Tài liệu Luận văn Thế giới quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN:
Thế giới quan phật giáo
và ảnh hưởng của nó đối với đời sống
tinh thần con người Việt Nam hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhỡn lại những thập kỷ cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, tỡnh
hỡnh tôn giáo trên thế giới và trong nước ta hiện nay, có nhiều biểu hiện diễn biến phức
tạp, hết sức nhạy cảm, đó và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa
học. Trong xó hội hiện đại ngày nay, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên cả phương diện lý luận
cũng như thực tiễn.
Với tư cách là một hỡnh thái ý thức xó hội, tôn giáo luôn biến động phản ánh sự
biến đổi của lịch sử nhân loại. Thực tế đó chứng minh rằng, một tôn giáo cụ thể ở một
quốc gia nhất định có thể suy tàn, hưng thịnh hoặc mất đi, song nhỡn chung từ khi ra
đời cho đến nay, tôn giáo luôn tồn tại trong xó hội loài người. Tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân, nhưng lại liên...
103 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thế giới quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thế giới quan phật giáo
và ảnh hưởng của nó đối với đời sống
tinh thần con người Việt Nam hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhỡn lại những thập kỷ cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, tỡnh
hỡnh tôn giáo trên thế giới và trong nước ta hiện nay, có nhiều biểu hiện diễn biến phức
tạp, hết sức nhạy cảm, đó và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa
học. Trong xó hội hiện đại ngày nay, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên cả phương diện lý luận
cũng như thực tiễn.
Với tư cách là một hỡnh thái ý thức xó hội, tôn giáo luôn biến động phản ánh sự
biến đổi của lịch sử nhân loại. Thực tế đó chứng minh rằng, một tôn giáo cụ thể ở một
quốc gia nhất định có thể suy tàn, hưng thịnh hoặc mất đi, song nhỡn chung từ khi ra
đời cho đến nay, tôn giáo luôn tồn tại trong xó hội loài người. Tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân, nhưng lại liên quan và luôn ảnh hưởng khá sâu sắc đến
các lĩnh vực của đời sống xó hội, tác động đến văn hoá, đạo đức, kinh tế, chính trị, xó
hội, an ninh và quốc phũng.
Việt Nam là đất nước đa tôn giáo, mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần
2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng từ bi, hỉ xả, Phật giáo đó được
nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế,
gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vỡ hạnh phúc an vui cho con người. Đạo Phật đó trở
thành một trong những hệ tư tưởng - tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến ngày
nay, đó ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần con người Việt Nam trong lịch sử.
Theo cuốn Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam của tác giả Phùng Hữu Phú chủ biên
có ghi: nhỡn nhận lực lượng Phật giáo, Hồ Chí Minh đánh giá: “Tín đồ Phật giáo chiếm
3/4 nhân dân Việt Nam” [55, tr.24].
Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền vận mệnh đất nước, thăng hoa cùng dân tộc
trong mọi hoàn cảnh và trải qua mọi thời đại. Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo có
truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc. Bên cạnh đó, văn hoá Phật giáo là một bộ
phận không thể tách rời văn hoá dân tộc. Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo của
nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn hoá dân tộc.
Mỗi một tôn giáo, để trở thành một tôn giáo đích thực đều phải giải đáp câu hỏi:
Thế giới này (kể cả tự nhiên và xó hội) là gỡ? Do đâu mà có? Vận hành theo những quy
luật nào? Đằng sau cái thế giới hữu hỡnh này là cái gỡ? Có nhận thức được không?...
Phật giáo với cái đích là cứu con người thoát khỏi nỗi khổ muôn đời, với cứu
cánh là giải thoát. Nhỡn bề ngoài, nó chủ yếu bàn về nhân sinh, nhưng để cho những
quan niệm nhân sinh này tồn tại một cách vững chói, trải dài hơn 2500 năm thỡ chúng
phải dựa trên một cơ sở triết học, một nền tảng lý luận, thế giới quan vô cùng sâu sắc.
Chính vỡ vậy, mà Phật giáo mang đậm tính triết học hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay, do sự tác động mạnh mẽ của
nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cùng với các học thuyết tư tưởng và
tôn giáo, đạo Phật đó có những biến chuyển mạnh mẽ cùng với sự chuyển mỡnh lớn lao
của đất nước.
Việc đứng trên lập trường triết học Mác - Lênin để nghiên cứu thế giới quan Phật
giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay, chỉ
ra những yếu tố tích cực, phát hiện những giá trị tinh tuý của nó cũng như những mặt
hạn chế của nó chính là một việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận cũng như về
mặt thực tiễn. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như vậy, học viên mạnh dạn chọn vấn đề:
“Thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tỡnh hỡnh nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người
Việt Nam là một đề tài rộng lớn. Đó có nhiều công trỡnh nghiên cứu và đạt được
những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trỡnh sau đây:
- Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam của Viện Triết học, Hà Nội,
1986;
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học, Hà
Nội, 1991;
- Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), NXB khoa
học xó hội, 1993;
- Góp phần tỡm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông của Nguyễn
Hùng Hậu, NXB Khoa học xó hội, 1996;
- Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, NXB Văn hoá thông tin,
1996;
- Tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Trung tâm
thông tin tư liệu - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996;
- Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện
nay của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997;
- Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu, NXB
Khoa học xó hội, 1997;
- Tư tưởng Triết học của thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Trung,
NXB Chính trị quốc gia, 1998;
- Ảnh hưởng của tư tưởng Triết học Phật giáo trong đời sống văn hoá tinh thần ở
Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 1998;
- Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, NXB Khoa học xó hội,
Hà Nội, 1999;
- Phật giáo với văn hoá Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, NXB Hà Nội, 1999;
- Nhân sinh quan Phật giáo và sự thể hiện của nó ở một số tín đồ Đạo Phật hiện
nay (qua quan sát một số Chùa ở Hà Nội) của Nguyễn Thị Hảo, luận văn Thạc sĩ Triết
học, Viện Triết học, 2000;
- Đại cương Triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Hùng Hậu, NXB
Khoa học xó hội, Hà Nội, 2002;
- Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con ng-
ười Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trỡnh đổi mới hiện nay của Mai Thị
Dung, luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003;
- Truyền thống văn hoá và Phật giáo Việt Nam của Minh Chi, NXB Tôn giáo,
2003;
- Bàn thêm về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xó hội Việt Nam hiện nay
của Lê Văn Đính, Tạp chí Tôn giáo, số 10 - 2007;
- Vai trũ của Phật giáo Việt Nam hiện nay của Nguyễn Khắc Đức, Tạp chí Tôn
giáo, số 7 - 2008;
- í nghĩa xó hội và nhân văn cao cả của Phật giáo của Trần Đỡnh Hà, Tạp chí Tôn
giáo, số 10 - 2008;...
Nhỡn chung, có thể nhận xét một cách khái quát các công trỡnh nghiên cứu trên
đều khẳng định Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xó hội Việt Nam, đặc
biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết hợp với
văn hoá truyền thống, đó tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần của con người Việt
Nam. Các công trỡnh nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở từng khía cạnh và mức
độ xem xét khác nhau, đó thể hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống xó hội Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu làm sáng tỏ có tính hệ thống thế giới
quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện
nay thỡ cho đến nay vẫn chưa có một công trỡnh khoa học chuyên khảo nào trực tiếp nào
đề cập đến. Các công trỡnh trên là những tài liệu quý, hết sức có giá trị là cơ sở để học viên
tiếp thu và kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi trước. Vỡ vậy, luận văn
này, từ góc độ triết học đi sâu nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về tư tưởng thế
giới quan Phật giáo, từ đó tỡm hiểu ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người
Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rừ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu có liên
quan và có ảnh hưởng rừ nét đối với một số mặt trong đời sống tinh thần con người Việt
Nam hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh
thần con người Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Làm rừ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu (về thế giới, về
con người và về cuộc đời con người) .
- Phân tích ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với một số mặt trong đời
sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con ngư-
ời Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không đi vào nghiên cứu tất cả nội dung thế giới quan của các tông phái
trong mọi giai đoạn phát triển của Phật giáo, kể cả thế giới quan của Phật giáo Việt Nam,
cũng không đề cập đến ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo trong mọi lĩnh vực của đời
sống tinh thần con người Việt Nam. Luận văn chỉ đi vào nghiên cứu thế giới quan Phật giáo
trên những nội dung chủ yếu (về thế giới, về con người và về cuộc đời con người). Từ đó,
tỡm hiểu ảnh hưởng của chúng đối với một số lĩnh vực đời sống tinh thần con người Việt
Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo
nói chung, Phật giáo nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với một số phương pháp phân tích và tổng hợp; lôgíc và
lịch sử; phương pháp so sánh và đối chiếu…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc làm rừ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung
chủ yếu và ảnh hưởng của nó đối với một số mặt của đời sống tinh thần con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn bước đầu đưa ra đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống
tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rừ thế giới quan Phật giáo cũng như tác dụng của nó đối
với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
- Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tôn
giáo, liên quan đến tôn giáo ở các trường Cao đẳng, Đại học và những ai quan tâm tỡm
hiểu về Phật giáo nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
Ấn Độ là một bán đảo lớn - một “tiểu lục địa” nằm ở miền Nam châu á trông
gần giống một tam giác cân mà đáy giáp Đại Tây Dương, một cạnh bên giáp biển Ấn
Độ Dương, cũn cạnh kia án ngữ bởi dóy Himalaya hùng vĩ dài tới 2.600 km, trong đó có
đến bốn mươi ngọn cao trên bảy cây số. Theo tiếng Phạn (Sanskrit) chữ Himalaya có
nghĩa là “xứ sở của tuyết”. Người Ấn Độ cổ cho đây là nóc nhà của thế giới, nơi ngự trị
của các đấng thần linh, nơi chứa đựng nguyên khí của trời đất. Như vậy, Ấn Độ là một
tiểu lục địa khép kín, ngăn cách hoàn toàn với châu Á.
Điều kiện thiên nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp. Địa hỡnh vừa có nhiều
núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngũi với những đồng bằng trù phú; có vùng khí
hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá tuyết phủ quanh năm, lại cũng có những
vùng sa mạc, khô khan nóng nực như thiêu như đốt, nơi thỡ lũ lụt, nơi thỡ gió cát bụi
mù mịt,... Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực
tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ, phần
nào cũng phản ánh sự đa dạng trong triết học Ấn Độ .
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới. Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ
vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên (tr.CN) thuộc miền Bắc Ấn Độ, phía
Nam dóy núi Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nê Pan bây giờ. Sự ra đời của
thế giới quan Phật giáo căn bản bị chi phối bởi chính hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính
trị - xó hội của đất nước Ấn Độ cổ đại.
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xó hội
Ấn Độ cổ đại là một quốc gia có lịch sử lâu đời và có nền văn minh sớm phát
triển, đạt đến trỡnh độ rực rỡ. Chủ nhân chính của nền văn minh Ấn Độ cổ đại là người
bản địa Đravida và người châu Âu nhập cư - Aryan từ Trung Á tới vào khoảng 2000
năm tr.CN. Trải qua nhiều xung đột với người bản địa, người Aryan đó chiến thắng.
Lúc đầu họ sống ở vùng thượng lưu sông Ấn, sau đó di chuyển về hướng Đông và dần
dần định cư ở lưu vực sông Hằng. Quá trỡnh hỗn dung về dũng máu và văn hoá đó tạo
điều kiện cho việc xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị văn hoá - xó
hội của Ấn Độ.
Từ thế kỷ VI tr.CN đến thế kỷ I tr.CN, chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính chất
gia trưởng kiểu phương Đông đó khá phát triển ở Ấn Độ . Trong thời kỳ này nền kinh
tế, xó hội, văn hoá Ấn Độ đó có những bước tiến bộ vượt bậc. Công cụ bằng đồ sắt rất
phổ biến. Trên cơ sở mở mang các công trỡnh thuỷ lợi, khai khẩn đất đai, trồng các loại
ngũ cốc, nông nghiệp phát triển mạnh. Nghề thủ công cũng rất phát đạt, nhất là nghề dệt
bông, đay, tơ lụa, nghề luyện sắt, nghề làm đồ gỗ, gốm sứ và nghề làm đồ trang sức.
Mặc dù nền kinh tế tự nhiên vẫn cũn chiếm phần ưu thế, nhưng thương nghiệp, buôn
bán cũng phát triển đó hỡnh thành một tầng lớp mới trong cơ cấu giai cấp xó hội Ấn Độ
- tầng lớp thương nhân và thợ thủ công. Tiền tệ kim loại xuất hiện. Nhiều thành phố trở
thành trung tâm công thương nghiệp quan trọng. Nhiều con đường thương mại thuỷ bộ
nối liền các thành thị với nhau và thông thương từ Ấn Độ qua các nước như Trung Hoa,
Ai Cập và các miền Trung Á... dần dần xuất hiện.
Trong xó hội chiếm hữu nô lệ Ấn Độ, ngoài đặc trưng của chế độ đẳng cấp, sự
tồn tại dai dẳng của những công xó nông thôn với lao động của người dân công xó là
chủ yếu, thỡ chế độ nô lệ kiểu gia trưởng và nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương
tập quyền, trong đó các đế vương nắm quyền lực vô hạn về sở hữu ruộng đất và thần
dân cũng đó ảnh hưởng mạnh mẽ tới tính chất và sự phát triển khắc nghiệt của tự nhiên
và chế độ đẳng cấp, thể chế xó hội luôn đè nặng lên đời sống của người dân Ấn Độ. Đó
là chế độ xó hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dũng dừi, nghề nghiệp, tôn
giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn nhân… Theo thánh điển Bàlamôn và bộ luật
Manou người ta phân biệt trong xó hội Ấn Độ rất nhiều chủng tính khác nhau, nhưng có
thể quy định thành bốn chủng tính lớn và đó là bốn đẳng cấp lớn của Ấn Độ cổ đại.
Trước khi Phật giáo ra đời, xó hội tồn tại bốn đẳng cấp sau:
Thứ nhất, đẳng cấp Brahman - na (Bàlamôn) gồm: tăng lữ hay tu sĩ những người
chuyên làm công việc cúng tế thần, chuyên nghiên cứu giảng dạy thánh kinh, họ nắm
quyền thống trị về mặt tinh thần, chiếm địa cao nhất trong xó hội Ấn Độ. Đẳng cấp này
có đặc quyền về xó hội và chính trị, được tôn làm “Thần của nhân gian”.
Thứ hai, đẳng cấp Kshatriya (Sát đế lợi) gồm: vua chúa, vương công, tướng lónh,
vừ sĩ; họ nắm giữ quyền thống trị về mặt kinh tế, xó hội, cai trị và thâu tóm ruộng đất và
được coi là người bảo hộ của nhân dân.
Thứ ba, đẳng cấp Vaishya (Vệ xá) gồm: thương nhân, điền chủ, và những người
trong nghề thủ công. Đẳng cấp này là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho xó hội
và có nghĩa vụ phải nộp thuế.
Thứ tư, đẳng cấp Shudra (Thủ đà la) gồm: những người lao động bỡnh thường,
nô lệ. Đẳng cấp này phục tùng những đẳng cấp trên.
Ngoài bốn đẳng cấp trên, cũn có những người bị coi là ngoài lề đẳng cấp xó hội,
đó là tầng lớp hạ tiện nhất gọi là Ba-lị-xá gồm những người cùng khổ dưới đáy xó hội.
Họ bị các đẳng cấp trên đối xử như thú vật, cuộc sống vô cùng khổ nhục, tối tăm.
Trong các đẳng cấp trên, đẳng cấp Brahman-na và Kshatriya là giai cấp thống trị;
đẳng cấp Vaishya và Shudra thuộc giai cấp bị trị. Bốn đẳng cấp này theo chế độ thế tập,
cha truyền con nối ở đẳng cấp nào thỡ đời đời vẫn ở đẳng cấp ấy.
Một xó hội bất bỡnh đẳng như thế làm cho mâu thuẫn xó hội ngày càng gay gắt,
nhất là khi đẳng cấp thống trị giàu có sinh ra trụy lạc, pháp luật không cũn được tôn
trọng. Tỡnh hỡnh xó hội Ấn Độ thời bấy giờ đó chín muồi một cuộc đấu tranh nhằm lật
đổ những giai cấp thống trị, áp bức bóc lột. Đây là cơ sở xó hội quan trọng làm cho thế
giới quan Phật giáo - với tư cách là một trào lưu tư tưởng chống lại sự “nghèo nàn hiện
thực” - đưa ra chủ trương thực hiện “bỡnh đẳng xó hội” của mỡnh, kiến lập một chế độ xó
hội công bằng hơn.
1.1.2. Văn hoá - tư tưởng
Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại được hỡnh thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu
thiên niên kỷ I tr.CN, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo giải thích vũ trụ
bằng các biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hỡnh
thức tôn giáo tối cổ của nhân loại - totemisme và tín ngưỡng vật linh - animisme.
Ngay từ thế kỷ XV tr.CN đó xuất hiện bộ kinh Veda là bộ kinh cổ nhất của Ấn
Độ và cũng là của nhân loại. Về nguồn gốc lịch sử, Veda không phải do một nhân vật
nào sáng tác, nó là một bộ sách thâu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những tư
tưởng quan điểm, những tập tục lễ nghi… của nhiều bộ lạc người Aryan ở nhiều địa
phương dọc theo sông Ấn, sông Hằng và chân núi Hymalaya. Một thời gian dài các bộ
kinh ấy đó được truyền khẩu từ thế hệ này qua thế hệ khác. Khoảng năm 1000 đến năm
800 tr.CN nó mới được sưu tập chép lại bằng một thứ tiếng Phạn cổ, gọi là thánh kinh
Veda. Veda gồm có 4 bộ là Rig Veda, Sama Veda, Yajur Veda, Artha Veda và được
chia làm ba phần là Brahmana (8 cuốn), Aranyaka (4 cuốn) và Upanishad (13 cuốn).
Nhỡn chung, những tư tưởng triết học của Veda cũn thô sơ, mộc mạc, chất phác.
Đến thời kỳ 800 - 600 năm tr.CN tư tưởng triết học Upanishad hỡnh thành.
Upanishad là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Veda. Nó là những lời
bỡnh giải tôn giáo triết học cổ Ấn Độ về các lẽ thiết yếu, về các ý nghĩa triết lý sâu xa
của các bài kinh, các nghi lễ cũng như các bản thần thoại Veda bởi các tông phái, các
đạo sĩ trong những hoàn cảnh, địa phương khác nhau. Sự xuất hiện của Upanishad được
coi là “bước nhảy” hoàn toàn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học.
Xu hướng chính của Upanishad là nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn
giáo trong kinh Veda về cái gọi là “Tinh thần sáng tạo tối cao” sáng tạo và chi phối thế
giới này. Lập luận của đa số các trường phái triết học duy tâm sau này đều xuất phát từ
tư tưởng triết học của Upanishad. Những trường phái này tỡm thấy trong đó uy thế tối
cao của mỡnh - uy thế mà họ cho là không có nguồn gốc từ hiện thực, mà là sự linh báo
thần linh.
Trả lời câu hỏi, cái gỡ là thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận
thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái cũn lại và có thể giải thoát được linh
hồn khỏi sự lo âu khổ nóo của đời sống trần tục và sự rằng buộc của thế giới hiện tượng
biến ảo, vô thường. Upanishad đó đưa ra một cách giải đáp duy tâm rằng: bản nguyên
của thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman (đại ngó), là thực thể duy nhất có
trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh và nhập về
với nó sau khi chết. Linh hồn con người (Atman - tiểu ngó) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ
phận của “tinh thần tối cao”. Cơ thể, nhục thể chỉ là cái “vỏ bọc” của linh hồn, là nơi trú
ngụ của linh hồn, hiện thân của “tinh thần tối cao”, tuyệt đối bất tử Brahman và là tia nắng
của ánh nắng mặt trời. Nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với “linh hồn tối cao”. Trong
vũ trụ, từ cái vô cùng lớn đến cái vô cùng nhỏ, đều là sự biểu hiện của một cái tối cao, tuyệt
đối, duy nhất Brahman.
Vỡ Atman - linh hồn, tiểu ngó là cái tồn tại trong thể xác con người ở đời sống
trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngó” là cái khác với “linh
hồn vũ trụ”, khác với nguồn sống không có sinh, không có diệt của vũ trụ. Những ý chí,
cảm giác, ham muốn dục vọng và hành động của con người nhằm thoả món những ham
muốn đó trong đời sống trần gian đó gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và
cả kiếp sau, gọi là nghiệp báo (karma). Do vậy linh hồn bất tử cứ bị giam hóm vào hết
thể xác này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh,
gọi là sự luân hồi (samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của
mỡnh là Brahma được. Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vũng vây hóm của nghiệp
báo, luân hồi, thoát khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục, của thế giới hiện tượng cảm
tính như ảo ảnh (maya), thường biến, để đạt tới sự đồng nhất với “Tinh thần vũ trụ tối
cao, tuyệt đối” con người phải dốc lũng, toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri
thức. Bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản
của mỡnh, khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất được với “Linh hồn vũ trụ tối cao”, bắt
đầu siêu thoát (moska).
Chính vỡ nội dung triết lý phong phú ấy mà Upanishad đó trở thành nguồn gốc
của hết thảy các quan điểm và hệ thống triết học Ấn Độ sau này; đồng thời, chỉ ở đó
mới bắt đầu có những câu hỏi và những lời giải đáp có tính chất triết học. Không những
thế, triết học duy tâm tôn giáo của Upanishad đó đóng vai trũ là cơ sở lý luận cho đạo
Bàlamôn cũng như đạo Hinđu ở Ấn Độ cổ đại. Kinh Upanishad đó đề cập đến những
vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự như mối quan hệ giữa tinh thần vũ trụ (Brahman) và
linh hồn cá thể (Atman), thuyết luân hồi, nghiệp, nhân quả...
Tóm lại, thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm trong
thánh kinh Veda, kinh Upanishad và đạo Bàlamôn đó trở thành hệ tư tưởng thống trị
trong đời sống tinh thần của xó hội Ấn Độ cổ. Uy thế của nó mạnh mẽ tới mức, tư tưởng
triết lý duy tâm ấy được mệnh danh là tư tưởng chính thống của xó hội Ấn Độ cổ và tất
cả những môn phái triết học vô thần, duy vật, chống lại uy thế kinh Veda và triết lý tôn
giáo Bàlamôn đều bị coi là những tư tưởng triết học không chính thống. Sự thống trị
khắc nghiệt về xó hội, chính trị, tư tưởng trên đó làm nảy sinh những mâu thuẫn sâu sắc
trong đời sống xó hội và tất yếu dẫn đến sự phản kháng của quần chúng lao động đũi
hỏi một sự tự do, công bằng, bỡnh đẳng xó hội. Đây chính là những nhu cầu của hiện
thực lịch sử làm xuất hiện các trường phái tư tưởng mới ở Ấn Độ trong thời kỳ này.
Cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến đỉnh cao. Thế giới quan Phật
giáo xuất hiện chính trong bối cảnh lịch sử trên với tư cách là một hệ tư tưởng phản đối
sự ngự trị của đạo Bàlamôn về chế độ đẳng cấp khắt khe, về học thuyết linh hồn bất tử
và thần tạo vật, phủ nhận uy thế của kinh Veda, bác bỏ uy quyền thần thánh, lý giải căn
nguyên của nỗi khổ và tỡm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè
nặng trong xó hội nô lệ Ấn Độ. Nó là sự khẳng định một đạo lý, một đường hướng cứu
khổ mới cho con người. Trong triết học Ấn Độ cổ đại, hệ thống triết học được chia ra
thành hai phái chính: phái triết học chính thống (Astika) thừa nhận uy thế tối cao của kinh
Veda, đạo Bàlamôn; Phật giáo thuộc phái triết học không chính thống (Nastika) bác bỏ uy
thế của kinh Veda và đạo Bàlamôn.
1.1.3. Vai trũ người sáng lập thế giới quan Phật giáo
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Thích ca Mâu ni
(Sakyamuni), có tên thật là Siddhartha (Tất Đạt Đa), họ Cồ Đàm (Gautama) vương tộc
Thích Ca (Sakya), là thái tử con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Mada, trị
vỡ một xứ nhỏ ở miền bắc Ấn Độ, trung lưu sông Hằng là Ca tỳ la vệ (Kapilavastu).
Ông sinh ngày 15- 4 (có sách ghi 8- 4) năm 563 tr.CN (Phật lịch cho là 544 tr.CN) tại
vườn Lumbini thuộc kinh thành Kapilavastu (hiện nay thuộc về nước NêPan).
Trong những kinh sách sau công nguyên thuật lại sự tích của Ngài cho
là Ngài sinh tại vườn Lumbili nay thuộc nước NêPan. Bà Mada mơ thấy một
con voi trắng đầu thai mà sinh ra Ngài. Ngài sinh ra từ nách mẹ, sinh ra bèn
đi 7 bước, một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói: Thiên thượng địa hạ duy ngó
độc tôn. Đây đều là những huyền thoại văn hoá dân gian nhằm đề cao Ngài là
một Siêu Nhân chứ không phải là một thực tế lịch sử [32, tr.7].
Theo tục lệ thời bấy giờ Ngài kết hôn rất sớm, vào năm 16 tuổi (hay 19), Ngài
kết hôn với một công chúa rất xinh đẹp, đức hạnh tên là Yasodhara (Daduđàla). Cuộc
sống giàu sang nơi cung đỡnh đó tạo cơ hội cho ông chăm lo việc học hành, lễ bái, yến
tiệc và giải trí. Vỡ vậy, Ngài không hay biết những gỡ đen tối, cực nhọc, bất hạnh diễn
ra ở ngoài xó hội. Sau 4 lần trực tiếp đi ra ngoài thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ
của kiếp người, Ngài noi gương các đạo sĩ, quyết tâm tỡm đường cứu khổ cho chúng
sinh. Năm 29 tuổi sau khi người con duy nhất Rahula (Lahầula) ra đời, Ngài từ bỏ cung
điện và trở thành một người khổ hạnh ra đi tỡm giải pháp ấy. Trong 6 năm trời, Ngài
lang thang khắp thung lũng sông Hằng (gần núi tuyết sơn), gặp những vị thầy danh
tiếng, học hỏi và theo những hệ thống, phương pháp của họ, khép mỡnh vào những kỷ
luật khổ hạnh khắt khe (mỗi ngày Tất Đạt Đa chỉ ăn một hạt vừng, rồi 7 ngày ăn một
lần, ăn hoa quả và ăn cỏ…). Nhưng Ngài không được thoả món với những lý thuyết và
thực hành ấy. Bởi thế, Ngài từ bỏ tất cả những tôn giáo cổ truyền và những phương
pháp của chúng, theo con đường của riêng Ngài. Ngài nhận thấy rằng, lối tu đó cũng
không giải thoát con người khỏi nỗi đau sinh, lóo, bệnh, tử. Theo Ngài, tu khổ hạnh hay
chủ trương khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý như nhau. Bằng sự kiên trỡ và
nhạy cảm về trí tuệ, cuối cùng Ngài đó phát hiện ra ra con đường “trung đạo”, một con
đường có thể dẫn đến sự giải thoát. Một hôm, sau khi xuống sông tắm, Ngài lên bờ thỡ
gặp một người con gái chăn bũ đem sữa đến dâng Ngài. Sau khi uống sữa, Ngài cảm
thấy thân tâm dần dần khôi phục khoẻ khoắn, sáng suốt. Ngài tới dưới gốc cây Bồ đề,
rải cỏ, hướng về phía Đông, thân thể trang nghiêm, một mối chính niệm, lặng yên suy
nghĩ, phát nguyện nhập thiền cho đến 49 ngày. Tương truyền sau 49 ngày đêm thỡ vào
nửa đêm Ngài tuyên bố đó đạt đến chân lý (giác ngộ), tỡm ra được con đường giải thoát
cho chúng sinh. Từ đấy Ngài được tôn xưng là đức Phật, “Người đó giác ngộ”. Năm ấy
Ngài 35 tuổi.
Sau khi giác ngộ, đức Phật đi khắp bốn phương thuyết giảng, truyền bá tư tưởng
của mỡnh cho chúng sinh ở Ấn Độ và các vùng lân cận, không phân biệt già trẻ, nam
nữ, màu da, chủng tộc,… không phân biệt giai cấp sang hèn. Rũng ró suốt 49 năm, đức
Phật không ngừng đem cái đạo diệt khổ, cứu nạn giảng giải cho tất cả mọi người (trên
82.000 cuộc thuyết pháp). Đức Phật nhập Niết bàn năm 80 tuổi (483tr.CN).
Phật Thích ca Mâu ni trong suốt quá trỡnh đi truyền đạo, không hề chép thành
sách giáo lý mà chỉ truyền khẩu lại. Đến khi đức Phật nhập diệt thỡ nhận thức giáo lý
của các đồ đệ không nhất trí. Cho nên đó diễn ra 4 lần kiết tập để ghi lại những lời mà
đức Phật thuyết pháp và lập ra các bộ kinh điển, chỉnh lý thống nhất giáo lý. Các cuộc
kiết tập ấy đó tranh cói những vấn đề trong giáo lý Phật, trong việc tu hành… Qua các
cuộc kiết tập đó cũng hỡnh thành kinh điển của Phật giáo gọi là Đại tạng kinh chia làm
ba bộ lớn: 1. Kinh tạng; 2. Luật tạng; 3. Luận tạng; Bốn cuộc kiết tập như sau:
Kiết tập lần thứ nhất, tổ chức sau khi Phật tịch diệt được một năm với 500 tỳ
kheo tham dự do Ca Diếp chủ trỡ và kéo dài bảy tháng. Ba tạng: kinh, luật, luận của đạo
Phật được khởi soạn từ đây, nhưng tất cả không được ghi bằng văn tự.
Kiết tập lần thứ hai, tiến hành sau lần kiết tập lần thứ nhất khoảng 100 năm do
Da Xá (Yasa) chủ trỡ với 700 tỳ kheo tham dự, kéo dài tám tháng. Nội dung chủ yếu
giải quyết những bất đồng về việc thực hành giới luật và việc luận giải kinh điển. Lần
kiết tập này mở đầu cho việc phân chia thành hai phái: Thượng tọa trưởng lóo bộ gồm
các tỳ kheo cao tuổi và Đại chúng bộ gồm các tỳ kheo trẻ tuổi (chiếm đa số).
Kiết tập lần thứ ba, được triệu tập khoảng 100 năm sau kiết tập lần thứ 2.
Khoảng năm 246 tr.CN vua A Dục (Asoka) đề xuất triệu tập 1000 tỳ kheo dưới sự chủ
toạ của Mục Kiền Liên Tử Đế Tu. Chủ đề kiết tập là phê phán ngoại đạo. Tương truyền
Đế Tu viết Luận sự hay có tư liệu cho là soạn 7 bộ kinh và cho là từ đây kinh Phật thành
văn. “Nhưng nói chung các nhà nghiên cứu cho là trong lần kiết tập này vẫn không có
văn bản” [32, tr.15]. Chính lần kiết tập này, các tăng đoàn được thành lập để bắt đầu
công việc truyền bá Phật giáo ra nước ngoài.
Kiết tập lần thứ tư, do vua Ca Nhị Sắc Ca (Kaniska) [78 - 120 hay 144 - 170 sau
công nguyên] khởi xướng. Có 500 A La Hán dự do Thế Hữu chủ trỡ. Chủ đề kiết tập là
luận giải Tam tạng, kết quả lần kiết tập này đó hoàn chỉnh Kinh điển của Phật giáo.
Đạo Phật với luật lệ, lễ nghi đơn giản, giáo lý sâu sắc, nêu lên khả năng chế ngự
dục vọng, vai trũ tự giải thoát của con người, sự bỡnh đẳng của con người với con
người… nên được đông đảo quần chúng tin theo. Sau khi Phật tịch diệt khoảng hai thế
kỷ, dưới thời vua A Dục, vào thế kỷ III tr.CN, Phật giáo đó lan rộng khắp Ấn Độ. Phật
giáo ở Ấn Độ tiếp tục phát triển cho đến thời vua Gúp Ta, sau đó Phật giáo không giữ
được vai trũ như trước nữa và dần dần phải nhường chỗ cho một tôn giáo mới: Ấn Độ
giáo - một tôn giáo kết hợp giữa đạo Bàlamôn và một số tín ngưỡng dân gian, trong đó
có một số yếu tố của Phật giáo. Từ thế kỷ thứ VIII trở đi, Hồi giáo xâm nhập vào Ấn Độ
làm cho Phật giáo bị suy tàn dần.
Tuy vậy, Phật giáo vẫn phát triển sang các nước ngoài Ấn Độ một cách nhanh
chóng theo hai hướng: xuống phía Nam (gồm các nước như Miama, Lào, Campuchia,
Nam Việt Nam…) gọi là Phật giáo Nam Tông (Tiểu thừa). Kinh điển chủ yếu ghi bằng
chữ Pali. Phái Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): tự tu, tự chứng, tự giác với phương châm “Hóy
làm ngọn đèn cho chính bản thân mỡnh”, thiên về cá nhân hơn, theo giáo lý nguyên
thuỷ, chỉ thờ Phật Thích ca Mâu ni; một hướng truyền lên phía bắc (gồm các nước:
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Bắc Việt Nam…) gọi là phái Bắc Tông (Đại thừa).
Kinh điển chủ yếu là bằng chữ Phạn. Phái Đại thừa quan niệm: tự giác, giác tha, tức là
không chỉ giác ngộ cho bản thân mỡnh mà cũn giác ngộ cho người khác, có tính xó hội
cao hơn, thờ Phật Thích ca Mâu ni và cả các vị Bồ Tát với cách thờ cúng khoa trương và
“đa nguyên”. Ngày nay, quá trỡnh giao lưu, hội nhập quốc tế được mở rộng, giao thông
thuận lợi và kinh điển được trao đổi ở khắp các nước nên sự chia rẽ giữa Bắc Tông và Nam
Tông không cũn được rừ ràng như trước nữa: trong Đại thừa vẫn có Tiểu thừa, trong Tiểu
thừa vẫn có Đại thừa.
Hiện nay, Phật giáo phát triển chủ yếu ở các nước châu Á, đạo Phật có tín đồ
chiếm số đông trong dân chúng như XriLan-ca, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia và
chiếm số lượng đáng kể ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, NêPan và Việt Nam.
Song, trong nửa thế kỷ gần đây, Phật giáo vượt ra khỏi châu Á, bắt rễ sang các nước
châu Âu và châu Mỹ.
Đó có trên một triệu tín đồ ở châu Mỹ, hơn một trăm nghỡn người ở
Ô-xtrây-li-a, hơn mười nghỡn người ở châu Phi và đặc biệt là khoảng ba
chục năm nay, lan rộng ở châu Âu, thu hút gần hai triệu tín đồ mới. Thống kê
tháng 10-2004 trên toàn thế giới, đạo Phật đang có khoảng 450 triệu tín đồ
[22, tr.67].
Ngày 15- 12- 1999 tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc phiên họp 54, mục 174 của
chương trỡnh nghị sự Liên Hợp Quốc đó chính thức thừa nhận và tổ chức Đại lễ Phật
đản hay cũn gọi là đại lễ Tam hợp (kỷ niệm đức Phật đản sinh, thành đạo và niết bàn,
thời gian tương đương với tháng 5 dương lịch). Từ năm 2000 được gọi là đại lễ Vesak
Liên Hợp Quốc như ngày lễ hội văn hoá tôn giáo thế giới của Liên Hợp Quốc tại trụ sở
Liên Hợp Quốc và các trung tâm Liên Hợp Quốc ở khu vực. Đại lễ tổ chức với sự cổ
suý của Liên Hợp Quốc nhằm tôn vinh những giá trị tư tưởng sâu sắc của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni về hoà bỡnh, hoà hợp, hoà giải, vị tha, nhân ái vốn đó có từ hơn 2500
năm trước và vẫn cũn nguyên giá trị trong thế giới ngày nay. Lần đầu tiên Việt Nam
được đăng cai tổ chức và chủ trỡ Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc lần thứ V - 2008 với
chủ đề chính: “Sự đóng góp của Phật giáo trong quá trỡnh xây dựng một xó hội công
bằng, dân chủ và văn minh” [1, tr.20].
1.2. NỘI DUNG THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
Trong quá trỡnh sống, con người bắt gặp hàng loạt vấn đề cần lý giải: Thế giới
quanh ta là gỡ? Bản chất của nó ra sao? Nó có bắt đầu và kết thúc hay không? Nó có tồn
tại thực không hay chỉ là ảo ảnh? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại biến đổi của nó? Con
người là gỡ? Nó được sinh ra như thế nào? Quan hệ của nó với thế giới bên ngoài ra
sao? Nó có thể biết gỡ và làm gỡ với thế giới đó? Vỡ sao có người tốt, kẻ xấu? Cuộc
sống con người có ý nghĩa gỡ?... Trả lời những câu hỏi này sẽ hỡnh thành ở con người
những quan điểm, quan niệm nhất định về thế giới cũng như về vị trí và vai trũ con
người trong thế giới; đó chính là thế giới quan. Vậy thế giới quan là gỡ?
Theo nghĩa hẹp, thế giới quan là quan niệm hay hệ thống quan niệm của con
người về thế giới. Quan niệm hay hệ thống quan niệm này cũng không phải nhất thành
bất biến mà thay đổi theo thời đại phụ thuộc vào mức độ hiểu biết và cải tạo giới tự
nhiên của con người. Nhưng thế giới không tách rời con người.
Theo nghĩa rộng, thế giới quan là hệ thống những quan niệm của con người về
thế giới; về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống của con
người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định; nghĩa là, thế giới quan cũn
bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con
người và loài người.
Trong Phật giáo, đặc biệt là đối với Phật giáo nguyên thuỷ, “khía cạnh vũ trụ quan,
thế giới quan có phần hơi mờ nhạt, trong khi đó khía cạnh nhân sinh quan lại khá rừ nét”
[27, tr.265]. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo nguyên thuỷ không lấy bản thể
luận làm chủ ý, mà vũ trụ quan (thế giới quan) lấy nhân sinh quan làm trung tâm. Tức là,
thế giới quan không tách rời nhân sinh quan, bởi lẽ khảo sát thế giới, nghiên cứu vũ trụ
mà tách rời khỏi con người thỡ đức Phật không chấp nhận. Tại sao lại có hiện tượng như
vậy?
Đức Phật không muốn bàn đến những vấn đề siêu hỡnh không cần thiết, hoàn
toàn thuộc địa hạt tư duy và phát sinh những vấn đề tưởng tượng. Ngài xem chúng như
một “hoang vu quan niệm” [56, tr.18]. Dường như chính trong số những môn đệ của
Phật cũng có người không thích thái độ này của Ngài. Trường hợp một trong những
người ấy là Malunkyaputta (Man - đồng tử) đến hỏi Ngài những vấn đề về siêu hỡnh
trừu tượng, chẳng hạn như vũ trụ trường tồn hay không trường tồn, nó là vô hạn hay
hữu hạn, linh hồn và thể xác là một hay khác nhau, Như lai sau khi chết có tồn tại hay
không tồn tại, hay nó vừa tồn tại vừa không tồn tại?... Những câu hỏi đó suốt đời, thậm
chí đến chết cũng không giải thích nổi, “Sự trả lời của đức Phật cho Malunkyaputta quả
đáng lợi ích cho hàng triệu người trên thế giới hiện nay đang phung phí thời giờ quý báu
vào những vấn đề siêu hỡnh và làm bận trí mỡnh một cách không cần thiết” [56, tr.19].
Nếu không sống cuộc đời tốt đẹp, chừng nào chưa giải thích được những câu hỏi đó thỡ
điều này cũng hệt như người bị thương vỡ một mũi tên thuốc độc, bạn bè thân thích đưa
một ông thầy giải phẫu đến, nhưng anh ta nói:
Ta sẽ không để cho rút mũi tên này ra trước khi biết ai làm ta bị
thương, hắn ở đẳng cấp nào, tên họ hắn là gỡ; hắn ta to, bé hay trung bỡnh;
hắn từ đâu tới; ta sẽ không cho rút mũi tên này ra trước khi biết nó là loại
cung nào, dây cung và mũi tên được làm bằng gỡ, đầu nhọn mũi tên được
làm như thế nào [27, tr.266].
Con người này sẽ chết đi mà không hề biết đến những điều đó. Từ đó đức Phật
cho cuộc sống thánh thiện, không phụ thuộc vào những câu hỏi đó. Chúng là vô ích,
không dẫn ta đến giải thoát. Như vậy, việc cấp bách là cứu khổ cũng giống như việc giải
phẫu lấy mũi tên thuốc độc cắm trên thân thể con người, chứ không phải những vấn đề
siêu hỡnh trừu tượng mà hết đời này sang đời khác cũng không giải quyết nổi. Vỡ thế,
Phật tổ không xây dựng đạo lý trên một cái nền cát lún của siêu hỡnh học, Ngài muốn
xây dựng đạo lý trên nền tảng vững chắc như đá núi của sự vật.
Trong khuôn khổ phạm vi của một luận văn thạc sĩ là có hạn, nên tác giả luận
văn nghiên cứu thế giới quan Phật giáo được hiểu theo nghĩa rộng về thế giới quan, tức là
cũn bao hàm cả nhân sinh quan. Tác giả luận văn nghiên cứu thế giới quan Phật giáo dưới
phương diện góc độ (lăng kính) triết học trên lát cắt ba nội dung chủ yếu là: về thế giới, về
con người và về cuộc đời con người.
1.2.1. Quan niệm về thế giới
Trước hết ta hóy xem cách khảo sát thế giới của đức Phật. Theo Phật, mọi sự vật,
hiện tượng đều phải xem xét đến cái chân tướng, cái thực tướng (gần với khái niệm bản
chất trong triết học) của chúng, phải gạt bỏ mọi mường tượng, tưởng tượng - nguyên
nhân dẫn đến nhận thức sai lầm; phải như thị kiến (Yathatatha) và như thực kiến
(Yathabhutam) (gần với khái niệm khách quan trong triết học). Tức là mọi sự vật hiện
tượng như thế nào thỡ quán đúng như thế, không thêm không bớt, không yêu không
ghét. Đây là điểm xuất phát vô cùng quan trọng để khảo sát, nhận thức thế giới.
Với cách khảo sát này, đức Phật đó phát hiện ra, mọi sự vật hiện tượng đều do
nhân duyên sinh, các pháp do nhân duyên sinh. Nhân duyên ở đây chỉ mối liên hệ, điều
kiện (có cái này thỡ có cái kia, cái này sinh thỡ cái kia sinh. Cái này không thỡ cái kia
không, cái này diệt thỡ cái kia diệt). Như vậy, đức Phật đó nhỡn ra mối liên hệ chằng
chịt lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Trên thế giới này càng không có sự vật gỡ tồn
tại độc lập tuyệt đối, tất cả mọi cái đều phải nương tựa vào nhau. Mọi sự vật hiện tượng
đều nằm trong mối liên hệ phức tạp đó, dù Phật có ra đời hay không ra đời, chúng vẫn là
như vậy, không thể khác được.
Từ cách nhỡn nhận đó, theo Phật, thế giới này về đại thể có hai yếu tố cơ bản là
danh và sắc. Khái niệm danh, sắc này có từ thời Upanishad để chỉ hiện tượng và cá thể.
Nhưng đến thời đức Phật nó được ngụ ý là yếu tố tinh thần và yếu tố vật chất, nó chính
là vật và tâm, vật chất và ý thức. Theo thuyết “Chư pháp nhân duyên sinh” thỡ hai cái
đó liên hệ mật thiết khăng khít với nhau, không tách rời nhau, không có cái này thỡ
cũng không có cái kia và ngược lại. Cụ thể tức là không có vật thỡ cũng không có tâm và
sở dĩ có vật là do có tâm, không có tâm thỡ vật là gỡ thỡ cũng không ai biết. Thậm chí là
ngay từ “vật” cũng do tâm đặt ra. Ta cứ thử hỡnh dung trên thế gian này không có tâm,
không có ý thức, tinh thần thỡ liệu có cái gọi là vật không. Cái gọi là thế giới chẳng qua
là thành lập trên quan hệ nhận thức giữa sáu căn và sáu cảnh, ngoài ra thế giới đối với
chúng ta không có một ý nghĩa nào khác vỡ không có chủ quan thỡ cũng không có
khách quan, mà không có khách quan thỡ cũng không có chủ quan. Ngoài quan hệ chủ
quan - khách quan ra cũng không có thế giới, cái gọi là hết thảy cũng chỉ được thành lập
trên quan hệ ấy. Như vậy, theo tinh thần Phật giáo, trong hai yếu tố vật và tâm thỡ tâm
đóng vai trũ chủ đạo trong việc thành lập thế giới. Tất cả các giá trị của thế giới đều
hoàn toàn do tâm con người tạo ra.
Vỡ mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh, thế giới quan Phật giáo cho
rằng thế giới này sinh ra không nhờ một đấng sáng tạo nào, không nhờ một phép mầu
nhiệm nào ở ngoài nó cả, mà chỉ do nhân quả nối tiếp nhau mà thành. Cái quả bây giờ là
do cái nhân ở trước, cái nhân ở trước lại do cái quả ở trước nữa; cứ như thế đi ngược lên
mói vô cùng tận. Cho nên, thế giới là vô thuỷ (không có khởi thuỷ, không có cái bắt
đầu). Bởi vậy, không nên đặt câu hỏi nguyên nhân đầu tiên của thế giới là gỡ cho thế
giới quan Phật giáo.
Theo các kinh Phật, vũ trụ hay pháp giới rộng lớn vô cùng. Thế giới mà chúng ta
đang ở không phải chỉ có một duy nhất mà nhiều như cát sông Hằng. Cứ một nghỡn thế
giới thu nhỏ hợp thành một Tiểu thiên thế giới; một nghỡn Tiểu thiên thế giới hợp thành
một Trung thiên thế giới; một nghỡn Trung thiên thế giới hợp thành một Đại thiên thế
giới. Mà vũ trụ gồm vô số Đại thiên thế giới. Mỗi thế giới đều trải qua bốn thời kỳ:
thành, trụ, hoại, không. Mỗi thời kỳ có khoảng 20 tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp, tuỳ theo các
sách khác nhau, có sách cho vào khoảng 16 triệu năm. Nhưng vỡ vũ trụ có không biết
bao nhiêu thế giới nên rất có thể sự thành, trụ của thế giới này lại là sự hoại, không của
thế giới khác và ngược lại.
Trong Phật giáo cũn có khái niệm tam giới bao gồm:
1. Dục giới: nơi lũng dục thịnh
2. Sắc giới: dục tuy không thịnh nhưng chưa hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói buộc
của vật chất.
3. Vô sắc giới: hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói buộc của vật chất, chỉ có tinh thần.
Theo Kimura Taiken, tam giới của nhà Phật được sinh ra từ trạng thái tinh thần
trong các giai đoạn thiền định. Dục giới lấy núi Tu Di làm trung tâm. Xung quanh núi
Tu Di là cửu sơn (Trỡ song, Trỡ trục, Diêm mộc, Thiên kiến, Mó nhĩ, Tượng nhĩ, Trỡ
sơn, Thiết luân), Bát hải. Giữa Trỡ song và Thiết luân có 4 châu.
1. Nam là Diêm phù đề châu
2. Đông là Đông thắng thần châu
3. Bắc là Bắc câu lư châu
4. Tây là Tây ngưu hoá châu
Chúng ta đang ở châu Diêm phù đề. Trên núi Tu Di có thần Dạ Xoa, Tứ Thiên
vương, Kim cương Thủ và Trời Đạo Lợi, tầng thứ 33 có chủ nhân là Đế Thích.
Phật giáo cũn có khái niệm Lục đại bao gồm:
1. Địa ngục: có 8 đại địa ngục ở nơi tận cùng thế giới hay dưới Diêm phù đề
châu.
2. Ngạ quỷ: kể cả Diêm Ma, Quỷ thần, Dạ xoa
3. Súc sinh
4. Atula (dưới đáy biển)
5. Nhân gian (có 4 châu nói trên)
6. Thiên (Trời)
Thời gian ở những cảnh giới khác nhau thỡ cũng khác nhau. Một ngày ở Tứ
Thiên Vương bằng 50 năm của chúng ta. Một ngày ở Đạo Lợi Thiên bằng 100 năm
chúng ta. Một ngày ở Đẳng hoạt địa ngục bằng 100 năm ở Tứ Thiên Vương...
Theo cuốn Phật học phổ thông, Thích Thiện Hoa trong phần về thế giới quan (vũ
trụ quan) Phật giáo đó tổng kết bằng hai câu hỏi:
- Thực tại, thật tướng của vũ trụ là gỡ? Trả lời câu hỏi này ta có Thật tướng luận.
- Sau khi hỡnh thành, vũ trụ biến chuyển như thế nào, sự chuyển biến có nguyên
do từ đâu ? Để trả lời câu hỏi này ta có Duyên khởi luận.
* Thật tướng luận: Nó cho rằng thực thể, thực tướng của vũ trụ là Chân như.
Chân như là thực thể không biến đổi, không sinh diệt, không cũn mất, vô thuỷ vô
chung, sáng suốt vô hạn. Tuỳ theo từng trường hợp mà Chân như được gọi bằng những
tên khác nhau như Chân tâm, Viên giác, Phật tính, Pháp tính, Giác tính, Như như, Pháp
thân,... Cho nên thật khó mà kể hết những danh từ khái niệm để chỉ Chân như. Nhưng
dù có kể hết, thỡ cũng chỉ là những danh từ khái niệm, chứ không phải Chân như. Chỉ
có ai giác ngộ thỡ mới trực nhận, thể nhập, thể chứng được nó. Ngôn ngữ, văn tự chỉ có
thể mô tả được hiện tượng giới, cũn khi trỡnh bày về thực tướng, bản thể thỡ nó trở nên
bất lực. Bởi vậy, thái độ đúng đắn nhất để trực nhận bản thể chân như là im lặng (vô
ngôn). Đó cũng là thái độ của đức Phật khi chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề, khi các môn
đồ hỏi ngài về những vấn đề siêu hỡnh trừu tượng.
Nhưng nếu không nói gỡ thỡ làm sao cứu độ được chúng sinh, làm sao đưa con
người đến bến bờ giác. Cuối cùng đức Phật lại phải nói. Nhưng khi nói đến cái điểm
khó nói nhất - bản thể chân như thỡ Ngài không thể dùng lối nói thông thường được. Do
đó ta thấy trong Kinh Phật có những câu nói mà ta có cảm giác vô cùng phi lý, gàn dở,
đầy mâu thuẫn. Chẳng hạn, ta hóy nghe bài kệ mà đức Phật phó chúc cho Ca Diếp:
Pháp bản pháp vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp
Hay những câu nói như: cũng có cũng không, không có không không, bất thường
bất đoạn, phi nhất phi nhị, vô trọc vô thanh, phi tiền phi hậu,... Mặc dù nói như thế
nhưng đức Phật vẫn sợ người đời chấp vào những câu nói đó, nên Ngài lại phải nói
thêm rằng chân lý như mặt trăng, giáo lý của ta như ngón tay chỉ mặt trăng; rằng Như
Lai suốt đời chưa hề nói một chữ. Theo Ngài, y theo kinh điển mà giải thích thỡ oan cho
Tam thế chư phật, nhưng lỡa kinh điển ra một chữ thỡ lại đồng với ma thuyết.
* Duyên khởi luận (nói về nguyên nhân hay lý do sinh khởi thế giới). Duyên
khởi luận trong thế giới Phật giáo có nhiều thuyết khác nhau, cũng giống như Thích
Thiện Hoa, trong cuốn Triết học Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Duy Hinh viết:
Phan Văn Hùm viết cuốn Phật giáo triết học mà bản in lần thứ 3 là
năm 1943, năm 1953 tái bản năm 1943. Phan Văn Hùm viết: Duyên khởi
luận trong Phật giáo có nhiều thuyết. Thuyết thứ 1 là Nghiệp cảm duyên
khởi. Thuyết thứ 2 là A lại da duyên khởi. Thuyết thứ 3 là Chân Như duyên
khởi. Thuyết thứ 4 là Pháp giới duyên khởi. Thuyết thứ 5 là Lục đại duyên
khởi [32, tr.33].
+ Nghiệp cảm duyên khởi. Đây là học thuyết có từ thế giới Phật giáo nguyên
thuỷ, rút ra từ Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên. Tứ diệu đế cho rằng vỡ mê vọng (vô
minh) nên có hành động sai lầm từ đó phải chịu khổ. Vũng nhân quả này cứ tiếp tục mói
tạo ra chính báo (thân ta) và y báo (cảnh bên ngoài). Cảnh sở dĩ có là có một cách tương
đối với thân ta. Khi nghiệp nhân biến đổi thỡ nghiệp quả cũng biến đổi, do đó chính báo
và y báo cũng biến đổi theo. Khi đào tạo nghiệp nhân làm người thỡ đời sau đầu thai lại
làm người chính báo (thân người), y báo (cảnh) vẫn như người đó nhận thấy. Nhưng
nếu tạo nghiệp dữ thỡ chính báo đời sau có thể có thể là loài súc sinh hay ngạ quỷ
(chẳng hạn con bũ) và y báo - thế giới xung quanh (dưới mắt con bũ) cũng không cũn
giống như cảnh giới đối với người (dưới mắt con người), nghĩa là vũ trụ vạn hữu biến
đổi theo tầm mắt và sự hiểu biết của các loài.
Nghiệp cảm nghĩa là nghiệp thế nào thỡ cảm thọ cái thân và cảnh như thế ấy. Do
nghiệp mà có thân và cảnh. Thân cảnh tốt xấu là do nghiệp lành dữ. Nhưng cũn nghiệp
là cũn hiện tượng giới:
Sự hành vi của chúng ta hàng ngày, sinh ra Tam nghiệp (thân nghiệp,
khẩu nghiệp, ý nghiệp) - Tam nghiệp cứ lớp trước tàn lớp sau nối, liên liên
như những khoen dây xích. Thân tâm ta bởi đó mà tiếp dẫn với chủ quan giới
và khách quan giới. Ấy gọi là Nghiệp cảm duyên khởi [32, tr.34].
Cho nên, dứt trừ được nghiệp là trở về với Chân Như, Niết bàn. Như vậy, nghiệp
(do mê hoặc, vô minh mà có) - nguyên nhân xuất hiện con người và thế giới hiện tượng,
do đó muốn giải thoát phải diệt nghiệp.
+ Alaida duyên khởi. Là của phái Duy thức (Du già phái, Pháp Tướng tông)
theo Du già sư địa luận và Nhiếp Đại Thừa luận của Vô Trước ( khoảng thế kỷ IV-V
sau công nguyên). Thuyết này cho rằng sau khi chết, ngũ uẩn tan ra, Nghiệp lực dẫn dắt
đi đầu thai. Nhưng nghiệp dẫn dắt cái gỡ? Lục thức, ý thức sinh diệt vô thường. Bởi
vậy, Đại thừa sơ khởi bổ sung thêm hai thức nữa là Manas (mạt la thức) và Alaya (A lại
da thức).
Manas - chủ thấy biết, tự nhận có cái ngó giữ gỡn nó. Nhưng làm sao giữ được
cái giả ngó trong lúc ngũ uẩn, lục thức đều sinh diệt vô thường. Vậy dưới Manas tất
phải có một cái thức khác thường tại, chùm chứa mầm mống, chủng tử của các pháp.
Đó chính là Alaya (Tạng thức) mà công năng của nó là thu nhiếp và sinh khởi các pháp.
Gây nghiệp tức ghi tất cả những hành động, cử chỉ, hành vi, lời nói, suy nghĩ,... chủng
tử dồn chứa vào Tạng thức, đủ nhân duyên thỡ những chủng tử (mầm mống) đó phát ra
hiển lộ (chẳng hạn, người có mầm tham, không có điều kiện ăn trộm cứ tưởng mỡnh là
lương thiện, người có mầm ngoại tỡnh, không có điều kiện cứ tưởng mỡnh là chung
thuỷ). Khi thân thể xuất hiện, Alaya đó bao hàm mầm của vạn pháp (vạn vật). Thế giới
bên ngoài thiên sai vạn biệt là do Alaya tác động mà ra. Như vậy, Alaya là cái căn bản
của hiện tượng giới, từ vô thuỷ nó đó bao chùm chủng tử. Chủng tử và hiện tượng giới
làm nhân quả cho nhau mói làm hiển hiện vạn hữu và nền móng qua bao kiếp nhân quả
luân hồi.
Alaya - nền móng của nhân quả luân hồi, căn nguyên của giải thoát vỡ trong
Alaya có cả chủng tử hữu lậu và vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống phát sinh
thiên sai vạn biệt, tức hiện tượng giới; cũn chủng tử vô lậu là những hạt giống không để
tâm vọng động; Do mầm (hữu lậu) làm phát sinh ra thế giới hiện tượng, muốn giải thoát
thỡ phải làm sinh sôi nhiều mầm (vô lậu).
+ Chân như duyên khởi. Thuyết này theo kinh Lăng Già, kinh Đại Bát Niết
Bàn, kinh Đại Thừa khởi tín luận thuộc thời kỳ Đại Thừa (khoảng đầu công nguyên).
Cho rằng, Chân như cũng là chân tâm. Đại thừa cho rằng chân như (chân tâm) tuỳ
duyên sinh ra muôn pháp (nhất thiết duy tâm tạo). Tâm bao gồm tất cả và gồm hai
phương diện: về phương diện động thỡ tâm là cái cửa của sinh diệt; về phương diện tịnh
thỡ tâm là cái cửa của chân như.
Chân như (chân tâm) vốn thường trụ, bất động nhưng do vô minh (vọng niệm) ấy
mà thấy có chủ - khách, tha - ngó, có vũ trụ, vạn hữu. Vạn hữu không phải ngoài tâm
mà tồn tại được. Ở đây Tâm dụ cho biển, Chân như dụ cho nước, Vạn tượng dụ cho
sóng. Chúng sinh vỡ vô minh che lấp nên chỉ thấy sóng. Như vậy, Tâm gồm có Chân
như và Vạn tượng: tịnh là Chân như, động là Vạn tượng. Động, tịnh không rời nhau,
không cùng là một, nhưng cũng không phải là khác nhau. Đó là hai phương diện của
tâm, “tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên”. Tịnh (chân như) đi đến động (sinh diệt)
và ngược lại là giải thoát.
+ Lục đại duyên khởi. Đây là chủ trương của Chân ngôn hay Mật tông. Lục đại
gồm địa, thuỷ, hoả, phong, không và thức. Sáu đại này đều dung thông nhau và tuỳ
duyên sinh khởi ra vũ trụ, vạn hữu. Năm đại trước thuộc về sắc pháp (vật), đại thứ sáu
thuộc về tâm pháp (tâm). Vật và tâm không tách rời nhau, chúng là hai phương diện của
một bản thể nhất như. Ta có ở đây là do sự kết hợp của lục đại. Mà lục đại tan ró ra thỡ
ta không cũn. Cũn mất chẳng qua chỉ là sự hợp tan của lục đại. Vạn vật, vũ trụ cũng
vậy. Vũ trụ là sự hoạt động không ngừng của lục đại. Chân như là bản thể của lục đại
mà lý trí của ta trừu tượng hoá chứ cũn thực ra chân như và lục đại; bản thể và hiện
tượng không tách rời nhau.
+ Pháp giới duyên khởi. Thuyết này theo kinh Hoa Nghiêm và Hoa Nghiêm
Tông, Kinh Hoa Nghiêm thuộc đầu công nguyên, nhưng Hoa Nghiêm Tông thỡ do Đỗ
Thuận lập vào đầu thế kỷ thứ VIII. Cho rằng pháp giới (tức vũ trụ, vạn hữu) là một duyên
khởi lớn tức là các pháp làm nhân duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung thông
nhau mà thành lập. Do pháp này dung thông nhau, cùng nhau làm duyên khởi, mỗi lớp mỗi
lớp không tận cùng cho nên cũn gọi là vô tận duyên khởi hay trùng trùng duyên khởi.
Như vậy, vũ trụ vạn hữu là một cuộc đại hoạt động của hiện tượng, từ vô thuỷ
đến vô chung, nối tiếp và tràn lan vô cùng tận, như những đợt sóng. Vỡ có hoạt động
nên mới có sinh diệt chuyển biến. Nếu không có hoạt động thỡ không có chuyển biến,
tức không có vạn tượng, không có vũ trụ.
Trong tư tưởng triết học Phật giáo, quan điểm về cách nhỡn nhận thế giới bên
ngoài có quan niệm về vô thường, vô ngó:
+ Vô thường: tức là mọi cái không thường hằng, có sinh có diệt, biến đổi, trôi
chảy không ngừng, không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn, có sống tất phải có chết. Sự
biến đổi rừ theo chu kỳ “thành - trụ - hoại - không” hay “sinh - trụ - dị - diệt”. Chính
vỡ thế Phật giáo đó đi đến khái niệm vô ngó.
+ Vô ngó: tức là không có cái tôi, cái ta, Phật nhỡn ra thế giới bên ngoài là mờ
mờ - ảo ảo, hư hư - thực thực, có có - không không.
Chính từ hai quan niệm về vô thường, vô ngó mà thế giới quan Phật giáo nhỡn sự vật
hiện tượng thế giới bên ngoài chỉ là ảo ảnh, giả tướng, có đấy nhưng không thực.
1.2.2. Quan niệm về con người
Quan niệm của thế giới quan Phật giáo về con người chủ yếu tập trung ở học
thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh (tức nghiệp, luân hồi)
(Karma - Samsara). Nó chứa đựng những yếu tố duy vật và biện chứng, khi cho rằng
vạn vật trong vũ trụ này không do một vị thần, một lực lượng siêu nhiên nào sáng tạo ra.
Thế giới quan Phật giáo phủ định quan điểm con người là sản phẩm của Barhman (Tinh
thần sáng tạo tối cao)
1.2.2.1. Quan niệm về cấu tạo con người
Về cấu tạo hay các yếu tố hỡnh thành nên con người, thế giới quan Phật giáo có
mấy thuyết sau :
- Thuyết Danh - Sắc: Thực ra danh - sắc có từ thời Upanisad. Nhưng đến thời
đức Phật thỡ danh chỉ yếu tố tinh thần, cũn sắc chỉ yếu tố vật chất. Do vậy, theo thuyết
Danh - Sắc, con người được cấu tạo bởi hai yếu tố đó là vật chất và tinh thần.
- Thuyết Lục đại: Thuyết này cho rằng con người được cấu tạo bởi sáu yếu tố
(lục đại), bao gồm:
1/ Địa (đất, xương thịt).
2/ Thuỷ (nước, máu, chất lỏng).
3/ Hoả (lửa, nhiệt khí).
4/ Phong (gió, hô hấp).
5/ Không (các lỗ trống trong cơ thể).
6/ Thức (ý thức, tinh thần).
Trong sáu yếu tố trên thỡ năm yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có yếu tố thứ sáu
là thuộc về tinh thần. Nếu thuyết Danh - Sắc, cấu tạo con người nhỡn chung có sự cân
bằng vật chất và tinh thần, thỡ thuyết Lục đại, cấu tạo của con người lại nghiêng về vật
chất. Và thuyết Ngũ uẩn dưới đây, thỡ cấu tạo con người nghiêng về tinh thần.
- Thuyết Ngũ uẩn: thuyết này cho rằng con người được cấu tạo bởi năm yếu tố
(ngũ uẩn) như sau:
1/ Sắc: vật chất, bao gồm tứ đại (địa, thuỷ, hoả, phong).
2/ Thụ: những cái chỉ cảm tỡnh, tỡnh cảm, cảm giác, biết do cảm mà biết. Nó hơi
nghiêng về tỡnh.
3/ Tưởng: đó là biểu tượng, tưởng tượng, tri giác, ký ức, trí.
4/ Hành: đó là ý chí, những yếu tố khiến cho tâm hoạt động, ý.
5/ Thức: ý thức, cái biết phân biệt.
Trong các học thuyết cấu tạo về con người của thế giới quan Phật giáo thỡ thuyết
Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả.
1.2.2.2. Quan niệm về thân thể con người
Từ quan niệm vô thường mà thế giới quan Phật giáo cho rằng con người là sự kết
hợp động của những yếu tố động (chẳng hạn như ngũ uẩn) nên không có gỡ định hỡnh có
thể gọi là nó được, và suy cho cùng nó là vô ngó. Với cách nhỡn vậy, mọi sự vật, hiện
tượng chỉ là giả danh, không thực; con người chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn mà thành nên nó
là hư vọng, huyễn hoá. Đủ nhân duyên hợp lại thỡ gọi là sống, hết duyên tan ra gọi là chết.
Sống chết chỉ là giả hợp tan của ngũ uẩn. Vô thường mà tưởng là thường, vô ngó mà tưởng
là có ngó, đó là mê lầm lớn nhất của con người. Và cũng chính cái mê lầm (vô minh) ấy mà
con người lại càng đau khổ. Điều này thế giới quan Phật giáo quá nhấn mạnh động mà bỏ
qua cái tĩnh, không thấy được quan niệm đúng đắn về sự thống nhất biện chứng giữa vận
động và đứng im tương đối. Triết học Mác - Lênin khẳng định tính biện chứng và duy vật
về sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng, thừa nhận rằng: “Quá trỡnh vận động không ngừng
của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà cũn bao hàm trong nó hiện tượng đứng
im... đứng im cũn được biểu hiện như một quá trỡnh vận động trong phạm vi chất của sự
vật cũn ổn định, chưa thay đổi” [4, tr.160]. Từ đó, thế giới quan Phật giáo dễ dẫn đến tư
tưởng bi quan, buông xuôi của con người. Đây là điểm mấu chốt của sự chuyển hoá lập
trường duy vật, vô thần về thế giới, về con người sang lập trường duy tâm trong quan niệm
về cuộc đời con người trong thế giới quan Phật giáo.
Chính vỡ thế, thế giới quan Phật giáo cho rằng thân là gốc của khổ (thân vi khổ
bản). Nếu không có thân thỡ nóng giận, sợ sệt, dâm dục,... từ đâu mà tới được. Tiểu
thừa cho thân thể con người là bất tịnh, nó được kết cấu bởi những chất nhơ nhớp, ô uế.
Mọi đau khổ ở thế gian như đói khát, nóng lạnh, mỏi mệt, sinh, lóo, bệnh, tử đều ở nơi
thân thể. Mọi sự vật, hiện tượng đều vô thường nên thân thể con người cũng nằm trong
quy luật đó, nó cũng vô thường, mới nay thấy trẻ mà mai đó thấy già. Do đó, thế giới
quan Phật chỉ tập trung lý giải con người hướng vào cái tâm bên trong (hướng nội), tỡm
cách giải thoát con người chủ yếu trong tâm linh, phần nào đó xao nhóng cuộc sống bên
ngoài, ít quan tâm đến xó hội, khoa học - kỹ thuật, lao động sản xuất, đấu tranh giai cấp.
1.2.2.3. Quan niệm về sự xuất hiện của con người
Tại sao người này hay người kia lại xuất hiện trên thế gian này? Họ xuất hiện để
làm gỡ?
Theo thế giới quan Phật giáo, con người xuất hiện là do nghiệp (Karma). Nghiệp
là gỡ? Nghiệp là luật vô hỡnh giống như nghiện. Con người mỗi ngày hút hít một tí dần
dần thành nghiện. Nghiệp cũng vậy, tất cả những hành động, cử chỉ, hành vi, suy nghĩ
của con người mỗi ngày tích luỹ một chút, dần hỡnh thành luật vô hỡnh - nghiệp.
Nhưng trong từng sátna (đơn vị thời gian bé nhất của thế giới quan Phật giáo), các yếu
tố đều biến đổi, bởi vậy nghiệp cũn có chức năng kết dính, kết hợp, sắp xếp các yếu tố
mới lại, hỡnh thành một sinh linh mới trong khoảnh khắc đó, thay thế cho các yếu tố cũ
đó bị giải thể.
Khi cũn nghiệp, con người lại phải quay lại để trả giá cho những hành động,
hành vi, cử chỉ, suy nghĩ ở kiếp trước, tức lại phải luân hồi. Gieo nhân nào thỡ gặt quả
ấy, ác giả ác báo vần xoay. Hại nhân nhân hại, xưa nay lẽ thường; Luân như là bánh xe,
Hồi là quay trở lại. Luân hồi giống như sự biến hoá của con tằm (con nhộng) từ con
trùng nhỏ, sau đó con nhộng này lại biến thành con ngài (con bướm). Nhỡn bề ngoài,
chúng khác nhau, nhưng thực ra chúng là một. Bản chất chúng sinh là khác nhau, khác
nhau do nghiệp. Tự mỡnh gây nghiệp, tự mỡnh gánh hậu quả. Cái đó không chỉ bắt đầu
ở kiếp này mà cũn từ không biết bao nhiêu kiếp trước. Quan niệm nghiệp báo - luân hồi
(Karma- Samsara) là cơ sở cho nhân sinh quan của người Ấn Độ cổ.
1.2.3. Quan niệm về cuộc đời con người
Toàn bộ quan niệm về cuộc đời con người trong thế giới quan Phật giáo được tập
trung nhất ở Tứ diệu đế - cơ sở, nền tảng của lâu đài Phật giáo.
1.2.3.1. Khổ đế
Theo tiếng Phạn thỡ Khổ đế là Dukkha, tiếng Pali là Duhkha. Nội dung của khổ đế
nói rằng đời là khổ, tồn tại là khổ: “Đời là bể khổ, đời là cả chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn
phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước
mắt chúng sinh mặn hơn nước biển” [36, tr.12]. Đó là một tiền đề, một lát cắt mà mà thế
giới quan Phật giáo nhỡn cuộc đời. Chữ Dukkha thực ra được cấu tạo bởi hai từ Du là khó
và Kha là chịu. Như vậy nghĩa của Dukkha là khó chịu, bứt dứt, dày vũ, đau đớn, khổ cực,
buồn phiền,... Phật cho rằng cái làm cho tâm hồn buồn phiền gọi là khổ. Nghĩa của Dukkha
rất rộng, lâu nay ta chỉ nói gọn lỏn là khổ, làm cho Phật giáo có vẻ bi quan.
Trong cuốn “Tư tưởng Phật học” của Walpola Rahula (bản dịch Thích Nữ Trí
Hải - 1974) cho rằng: “Phật giáo không bi quan, cũng không lạc quan” [56, tr.26]. Nếu
cần đánh giá nó, cần một tính từ cho nó, thỡ tính từ đó là thực tế mới thích hợp. Cách
nhỡn của nó đối với cuộc đời và thế giới là tuyệt đối thực tế. Thế giới quan Phật giáo
nhỡn nhận sự vật một cách khách quan. Nó không tỡm cách ru ngủ chúng ta bằng ảo
ảnh, như chúng ta đang sống trong một cung điện lừa phỉnh. Nó cũng không làm chúng
ta hói hùng thất vía với đủ mọi thứ sợ hói tưởng tượng và đủ mọi tội lỗi. Nó nói một
cách khách quan (chân thật) về hiện trạng của chúng ta và của thế giới chung quanh ta
là gỡ? Và chỉ cho chúng ta con đường đưa đến tự do tuyệt đối, sự yên bỡnh thanh thản
và hạnh phúc.
Một thầy thuốc có thể thổi phồng quá đáng về một căn bệnh và từ bỏ
hy vọng chữa trị. Một thầy thuốc khác, trái lại, có thể quả quyết do ngu dốt
rằng chẳng có bệnh tật gỡ và chẳng cần phải chữa trị gỡ, đánh lừa con bệnh
của mỡnh bằng những lời cam đoan sai lạc. Có thể gọi người thứ nhất là bi
quan và người thứ hai là lạc quan. Cả hai đều nguy hiểm như nhau. Nhưng
một thầy thuốc thứ ba có thể làm một chẩn đoán đúng, hiểu được nguyên
nhân và bản tính căn bệnh, nhỡn thấy rừ ràng căn bệnh ấy có thể chữa được;
ông ta sử dụng một cách táo bạo phương thuốc thích hợp và cứu được con
bệnh của mỡnh. Phật giống với thầy thuốc này. Phật là bác sĩ đầy trí năng và
thông tuệ chữa trị những điều xấu nhất trên đời [57, tr.49].
Vậy, nội dung của khổ gồm những gỡ? Trong thế giới quan Phật giáo có nhiều
cách phân loại khổ: nhị khổ, tam khổ, tứ khổ, ngũ khổ, bát khổ,...
Nhị khổ gồm:
1. Nội khổ: 404 loại bệnh tật là thân khổ; buồn phiền ghen ghét là tâm khổ. Hợp
hai loại khổ đó gọi là Nội khổ.
2. Ngoại khổ: một là bị giặc ác, hổ lang làm hại, hai là gặp tai nạn mưa gió nóng
lạnh. Hợp hai loại khổ đó gọi là ngoại khổ
Tam khổ gồm:
1. Khổ khổ là nỗi khổ do nóng lạnh đói khát sinh ra.
2. Hoại khổ là nỗi khổ trong cảnh vui nhưng đến lúc tàn hoại thỡ sinh ra khổ.
3. Hành khổ là nỗi khổ của hết thảy các pháp hữu vi, vô thường biến động.
Tứ khổ gồm: sinh, lóo, bệnh, tử.
Ngũ khổ gồm:
1. Nỗi khổ sinh lóo bệnh tử (hợp bốn khổ thành một khổ).
2. Nỗi khổ do yêu nhau mà phải xa cách nhau (ái biệt ly khổ).
3. Nỗi khổ vỡ mỡnh phải gần gũi với người mà mỡnh oán ghét (oán tăng hội
khổ).
4. Nỗi khổ do cầu mà không được (cầu bất đắc khổ).
5. Thân và tâm phải chịu hết thảy những nỗi khổ. Đó là do sự kết hợp của các
yếu tố sắc, thụ, tưởng, hành, thức làm cho con người phải chịu hết nỗi khổ này đến nỗi
khổ khác (ngũ thụ uẩn khổ).
Bát khổ gồm: sinh, lóo, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc và ngũ thụ
uẩn.
Cái khổ cũn nói lên quan điểm của đức Phật đối với cuộc đời và thế giới, lại
mang một ý nghĩa triết lý sâu rộng hơn nhiều, nó cũn bao hàm, chỉ sự không hoàn thiện,
vô thường, xung đột, trống rỗng, không bản chất. Vỡ thế rất khó tỡm một từ ôm trùm hết tất
cả những gỡ được chứa đựng ở thuật ngữ dukkha. Theo Walpola Rahula cho rằng không
nên dịch từ dukkhha thỡ tốt hơn vỡ khi dịch dễ làm sai lạc và thường chỉ lấy một nghĩa là
đau khổ hay nóo khổ.
Hạnh phúc và đau khổ chỉ là tương đối. Cuộc sống không thể chỉ có hạnh phúc
hay đau khổ. Phật không phủ nhận những hạnh phúc mà người ta gặp trong đời như
hạnh phúc của đời sống gia đỡnh, đời sống cô độc, của các khoái cảm, của sự từ bỏ, của
sự gắn bó, phân ly, hạnh phúc thể chất và hạnh phúc tinh thần. Tất cả các cái đó suy cho
cùng đều nằm trong dukkha. Thậm chí những trạng thái tinh thần thuần khiết nhất (tĩnh
tâm) trong quá trỡnh thiền định vẫn cũn nằm trong dukkha. Như vậy, dukkha ở đây
không phải khổ theo nghĩa thông thường, mà nó chỉ những gỡ vô thường. Phật nói: “tất
cả những gỡ vô thường là dukkha” [57, tr.51].
Nhưng dukkha cũn được hiểu như trạng thái bị qui định (Samkhàra - dukkha), đó
mới là khía cạnh triết học quan trọng. Con người (thực thể) bị qui định, ràng buộc bởi
sắc (vật chất), thụ (tỡnh cảm), tưởng (trí), hành (ý) và thức, bởi sự kết hợp giữa chúng.
Các yếu tố đó là vô thường. Sự kết hợp những cái vô thường lại càng vô thường. Bởi
vậy, ngũ uẩn là khổ, con người, cuộc đời con người là khổ. Ngũ uẩn suy cho cùng là
không có tự tính. Sự hỡnh thành con người suy cho cùng cũng chỉ là giả hợp của ngũ
uẩn, là ảo ảnh.
Tóm lại, dukkha có thể được xem xét từ ba quan điểm khác nhau:
1. Nó chỉ sự đau khổ thông thường.
2. Nó chỉ sự đau khổ do thay đổi (vô thường) gây nên.
3. Nó như là một trạng thái bị qui định.
Nói về đau khổ nhưng cuộc đời đức Phật không phải là cuộc đời u buồn, sầu nóo
như một số người cố tưởng tượng một cách sai lầm. Ngược lại, Ngài cũng như đệ tử
đích thực của Ngài có vẻ là những người sung sướng nhất vỡ họ không sợ hói, không lo
âu, họ bao giờ cũng tĩnh tâm, cũng thanh thản. Không một đảo lộn nào, không một tai
ương nào có thể làm rối họ. Phật không bao giờ u buồn hay sầu thảm. Cứ nhỡn lên mặt
ngài lúc nào cũng bỡnh tĩnh, thanh thản, luôn mỉm cười, rạng rỡ, hạnh phúc, hài lũng,...
chúng ta sẽ rừ. Thậm chí những người đau khổ đầy trái ngang cứ nhỡn lên mặt Ngài
cũng cảm thấy nỗi đau khổ của mỡnh có phần được vơi đi.
Trong hội hoạ, điêu khắc Phật giáo, không bao giờ khám phá ở đức Phật một
dấu vết đau khổ, buồn bó hay sầu nóo cả. Nghệ thuật, kiến trúc và những ngôi chùa
không bao giờ tượng trưng cho sự u buồn, mà nó tượng trưng cho cho sự trong
sạch, yên tĩnh, thanh thản. Dù cuộc đời chứa đựng đau khổ nhưng người Phật tử
không vỡ thế mà u buồn, bực mỡnh, sốt ruột. một trong những tệ xấu đầu tiên trong
cuộc đời, theo thế giới quan Phật giáo, là sự chán ghét hay căm thù. Chán ghét là
sự biến thái của sự ác tâm đối với sinh linh trước đau khổ, nó cũng là đau khổ vỡ
nó tạo ra cơ sở cho trạng thái bất hạnh, một hành vi xấu xa. Vỡ thế, sốt ruột, bực
bội, chán ghét chỉ làm tăng mối u sầu, làm cho hoàn cảnh vốn đó nặng nề càng
nặng nề hơn. Chúng ta cần phải tránh những cái đó, hiểu được đau khổ, nguyên
nhân và cách trừ bỏ đau khổ với tinh thần kiên nhẫn, thông minh, quyết tâm, đầy
nghị lực.
Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân của nó. Tự mỡnh làm, tự mỡnh chịu. Sự thực
cái khổ này vừa là để trả quả, vừa là để tạo nhân, bởi vậy nó có ý nghĩa và giá trị của nó.
í nghĩa của nó ở chỗ làm cho người ta cố gắng vươn lên sống tốt, sống thiện để sau này
đỡ gặp lại nó. Giá trị ở chỗ nó là chỗ thử thách con người, trong khổ đau mới thấy rừ
phẩm giá con người, thấy rừ sự vươn lên hay gục ngó trước cuộc đời. Không phải ngẫu
nhiên mà các vị Bồ tát đều phải trải qua những kiếp người mà trước đó để thử thách. Và
biết đâu mỗi chúng ta, mỗi hành động, cử chỉ, suy nghĩ của chúng ta cũng đều là những
thử thách của tạo hoá để đi tới sự hoàn thiện hơn.
Để tỡm hiểu nguyên nhân sâu xa của khổ, thế giới quan Phật giáo có tập đế.
1.2.3.2. Tập đế
Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Đức
Phật cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó. Thế giới quan Phật giáo đưa ra
Thập nhị nhân duyên, đó là mười hai nguyên nhân gây nên nỗi khổ cho con người.
Nguyên nhân của nỗi khổ chính là do lũng ái dục của con người gây nên. Nhưng ái dục
lại bắt nguồn từ sự vô minh, từ cái tâm vọng động, mê lầm của chính con người. Con
người không nhận thức được rằng bản chất của thế giới này là ảo giả, là vô thường.
Ngay cả thân xác con người cũng chỉ là sự hợp giả của ngũ uẩn, cũng chỉ là giả tướng.
Cả thế giới khách quan lẫn bản thể chủ quan chỉ là vô thường, vô ngó trong vũng luân
hồi trôi chảy bất tận. Con người muốn tồn tại mói nhưng thực tại và cuộc đời cứ luân
chuyển theo vũng: sinh - lóo - bệnh - tử, không ngừng nghỉ. Vỡ thế, con người ta sinh ra
vọng tưởng, chấp ngó, mê lầm, vị kỷ, tham dục, chiếm đoạt, gây nên những nỗi khổ
triền miên trong cuộc đời.
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thỡ đức Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai
nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Trong đó, vô minh là điểm nút
đầu tiên trong “thập nhị nhân duyên” dẫn người ta đến đau khổ. Sự kết hợp giữa vô
minh và ái dục đưa đến tam độc là tham, sân, si.
Tham: nó biểu hiện sự tham lam của con người, xúi giục con người hành động để
thoả món lũng tham của mỡnh. Lũng tham của con người không có giới hạn, càng tham
nhiều càng khổ lắm, “tham thỡ thâm”. Cũng vỡ lũng tham mà gây ra bao nỗi thống khổ
cho con người như chém giết, xung đột, xâm hại lẫn nhau. Tham không những có hại
cho mỡnh mà cũn gây hại cho người khác, không chỉ trong hiện tại mà cũn trong cả
tương lai.
Sân: khi lũng tham không được thoả món thỡ con người trở nên tức giận, bực
tức, nóng nảy, đó là sân. Sân cũng là nguyên nhân của khổ, nó làm cho con người
không kiểm soát hết hành động của mỡnh (giận quá mất khôn). Thế giới quan Phật giáo
cho rằng tức giận, tức tối dẫn đến thù hằn, hung bạo, gây ác, gieo oán, từ đó làm hại
lũng đại từ đại bi. Điều này cũn tai hại gấp trăm nghỡn lần lũng tham.
Si: nghĩa là si mê, lú lẫn, ám muội. Nó làm cho con người tâm rối, thần loạn, trí
tuệ mê mờ, người ngu đần, mê muội từ đó không phân biệt được trái phải, trên dưới,
trước sau, đi vào con đường lầm lạc. Chính từ đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi
người.
Tiếp đến, đức Phật lý giải nguyên nhân của khổ bằng thuyết “thập nhị nhân
duyên”. Đó là 12 cái vừa là nhân vừa là duyên quyết định đến sự khổ:
+ Vô minh: là không sáng suốt, không nhận thấy thế giới này là ảo giả mà cứ
tưởng đó là thực.
+ Duyên hành: là hoạt động có ý thức; ở đây đó có sự dao động của tâm, có mầm
mống của nghiệp.
+ Duyên thức: là nhận thấy, ý thức phân biệt cái tâm trong sáng, cân bằng với cái
tâm đó bị ô nhiễm và mất cân bằng.
+ Duyên danh sắc: là sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần.
+ Duyên lục nhập: quá trỡnh tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp xúc
với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
+ Duyên xúc: là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là quả
của lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
+ Duyên thụ: là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu, ghét,
buồn, vui.
+ Duyên ái: là yêu thương, đam mê, đắm trước, chính từ đây nảy sinh ra dục
vọng.
+ Duyên thủ: có ái là có thủ, đó có ái thỡ muốn chiếm giữ, nắm giữ, tỡm đủ mọi
cách giữ chặt lấy cho mỡnh.
+ Duyên hữu: là sự tồn tại để tận hưởng cái đó chiếm đoạt; từ đây chứng tỏ có
nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
+ Duyên sinh: đó có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là sự ra đời, sinh
thành do phải tồn tại.
+ Duyên lóo - tử: đó có sinh tất có già và chết. Sinh - lóo - bệnh - tử là kết thúc
một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu một vũng luân
hồi sinh tử mới không sao thoát được. Vậy nỗi khổ có tiêu diệt được không? Vấn đề này
được đức Phật trỡnh bày ở Diệt đế và Đạo đế.
1.2.3.3. Diệt đế
Nguyên nhân đau khổ là Ái dục, Vô minh, Tam độc, vậy muốn thoát khổ thỡ phải diệt
trừ những nguyên nhân này để đạt đến cái gọi là Niết bàn (Nirvana).
Vậy Nirvana là gỡ? Theo chữ Phạn, Niết bàn gồm hai phần, “Nir” và
“Vana”. “Nir” là hỡnh thức phủ định nghĩa là không, “Vana” có nghĩa là ái dục. Cho
nên, đó diệt trừ được lũng tham, đó diệt trừ lũng nóng giận, oán thù, đó diệt trừ si mê
(vô minh), đó là Niết bàn. Trong các kinh điển gốc Pali ta thấy có khá nhiều cách mô
tả Niết bàn, chẳng hạn, đó là sự đỡnh chỉ hoàn toàn của dục vọng (tanhà), từ bỏ nó,
tự giải thoát nó, tách khỏi nó; đó là làm dịu lắng tất cả những gỡ bị qui định, từ bỏ
mọi xú uế, trừ khử dục vọng, loại bỏ ham muốn, căm ghét, ảo ảnh, thoát khỏi sự
khoe khoang, nhổ bỏ sự gắn bó, chặt đứt tính liên tục, là sự kết thúc Dukkha. Theo
cuốn Tôn giáo từ điển: “Niết bàn là một thế giới tinh thần sau khi đó tiêu diệt được
luân hồi sinh tử” [12, tr.899].
Theo đức Phật, Nirvana là cái không sinh, không thành, không bị qui định, không
phức hợp. Ở đây, không cũn rắn, lỏng, nhiệt, vận động, không cũn dài, rộng, tinh tế, thô
thiển, tốt, xấu, tên gọi và hỡnh thức hoàn toàn bị huỷ diệt, thế giới này hay khác, đến, đi
hay dừng lại, tử và sinh cũng như các đối tượng của cảm giác đều không thể tỡm thấy.
Nirvana không phải là tiêu cực mà cũng không phải là tích cực, không phải là phủ định
mà cũng không phải là khẳng định vỡ tiêu cực hay tích cực, phủ định hay khẳng định
vẫn ở trong tương đối, nhị nguyên. Cho nên những điều mà ta định nghĩa về Niết bàn
chỉ có thể làm rừ mặt này hay mặt kia của Niết bàn mà thôi. Vỡ chúng ta đem cái ý
niệm nhị nguyên, tương đối, cũn có sự phân biệt vật - ta, vô - hữu, sinh - diệt vào giải
thích một trạng thái tuyệt đối: trạng thái diệt trừ mọi danh sắc, cảm giác, ý thức, ý niệm;
trạng thái diệt mọi ái dục, vô vi, thanh, tịnh, vắng lặng, không vọng động, tịch diệt, bất
tử, tự do, chân lý tuyệt đối, an lạc, hoàn thiện, vĩnh hằng... Niết bàn là cảnh giới siêu
thời gian và không gian, là cảnh giới an lạc, giác ngộ và giải thoát của bậc giác ngộ
trong đạo Phật. Chúng ta không thể dùng ngôn ngữ để định nghĩa hay mô tả trực tiếp
một cách đầy đủ Niết bàn được vỡ ngôn ngữ con người cũn quá nghèo nàn để diễn đạt
cái tuyệt đối cuối cùng - Nirvana. Niết bàn là cái tuyệt đối, ngôn ngữ là cái tương đối.
Cho nên đạt đến Niết bàn phải bằng chính sự chứng ngộ, trực giác.
Vấn đề then chốt phải hiểu rằng: Niết bàn chỉ do chính ta tự thấy mà thôi. Con
người phải thấu hiểu về những khổ đau và tự mỡnh thực hành việc loại trừ nguyên nhân
sinh ra khổ đau để giải thoát cho mỡnh khỏi phiền nóo vô minh, sân hận và tham ái, đạt
tới sự an lạc thanh tịnh trong tâm hồn. Việc giải thoát do chính con người tự lực cánh
sinh đảm nhiệm lấy. Phật quan niệm mọi chúng sinh đều bỡnh đẳng ngang nhau trên
con đường giải thoát. Phật nói: “Ta là Phật đó thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.
Người ta ai cũng có Phật tính, nếu dày công tu dưỡng thỡ cuối cùng cũng sẽ thành Phật.
Đức Phật chỉ rừ: “Tỡnh thương và nhu cầu là những dây liên lạc giữa mọi người. Không
có đẳng cấp trong dũng máu cùng đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt
cùng mặn. Mỗi người sinh ra không phải đó mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ
hay dấu tin - ka ở trán…” [79, tr.115].
Đạt đến Nirvana, đó là người sung sướng nhất, mọi mặc cảm, mọi nỗi ám ảnh,
mọi lo âu phiền nóo, mọi khổ sở hành hạ,... đều biến mất. Họ không tiếc quá khứ, không
lo tương lai, chỉ sống thanh thản, yên bỡnh, hiền lành đầy lũng thương chúng sinh, tốt
bụng, thông cảm, hiểu biết, khoan hoà,... trong khoảng khắc hiện tại. Hành động của họ
giống như gieo một hạt điếc - không cũn nảy mầm, tái sinh.
1.2.3.4. Đạo đế
Chân lý này chỉ ra con đường cụ thể để diệt trừ những nguyên nhân của sự đau
khổ để dẫn đến Nirvana tuyệt đối tịch tịnh sung sướng, an lạc và tốt đẹp nhất. Theo Phật
giáo, có 37 phương pháp tạo thành con đường và cách thức để giải thoát cũn gọi là 37 đạo
phẩm, gồm có: tứ niệm xứ, tứ chính cần, tứ y như túc, ngũ căn, ngũ lục, thất bồ đề phần, bát
chính đạo. Nhưng con đường và phương pháp giải thoát tiêu biểu hơn cả, tập trung nhất vẫn
là “Bát chính đạo”. Đó là con đường trung đạo, con đường tránh được khuynh hướng tu
luyện ép xác khổ hạnh của đạo Jaina, vừa tránh được chủ nghĩa khoái lạc của phái
Lokayata. Cả hai khuynh hướng trên, theo quan điểm thế giới quan Phật giáo, đều không
dẫn đến trạng thái diệt ái dục, thanh tịnh, tịnh tiến và chính giác được. Lợi dưỡng vật chất,
sa vào thế giới vật dục là đam mê theo đuổi giả tướng, làm mê tâm mờ tính. Cũn tu luyện
khổ hạnh làm suy giảm trớ lực, khú cú thể đạt được mục tiêu đó chọn. Trong kinh “Chuyển
pháp luân”, đức Phật nói:
Người xuất gia (Pabbajitena) có hai cực đoan (antó) cần tránh, một
con đường thấp hèn chủ trương cuộc sống chỉ cần khoái lạc, một con đường
cực nhọc vô ích như chủ trương của phái khổ hạnh ép xác. Con đường trung
đạo thỡ ở giữa hai thỏi cực kia, cú thể dẫn đến giác ngộ và giải thoát [7,
tr.167].
Nội dung của Bát chính đạo gồm:
1. Chính kiến (Hiểu biết đúng đắn): là thấy rừ, hiểu đúng lý tứ đế (khổ, tập, diệt,
đạo) và đạt đến sự hiểu biết đúng các pháp không chỉ trong thế giới tương đối, thế giới
hiện tượng (hữu vi) (Trí) mà cả trong thế giới tuyệt đối (vô vi) (Tuệ), xa lỡa khỏi mọi
phiền nóo (Vụ lậu). Đây cũng là một trong những khâu cuối cùng để bước vào giải
thoát, nhập Niết bàn.
2. Chính tư duy (Nghĩ đúng): là thấy rừ lý tứ đế vẫn cũn tư duy để khiến chân lý
tăng trưởng, dựa trên cơ sở tâm sở vô lậu (tức những tác dụng của tâm xa lỡa mọi phiền
nóo).
3. Chính ngữ: là dùng chân trí mà tu khẩu (áp dụng chính tư duy vào trong lời
nói), cụ thể: không nói dối (không nói sai sự thật), không nói tạo ra sự bất hũa giữa mọi
người, không nói lời ác dữ, không thừa lời vô ích. Tất cả những cái đó dựa trên cơ sở
giới vô lậu (phũng ngừa, ngăn cấm sự sai trái của tâm, xa lỡa mọi cỏi phiền nóo).
4. Chính nghiệp: là dùng chân trí mà trừ tà nghiệp của thân (áp dụng chính tư
duy vào hành động của thân thể), luôn giữ vững thân nghiệp thanh tịnh dựa trên nền
tảng của giới vô lậu. Chính nghiệp gồm: không sát sinh, không trộm cướp, không tà
dâm.
5. Chính mệnh: là sống bằng nghề nghiệp chân chính để tam nghiệp (thân, khẩu,
ý) được thanh tịnh, trong sạch.
6. Chớnh tinh tấn: là dựng chõn lý mà cố gắng tu đạo Niết bàn, lấy cần vô lậu
(siêng năng, cố gắng xa lỡa mọi phiền nóo) làm thể. Cụ thể là cố gắng làm điều thiện,
trừ ác trong ý nghĩ, hành động; phải chủ động tích cực trong việc tỡm kiếm truyền bỏ
chõn lý nhà Phật.
7. Chính niệm: là trong đầu óc con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng,
ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm no thường xuyên niệm
Phật. Thực hành chính niệm đóng vai trũ quan trọng trong việc tu thiền của đạo Phật.
8. Chính định: là giữ cho thân tâm vắng lặng, không vọng động để trí tuệ bừng
sáng.
Tám cái ở trên liên hệ mật thiết với nhau và được phân ra làm ba nhóm mà nhà
Phật gọi là Tam học bao gồm: Giới học, Định học, Tuệ học.
+ Nhóm một gồm : chính ngữ (3), chính nghiệp (4), chính mệnh (5), chính tinh
tấn (6) được gọi là Giới (Sila).
+ Nhóm hai gồm: chính niệm (7), chính định (8) được gọi là Định (Samadhi).
+ Nhóm ba gồm: chính kiến (1), chính tư duy (2) được gọi là Tuệ (Praijnà).
Giới: là những điều luật để phũng ngừa và trỏnh cho thõn thể, lời núi, tõm ý khỏi
phạm điều sai. Giới chính là những phương tiện thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng
ngày của con người, hướng con người sống hướng về thiện. Giới là giai đoạn đầu, giai đoạn
tất yếu, nền tảng để chuyển sang giai đoạn tiếp theo - Định. Không có sự thực hiện Giới thỡ
thõn tõm khụng trong sạch.
Định: đây chính là định tuệ; Thu nhiếp những ý tưởng hỗn loạn gọi là định; Thấu
suốt (quán chiếu) sự lý gọi là Tuệ; Định cũn tập trung tư tưởng suy nghĩ để làm mọi
việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện cho tuệ phát ra (ló sáng).
Tuệ: là con đường tu tập đi đến giải thoát. Mục đích của nhận thức thế giới quan
Phật giáo là tuệ tức là hiểu bản chất của cái bản thể, cái tuyệt đối, Chân như,... Tuệ là trí
tuệ sáng suốt của người tu hành đó diệt được dục vọng, diệt được tam độc là tham, sân,
si, đó thấu được lý vụ thường, vô ngó, do đó chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi ích
cho chúng sinh.
Như vậy, khi thực hiện các bước tu tập trên đây, con người sẽ đạt tới trạng thái
thanh tịnh, an lạc, ung dung, tự tại, không vọng động, đạt tới giác ngộ và cảnh trí Niết
bàn. Giới - Định - Tuệ là ba bước tu học có quan hệ mật thiết với nhau. Bởi người nào
giữ Giới một cách nghiêm ngặt mới có thể Thiền Định và nhờ có Thiền Định mới phát
Tuệ. Có tuệ thỡ mới đoạn tuyệt được các tà tư duy, đạt đến giác ngộ.
1.3. ĐẶC ĐIỂM THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Phật giáo du nhập vào Việt Nam rất sớm, từ những năm đầu công nguyên. Theo
những tư liệu hiện tồn, Phật giáo truyền vào nước ta vào thời Sĩ Nhiếp (187 - 226 Công
nguyên) như Truyện Man Nương trong Lĩnh Nam Chích Quái ghi chép lại. Lí hoặc
Luận của Mâu Tử, Lục Độ Tập Kinh của Khương Tăng Hội là hai bằng chứng thư tịch
Phật giáo khác. Trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất ở nước ta Luy Lâu (Thuận Thành -
Bắc Ninh hiện nay) vào cuối thế kỷ thứ hai - trụ sở của Giao Chỉ, và cũng là trung tâm
thương mại quốc tế. Phật giáo du nhập vào Việt Nam bằng hai con đường: đường thủy
thông qua con đường buôn bán với thương gia Ấn Độ, Phật giáo Giao châu lúc này
mang màu sắc của Tiểu thừa Nam tông và đường bộ qua sự giao lưu văn hóa với Trung
Quốc, theo dũng Đại thừa sau này Phật giáo Trung Quốc truyền vào nước ta gồm có:
Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông.
Đạo Phật đến với Việt Nam thông qua con đường hũa bỡnh, mặt khỏc giỏo lý
của Phật giỏo chuyển tải tư tưởng bỡnh đẳng, bác ái, cứu khổ, cứu nạn... gần gũi tín
ngưỡng, văn hóa Việt Nam nên được các cư dân Việt Nam dễ dàng chấp nhận. Trải qua
gần 2000 năm tồn tại, Phật giáo Việt Nam có lúc thịnh lúc suy và trải qua nhiều bước
thăng trầm. Có thời kỳ Phật giáo được coi là quốc đạo. Tư tưởng, văn hóa, đạo đức Phật
giáo đó bỏm rễ và ảnh hưởng sâu sắc đến con người và xó hội Việt Nam.
Có thể chia lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn như sau:
1. Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hỡnh thành và phỏt
triển rộng khắp;
2. Thời nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
3. Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
4. Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng;
Khi Phật giáo được du nhập Việt Nam đó được các vị thiền sư người Việt bản địa
hóa, khiến Phật giỏo hũa mỡnh vào lũng dõn tộc tạo nên một số sắc thái đặc điểm riêng
Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đó sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này càng nhận
thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê sơ, Lý, Trần đều là
những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư đó có vị trí quan
trọng trong các triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mỡnh vào lũng dõn tộc
nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn
2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Quỏ trỡnh du nhập Phật giỏo vào Việt Nam, cùng với những đặc điểm chung về
thế giới quan Phật giáo như trên đó trỡnh bày thỡ khi Phật giỏo truyền vào Việt Nam đó
cú mối liờn hệ qua lại mật thiết với văn hóa, tư tưởng Việt Nam và được bản địa hóa.
Do vậy, thế giới quan Phật giáo Việt Nam lại có thêm những những đặc điểm riêng làm
cho Phật giáo Việt Nam trở nên phong phú và linh hoạt. Trong khuôn khổ phạm vi luận
văn thạc sĩ, tác giả đưa ra một số đặc điểm thế giới quan Phật giáo Việt Nam tiêu biểu
sau:
1. Thế giới quan Phật giáo Việt Nam mang đặc điểm tính dân gian. Do đặc điểm
đa số cư dân Việt là cư dân trồng lúa nước với tín ngưỡng bản địa là đa thần giáo nên
thế giới quan Phật giỏo với thuyết nhõn quả, luõn hồi, nghiệp bỏo thõm nhập vào Việt
Nam thỡ nú gặp gỡ với thế giới quan người dân bản địa. Dũng Phật giỏo dõn gian này
cú mầm mống từ khi Phật giáo mới du nhập vào nước ta mở đầu là các tăng sĩ như
Khâuđàla, Mahakỳvực. Phật giáo dân gian là sự dung hợp của Phật giáo Ấn Độ với tín
ngưỡng cổ của người Việt. Điều này được thể hiện rừ nhất ở hỡnh tượng Tứ Pháp (Pháp
vân, Pháp vũ, Pháp lôi, Pháp điện) ở trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất Việt Nam - Luy
lâu. Tại trung tâm này, từ trước đến nay, ngày Phật đản đều tổ chức lễ hội gắn liền với
nghi lễ nông nghiệp như cầu mây, cầu mưa, mùa màng tươi tốt. Hệ thống chùa “Tứ
pháp” thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây - Mưa -
Sấm - Chớp và thờ đá. Theo Giáo Sư Trần Quốc Vượng - chùa Dâu (một trong tứ pháp)
có thể được dựng trên nền tảng một ngôi đền - trung tâm tôn giáo xưa của bộ lạc Dâu,
và dù sau này chưa có lấn át và làm biến dạng Đền, biến chất nữ thần Dâu, nó không gột
sạch thanh lọc hoàn toàn các chất tín ngưỡng nguyên thủy tiền Phật giáo của trung tâm
này. Hệ thống tứ pháp từ trung tâm Luy Lâu đó truyền đi các địa phương khác như Tứ
pháp ở Lạc Hồng - Mỹ Văn - Hưng Yên; Tứ pháp ở Thường Tín - Hà Tây (nay thuộc về
Hà Nội). Và với lối kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là “tiền Phật hậu Thần” với
việc đưa các thần, thánh, các thành hoàng, thổ địa, các anh hùng dân tộc vào thờ trong
chùa như Hồ Chí Minh, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... Chính sự kết hợp này làm
cho thế giới quan Phật giáo gần gũi hơn với mọi người dân, giúp cho đạo Phật thâm
nhập vào quần chúng nhân dân, duy trỡ và phỏt triển theo suốt chiều dài lịch sử dõn tộc.
Mặt khác, thế giới quan Phật giáo Việt Nam mang đặc điểm tính dân gian rất gần
gũi với dõn làng xó nghốo khổ. Tuy họ ớt hiểu biết về những giỏo lý như Thập nhị nhân
duyên, Tứ diệu đế, Bát chính đạo... nhưng đạo Phật không chỉ là một triết thuyết mà
quan trọng hơn đó là một cuộc sống thiện, từ bi, hỉ xả, nhân ái, bao dung, cứu khổ cứu
nạn... Vỡ thế nú đó được đông đảo quần chúng lao động nghèo khổ tiếp nhận. Giáo sư
Trần Đỡnh Hượu cho rằng, nước Phật không chỉ dành cho người xuất gia, càng không
phải dành riêng cho người giàu sang, không phải quần chúng đến với Phật mà Phật đến
với quần chúng... Kết quả của việc đó là người tu hành gắn với quần chúng nghèo khổ
và nhà chùa gắn với làng xó.
Có một điều lý thú là cỏc dũng Phật giỏo khỏc cho đến nay hầu như đó suy tàn
hay phai mờ, trong khi đó Phật giáo dân gian với các lễ hội vẫn tồn tại với tư cách là
một hiện tượng văn hóa cho đến ngày nay. Có thể, Phật giáo khi vào các nước khác
cũng tạo nên những dũng Phật giỏo dõn gian của họ. Song Phật giỏo dõn gian ở nước ta
mang đậm màu sắc của người Việt cổ.
2. Thế giới quan Phật giáo Việt Nam có đặc điểm tính thống nhất các tông phái
với nhau, trong đó thế giới quan tông phái Thiền tông là nũng cốt, trụ cột. Nhỡn một cỏch
tổng thể, thế giới quan Phật giáo Việt Nam không phải là thế giới quan Phật giáo thuần túy
như quê hương đó sinh ra nú mà là sự kết hợp giữa Thiền, Tịnh, Mật, Nho, Lóo và tớn
ngưỡng bản địa, cái mà nhiều người gọi là sự hỗn dung tôn giáo, trong đó có Thiền là nũng
cốt, trụ cột. Bởi vậy, với tư cách là Tụng phỏi thỡ ở Việt Nam chỉ cú Thiền tụng, cũn tất cả
những yếu tố khác chỉ là những cái tham gia kết cấu nên cái tổng thể thế giới quan Phật
giáo Việt Nam. Nhưng tại sao Phật giáo có nhiều tông phái, nhưng nước ta chỉ chấp nhận
có mỗi Thiền tông? Bởi vỡ, trong cỏc tụng phỏi Phật giỏo, Thiền tụng cú quan niệm về
nhập thế rừ ràng hơn cả. Một vị tổ Thiền đó đưa ra phương châm “Một ngày không làm,
một ngày không ăn” (Nhất nhật bất tỏc, nhất nhật bất thực). Sang Việt Nam, Thiền cũn
nhập thế hơn cả. Điều đó được thể hiện ở việc đánh giặc cứu nước cũng là Thiền, chống
úng cũng là Phật sự. Cú lẽ cũng chớnh vỡ vậy mà Thiền đáp ứng được nhu cầu đời sống
tâm linh, đáp ứng được nhiệm vụ dựng nước giữ nước của người Việt. Cũng vỡ là ngó tư
giao lưu văn hóa nên về phương diện tông phái, từ khởi nguyên cho đến thời Lý - Trần,
mặc dù ta thấy Thiền tông là chủ đạo nhưng trong thế giới quan Phật giáo Việt Nam có cả
Đại thừa, lẫn Tiểu thừa, cả những tông phái của Phật giáo sau này lẫn Phật giáo Nguyên
thủy. Điều này có lẽ cũng hiếm thấy ở Phật giáo các nước khác.
3. Thế giới quan Phật giáo Việt Nam có đặc điểm tính tổng hợp chặt chẽ giữa thế
giới quan Phật giáo với thế giới quan của của Nho giáo, Lóo giỏo tạo nên tính dung hợp
- đó là sự tổng hợp nhiều yếu tố khác nhau lại và biến đổi một cách linh hoạt để tạo nên
cái mới. Dung hợp là một dạng tiếp biến văn hóa đặc biệt. Tín ngưỡng truyền thống đó
tiếp nhận thế giới quan Phật giáo ngay từ đầu Công Nguyên. Sau đó thế giới quan Phật
giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận thế giới quan Đạo giáo. Sự kết hợp giữa
Phật giáo với Đạo giáo là mối quan hệ bền chặt lâu đời nhất. Ngay từ thời chống Bắc
thuộc, hai tôn giáo này đó hũa quện với nhau trong cuộc sống của người bỡnh dõn. Cú
những nơi, như đền Ngọc Sơn ở Hà Nội, lúc là chùa (Phật giáo) lúc là đền (Đạo giáo).
Khá nhiều chùa (Phật giáo) thờ các thần của Đạo giáo như Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc
Đẩu, Quan Công... Thời Đinh - Lê - Lý - Trần, nhiều nhà sư đồng thời là đạo sĩ. Như
thiền phái Trúc Lâm dung hợp tư tưởng Phật với triết lý sống tỡm về thiờn nhiờn của tư
tưởng Lóo - Trang.
Thế giới quan Phật giáo và thế giới quan Nho giáo cũng có quan hệ khá lâu đời.
Do ảnh hưởng Phật giáo từ Trung Hoa, cho nên các nhà sư muốn đọc kinh Phật phải
biết chữ Hán, do vậy dễ hiểu là có không ít nhà sư khá tinh thông Nho học. Thiền phái
Thảo Đường dung hợp triết lý Phật giáo với tư tưởng Nho gia, không phải ngẫu nhiên
mà phái này có nhiều vua quan đương nhiệm quy y hơn cả.
Sự chi phối mạnh mẽ của tính dung hợp truyền thống đó khiến cho thế giới
quan tôn giáo vào trước mở rộng cửa đón nhận thế giới quan tôn giáo vào sau, tạo
nờn một sự hũa hợp rộng rói. Tớn ngưỡng truyền thống đó tiếp nhận thế giới quan
Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó thế giới quan Phật giáo cùng tín ngưỡng
truyền thống tiếp nhận thế giới quan Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận thế giới
quan Nho giáo để làm nên “Tam giáo đồng nguyên” (ba tôn giáo cùng xuất phát từ
một gốc) và “Tam giáo đồng quy” (ba tôn giáo cùng quy về một đích). Sự dung hũa
“Tam giáo” là một thực thể hỡnh thành một cỏch tự nhiờn trong tỡnh cảm và việc
làm của người dân, và đến thời Lý - Trần thỡ được chính quyền công nhận rộng rói.
Thế giới quan của ba tôn giáo này không mâu thuẫn đối chọi nhau mà bổ sung, hỗ
trợ cho nhau: Nho giáo lo tổ chức xó hội sao cho quy củ; Đạo giáo lo thể xác con
người sao cho mạnh khỏe; Phật giáo lo cho tâm linh con người sao cho thoát khổ.
Trong nhiều thế kỷ, hỡnh ảnh “Tam giáo tổ sư” với Thớch Ca Mõu Ni ở vị trớ trung
tõm trang trọng, Lóo tử bờn trỏi (trỏi = phương đông - nam = tinh thần nông nghiệp
tự nhiên) và Khổng tử bên phải (phải = phương tây - bắc = tinh thần du mục xó hội)
đó in sõu vào tõm thức người Việt Nam.
4. Thế giới quan Phật giáo Việt Nam có đặc điểm mang tính hài hũa Âm - Dương
thiên về nữ tính. Đó là một trong những đặc tính khác của lối tư duy văn hóa nông
nghiệp. Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, khi vào Việt Nam biến thành
“Phật Ông - Phật Bà”. Bồ tát Quán thế Âm đó được biến thành Phật Bà Quan Âm với
nghỡn mắt nghỡn tay - vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước Đông Nam Á
nên cũn gọi là Quan Âm Nam Hải. Ở một số vùng, ngay cả Phật tổ Thích Ca cũng được
coi là phụ nữ (người Tày Nùng gọi là mẹ Pựt Xích Ca). Người Việt Nam cũn tạo ra
những “Phật Bà” riờng của mỡnh: đứa con gái nàng Man được xem là Phật Tổ Việt
Nam, bản thân bà Man trở thành Phật Mẫu, Quan Âm Thị Kính, Phật bà chùa Hương (=
Bà chúa Ba = Quan Âm Diệu Thiện), các thánh mẫu... Việt Nam có khá nhiều chùa
chiền mang tên các bà: chùa Bà Dâu, chùa Bà Đậu, chùa bà Tướng, chùa bà Dàn, chùa
Bà Đá, chùa bà Đanh...
5. Thế giới quan Phật giáo Việt Nam có đặc điểm mang tính linh hoạt, mà nhà
Phật thường gọi là “tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên” nghĩa là
tựy thuộc vào tỡnh huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích thế giới quan Phật
giáo theo những cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản về thế giới
quan của nhà Phật. Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống
phúc đức, trung thực hơn là đi chùa: thứ nhất là tu tại gia, thứ nhỡ tu chợ, thứ ba tu
chựa; dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người. Người Việt
coi trọng truyền thống thờ cha mẹ, ông bà hơn thờ Phật: tu đâu cho bằng tu nhà, thờ
cha kính mẹ mới là chân tu (ca dao); đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật: Phật trong
nhà không thờ đi thờ Thích Ca ngoài đường (tục ngữ). Ngoài ra ta cũn thấy Tượng
Phật ở Việt Nam mang dỏng dấp hiền hũa và dõn dó: ụng Bụt Ốc (Thớch Ca túc
quăn), ông nhịn ăn nhịn mặc (Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà chùa Hương
cũn lấp lú cả lọn túc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
6. Thế giới quan Phật giáo Việt Nam có đặc điểm kết hợp chặt chẽ việc đạo với
việc đời, mang tính dân tộc xuyên suốt trong chiều dài lịch sử. Vốn là một tôn giáo xuất
thế, nhưng vào Việt Nam, thế giới quan Phật giáo trở nên nhập thế. Ngay ở giai đoạn
đầu của Phật giáo Việt Nam thỡ giới tu hành cũng là giới trí thức, họ không chỉ hoạt
động truyền bỏ Phật giỏo mà cũn dạy học và chữa bệnh, nhiều nhà sư đó từng tham
chớnh hoặc làm cố vấn cho cỏc nhà vua về cỏc vấn đề đại sự quốc gia. Tiêu biểu như
Đại sư Khuông Việt được Vua Đinh Tiên Hoàng cử làm Tăng thống năm 971; nhà sư
Vạn Hạnh, Đa Bảo, Viên Thông... làm cố vấn cho các vua triều Lý... Đến thời Lý -
Trần, Phật giáo được triều đỡnh ủng hộ. Nhà Lý lập Tụng Thảo Đường. Nhà Trần lập
Tông Trúc Lâm đều mang tính dân tộc sâu đậm. Vẫn với truyền thống gắn bó giữa đạo
với đời, đầu thế kỷ XX, Phật tử Việt Nam hăng hái tham gia vào các hoạt động xó hội.
Trong thời gian khỏng chiến chống Phỏp, chống Mỹ, nhiều nhà sư đó tham gia đấu
tranh giành độc lập dân tộc dưới nhiều hỡnh thức khác nhau, mà đỉnh cao là sự kiện hũa
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè năm 1963 phản đối nền độc tài của gia
đỡnh họ Ngụ. Theo Phó giáo sư Nguyễn Duy Hinh cho rằng: “Phật giáo Việt Nam xuất
phát từ dân gian, ăn sâu vào tâm thức của quảng đại quần chúng, trở thành một thành tố
tõm lý dõn tộc và vỡ vậy mang tớnh dõn tộc xuyờn suốt lịch sử. Đó là một sự thực
khách quan” [33, tr.19].
Chương 2
THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI
ĐỜI SỐNG TINH THẦN CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
2.1. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
ĐỐI VỚI MỘT SỐ LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG TINH THẦN CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.1. Đời sống tinh thần xó hội và đời sống tinh thần con người Việt Nam
hiện nay
- Quan niệm về đời sống tinh thần xó hội
“Đời sống tinh thần xó hội” được chú ý xem xột với tư cách là phạm trù triết học
bắt đầu từ cuối những năm 50, đầu những năm 60 trong các tài liệu triết học ở Liên xô
(cũ). Từ đó đến nay, thuật ngữ“Đời sống tinh thần xó hội” được sử dụng tương đối vào
việc vận dụng vấn đề cơ bản của triết học - mối quan hệ giữa tinh thần và tự nhiờn, giữa
vật chất và ý thức vào lĩnh vực xó hội khụng chỉ làm xuất hiện vấn đề mối quan hệ giữa
ý thức xó hội và tồn tại xó hội, mà cũn làm xuất hiện vấn đề mối quan hệ giữa đời sống
tinh thần xó hội và đời sống vật chất xó hội.
Có thể khẳng định rằng phạm trù đời sống tinh thần xó hội là một phạm trự rộng,
nú bao gồm ý thức xó hội, văn hóa tinh thần và nhiều hoạt động và quan hệ tinh thần
khác nữa. Mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ phụ thuộc. Bởi vỡ, với phạm trự ý
thức xó hội, về cơ bản, mới chỉ nói lên mặt nhận thức luận của lĩnh vực tinh thần -
những giá trị tinh thần với tư cách là kết quả của sự phản ánh. Trái lại, phạm trù đời
sống tinh thần xó hội vừa núi lờn mặt nhận thức luận của lĩnh vực tinh thần, vừa núi lờn
mặt xó hội học của lĩnh vực đó mặt thực tiễn tinh thần, bao gồm cả những hoạt động và
quan hệ tinh thần. Vấn đề này được Mác và Ăngghen khẳng định: “Đời sống tinh thần
liên hệ biện chứng với đời sống xó hội, nú tương ứng với những hỡnh thức muụn màu
muụn vẻ của hoạt động xó hội của con người” [59, tr.3]; thứ hai, văn hóa tinh thần được
hiểu là toàn bộ những giá trị, những hoạt động, những quan hệ tinh thần có tính chất bền
vững, ổn định và được định hỡnh theo những cỏch thức, chuẩn mực đặc thù của một
dân tộc, quốc gia. Trái lại, đời sống tinh thần xó hội, ngoài những yếu tố văn hóa xó hội,
nú cũn bao hàm một dung lượng, một phạm vi tinh thần rộng lớn khác như sách báo,
tranh ảnh, băng nhạc... hay quan điểm, lý thuyết, tỡnh cảm... từ nước ngoài đưa vào
không liên quan gỡ đến tính đặc thù dân tộc (không thuộc văn hóa tinh thần), mà chúng
vẫn được lưu truyền trong cái xó hội mà dõn tộc đó tồn tại (vẫn thuộc đời sống tinh thần
xó hội). Điều đó có nghĩa là ý thức xó hội và văn hóa tinh thần chỉ là một bộ phận của
đời sống tinh thần xó hội; liên quan đến phạm trù đời sống tinh thần xó hội cũn phải kể
đến phạm trù kiến trúc thượng tầng. Phạm trù kiến trúc thượng tầng cũng chỉ mới nói
lên phần nào mặt nhận thức luận và mặt thực tiễn tinh thần, nội dung của nó bao gồm tư
tưởng (các hỡnh thỏi ý thức xó hội), tổ chức và thiết chế. Về mặt nhận thức luận, nội
dung kiến trúc thượng tầng chưa phản ánh hết nội dung phạm trù ý thức xó hội, trong ý
thức xó hội ngoài cỏc hỡnh thỏi ý thức xó hội cũn bao gồm cỏc yếu tố khỏc nữa như
tâm lý xó hội, tõm lý dõn tộc, ý thức cỏ nhõn... Về mặt thực tiễn tinh thần, những hoạt
động và quan hệ tinh thần thuộc kiến trúc thượng tầng chỉ là một phần (có thể là một
phần quan trọng) trong hệ thống hoạt động và quan hệ tinh thần rộng lớn của xó hội.
Bởi vỡ ngoài những tổ chức, cơ quan nhà nước (kể cả tổ chức phi chính phủ) về văn
hóa, tư tưởng, khoa học, thỡ những hoạt động và quan hệ tinh thần cũn được thực hiện
bởi đông đảo quần chỳng nhõn dõn (thể hiện rừ nhất trong văn hóa, văn học dân gian). Cho
nên, giữa kiến trúc thượng tầng và đời sống tinh thần xó hội là quan hệ giao nhau. Điều đó
khẳng định, cỏc phạm trự ý thức xó hội, văn hóa tinh thần, kiến trúc thượng tầng đó phản
ánh được phần nào những đặc trưng rất cơ bản của đời sống tinh thần xó hội, song nú cũng
khụng thể hoàn toàn thay thế được phạm trù đời sống tinh thần xó hội.
Như vậy, đời sống tinh thần với tư cách là một chỉnh thể toàn vẹn, một hệ thống
đang hoạt động mang tớnh chất xó hội, bao gồm nhiều lĩnh vực thường xuyên tác động
qua lại lẫn nhau và đan xen lẫn nhau trong đời sống xó hội. Đời sống tinh thần xó hội
“phản ánh” đời sống vật chất xó hội, chịu quy định, chi phối của đời sống vật chất xó
hội. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, Mác và Ăngghen đó nhận xột rằng:
Đạo đức, tôn giáo, siêu hỡnh học và những dạng khỏc của hệ tư tưởng
cùng với những hỡnh thỏi ý thức tương ứng với chúng liền mất ngay mọi vẻ
độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát
triển; chính con người, khi phát triển vật chất và sự giao tiếp vật chất của
mỡnh, đó làm biến đổi cùng với những hiện thực đó của mỡnh, cả tư duy lẫn
sản phẩm tư duy của mỡnh [47, tr.48].
Khi đời sống vật chất thay đổi thỡ cũng kộo theo sự thay đổi của đời sống tinh
thần “Lịch sử tư tưởng chứng minh, nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh
thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất” [47, tr.625]. Nhưng nhân tố sản xuất, tái sản
xuất ra đời sống hiện thực là nhân tố xét đến cùng quyết định, chứ không phải là nhân tố
quyết định duy nhất. Đời sống tinh thần cũng có tính độc lập tương đối, ảnh hưởng lẫn
nhau và thông qua chỉ đạo hoạt động thực tiễn cùng tác động và cải tạo thế giới vật chất.
Với ý nghĩa như vậy, nội dung phạm trù đời sống tinh thần xó hội được chúng tôi
hiểu như sau:
Đời sống tinh thần xó hội là tất cả những giỏ trị, những sản phẩm,
những hiện tượng, những quá trỡnh, những hoạt động, những quan hệ tinh
thần của con người, phản ánh đời sống vật chất xó hội và được thể hiện như
là một phương thức hoạt động và tồn tại tinh thần của con người trong những
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định [17, tr.34].
- Cấu trúc của đời sống tinh thần xó hội
Dưới góc độ được coi là đối tượng nghiên cứu của triết học, đời sống tinh thần
xó hội được nghiên cứu ở cấp độ chung nhất, lại vừa được nghiên cứu ở cấp độ tương
đối cụ thể (nghiên cứu theo thành phần, lĩnh vực). Đời sống tinh thần xó hội bao trựm
toàn bộ hiện thực tinh thần của xó hội, từ ý thức cỏ nhõn đến ý thức giai cấp, dân tộc.
Việc phân chia đời sống tinh thần xó hội thành cỏc lĩnh vực khỏc nhau chỉ mang ý
nghĩa tương đối. Trên thực tế, có những yếu tố vừa thuộc lĩnh vực này lại vừa thuộc lĩnh
vực khác. Có nhiều cách phân chia, trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, đời sống tinh
thần xó hội bao gồm các lĩnh vực cơ bản sau:
Thứ nhất, với tớnh cỏch là một quỏ trỡnh và phỏt triển, đời sống tinh thần xó hội
được biểu hiện qua các yếu tố cơ bản: nhu cầu tinh thần, sản xuất tinh thần, giao tiếp và
tiêu dùng các sản phẩm tinh thần. Các yếu tố này luôn tác động lẫn nhau làm cho đời
sống tinh thần xó hội tồn tại, vận động, phát triển sinh động, phong phú và phức tạp.
Trong đó sản xuất tinh thần là nhân tố quyết định chi phối nhu cầu tinh thần và các yếu
tố khác, các yếu tố khác có vai trũ tỏc động trở lại sản xuất tinh thần.
Thứ hai, với tính cách là một hệ thống đang vận động và biến đổi, thỡ đời sống
tinh thần xó hội bao gồm những lĩnh vực: đời sống tư tưởng, đạo đức, lối sống, hoạt
động khoa học, giáo dục và đào tạo, nghệ thuật, tín ngưỡng tôn giáo... Các lĩnh vực đó
liên quan chặt chẽ với nhau, luôn tác động và đan xen vào nhau. ranh giới giữa các lĩnh
vực đó cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối, trong đó đời sống tư tưởng giữ vai trũ chủ yếu
chi phối, quy định tính chất, nội dung, phương hướng phát triển của đời sống tinh thần
xó hội. Trong xó hội cú giai cấp, đời sống tinh thần xó hội mang tính giai cấp. Giai cấp
nào thống trị về kinh tế thỡ cũ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thế giới quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.pdf