế: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một
lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thơng, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha
rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu" (Thi nhân Việt Nam).
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Thơ ca cũng là thể loại chủ lực và cĩ giá trị nhất của bộ phận văn học
cách mạng. Đáng chú ý hơn cả là sáng tác của nhà thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
Xuân Thuỷ, Sĩng Hồng,... trong đĩ tiêu biểu nhất là những tập thơ sáng tác
trong tù như Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh và Từ Ấy của Tố Hữu. Đây là
hai thành tựu xuất sắc đưa thơ ca cách mạng lên tầm cao mới.
Ở chặng này, kịch nĩi tiếp tục phát triển, được nhiều thành tựu vượt
trội hơn so với trước đây. Gây được tiếng vang là những vở kịch của Vi
Huyền Đắc, Đồn Phú Tứ, nhất là những vở kịch khai thác đề tài lịch sử
của Nguyễn Huy Tưởng.
Cùng với sáng tác, nghiên cứu lý luận phê bình văn học cũng phát triển,
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Cĩ giá trị hơn cả là những cơng
trình như Thi nhân Việt Nam của Hồi Thanh - Hồi Chân. Nhà văn hiện đại
của Vũ Ngọc Phan, Văn học Khải Luận của Đặng Thai Mai... đã gĩp phần
thúc đẩy nền văn học phát triển.
Dường như bất cứ thể loại nào, văn học cũng phát triển ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Chính vì phát triển với tốc độ vũ bão như vậy nên khơng cĩ
cây bút nào giữ được vai trị tiên phong trong suốt chặng đường dài. Đĩ là
cuộc chạy tiếp sức đầy căng thẳng, quyết liệt và cũng thật ngoạn mục tạo một
nhịp độ khẩn trương, nhanh chĩng chưa từng thấy trong lịch sử văn học dân
tộc. Vì vậy, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại thật cĩ lí khi khẳng định
"Ở nước ta một năm cĩ thể kể như ba mươi năm của người".
Hồ chung trong sự phát triển mạnh mẽ đĩ chúng ta phải kể đến vai trị
của Thế Lữ trong sự phát triển và hồn thiện một số thể loại gĩp phần làm cho
văn học giai đoạn này thực sự cĩ một diện mạo mới, đa dạng, phong phú
mang tính hiện đại.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA THẾ LỮ TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC MỚI
Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, bút hiệu Lê Ta, sinh ngày 06 tháng
10 năm 1907 tại ấp Thái Hà - Hà Nội trong một gia đình viên chức nhỏ. Thuở
nhỏ ở Lạng Sơn sau đĩ về Hải Phịng học sơ học và thành chung. Năm 1929
học song năm thứ ba bậc thành chung thì về Hà Nội thi đỗ dự thinh vào
trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đơng Dương, học được một năm thì bỏ.
Cĩ thể nĩi, Nguyễn Thế Lữ thuộc vào một số ít những nghệ sĩ đa tài
của nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Thế Lữ là "khởi điểm của
những khởi điểm".
Khi sống ở Hải Phịng, lúc chỉ mới mười tám, đơi mươi Thế Lữ đã viết
truyện, làm thơ. Khi nền văn học nước nhà bước vào thời kỳ hiện đại hố văn
học, Thế Lữ bắt đầu được mời làm báo Phong hố, sau đĩ ra nhập Tự lực văn
đồn là người sáng lập văn phái này. Ơng là nhà báo, người biên tập nịng cốt,
mẫn cán của hai tờ Phong hố và Ngày nay.
Về văn xuơi nghệ thuật, Thế Lữ cũng cĩ những đĩng gĩp đáng kể ở thể
loại truyện trinh thám, truyện huyễn tưởng như là mở đầu một thể tài mới,
một cách viết mới.
Trong khi các tiểu thuyết gia văn học hiện thực phê phán như Ngơ Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,... đang trực tiếp dùng ngịi bút của mình để
phơi bầy sự xấu xa, thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến đang đè nặng
lên tâm hồn và thể xác của những người dân lương thiện, trong khi các tác giả
văn xuơi Tự lực văn đồn đang tập trung miêu tả những câu chuyện tình
ngang trái do lề thĩi phong kiến cổ hủ gây ra thì Thế Lữ cho ra đời một loạt
sáng tác khác hẳn: ơng viết truyện trinh thám và các "truyện lạ" theo kiểu
Etga Pơ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Hàng loạt sáng tác của Thế Lữ như "Vàng và máu" (1934), "Bên đường
thiên lơi" (1937), "Lê Phong phĩng viên" (1937), "Mai Hương và Lê Phong"
(1937), "Địn hẹn" (1939), "Gĩi thuốc lá" (1940), "Trại Bồ Tùng Linh" (1941)
đã gây được tiếng vang lớn. Những sáng tác này cho thấy Thế Lữ là một nhà
văn cĩ tài quan sát, cĩ ĩc phân tích sắc bén, cĩ trí tưởng tượng dồi dào.
Cĩ thể nĩi, so với những tác phẩm văn xuơi truyền thống và tiểu thuyết
cùng thời, tiểu thuyết của Thế Lữ đã gây được một ấn tượng đặc biệt trong
lịng người đọc. Với tiểu thuyết của Thế Lữ, nghệ thuật văn xuơi dường như
bước sang một trang mới từ cách xây dựng hình tượng, đổi mới hệ thống cốt
truyện đến đổi mới về hình thức. Bởi thế, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã
viết "Về tiểu thuyết, tuy truyện trinh thám ơng chưa thành cơng nhưng về
truyện ghê sợ ơng đã tỏ ra một tiểu thuyết gia cĩ biệt tài" [26 - 1953].
Trong lĩnh vực sân khấu: ngay từ khi gia nhập Tự lực văn đồn, Thế Lữ
đã quan tâm tới nghệ thuật biểu diễn kịch. Từ 1935 - 1937 vừa làm biên tập,
viết báo, sáng tác và cơng bố các tác phẩm văn chương. Ơng thành lập nhĩm
kịch Thế Lữ ở Hải Phịng, tham gia ban kịch Tinh hoa, ban kịch Anh Vũ bằng
nhiều cơng việc như quản lý đồn kịch, chỉ đạo nghệ thuật diễn, sắm vai và
viết kịch bản. Thế Lữ cịn là một dịch giả dịch những tài liệu về sân khấu và
kịch bản kịch nĩi, kịch thơ. Nĩi về vai trị của Thế Lữ trong lĩnh vực này
Phan Trọng Thưởng trong bài viết Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong đã khẳng
định "Thế Lữ là người đầu tiên đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nĩi ở nước ta
trở thành chuyên nghiệp và cĩ cơng xây dựng nĩ trở thành một nghệ thuật sân
khấu hồn chỉnh".
Nhưng cĩ lẽ khơng ở đâu, cốt cách người đi tiên phong của Thế Lữ lại
được bộc lộ đầy đủ như ở Thơ mới. Để thấy rõ được cơng lao đĩng gĩp của
Thế Lữ dưới đây chúng tơi sẽ dựng lại bước khởi đầu của Thơ mới để thấy rõ
được vai trị tiên phong của người nghệ sĩ đa tài Thế Lữ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
1.2.1. Cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và Thơ cũ
Phong trào thơ mới (1932 - 1945) là một cuộc vận động đổi mới thơ ca
rộng lớn, mang tầm vĩc một cuộc cách mạng trong thơ ca tiếng Việt. Nĩ đã
chuyển đổi hệ thống thi pháp thơ ca từ thơ pháp trữ tình điệu ngâm sang thơ
trữ tình điệu nĩi, đưa thơ ca tiếng Việt sang phạm trù thơ hiện đại. Phong trào
này được mở đầu bằng cuộc tranh luận sơi nổi giữa Thơ mới và Thơ cũ.
Cuộc tranh luận kết thúc khi thắng lợi hồn tồn thuộc về Thơ mới. Để
giành phần thắng cho Thơ mới, cơng đầu phải kể đến những người đi tiên
phong trong việc đề xướng Thơ mới phê phán thơ cũ.
Năm 1917 trên tờ An Nam tạp chí (số 5 - tháng 11) Phạm Quỳnh lần
đầu tiên lên tiếng thở than về tình trạng thơ ca đương thời. Ơng cho rằng: thơ
Đường luật là thứ thơ phiền phức, luật lệ ràng buộc khắc nghiệt khơng khác
luật hình. Đến năm 1927, Phan Khơi trên Đơng pháp thời báo đã táo bạo cơng
kích thơ cũ, cho thơ cũ là thứ thơ trĩi buộc, hãm đà, thơ tục. Sang năm 1929,
tờ Trung Bắc tân văn lần đầu tiên đăng một bài thơ dịch khơng niêm luật,
khơng hạn chế số câu - đĩ là bài Con ve và con kiến do Nguyễn Văn Vĩnh
dịch thơ La Phơng Ten. Cũng trong năm này Trịnh Đình Rư viết một loạt bài
đăng trên Phụ nữ Tân Văn mạnh mẽ cơng kích thơ Đường luật "bĩ buộc
người ta theo khuơn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào"
[22,6] và ơng đề nghị sáng tác thơ theo thể lục bát và song thất lục bát hồn
tồn dân tộc.
Song đến thập kỷ thứ ba của thế kỷ XX, vấn đề cải cách thi ca đã trở
thành một nhu cầu bức xúc của văn học dân tộc. Ngày 10/3/1932 báo Phụ nữ
Tân văn xuất bản ở Sài Gịn đăng bài: Một lối thơ mới trình chánh giữa làng
thơ cùng bài thơ Tình già của Phan Khơi.
Trong bài báo này Phan Khơi nhận thấy truyền thống của thơ ca cổ điển
hàng ngàn năm với di sản đồ sộ và những áng thơ tuyệt bút của người xưa
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
cùng với những quy định chặt chẽ về thi pháp đang là gánh nặng của thi sĩ
đương thời. Những nguồn cảm hứng thi ca quen thuộc được nĩi quá nhiều đã
nhàm chán. Những cảm xúc vui buồn của con người thời nay muốn nĩi ra lại
bị khuơn phép thơ xưa cản trở. Phan Khơi cho rằng: thơ cốt chơn, mà thơ cũ
vì cơng thức quá nhiều nên mất chơn. Theo luật Đường thi, người làm thơ cĩ
thể trực tiếp biểu đạt được tình cảm, cảm xúc cĩ thật cùng mình, vì vậy nhà
thơ xa lạ với đời sống tình cảm của con người. Những biểu tượng, hình ảnh
mĩ lệ hố nhiều thành cơng thức sáo mịn mất đi sức truyền cảm. Bởi vậy
Phan Khơi đề xướng một lối thơ mới "đem ý thật trong thâm khảm mà nĩi ra
bằng những câu cĩ vần và khơng phải bĩ buộc bởi niêm luật" [54.53].
Về hình thức lối thơ mới, Phan Khơi cho rằng vẫn phải cĩ vần nhưng
những niêm luật bĩ buộc thì phải bỏ hết câu thơ tự do thì mới đủ sức diễn tả
những cảm xúc thơ ca mới của con người thời nay. Để minh hoạ cho ý tưởng
trên Phan Khơi cho in kèm bài Tình Già - bài thơ mà sau này nhiều người cho
là khơng cĩ gì là mới mẻ, nhưng lúc bấy giờ nĩ như một luồng giĩ lạ.
Để diễn đạt tâm sự vơi đầy trong bài thơ, Phan Khơi khơng chỉ phá bỏ
niêm luật, câu thơ được nới rộng ra thoải mái: câu dài 16 - 17 chữ, câu ngắn
cũng 10 chữ, ý tình kín khuất của nhân vật trữ tình được giãi bầy một cách rõ
ràng, dễ hiểu, chân thật. Nguyên tắc mạch kỵ lộ của Đường thi trở nên xa lạ.
Do ý tưởng táo bạo của Phan Khơi trong bài báo và sự mới lạ của bài
thơ Tình già, đăng trên báo Phụ nữ Tân Văn (10/3/1932) được coi là sự đột
khởi trên thi đàn Văn học Việt Nam; Với bài thơ này, Thơ mới đã cĩ một
tuyên ngơn thứ nhất, một hình hài đầu tiên. Cánh cửa đã mở, dù là mở hé đã
cho người ta thấy một chân trời khác của thơ ca.
Sự ra đời của bài Tình già tạo ra hai luồng dư luận trái ngược nhau.
Những người cĩ tư tưởng tiến bộ thì lạc quan cho đĩ là dấu hiệu hình thành
nền học thuật mới. Ngược lại những người hồi nghi bảo thủ cho rằng đĩ là
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
thứ "quái thai của thời đại, nếu để nĩ sống sẽ là điều sỉ nhục cho nền học
thuật nước nhà" [21.99]. Những người ủng hộ Phan Khơi sớm nhất, nhiệt tình
nhất là thanh niên tân học. Trong số những người trẻ tuổi đĩ là nổi lên hàng
đầu là tên tuổi của Nguyễn Thị Kiêm ở Nam Bộ và Thế Lữ ở đất Bắc.
Nguyễn Thị Kiêm biệt hiệu là Nguyễn Thị Manh Manh hay ký bút
danh là Manh Manh. Khi Phan Khơi hơ hào lối Thơ mới người Nữ sĩ này lập
tức hưởng ứng rất nhiệt tình. Sau những bài thơ của Phan Khơi, của Lưu
Trọng Lư là hai bài thơ Canh tàn, Viếng phịng vắng ký tên Nguyễn Thị
Manh Manh. Với hai bài thơ này Nguyễn Thị Kiêm khơng chỉ phá thể, phủ
nhận khuơn phép xưa mà cịn gieo tư tưởng lãng mạn, bộc lộ khao khát yêu
đương của tuổi trẻ. Ở những bài tiếp theo như Hai cơ thiếu nữ, Bức thư gửi
cho tất cả những ai ưa và ghét lối Thơ mới, nữ sĩ đã thả sức thể nghiệm: chất
tự sự, lời đối thoại, ngữ điệu nĩi, chất tư duy luân lý... tràn vào thơ.
Nguyễn Thị Kiêm đã "rất cĩ ý thức và hăng hái tạo ra Thơ mới" (chữ
dùng của Nguyễn Tấn Long) [21.179] bằng cách sáng tạo những bài thơ phá
thể, phá cách: bỏ niêm, luật đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, mở rộng biên độ câu
thơ. Hướng thể nghiệm này đã tạo những viên gạch đầu tiên để dựng lên tồ
lâu đài Thơ mới.
Để bảo vệ Thơ mới, Nguyễn Thị Kiệm đã dũng cảm mở mặt trận khẩu
chiến đấu tranh với phái ủng hộ thơ cũ. Ngày 26/7/1933 nữ sĩ đã đăng diễn
thuyết tại Hội khuyến học Sài Gịn, chỉ ra hạn chế của luật thơ Đường "Khuơn
khổ luật phép phiền phức, nên người làm thơ Đường luật phải ở trong một
phạm vi co hẹp lúng túng, cảm hứng ra bài nào thì câu văn như nhái lại mấy
trăm bài khác, cịn ý tưởng thì dường như đã cĩ nhiều người phát minh ra trước
rồi" Nữ sĩ cũng chỉ rõ Thơ mới là gì và tại sao Thơ mới phải ra đời "Muốn cho
tình tứ khơng vì khuơn khổ mà bị "đẹt" mất thì cần một lối thơ khác, lề lối
nguyên tắc rộng hơn. Thơ này khác với thơ xưa nên gọi là Thơ mới" [54, 100].
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Đến tháng 1/1935 Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết, tranh luận tay đơi
với ơng Nguyễn Văn Hanh tại hội Khuyến học Sài Gịn. Sự năng nổ, táo bạo
của Nguyễn Thị Kiêm đã cổ vũ khích lệ những người trẻ tuổi ra sức sáng tác
và lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Thơ mới. Theo gương nữ sĩ, nhiều người đã viết
báo, diễn thuyết cổ vũ cho Thơ mới, tạo ra một phong trào rầm rộ từ Nam đến
Bắc, lơi cuốn hầu hết các tờ báo và tạp chí đương thời vào cuộc, tạo ra một
bầu khơng khí học thuật tích cực để các thanh niên trẻ mạnh dạn thể hiện tài
năng của mình trong lĩnh vực thơ ca.
Sau những tuyên ngơn và thể nghiệm đầu tiên, Thơ mới đã dành được
sự quan tâm của cơng luận. Các báo và tạp chí như Phụ nữ Tân Văn; Phong
hố; Văn hố tạp chí; An Nam tạp chí, Văn học tuần san, Hà Nội báo đều bị
cuốn vào cuộc tranh luận Thơ mới - Thơ cũ. Thơ mới cần mạnh mẽ hơn, táo
bạo hơn nhưng quan trọng phải thuyết phục được cơng chúng về luận thuyết
và sáng tác. Phan Khơi sau khi trình chánh Thơ mới chỉ lặng lẽ rút lui nhường
trận tuyến cho thế hệ trẻ - Nguyễn Thị Kiêm hăng hái tranh biện nhưng thơ lại
chưa mấy thuyết phục. Hồ Văn Hảo chỉ lặng lẽ sáng tác. Ở chặng đầu gian
nan này, Thơ mới rất cần một vị chủ tướng dũng cảm và tài năng vừa để đối
phĩ với sự phản ứng quyết liệt của phái cựu học vừa tiếp tục giương cao ngọn
cờ Thơ mới. Trách nhiệm nặng nề ấy đã được nhận lãnh bởi một thi sĩ trẻ tâm
huyết, đa tài: Thế Lữ.
1.2.2. Sự xuất hiện của Thế Lữ
Thế Lữ (1907 - 1989) sinh trưởng trong một gia đình viên chức nhỏ tại
Hà Nội. Ơng đã sớm theo đuổi nghề văn, nghề báo và trở thành cây bút chủ
chốt của nhĩm Tự lực văn đồn. Sau bài tuyên ngơn chấn động của Phan
Khơi - Thế Lữ là một trong những người hưởng ứng sớm nhất và cĩ cơng đầu
đưa Thơ mới đến sự tồn thắng.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Như chúng ta đã biết, Thơ mới vừa ra đời đã vấp phải sự bài xích của
phái cựu học. Phản đối Thơ mới cũng khơng kém những người ủng hộ. Sau
khi bài Tình già ra mắt, hăng hái như Phan Khơi và liều lĩnh như Lưu Trọng
Lư cũng chỉ dám rụt rè hy vọng vào phong trào Thơ mới, dẫu thất bại thì đĩ là
tiếng chuơng cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc triền miên trong cõi chết. Sau Tình
già nhiều sáng tác lần lượt ra đời với ý tưởng trình tránh một lối thơ làm
khuơn mẫu cho Thơ mới: Trên đường đời, Vắng khách thơ (Lưu Trọng Lư),
Viếng Phịng thơ, Canh tàn, Mộng du (Nguyễn Thị Kiêm), Tự tình với trăng,
Con nhà thất nghiệp (Hồ Văn Hảo)... Nhưng tất cả những ý tưởng, những
khát vọng đĩ chưa khẳng định được sự thắng thế của Thơ mới mà "Thơ mới
vẫn ở thời kỳ phơi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu" [23, 59].
Chỉ đến khi Thế Lữ xuất hiện trên thi đàn, Thơ mới mới tạm chấm dứt
một cuộc khủng hoảng về thực tiễn sáng tác. Thế Lữ "khơng bàn về Thơ mới,
khơng bênh vực Thơ mới, khơng diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảng khắc cả hàng ngũ thơ
xưa phải tan vỡ" (Thi nhân Việt Nam [34, 58]). Hồi Thanh đã coi sự lặng lẽ
đĩ của Thế Lữ là sự bênh vực "khơng kèn khơng trống" nhưng lại hữu hiệu và
"vững vàng" nhất cho Thơ mới.
Nếu Phan Khơi, Lưu Trọng Lư là những người khai chiến với Thơ cũ
thì Thế Lữ là người giành thắng lợi đầu tiên cho Thơ mới. Thế Lữ phá thế
cuộc giằng co dai dẳng và bế tắc. Thắng lợi đĩ biểu hiện trên cả bình diện lý
thuyết và những sáng tác cụ thể.
Năm 1935 nhân bài phê bình tập thơ Những bơng hoa cuối mùa của
Thế Lữ đã lên tiếng bài xích thơ cũ, cho đĩ là thứ thơ bạc nhược, là sản phẩm
nhợt nhạt, vơ hình của một nền thơ đã mất hết sinh khí "Cái tài của các ơng là
cái tài xào nấu lại những mĩn ăn cũ. Các ơng lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm
của người khác làm của mình. Trong thơ các ơng đầy dãy cảnh tuyết mai,
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
thơng, cúc, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta
nhắc đến, nghe quen tai quá" [17, 11].
Và để trả lời những người buộc tội Thơ mới bất chấp mọi luật lệ, Thế
Lữ viết: "Các luật hẹp hịi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những
người khúm núm thi thố các tiểu xảo của mình" (Phong Hố số 148 tháng 5-
1935) Thế Lữ gọi những bài thơ ấy là lối thơ quen tai, nhàm chán như những
lời chúc tụng của bọn người hát "súc sắc súc sẻ" đầu năm.
Khơng chỉ cĩ vậy, Thế Lữ tìm một hình thức mới để thể hiện một nội
dung cảm hứng mới. Thế Lữ đường hồng sử dụng điển tích, thi liệu, văn liệu
cũ mà vẫn tự tin: Đấy là Thơ mới. Cảm quan mới, thi hứng mới đã chi phối
thi liệu cũ. Đến Thế Lữ, người ta bớt đi sự câu nệ và tiểu tiết. Làng Thơ mới
nhận ra rằng: Trên phương diện cảm hứng lẫn hình thức thể loại, Thơ mới kế
thừa chứ khơng đứt đoạn với thơ truyền thống.
Cây đàn muơn điệu được coi là một tuyên ngơn nghệ thuật của thế hệ
thi nhân mới:
"Tơi chỉ là một khách tình si
Ham cái đẹp của muơn hình muơn vẻ
Mượn cây bút nàng Ly Tao tơi vẽ
Và cây đàn ngàn phím tơi ca"
Thi nhân xưa cĩ vai trị "đạo đức tư dân", giáo hố, truyền thụ. Thi
nhân nay sáng tạo theo cảm hứng của cái tơi, biểu hiện rung động của cái tơi
trước cái đẹp. Cây đàn muơn điệu đánh dấu sự lên ngơi của con người nghệ sĩ
trong thế giới hiện thực để tự do cảm nhận và sáng tạo nghệ thuật. Con người
được đặt ở trung tâm mọi sự cảm thụ.
Cây đàn muơn điệu tiêu biểu cho cảm hứng say mê của cái tơi lần đầu
tiên được tự do cảm nhận. Cái tơi ấy đang bước đầu hành trình hăm hở khám
phá thế giới, là chặng đầu tiên trên hành trình của cái tơi lãng mạn. Cây đàn
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
muơn điệu là minh chứng cho quan niệm nghệ thuật của phong trào Thơ mới.
Đây là thắng lợi của Thơ mới trên phương diện lý luận. Lần đầu tiên, Thơ mới
cĩ một phác thảo đầy đủ về chân dung người nghệ sĩ, mục đích sáng tạo,
phương thức sáng tạo. Trong quỹ đạo văn học hiện đại, thì Nhớ rừng là thắng
lợi của Thơ mới trên phương diện cảm hứng. Với Nhớ rừng, cái bi tráng được
khắc họa, khơng phải bằng khuơn khổ luật Đường đăng đối mà là thứ ngơn
ngữ thơ sinh động từng bị các nhà nho cho là lủng ca lủng củng.
"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trơng ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm."
Trong lúc cũ - mới đáng giao thoa, ranh giới chưa được phân định rõ
rệt thì bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ được coi như một địn "dứt điểm", bài thơ
là sự hồ quyện giữa hùng tráng và bi tráng, là nỗi căm phẫn đã đọng lại
thành sức nặng giằng xé, xơ đẩy trong lớp vỏ ngơn từ. Cảm hứng bi tráng tìm
được hình dạng cho nĩ trong thể thơ tám chữ. Thể thơ tám chữ vốn chịu ảnh
hưởng của hình thức hát nĩi. Sau Thế Lữ, những nhà thơ kế tiếp đã nâng thể
thơ tám chữ này lên đến độ điêu luyện. Thơ tám chữ cũng là thể thơ chiếm ưu
thế về số lượng trong các tập thơ của thi nhân trong phong trào Thơ mới.
Như vậy, sự xuất hiện của Thế Lữ trong những năm đầu của thế kỷ 30,
khiến người ta hồn tồn bị thuyết phục về quá trình hiện thực hố ý tưởng
Thơ mới. Sau Thế Lữ xuất hiện nhiều đỉnh cao của phong trào Thơ mới: Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính... Những thi phẩm của họ là lời
bênh vực hùng hồn nhất cho Thơ mới. Trên thực tế, từ sau Thế Lữ, tranh luận
đã ngã ngũ. Hàng ngũ thơ xưa tan rã, thơ mới đã giành thắng lợi từ năm 1936.
Lê Tràng Kiều vui mừng nhận xét: "Cuộc cách mạng bồng bột nay đã yên
lăng như mặt nước hồ thu" và khơng phải ngẫu nhiên khi lưa chọn 45 thi sĩ
với 167 bài để đưa vào tập Thi nhân Việt Nam, Hồi Thanh - Hồi Chân đã
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
trân trọng đặt Thế Lữ ở vị trí đầu tiên. Và trong tiểu luận Một thời đại trong
thi ca, Hồi Thanh tơn vinh Thế Lữ là "đệ nhất thi sĩ".
Tĩm lại, qua diễn biến cuộc tranh luận Thơ mới - Thơ cũ, luận văn rút
ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất: Cuộc tranh luận giữa Thơ mới và Thơ cũ là một cuộc đấu
tranh quyết liệt giữa một bên giành quyền sống và một bên giữ quyền tồn tại.
Thứ hai: Những bài tham gia tranh luận của Thế Lữ cĩ giá trị đặc biệt.
Trong ba năm đầu (1932 - 1935), ơng đã cĩ những bài viết cơng bố ở những
báo khác nhau. Với một cảm quan nhạy bén, lý luận sắc sảo ơng đã gĩp phần
khơng nhỏ cho sự thắng lợi của Thơ mới trên bình diện lý thuyết.
Thứ ba: Khơng phơ trương diễn thuyết suơng, Thế Lữ đã dành cả tâm
huyết của mình cho những sáng tác cụ thể. Ở những sáng tác này, Thế Lữ đã
thể hiện rõ những phẩm chất cách tân để đưa Thơ mới đến tồn thắng, gĩp
phần hồn thiện nền văn học theo hướng hiện đại hố.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Chương 2
NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN
TRONG THƠ THẾ LỮ
2.1. QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA THẾ LỮ - MỘT BƢỚC TIẾN SO
VỚI QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại
Văn học trung đại là một loại hình văn học, sản phẩm của xã hội xây
dựng trên nền tảng các quan hệ phong kiến mang dấu ấn đẳng cấp, dấu ấn hệ
tư tưởng tơn giáo. Nên nhìn chung, văn học trung đại dường như chưa nĩi
được cái đẹp của đời sống hàng ngày mà chủ yếu thường dùng các hình ảnh
tượng trưng, ước lệ hay những điển tích, điển cổ.
Văn học trung đại nĩi chung cũng như thơ ca nĩi riêng dường như
khơng đi sâu vào cái "tơi" cá nhân mà chỉ nĩi đến cái "ta" chung của mọi
người. Tình cảm của họ nằm trong khuơn phép chung của xã hội. Vì thế, khi
nữ sĩ Thanh Quan đứng trên đỉnh Đèo Ngang, tầm mắt của bà chỉ thấy cảnh
đẹp của đất nước và trước cảnh đẹp bao la ấy, bà nghĩ đến nước mà đau lịng.
Tâm trạng của bà là tâm trạng chung của dân tộc.
Tính chất ước lệ trở thành hình thức nổi bật biểu hiện của thơ ca trung
đại. Đĩ là tính chất tập cổ, tính quy phạm, tính cơng thức, sáo ngữ và cách
dùng các điển cố, điển tích là hết sức phổ biến. I.U.Lotman miêu tả phương
pháp sáng tác thời trung đại qua khái niệm "mỹ học đồng nhất" - một khái
niệm chung cho văn học dân gian và văn học viết Trung đại. Đĩ là sự đồng
nhất hồn tồn tính hình tượng trong cuộc sống được miêu tả với các mơ
hình, cơng thức mà người xem (cơng chúng) đã biết được và đưa vào hệ thống
các quy tắc sáng tác. Cơ sở nhận thức của nĩ là san bằng các hình tượng đa
dạng khác nhau của cuộc sống để đưa vào mơ hình lơgic nhất định.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
B.AGiupxốp cho rằng: "Nhà văn trung đại khơng sáng tạo ra cốt truyện, anh
ta dường như chỉ kể lại và tổ hợp lại các mơtíp đã cĩ từ lâu bằng văn xuơi hay
văn vần".
Văn học trung đại thường dùng sáo ngữ, cơng thức trong tường thuật,
miêu tả, định danh, sử dụng chất liệu ngơn ngữ cao quý đầy hốn dụ, ví von
làm cho lời văn được mỹ lệ: tường gấm, mặt hoa, nghìn vàng giọt ngọc, tính
nghi thức địi hỏi miêu tả từng loại vật phải tuân theo yêu cầu của từng loại
nhân vật ấy. Chẳng hạn, miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên là gằn liền với các hình
ảnh tùng, cúc, trúc, mai. Miêu tả con người phải gắn liền với dấu ấn của vũ trụ.
Vũ trụ ở đây là đất trời, mây nước, mặt trăng, mặt trời, sấm, chớp, mưa, giĩ,
cây cỏ, muơng thú... với cái đạo bền vững sâu thẳm của nĩ. Con người thấy
chân dung của mình trong dáng liễu, dáng mai, vĩc hạc, mình ve, tĩc mây, mắt
phượng, mây sĩng... Khi làm một bài thơ "tay tiên giĩ táp mưa sa" đã cĩ dáng
dấp của vũ trụ. Khi khĩc người yêu "vật mình vẫy giĩ tuơn mưa" hoặc khi
chuẩn bị đi thi "sứ trời đã giục đường mây" hoặc khi cĩ một hành động ngang
tàng "vịng trời đất dọc ngang ngang dọc – Nợ tang bồng vay trả trả vay..." ta
thấy hình ảnh con người luơn được đặt trên bối cảnh của vũ trụ. Đĩ là cảm thức
chung của cả một mơ hình văn học, một thời đại văn học. Các nhà văn hầu như
khơng bao giờ hình dung cảnh sắc thiên nhiên và con người trong dáng vẻ đời
thường vì như thế nĩ tầm thường, khơng đẹp. Các nhà thơ trung đại luơn lấy
thiên nhiên làm trung tâm, là ngọn nguồn ban phát các phẩm chất của nĩ cho
con người. Thiên nhiên là mẫu mực để hình dung ngoại hình con người. Chẳng
hạn, đoạn thơ miêu tả Thuý Vân của Nguyễn Du:
"Vân xem trang trọng khác vời,
Khuơn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tĩc tuyết nhường màu da"
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Nhà thơ miêu tả sắc đẹp của nhân vật qua các chi tiết khuơn trăng, nét
ngài, hoa, ngọc, mây, tuyết, là các chi tiết thuộc thế giới thiên nhiên, vũ trụ cĩ
tính chất cao quý vĩnh viễn, khơng mang tính xác thịt trần tục, do đĩ cũng
khơng thấy dấu ấn cá nhân, cá tính. Mặt khác, nhà thơ khơng tả cảnh khơng
vẽ bức tranh thiên nhiên, mà hoa, ngọc, mây, tuyết dùng như một phép so
sánh chứ khơng phải là đối tượng miêu tả mà đối tượng miêu tả ở đây là vẻ
đẹp lý tưởng của nhân vật.
Khác với văn học trung đại, văn học hiện đại là văn học của thời kỳ mà
con người cá nhân tư sản mới xuất hiện, là văn học của ý thức cá tính của tác
giả, của ý thức nghệ thuật tự giác trong các cương lĩnh, trào lưu. Văn học hiện
đại giải phĩng ngơn từ khỏi cơng thức để hướng tới cái đẹp. Cái đẹp của
giọng điệu, của tình cảm tự nhiên, của sắc thái, của cá tính, của sự miêu tả cụ
thể, tinh tế.
Trở về với văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 từ những tiểu thuyết
của Tự lực văn đồn đến với văn xuơi hiện thực chủ nghĩa, đặc biệt là sự ra
đời của Phong trào Thơ mới đã gĩp phần quan trọng mở đầu và thúc đẩy
mạnh mẽ tiến trình hiện đại hố văn học dân tộc. Đây cũng là thời kỳ các nhà
văn, nhà thơ bước ra một khơng gian rộng mở với những quan niệm nghệ
thuật mới làm ngạc nhiên cả hai giới sáng tác và hưởng thụ văn chương. Mỗi
nét họ đặt trên tờ giấy là cảm giác in vào hồn người đọc, rộng mở mà khơng
gị bĩ. Đúng như lời Hồi Thanh, Hồi Chân nhận xét "đi sâu vào tâm hồn
những cá nhân, chúng ta sẽ gặp tâm hồn dân tộc, đi sâu vào tâm hồn dân tộc
chúng ta sẽ gặp tư tưởng nhân loại" [33,34].
Đại diện cho phong trào Thơ mới đưa ra một quan niệm nghệ thuật mới
làm sáng rực cả bầu trời thơ những năm đầu thập kỷ 30 phải kể đến cơng lao
của Thế Lữ - Người cĩ cơng "dựng thành nền Thơ mới ở xứ sở này" [34] với
một giọng điệu riêng, một sự cách tân táo bạo.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ
Trong chặng đường đầu Thơ mới lãng mạn, rất nhiều những cây bút nổi
lên cùng thời với Thế Lữ như Lưu Trọng Lư, Huy Thơng và sau này là
Nguyễn Nhược Pháp. Nếu hồn thơ Lưu Trọng Lư mơ màng và buồn xa vắng,
của Huy Thơng hùng tráng, mạnh mẽ thì hồn thơ Nguyễn Nhược Pháp hồn
nhiên, vui tươi, trong sáng... Tất cả những hồn thơ ấy đều cĩ sức khơi gợi rất
lớn trong lịng cơng chúng độc giả bấy giờ.
Nhưng những đặc sắc qua tập "Mấy vần thơ" đã đưa Thế Lữ lên bậc
hàng đầu tiêu biểu cho phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Đúng như lời nhận
xét của Hồi Thanh, Hồi Chân... "Bởi vì khơng cĩ gì khiến người ta tin ở
Thơ mới hơn là đọc những bài Thơ mới hay. Mà thơ Thế Lữ về thể cách mới
khơng chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần cho đến tiết tấu âm
thanh. Đọc những câu thơ:
"Nhớ cảnh sơn lâm, bĩng cả, cây già
Với tiếng giĩ gào ngàn, với giọng nguồn thét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hàng.
Lượn tấm thân như sĩng cuộn nhịp nhàng
Vờn bĩng âm thầm, lá gai, cỏ sắc"
Thì khơng ai cĩ thể bĩu mơi trước cuộc cách mạng về thi ca đương
nổi dậy... Thế Lữ đã làm rạn vỡ những khuơn khổ ngàn năm khơng di dịch"
[34, 58].
Cĩ được sự cách tân táo bạo trong thơ ca như vậy là nhờ Thế Lữ cĩ
quan niệm nghệ thuật hết sức mới mẻ. Cĩ thể nĩi từ thuở thơ ấu đến tuổi
trưởng thành khi đạt vinh quang về thơ ca và sau đĩ là những thành tựu về
văn xuơi nghệ thuật, về hoạt động sân khấu cũng là khi hình thành và hồn
chỉnh một quan niệm nghệ thuật mới. Với quan niệm nghệ thuật này ơng đã
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
nêu lên tuyên ngơn nghệ thuật chung của một thế hệ nghệ sĩ đầu tiên của văn
học hiện đại Việt Nam.
Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ đánh dấu một trình độ phát triển cĩ
tính bước ngoặt của ý thức nghệ thuật trong văn học Việt Nam những năm
đầu thập kỷ 30. Đĩ là ý thức tự giác của chủ thể sáng tạo về nghệ thuật bắt
rễ và sàng lọc từ chủ nghĩa lãng mạn thịnh hành ở phương Tây khoảng thế
kỷ XIX với lý thuyết "vị nghệ thuật" của Theophine Gautier chủ trương tơn
thờ cái đẹp tuyệt đối, chủ trương hoạt động và sáng tạo nghệ thuật trước tiên
và cuối cùng chỉ vì nghệ thuật, vì cái đẹp. Nhà phê bình Biêlinxki từng nĩi:
"Cái đẹp là điều kiện khơng thể thiếu được của nghệ thuật, thiếu cái đẹp thì
khơng cĩ và khơng thể cĩ nghệ thuật. Đĩ là một định lý". Thế Lữ cĩ sự kết
hợp hài hồ giữa cách cảm, cách nghĩ của người Việt với quan niệm của
phương Tây làm nảy sinh quan niệm nghệ thuật mới và làm nên một "thời
đại trong thi ca".
Bao trùm nên quan niệm nghệ thuật chung nhất của Thế Lữ là quan
niệm về cái đẹp. Với Thế Lữ cái đẹp được biểu hiện trước hết ở người nghệ
sĩ, ở văn chương nghệ thuật và ở nghiệp văn. Bởi vậy, nghệ thuật là cái đẹp và
cái đẹp là nghệ thuật. Trong báo Ngày nay (số 92 năm 1937), ơng viết "Vẽ lại
bức tranh chưa vừa ý, uốn nắn những nét cịn thơ sơ; bỏ hẳn một bài văn để
viết lại bài khác hồn tồn hơn; lựa chọn những lời thích đáng với những ý
tưởng trong một bài thơ; đĩ là sự can đảm của nhà nghệ sĩ. Sự can đảm ấy tỏ
ra lịng yêu mến nghệ thuật mà là sự yêu mến thành thực, trong đĩ bao sự băn
khoăn, ngờ vực, cay đắng, trước khi thấy hạnh phúc của vẻ đẹp anh lính".
Cái đẹp theo Thế Lữ quan niệm là cái đẹp rộng mở, muơn màu. Cái đẹp
"là chốn em quen cười với giĩ/ với trăng, với nước, với mây bay" (Lời than
thở của nàng Mỹ thuật), cái đẹp là "mộng vàng trên cảnh lộng trời mây" (Lựa
tiếng đàn). Đặc biệt với Cây đàn muơn điệu, Thế Lữ đã đưa ra một quan niệm
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
nghệ thuật hết sức mới mẻ, được coi là bản tuyên ngơn nghệ thuật của phong
trào Thơ mới. Nguyễn Đăng Điệp nhận xét "Người mở đường cho sự thắng
lợi của phong trào thơ ca này, trong bài Cây đàn muơn điệu đã sử dụng tới 15
lần chữ "tơi" (trên tổng số 36 dịng thơ). Muơn điệu chính là sự đa dạng của
cảm xúc, nĩ tạo ra tính mở cửa của Thơ mới" [47,197-198]. Cây đàn muơn
điệu và Nhớ rừng là hai trong số những bài thơ mới được tập thể các nhà thơ
mới, nhà nghiên cứu bình chọn in vào sách 1993. Thế Lữ đã từng tâm sự "Tơi
khơng cĩ ý định làm một bản tuyên ngơn nghệ thuật, tơi chỉ muốn với Cây
đàn muơn điệu nĩi lên một khát vọng khẩn thiết bằng thi ca, nĩi rõ cả tâm tư,
tình cảm của mình (...) Lực bất tịng tâm, tơi chỉ thực hiện được một phần rất
nhỏ của bản tuyên ngơn ấy nếu bài thơ ấy là bản tuyên ngơn của phong trào
Thơ mới thì chúng ta cĩ thể tự hào: phong trào Thơ mới đã thực hiện xuất sắc
bản tuyên ngơn ấy" [20].
Với Cây đàn muơn điệu Thế Lữ đã bộc lộ rõ cái "tơi" chủ thể của mình
khi nĩi về cái đẹp. Cái "tơi" thi sĩ đã mở rộng ra để ngân vang với mọi cung
bậc của cuộc đời với tất cả những buồn, đau, sướng khổ... của mọi kiếp người.
"Với nàng Thơ, tơi cĩ đàn muơn điệu,
Với nàng Thơ, tơi cĩ bút muơn màu.
Tơi muốn làm nhà nghệ sĩ nhiệm màu,
Lấy thanh sắc trần gian làm tài liệu"
Khác hẳn với cái đẹp trong văn học trung đại, nếu cái đẹp trong văn
học trung đại thuộc về quá khứ gắn liền với những hình ảnh thanh cao như
tùng, cúc, trúc mai, nĩ mang tính lý tưởng thể hiện trong "Đạo" trong "chí" thì
giờ đây cái đẹp hiện ngay trong cuộc sống hiện tại xung quanh mình. Với Thế
Lữ, thiên nhiên kỳ thú cĩ bao nhiêu vẻ đẹp thì hồn thơ ơng cĩ bấy nhiêu rung
cảm: một dáng yêu kiều thướt tha của giai nhân, một ngày âm thầm sầu muộn,
một sáng tưng bừng nắng xuân, một thác ngàn đổ nghiêng trời, một cảnh cơ
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
hàn nơi nước đọng, bùn lầy... Tất cả đều níu kéo mời mọc nhà thơ. Trước các
sắc màu lung linh hồn vũ và vẻ đẹp huyền bí của vũ trụ, nhà thơ khao khát
chiếm lĩnh và say sưa tận hưởng. Ở đâu ơng cũng trưng cầu và phát hiện ra vẻ
đẹp. Nhà thơ:
"Tìm cảm giác hay trong tiếng khĩc câu cười
Trong lúc gian lao, trong giờ sung sướng.
Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng,
Tơi yêu đời cùng với cảnh lầm than.
Cảnh thương tâm, ghê gớm hay dịu dàng,
Cảnh rực rỡ ái ân hay dữ dội".
(Cây đàn muơn điệu)
Mặc dù say sưa đi tìm cái đẹp ở mọi nơi, mọi chốn nhưng ơng vẫn
khơng hồn tồn xa rời đời sống, xa rời hiện thực. Nhà thơ tìm vẻ đẹp của thiên
nhiên, tìm đến vẻ đẹp yêu kiều của nhan sắc giai nhân trong Tiếng trúc tuyệt
vời và Tiếng hát bên sơng. Thế Lữ đã dựng lên nhiều giấc mơ huyền ảo đối lập
với hiện thực. Mặc dù vậy, Thế Lữ vẫn tìm đến vẻ đẹp của "thi nhân", "tư
tưởng" vẫn rung động trước "những cảnh cơ hàn nơi nước đọng, bùn lầy", vẫn
"cảm khái bởi những lời hăng hái", "vẫn ngợi ca với tấm lịng phấn khởi". Tức
là con người chỉ tự nhận mình là lữ khách của trần thế và tuyên bố chỉ "xuơi
ngược để vui chơi" ấy vẫn xúc động trước nỗi đau của đồng loại, vẫn hướng tới
những vẻ đẹp cao siêu hùng tráng của non nước, của "thi văn tư tưởng" với một
thái độ sống hăng hái, khoẻ khoắn, tích cực. Điều đĩ cho thấy, Thế Lữ vẫn
nặng lịng với cuộc đời và xét cho cùng thì quả khơng phải hồn tồn "nghệ
thuật vị nghệ thuật" là thốt ly. Cái đẹp mà Thế Lữ say mê săn tìm chủ yếu vẫn
là cái đẹp phong phú của thế giới sự sống, khơng phải cái đẹp "thuần tuý" trừu
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
tượng. Đồng thời, sự quay lưng với xã hội phàm tục ở Thế Lữ khơng phải là sự
tuyệt giao với hiện thực như nhĩm Xuân thu nhã tập sau này.
Chúng ta thừa nhận mâu thuẫn thực tế khách quan ở các nhà Thơ mới
là sự mâu thuẫn giữa giai cấp tiểu tư sản trí thức với bè lũ đế quốc, phong
kiến và tư sản mại bản. Những mâu thuẫn đĩ một khi đã được vào thi ca thì bị
trừu tượng hố, lãng mạn hố. Mâu thuẫn đĩ trong thơ Thế Lữ được trình bày
như sự đối lập giữa cuộc đời tù hãm và cuộc đời phĩng túng giang hồ, giữa
cuộc đời đen tối, tranh giành cướp bĩc với những cảnh tiên thơ mộng đẹp đẽ
ở Bồng lai tiên cảnh.
PlêKhanốp đã cĩ những kiến giải sâu sắc về nguồn gốc của quan điểm
"nghệ thuật vị nghệ thuật", "khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật nảy sinh
ra và được củng cố ở nơi nào cĩ sự bất hồ khơng giải quyết được giữa các
nghệ sĩ với hồn cảnh xã hội chung quanh họ" [85].
Cĩ thể nĩi, chính Thế Lữ và các nhà Thơ mới, các cây bút lãng mạn
(thế hệ 1930) đã bước vào con đường văn học với tâm trạng "bất hồ khơng
giải quyết được đối với hồn cảnh xã hội chung quanh họ". Đúng vậy, ngay
trong bài Tự trào, Thế Lữ đã nĩi rõ về thĩi đời xấu xa:
"Ở đời này khá thật là dốt
... Anh ta nào cĩ biết đâu rằng
Cĩ bao nhiêu đức tính cũng khơng bằng
Chỉ khơn khéo gian ngoan là đạt tất".
Trong bài Lời mỉa mai Thế Lữ cũng bộc bạch tâm sự bất hồ của nhà
thơ đối với cái xã hội phàm tục đĩ:
"... Tơi yêu đời. Nhưng bị người ghen ghét,
... Rồi tủi thân, chơ vơ, chán nản
Chẳng tin yêu mà cũng chẳng thương ai
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Về tình yêu nhân nghĩa ở đời
Cho cả nỗi sầu tư đau xĩt nữa.
Cho đến cả nhân tình, than ơi! Tơi cũng sợ
Là những trị giả dối của người ta"
Cũng chính bởi cái xã hội, phàm tục, ngột ngạt mà Thế Lữ đã tìm đến
nghệ thuật, tìm đến cái đẹp để trốn khỏi cuộc đời giả dối xấu xa. Thế Lữ đã
tìm đến với các Nàng: Từ Nàng mỹ thuật; Nàng Thơ; Nàng Ly Tao qua các
Nàng tiên, Nương tử ở cõi thiêng rồi quay lại mĩ nữ, giai nhân tuyệt sắc của
đời thường tục luỵ.
"Riêng cùng với Nàng thơ bầu bạn
Cái sung sướng phồn hoa tơi đã chán
...
Anh ta đi, đi tìm chỉ Ly Tao
Mà bấy lâu nay khơng biết trốn nơi nào"
(Tự trào)
Như vậy, cái đẹp trong quan niệm của Thế Lữ được cụ thể hố bằng
hình ảnh đẹp trừu tượng. Theo Phạm Đình Ân đĩ là "cái đẹp siêu Việt mang
tính nữ". Cái đẹp đĩ vừa là nội dung quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ, vừa là
hiện thực đối tượng cần chiếm lĩnh phản ánh của chủ thể sáng tạo.
Như vậy, từ bài thơ Nhớ rừng gây chấn động, cĩ sức cảm hố đối với
đơng đảo bạn đọc đến với những bài thơ như Cây đàn muơn điệu, Tiếng sáo
thiên thai đăng báo Phong hố và Ngày nay và cuối cùng tất cả những tác
phẩm ấy gom vào tập Mấy vần thơ (cùng với tập thơ Dịng nước ngược của
Tú Mỡ, là hai tập thơ đầu tiên của Tự lực văn đồn do NXB Đời nay cơng bố
cùng năm 1935) đã trở nên một trong những địn chủ yếu dứt điểm đánh bại
Thơ cũ, giành phần thắng hồn tồn rực rỡ cho Thơ mới đồng thời đưa ra một
quan niệm nghệ thuật hết sức mới mẻ - những bản dạo đầu cho cả một phong
trào thơ sau này.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
2.2. NHỮNG CÁCH TÂN VỀ HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG NGHỆ THUẬT
Như chúng ta đã biết chủ nghĩa lãng mạn ra đời là sự đoạn tuyệt với
nguyên lý sáng tác của chủ nghĩa cổ điển. Thi nhân lãng mạn là người mang lại
một tiếng nĩi mới trên thi đàn, là những người thổi bùng lên khát vọng sống
nơi trái tim con người bấy lâu bị vùi dập bởi những khuơn thước, luân lý xưa.
Ở buổi sơ khai của phong trào Thơ mới, trách nhiệm của người đi tiên
phong thật nặng nề. Thi sĩ lãng mạn đầu tiên, trước hết phải là người cĩ
những sáng tạo vượt bậc để thốt khỏi những ràng buộc cĩ tính chất quy
phạm của chủ nghĩa cổ điển từ hình thức đến nội dung để người ta cĩ thể đặt
niềm tin vào tương lai của Thơ mới. Bằng cả tài năng và tâm huyết của mình,
Thế Lữ đã làm được điều đĩ. Ơng đã mở ra một hướng đi mới cho thơ ca cả
về nội dung và hình thức biểu hiện.
Nhận xét về buổi đầu về phong trào Thơ mới, nhà nghiên cứu Trường
Chinh viết: "Khi phong trào Thơ mới nổi lên, Thế Lữ như vầng sao đột hiện
ánh sáng chĩi khắp cả bầu trời thơ Việt Nam thì phía bên kia vầng sao Tản Đà
mờ dần rồi lặn hẳn" [48, 454].
Cĩ thể nĩi, phong trào Thơ mới sẽ chẳng thể dành được chiến thắng
nếu khơng cĩ sự đổi mới về nội dung và hình thức nghệ thuật trong những
sáng tác của Thế Lữ. Trong phạm vi chương viết này, chúng tơi sẽ đề cập tới
sự cách tân ở một vài phương diện về cảm hứng sáng tạo và hình thức biểu
hiện để thấy rõ được vị trí, vai trị của Thế Lữ trong phong trào Thơ mới nĩi
riêng và tiến trình văn học 1930 - 1945 nĩi chung.
2.2.1. Thế Lữ - Một sự đổi mới về cảm hứng sáng tạo
2.2.1.1. Thiên nhiên
Thiên nhiên là hình ảnh gần gũi nhất của con người và cũng là đề tài
muơn thuở của thơ ca. Trời, mây, sơng nước, cỏ, cây, hoa lá... luơn là đối tượng
để thi nhân ký thác tâm tư, là nguồn cảm hứng vơ tận của muơn đời thi sĩ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Để phục vụ cho ý tưởng "Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngơn chí" trong thơ cổ,
thiên nhiên khơng phải bao giờ cũng là đối tượng rung cảm nghệ thuật thiên
nhiên cĩ khi chỉ là phương tiện để qua đĩ nhà thơ trình bày thuyết giảng về
đạo đức hoặc nĩi lên cái chí của người quân tử. Những bài thơ cũ ước lệ
nhiều quá, cách điệu hố nhiều quá trở nên khơ cứng, lời thơ gị gẫm quá,
văn hoa nhiều quá nên nhiều khi trở nên hời hợt và giả tạo. Mặt khác, thiên
nhiên trong thơ cổ lại thường bị gị bĩ bởi những hình ảnh tĩnh tại, khuơn
thước "phong, vân, tuyết, nguyệt" "tùng, cúc, trúc, mai" chỉ cốt để tạo nên
phẩm chất "thi trung hữu họa" nên bức tranh thiên nhiên nhiều khi tĩnh mịch
đến dửng dưng.
Vượt qua "thác ngụ cổ điển" trong thơ cổ, khắc phục lối "ngụ tình hời
hợt" trong một số tác phẩm văn xuơi Tự lực văn đồn, Thế Lữ đã miêu tả thiên
nhiên sống động như nĩ vốn cĩ và truyền thêm cho nĩ luồng sinh khí dào dạt
bằng cách cảm nhận riêng của một tâm hồn đa cảm. Thế Lữ là người đã biểu
hiện cách nhìn, cách cảm mới về thiên nhiên trong các thi phẩm của ơng. Bắt
đầu từ Thế Lữ, thiên nhiên đã thực sự chuyển mình, thực sự sống động.
Tản Đà là thi sĩ báo hiệu và cũng là người mở đầu chủ nghĩa lãng mạn.
Mặc dù thơ ơng vẫn chưa thốt khỏi ngơn từ của thơ truyền thống nhưng ơng
vẫn được các nhà nghiên cứu đánh giá cao, coi ơng là "khúc dạo đầu của bản
nhạc tân kỳ sắp sửa" là "thi nhân nối liền hai thế hệ tân và cựu" [20, 35]. Tản
Đà là người mạnh dạn dám đặt vấn đề "cái sầu" bên trang thơ thuở ấy. Đĩ là
nỗi sầu man mác "mù mờ của những đam mê khát vọng" [44, 569].
Tiếp nối cái sầu man mác trong thơ Tản Đà, Thế Lữ đã cĩ cách nhìn,
cách cảm rất mới trong bức tranh thiên nhiên của ơng. Bởi vậy, thiên nhiên
trong thơ Thế Lữ dù miêu tả ở bất kỳ trạng thái nào cũng đều mang một nỗi
sầu man mác.
Viết về thiên nhiên các nhà thơ từ xưa đến nay vẫn thường tìm cảm
hứng trong bức tranh thiên nhiên bốn mùa, trong đĩ mùa xuân được nĩi nhiều
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
nhất bởi cĩ lẽ đây là thời điểm nhạy cảm của sự giao hồ đất trời khi tết đến
xuân sang, khi cỏ cây đua nhau đâm chồi nảy lộc.
Trong thơ ca truyền thống, chúng ta đã bắt gặp nhiều những áng thơ
hay viết về mùa xuân. Một bức tranh xuân tuyệt đẹp trong truyện Kiều của
Nguyễn Du:
"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bơng hoa"
Một mùa xuân chứa nặng nỗi sầu của thi nhân trong thơ Tản Đà:
"Bính Tý sang mà Ất - Hợi qua
Đổi thay cũ mới khắp gần xa
Vui xuân thiên hạ bao nhiêu kẻ
Ngồi nhớ xuân xưa hoạ cĩ ta"
(Ngày xuân nhớ xuân)
Là thi sĩ tiếp nối cái sầu man mác trong thơ Tản Đà nhưng vượt ra khỏi
cái tĩnh tại của thiên nhiên trong thơ cỗ, thiên nhiên trong thơ Thế Lữ thật
sống động, một thiên nhiên đang lay chuyển theo nhịp sống của thiên tạo:
"Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lịng
Buồn ơi! xa vắng mênh mơng là buồn"
(Tiếng sáo thiên thai)
Thiên nhiên ở đây thật là thi vị, rộn ràng màu sắc âm thanh:
"Ánh hồng tía rắc ngọc châu trên lá
Trời trong xanh chân trời đỏ hây hây
Tiếng chim xuân nhí nhảnh ở trong cây
Cảnh vui thế sao tơi cịn buồn nữa?"
(Lựa tiếng đàn)
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Song giàu ấn tượng hơn cả phải kể đến những câu thơ viết về cảnh
thiên nhiên hùng vĩ và tráng lệ trong bài Nhớ rừng. Với biệt tài về hội họa của
mình, Thế Lữ đã mang đến cho chúng ta một bức tranh về cảnh thiên nhiên
tuyệt hảo mà nhân vật trung tâm ở đây là con hổ vị chúa sơn lâm nơi chốn
rừng xanh. Tất cả các cảnh sắc thiên nhiên từ cảnh đêm trăng - ngày mưa -
sáng xanh đến chiều tối cảnh nào cũng đẹp, cũng nên thơ. Bĩng đêm như
được dát vàng dưới trăng và ánh bình minh tươi sáng tưng bừng toả rạng khắp
núi rừng. Trong khung cảnh nên thơ tuyệt diệu đĩ con thú đứng uống nước,
uống ánh trăng chan hồ vàng tan trong lịng suối; con thú thức giấc vươn vai
trong ánh sáng và âm thanh tưng bừng ríu rít của buổi ban mai; con thú lắng
nhìn cảnh núi rừng rung chuyển và thay sắc trong mưa, con thú chờ đợt trong
ráng chiều đỏ rực như mái và say mồi như say máu.
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng vội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt..."
(Nhớ rừng)
Cĩ lẽ bên cạnh sự cách tân về giọng điệu, cấu trúc câu thơ, cách sử
dụng từ ngữ thì đổi mới trong cảm hứng sáng tạo của thiên nhiên đã đưa bài
thơ Nhớ rừng lên một trong những bài thơ hay nhất trong những bài thơ hay
của phong trào Thơ mới và nĩ là địn "dứt điểm" khiến "hàng ngũ thơ xưa
phải sụp đổ" và đưa Thơ mới tới sự tồn thắng.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Mặt khác thiên nhiên trong thơ cổ thường gắn với tình - cảnh, cảnh -
tình, cảnh - sự. Mỗi khung cảnh, mỗi sự vật đều mang một ý nghĩa triết lý về
quan hệ con người và vũ trụ, trong khung cảnh đĩ con người thường đứng
một mình trong tư thế vọng sơn, vọng nguyệt, đối vân, đối thuỷ, đối hoa để
ngẫm nghĩ về cuộc đời. Một cành hoa đêm trước nở rộ là cái lẽ tự nhiên của
đất trời, nhưng cũng là phép nhiệm màu của triết lý tuần hồn sắc, khơng,
động, tĩnh của nhà Phật. Một lối xưa, ngõ cũ vương hồng thu thảo, phủ bĩng
tịch dương cũng là một dấu tích cho một thời đại đã qua là lưu ảnh của cái
nhất thời trong cõi vĩnh hằng.
Khác với thơ cổ, thơ Thế Lữ khơng đối sơn, vọng nguyệt mà tách mình
ra khỏi vũ trụ khơng cùng. Một thiên nhiên hết sức thơ mộng và tinh khơi đến
diễm lệ.
"Ánh chiều thu...
Lướt nhẹ mặt hồ
Sương hồng lam nhẹ lan trên sĩng biếc
Rặng lau già xao xác tiếng reo khơ
Như khua động nỗi nhớ nhung thương tiếc
Trong lịng người đứng bên hồ"
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Cĩ điều rất mới lạ trong thơ Thế Lữ chúng ta thường bắt gặp "áng
hương buồn" của "cơ em" trong cảnh thiên nhiên dịu dàng êm ái, tràn đầy
nhựa sống. Nếu văn học trung đại lấy thiên nhiên làm trung tâm, là ngọn
nguồn để ban phát các phẩm chất của nĩ cho con người; thiên nhiên là điểm
tựa để hình dung ngoại hình con người thì trong thơ Thế Lữ thiên nhiên và
con người dường như cĩ sự giao hồ với nhau. Quan sát thiên nhiên chúng ta
cĩ thể hiểu được tâm trạng với mọi sắc thái, cung bậc buồn vui của con người.
"Chân giĩ nhẹ lướt qua làn sĩng
Nắng chiều xuân rung động trên cành
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Mấy hàng cau yếu nghiêng mình
Cơ em bỗng ngẩn ngơ tình vì đâu"
(Hồ Xuân và thiếu nữ)
Hình ảnh những "cơ em" trong thơ Thế Lữ dường như luơn xuất hiện
để tơ thêm vẻ đẹp cho bức tranh thiên nhiên, làm cho bức tranh thiên nhiên
khơng hề xáo động nhưng cũng khơng tĩnh lặng chút nào. Đĩ là bức tranh
thiên nhiên nhuốm màu sắc tâm trạng con người:
"Nhẹ nhàng em hái đố hồng tươi
Dưới vẻ xuân chào buổi sớm mai
Trong lúc chim xuân mừng nắng mới
Nhuốm đào sắc trắng khĩm hoa mai..."
(Hái hoa)
Cĩ thể nĩi hình ảnh "cơ em" trong thơ Thế Lữ là hình ảnh gợi mở cho
sự xuất hiện của các cơ thiếu nữ trong thơ ca lãng mạn ở giai đoạn này. Đĩ là
hình ảnh cơ thơn nữ trong thơ Hàn Mặc Tử, cơ hàng xĩm trong thơ Nguyễn
Bính, cơ thiếu nữ trong thơ Xuân Diệu...
Viết về thiên nhiên, Thế Lữ viết cũng khơng nhiều nhưng đã để lại ấn
tượng thật đặc biệt trong lịng người đọc. Khơng tĩnh lặng đến dửng dưng như
thiên nhiên trong thơ cổ, khơng cổ kính man mác như Tản Đà và cũng khơng
thiên về những xào xạc nội tâm như Lưu Trọng Lư, thiên nhiên trong thơ Thế
Lữ là thứ thiên nhiên trong trẻo gắn với nỗi sầu man mác bâng khuâng của
hình ảnh những cơ sơn nữ. Nếu Tản Đà, Lưu Trọng Lư là những thi nhân báo
hiệu về nội dung tâm tình trong thơ miêu tả thiên nhiên thì Thế Lữ rất thành
cơng việc miêu tả một thiên nhiên chứa đầy tâm trạng, một thiên nhiên gợi
cảm, gợi tình, mang màu sắc cá thể hố rõ rệt. Những gì mà thi nhân miêu tả
trong hàng loạt bức tranh thiên nhiên hữu tình đa sắc ấy là kết quả của những
chiêm nghiệm, tìm tịi, sáng tạo và đặc biệt là trí tưởng tượng phong phú. Bắt
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
đầu từ Thế Lữ, văn chương "duy lý" của chủ nghĩa cổ điển phải rút vào bĩng
tối nhường chỗ cho thứ văn chương "duy cảm" của chủ nghĩa lãng mạn.
Cũng từ những bài thơ viết về thiên nhiên của Thế Lữ, các nhà thơ mới đã đi
sâu hơn để khám phá sự kỳ diệu của thiên nhiên, để ký thác tâm hồn mình
trong đĩ, để tạo ra những bức tranh thiên nhiên, giàu màu sắc tâm trạng với
những ngõ ngách của tâm hồn thi sĩ và tâm hồn con người. Đĩ là một thiên
nhiên trong cõi mộng mơ của Hàn Mặc Tử, một thiên nhiên đầy vũ trụ trăng
sao trong thơ Huy Cận và một thiên nhiên gợi đầy cảm giác ái ân trong thơ
Xuân Diệu.
2.2.1.2. Tình yêu
Như chúng ta đã biết, văn học lãng mạn là khuynh hướng thẩm mỹ lấy
việc khẳng định cái "tơi" cá nhân, cá thể làm nguồn cảm hứng chủ đạo, giải
phĩng trí tưởng tượng và tình cảm, cảm xúc ra khỏi sự trĩi buộc của lý trí của
chủ nghĩa duy lý là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Nĩ yêu thích tự
do, thích sự độc đáo phi thường, cĩ hứng thú giãi bày cảm xúc mãnh liệt, đặc
biệt là nỗi buồn, đau, lịng sầu xứ, tình yêu đắm say... Một trong những đề tài
thích hợp với nĩ là Tình yêu. Và Thế Lữ một trong những đại diện tiêu biểu
cho khuynh hướng lãng mạn văn học Việt Nam 1930 - 1945 đã mang đến một
tiếng nĩi mới trên thi đàn văn học khi viết về đề tài này.
Trong văn học trung đại chúng ta đã bắt gặp những mối tình thơ mộng,
đắm say như tình yêu của Thuý Kiều - Kim Trọng, Lục Vân Tiên, Kiều
Nguyệt Nga, nhưng những mối tình này đều tan hợp theo các đạo làm người.
Thuý Kiều - Kim Trọng cách biệt nhau đến mười lăm năm cũng bởi "chữ hiếu
nặng hơn chữ tình" cịn Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga sánh đơi lại cĩ
nguồn gốc từ chuyện đền ơn đáp nghĩa.
Với Thơ mới, tình yêu cũng là một "chuyện" rất mới. Ngay từ bài thơ
đầu tiên, bài Tình già của Phan Khơi với giọng điệu "dở thơ dở phú" bài thơ
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
đã báo hiệu một sự thách thức, sự "nổi loạn" của Thơ mới, nĩ khác xa với thứ
ái tình của nhà nho đạo mạo xưa kia.
"Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ơng trời
bắt đơi ta phải vậy
Ta là nhân ngãi, đâu phải chuyện vợ chồng mà tính chuyện
thủy chung"
(Tình già)
Đến với Thế Lữ thi nhân tiên phong của phong trào Thơ mới - được coi
là người đã "ca ngợi tình yêu một cách nồng nàn trước nhất" [26, 142] đã đề
cập tới tình yêu một cách mới lạ. Khơng phải ngẫu nhiên mà Hồi Thanh nĩi
Thế Lữ là "Giáo sư dạy khoa tình ái cho cả một thời đại" [102, 67].
Là thi sĩ của nền tân học, chịu ảnh hưởng sống từ phương Tây đưa lại.
Thế Lữ là thi nhân đầu tiên trong làng thơ Việt Nam khuyên người ta hãy
"yêu đi" mà tận hưởng mùa xuân của cuộc đời đừng để thời gian khắc nghiệt
cướp mất tuổi trẻ và dung nhan:
"Một ngày kia em ngắm lại dung nhan
Em sẽ cùng ta buồn trách thời gian
Tiếc cảnh vui qua, tiếc màu rực rỡ
Của xuân đời ngàn năm khơng về nữa
Vậy thì yêu đi, vui mãi, bạn lịng ơi"
(Nhan sắc)
Thơ Thế Lữ gieo vào lịng người đọc thời đĩ, đặc biệt là thế hệ trẻ một
triết lý sống mới. Đời người thật ngắn ngủi vì thế con người hãy gắng tận
hưởng những sắc màu chĩi lọi, rực rỡ của mùa xuân, trước khi thời gian làm
nĩ phai tàn. Chính khát vọng hưởng thụ tình yêu, tuổi trẻ trong thơ Thế Lữ là
sự khơi nguồn, là bước dạo đầu để sau này Xuân Diệu bộc lộ khát vọng yêu
đương một cách mạnh mẽ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
"Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em ơi em, tình non đã già rồi
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tơi
Mau với chứ thời gian khơng đứng đợi"
(Giục giã)
Trước Thế Lữ, khi viết về những mối tình dở dang trắc trở, các nhà thơ
thường đưa ra những nguyên nhân từ phía khách quan, đơi trẻ chỉ là nạn nhân
đáng thương. Ngay cả trong văn xuơi Tự lực văn đồn cũng chưa thốt khỏi
mơtíp quen thuộc ấy. Thế nhưng, Thế Lữ đã chỉ ra nguyên nhân của sự tan vỡ
tình yêu lại là ở phía chủ quan đĩ là quan niệm sống thiên về tiền tài, vật chất
của lớp trẻ:
"Nay biết ai cùng ngỏ nỗi niềm
Tình quân khơng dám ở cùng em
Yêu nhau, yêu cả trong gian khổ
Chàng hám vinh hoa mải miết tìm"
(Lời than của nàng Mỹ thuật)
Và đau đớn hơn là thứ tình cảm đắm say chân thành nhất cũng bị rẻ
rúm. Ngay cả thi nhân cũng bị phụ bạc trong tình yêu:
"Tơi muốn dâng tấm tình yêu tha thiết
Yêu say mê đắm đuối cho giai nhân
Nhưng lịng tơi chân thành, chỉ đằm thắm ái ân
Tơi chỉ giàu riêng về tình cảm
Thứ tiền tài mà khơng ai hám"
(Lời mỉa mai)
Cĩ thể nĩi, Thế Lữ là thi nhân lãng mạn đầu tiên đã trực tiếp vạch rõ sự
tác động của tiền tài địa vị vào tình cảm con người mà trước đĩ Tản Đà, Lưu
Trọng Lư chỉ cất lên tiếng đau khi tình yêu tan vỡ. Sau này, Xuân Diệu là
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
người tiếp nối đi sâu hơn khai thác, tìm hiểu sự phức tạp trong ngõ ngách tâm
hồn con người.
Một điều khác biệt so với văn học trung đại. Nếu các thi nhân xưa
thường bày tỏ thái độ phủ nhận thực tại bằng cách rút lui khỏi đời sống xã hội
sống cuộc đời ẩn dật, an nhàn, Thế Lữ muốn lên tiên giới, muốn ru hồn trong
nhạc điệu du dương của chốn thiên thai:
"Hoa lá cuồng bay, bướm loạn qua
Người tiên biến mất, khách trơng ra
Mặt hồ nước phẳng nghiêm như giận
Một áng hương tan khĩi toả mơ"
(Vẻ đẹp thống qua)
Giấc mộng thốt lên tiên trước Thế Lữ đã cĩ Tản Đà nhưng các thi
nhân trước coi thơ như là một phương tiện để ký khác tâm hồn mình. Cịn các
nàng tiên trong thơ Thế Lữ hiện lên như một con người thực, đĩ là người bạn
lịng, tri âm, tri kỷ của thi nhân:
"Nàng thơ ơi! Nàng thơ ơi! Ta buồn lắm
Nắng gay gắt trên khĩm sen khơng thắm
Giĩ thờ ơ khơng động bĩng tàn cây
Lịng ta khơng âu yếm, khơng vui tươi
Khơng nhớ thương, khơng sơi nổi, than ơi!
Cũng khơng cả nỗi đắng cay tê tái
Nàng thơ ơi! tâm hồn ta trống trải..."
(Giục hồn thơ)
Đọc thơ Thế Lữ "Dù hình tượng thơ cĩ khúc xạ, biến ảo bao lần qua
thế giới cảm xúc đi chăng nữa thì trước hết thơ vẫn là sự sống. Cắt đứt mối
liên hệ giữa thơ và cuộc đời thì tất cả mọi khuynh hướng tìm tịi sáng tạo của
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
nhà thơ sẽ trở nên vơ nghĩa" [32, 20]. Điều làm cho thơ Thế Lữ vững chắc
trên thi đàn, làm cho thơ Thế Lữ đi vào lịng người đọc là thơ ơng dù mang
dáng dấp bồng lai tiên cảnh nhưng vẫn nặng lịng với cõi đời.
Nĩi đến sự đổi mới về mặt cảm hứng sáng tạo trong chủ đề tình yêu
của thơ Thế Lữ chúng ta khơng thể khơng nhắc tới niềm khao khát tự do,
khao khát hồ chung tình yêu với sự nghiệp chung:
"Vì chúng ta cũng biết yêu đương
Mà cuộc tình duyên gặp giữa đường
Trong lúc non sơng mờ cát bụi
Phải đâu là hội kết uyên ương"
(Tiếng gọi bên sơng)
Tiếng gọi tình yêu tha thiết, say mê là thế nhưng khơng làm nhụt bước
"chí bốn phương". Nếu trong văn học cổ điển, nước mắt người chinh phụ
thường ướt đẫm người ra đi thì đến thơ lãng mạn, đặc biệt là với vai trị mở
đầu của Thế Lữ, người vợ tỏ ra khẳng khái, chủ động trong cuộc tiễn đưa:
"Anh đi đường anh, tơi đi đường tơi
Tình nghĩa đơi ta cĩ thế thơi
Đã quyết khơng mong sum họp mãi
Bận lịng chi nữa lúc chia phơi
Non nước đang chờ gĩt lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lịng tơi phơi phới thơi thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ"
(Giây phút chạnh lịng)
Cĩ thể nĩi, sự đổi mới về mặt cảm hứng sáng tạo trong những bài thơ
viết về tình yêu của Thế Lữ, đã thắp lên một giá trị mới cho văn học lãng mạn
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
giai đoạn đầu mở ra những khuynh hướng sáng tác mới "ăn nhịp với sự thay
đổi về cuộc sống tinh thần của người Việt một thời [26, 142] để rồi sau này
các nhà thơ mới như Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, dần khám phá sâu
hơn vào những ngõ ngách phức tạp, tinh vi hơn của tâm hồn con người.
2.2.1.3. Cõi tiên
Như trên đã trình bày trong sự thăng hoa đi kiếm tìm cái tơi của Thế Lữ
- thi sĩ đã cảm bao nhiêu mong đậu tới cõi mơ ước riêng lại bị chính nỗi đời,
cảnh đời lạnh lùng bẻ gãy. Chính vì thế đã tạo nên "thế giới bổ đơi", sự phân
cực trong thơ Thế Lữ giữa cõi thực và cõi tiên.
Tìm đến một cõi riêng cho mình, cho sự vẫy vùng xúc cảm, tâm tư đã
tạo nên một dấu ấn rất riêng của Thế Lữ trong phong trào Thơ mới.
Trước và sau Thế Lữ, Tản Đà và Hàn Mặc Tử đã nĩi đến cõi tiên
nhưng đối với họ, cõi tiên chưa phải là hình ảnh thiên nhiên trong một hệ
thống quan niệm sâu sắc về cái đẹp được thể hiện ở sáng tác, nhất quán với
sáng tác như ở Thế Lữ. Cõi tiên là nơi tập trung vẻ đẹp lý tưởng, là cảnh Bồng
lai tuyệt vời với khơng khí thơ mộng, huyền ảo, thoả mãn ước vọng của cái
"tơi" khao khát cái đẹp. Nhà nghiên cứu phê bình Hồi Thanh - Hồi Chân,
tác giả cuốn Thi nhân Việt Nam khi viết về Thế Lữ đã phải thừa nhận: "Ở xứ
ta từ khi cĩ người nĩi chyện Tiên nghĩa là từ khi cĩ thi sĩ (Thế Lữ) chưa bao
giờ ta thấy thế giới Tiên cĩ nhiều vẻ đẹp như thế) [34-59].
Điều đĩ, cũng cĩ nghĩa là Thế Lữ đã tạo ra một thế giới nghệ thuật
hồn tồn mới, ở đĩ cõi thực và cõi tiên liên hệ với nhau, gắn kết với nhau
bằng tình yêu mang sắc thái thi nhân.
Mặc dù chịu ảnh hưởng rất nhiều của thơ ca lãng mạn phương Tây
nhưng Thế Lữ vẫn kế thừa di sản của thế hệ thơ cũ, cũng giống như nhiều thi
nhân xưa, Thế Lữ cũng cĩ giấc mộng lên Tiên.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Trước đĩ Tản Đà - thi sĩ của "hai thế kỷ" (Hồi Thanh) đã tạo thành
các gạch nối vừa nổi loạn vừa tình si giữa đường biên của thơ ca trung đại và
hiện đại đã từng gửi chút tình được mang và vương vấn với cõi tiên:
"Lá đào rơi rắc lối Thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Đá mịn rêu nhạt
Nước chảy, huê trơi
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi."
(Tản Đà - Tống biệt)
Tiếng thơ của Nguyễn Khắc Hiếu tiên sinh đem đến chất cổ điển, mực
thước của thi pháp trung đại và giao hồ với chất lãng tử, phiêu lưu của cái
"tơi" bước vào thời hiện đại. Đọc thơ của bậc tiên tri ta thấy cĩ cái gì đắm say
thành thực, cái khát vọng thành thực. Như lớp đàn em gần gũi của Tản Đà, thi
sĩ Lưu Trọng Lư từng gửi gắm tha thiết và rất đỗi chân thành: "Người thanh
niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm thi nhân của mình như người con
đi tìm mẹ" [40].
Tản Đà mơ giấc mơ lên tiên để mà tình tự, giao duyên cùng người tiên
hay cũng chính là quay về với lịng mình để ước ao và tiếc nuối:
"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đĩ chửa
Cành đa xin chị nhấc lên chơi"
(Muốn làm thằng Cuội)
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Thơ đến với cõi tiên của Thế Lữ khơng giống với Tản Đà, cũng khơng
giống với Bích Khê sau này. Bích Khê thi sĩ lãng mạn đã ngả sang màu sắc
của phái tượng trưng: coi trọng sắc màu, coi trọng nhạc điệu và ám ảnh bởi
những biểu tượng, sức nắm bắt hiện thực mới của các thi nhân thuộc trường
phái này. Hãy nghe Bích Khê trong Giấc mơ tiên:
"Hồn bay! Hồn bay! Hồn bay
Ngửa nghiêng tắm mát vàng lay nhạc đường
Đêm nay no ớn nguồn hương
Một trời thanh khí mười phương đa tình."
Bích Khê trong Giấc mơ tiên như muốn đập vỡ mọi cảm giác để gửi tới
niềm khát khao tiên giới. Cõi tiên mà dường như quá đỗi phàm trần. Bởi cõi
tiên đẹp nõn nà, bởi cõi tiên là nơi cất dấu những "hình tiên nga" gọi lịng
đắm say, mê luyến của thi nhân: Bởi tìm đến giấc "mơ tiên" là tìm đến niềm
"khối lạc" ở trong "miền chiêm bao!".
Vì thế, thi nhân muốn giục giã lịng mình để tìm đến cõi tiên để cướp
lấy thời gian, cướp mây trời để thoả lịng khách đa tình "mười phương" phiêu
lãng. Ta nhận ra trạng thái khát khao say đắm và tận hưởng ngay trong lời,
trong giọng điệu ngập tràn cảm giác trong giấc mơ lên tiên của Bích Khê.
Nhận diện về cõi tiên - miền cảm xúc thẩm mĩ của Thế Lữ, đã cĩ nhiều
người gặp gỡ trong thiên hướng đánh giá và cĩ cách nhấn, cách phát hiện
riêng về thơ tiên của Thế Lữ cũng như dấu ấn của phong cách nghệ thuật
riêng của nhà thơ.
Lê Tràng Kiều cĩ lẽ là người mang sự cảm nhận tinh khơng kém phần
tinh tế về thế giới Bồng lai trong thơ Thế Lữ. Trên Hà Nội báo số 24 ngày
17/6/36 ơng nhận xét về Thế Lữ "Tơi thấy thơ Thế Lữ như phảng phất tồn một
vẻ Bồng lai nhà thi sĩ quả như người xưa đã nĩi là người cĩ tinh cốt...". ...Bồng
lai đối với Thế Lữ chính là "quên hương thực" nơi đi về của Hồn thi sĩ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
... Cĩ người bảo rằng: Thế Lữ là một người sống một cách rụt rè ấy rất
hợp với bài thơ "tiên" nhưng lại rất hại cho những bài thơ "phàm", những bài
thơ cần đưa lại cho người ta những phút đắm đuối [28].
Như thế, khi Thế Lữ "lưu luyến cảnh tiên trong tưởng tượng" hay "nĩi
chuyện tiên" thì đấy cũng chính là dấu hiệu đam mê mà chỉ cĩ thi sĩ lãng mạn
với phĩng hồn mình một cách thành thực đắm say tới miền mộng đẹp của
tưởng tượng ấy. Thế giới Bồng lai tiên cảnh được Thế Lữ tạo ra như "một thế
giới nghệ thuật hồn tồn mới, ở đĩ cõi thực và cõi tiên liên hệ với nhau, gắn
kết với nhau bằng tình yêu mang sắc thái riêng của thi nhân" (Phan Trọng
Thưởng) [54]
Đến với cõi tiên - một mặt Thế Lữ tạo ra thế giới nghệ thuật riêng,
đồng thời thi nhân cũng bộc lộ được cảm xúc thẩm mĩ của mình mang dấu ấn
cái "tơi" riêng biệt.
Trước hết, cõi tiên trong thơ Thế Lữ là một khơng gian trong lành, tinh
khiết và thơ mộng. Ở đây khơng cĩ vẻ đẹp huyền bí mê hoặc lịng người, sự
ngất ngây hướng về khoảng vọng tươi sáng nơi tiên giới.
"Ánh xuân lướt cỏ xanh tươi
Bên rừng thổi sáo một hai kim đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lịng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mơng là buồn"
Trước khơng gian xa vắng mênh mơng ta cảm nhận được ở đĩ tiếng tơ
lịng ngân rung trong cảm giác êm ái, xao xuyến thật dịu, thật trong của một
tâm hồn bình tĩnh, than thản như chưa gợn đục nỗi sầu nhân thế.
Trong tập Mấy vần thơ - Thế Lữ đưa người đọc đến với cõi tiên thật
trong trẻo, tinh khiết, đến với cõi đi về gần gũi và cũng thật mơ màng siêu
thốt. Tiêu biểu: Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo thi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945.pdf