Tài liệu Luận văn Thay đổi trong nhu cầu khách hàng và khai thác loại hình hảo hiểm mới tại các Công ty bảo hiểm: Luận văn: Thay đổi trong nhu cầu
khách hàng và khai thác loại hình hảo
hiểm mới tại các Cty bảo hiểm
Lời nói đầu
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải thiện nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ
xã hội ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một
tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với
nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế xã hội. Nên nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc và phát
triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát ra khỏi tình trạng khủng
hoảng kéo dài, sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế đang được điều chỉnh, đIều kiện...
84 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thay đổi trong nhu cầu khách hàng và khai thác loại hình hảo hiểm mới tại các Công ty bảo hiểm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Thay đổi trong nhu cầu
khách hàng và khai thác loại hình hảo
hiểm mới tại các Cty bảo hiểm
Lời nói đầu
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải thiện nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ
xã hội ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một
tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với
nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế xã hội. Nên nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc và phát
triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát ra khỏi tình trạng khủng
hoảng kéo dài, sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế đang được điều chỉnh, đIều kiện
sống của nhân dân không ngừng được cảI thiện và nâng cao. Trong xu thế phát
triển toàn diện đó, ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát
triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra đời,
bảo hiểm nhân thọ là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ mang
tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ
bảo hiểm khác. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm nhiều loạI hình khác nhau
như: Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục...Sở dĩ em chọn
đề tài:“An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ
này ở công ty Bảo hiểm nhân thọ “ cho chuyên đề thực tập của mình là vì những
lý do sau:
- Mặc dù bảo hiểm nhân thọ ra đời rất sớm trên thế giới ( năm 1583, ở Anh) và
khônh ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt
nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng
vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn
- Do nghiệp vụ “ An sinh giáo dục “mới được triển khai ở nước ta, thêm
vào đó chúng ta lại thiếu một hệ thống luật đồng bộ trong bảo hiểm nói chung và
bảo hiểm nhân thọ nói riêng, nên khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất
hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa
học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
- Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp
vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn
mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty phải trả một khoản tiền
vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách
hàng. Do vậy công ty bảo hiểm nhân thọ cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý
để đảm bảo tài chính của công ty.
- Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa
giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai “ thì chương trình “An sinh giáo dục “ là một biện
pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi
sau.
Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, từ đó đưa ra
một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu
quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới.
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ.
Phần II: Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ An sinh giáo dục trong hệ thống
bảo hiểm nhân thọ.
Phần III: Tình hình triển khai chương trình An sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm
nhân thọ.
Phần I
lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ.
I. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ.
1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
a. Trên thế giới:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển từ rất lâu trên thế giới. Hình thức
bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là
William Gybbon. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại
không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên,
nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc
sống con người, nên bảo hiểm nhân thọ phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con
người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa
học kỹ thuật nên bảo hiểm nhân thọ đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng
lớn. Với sự xuất hiện các phép tính xác suất Pascal và Fermat thì sự phát triển
của bảo hiểm nhân thọ là một tất yếu khách quan.
Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở châu Mỹ nhưng
chỉ bán các hợp đồng bảo hiểm cho các con chiên trong nhà thờ của họ.
Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là
công ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng
nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm.
Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ.
Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân
thọ.
Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ
những loại hình nhân thọ cơ bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử
kỳ), Bảo hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp hưu trí,
mỗi công ty bảo hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để
đáp ứng nhu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách
kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Người ta cũng thường có những điều khoản bổ sung trong đó phạm vi bảo
hiểm là tai nạn hoặc bệnh tật, ốm đau, các bệnh hiểm nghèo xảy ra trong thời hạn
bảo hiểm của hợp đồng chính (là một trong bốn dạng trên).
Trên thế giới, hiện nay doanh số của bảo hiểm nhân thọ chiếm trên 50%
doanh số của ngành bảo hiểm.
Dưới đây là số liệu thể hiện tỷ trọng doanh số bảo hiểm nhân thọ ở các
khu vực trên thế giới trong hai năm 1990, 1996.
Bảng 1: Doanh số của bảo hiểm nhân thọ so với doanh số ngành bảo hiểm ở các
khu vực
Đơn vị tính: %
Khu vực 1990 1996
Châu á 33,8 75
Châu Âu 31,4 50
Châu Mỹ 34,8 43
Nguồn tài liệu: Tạp chí Tái bảo hiểm - 1996.
Trong đó, cho đến năm 1993, ở Đông Nam á tổng doanh thu phí bảo hiểm
là 61,1 tỷ USD, doanh số của bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8% ,
doanh số của bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD chiếm 26,2%.
b.Tại Việt Nam:
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ,
trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp
vụ này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt
Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ
mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm,
nhưng trong thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được
bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo
hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm
đã triển khai một số loại hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm
trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20
năm”, nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ
bảo hiểm không được biết đến rộng rãi.
Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng
vào Việt Nam”, nhưng vào lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn
như:
- Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định.
- Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu
thường ngày, phần tiết kiệm rất ít.
- Chưa có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư.
Công ty bảo hiểm lúc đó chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu tư, môi
trường đầu tư chưa phát triển.
- Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan
hệ giá công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho người
được bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm.
Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển
nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài
chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng con người thời
hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy:
- Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất mà chỉ
tính đến trong vòng 1 năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình
bảo hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó loại hình bảo hiểm này chỉ đáp
ứng được nhu cầu cho những người già.
- Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có
được nhận lại gì không?
Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt
Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt
đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm nhân thọ với hai loại hình
mang tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty
Bảo hiểm nhân thọ.
Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký
quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân
thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát
triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một vài người trong số họ
phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là
năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số
tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là
mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp một phần không nhỏ
vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia bảo hiểm nhân
thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các
nước đang phát triển.ở châu á, những năm gần đây bảo hiểm nhân thọ phát triển
hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân,
tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay
vốn nước ngoài với l•i suất cao.Theo Tài liệu của công ty Bảo Việt nhân thọ, năm
1996, ở châu á, tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD trong đó phí bảo
hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8%. Ơ các nước phát triển có môi trường
đầu tư tốt, bảo hiểm nhân thọ phát triển rất mạnh mẽ.
Bảo hiểm nhân thọ giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải
quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay
hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia bảo hiểm nhân thọ nhằm duy
trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người
chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dải,
tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho
phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Muốn thực hiện được thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra thì
nhân tố vốn đầu tư là rất quan trọng. Vốn đầu tư chủ yếu được lấy từ quĩ tích luỹ
của nền kinh tế quốc dân và nguồn vốn vay nước ngoài. Theo kinh nghiệm của
một số nước phát triển và tình hình kinh tế xã hội thực tế của Việt Nam thì nhất
thiết phải tạo nhanh nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và phải coi đây là
biện pháp chính. Có tích luỹ từ trong nước thì mới tiếp nhận được nguồn vốn từ
bên ngoài. Mà quĩ tích luỹ này được hình thành chủ yếu từ tiết kiệm, để phát huy
nguồn vốn này cần phải đẩy mạnh tiết kiệm, tạo khoản vốn cần thiết để phát triển
kinh tế.
Một trong những mặt yếu kém của nền kinh tế nước ta thời gian qua là nguồn vốn
đầu tư phát triển bằng nguồn vốn trong nước tăng không đáng kể, mặc dù theo
điều tra, vốn trong dân không phải là nhỏ. Báo Đầu tư số ra gần đây cho biết:
Nguồn vốn trong dân ước tính trong các năm :
- Năm 1992: 9419 tỷ đồng chiếm 9,8% GDP.
- Năm 1994: 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% GDP.
- Năm 1995: 34.382 tỷ đồng chiếm 13,2% GDP.
Dự đoán từ nay đến năm 2000 tỷ lệ này đạt 15% GDP.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng
thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng
cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng
gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản
tiền nhàn rỗi.
Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà
nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn
trong dân cho đầu tư phát triển.
Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được
một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo
hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều,
nhưng lượng vốn mà công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam huy động được cũng
là hết sức cần thiết trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay. Nếu như đối với
nghiệp vụ bảo hiểm khác thời gian bảo hiểm thường ngắn, mức phí đóng thường
là thấp thì ở nghiệp vụ " An Sinh Giáo Dục " thời gian bảo hiểm dài, mức phí
định kỳ cao. Điều này cho thấy huy động vốn bằng cách tăng cường triển khai
nghiệp vụ "An Sinh Giáo Dục " là hết sức cần thiết đối với công ty bảo hiểm
nhân thọ.
II - Mục đích, ý nghĩa và đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ
1.Mục đích
Bảo hiểm nhân thọ là một sự đảm bảo và mang tính chất tương hỗ - đó là
mục đích chính, và do đó bảo hiểm nhân thọ mang tính chất xã hội rất lớn. Số
tiền được trả cho thân nhân và gia đình người tham gia bảo hiểm khi không may
gặp rủi ro được bảo hiểm sẽ giúp những người thân chi trả những khoản chi tiêu
rất lớn như: tiền thuốc thang và bác sỹ, tiền ma chay, khoản tiền cần thiết để ổn
định cuộc sống, chi phí giáo dục con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Không ai muốn nghĩ tới cái chết, nhưng không ai biết nó đến lúc nào. Việc
mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là thể hiện sự chu đáo của mình đối với gia
đình. Và nếu như may mắn trong suốt thời hạn bảo hiểm không có rủi ro thì
người được bảo hiểm vẫn nhận lại được số tiền đã nộp cộng thêm lãi nhờ hoạt
động của công ty bảo hiểm. Nhiều khoản tiền nhỏ lúc đó cộng lại đã thành khoản
tiền lớn để chi tiêu cho những công việc lớn, hoặc như dành dụm cho con bằng
cách mua hợp đồng “An sinh giáo dục” thì khi đứa trẻ 18 tuổi đã có một khoản
tiền để cấp vốn cho nó làm ăn hoặc chi phí cho nó tiếp tục đi học đại học. Chi phí
giáo dục - một vấn đề lớn trong ngân sách của mỗi gia đình hiện nay và càng trở
nên nóng bỏng trong tương lai.
So với các hình thức tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ có ưu điểm sau:
- Bảo hiểm nhân thọ là hình thức tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch.
Khi đã quyết định mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì các khoản phí nhỏ
đóng hàng tháng được coi như là các chi phí thường xuyên như tiền ăn, tiền điện,
tiền nước...và người đại lý chính là người thường xuyên nhắc nhở và thu khoản
tiền này.
- Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia
đình người được bảo hiểm khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bằng một khoản
tiền lớn ngay cả khi họ mới kịp tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ.
2 . ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ
Cũng giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác , bảo hiểm nhân thọ có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân , mỗi gia đình nói riêng và của xã hội
nói chung .
a.Đối với mỗi cá nhân , gia đình .
- Bảo hiểm nhân thọ thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia đình đối với
con cái hay những người phụ thuộc . Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển ,
các công nghệ hiện đại giúp cho cuộc sống tiện lợi hơn , văn minh hơn nhưng
những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào , nó cướp đi mạng sống của
con người hoặc gây cho con người những thương tật mà không thể phục hồi trở
lại . Chính vì thế , trong xã hội văn minh hiện nay vẫn có một thực trạng đáng
buồn là nhiều gia đình trở nên khó khăn , túng quẫn khi người trụ cột gia đình
không may gặp rủi ro dẫn tới mất mát hoặc giảm thu nhập. Do đó, nếu tham gia
bảo hiểm nhân thọ thì họ sẽ có một khoản tiền để chi trả, trang trải những chi phí
như nằm viện , phẫu thuật , thuốc men , nợ nần , chi phí mai táng hoặc bù đắp
một phần những khoản thu nhập thường xuyên của gia đình bị mất hoặc bị giảm .
Vì thế , bảo hiểm nhân thọ góp phần giảm bớt khó khăn về tài chính khi không
may người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro .
-Bên cạnh đó , mỗi người dân lao động đều có ý thức tiết kiệm , dành dụm tiền
để thực hiện những dự định trong tương lai . Bảo hiểm nhân thọ là một trong
những biện pháp để thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch đối với
từng gia đình . Đặc điểm ưu việt của loại hình bảo hiểm nhân thọ là khi hết thời
hạn bảo hiểm , người được bảo hiểm vẫn được nhận lại toàn bộ số tiền bảo hiểm
cho dù trong thời gian bảo hiểm có xảy ra rủi ro hay không . Không ai dám nói
trước về tương lai và tiết kiệm từ hôm nay để đảm bảo cho ngày mai là biện pháp
tích cực và có ý nghĩa nhất vì tương lai tốt đẹp của con cái , của gia đình luôn
được đảm bảo bằng trình độ học vấn , bằng cấp khoa học , vị trí xã hội vững vàng
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần thực hiện kế hoạch tài chính của từng gia đình :
tạo quỹ dành cho giáo dục con cái , có tiền để chi dùng khi về hưu .
Tóm lại , bảo hiểm nhân thọ có vai trò hết sức quan trọng, to lớn đối với
mỗi thành viên trong toàn xã hội. Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của
mọi người và nhờ có bảo hiểm nhân thọ mà cuộc sống của con người trở nên
hạnh phúc hơn , an toàn hơn .Tham gia bảo hiểm nhân thọ làm người ta tự tin
hơn, quyết đoán hơn vì bảo hiểm nhân thọ giúp người tham gia giảm bớt sự ràng
buộc đối với người thân mà người tham gia phải có trách nhiệm nuôi dưỡng .
Chính sự tự tin này làm cho mọi hoạt động của người tham gia đạt hiệu quả cao
hơn . Nhờ những đặc tính ưu việt của mình mà bảo hiểm nhân thọ đã và đang
phát triển rất nhanh rộng khắp các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có
trình độ phát triển, trình độ dân trí và bình quân thu nhập đầu người cao. Đây là
nhuyên nhân chính thúc đẩy bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh ,và ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn so với các hoạt động của cả ngành bảo hiểm nói chung.
b.Đối với xã hội .
- Bảo hiểm nhân thọ là một hình thức quan trọng để huy động nguồn vốn nhàn
rỗi trong nhân dân, đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
nhằm giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Với nguồn vốn lớn
thu được từ phí bảo hiểm đã giúp cho công ty đầu tư vào các lĩnh vực, công trình
lớn, đặc biệt là các công trình cơ sở hạ tầng .
Hiện nay ở một số nước trên thế giới, lượng vốn do các công ty bảo hiểm nhân
thọ cung cấp lớn hơn nhiều so với các tổ chức tài chính khác. Ví dụ như ở Mỹ,
năm 1970 số vốn do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp vào thị trường là 9
tỷ USD, trong khi đó số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp là 37 tỷ USD.
Nhưng cho đến năm 1991 con số đó đã là: số vốn do công ty bảo hiểm nhân thọ
cung cấp: 90,2 tỷ USD, số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp: 85,7 tỷ USD.
Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư Việt
Nam là 11 tỷ USD, trong đó có khoảng 50% là dự trữ bằng vàng. Đây là một
lượng vốn nhàn rỗi lớn, mà các tổ chức tài chính chưa huy động được hết, do đó
đã để lãng phí nhiều. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, vì thế vốn càng là một nhu cầu tất yếu , bức thiết để tiến hành công
cuộc này,với các chính sách mở cửa đất nước nhằm thu hút vốn đầu tư của nước
ngoài song chúng ta lại chưa khai thác hết tiềm năng trong nước. Trước tình hình
này bảo hiểm nhân thọ cần có biện pháp, kế hoạch huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân để phục vụ cho nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước .
- Bên cạnh vai trò huy động vốn trong nước thì bảo hiểm nhân thọ còn có vai trò
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư cho một công ty bảo hiểm lúc đầu
thường rất lớn , khi có một chính sách phù hợp sẽ thu được một lượng vốn đầu tư
bên ngoài đáng kể, vì bảo hiểm nhân thọ là một thị trường hết sức mới mẻ và hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đặc điểm của nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọ có tính chất dài hạn nên nguồn vốn cung cấp cho nền kinh tế cũng
lớn. Trong khoảng thời gian này các nhà đầu tư chưa thu được nhiều lợi nhuận,
do đó họ sẽ tiếp tục đầu tư mà không rút khỏi thị trường Việt Nam.
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo nên phong cách , tập quán sống mới. Tham gia
bảo hiểm nhân thọ thể hiện một nếp sống đẹp, đó là biết lo lắng cho tương lai
mình và quan tâm đến tương lai của người thân, đồng thời góp phần giáo dục con
em mình về đức tính tiết kiệm, cần cù và sống có trách nhiệm với người khác.
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, để
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế .
Vấn đề thất nghiệp luôn được quan tâm bởi chính phủ, các tổ chức xã hội, người
lao động...Tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp đều ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã
hội như tình trạng nền kinh tế, sự ổn định chính trị, tệ nạn xã hội .v.v. Giảm bớt
tỷ lệ thất nghiệp là mục tiêu của tất cả các chính ohủ và là mong muốn của toàn
thể nhân dân lao động . Để thực hiện mục tiêu này các nước phải chống lại tình
trạng gia tăng dân số, hạn chế sự tác động của khoa học kỹ thuật . Chính sự mâu
thuẫn này làm cho xã hội luôn có tình trạng thất nghiệp dù chúng ta có cố gắng
thế nào đi chăng nữa. Với tư cách là tổ chức hoạt động kinh doanh, công ty bảo
hiểm cũng đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của toàn xã hội, đó là tạo ra
công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp . Trước hết, để đảm bảo cho bộ
máy của mình hoạt động, bảo hiểm nhân thọ đã trực tiếp tạo việc làm cho một bộ
phận không nhỏ lực lượng lao động . Nhữnh người này làm việc trong các mạng
lưới của công ty như nhân viên , đại lí , môi giới bảo hiểm .v.v. Chẳng hạn như
riêng ở Hồng Kông chỉ với 6 triệu dân nhưng đã có 35 000 người hoạt động trong
lĩnh vực vực bảo hiểm nhân thọ.
Mặt khác công ty bảo hiểm nhân thọ còn là một tổ chức tài chính trung gian, do
đó nó có chức năng gián tiếp tạo công ăn việc làm thông qua việc đầu tư , cho
vay vốn mà công ty thu được từ những người tham gia bảo hiểm . Như vậy, bảo
hiểm nhân thọ có một chức năng , một vai trò to lớn trong việc tạo việc làm , giải
quyết thất nghiệp cho xã hội .
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần giải quyết một số vấn đề như :
+ Vấn đề giáo dục
Đầu tư giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát
triển . Trong khi ngân sách Nhà nước còn eo hẹp và chi phí cho giáo dục ngày
càng tăng , chúng ta đã thực hiện một số giải pháp như : kêu gọi sự đóng góp của
các cơ quan , doanh nghiệp cho việc đào tạo giáo dục , triển khai cho sinh viên
vay vốn ngân hàng , hỗ trợ học tập . . . Tuy nhiên đó chỉ là những biện pháp vĩ
mô và mang tính chất tình thế , chưa thực sự huy động các tầng lớp trong xã hội
tham gia . Bảo hiểm nhân thọ - cụ thể là chương trình An sinh giáo dục là một
biện pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho việc giáo dục từ việc tiết
kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình . Đấy cũng là một giải pháp
góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội . Tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ
đảm bảo được quỹ giáo dục cho con cái ngay cả khi người trụ cột trong gia đình
mất hoặc giảm thu nhập .
+ Vấn đề xoá đói giảm nghèo
Mặc dù điều kiện sống đã được nâng cao nhưng không ai lường trước được rủi ro
và nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào . Tham gia bảo hiểm nhân thọ là một cách để
bảo vệ mỗi cá nhân trong gia đình chống lại sự bất ổn về mặt tài chính khi rủi ro
xảy ra . Xét về mặt xã hội , bảo hiểm nhân thọ đã góp phần làm giảm người bần
cùng nghèo khổ do những rủi ro gây ra .
+ Vấn đề người về hưu và cao tuổi
Điều kiện sống được cải thiện thì đời sống của con người cũng được nâng cao ,
dẫn tới tỉ lệ người già ngày càng cao trong dân số . Chính vì thế ta cần phải lo
cho tương lai khi về hưu , bảo hiểm nhân thọ chính là một công cụ để thực hiện
điều đó . Nói cách khác bảo hiểm nhân thọ đã góp phần giảm bớt gánh nặng trách
nhiệm cho xã hội đối với người về hưu , người già...
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần nâng cao phúc lợi xã hội
Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của mỗi công dân , sự xuất hiện của
bảo hiểm nhân thọ đã làm cho cuộc sống con người được bảo đảm và phát triển
một cách có kế hoạch . Sự phát triển này khiến chúng ta có độ thoả mãn cao hơn
về vật chất và tinh thần . Khi tham gia bảo hiểm nhân thọ chúng ta sẽ sống thoải
mái hơn vì đã có sự đảm bảo nhất định của công ty bảo hiểm . Do vậy, đứng trên
phương diện nào đó thì bảo hiểm nhân thọ đã và đang nâng cao phúc lợi xã hội .
Thêm vào đó ,bảo hiểm nhân thọ đang góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội như
cướp bóc , mãi dâm , cờ bạc v.v... Nếu như không có bảo hiểm nhân thọ thì khi
một người là lao động chính trong gia đình gặp tai nạnvà mất khả năng lao động,
lúc đó cuộc sống của toàn thể gia đình sẽ gặp muôn vàn khó khăn . Ai cũng có
mưu cầu hạnh phúc , mưu cầu tồn tại nhưnh khi không thể kiếm sống được bằng
lao động , bằng chính sức lực của mình thì rất có thể họ sẽ kiếm tiền bằng các
biện pháp phi pháp để đạt được mưu cầu này .Với sự đóng góp của mình , công
ty bảo hiểm nhân thọ đã góp phần hoàn thiện các công trình phúc lợi , các khu
vui chơi giải trí công cộng .
c. Đối với doanh nghiệp:
Doanh nghiệp hoặc cá nhân làm kinh doanh thường mua bảo hiểm nhân
thọ với một trong hai lý do sau:
• Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cá nhân có thể đảm bảo trả một khoản tiền
để công việc kinh doanh vẫn tiếp tục trong trường hợp tử vong của chủ doanh
nghiệp, đối tác hoặc những người chủ chốt.
• Một doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm nhân thọ để đảm bảo một số chế
độ đãi ngộ cho người làm công.
Điều đó có nghĩa là bất cứ một doanh nghiệp tư nhân hay các công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn đều có thể duy trì hoạt động kinh doanh của
mình nếu người chủ doanh nghiệp hoặc nhân vật chủ chốt bị tử vong.
Nếu người chủ doanh nghiệp chết cổ phần của anh ta trong doanh nghiệp sẽ trở
thành một phần tài sản thừa kế của anh ta và tài sản phải trả được dùng để trả các
khoản nợ - kể cả nợ kinh doanh . Nếu không đủ tiền trả nợ người thực hiện di
chúc bị buộc phải bán doanh nghiệp với khoản lỗ lớn để có được số tiền cần thiết
trả các khoản nợ. Đồng thời chỉ định một nhân viên có năng lực tiếp tục kinh
doanh. Thêm vào đó, người chủ sở hữu cho phép bán tài sản của anh ta cho
doanh nghiệp theo điều khoản hợp đồng mua bán nếu thành viên kia không đủ
tiền mua doanh nghiệp thì hoạt động bảo hiểm nhân thọ là cách phổ biến nhất đề
cấp vốn cho hoạt động này. Nhân viên mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của chủ
sở hữu doanh nghiệp vừa là chủ hợp đồng vừa là người trả phí bảo hiểm và là
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm đủ để người đó mua
doanh nghiệp.
Bảo hiểm nhân thọ thể hiện ở việc bảo hiểm tính mạng con người. Do đó khi chủ
doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nhân thọ thì sẽ đảm bảo cho quá trình kinh
doanh của công ty và cái chết của người này có thể gây thiệt hại về tài sản của
công ty.
Không chỉ có thế, bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo lập nên mối quan hệ vững
chắc giữa chủ doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong công ty thông qua
chế độ đãi ngộ. Với việc doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nhân thọ cho các nhân
viên, doanh nghiệp đã góp phần ổn định đời sống cho người lao động nếu không
may họ gặp rủi ro.
3. Đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ
a. Tính đa mục đích của bảo hiểm nhân thọ:
Đối với các loại bảo hiểm khác, người mua bảo hiểm chỉ có một mục đích là khi
xảy ra rủi ro được trả một số tiền đủ để thanh toán các chi phí phát sinh. Trong
bảo hiểm nhân thọ, người tham gia trông mong nhiều hơn và thực sự bảo hiểm
nhân thọ mang tính đa mục đích hơn, thể hiện ở:
Thứ nhất, bảo hiểm nhân thọ tạo ra một khoản tiền đáng kể giúp người được bảo
hiểm thực hiện được các ý định, công việc của mình.
Thứ hai, khi người được bảo hiểm đóng vai trò là người trụ cột trong gia đình
không may tử vong, số tiền bảo hiểm lúc này là khoản thu nhập quí giá giúp gia
đình người được bảo hiểm trang trải các chi phí cần thiết.
Thứ ba, trong một giới hạn nhất định, hợp đồng bảo hiểm trong thời hạn hiệu lực
được coi như một Tài sản thế chấp để người được bảo hiểm vay tiền của ngân
hàng.
Thứ tư, bảo hiểm nhân thọ đảm bảo được cuộc sống cho chính người được bảo
hiểm lúc tuổi già hay không may bị tàn tật.
b. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm hai sự
kiện trái ngược nhau trong cùng một hợp đồng:
Đó là hai sự kiện sống và chết. Trong bất kỳ một loại hình bảo hiểm nào khác, sự
kiện được bảo hiểm chỉ là một rủi ro gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Nếu
như không có rủi ro xảy ra trong thời hạn bảo hiểm nhà bảo hiểm sẽ hết trách
nhiệm với người được bảo hiểm. Nhưng trong bảo hiểm nhân thọ cụ thể trong
loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền
nhất định nếu người được bảo hiểm bị chết trước một thời điểm nào đó đã được
ghi trong hợp đồng hoặc nếu người được bảo hiểm còn sống đến hết thời hạn hợp
đồng.
Như vậy, việc trả tiền của nhà bảo hiểm là chắc chắn, nó chỉ còn tuỳ thuộc vào
thời gian xảy ra rủi ro và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm của người được bảo
hiểm.
Đây là một đặc trưng rõ nét nhất của bảo hiểm nhân thọ mà không một loại hình
bảo hiểm nào khác có được.
c. Vấn đề duy trì sức mua của đồng tiền trong bảo hiểm nhân thọ:
Vì thời gian của hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ là dải nên người ta không thể
không tính đến sức mua của đồng tiền. Trong thực tế, ở Việt nam có thời kỳ đồng
tiền bị mất giá tới hơn 90% trong 10 năm.
Giải quyết vấn đề này nhà bảo hiểm có thể áp dụng các phương pháp sau:
- Thông qua cơ chế đánh giá lại bằng cách xác định được thời điểm tính được sự
mất giá của đồng tiền. Điều này sẽ làm được nếu tính mức phí theo các năm. Đây
là một công việc khá phức tạp, hiện nay bảo hiểm nhân thọ ở Việt nam tính theo
mức phí cố định.
- Thông qua các cam kết của đôi bên (giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm) không được biểu hiện bằng tiền. Nghĩa là số tiền bảo hiểm trong các hợp
đồng bảo hiểm sẽ được biểu hiện qua các hình thức như:
+ Các ngoại tệ (đặc biệt là các ngoại tệ mạnh) có mức mất giá ít. Tuy nhiên điều
này liên quan tới luật pháp của các nước khác nhau.
+ Vàng, chứng khoán có giá, nhà cửa... người ta hy vọng rằng giá trị của các loại
này sẽ tăng, ít nhất cũng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền.
Ngoài các đặc trưng trên, một đặc trưng nữa của bảo hiểm nhân thọ đó là bảo
hiểm nhân thọ chịu sự tác động giao thoa của hai nhân tố: Nhân tố tuổi thọ và
nhân tố Tài chính. Cả hai nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài chính đều tác động đến
quá trình tính phí bảo hiểm và việc đem đầu tư số phí thu được của công ty bảo
hiểm nhân thọ.
Trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, cần phải duy trì sự công bằng trung thực
giữa nhà bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm.
Điều này được thể hiện rõ qua việc định phí bảo hiểm đối với các rủi ro có độ
trầm trọng tăng lên hoặc trong trường hợp rủi ro rất xấu. ở trường hợp thứ nhất
phải tăng phí, hoặc trong trường hợp thứ hai thì phí phải rất cao. Đó là điều quan
trọng đối với người làm bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tử kỳ thuần tuý, để đảm bảo sự công bằng, người tham gia bảo
hiểm không được phép thu về những khoản tiền tiết kiệm tích luỹ được khi họ bị
tử vong hay sắp bị tử vong.
Trên đây là những đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ, thể hiện sự khác biệt giữa
các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ với các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong
hệ thống bảo hiểm.
III . Các loại hình bảo hiểm nhân thọ và chương trình An sinh giáo dục trong bảo
hiểm nhân thọ
Như trên đã nêu, bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ mang ý nghĩa kinh tế - xã
hội sâu sắc . Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những khoản phí
trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản
lívà công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền khi kết thúc thời hạn hợp
đồng bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo hiểm hoặc
cho người thừa kế hợp pháp . Do đó bảo hiểm nhân thọ được hiểu như một sự
đảm bảo , một hình thức tiết kiệm và mang tính chất tương hỗ .Bảo hiểm nhân
thọ trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo hiểm xã hội
khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo hiểm xã hội chưa đáp
ứng được .
1 . Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản đang được triển khai
Hiện nay , hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ ở các nước trên thế giới đang
triển khai 4 loại hình bảo hiểm nhân thọ sau :
a. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn
Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn bao gồm các loại hình bảo hiểm trong đó tiền
bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm bị chết trong thời hạn bảo hiểm.
b. Bảo hiểm trọn đời
Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ mà thời gian bảo hiểm không
xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo
hiểm chết. Người được bảo hiểm sẽ đóng phí ngay từ khi ký hợp đồng cho đến
khi chết hoặc đến một độ tuổi nhất định
c. Bảo hiểm trợ cấp hưu trí
Đây là loại hình bảo hiểm đóng phí ngay một lần và công ty bảo hiểm nhân thọ
có trách nhiệm trả trợ cấp định kì cho người được bảo hiểm đến khi chết . Người
mua bảo hiểm thường kết hợp dạng bảo hiểm này với dạng bảo hiểm hưu trí .
Nghĩa là khi về hưu , người được bảo hiểm được số tiền khá lớn của hợp đồng
bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống
ngay sau khi về hưu cho đến lúc chết .
d. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm . Số tiền bảo
hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến hết hạn hợp
đồng . Thời hạn bảo hiểm được xác định trước . Riêng loại hình này cũng rất
phong phú,đa dạng như “ Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn , chương trình đảm bảo
cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( An sinh giáo dục ) , bảo hiểm hưu trí , bảo
hiểm cưới xin . Ngoài ra còn có các hợp đồng bảo hiểm mang tính chất đầu tư ,
trong đó số tiền trả khi hết hạn hợp đồng, phụ thuộc vào lĩnh vực và hiệu quả
mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn .
Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân , mỗi
người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm bảo hiểm nhân thọ sao cho
phù hợp với mục đích của mình .
2 . Giới thiệu hai loại hình bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đươc Bảo Việt triển khai
ở Việt Nam ( theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài
chính ).
a. Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm hoặc 10 năm .
- Khi hết hạn hợp đồng , nếu người được bảo hiểm còn sống sẽ được nhận số tiền
đã đóng khi kí hợp đồng .
- Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hợp đồng hết hạn , Bảo Việt sẽ trả số
tiền đã chọn khi kí hợp đồng cho người thừa kế hợp pháp của người được bảo
hiểm . Nếu khi qua đời ( không phải do tai nạn ) hợp đồng chưa đủ 1 năm thì Bảo
Vệt Nhân Thọ sẽ hoàn lại 80 % số phí bảo hiểm đã nộp .
- Nếu người được bảo hiểm bị thưong tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn , Bảo Việt
Nhân Thọ sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm, đồng thời ngừng thu phí nhưng hợp
đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực và bảo đảm đầy đủ các quyền lợ bảo hiểm .
- Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty sẽ trả cho người
được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh của Bảo Việt tại nghiệp
vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng bảo hiểm .
- Trong thời hạn bảo hiểm hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , nếu người
tham gia bảo hiểm gặp khó khăn về tài chính thì có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp
đồngvà nhận được số tiền gọi là giá trị hoàn lại hoặc duy trì miễn phí với số tiền
bảo hiểm giảm .
b. Chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( chương trình An
sinh giáo dục ) .
- Khi trẻ em đến tuổi trưởng thành ( năm 18 tuổi ) Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả số
tiền đã cam kết trong hợp đồng .
- Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt
ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ
em tròn 18 tuổi .
- Nếu trẻ em không may bị chết , Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã
nộp .
- Nếu người tham gia bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai
nạn , công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực .
- Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả
cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ
này vào ngày kết thúc hợp đồng .
- Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , người tham
gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị hoàn
lại .
Cả hai loaị hình này đều thuộc nhóm bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên thể hiện rất
rõ nét tính kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm .
Như vậy, nội dung của bảo hiểm nhân thọ rất rộng, rất đa dạng, phong
phú. Vì thế, nội dung chính của đề tài này chỉ giới hạn ở chương trình An Sinh
Giáo Dục
Phần II
Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ An sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm
nhân thọ
I . ý nghĩa của chương trình An sinh giáo dục .
Chương trình An sinh giáo dục là bảo đảm cho trẻ em tới tuổi trưởng thành.
Chương trình này là một loại hình thuộc bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên nó mang
tất cả các ý nghĩa , vai trò của bảo hiểm nhân thọ, ngoài ra nó còn mang một số
đặc trưng khác như:
- An sinh giáo dục : một giải pháp đầu tư cho tương lai , giúp con nhà nghèo có
thể học đại học .
Hiện nay có nhiều sinh viên phải bỏ dở việc học đại học , mà một trong
những nguyên nhân là do chi phí phải nộp cùng các khoản đóng góp quá cao .
Chi phí cho học hành trở thành vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội cũng như các
bậc phụ huynh mà phần lớn họ có mức thu nhập thấp . Nhà nước chủ trương
không bao cấp mà thu học phí của sinh viên là thể hiện phương châm “ Nhà nước
và nhân dân cùng làm” trong giáo dục . Đối với sinh viên việc học để tiếp thu
kiến thức đã là một công việc gay go , vất vả nhưng lo sao cho có đủ tiền nộp học
phí là chuyện rất khó khăn . Làm sao để con em mình có tiền đi học đại học ?
Vậy giải pháp có tính khả thi và phù hợp với tất cả mọi người hiện nay là gì ? Đó
là An sinh giáo dục .
An sinh giáo dục giúp cho mọi người thực hiện được mong ước cho tương
lai và đảm bảo quyền lợi cho chính con cái và gia đình .
- An sinh giáo dục mang ý nghĩa nhân văn, giáo dục sâu sắc
Là một loại hình của bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nên người tham gia chương
trình An sinh giáo dục chắc chắn sẽ nhận được số tiền vào một thời điểm nhất
định trong tương lai dù rủi ro không xảy ra . Tuy nhiên, nó lại thể hiện tính nhân
văn cao cả mà các loại hình bảo hiểm khác không thể hiện được. Có thể cùng
nhận một khoản tiền như bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm , 10 năm nhưng
nó mang một ý nghĩa to lớn hơn rât nhiều. Trong một xã hội nói chung và một gia
đình nói riêng, các thế hệ đi trước thường có mối quan tâm đặc biệt đối với các
thế hệ đi sau và chương trình An sinh giáo dục đã thể hiện rõ sự quan tâm đặc
biệt đó . Nó thể hiện sự chăm lo sâu sắc của ông bà , cha mẹ đối với con cháu và
ngược lại , nó làm cho thế hệ trẻ chúng ta biết sống vì người khác, hiểu rõ hơn sự
quan tâm của ông bà , cha mẹ để phấn đấu hơn trong học tập và rèn luyện .
- An sinh giáo dục còn góp phần tạo nên một phong cách , tập quán và lối sống
mới .
Người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm , tạo quyền lợi cho chính mình và con
cháu mình . Điều đó thể hiện một nét sống đẹp là biết chăm lo cho con cái và biết
tự lo cho chính bản thân . Cha mẹ tham gia chương trình An sinh giáo dục là một
cách để giáo dục con cái mình và sống có trách nhiệm với người khác .
- Tham gia chương trình An sinh giáo dục là góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội .
Vì “ Trẻ em hôm nay , thế giới ngày mai “ nên đầu tư cho giáo dục phải
được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển , nó làm cho sự
tiến bộ xã hội không ngừng được nâng cao .
An sinh giáo dục là một trong những giải pháp huy động nguồn vốn dài
hạn để đầu tư cho giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của
mỗi gia đình . Đây là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội .
Bảo đảm tương lai cho con em mình, cũng nên được coi là trách nhiệm của mỗi
gia đình - tế bào của xã hội với chức năng cơ bản tạo ra thế hệ kế cận ưu tú hơn.
- An sinh giáo dục là chưong trình bảo hiểm cho cả người tham gia bảo hiểm và
người được bảo hiểm .
Đây là một đặc trưng của bảo hiểm trẻ em vì khi ông ba, cha mẹ tham gia chương
trình An sinh giao dục cho con em mình thì đồng thời cũng bảo hiểm cho bản
thân mình.Đó là quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm.
* Một số điểm khác nhau giữa bảo hiểm trẻ em ( An sinh giáo dục) và bảo hiểm
học sinh :
- Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trẻ em dài hơn ( có thời hạn từ 5 đến
17 năm ) , còn bảo hiểm học sinh có thời hạn từng năm .
- Phạm vi của hợp đồng An sinh giáo dục hẹp hơn : sự kiện bảo hiểm chỉ có các
trường hợp là chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn, còn bảo hiểm học sinh có
phạm vi bảo hiểm rộng hơn : chết , thương tật , ốm đau , nằm viện , giải phẫu ...
- Trong hợp đồng An sinh giáo dục , người được bảo hiểm chắc chắn nhận được
số tiền bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng , còn với bảo hiểm học sinh thì số tiền bảo
hiểm chỉ nhận được khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra . Trường hợp bảo hiểm
học sinh,khi hết hạn hợp đồng mà không gặp rủi ro thì người được bảo hiểm sẽ
không nhận lại được khoản gì . Đây là điểm khác biệt rõ nhất giữa An sinh giáo
dục và bảo hiểm học sinh và với tất cả các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác .
-Độ tuổi tham gia của chương trình An Sinh Giáo Dục khác với bảo hiểm
toàn diện học sinh
II . Nội dung cơ bản của bảo hiểm trẻ em ( ASGD ) .
A . Hợp đồng bảo hiểm
Giấy yêu cầu bảo hiểm , điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản của
hợp đồng bảo hiểm .
1 . Giấy yêu cầu bảo hiểm
Khái niệm : là thể hiện ý nguyện được bảo hiểm , là bằng chứng của người tham
gia bảo hiểm và người mua bảo hiểm .
Nội dung của giấy yêu cầu : giấy yêu cầu là một ophần quan trọng của hợp
đồng bảo hiểm . Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về
bản thân : tên , tuổi , giới tính , chỗ ở , sở thích ; về tình trạng sức khoẻ : về điều
kiện bảo hiểm mà minh lựa chọn theo mẫu đã in sẵn . Trên cơ sở giấy yêu cầu
bảo hiểm , công ty bảo hiểm sẽ xem xét có nhận bảo hiểm hay không . Nếu đồng
ý chấp nhận bảo hiểm , công ty sẽ đưa ra một mức phí phù hợp . Sau khi nhận
được số phí đầu tiên , công ty sẽ phát hành hợp đồng bao gồm điều khoản và các
phụ lục . Một bản gửi lại cho khách hàng , một bản giữ lại ở công ty cùng với
giấy yêu cầu bảo hiểm.
2 . Các khái niệm chung .
2.1. Người tham gia bảo hiểm :
Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 60 , là người kê khai giấy yêu
cầu bảo hiểm , đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm .
Tên người tham gia bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm , là
người mà sinh mạng và cuộc sống và sinh mạng của họ được bảo hiểm theo các
điều kiện của hợp đồng bảo hiểm .
2.2. Người được bảo hiểm :
Trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 ( tính đến thời diểm gửi giấy yêu
cầu bảo hiểm ) . Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm
và hợp đồng bảo hiểm .
2.3.Tai nạn
Trong bảo hiểm nhân thọ quy ước “ Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân thể nào do
hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh , bất ngờ từ bên ngoài tác động
lên thân thể người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm , loại trừ ốm đau
hoặc bệnh tật hoặc bất kì trạng thái nào xảy ra tự nhiên hoặc quá trình thoái hoá “
. Như vậy những thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn , cảm , trúng gió bất ngờ
đối với người bảo hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm .
2.4.Thương tật toàn bộ vĩnh viễn .
Là khi người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị mất hoàn
toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của :
- Hai tay hoặc hai chân hoặc . . .
- Một tay , một chân hoặc hai mắt hoặc . . .
- Một tay , một mắt hoặc . . .
- Một chân , một mắt hoặc . . .
2.5. Giá trị giải ước ( hay giá trị hoàn lại ) :
Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ
hợp đồng trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực .
Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm trở nên .
Giá trị giải ước ứng với mỗi năm hợp đồngvào ngày kỉ niệm của hợp đồng bảo
hiểm ( là ngày kỉ niệm hàng năm của hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực
trong thời hạn bảo hiểm ) .
Giá trị giải ước luôn nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo hiểm đã
đóng góp với công ty bảo hiểm , nó chiếm khoảng 70 đến 80 % số phí bảo hiểm
đã đóng , vì người tham gia bảo hiểm phải thanh toáncho công ty những khoản
chi phí đã thực hiện hợp đồng như chi phí phát hành và quản lí hợp đồng , chi phí
khai thác... Tỷ lệ giải ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút , hấp dẫn
đối với khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia
bảo hiểm nhân thọ hay không .
2.6.Số tiền bảo hiểm giảm
Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên . Người tham gia
bảo hiểm có thể ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm này với số
tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo hiểm bị giảm .
Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia bảo hiểm
nhân thọ trong những lúc gặp khó khăn , đây là sự linh động của bảo hiểm nhân
thọ ứng với mỗi điều kiện khác nhau .
2.7.Phạm vi bảo hiểm :
Do đây là loại hình bảo hiểm nhân thọ nên phạm vi bảo hiểm ( rủi ro )
phải gắn liền với cuộc sống của con người . Do vậy ta phải phân ra :
- Rủi ro được bảo hiểm ( sự kiện được bảo hiểm )
+ Rủi ro còn sống : người được bảo hiểm sống đến hết hạn hợp đồng bảo hiểm .
+ Rủi ro tử vong : đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân : chết do tai
nạn hoặc chết cho bệnh tật .
Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm , trong bảo hiểm nhân thọ còn có
quy định về rủi ro loại trừ . Việc đưa ra các rủi ro nhằm hạn chế phạm vi trách
nhiệm của nhà bảo hiểm , mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ
chức kỉ luật , tôn trọng pháp luật , có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro .
- Rủi ro loại trừ xảy ra do mật số nguyên nhân sau :
+ Hành động cố ý của người được bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm hoặc
người được thừa kế .
+ Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm , người tham gia bảo
hiểm .
+ Người tham gia bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu , bia , ma tuý
hoặc các chất kích thích tương tự .
+ Do động đất , núi lửa v .v . . .
+ Do chiến tranh , bạo động v.v . . .
3 . Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm
a . Trách nhiệm của các bên .
* Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm ;
- Kí hợp đồng bảo hiểm : người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm , cùng
công ty bảo hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp
đồng .
- Trách nhiệm khai báo rủi ro : Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm , người tham gia
hợp đồng bảo hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty
bảo hiểm ( kê khai tình trạng sức khoẻ ) .
- Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm : đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty
bảo hiểm , theo quy định nộp phí của công ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ
sởthời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng . Người tham gia baỏ hiểm phải
đóng đầy đủ phí theo quy định và đúng hạn .
- Trách nhiệm khai báo , thông báo tổn thất : khi có sự cố rủi ro xảy ra , người
tham gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất , tình trạng
sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết . Bên cạnh đó phải
cung cấp đầy đủ hồ sơ cho công ty một cách trung thực , chính xác để công ty
căn cứ trả tiền bảo hiểm . Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ
.
* Trách nhiệm của công ty bảo hiểm :
- Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm.
- Đề phòng , hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực .
- Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là
thuế như đối với các doanh nghiệp khác .
- Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật .
b . Quyền lợi bảo hiểm
1) Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi , khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn ,
công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã
cam kết và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm .
2) Trường hợp ngưòi được bảo hiểm bị chểttước ngày hợp đồng bảo hiểm hết hạn
, công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ hoàn trả 100% số phí đã nộp . Tại sao khi rủi ro
xảy ra đối với ngưòi được bảo hiểm thì công ty chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp
mà không phải là số tiền bảo hiểm ? Vì khi người tham gia bảo hiểm nhân thọ kí
kết hợp đồng với mục đíchlà đảm bảo cho con em mình tới tuổi trưởng thành .
Do vậy khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bị chết thì ý nghĩa của chương trình
này không còn nữa , nên công ty bảo hiểm chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp .
3) Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết
3.1. Do tai nạn xảy ra sau 01 ngàykể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công
ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm từ kì thu phí bảo hiểm tiếp theo
ngay sau ngày xảy r tai nạn và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ
quyền lợi bảo hiểm .
Trường hợp tai nạn xảy ra trước thời gian 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo
hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm sẽ hoàn trả 80% số phí bảo hiểm đã nộp cho
người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm và hợp đồng này bị huỷ bỏ
.
3.2.Do các nguyên nhân khác ( trừ trường hợp tự tử và nhiễm virut HIV ) .
Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chưa đủ 1 năm , công ty bảo hiểm
nhân thọ sẽ hoàn trả cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm
80% số phí bảo hiểm đ• nộp và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị phá bỏ .
Khi hợp đồng bảo hiểm này có hiệu lực từ một năm trở lên , công ty bảo
hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm tiếp sau ngay sau ngày xảy ra tai nạn và
hợp đồng vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm .
3.3.Do nguyên nhân tự tử hoặc do nhiễm virut HIV .
Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , công ty bảo hiểm
nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm kể từ ngày đến kì thu phí tiếp theo ngay sau
ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vãn tiếp tục duy trì với đày đủ quyền lợi bảo
hiểm .
4) Trong trường hợp người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị
thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn .
Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do
tai nạn ( tai nạn được bảo hiểm ) thì sẽ được hưởng quyền lợi như phần 3.1 trên,
nghĩa là :
Tai nạn xảy ra sau một ngày hợp đồng có hiệu lực thì công ty sẽ ngừng thu
phí và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm.
Tai nạn xảy ra trước một ngày hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng này sẽ
bị xoá bỏ và công ty sẽ hoàn trả 80% số phí đã nộp cho người thừa kế hợp pháp.
Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai
nạn xảy ra sau 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo
hiểm nhân thọ trả cho người được bảo hiểm số tiền trợ cấp hàng năm bằng 1/4 số
tiền bảo hiểm cam kết cho đến ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn . Trường hợp tai
nạn xảy ra trước một ngày nói trên , công ty bảo hiểm nhân thọ hoàn trả 80% số
phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị huỷ bỏ .
Ngoài các quyền lợi nói trên và khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2
năm trở lên , công ty bảo hiểm còn có thể trả một khoản tiền lãi từ kết quả đầu tư
phí bảo hiểm nhân thọ của công ty cho người tham gia bảo hiểm vào ngày kỉ
niệm của hợp đồng bảo hiểm hoặc khi thanh toán giá trị giải ước hoặc vào ngày
thanh toán tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết và trả
cho người được bảo hiểm vào ngày đáo hạn của hợp đồng .
4 . Thủ tục bảo hiểm
4.1. Khi yêu cầu bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm phải điền đầy đủ , trung
thực vào giấy yêu cầu bảo hiểm , xuất trình giấy khai sinh của người được bảo
hiểm và giấy khai sinh hoặc chứng minh thư hay hộ khẩu của người tham gia bảo
hiểm cho công ty bảo hiểm nhân thọ.
4.2. Khi hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , người tham gia bảo hiểm
không tiếp tục nộp phí bảo hiểm nhưng vẫn muốn duy trì hợp đồng thì phải thông
báo bằng văn bản cho công ty bảo hiểm nhân thọ trước kỳ nộp phí tiếp theo 15
ngày,và công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ thông báo bằng văn bản cho người tham
gia bảo hiểm biết về số tiền bảo hiểm giảm tại thời điểm dừng đóng phí trong
vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của người tham gia bảo hiểm.
4.3. Trong thời gian 14 ngày kể từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên, người tham
gia BH có quyền từ chối không tiếp tực tham gia bảo hiểm. Trong trường hợp
này người tham gia bảo hiểm được nhận 100% số phí đã nộp.
4.4. Huỷ bỏ và thay đổi hợp đồng bảo hiểm:
a) Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực công ty bảo hiểm nhân
thọ không có quyền huỷ bỏ hay thay đổi các điều khoản, điều kiện của hợp đồng
này trừ khi đã có thoả thuận khác nhau giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và người
tham gia bảo hiểm
b) Trường hợp người tham gia bảo hiểm có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm
- Khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ hai năm, công ty bảo hiểm nhân thọ
không hoàn trả lại số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm.
- Khi hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên, công ty bảo hiểm nhân thọ
sẽ thanh toán cho người tham gia bảo hiểm giá trị giải ước tính đến thời điểm,
nhận được yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng và khoản tiền lãi của hợp đồng này từ kết
quả đầu tư phí bảo hiểm nhân thọ của công ty.
B. Phí và số tiền bảo hiểm
1. Phí bảo hiểm và nguyên tắc tính phí
Cũng như tất cả các loại hình bảo hiểm , phí bảo hiểm là cơ sở để xây dựng quĩ
bảo hiểm để chi trả cho người được bảo hiểm và các khoản phụ phí.
Phí bảo hiểm là số tiền cần phải thu của công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm
đảm bảo trách nhiệm của mình khi có các sự kiện bảo hiểm được xảy ra đối với
người tham gia bảo hiểm như: chết, hết hạn hợp đồng, thương tật và đảm bảo
cho việc hoạt động của công ty. Đây cũng là sự thể hiện trách nhiệm của người
tham gia bảo hiểm với công ty bảo hiểm nhằm nhận được sự bảo đảm trước
những rủi ro đã được nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Phí bảo hiểm có thể nộp một lần ngay sau khi ký hợp đồng hoặc có thể nộp định
kỳ trong năm. Phí nộp một lần sẽ phải đóng góp ít hơn so với tổng số chi phí
đóng góp hàng kỳ do hiệu quả đầu tư của việc đóng phí một lần cao hơn và chi
phí quản lý thấp hơn.
Nguyên tắc tính phí được dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách nhiệm của công
ty bảo hiểm và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm tính theo giá trị tại
thời điểm ký kết hợp đồng.
Trách nhiệm của người được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bằng trách
nhiệm của công ty bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng
Phí bảo hiểm gồm hai phần: phí thuần và phụ phí.
+ Phí thuần là những khoản phí dùng để chi trả cho người được bảo hiểm.
+ Phụ phí gồm:
- Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại
lý...
- Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả
chi phí thu phí BH ...
- Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường.
Cách xác định phí:
a. Phí thuần:
Có rất nhiều yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là:
- Tuổi thọ của người được bảo hiểm cụ thể là bảng tỉ lệ tử vong.
- Lãi xuất kỹ thuật: lãi xuất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí.
Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm , số tiền bảo
hiểm, cách thức nộp phí, tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn.
Qua bảng tỉ lệ tử vong ta có thể đưa ra số lượng những người còn sống (lx+n) ở
lứa tuổi x sau n năm. Từ đây có thể tính được xác suất sống và xác suất tử vong
của một người ở độ tuổi x sau n năm.
Tuổi
(x) Số người sống
(lx) Số người chết
(dx) Tỷ lệ chết
(1000.qx)
Lãi xuất kỹ thuật: nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm đầu tư cac khoản phí để đưa
ra một phần lãi làm giảm mức phí đóng của người tham gia. Mức lãi này càng
cao thì càng phải kích thích được số lượng người tham gia. Do vậy nhà bảo hiểm
phải đưa vào lãi suất tiền gửi để tính phí.
Trước khi tính phí ta cần hiểu một số khái niệm sau:
x: tuổi của người được bảo hiểm khi bắt đầu được nhận bảo hiểm.
lx: số người sống
l(x+n): số ngưòi được bảo hiểm sống sau n năm hợp đồng.
d(x+k): số người được bảo hiểm chết trong năm hợp đồng k.
n: thời hạn hợp đồng.
v: thừa số chiết khấu v=1/1+i.
T(x+k): số người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong năm hợp
đồng k.
C: số tiền bảo hiểm.
p: phí thuần.
p”: phí toàn phần.
Do bảo hiểm nhân thọ gồm nhiều trường hợp được trả số tiền bảo hiểm. Do vậy
phải xác định phí bảo hiểm cho từng trường hợp.
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hợp đồng:
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết
trước khi hết hạn hợp đồng:
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị thương tật
toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn:
( Theo điều qui định của nghiệp vụ thì khi người được bảo hiểm bị thương tật
toàn bộ vĩnh viễn sẽ được công ty bảo hiểm trả định kỳ 1/4 số tiền bảo hiểm
trong những năm còn lại của hợp đồng).
Phí bảo hiểm nhân thọ được xây dựng trên cơ sở P1 ,P2 ,P3.
P = P1 + P2 + P3.
b. Phí toàn phần:
Trên cơ sở phí thuần, nhà bảo hiểm căn cứ vào các khoản phụ phí để tính
ra khoản phí mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm.
Phí toàn phần = Phí thuần + Phụ phí
Thông thường thu phí chiếm khoảng 5% phụ phí, trong đó:
+ 3% chi phí quản lí
+ 2% chi phí khai thác hợp đồng
Mức phí không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng bảo hiểm, người tham gia
bảo hiểm có thể nộp theo tháng, quý, năm hoặc theo 2 kì trong năm. công thức
tính phí nộp mỗi kì (F) theo phí tháng như sau:
Nếu nộp phí theo quý thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
Fquí = Ftháng * 3*0,98
(so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo quý giảm 2 %)
Nếu nộp phí hai kỳ trong năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
F2 kì = Ftháng * 6 * 0,96
( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo hai kỳ trong năm
giảm 4 %)
Nếu nộp phí theo năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
Fnăm = Ftháng * 12 * 0,92
( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo năm giảm 8 %)
Phí bảo hiểm cho các mức số trên bảo hiểm được tính theo tỉ lệ sau:
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 5 triệu đến 30 triệuVNĐ- tính bằng 100% tỉ
lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 31 triệu đến 40 triệuVNĐ- tính bằng 98% tỉ
lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 41 triệu đến 50 triệuVNĐ- tính bằng 97% tỉ
lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
2 . Số tiền bảo hiểm
Đây là hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với người bảo hiểm . Trong
bảo hiểm nhân thọ ( cụ thể là bảo hiểm trẻ em) nhà bảo hiểm sẽ đưa ra nhiều mức
số tiền khác nhau và người tham gia bảo hiểm sẽ dựa trên khả năng tài chính của
mình để lựa chọn số tiền thích hợp nhất .
Đây cũng là số tiền người tham gia đăng kí với công ty bảo hiểm nhân thọ.
Người tham gia bảo hiểm nhân thọ có quyền lựa chọn một trong các mức
số tiền bảo hiểm sau : 3 triệu , 10 triệu , 15 triệu , 20 triệu , 30 triệu , 40 triệu , 50
triệu .
Phí bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm =
Tỷ lệ phí
3 . Quỹ dự phòng phí và quỹ dự phòng bồi thường
a . Quỹ dự phòng phí
Quỹ dự phòng phí là quỹ đảm bảo cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hạn
hợp đồng hoặc khi người bảo hiểm chết .
Nguyên tắc : dựa trên trách nhiệm tại thời điểm của công ty và người tham
gia bảo hiểm . Theo thời hạn của hợp đồng thì trách nhiệm đóng phí của người
tham gia bảo hiểm ngày một giảm đi trách nhiệm phải đóng phí ) còn trách
nhiệm của công ty ngày càng tăng lên .
Thời điểm tính : cuối năm nghiệp vụ .
Quỹ này đảm bảo khả năng chi trả của công ty bảo hiểm. Quỹ được trích
từ phí thu của người tham gia bảo hiểm và lãi đầu tư từ dự phòng phí năm trước;
phí thu trong năm .
b . Quỹ dự phòng bồi thường
Quỹ dự phòng bồi thường là quỹ đảm bảo cho những khiếu nại đã xảy ra
nhưng chưa thông báo ( vào năm tài chính trước ) hoặc những khiếu nại đã giải
quyết nhưng chưa thanh toán .
Nguyên tắc : dựa trên phương pháp thống kê của các năm trước về tỷ lệ những
khiếu nại đã xảy ra nhưng chưa baó cáo hoặc chưa thanh toán trên tổng số khiếu
nại của một số năm trước đó .
Quỹ này giúp cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh trong năm tài chính đó được
đúng hơn . Ngoài ra quỹ này nhiều khi còn tránh cho công ty phải nộp vào ngân
sách Nhà nước số lượng tiền lớn , do lãi của năm đó lớn bằng cách trích vào quỹ
theo tỷ lệ . Quỹ được trích từ tổng doanh thu
C. Chi trả bảo hiểm
1.Trường hợp sống đến hết hạn hợp đồng
Với : Hợp đồng bảo hiểm gốc , công ty sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ký kết
trong hợp đồng .
2.Trường hợp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm bị chết
Với : - Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm
- Hợp đồng bảo hiểm gốc
- Giấy chứng từ
Công ty bảo hiểm xem xét các giấy trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã
cam kết trong hợp đồng .
3. Trường hợp ngưòi tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm bị thương tật
toàn bộ vĩnh viễn .
Với :
- Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm
- Hợp đồng bảo hiểm gốc
- Biên bản tai nạn có xác nhận của công an hoặc cơ quan của người tham gia bảo
hiểm làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn .
- Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng thương tật của
người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm .
Công ty bảo hiểm xem xét các giấy tờ trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã
cam kết trong hợp đồng .
4 . Trường hợp huỷ bỏ hợp đồng đã có giá trị hoàn lại
Vớí :
- Giấy đề nghị huỷ bỏ hợp đồng
- Hợp đồng bảo hiểm gốc .
Trường hợp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm không trung
thực , hoặc không chấp hành đúng các điều quy định trong hợp đồng , công ty
bảo hiểm có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bảo hiểm tuỳ theo mức
độ vi phạm .
Công ty bảo hiểm có trách nhiệm giải quyết và trả tiền bảo hiểm hoặc thanh toán
giá trị hoàn lại , hoặc số phí đã nộp trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ
sơ đầy đủ và hợp lệ . Nếu quá thời hạn trên thì khi thanh toán công ty bảo hiểm
phải trả thêm lãi của số tiền này theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm thời hạn 3 tháng
do Ngân hàng Nhà nước quy định trong hợp đồng .
Phần III Tình hình triển khai chương trình an sinh giáo dục tại công ty Bảo Hiểm
Nhân Thọ
I. Một vài nét về công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ
1. Giới thiệu chung về công ty
Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ chính thức được thành lập theo quyết định số
568TC/QĐ -TCCB ngày 22/6/1996 của Bộ tài chính .
Bảo Hiểm Nhân Thọ trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt)
triển khai hoạt động từ 1/8/1996 với hai sản phẩm là bảo hiểm Nhân Thọ có thời
hạn 5 năm ,10 năm và bảo hiểm trẻ em -chương trình đảm bảo trẻ em đến tuổi
trưởng thành.
Sau 3 năm đi vào hoạt động với vốn điều lệ là 20 tỷ VNĐ , công ty Bảo Hiểm
Nhân Thọ đã không ngừng lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu .Từ lúc đầu
thành lập với bao nhiêu khó khăn nay đã trở thành một đơn vị kinh doanh lớn
mạnh với hai công ty là Bảo Hiểm Nhân Thọ Hà Nội và Bảo Hiểm Nhân Thọ
miền Nam .Hiện nay toàn công ty có 1335 đại lý chính thức và 649 đại lý phi
chính thức , trong đó chỉ tính riêng Hà Nội có 224 đại lý với đội ngũ cán bộ lành
nghề đã làm cho Bảo Hiểm Nhân Thọ có mức tăng trưởng cao , số lượng người
tham gia bảo hiểm ngày càng đông và chất lượng sản phẩm ngày một tăng, điều
đó đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam
Theo Quyết định số 11GD-HĐQG ngày 10/7/1996 của Hội đồng quản trị Tổng
công ty Bảo hiểm Việt Nam , hiện nay tổ chức bộ máy của Bảo Việt Nhân Thọ
bao gồm :
-Giám đốc
-Các phó giám đốc
-Các phòng quản lý và các phòng nghiệp vụ
-Các chi nhánh và các phòng Bảo Hiểm Nhân Thọ theo địa bàn trực thuộc công
ty .
Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất , là đại diện pháp nhân của công
ty và chịu trách nhiêm trước hội đồng quản trị , Tổng giám đốc Bảo Việt và trước
pháp luật về điều hành và hoạt động của công ty .
Phó giám đốc là người giúp giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt
động của công ty theo phân công của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám
đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giám đốc phân công thực hiện.
Công ty có hai phòng quản lý là phòng tổng hợp và phòng tài chính kế toán.
+ Phòng tổng hợp là bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của công ty, có
chức năng tổng hợp , tổ chức cán bộ , thi đua tuyên truyền, quảng cáo... Phòng
tổng hợp đảm bảo cơ sở vật chất cho mọi hoạt động của công ty. Chủ động quan
hệ với các phòng khác trong công ty .
+ Phòng tài chính kế toán là bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của công ty
.Có trách nhiệm xây dựng chỉ tiêu nội bộ , chịu trách nhiệm về tài chính và thống
kê tình hình thu chi của công ty .Tham gia xây dựng chế độ tài chính của Bảo
Hiểm Nhân Thọ .
Phòng nghiệp vụ bao gồm:
+ Phòng quản lý hợp đồng bảo hiểm là bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức
của công ty , có chức năng thực hiện quản lý tình trạng hiệu lực của hợp đồng
bảo hiểm và giải quyết mọi khiếu nại của khách hàng liên quan đến hợp đồng bảo
hiểm .
+ Phòng phát hành hợp đồng bảo hiểm là bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công
ty , có chức có chức năng thực hiện công tác đánh giá rủi ro, chấp nhận (từ chối )
và phát hành hợp đồng bảo hiểm .
+ Phòng đại lý bảo hiểm : là bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công ty , có chức
năng thực hiện công tác phát triển , tổ chức và quản lý đại lý của công ty.
Tất cả các phòng này đều quan hệ rất mật thiết với nhau và cùng ban giám đốc
đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh , đề ra các biện pháp và sách lược để
phù hợp với tình hình.
2. Những thuận lợi khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em tại công ty
Bảo Hiểm Nhân Thọ .
Kể từ ngày thành lập công ty đến nay , trong suốt quá trình triển khai nghiệp vụ
công ty chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố thuận lợi cũng như khó khăn tác
động trực tiếp và gián tiếp đến tình hình hoạt động và khả năng phát triển nghiệp
vụ của công ty .Cụ thể là một số thuận lợi và khó khăn cơ bản sau:
a. Những thuận lợi :
Thứ nhất: Theo xu hướng phát triển chung của nền kinh tế nước ta những năm
gần đây , thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế trong nước bắt đầu ổn định và
phát triển ,tốc độ tăng trưởng GDP đạt đến con số khả quan là 7-9%. Tỷ lệ lạm
phát được kiềm chế ở con số dưới 10% , giá trị đồng tiền ổn định ,đời sống nhân
dân được nâng lên.Tương ứng với mức thu nhập tăng lên thì nhu cầu tiết kiệm để
giành cho tương lai cũng tăng lên .Nhưng do đặc thù của khoản tiết kiệm nhỏ này
của người dân mà các hình thức huy động gửi tiền tiết kiệm khác không phù hợp
.Cho nên với những ưu điểm của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ chắc chắn sẽ phát
triển ở Việt Nam.
Thứ hai: Để điều chỉnh và tạo môi trường hành lang pháp luật thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh bảo hiểm , Bộ tài chính đã ban hành các văn bản pháp quy quan
trọng đó là thông tư số 26/1998/TT-BTC về hướng cẫn thủ tục cấp giấy chứng
nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện để hoạt động kinh doanh bảo hiểm ,thông tư số
27/1998/TT-BTC về việc hướng dẫn hoạt động khai thác và quản lý bảo hiểm và
thông tư số 28/1998 TT-BTC về việc hoạt động đại lý, cộng tác viên bảo hiểm .
Thứ ba: Công ty bảo hiểm nhân thọ là Công ty bảo hiểm trực thuộc Tổng công ty
Bảo Hiểm Việt Nam , do đó công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ được thừa hưởng uy tín
hơn 30 năm hoạt động của Bảo Việt đem lại ,đồng thời luôn nhận được sự quan
tâm ,giúp đỡ ,chỉ đạo của Tổng công ty .Đây là một thuận lợi mà không phải
công ty nào cũng có được.
Thứ tư: Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ được sự quan tâm theo dõi chỉ đạo của Bộ
tài chính .Hiện tại trong giai đoạn đầu , công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ là công ty
bảo hiểm duy nhất được triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ trên địa bàn cả
nước , nên trước mắt nghiệp vụ của công ty chưa gặp phải sự cạnh tranh nào trên
thị trường khi công ty mới bước vào hoạt động chưa đủ mạnh.Cũng trong giai
đoạn này ,Bộ tài chính tạm thời không tính thuế doanh thu với hoạt động kinh
doanh nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ của công ty .Đây cũng là yếu tố tích cực tạo
điều kiện cho nghiệp vụ của công ty phát triển.
Thứ năm: Công ty có mạng lưới cộng tác viên là các công ty bảo hiểm địa
phương ở các tỉnh trực thuộc hệ thống Bảo Việt , điều đó tạo điều kiện cho công
ty có thể phát triển nghiệp vụ này rộng khắp trên cả nước. Mô hình tổ chức cũng
như chất lượng cán bộ từ quản lý đến khai thác của công ty ngày càng được củng
cố và hoàn thiện cả về chất lượng và số lượng .
Thứ sáu: Là công ty bảo hiểm đầu tiên triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
nên rất được các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài quan tâm để hợp tác hoạt
động? Do vậy thời gian đầu công ty đã được các công ty bảo hiểm nhân thọ nước
ngoài cung cấp cho nhiều tài liệu để nghiên cứu học hỏi. Ngoài ra họ còn tạo điều
kiện cho cán bộ của công ty đi học để nâng cao trình độ nghiệp vụ...
b. Những khó khăn.
Thứ nhất: Nhìn chung nhận thức của mọi người về bảo hiểm nhân thọ còn hạn
chế, do vậy việc triển khai mở rộng của nghiệp vụ vẫn còn nhiều khó khăn.
Thứ hai: Người dân chưa thực sự tin tưởng vào giá trị của đồng tiền sau một thời
gian dài, và với đặc điểm của các sản phẩm Bảo Hiểm Nhân Thọ là loại hình bảo
hiểm mang tính chất dài hạn, do vậy họ nghĩ rằng số tiền nhận được trong tương
lai sẽ có giá trị bị giảm đi rất nhiều
Thứ ba: Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế thị trường tuy có tác
động tích cực song cũng tạo ra sự phân hoá sâu sắc giữa các tầng lớp dân cư , để
lại khoảng cách giầu nghèo lớn .Mặc dù những năm gần đây thu nhập bình quân
đầu người có tăng lên song thực tế mức sống của phần đông người dân lao động
và cán bộ công nhân viên chức vẫn còn ở mức thấp trong khi họ là những người
có ý thức tiết kiệm cho tương lai nhưng mức phí phần nào không phù hợp với khả
năng tài chính của họ.
Thứ tư: Sản phẩm Bảo Hiểm Nhân Thọ đã được Tổng công ty hoàn thiện , thay
đổi nhưng người dân lại cảm thấy thiệt thòi vì chi phí bảo hiểm cao hơn khi so
sánh các sản phẩm NA1,2,3 với NA 4,5,6. Một số điểm quy định trong điều
khoản bảo hiểm nhân thọ còn cứng nhắc , chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng
của khách hàng.
Thứ năm: Chương trình phần mềm tin học quản lý nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
còn nhiều bất cập , không ổn định và đầy đủ theo yêu cầu quản lý đã gây nhiều
khó khăn cho công ty.
Thứ sáu: Mô hình tổ chức và quản lý hệ thống đại lý Bảo Hiểm Nhân Thọ chưa
được Tổng công ty quy định thống nhất. Vì vậy ,trong quá trình thực hiện công ty
vừa phải nghĩ , vừa phải làm .
Thứ bảy: Đội ngũ cán bộ có chuyên môn được đào tạo cơ bản còn ít trong khi đó
phạm vi hoạt động của công ty lại quá rộng .Do vậy việc quản lý rất khó khăn,
đòi hỏi số đông cán bộ phải có năng lực .
Mặc dù trong năm 1998 có nhiều khó khăn tác động đến sự phát triển của nghành
bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng .Nhưng với sự nỗ lực ,cố
gắng phấn đấu của tập thể cán bộ công nhân viên toàn công ty trong công tác
kinh doanh.công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
II.Tình hình triển khai chương trình an sinh giáo dục ở công ty Bảo Hiểm Nhân
Thọ.
1. Đánh giá chung về kết quả nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
Bảng 4: Kết quả kinh doanh từ năm 1996 đến năm 1998
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998
1.Số lượng hợp đồng khai thác mới (Hợp đồng)
-Tổng số
-Nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
-Tỷ lệ phần trăm trong tổng số %
2.Doanh thu
-Doanh thu từ phí bảo hiểm
+Kế hoạch doanh thu
+Tỷ lệ đạt kế hoạch %
-Doanh thu phí bảo hiểm trẻ em
+Tỷ lệ trong tổng doanh thu (%)
-Doanh thu từ hoạt động đầu tư
3.Số hợp đồng trả tiền bảo hiểm
-Tổng số hợp đồng giải quyết trả tiền bảo hiểm
-Nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
-Hợp đồng bảo hiểm trẻ em huỷ bỏ
4.Tổng chi
-Chi trả tiền bảo hiểm
+Tổng số
+Nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
+Chi trả giá trị tự giải ước do hợp đồng bị huỷ bỏ
-Chi hoa hồng
+Tỷ lệ trên doanh thu %
-Chi quản lý kinh doanh
Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 1996 tuy
gặp nhiều khó khăn nhưng công ty cũng đạt được một số kết quả đáng chú ý sau:
-Từ chỉ tiêu (1) ta thấy :Số lượng hợp đồng bảo hiểm trẻ em không ngừng tăng
lên cả về mặt tuyệt đối và tương đối , so với năm 1996 có 1043 tổng số hợp đồng
, trong đó hợp đồng bảo hiểm trẻ em là 264 hợp đồng chiếm 25,31% ,đến năm
1997 là 2806 hợp đồng trong tổng số 6578 hợp đồng, chiếm 42,65% .Đến cuối
năm 1998 thì con số này là 8299 hợp đồng trong 17.822 hợp đồng chiếm 46,57%.
Như vậy số lượng người tham gia ngày càng đông chứng tỏ rằng công ty đã có
những cố gắng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường tuyên
truyền quảng cáo,tạo sự tin tưởng cho khách hàng .
Từ chỉ tiêu (2) ta có:
Nhìn chung công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch về doanh thu, đặc biệt là
năm 1997 đã hoàn thành vượt mức kế hoạch là 112,5%
Đến hết năm 1996 , công ty mới đi vào hoạt động được năm tháng, doanh thu phí
bảo hiểm của công ty đã là 2013 tỷ đồng , trong đó từ nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
là 775 triệu đồng chiếm 38,5% .Đây là con số khá khiêm tốn nhưng cũng đủ thể
hiện được sự nỗ lực của cán bộ nhân viên công ty mới bước đầu khởi hành trên
lĩnh vực này , đồng thời phản ánh được phần nào sự chấp nhận của thị trường về
sản phẩm mới này của công ty .Đến cuối năm 1998 , doanh thu từ nghiệp vụ bảo
hiểm trẻ em này đã là 12.800 tỷ VNĐ trong tổng số 30.054 tỷVNĐ chiếm
42,59% doanh thu toàn công ty. Điều đó cho ta thấy doanh thu từ nghiệp vụ bảo
hiểm này đang có xu hướng chiếm phần lớn tổng doanh thu của công ty và thể
hiện tiềm năng đang dần được khai thác.
Doanh thu của nghiệp vụ này năm 1998 so với hai năn trước tăng lên rất nhanh,
so với năm 1996 nó tăng 12 tỷ VNĐ tức gần gấp 6 lần ,so với năm 1997 là 11 tỷ
VNĐ, gần gấp 7 lần .
Môi trường đầu tư của ta ngày càng được mở rộng cả về mặt chiều rộng lẫn
chiều sâu , nên doanh thu từ hoạt động đầu tư của công ty cũng không ngừng tăng
lên.,so với năm 1996 ta mới đi vào kinh doanh nên hoạt động đầu tư chưa thu
được kết quả , thì đến năm 1997 , doanh thu của hoạt động đầu tư là 727
triệuVNĐ chiếm 17,12% tổng doanh thu và đến năm 1998 đã là 8.132 triệu VNĐ
chiếm 27,1% tổng doanh thu.
Từ đó , cho thấy nghiệp vụ này không ngừng được hoàn thiên và nâng cao cả về
chất lượng và số lượng , Công ty đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong khâu tổ
chức , cũng như khâu khai thác,trình độ của cán bộ , đại lý được nâng cao và đăc
biệt là coi trọng mở rộng quy mô mạng lưới khai thác xuống tất cả các quận
huyện thuộc địa bàn Hà Nội (gồm 9 phòng khai thác và 2 tổ với 243 cán bộ khai
thác ).
- Mặt khác ta xét về số hợp đồng trả tiền bảo hiểm trong ba năm ta thấy: Năm
1996 có 2 trường hợp phải bồi thường nhưng không phải hợp đồng bảo hiểm trẻ
em nên số tiền bồi thường cho nghiệp vụ này không có. Đến năm 1997 thì số tai
nạn xảy ra trong nghiệp vụ này tăng lên 8 trường hợp trong tổng số 6 trường hợp
bồi thường và năm 1998 là năm trường hợp trong tổng số 17 trường hợp .Do vậy
, cùng với việc không ngừng có nhiều người tham gia vào loại hình bảo hiểm này
thì cùng với nó số tai nạn rủi ro được công ty bảo hiểm cũng tăng lên , đòi hỏi
công ty phải tăng cường đề phòng và hạn chế tổn thất .
Tổng số các khoản chi thì khoản chi hoa hồng cho người khai thác vẫn chiếm tỷ
trọng lớn nhất . Năm 1996 , chi hoa hồng là 103 triệu , chiếm 5,12% tổng doanh
thu , đến năm 1997 con số này là 191 triệu VNĐ tức 6,97% và năm 1998 là 3,5
tỷ chiếm 11,60% .Đến năm 1998 số tiền này tăng vọt lên là chủ yếu do công ty
tiến hành mở rộng mạng lưới đại lý khai thác , do đó số lượng nhân viên khai
thác tăng lên làm cho khoản chi hoa hồng ở mức khá cao. Nếu cơ cấu này tiếp tục
diễn biến trong vài năm tới , thì công ty cần phải điều chỉnh lại tỷ lệ .
Trong tổng số chi phí thì chi trả tiền bảo hiểm chiếm một tỷ lệ ít ,năm 1996 với
tổng số tiền chi trả là 7,8 triệu VNĐ nhưng không phải nghiệp vụ này , năm 1997
là 17,8 triệuVND , trong đó giải quyết trả tiền cho nghiệp vụ này là 4,3 triệu
VNĐ .Đến năm 1998 là 2,4 triệuVNĐ trong số 36,9 triệu . Như vậy trong tổng số
tiền chi trả tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm thì số tiền chi trả tiền bảo
hiểm cho nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em chiếm một tỷ lệ rất ít, khoảng 6% , điều đó
chứng tỏ chất lượng sản phẩm này tốt.
Đến năm 1998 có 31 hợp đồng huỷ bỏ sau hai năm và công ty đã chi trả giá trị
giải ước là 65,52 triệu VNĐ , trong đó nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em có 9 hợp đồng
với số tiền trả cho khách hàng là 19,02 triệu . Điều này cho thấy chúng ta cần
phải nâng cao nghiệp vụ này, không ngừng hoàn thiện sản phẩm để cho người
tham gia bảo hiểm tin tưởng vào loại hình này. Tuy nhiên tổng số tiền chi trả bảo
hiểm cho nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em chỉ là 21,42 triệu VNĐ, chiếm 20.09% chi
trả tiền bảo hiểm cho các nghiệp vụ ,số tiền này không cao nằm trong khuôn khổ
cho phép , thể hiện được chất lượng khai thác của công ty.Đây là điều chúng ta
cần quan tâm để duy trì để nâng cao hiệu quả khai thác.
2. Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em trong quý I năm 1999
tại công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ.
Mọi nghiệp vụ bảo hiểm dù nhân thọ hoặc phi nhân thọ cũng đều phải qua các
bước : khai thác , đánh gía rủi ro , công tác quản lý , theo dõi và lưu trữ hợp đồng
, công tác đề phòng , hạn chế tổn thất , công tác giám định .Mà nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọ thường là rất dài so với phi nhân thọ. Do vậy việc đánh giá kết
quả kinh doanh của nghiệp vụ này sẽ không được cụ thể, mà ở đây chúng ta chỉ
đánh giá sơ lược kết quả ở quý I năm 1999 .
2.1. Công tác khai thác:
Khai thác là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất
bại của bất kỳ nghiệp vụ nào .
Mục tiêu của công tác khai thác bảo hiểm là tác động được số đông người tham
gia, thực chất của công tác này là tuyên truyền vận động các đối tượng hiểu về
nội dung, mục đích , ý nghĩa của nghiệp vụ .Trong khi đó nghiệp vụ bảo hiểm trẻ
em không chỉ mới đối với mọi người dân mà còn mới đối với cả người làm trong
công tác bảo hiểm . Do vậy , công tác tuyên truyền quảng cáo đối với nghiệp vụ
này càng quan trọng hơn .
Làm tốt công tác khai thác có ý nghĩa rất lớn đối với việc triển khai nhiệm vụ,
tạo cơ sở đảm bảo cho việc triển khai thành công .Thông qua khâu khai thác mới
vận động được mọi người tham gia bảo hiểm từ đó có phí bảo hiểm để hình thành
nên quỹ bảo hiểm , tạo điều kiện thực hiện các công việc tiếp theo .Ngược lại
khâu khai thác làm không tốt , số lượng người tham gia ít, không đảm bảo nguyên
tắc "số đông bù số ít" thì việc hoạt động của công ty khó có thể được bảo đảm.
Nhận thức được điều đó, công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ một mặt tiến hành các
biện pháp tuyên truyền , giải thích trên các phương tiện thông tin đại chúng về
các điều khoản quy tắc chung về bảo hiểm Nhân Thọ , mặt khác công ty chú
trọng xây dựng mạng lưới đại lý , cộng tác viên rộng khắp. Đây là một việc làm
hết sức cần thiết đối với công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ và đã thu được nhiều kết
quả đáng khích lệ .
- Trong 4 tháng đầu năm , công ty đã khai thác mới được 4881 hợp đồng. Như
vậy số hơp đồng có hiệu lực tính đến hết ngày 30 tháng 4 năm 1999 là 25.824
hợp đồng .
Bảng 5: Kết quả khai thác theo từng loại sản phẩm
Loại sản phẩm Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4
Bảo hiểm và tiết kiệm 5 năm(NA4) 554 274 473 695
Bảo hiểm và tiết kiệm10 năm (NA5) 33 15 30 39
An sinh giáo dục ( NA6 ) 594 306 634 937
Tổng 1478 595 1137 1617
Nguồn: Công ty bảo hiểm nhân thọ
Xét theo thời gian thì tháng 2 số hợp đồng giảm xuống rồi tăng dần lên trong 2
tháng sau với tháng 4 đạt số hợp đồng cao nhất trong quý I là 1671 hợp đồng
.Trong đó số lượng từng sản phẩm trên tổng số các hợp đồng không ngừng tăng
lên qua các tháng , tháng 1, tỷ lệ hợp đồng an sinh giáo dục trên tổng số hợp
đồng là 40,19% ;tháng 2 là 51,42% ;tháng 3 là 53,76%, đến tháng 4 con số này
đã là 56,07% .Như vậy cho thấy sản phẩm an sinh giáo dục chiếm một tỷ trọng
rất lớn trong các sản phẩm bảo hiểm Nhân Thọ , và nó không ngừng tăng lên cả
về số tương đối và số tuyệt đối, thể hiện tiềm năng rất to lớn của sản phẩm này.
Số lượng hợp đồng bị huỷ bỏ cũng tăng lên qua các tháng, trong đó số hợp đồng
bảo hiểm trẻ em bị huỷ bỏ chiếm một tỷ lệ khá lớn. Chỉ riêng trong tháng 3 nó
đã chiếm 73,62% tổng số hợp đồng bị huỷ bỏ. Chính vì vậy không ngừng hoàn
thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm An Sinh Giáo Dục là hết sức cần thiết để
có thể giảm bớt số lượng hợp đồng bị huỷ bỏ.
Nhận xét chung:
Tuy tình hình kinh tế quý I/1999 có nhiều yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến hoạt
động khai thác , nhưng kết quả đạt được là khả quan, đáng khích lệ , thể hiện ở
những mặt sau:
-Sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên từ cán bộ quản lý đến cán
bộ khai thác .
-Mạng lưới khai thác ngày càng được mở rộng , chất lượng cán bộ khai thác ngày
càng được nâng cao
- Đã hình thành mạng lưới khai thác với cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh từ cấp công ty
, phòng , tổ ,sinh hoạt của phòng khai thác dần dần đi vào nề nếp. Đa số các
trưởng phòng khai thác , các tổ trưởng đã hoàn thành được các công việc được
giao về các mặt như : tổ chức khai thác , quản lý duy trì chế độ sinh hoạt hàng
ngày , đôn đốc , kiểm tra cán bộ khai thác trong thực hiện các quy định của công
ty .
- Các phòng đã chủ động tìm ra các phương pháp khai thác riêng theo từng địa
bàn hoạt động .Tuy nhiên ,vẫn còn xảy ra tình trạng chồng chéo , cạnh tranh giữa
các phòng khai thác
-Công tác tuyên truyền quảng cáo đã làm cho nhiều người hiểu và tin tưởng vào
sự hoạt động của công ty nên đã làm cho nhu cầu bảo hiểm Nhân Thọ tăng .
Một số nguyên nhân dẫn tới việc khâu khai thác có phần chậm lại trong tháng 2
là :
-Số lượng ngày nghỉ ,ngày lễ lớn làm cho người dân không tập trung vào loại
hình bảo hiểm này .
-Sự khủng hoảng tài chính khu vực vẫn chưa khắc phục hết dẫn đến tâm lý vẫn
còn hoang mang của khách hàng về sản phẩm bảo hiểm Nhân Thọ .
-Do sự thay đổi về cách thức quản lý kinh doanh của Tổng công ty trong tháng 2
và chuẩn bị hai sản phẩm mới vào đầu tháng 7: bảo hiểm niên kim và bảo hiểm
trọn đời .
-Trình độ khai thác của các cán bộ không đồng đều .Một số cán bộ khai thác còn
thiếu kinh nghiệm , cũng như các kỹ năng giao tiếp còn yếu. Hiện nay, các cán bộ
có khả năng khai thác tốt lại quản lý nhiều hoạt động, quỹ thời gian để thu phí
định kỳ chiếm thời gian phần lớn trong ngày ,nên chưa phát huy được khả năng
khai thác mới .
-Từ đầu năm, hầu hết các phòng đầu sử dụng phương pháp khai thác thông qua
hình thức tuyên truyền, giới thiệu tập thể. Sử dụng phương pháp có thể khai thác
được nhiều hợp đồng cùng một lúc nhưng tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng cũng cao .Để
nâng cao chất lượng khai thác, công ty đã thay đổi phương pháp khai thác và
khuyến khích cán bộ khai thác tập trung trong việc giới thiệu, khai thác đối với
những cá nhân , do đó số lượng hợp đồng khai thác mới cũng giảm
- Một số cán bộ còn chưa xác định được đúng đắn nghề nghiệp , chưa thực sự
chăm chỉ, quyết tâm .
- Việc áp dụng quy trình khai thác mới theo quy định của Tổng công ty đã có tác
dụng nâng cao chất lượng khai thác nhưng cũng làm cho số lượng hợp đồng khai
thác giảm .
2.2. Công tác đánh giá rủi ro ban đầu.
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm nhân thọ cũng rất coi trọng
công tác đánh giá rủi ro nhằm loại bỏ hoặc từ chối không bảo hiểm cho các sự cố
rủi ro chắc chắn xảy ra liên quan đến trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm.
Bên cạnh đó, bảo hiểm nhân thọ còn mang nét đặc thù riêng, việc trả tiền bảo
hiểm là chắc chắn, chỉ có thời điểm trả tiền bảo hiểm là không chắc chắn. Do vậy
với những rủi ro chắc chắn xảy ra thì việc từ chối không nhận bảo hiểm là cần
thiết.
Yêu cầu của công tác này rất cao, khoản chi cho nó được tính vào phí bảo hiểm,
nó được chi ngay vào thời điểm ký hợp đồng và hiệu qủa kinh doanh của nghiệp
vụ cũng phần nào phụ thuộc vào công tác này.
Nội dung công việc bao gồm:
- Đánh giá tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm, người tham gia bảo
hiểm.
- Đánh giá khả năng tài chính của khách hàng liên quan đến trách nhiệm đóng phí
đủ, đúng hạn trong suốt thời hạn hợp đồng.
- Đánh giá hành vi pháp luật của người tham gia bảo hiểm, xem xét mục đích của
người tham gia bảo hiểm (có lợi dụng bảo hiểm để hưởng quyền lợi bảo hiểm
không ?)
Năm 1998 công tác đánh giá rủi ro phần nào được xem nhẹ, hầu hết khách hàng
khi kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm xong là cán bộ khai thác viết hoá đơn thu phí
và lập tức công ty phát hành hợp đồng. Tuy nhiên chưa có trường hợp nào trục
lợi bảo hiểm xảy ra.
Năm 1999 để thực hiện phương châm “ tăng trưởng và tăng cường quản lý” công
ty đã thực hiện quy trình khai thác mới. Giấy yêu cầu bảo hiểm sau khi được
đánh giá rủi ro, chấp nhận bảo hiểm thì cán bộ khai thác mới tiến hành thu phí
bảo hiểm đầu tiên. Kết quả của công tác đánh giá rủi ro ban đầu rất quan trọng,
nó ảnh hưởng đến chất lượng khai thác bởi vì các cán bộ khai thác là những
người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Để thực hiện công việc trên, công ty đã
biên soạn tài liệu và tập huấn quy trình đánh giá rủi ro cho cán bộ khai thác và
thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh các phòng khai thác trong việc thực hiện quy
trình khai thác của Tổng công ty. Tất cả các giấy yêu cầu bảo hiểm đều được cập
nhật vào sổ, sau đó đánh giá rủi ro theo các yếu tố về sức khoẻ, tài chính của
người tham gia bảo hiểm để xem xét quyết định chấp nhận hoặc từ chối bảo
hiểm.
Công ty đã thường xuyên nghiên cứu tìm hiểu các trường hợp hoàn phí trong
vòng 14 ngày, những trường hợp chết do bệnh tật, tiến hành kiểm tra sức khoẻ
những khách hàng có độ tuổi trên 50 và có nghi ngờ về những điều kê khai trong
giấy yêu cầu bảo hiểm để đánh giá tình hình sức khoẻ, bệnh tật và các nguyên
nhân gây tử vong cũng như khả năng tài chính của khách hàng giúp cho việc hoàn
thiện quy trình đánh giá rủi ro.
Đầu năm 1999 công ty đã từ chối chấp nhận bảo hiểm 9 trường hợp trong đó có 6
trường hợp bảo hiểm trẻ em, chủ yếu do các nguyên nhân sau:
+ Người tham gia bảo hiểm không đảm bảo sức khoẻ.
+ Người tham gia bảo hiểm không phải là bố mẹ trẻ em hay người giám hộ hợp
pháp hoặc không đủ giấy tờ hợp lý cần thiết để nhận bảo hiểm như quy định
trong điều khoản.
+ Người tham gia bảo hiểm quá tuổi theo quy định
2.3. Công tác quản lý hợp đồng.
Việc cập nhật cấp nhận hoá đơn thu phí bảo hiểm đầu tiên và định kỳ được tiến
hành đầy đủ, chính xác và tạm thời. Hàng tháng công ty đã tiến hành đối chiếu số
liệu thu phí bảo hiểm giữa nghiệp vụ với kế toán, đảm bảo chính xác số phí thu
trong tháng và số hoá đơn phát hành.
Giải quyết những đề nghị của khách hàng liên quan đến tình trạng hiệu lực của
hợp đồng như: thay đổi về địa chỉ, định kỳ thu phí, huỷ bỏ hợp đồng, thay đổi
cán bộ khai thác theo dõi hợp đồng... được thực hiện một cách nhanh chóng kịp
thời không để tồn đọng và đảm bảo việc theo dõi thu phí không bị bỏ sót và từ đó
tính hoa hồng cho cán bộ khai thác một cách chính xác.
Khi có hợp đồng phát sinh các yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm, cán bộ của
công ty đã phối hợp ngay với cán bộ khai thác liên hệ với khách hàng để hướng
dẫn các thủ tục trả tiền bảo hiểm, xác minh các giấy tờ liên quan hồ sơ trả tiền
bảo hiểm đảm bảo đầy đủ, đúng theo quy định của Tổng công ty và nhanh chóng
hoàn tất hồ sơ trong thời gian sớm nhất. Trong năm không có bất kỳ một khiếu
kiện nào của khách hàng liên quan đến công tác giải quyết quyền lợi bảo hiểm
cũng như tình trạng hiệu lực của hợp đồng.
Đầu các tháng, công ty thực hiện in kế hoạch thu phí phát cho cán bộ khai thác
để thực hiện thu phí định kỳ đầy đủ và theo dõi tình hình thu phí của từng hợp
đồng. Phối hợp với cán bộ khai thác kiểm tra đối chiếu tình hình thu phí, nợ phí
và có biện pháp để thu. Kịp thời thông báo bằng văn bản các hợp đồng nợ phí
theo hai lần: lần 1 sau 30 ngày lần 2 sau 70 ngày và gửi thông báo chia lãi cho
các hợp đồng đã có hiệu lực trên 2 năm giải quyết các yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng,
những hợp đồng nhận giá trị giải ước và những hợp đồng nợ phí quá 70 ngày
theo đúng quy định của Tổng công ty.
Công ty đã tiến hành mở sổ theo dõi chi tiết tình trạng của hợp đồng như: sổ theo
dõi các hợp đồng huỷ bỏ, sổ theo dõi thanh toán tiền bảo hiểm, sổ theo dõi hợp
đồng hoàn phí, sổ theo dõi hợp đồng thay đổi địa chỉ. Thống kê tỷ lệ thu phí đúng
hạn, tỷ lệ phí duy trì của hợp đồng của từng cán bộ khai thác phục vụ cho công
tác đánh giá, phân loại cán bộ khai thác cuối tháng việc lập báo cáo nghiệp vụ
được đảm bảo đầy đủ nội dung, đúng thời gian theo quy định của Tổng công ty.
Tuy nhiên do trình độ, kinh nghiệm của cán bộ cũng như chương trình phần mềm
quản lý hợp đồng còn hạn chế nên dẫn đến không theo dõi được tình trạng nộp
phí của từng hợp đồng. Từ đó không xác định tình trạng nợ phí của hợp đồng và
việc xác định nhiều khi chưa chuẩn xác. Vì vậy Công ty đã tập trung mạnh vào
việc giải quyết các hợp đồng nợ phí.
Tính đến hết ngày 31 tháng 5 năm 1999 toàn công ty có:
+ 672 hợp đồng nợ phí trên 30 và dưới 70 ngày với tổng số phí nợ là 421 triệu
đồng
+ 135 hợp đồng nợ phí trên 70 ngày với tổng số phí là 49 triệu đồng.
Một số nguyên nhân chính dẫn đến tình hình nợ phí nhiều trong thời gian qua là:
+ Do khách hàng đi công tác xa dẫn đến nợ phí trong một thời gian dài, sau đó
khách hàng lại đóng phí đuổi. Vì vậy hợp đồng luôn luôn ở trong tình trạng nợ
phí.
+ Khách hàng gặp nhiều khó khăn tạm thời về vấn đề tài chính.
+ Khách hàng không nộp phí nhưng cũng không ký vào giấy đề nghị huỷ bỏ hợp
đồng.
+ Thời gian đầu công ty tập trung nhiều vào khai thác cho nên buông lỏng công
tác quản lý hợp đồng, thêm vào đó lại khai thác nhiều tại thị trường giáo dục. Do
đó trong thời gian nghỉ hè, giáo viên các trường đều nghỉ học. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến việc thu phí không hoàn thành theo kế hoạch.
+ Việc đối chiếu số liệu, xác định hợp đồng nợ phí, gửi thông báo nợ phí của
công ty đến khách hàng trong những tháng đầu năm chưa thực hiện đầy đủ, còn
nhiều thiếu sót.
+ Một số cán bộ khai thác chạy theo khai thác hợp đồng mới, do đó còn lơi là
trong công tác thu phí định kỳ.
Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian qua công ty đã tiến hành hàng loạt các
biện pháp đồng bộ như:
+ Thường xuyên gửi thông báo đến từng cán bộ khai thác và từng khách hàng
thông báo tình trạng nợ phí từ 30 đến 70 ngày, trên 70 ngày.
+ Cùng cán bộ khai thác đến từng khách hàng tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình
trạng nợ phí và có biện pháp giải quyết cụ thể cho từng trường hợp cụ thể.
Trường hợp khách hàng không có lý do chính đáng thì tiến hành làm thủ tục huỷ
bỏ theo quy định của điều khoản hợp đồng.
+ Cung cấp các thông tin về quá trình nộp phí của khách hàng như ngày nôp tổng
số tiền đã nôp .v.v. để khách hàng yên tâm biết rõ tổng số phí đã đóng và số phí
còn thiếu để đốc thu.
+ Việc đưa chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch thu phí là một chỉ tiêu đánh giá xét
thưởng thi đua đã góp phần thúc đẩy cán bộ khai thác tăng cường thu phí và giảm
bớt số phí nợ.
2.4. Công tác tuyển dụng và đào tạo.
Trong 4 tháng đầu năm 1999, Công ty đã tuyển dụng 2 khoá cán bộ khai thác
khoá 10 và khoá 11 với số lượng là 78 người. Rút kinh nghiệm của những lần
tuyển chọn trước, công ty đã áp dụng quy trình tuyển chọn mới, từ đó đã khắc
phục được những điểm yếu của những lần tuyển chọn trước đây: như chú trọng
vào việc định hướng công việc của cán bộ khai thác bảo hiểm nhân thọ cho tuyển
viên trước khi tham dự phỏng vấn nhằm loại bỏ những cá nhân chưa xác định
đúng đắn nghề nghiệp, tuyển chọn những người có hộ khẩu Hà Nội, có lý lịch
bản thân cũng như gia đình rõ ràng, có khả năng tài chính ổn định nhằm hạn chế
khả năng chiếm dụng phí. Đồng thời sau khi phỏng vấn Công ty đã tiến hành
thẩm tra, xác minh lý lịch của từng người.
Những người này sau khi được tuyển chọn ban đầu sẽ tham dự các khoá đào tạo
kéo dài trong 6 - 7 ngày. Nội dung các khoá đào tạo đó đã được sửa đổi và phong
phú hơn. Cụ thể ngoài việc trang bị các kiến thức đại cương về bảo hiểm nói
chung, bảo hiểm nhân thọ, quy trình khai thác, Marketing trong bảo hiểm, Công
ty đã tiến hành trang bị các kiến thức về thực hành bán hàng và tổ chức thực tập
các kỹ năng bán sản phẩm.
Hiện nay tổng số cán bộ khai thác toàn công ty là 224 người. Trong đó:
+ Đại lý chuyên nghiệp là: 209 người.
+ Đại lý bán chuyên nghiệp: 15 người.
+ Cộng tác viên bảo hiểm có 3 đơn vị là: Trung tâm chuyển tiền Bưu điện Hà
Nội, công ty NASSCO và công ty Du lịch cựu chiến binh.
Đầu tháng 3 năm 1999 công ty đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ về các sản phẩm
mới cho toàn bộ cán bộ khai thác. Sau khoá tập huấn công ty đã tổ chức kiểm tra,
kết quả cho thấy hơn 75% tổng số cán bộ khai thác đạt kết quả từ trung bình khá
trở lên. Số cán bộ không đạt yêu cầu và không tham dự kiểm tra, công ty đã yêu
cầu dừng không cho khai thác sản phẩm mới cho đến khi kiểm tra đạt yêu cầu
mới cho tiếp tục khai thác. Qua đợt tập huấn và thực tiễn khai thác cho thấy cần
thiết phải tăng cường công tác trao đổi thường xuyên nghiệp vụ và nâng cao ý
thức tổ chức kỷ luật.
Để triển khai bảo hiểm Nhân thọ trọn đời và bảo hiểm niên kim vào đầu tháng 7.
Công ty đã tổ chức tập huấn cho 22 cán bộ khai thác về 2 nghiệp vụ bảo hiểm
trên nhằm triển khai thí điểm nghiệp vụ này.
Trong tháng 4 có 28 cán bộ khai thác thôi việc chiếm tỷ lệ 16% số tuyển dụng
mới trong năm do công việc không phù hợp và chất lượng công việc không đạt
yêu cầu quy định.
Từ công tác tuyển chọn và đào tạo ban đầu công ty đã rút được nhiều những kinh
nghiệp sau:
+ Chỉ tập trung tuyển chọn cán bộ khai thác chuyên nghiệp.
+ Khâu tuyển chọn đã được tiến hành khoa học nghiêm túc và đạt chất lượng cao.
+ Chất lượng, nội dung đào tạo phải được nâng cao, đồng thời công tác kiểm tra
sát hạch cần được duy trì thường xuyên
+ Cần tăng cường các cuộc trao đổi, sinh hoạt nghiệp vụ để không ngừng bồi
dưỡng củng cố kiến thức nghiệp vụ cho các cán bộ khai thác.
2.5. Công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý:
Đầu năm 1999 ngoài việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động khai thác. Công ty còn tập
trung vào công tác nâng cao chất lượng khai thác, quản lý cán bộ khai thác, quản
lý chặt chẽ việc thu phí định kỳ coi đây là nhiệm vụ trọng tâm.
Công ty đã áp dụng mô hình tổ chức cán bộ khai thác 3 cấp: thành lập các phòng
khai thác khu vực, chia số cán bộ khai thác thành từng tổ. Đã chọn lựa các cán bộ
khai thác giỏi có kinh nghiệm bổ nhiệm làm Tổ trưởng và Trưởng phòng, bước
đầu đã đáp ứng được công tác quản lý và điều hành công việc hàng ngày.
Để quản lý hoạt động cán bộ khai thác dần đi vào nề nếp, khoa học công ty đã
ban hành nhiều văn bản quy định một cách chi tiết các nội dung, quy định về hoạt
động cán bộ khai thác, các mẫu biểu, báo cáo thống kê hàng tháng thống nhất từ
Cá nhân - Tổ - Phòng vừa giúp các cán bộ khai thác tổng hợp, đánh giá kết quả
hoạt động trong tháng vừa phục vụ cho công tác quản lý của Công ty.
Ngoài ra công ty đã tổ chức, quản lý lưu trữ hồ sơ cá nhân của các cán bộ khai
thác. Đã tổ chức theo dõi, chấm công coi việc thực hiện ngày công là một tiêu
chuẩn để đánh giá xếp loại cán bộ khai thác chuyên nghiệp.
Công ty cũng đã áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của cán bộ khai thác như: hỗ trợ tài chính cho các cán bộ khai thác trong thời
gian học nghề, phân công cán bộ cũ có kinh nghiệm giúp đỡ cán bộ mới, áp dụng
chế độ thưởng đối với các cá nhân, tổ, phòng có thành tích cao, tổ chức các
phong trào thi đua: Ngôi sao tháng (Month star). Câu lạc bộ 200 hợp đồng.
Phòng đạt chỉ tiêu khai thác mới bình quân 6,5 hợp đồng/người... Đã tiến hành
đánh giá phân loại cán bộ khai thác hàng tháng theo các chỉ tiêu như: số lượng
hợp đồng khai thác mới, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch thu phí định kỳ, tỷ lệ duy trì
hợp đồng, nợ phí, ngày công làm việc. Việc tiến hành đánh giá phân loại đã tạo
động lực cho cán bộ khai thác phấn đấu, thi đua.
Một số tồn tại trong công tác quản lý, tổ chức hoạt động của cán bộ khai thác
trong năm 1998 như: chế độ sinh hoạt, báo cáo thống kê thu phí định kỳ, tình
trạng cán bộ khai thác chiếm dụng phí, việc phân công thu phí định kỳ của những
hơp đồng khai thác trực tiếp, việc bàn giao, theo dõi hợp đồng giữa các cán bộ
khai thác thôi việc về cơ bản đã được khắc phụ trong những tháng đầu năm 1999.
2.6. Công tác giám định bồi thường.
Giám định là việc xác định thiệt hại thực tế của người bị rủi ro tai nạn. Bởi vậy
nó rất quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Cùng với bồi
thường, giám định đòi hỏi phải có những cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao.
Do công ty mới thành lập nên số hợp đồng hết hiệu lực là chưa phát sinh vì thời
hạn hợp đồng ngắn nhất cũng là 5 năm. Còn số hợp đồng hết hiệu lực do xảy ra
sự cố tử vong đối với người được bảo hiểm hiện nay là 25 trường hợp trong đó
bảo hiểm trẻ em là 7 trường hợp, số tiền bảo hiểm là 61,7 triệu. Điều đó chứng tỏ
khả năng xảy ra rủi ro là rất thấp. Có thể khái quát chung hiệu quả kinh doanh
của công ty đang theo chiều hướng tốt. Song chúng ta cũng không nên vội kết
luận, bởi vì với cơ sở tính phí xác suất rủi ro được tính dựa trên một mẫu số lớn,
mà số hợp đồng của công ty hiện nay chưa đủ lớn, do vậy đánh giá công tác này
cũng chưa được chính xác.
Hiện tại công tác giám định bồi thường ở Công ty còn ít nên bộ phận này chưa
được hình thành còn đang trực thuộc phòng nghiệp vụ.
2.7. Vấn đề hoạt động đầu tư
Là một tổ chức tài chính trung gian nên hoạt động đầu tư vốn của công ty
bảo hiểm nhân thọ là một trong những hoạt động quan trọng nhất của công ty.
Tham gia thị trường vốn với tư cách là một nhà cung cấp, do đó công ty bảo hiểm
có một số ảnh hưởng nhất định trên thị trường vốn. Ra đời vào ngày trước cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, thêm vào đó Việt Nam ta còn chưa có
thị trường vốn nên hoạt động của công ty gặp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thay đổi trong nhu cầu khách hàng và khai thác loại hình hảo hiểm mới tại các Cty bảo hiểm.pdf