Tài liệu Luận văn Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN:
Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước là nhân tố quan trọng để hình
thành và hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế mới ở nước ta hiện nay
Lời nói đầu
“Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng
lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu
quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất XHCN”. Đó chính là lời khẳng định của Đảng tại Đại Hội VI
(1986) về việc đổi mới cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.
Từ sau Đại Hội VI đến nay nước ta phát triển nền kinh tế hị trường (KTTT) được
16 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế hàng năm khá cao,
năm 1990: 5.1%; 1991: 5.9%;1999: 4.8%; 2000: 6.8% và rất cao vào những năm 1994:
8.84%; 1995: 9.54%; 1996: 9.34%. Các thành tựu của nền kinh tế còn được đánh giá qua
sự phát triển toàn diện của xã hội: Việt Nam được co...
36 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 970 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước là nhân tố quan trọng để hình
thành và hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế mới ở nước ta hiện nay
Lời nói đầu
“Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng
lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu
quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất XHCN”. Đó chính là lời khẳng định của Đảng tại Đại Hội VI
(1986) về việc đổi mới cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.
Từ sau Đại Hội VI đến nay nước ta phát triển nền kinh tế hị trường (KTTT) được
16 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế hàng năm khá cao,
năm 1990: 5.1%; 1991: 5.9%;1999: 4.8%; 2000: 6.8% và rất cao vào những năm 1994:
8.84%; 1995: 9.54%; 1996: 9.34%. Các thành tựu của nền kinh tế còn được đánh giá qua
sự phát triển toàn diện của xã hội: Việt Nam được coi là đất nước hòa bình và ổn định về
chính trị, xã hội; Hà Nội được bầu là thành phố hòa bình, nhiều hội nghị quốc tế quan
trọng đã được tổ chức ở Việt Nam,… tất cả điều đó nói lên sự tin tưởng của bạn bè thế giới
đối với đất nước ta.
Tuy nhiên nền kinh tế cũng phải đối mặt với những vấn đề nóng bỏng như lạm
phát, thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh, v.v….Nhà nước ta chủ trương phát triển
nền KTTT theo định hướng XHCN đây là một khó khăn rất lớn bởi nền kinh tế chúng ta
mới là “ định hướng XHCN, đang trong thời kì quá độ còn quá non trẻ, do đó việc giải
quyết các mâu thuẫn thị trường rất khó khăn.
Đâu sẽ là giải pháp cho nền kinh tế nước ta? Lúc này chúng ta mới nhắc đến vai trò
của Nhà nước như là nhân tố trung tâm trong việc duy trì ổn định của KTTT thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mô. Trong nền KTTT chúng ta phải làm gì để Nhà nước thực hiện tốt
vai trò của mình? Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở
nước ta hiện nay” làm đề tài của mình.
I. Lý luận chung về vai trò kinh tế của Nhà nước.
1. Sự cần thiết khách quan về vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung.
1.1. Lịch sử ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời đại lịch sử:
Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã hội
sao cho phù hợp với lợi ích của chính giai cấp thống trị. Trong lịch sử từ khi xuất hiện kiểu
Nhà nước đầu tiên đến nay không có Nhà nước nào hoàn toàn tách rời các quá trình kinh tế
bởi Nhà nước nào cũng dựa trên cơ sở kinh tế nhất định. Thật ra lịch sử đã chứng minh
chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay từ buổi ban đầu, khi Nhà nước chỉ
vừa xuất hiện. ở các thời kì khác nhau, ở các chế độ khác nhau, do tính chất Nhà nước
khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ. Nhà nước chủ nô đã trực tiếp dùng quyền lực của
mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Trong thời đại của Nhà nước
chủ nô, của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển quá
trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhưng khối lượng của cải ấy không được phân phối mà
bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử
dụng làm công cụ chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân
phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản
xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại đi mở mang các vùng đất mới để ra các chính
sách ruộng đất thích hợp với từng thời kì. Nhìn chung các hoạt động này diễn ra một cách
tự phát. Tuy nhiên chức năng quản lý kinh tế được các Nhà nước phong kiến phương Đông
nhận thức sớm hơn so với các Nhà nước phong kiến phương Tây.
Phương thức sản xuất phong kiến tan rã, chủ nghĩa tư bản (CNTB) ra đời, tư tưởng
kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản xuất hiện trong giai đoạn này là chủ nghĩa trọng
thương. Tư tưởng xuất phát của chủ nghĩa trọng thương cho rằng: Tiền là nội dung căn bản
của của cải, là tài sản thật sự của một quốc gia. Do đó mục tiêu chủ yếu của các chính sách
kinh tế của mỗi nước là tăng gia khối lượng tiền tệ và Nhà nước có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy hoạt động ngoại thương để ngày càng tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
Chủ nghĩa trọng thương đã trở thành lỗi thời và bắt đầu tan rã ngay từ đầu thế kỉ
XVII, trước hết là ở Anh. Những sự kiện kinh tế - xã hội, khoa học ở cuối thế kỉ XVII như
cách mạng tư sản Anh đã chứng tỏ thời kì tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản đã kết
thúc và thời kì sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) bắt đầu. Tính chất phiến diện của học
thuyết trọng thương trở nên quá rõ ràng đòi hỏi phải có lý luận mới để đáp ứng với sự vận
động và phát triển của sản xuất TBCN. Trên cơ sở đó, chính trị kinh tế học cổ điển Anh ra
đời, tiêu biểu cho trường phái này là nhà kinh tế chính trị cổ diển Anh Adamsmith (1723 -
1790) với thuyết “ bàn tay vô hình” và nguyên lý “ Nhà nước không can thiệp” vào hoạt
động của nền kinh tế.
Tuy nhiên đầu những năm 30 của thế kỉ XX, khủng hoảng kinh tế rổ ra thường
xuyên, đặc biệt là khủng hoảng 1929 – 1933 đã chứng tỏ rằng “ bàn tay vô hình” không thể
đảm bảo điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Từ đó nhiều trường phái kinh
tế chính trị tư sản lần lượt xuất hiện, tiêu biểu là các trường phái kinh tế chính trị mới,
trường phái Keynes, chủ nghĩa tự do mới v.v… trong đó tiêu biểu là trường phái keynes –
John Menard Keynes (1884 - 1946) đã đưa ra thuyết “ Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị
trường” hay còn gọi là “ Bàn tay hữu hình”. Theo thuyết này để hạn chế khủng hoảng thất
nghiệp, đảm bảo cho sự cân bằng kinh tế thì phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế
cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Song những chấn động lớn vẫn diễn ra và ngày càng trầm trọng.
Điều này làm tăng làn sóng phê phán lý thuyết của Keynes và làm xuất hiện tư tưởng phối
hợp “bàn tay vô hình” với Nhà nước để điều chỉnh nền KTTT. Nổi bật là quan điểm “kinh
tế hỗn hợp” của Paul Samuelson (1915), một nhà kinh tế người Mỹ. Theo đó, cơ chế thị
trường xác định giá cả và sản lượng, trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các
chương trình thuế và luật lệ, cả chính phủ và thị trường đều có vai trò quan trọng thiết yếu.
Chính vì vậy vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ngày càng được xác lập và nâng cao.
Qua những điều trên ta nhận thấy rằng cho dù có nhiều thuyết khác nhau nhưng
không ai phủ nhận được vai trò kinh tế của Nhà nước trong việc ổn định và phát triển nền
KTTT.
1.2. Tính tất yếu khách quan trong việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm
nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã
hội, thực hiện những mục đích của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị đó trong xã hội. Tuy nhiên Nhà nước còn là lực lượng quản lý toàn bộ xã hội, đảm bảo
cho toàn xã hội phát triển. Nhà nước có vai trò về kinh tế, chính trị, đời sống xã hội; và vai
trò kinh tế là một trong những vai trò quan trọng của Nhà nước. Cùng với sự phát triển của
khoa học kĩ thuật hiện đại, nhiều loại công cụ lao động tiên tiến đã được sử dụng trong các
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,… đã ngày càng tạo ra được khối lượng sản
phẩm lớn. Trên thị trường xuất hiện nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm
vì thế đã xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Vì vậy cần sự
điều tiết của xã hội đối với sản xuất nhằm hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh
Mặc dù nền KTTT có những ưu điểm to lớn không thể phủ nhận được nhưng nó
cũng nảy sinh nhiều nhược điểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống xã
hội:
Sản xuất mù quáng gây ra khủng hoảng (thừa, thiếu): Các nhà sản xuất vì mục
tiêu lợi nhuận đã sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn, vượt quá nhu cầu của thị trường;
trong khi đó khả năng mua sắm của dân cư có hạn, dần dần dẫn đến sự khủng hoảng trên
thị trường hàng hóa – dịch vụ.
Các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hoạt động không thể tránh khỏi sự
cạnh tranh không lành mạnh, đã làm phá sản nhiều doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể
dùng nhiều thủ đoạn, thế lực để gây khó khăn cho nhau nhằm hạn chế nhau. Các doanh
nghiệp phá sản sẽ dẫn theo tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh, khiến cho đời sống người lao
động gặp nhiều khó khăn, tệ nạn xã hội phát triển nhanh.
Cũng vì mục tiêu lợi nhuận nên một số ngành phát triển được nhiều doanh
nghiệp trú trọng đầu tư. Các ngành có lợi nhuận thấp hơn rất ít được trú trọng đầu tư.
Chính hiện tượng này đã dẫn đến việc đầu tư không cân đối giữa các ngành, nền kinh tế
phát triển lệch lạc. Mặt khác cũng tạo ra sự phát triển không cân đối giữa các vùng trên
một lãnh thổ. Có những vùng dân cư tập trung đông do có nền kinh tế phát triển, nhưng có
những vùng dân cư tập trung quá thưa thớt cũng gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế.
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, người lao động có thu nhập ngày
càng tăng. Tuy nhiên sự tăng lên này không đều giữa các bộ phận dân cư đã dẫn đến sự
phân hóa thu nhập ngày càng sâu sắc. Đây là một khuyết tật to lớn của nền KTTT. Bộ phận
người giàu vẫn có thu nhập ngày càng cao; còn bộ phận người nghèo, người lao động có
thu nhập đã cao hơn so với trước đây nhưng nhìn chung thì vẫn còn thấp. Sự phân hóa thu
nhập đi liền với sự phân hóa giàu nghèo. Trong xã hội xuất hiện hai bộ phận đối lập với
nhau về lợi ích là người giàu và người nghèo.
Các doanh nghiệp trong quá trinhg sản xuất đã cố ý, hoặc không cố ý gây ảnh
hưởng đến môi trường sinh thái. Sự ô nhiễm môi trường đất, nước không khí, tiếng ồn,…
ngày càng gia tăng nhanh. Hiện tượng phá rừng bừa bãi, khai thác tài nguyên không hợp lý
đã đến mức báo động. Nhiều doanh nghiệp không chú ý đầu tư cho hệ thống sản xuất
nhằm hạn chế sự thải chất độc ra ngoài môi trường, cũng một phần do sự đầu tư này khá
tốn kém.
Trong nền KTTT, do mục tiêu trên hết là lợi nhuận, là tiền vì vậy con người có
thể dùng nhiều thủ đoạn để kiếm được lời lãi, mà không để ý gì đến hậu quả mà công việc
của mình đã gây ra cho môi trường. Do đó đã làm cho quan hệ của con người dễ bị bóp
méo, và thường bị chi phối bởi dục vọng thấp hèn nhằm hạn chế đối phương và trục lợi cá
nhân. Chính vì vậy mà các tệ nạn xã hội, việc thanh toán lẫn nhau,… ngày càng gia tăng
trong xã hội.
Chính vì những ưu, nhược điểm này mà cần có sự quản lý của Nhà nước nhằm cân
bằng lại thị trường và xã hội, với mục đích là ngày càng làm cho nền kinh tế phát triên cân
đối bền vững, và làm cho xã hội ngày càng ổn định.
2. Sự hình thành cơ chế quản lý Kinh tế mới ở Việt Nam:
2.1. Cơ chế quản lý Kinh tế trước năm 1980:
Sau khi miền Bắc được hoàn tờn giải phóng (1954) Nhà nước bắt tay bào khôi phục
và xây dựng nền khinh tế miền Bắc đi lên con đường XHCN. Dựa vào kinh nghiệm của
các nước XHCN đi trước, đất nước ta đã bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (TLSX).
Vấn đề chủ yếu của cơ chế quản lý Kinh tế giai đoạn này là: Kế hoạch hóa được
coi là cơ chế quản lý với kế hoạch là công cụ số một, có tính chất pháp lệnh bắt buộc trực
tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế xã hội, các đơn vị
kinh tế và công dân. Luật pháp về kinh tế (mới có rất ít) và các công cụ quản lý khác đều
được xếp sau công cụ kế hoạch. Nhà nước quản lý trực tiếp bằng các chỉ tiêu kế hoạch
mang tính chất pháp lệnh, quy định tỉ mỉ và chặt chẽ: Sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu,
phân phối như thế nào,…Doanh nghiệp Nhà nước chỉ có nhiệm vụ chấp hành các mệnh
lệnh sắp xếp đó. Mọi sự thay đổi trong kế hoạch và tổ chức thực hiện đều phải báo cáo
lên cơ quan có trách nhiệm và khi được chấp nhận mới được triển khai. Nhà nước thực
hiện chế độ bao cấp với mọi đơn vị cấp dưới và các doanh nghiệp Nhà nước. Đầu vào của
doanh nghiệp do Nhà nước cấp phát hoàn toàn, do vậy toàn bộ sản phẩm làm ra đều phải
giao nộp lại cho Nhà nước để Nhà nước phân phối .
Từ quan điểm lịch sử mà xét thì cơ chế kế hoạch hóa đã góp phần đắc lực trong
việc động viên nhân tài, vật lực phục vụ cho các nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu phù hợp
với đặc điểm tình hình lịch sử của đất nước ta trong hoàn cảnh chiến tranh và sau chiến
tranh đất nước còn nhiều khó khăn. Nhà nước quản lý được tập trung thống nhất và giải
quyết được những nhu cầu công cộng của xã hội và an ninh. Hạn chế được sự phân hóa
giàu nghèo và bất công xã hội, tập trung nguồn lực để giải quyết được những cân đối lớn
của nền Kinh tế Quốc dân.
Tuy vậy sau năm 1975, khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng thống nhất, khi tình
hình trong nước cũng như tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi. Chúng ta đã không kịp
thời thay đổi cơ chế quản lý cho phù hợp, trái lại vẫn vẫn tiếp tục duy trì cơ chế cũ ở miền
Bắc và áp dụng nguyên xi vào miền Nam. Vì vậy nhiều hậu quả với những tác hại khôn
lường đã xảy ra: Động lực của người lao động và cán bộ quản lý bị triệt tiêu, do Chủ
nghĩa bình quân trong phân phối nên người lao động không năng động, sáng tạo, không
nhiệt tình làm việc, không quan tâm tới tiết kiệm vật tư, nguyên liệu,… cho nên năng suất
lao động ngày càng giảm và chi phí trên một đơn vị ngày càng tăng.
- Hiệu quả kinh tế thấp. Do chỉ sản xuất theo kế hoạch mà kế hoạch lại không thể
bao quát toàn bộ mọi nhu cầu của nền kinh tế và xã hội. Vì thế cho nên sản xuất không
phù hợp với tiêu dùng (có cái thì thừa, lại có thứ thì thiếu), đã gây ra lãng phí rất lớn. Do
không có cạnh tranh cần thiết nên kỹ thuật, công nghệ chậm được đổi mới. Các doanh
nghiệp làm ăn tốt không được tạo điều kiện phát triển mạnh, còn các doanh nghiệp làm
ăn kém không bị đào thải kịp thời. Bao bì đóng gói sản phẩm không được đổi mới mẫu
mã, vì vậy chất lượng sản phẩm, mẫu mã ngày càng kém giá thành lại ngày càng cao. Do
hạch toán mang nặng tính hình thức dẫn đến tình trạng lỗ lãi không rõ ràng. Tất cả những
điều này làm cho hiệu quả kinh tế chung ngày càng giảm sút rõ ràng.
- Hàng hóa trên thị trường thiếu hụt trầm trọng do việc phân phối định lượng theo
tem phiếu. Giá cả hàng hóa được quy định thấp một cách giả tạo và sự chia cắt thị trường
theo kiểu “cát cứ” địa phương.
- Nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, sản xuất đình đốn, giá cả leo thang dẫn đến
lạm phát, đời sống nhân dân khó khăn. Tốc độ gia tăng vốn cho sản xuất giảm sút (do
viện trợ từ các nước ngoài trong thời kỳ chiến tranh nay không còn nữa), không theo kịp
tốc độ giảm sút năng suất lao động đã làm cho lạm phát lên đến 700%, khiến giá cả tăng
vọt gấp hàng chục lần bình thường, đời sống của người lao động càng khó khăn hơn.
Chính tình hình trên đã gây áp lực rất mạnh mẽ từ dưới lên trên nhằm đưa nền
kinh tế thoát khỏi khủng hoảng , từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
2.2. Cơ chế thị trường:
Khi nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu
thông sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là một khái niệm rộng, dựa trên Kinh tế chính trị
Mac–Lênin thì “cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực
và quy luật phân phối sự vận đông của thị trường” ( Kinh tế Chính trị học, NXB Sự Thật,
Hà Nội 1993, trang 65), “Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá
nhân người dùng và các doanh nghiệp tác động qua lại lẫn nhau trên thị trường để xác
định vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: Sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào ? Và
sản xuất cho ai ?”. Cũng có thể khái quát cơ chế thị trường là “bộ máy” kinh tế điều tiết
toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hóa thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường. Đặc biệt là
quy luật giá trị – quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, là bộ
máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng và người
sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ
bản là “cung”, “cầu” và “giá cả thị trường”.
Cầu là nhu cầu của xã hội về hàng hóa được biểu hiện trên thị trường ở một mức
giá nhất định, nó bị giới hạn bởi khả năng thanh toán của dân cư. Hay cụ thể hơn cầu là
lượng một mặt hàng mà người mua muốn mua ở một mức giá nhất định. Khi giá cả càng
cao thì lượng hàng hóa mà người mua muốn mua càng ít và ngược lại giá cả càng thấp thì
lượng hàng hóa mà người mua muốn mua càng nhiều.
Cung là lượng hàng hóa có trên thị trường và có thể đưa đến thị trường ở một mức
giá nhất định. Nói một cách cụ thể hơn, cung là lượng một mặt hàng mà người bán muốn
bán ở một mức giá nhất định. Trong điều kiện các yếu tố ảnh hưởng đến cung một loại
hàng hóa không thay đổi, nếu giá cả hàng hóa càng cao thì người sản xuất càng cung cấp
cho thị trường một lượng hàng hóa nhiều và ngược lại.
Giữa các nhân tố của cơ chế thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giá cả
thị trưòng phản ánh tương quan cung – cầu, còn các yếu tố cung, cầu đều phụ thuộc vào
giá cả thị trường. Cơ chế thị trường có những ưu điểm to lớn có tác động đến toàn bộ nền
kinh tế hàng hóa.
Khi cơ chế thị trường phát triển thì kích thích mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất.
Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Chính động
lực này là nguyên nhân kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, nó đòi hỏi các doanh
nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã
hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng
những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất.
Cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. Sở dĩ
như vậy vì trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc: Ai đưa ra thị trường một loại
hàng hóa mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi
phải năng động thường xuyên.
Trong nền kinh tế thị trường hàng hóa rất đa dạng, phong phú cả về mẫu mã, chất
lượng, kích cỡ, giá cả,…Chất lượng hàng hóa không ngừng được nâng cao để đáp ứng
ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất văn hóa và sự phát triển toàn diện của mọi
thành viên trong xã hội.
Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng tồn tại không ít các nhược điểm mà hiện nay
cần khắc phục.
Do chạy theo lợi nhuận tối đa nên giữa các doanh nghiệp có sự cạnh tranh không
lành mạnh: Đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất, xem thường truyền thống và các
chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trong xã hội khó tránh khỏi sự lừa gạt lẫn nhau, sự giành
giật thị trường, hợp đồng của nhau để gây ra sự phá sản của các doanh nghiệp. Chính sự
cạnh tranh không lành mạnh này đã dẫn đến sự bất ổn định trong nền kinh tế, dần dần dẫn
đến sự bất ổn định của toàn xã hội.
Vì động cơ lợi nhuận cho nên số nhu cầu công cộng rất cần cho xã hội và mọi
người nhưng lợi nhuận thấp hoặc không có nên không có doanh nghiệp nào thực hiện,
những yêu cầu về an ninh quốc phòng và xã hội không được giải quyết thỏa đáng.
Cũng vì mục đích lợi nhuận là tối đa và duy nhất nên các doanh nghiệp đã lạm
dụng tài nguyên quốc gia, tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn, ô nhiễm không khí, đất đai.
Lượng khí thải công nghiệp thải ra bầu khí quyển ngày càng nhiều đã làm cho nhiệt độ
trái đất ngày càng nóng lên, gây ra lũ lụt, hạn hán ở nhiều nơi trên trái đất. Diện tích rừng
ngày càng bị thu hẹp nhanh chóng khiến cho đất đai bị xói mòn, ngày càng bị xa mạc hóa.
Kinh tế thị trường tạo ra sự phân hóa giai cấp do đó đã làm tăng thêm mâu thuẫn
giai cấp. Tác động của kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng một bộ phận người trở lên
giàu có, còn một số người khác lại nghèo đi, trở thành những người làm thuê. Sự ngăn
cách giàu nghèo ngày càng mở rộng, tỉ lệ người thất nghiệp ngày càng tăng. Sự đối kháng
về kinh tế là cơ sở của đấu tranh giai cấp.
Khủng hoảng sản xuất là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển.
Do mức cung hàng hóa vượt quá mức cầu có thể thanh toán dẫn đến tình trạng dư thừa
hàng hóa, dẫn đến khủng hoảng sản xuất “ thừa”. Các cuộc khủng hoảng luôn mang tính
chu kì. Nguyên nhân của tình trạng đó là do mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này được thể hiện ở tính cao độ trong từng doanh nghiệp với
tính vô chính phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội.
2.3. Sự vận dụng cơ chế thị trường vào Việt Nam:
Thực ra mầm mống của sự đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là đổi mới về cơ chế quản
lý ở nước ta đã xuất hiện từ đầu thập kỉ 80. Song phải tới đại hội lần thứ VI của Đảng
(Tháng 12 - 1986) mới có những nhận thức mới và thay đổi quan điểm.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở Việt Nam được thực hiện thông qua quá trình phi tập
trung hóa, bao hàm 3 khía cạnh chính:
Thứ nhất: Tạo ra các đơn vị hành chính, kinh tế tương đối độc lập nhằm phân
chia trách nhiệm trong việc cung cấp các dịch vụ công cộng thiết yếu nhất, mà thiếu nó thì
không một xã hội nào tồn tại được.
Thứ hai: Công nhận quyền sở hữu tư nhân, quyền được thuê khoán của tư nhân
đối với một số phương tiện sản xuất cụ thể. Chủ yếu là đất canh tác nông nghiệp. Nước ta
đã thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế cá thể và tư nhân ngày càng
được khuyến khích phát triển mạnh mẽ. Các doanh nghiệp Nhà nước cố gắng nâng cao
hiệu quả kinh tế của mình, cố gắng làm cho kinh tế quốc doanh thực sự giữ vai trò chủ đạo
trong một số ngành và trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nhà nước ban hành nhiều
quyết định, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp tích cực làm ăn, mở rộng sản
xuất kinh doanh.
Thứ ba: tự do hóa giá cả từng bước nhằm làm cho người sản xuất nhạy cảm hơn
với nhu cầu thị trường. Nhờ đó, tự do hóa giá cả đem lại sức sống mới cho sản xuất. Nhà
nước không can thiệp sâu vào việc định mức giá cả cho các loại hàng hóa trên thị trường
mà để cho thị trường tự điều tiết, làm cân bằng mức giá hàng hóa.
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hóa hay cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, sang cơ chế thị trường và sự phát triển của cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ngày càng làm cho nền kinh tế phát
triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên
trong nền kinh tế cũng bộc lộ nhiều tiêu cực vì vậy càng cần thiết phải có sự quản lý của
Nhà nước về kinh tế để dần hạn chế những tiêu cực đó.
II. vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế mới ở nước ta hiện nay.
1. Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong cơ chế mới.
1.1. Các đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta:
KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên
những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của
CNXH. Do đó nền kinh tế ở nước ta ngoài những đặc trưng vốn có của nền KTTT còn có
những đặc trưng cơ bản rất riêng của CNXH và hoàn cảnh thực tế ở nước ta. Đó là:
Về chế độ sở hữu:
Cốt lõi của KTTT là sản xuất hàng hóa trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường theo nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. Theo nguyên tắc trên, sản xuất và
trao đổi chỉ xảy ra khi mọi chủ thể tham gia vào nền KTTT ý thức rõ ràng về sở hữu vật
đem trao đổi, cũng như lợi ích từ sự trao đổi đó. Người lao động tư nhân độc lập có thể là
một người lao động cá thể hay một người lao động tổng thể (công xưởng, xí nghiệp hợp
tác,...) mà chỉ sản phẩm của cả tập thể mới trở thành hàng hóa. Xét trên toàn xã hội thì lao
động của mỗi người lao động trước hết biểu hiện là lao động tư nhân, sản phẩm làm ra
trước hết thuộc sở hữu tư nhân đó (nếu không xét đến vấn đề sở hữu đầu vào của các yếu
tố sản xuất) và thông qua trao đổi thì lao động tư nhân đó mới biểu hiện thành lao động
xã hội. Chính vì vậy “muốn cho những đồ vật đó quan hệ với nhau như những hàng hóa
thì những người giữ hàng hóa phải đối xử với nhau như những người mà ý chí của họ chi
phối các vật đó,…. Do đó, họ phải công nhận lẫn nhau là những người tư hữu” (C.Mác va
Ph.Anghen, toàn tập, T23 NXB CTQG Hà nội – 1993, trang 132)
Trong nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản có nhiều hình thức sở hữu nhưng
nền tảng của nó là chế độ tư hữu về TLSX. Các công ty tư bản độc quyền, một bộ phận
các nhà tư bản lớn đã giữ vai trò chi phối sự phát triển toàn diện nền kinh tế, phân phối
của cải làm ra trong xã hội.
Trong nền KTTT định hướng XHCN cũng dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất như: Sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn
hợp. Đó là các thể chế kinh tế của những chủ thể tự do, tự chủ kinh doanh theo Pháp luật.
Các thành phần tham gia vừa cạnh tranh, vừa liên kết, hợp tác với nhau để phát triển với
trình độ xã hội hóa cao, thông qua đan xen, đan kết nhiều hình thức sở hữu. Nhà nước thực
hiện việc hợp nhất quyền sử dụng TLSX với quyền và nghĩa vụ công dân trong người chủ
sở hữu nhằm tạo ra những điều kiện pháp lý để xác định rõ ai là chủ nhân đích thực của
những nguồn lực được đưa vào sản xuất kinh doanh. Việc trả lại cho TLSX chủ nhân đích
thực của nó, sẽ làm cho TLSX được sử dụng một các có hiệu quả hơn, nền kinh tế sẽ trở
nên năng động hơn trước những nhu cầu của dân cư về hàng hóa, dịch vụ…
Về cơ chế quản lý và vận hành:
Cơ chế vận hành nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta là cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế này
đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích XHCN của nền kinh tế theo phương
châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hưống dẫn cho doanh nghiệp.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước cần hạn chế tối đa các mệnh
lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy
luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh; đảm bảo nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên
tắc thị trường “tự điều chỉnh”. Nhà nước không can thiệp trực tiếp, không áp đặt thô bạo
ý chí của Nhà nước vào các quá trình hình thành giá, Nhà nước điều khiển sự hoạt động
của nền kinh tế bằng các chiến lược, các kế hoạch dài hạn, can thiệp vào các hiện tượng
và các quá trình kinh tế bằng các công cụ lãi suất thuế và chi tiêu thông qua cơ chế lợi
ích theo nguyên tắc mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng, đạt được lợi ích riêng bằng cách
làm cho xã hội.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được thể hiện rõ qua các
mặt cơ bản sau:
- Một là: Nhà nước XHCN – Nhà nước của dân, do dân, vì dân – là nhân tố
đóng vai trò “nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo dựng và đảm
bảo môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ
chế thị trường; thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội, can thiệp trực tiếp
vào các hoạt động kinh tế để đạt được các mục tiêu đề ra.
- Hai là: Cơ chế thị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế đóng vai trò
trung gian giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Một vấn đề quan trọng nữa là Nhà nước ta
quản lý nền kinh tế và xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy
mặt tích cực, khắc phục và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của
người lao động và của toàn thể nhân dân. Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa thị trường,
xét từ góc độ Nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế
hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế
trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng sẽ hợp lý và hiệu quả hơn nếu thông qua
công cụ kế hoạch hóa mà Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và
điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện
giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội.
Về phân phối thu nhập:
Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, bền vững mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo
đảm tốt các vấn đề xã hội.
Trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta hiện nay, Đảng ta rất coi
trọng việc mở rộng dần các sự nghiệp phúc lợi xã hội. Trong việc giải quyết các vấn đề xã
hội, Đại hội VII của Đảng nêu bật hai quan điểm lớn:
- Một là: Coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển xã hội là con
người, do con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách và chương
trình phát triển xã hội, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể và cả cộng
đồng. Coi trọng lợi ích cá nhân người lao động, xem đó là động lực trực tiếp để phát triển
kinh tế xã hội.
- Hai là: Bảo đảm sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính xã hội. Mục
tiêu của hai chính sách đó là thống nhất tất cả vì con người. Phát triển kinh tế là điều kiện
để thực hiện chính sách xã hội, nhưng chính sách xã hội lại là sự cụ thể hóa mục đích của
các hoạt động kinh tế.
Để thực hiện các quan điểm này, nền KTTT định hướng XHCN phải thực hiện
3 vấn đề sau:
- Một là: Kết hợp các vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự
kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể tham gia KTTT có được lợi nhuận cao, vừa
được tạo điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế.
- Hai là: Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên
tắc KTTT như: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn, theo tài năng, phân phối qua
quỹ phúc lợi xã hội,…trong đó phân phối theo lao động là chính.
- Ba là: điều tiết phân phối thu nhập. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách
sao cho giảm bớt sự chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người ngèo; mặt khác phải có
chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người ngèo và của
toàn xã hội. Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Một là, Nhà
nước XHCN là chủ thể duy nhất tiến hành điều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn
xã hội, nhằm đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng phúc lợi cho toàn xã hội; hai là,
điều tiết phân phối thu nhập theo những nguyên tắc của thị trường, cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước.
Đây là những đặc trưng cơ bản của nên KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta.
Nhà nước đã dựa vào những đặc trưng này để có thể thực hiện vai trò kinh tế của mình
nhằm bảo đảm phát triển kinh tế và giữ vững định hướng XHCN.
2. Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay:
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa để tìm
ra những định chế có khả năng xóa bỏ những khuyết tật đó và tạo ra dần dần một kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa.
Vai trò kinh tế của Nhà nước ta được thể hiện ở những mặt sau:
2.1. Giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế:
Định hướng XHCN là hướng nền kinh tế quốc dân phát triển theo con đường đi
lên CNXH – mô hình xã hội lý tưởng của cách mạng Việt Nam mà Đảng, Bác Hồ và toàn
thể nhân dân ta đã chọn. Vì vậy, giữ vững định hướng XHCN là nhiệm vụ bao trùm nhất
và quan trọng nhất trong việc vạch rõ hướng đích cho cả quá trình phát triển lâu dài, ổn
định ở nước ta nói chung, trong đó có phát triển kinh tế.
Chúng ta biết rằng, nền KTTT không phải là mục tiêu, mà chỉ là phương pháp,
phương tiện để đi tới mục tiêu. Mặt khác, nền KTTT mà ta đang nỗ lực xây dựng không
phải là nền KTTT kiểu TBCN mà là định hướng XHCN. Tuy nhiên, trên thực tế những
giải pháp của Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay phần lớn mang tính quá độ, trung gian.
Để đảm bảo giữ vững định hướng XHCN cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước
trong giai đoạn đổi mới theo chiều sâu thì không chỉ dừng lại ở những tư tưởng, đường lối
chung, mà phải cụ thể hóa thành những nội dung mang tính xác định về mặt pháp lý.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII trình bày tại Đại
Hội IX có viết: “ Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền KTTT định hướng
XHCN” (Văn kiện Đại Hội IX, WXBCTQG, Hà Nội – 2001, tr.23).
Nguyên tắc định hướng XHCN là giới hạn quan trọng hàng đầu cho mọi biện pháp
để hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta. Nguyên tắc này xuất phát từ cơ sở triết
học là mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế là nền tảng của
chính trị còn chính trị đóng vai trò quyết định phương hướng cho sự phát triển kinh tế.
Nguyên tắc định hướng XHCN đòi hỏi chức năng kinh tế của Nhà nước phải được hoàn
thiện trong mối liên hệ hữu cơ với việc hoàn thiện các chức năng chính trị, chức năng xã
hội của Nhà nước và chức năng kinh tế của Nhà nước cũng hướng tới các mục tiêu cao cả
là giải phóng con người, giải phóng xã hội theo lý tưởng của cách mạng XHCN.
2.2. Đảm bảo sự vận hành tự do và an toàn của nền KTTT:
Bản chất của quan hệ KTTT là tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
chủ thể kinh tế. Vì thế sự vận hành một cách tự do và an toàn của các quan hệ kinh tế là
điều kiện để ổn định và tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Nhà nước chính là nhân tố đảm
bảo cho nền KTTT phát huy được các ưu điểm và khắc phục được những khuyết tật vốn
có của nó.
Vì vậy vai trò đảm bảo sự vận động tự do và an toàn của nền KTTT bao hàm
những nội dung rộng lớn, trong đó cốt lõi là sự bảo đảm từ phía Nhà nước cho tự do kinh
doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh cũng như phòng tránh
những tổn thất cho các chủ thể kinh doanh. Trên thực tế vai trò này đòi hỏi Nhà nước
trước hết phải dành sự ưu tiên cho hoạt động hợp pháp của các chủ thể kinh doanh chứ
không phải chỉ dành sự thuận tiện cho hoạt động quản lý Nhà nước. Khi Nhà nước buông
lỏng quản lý thì tự do và an toàn có thể bị xâm hại, dẫn đến tình trạng lấn lướt, vi phạm
quyền và lợi ích của nhau; tình trạng độc quyền, lũng đoạn kinh tế hoặc “ cá lớn nuốt cá
bé”’ theo kiểu luật rừng, nhưng cũng có thể bị xâm hại ngay từ chính sự hoạt động quản
lý Nhà nước. Do vậy việc đảm bảo cho sự vận hành tự do và an toàn của nền KTTT thực
chất là xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN trên lĩnh vực kinh tế, vì đó là giá trị cao
cả của xã hội mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng.
Để đảm bảo sự vận hành tự do và an toàn của nền KTTT, Nhà nước đã đề ra nhiều
chính sách cụ thể để phát triển kinh tế, tạo lập hành lang pháp lý để bảo đảm sự an toàn
trong các hoạt động kinh doanh. Hệ thống luật pháp luôn luôn được sửa đổi, bổ xung cho
phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì kinh doanh. Chức năng kinh tế của Nhà nước là
phương thức, là khuôn khổ của dân chủ XHCN trong lĩnh vực kinh tế. Cho nên hoàn
thiện chức năng kinh tế của Nhà nước nghĩa là Nhà nước phải đảm bảo cho việc thực hiện
các quyền tự do, dân chủ về kinh tế. Nhà nước phải không ngừng mở rộng quyền dân chủ
về kinh tế – xã hội, đảm bảo hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh, phải tạo ra được cơ chế kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế. Quản lý là quyền của
Nhà nước còn hoạt động kinh doanh là quyền của các chủ thể kinh tế, nhưng hai quyền đó
phải thống nhất với nhau, không hạn chế hay loại trừ nhau. Vì thế, trong điều kiện hiện
nay nếu không mở rộng và phát huy các giá trị của nền dân chủ XHCN thì không thể vận
hành nền KTTT một cách tự do và an toàn, không thể tăng trưởng và phát triển kinh tế
một cách bền vững.
2.3. Bảo đảm sự phát triển hài hòa về kinh tế và xã hội:
Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển xã hội, kinh tế không phải là mục đích
duy nhất của con người mà con người bao giờ cũng có nhiều nhu cầu đa dạng trên cơ sở
thống nhất biện chứng giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Tăng trưởng kinh tế là
điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội, ngược lại xã hội tốt đẹp lại là động lực để cho
nền kinh tế phát triển. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải đảm bảo tính văn hóa trong tăng
trưởng kinh tế đều tác động tích cực đến đời sống xã hội, nghĩa là nó đã nghe nói về sự
phồn vinh cho xã hội và cho hạnh phúc của con người, đặc biệt là trong xã hội thị trường
hiện đại. Do đó, gần đây ta đã nghe nói về nhiều dạng tăng trưởng kinh tế mà tự bản thân
chúng là không lành mạnh như tăng trưởng không tạo thêm việc làm, tăng trưởng một
cách thô bạo, tăng trưởng mất gốc,… Vì vậy việc hoàn thiện vai trò kinh tế của Nhà nước
không thể xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã
hội một cách toàn diện theo quan điểm của Đảng là “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hóa, từng bước cải tạo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội” (văn kiện Đại Hội IX, NXB CTQG, Hà Nội – 2001, tr 24).
Nhà nước ta luôn cố gắng phát triển một cách toàn diện, phát triển kinh tế phải gắn
liền với bảo vệ tài nguyên môi trường, giảm tỉ lệ thất nghiệp, khắc phục những hạn chế do
nền kinh tế thị trường gây ra như nền kinh tế phát triển lệch lạc, chỉ chú trọng vào một số
ngành nhất định, sự phân bố không đều của các vùng kinh tế.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng, nó là nhân tố
bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế, đảm bảo sự vận hành tự do
và an toàn của nền KTTT và phát triển hài hòa về kinh tế, xã hội.
3. Mục tiêu, chức năng của quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam.
3.1. Mục tiêu:
Thông qua tác động đối với nền kinh tế, Nhà nước một mặt kiểm soát và hỗ trợ sư
phát triển của bản thân nền kinh tế và mặt khác điều chỉnh cơ cấu và thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là một thách thức lớn đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay. Nhưng kết hợp được tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội
còn là một thách thức lớn hơn.
Có một loại ý kiến cho rằng cần tăng trưởng kinh tế trước đã, sau một thời gian
mới tính đến mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội. Nói theo hiện tượng mà giới kinh tế
hay sử dụng thì trước tiên là cần làm sao cho cái bánh to ra, sau đó mới tính đến chuyện
chia nó ra sao cho công bằng. Với cách tiếp cận này, kinh tế sẽ là lĩnh vực mà Nhà nước
tập trung chú ý trước hết. Tuy nhiên cũng cần nhận xét rằng chính CNTB đã phát triển
chính theo con đường như thế. Một loại ý kiến khác cho rằng cần dự báo được cái giá
phải trả về mặt xã hội cho sự tăng trưởng nhanh và Nhà nước phải có những chính sách
tác động đồng thời cả hai mặt kinh tế và xã hội để đảm bảo sự phát triển cân đối nhất định
và bền vững của toàn xã hội và của các cộng đồng dân cư khác nhau trong đó. Nói cách
khác, cần phải vừa làm cho cái bánh to hơn, vừa chia nó công bằng hơn. Quan điểm về
việc xây dựng nền KTTT có định hướng XHCN chính thuộc loại ý kiến này. Tất nhiên,
phát hiện ra và đi theo một con đường mới là việc khó khăn và chứa nhiều rủi ro hơn là đi
theo con đường đã có nhiều vết xe đi qua, nhưng nó đáp ứng yêu cầu của nhân dân Việt
Nam. Nói tóm lại, mục đích tổng quát của sự quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
Việt Nam là bảo đảm kinh tế đất nước phát triển ổn định, đạt hiệu quả kinh tế cao; ngăn
chặn và giải quyết những vấn đề xã hội xuất hiện trong nền kinh tế, thực hiện việc giữ
vững định hướng XHCN.
3.2. Chức năng:
Chức năng tổng quát của việc quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong nền
kinh tế thị trường là Nhà nước tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động của
các doanh nghiệp.
- Tạo môi trường cho sản xuất kinh doanh.
Nhà nước kiến tạo và bảo đảm môi trường kinh doanh an toàn, ổn định, thuận
lợi và bình đẳng để thúc đẩy xã hội phát triển.
Nhà nước, trước hết phải tạo được khung Pháp luật phù hợp với cơ chế thị
trường và sử dụng công cụ Pháp luật một cách có hiệu quả để thực hiện chức năng này,
trong đó khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đảm bảo môi trường kinh
doanh bình đẳng. Để cho nền kinh tế thị trường có thể phát triển được, Nhà nước cần thực
hiện chính sách cạnh tranh tích cực mà nội dung của nó là: Bảo đảm và khuyến khích
cạnh tranh bình đẳng; kiểm soát và hạn chế độc quyền; kiểm soát và hạn chế cạnh tranh
không lành mạnh.
Mặt khác Nhà nước duy trì trật tự an toàn xã hội, đảm bảo các điều kiện ổn
định về an ninh khu vực, an toàn kinh doanh. Bằng các chính sách kinh tế, các công cụ
quản lý vĩ mô Nhà nước đã khống chế lạm phát, bảo quản sự ổn định giá cả của thị
trường.
Nhà nước phải là người xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh
doanh. Hệ thống giao thông, đường xá công cộng, hệ thống cung cấp năng lượng, điện
nước cho sinh hoạt và sản xuất ngày càng được đầu tư xây dựng với quy mô ngày càng to
lớn, hiện đại. Hệ thống thông tin liên lạc được chú trọng phát triển: Tỉ lệ điện thoại trong
xã hội ngày càng tăng, vùng phủ sóng của điện thoại ngày càng mở rộng; mạng Internet
ngày càng được sử dụng phổ biến.
Ngoài ra Nhà nước còn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về mặt xã hội như giáo
dục - đào tạo, y tế, văn hóa,… ngày càng lớn hơn. Hệ thống các trường học, trường đào
tạo, các bệnh viện được xây dựng nhiều với cơ sở vật chất hiện đại; hệ thống giáo dục -
đào tạo được soạn thảo cho phù hợp với trình độ của con người, yêu cầu giáo dục ngày
càng cao.
- Nhà nước dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua nhiều kế hoạch và
các chính sách phát triển kinh tế. Các chính sách tiền tệ, lãi suất đã được sử dụng một
cách linh hoạt biến đổi cho phù hợp với nhu cầu của thị trường.
- Đồng thời Nhà nước còn là người hoạch định, thực hiện các chính sách về mặt xã
hội, bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội; thực hiện công
bằng xã hội; công bằng trong phân phối thu nhập. Nhà nước tạo ra một hệ thống các loại
phân phối đảm bảo thực hiện theo nguyên tắc: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng. Đối với những người tàn tật, các hoàn cảnh khó khăn, các đối
tượng chính sách Nhà nước đã sử dụng các quỹ phúc lợi xã hội để đảm bảo lợi ích cho họ.
- Chức năng quản lý và kiểm soát việc sử dụng các nguồn tài nguyên quốc gia.
Nền kinh tế thị trường phát triển mạnh càng đòi hỏi Nhà nước phải quản lý chặt
chẽ việc sử dụng các nguồn tài nguyên. Các chính sách xây dựng, bảo vệ và khai thác
rừng một cách hợp lý; chính sách khai thác các nguồn tài nguyên biển, tài nguyên khoáng
sản, năng lượng được ban hành nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên; đảm bảo sử dụng
tiết kiệm và tái tạo nguồn tài nguyên có thể tái tạo được.
4. Các công cụ Nhà nước sử dụng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Trong khoa học kinh tế hiện nay không thể khẳng định một yếu tố nào đó trong hệ
thống quản lý chỉ là mục tiêu hay là công cụ vì tùy theo góc độ tiếp cận của người nghiên
cứu yếu tố được xem xét có thể được quan niệm là cái này hay cái kia. chính vì vậy có thể
nói mỗi hiện tượng kinh tế có thể được xem xét vừa là mục tiêu, vừa là công cụ.
Tuy nhiên cũng có thể cho rằng hệ thống công cụ quản lý có ba yếu tố cơ bản sau
đây:
- Kế hoạch hóa định hướng
- Pháp luật
- Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế
Kế hoạch hóa: Là công cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của một nền kinh tế,
nhờ có kế hoạch hóa mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp, của
các bộ các ngành các địa phương. Kế hoạch hóa là công cụ duy nhất để chính phủ có thể
truyền tải nội dung đường lối chính sách kinh tế quản lý tập trung công cụ kế hoạch hóa
đã được sử dụng một cách không thành công bởi phương pháp kế hoạch và các mục tiêu
lựa chọn. Khi chuyển sang cơ chế mới kế hoạch hóa vẫn còn là công cụ đóng vai trò quan
trọng, vấn đề là phải đổi mới công cụ này cho thích hợp. Kế hoạch trong cơ chế mới
không phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án.
Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế: Sẽ giúp Nhà nước có thể điều khiển
hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt
động đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, hướng dẫn các doanh nghiệp hành động một
cách phù hợp với lợi ích toàn xã hội. Các chính sách kinh tế có nhiều loại, tuy nhiên có
hai cách sử dụng:
Thứ nhất: Sử dụng để tác động vào phía cung hay cầu. Mỗi chính sách kinh tế
đều có thể tác động vào cả hai phía. Khi Nhà nước định sử dụng một chính sách cụ thể
nào đó để tác động vào phía cung thì phải tạo ra các phản ứng phụ để hạn chế ảnh hưởng
của nó vào phía cầu và ngược lại.
Thứ hai: Phân loại theo khu vực. Các chính sách kinh tế có thể tác động đồng
thời lên các lĩnh vực sau:
- Lĩnh vực tài chính.
- Lĩnh vực tiền tệ.
- Lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
- Lĩnh vực tỷ giá hối đoái…
Chính vì vậy một chính sách nào đó được ban hành cần phải xác định rõ nó là
chính sách gì? Chính sách tiền tệ, Chính sách tỷ giá hối đoái, Chính sách đối ngoại,… Để
có thể tạo ra cơ chế phối hợp giữa các chính sách.
Các chiến lược phát triển kinh tế kế hoạch hóa định hướng và các chính sách
kinh tế chỉ có thể đi vào cuộc sống khi nó được thể chế hóa Pháp luật:
Trong nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước, Pháp luật thể hiện vai trò của nó
trên hai phương diện:
Thứ nhất: Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như
hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội như:
Trốn thuế, buôn lậu, ô nhiễm môi trường, hàng kém chất lượng…
Thứ hai: Pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có Pháp luật mà doanh nghiệp biết
được cái gì được làm, cái gì không được làm và đương nhiên có sự khác nhau giữa Pháp
luật của nền kinh tế kế hoạch hóa và Pháp luật của nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Trong Pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hóa doanh nghiệp nhận thấy cái
gì được làm thì trong Pháp luật của nền kinh tế thị trường có sự quản lý doanh nghiệp sẽ
nhận thấy cái gì không được làm, không được phép ngoài những cái đó ra họ có quyền
làm tất cả những gì mà họ có khả năng.
5. Thực trạng quản lý Nhà nước về kinh tế ở Việt Nam.
Từ khi đổi mới đến nay nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản. Nước ta
đã từng bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định hướng
XHCN. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ sơ khai, chưa đầy đủ. Điều đó
được thể hiện rõ ở các điểm sau đây:
- Sản xuất hàng hóa trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp còn ở trình độ thấp, công
nghiệp sản xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm làm ra còn xấu. Vì thế thị trường tiêu
thụ hết sức hạn chế. Nếu có thị trường thì sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường
kém.
- Tuy sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp là ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn nhất,
chiếm nhiều lao động xã hội trong cơ cấu kinh tế nhưng quá trình thương phẩm hóa sản
phẩm nông – lâm – ngư nghiệp chỉ diễn ra ở một số nơi có cơ sở hạ tầng, giao thông vận
tải thuận lợi, gần thị trường lớn và có bình quân ruộng đất trên đầu người tương đối cao.
Chỉ có ở những nơi này mới sản xuất được hàng hóa và cũng mới có một số sản phẩm
nông nghiệp hàng hóa với khối lượng tương đối lớn và tỉ suất hàng hóa tương đối cao,
phần còn lại vẫn ở trong tình trạng sản xuất tự cung tự cấp.
- Các hoạt động dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ nhưng mới chỉ tập trung vào một
số ngành như ăn uống, buôn bán nhỏ các hàng hóa công nghiệp tiêu dùng.v.v…, các
ngành như du lịch, bảo hiểm, cung ứng kĩ thuật và công nghệ chưa tương xứng, chất
lượng hàng hóa dịch vụ nhìn chung còn thấp.
- Nhiều điều kiện cần thiết cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa như thị trường đất
đai, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ chưa được thiết lập một cách hoàn chỉnh,
công khai. Một số yếu tố cấu thành đầu vào của sản phẩm chưa phải là hàng hóa, hoặc
đang trong trạng thái độc quyền.
Chính vì nền kinh tế vẫn còn đang trong bước quá độ của sự chuyển đổi như vậy
nên Nhà nước cũng chưa kiên quyết từ bỏ ngay cách quản lý trực tiếp đối với nền kinh tế
để chuyển hẳn sang cách quản lý gián tiếp được mà vẫn phải tiến hành đan xen cả hai
phương thức, điều này thể hiện rõ trên các mặt sau đây:
- Trong nền KTTT, cơ sở sản xuất là những đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, họ tự lo
lấy vốn, vật tư, kĩ thuật để phục vụ sản xuất, tự chịu trách nhiệm về kết quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Họ sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, bán cho ai là do tự họ định
đoạt, Nhà nước không can thiệp vào trực tiếp như trước nữa. Tuy nhiên, trong thực tế
hiện nay nhiều cơ quan Nhà nước, nhiều cấp chính quyền vẫn không muốn từ bỏ sự can
thiệp này. Một số địa phương vẫn còn giao kế hoạch sản xuất, kế hoạch giao nộp và đóng
góp cho các hợp tác xã và nông dân hay can thiệp vào công tác tổ chức và nhân sự các
doanh nghiệp đóng trên địa bàn của địa phương mình… Trong sản xuất công nghiệp chế
độ bao cấp vẫn còn trên thực tế.
- Để cho sản xuất hàng hóa phát triển nhanh, phát triển đúng quy luật, Nhà nước
phải là người tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho nó. Bằng chủ trương xóa bỏ “ngăn
sông cấm chợ” xóa bỏ chế độ nhiều giá, chúng ta đã khuyến khích sự ra đời nhanh của thị
trường hàng hóa, thị trường vật tư kĩ thuật thông suốt và thống nhất trong cả nước - đây là
điều tốt – song những thị trường khác rất cần thiết đối với hình thành và phát triển của sản
xuất hàng hóa như thị trường sức lao động, thị trường đất đai, thị trường tiền tệ, thị trường
chất xám.v.v… thì Nhà nước vẫn chưa có giải pháp rõ ràng, dứt khoát và có hiệu lực để
hình thành nó . Đây chính là một trong những trở ngại đối với sự phát triển sản xuất hàng
hóa ở nước ta hiện nay.
- Trong nền kinh tế thị trường, công cụ chủ yếu Nhà nước sử dụng để quản lý nền
kinh tế là hệ thống Pháp luật. Hệ thống Pháp luật càng đầy đủ, đồng bộ bao nhiêu, việc
quản lý của Nhà nước càng chặt chẽ, thuận lợi bấy nhiêu. Mấy năm qua Nhà nước ta cũng
đã cố gắng giải quyết vấn đề này. Song phải nói rằng luật kinh tế chưa làm được bao
nhiêu, nền kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa, song luật rất cơ bản như
luật lao động, luật thuê mướn nhân công, luật phá sản, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật
cạnh tranh và chống độc quyền…vẫn chưa có. Vì không có luật nên trong cách giải quyết
công việc hàng ngày các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước còn rất lúng túng trong
quản lý cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Cũng do chưa có luật nên một số cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm lại buông lỏng quản lý để mặc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi
pháp hoạt động gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân.
- Trong nền KTTT, bộ máy Nhà nước phải được tổ chức gọn nhẹ, nhưng chất
lượng phải tốt, hiệu lực chỉ đạo phải mạnh, nhất là bộ máy Công an – Thuế vụ – Hải quan
– Tòa án, những công cụ thi hành Pháp luật chủ yếu của Nhà nước. Việc cải tổ cơ bản bộ
máy Nhà nước Tháng 5/1992 đã tạo điều kiện và đặt ra những yêu cầu mới cho việc nâng
cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Tuy nhiên trong thực tế công việc này tiến
hành chậm, còn nhiều lúng túng và vướng mắc, cụ thể là:
+ Bộ máy Nhà nước trung ương vẫn chưa hợp lý, nhiều cơ quan chưa rõ chức
năng, nhiệm vụ, có người mới đề ra việc, nhiều người đứng đầu các cơ quan Nhà nước
vẫn chưa phải là những người tiêu biểu, đại diện cho trí tuệ của cơ quan, của ngành đó.
+ Chức năng, nhiệm vụ và cách tổ chức bộ máy chính quyền ở các cấp vẫn chưa
được phân định rõ ràng, còn gây nhiều nỗi băn khoăn trong cán bộ và nhân dân. Bộ máy
hành chính còn rườm rà, các thủ tục hành chính còn phải qua rất nhiều khâu trung gian
phức tạp, gây lo ngại trong nhân dân.
+ Luật viên chức Nhà nước vẫn chưa có. Các chức danh trong bộ máy quản lý
chưa rõ, chính vì vậy việc bố trí người còn rất tùy tiện. Người đượcđào tạo chuyên môn, có
tài năng không được quan tâm trọng dụng.
+ Việc đãi ngộ cho đội ngũ Nhà nước chưa xứng đáng, lương Nhà nước không đủ
để nuôi sống bản thân và gia đình họ, tệ tham nhũng hối lộ, ô dù tràn lan và trở thành
quốc nạn.
Những thiếu sót trên đây đã làm cho công việc quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế kém hiệu lực và hiệu quả thấp.
Trong nền KTTT, việc quản lý của Nhà nước được tiến hành thông qua các chính
sách của Nhà nước như thuế, giá cả, tiền tệ và tín dụng, lãi suất, tỷ giá hối đoái .v.v…
Trong những năm qua Nhà nước ta cũng đã đề ra được nhiều chính sách nhằm
khuyến khích sản xuất hàng hóa phát triển. Tuy nhiên, chúng ta còn thiếu một lộ trình
tổng quát để chỉ đạo quá trình đổi mới bộ máy Nhà nước, đổi mới phương thức sử dụng
các công cụ quản lý kinh tế cho phù hợp với cơ chế mới. Chính vì vậy, để thúc đẩy nhanh
việc cơ cấu lại nền kinh tế theo mô hình KTTT, Nhà nước cần phải xác định lại vai trò
của mình, đổi mới và hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Đó chỉ là một trong
những nội dung cơ bản đảm bảo cho sự thành công của đổi mới.
III. Các giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò kinh tế
của Nhà nước
Trên cơ sở đánh giá những thực trạng của nền kinh tế nước ta và sự quản lý của
Nhà nước hiện nay, phân tích những thành tựu đã đạt được và những khó khăn tồn đọng
cần khắn phục, nền kinh tế đòi hỏi phải có những giải pháp thiết thực để ổn định và nâng
cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Đây là một số biện pháp cần thiết để có thể
tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước trong thời gian tới.
1. Hoàn thiện hệ thống Pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô khác của Nhà nước.
Để hoàn thiện hệ thống Pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô khác, chúng ta cần
thực hiện nhữngv giải pháp chủ yếu sau:
1.1. Cải cách hoạt động xây dựng Pháp luật:
Đây là giải pháp để khắc phục tình trạng có quá nhiều văn bản được ban hành mà
không phát huy được hiệu lực, thậm chí còn làm rối loạn sự điều chỉnh của Nhà nước đối
với các hoạt động kinh doanh. Thực trạng manh mún, cục bộ của hoạt động xây dựng
Pháp luật trong thời gian qua là do ảnh hưởng của cung cách làm việc từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu trước đây. Vì thế, hiện nay Nhà nước cần tăng cường tính chuyên
môn và tính tập trung trong hoạt động xây dựng Pháp luật, nhất là trong khâu soạn thảo
văn bản Pháp luật. Tính thống nhất là bản chất của quyền lực Nhà nước và vì thế mà Nhà
nước mới trở thành công cụ hữu hiệu để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của toàn xã
hội được diễn ra theo trật tự văn minh và lợi ích của tất cả các nhà kinh doanh và của toàn
xã hội.
Thực tiễn cuộc sống đang đòi hỏi những đổi mới ở chiều sâu và toàn diện hơn, hệ
thống chính sách, Pháp luật, kế hoạch và các công cụ khác cũng phải mang tính thống nhất
chặt chẽ, mang tầm chiến lược và đồng bộ với nhau. Mặt khác, yêu cầu của sự nghiệp phát
triển kinh tế – xã hội trong điều kiện ngày nay đòi hỏi hệ thống công cụ quản lý Nhà nước
phải kết hợp được tính ổn định lâu dài với tính nhạy bén, năng động mà việc xử lý yêu cầu
này không thể là hoạt động của riêng ngành nào, cơ quan nào. Trong hoạt động nghiên cứu
xây dựng dự thảo văn bản Pháp luật về kinh tế, cần kết hợp chặt chẽ tính chuyên ngành và
tính đa ngành trong cơ cấu soạn thảo. Nhà nước cần tập trung hóa và chuyên nghiệp hóa
đội ngũ soạn thảo các văn bản luật, ngoài việc sử dụng các chuyên gia về quản lý ngành,
nhất thiết phải tập hợp được các chuyện gia về Pháp luật, và phải tranh thủ được nhiều ý
kiến xây dựng của các nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân cho mỗi dự thảo văn bản. Bởi
vì, ngoài việc phản ánh những nội dung kinh tế – xã hội phù hợp với nhu cầu điều chỉnh
Pháp luật trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, văn bản Pháp luật còn phải đáp ứng những yêu
cầu đặc thù của hệ thống Pháp luật. Hai mặt đó thống nhất với nhau và không thể coi nhẹ
mặt nào. Những vấn đề về tính chất, đặc điểm của Pháp luật với tính cách là hệ thống hoàn
chỉnh, kể cả sự thống nhất giữa Pháp luật về nội dung và Pháp luật về tố tụng, thủ tục hành
chính cũng như khả năng điều chỉnh của Pháp luật; các vấn đề về kỹ thuật lập pháp như
việc sử dụng các thuật ngữ pháp lý, xác định cơ cấu quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, cấu tạo
của các điều luật, chế định, Pháp luật…là những vấn đề chuyên môn có tính quyết định
cho sự tồn tại và hiệu lực thực tế của văn bản Pháp luật.
1.2. Xây dựng chiến lược phát triển Pháp luật:
Chiến lược phát triển Pháp luật thể hiện tập trung mục tiêu và các giải pháp lớn để
phát triển hệ thống Pháp luật theo tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Chiến lược phát triển Pháp luật là kế hoạch, là chính sách phát triển tổng thể của Nhà
nước ta, bao gồm lập pháp , thi hành Pháp luật và giáo dục ý thức Pháp luật nhằm hoàn
thiện các giải pháp đồng bộ về Pháp luật để điều chỉnh các hoạt động kinh tế – xã hội, tạo
thế chủ động về hoạt động kinh tế – xã hội; tạo thế chủ động về hoạt động xây dựng và
thi hành Pháp luật của Nhà nước, ổn định hóa hệ thống Pháp luật.
Chiến lược phát triển hệ thống Pháp luật của Nhà nước ta trong điều kiện hiện nay
cũng cần tính đến xu thế hội nhập quốc tế, và khu vực đang diễn ra mạnh mẽ như là tất
yếu khách quan của thời đại. Chiến lược phát triển Pháp luật của Nhà nước phải xác định
những vấn đề cơ bản, có tính định hướng và chương trình hóa dài hạn gồm: Hướng phát
triển của các quản hệ kinh tế, xã hội và nhu cầu, mức độ điều chỉnh Pháp luật một cách
tổng quát; các nhu cầu điều chỉnh trogn từng lĩnh vực kinh tế, xã hội; chương trình xây
dựng các lĩnh vực Pháp luật, chương trình tổ chức thực hiện Pháp luật, giáo dục nâng cao
ý thức Pháp luật.
1.1. Hoàn thiện hệ thống Pháp luật kinh tế:
Hệ thống Pháp luật kinh tế là một hệ thống phức tạp vì nó là sự kết hợp giữa
những đặc trưng thông thường của Pháp luật và những đặc trưng của hệ thống kinh tế
trong nền KTTT. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống này là một việc phức tạp, khó khăn. Để
hoàn thiện hệ thống Pháp luật kinh tế, Nhà nước ta nên tập trung giải quyết các vấn đề
sau:
Thứ nhất: Hoàn thiện và tăng cường đảm bảo các quy định của Pháp luật về quyền
tự do kinh doanh, không chỉ đơn giản là Nhà nước thừa nhận quyền đó trong hiến pháp
hay trong các chính sách chung là đủ, mà Nhà nước phải chủ động, sáng tạo, tích cực tạo
ra sự chuyển biến trong nhận thức, trong các văn bản Pháp luật ở hàng loạt các vấn đề có
tính mấu chốt như vấn đề sở hữu, hợp đồng,…Đặc biệt những vấn đề về bình đẳng, đối
xử như nhau với các hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân, đang là vấn đề cần
tiếp tục được cải thiện.
Thứ hai: Đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh. Cạnh tranh là tất yếu
trong nền KTTT do vậy môi trường kinh doanh bình đẳng là điều kiện cốt tử để có cạnh
tranh văn minh. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp, không kể là thành phần kinh tế nào.
Thứ ba: Đảm bảo sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động kinh
tế. Sự điều tiết của thị trường là cơ sở cho mọi sự điều tiết khác, còn Nhà nước chỉ điều
tiết mà thị trường không có chức năng điều tiết hoặc điều tiết lệch lạc. Trong điều kiện
nước ta hiện nay, Nhà nước cần sớm ban hành đạo luật quy định thủ tục đăng ký kinh
doanh cũng như thủ tục kiểm tra doanh nghiệp của Nhà nước một cách rõ ràng, đơn giản
và thuận tiện nhất cho nhà kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động này sớm đi vào nề
nếp và ổn định. Phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu, thành lập doanh nghiệp, đăng ký
kinh doanh, hoạt động kinh doanh, chấm dứt tư cách chủ thể kinh doanh với việc thu
thuế, kiểm toán, xử lý vi phạm, giả quyết các tranh chấp,… thông qua việc tạo ra tính
nhất quán trong thệ thống các quy phạm về nội dung và hệ thống các quy phạm về luật tố
tụng cũng như các thủ tục hành chính.
Thứ tư: Hoàn thiện Pháp luật về quyền sở hữu Nhà nước. ở nước ta, sở hữu
Nhà nước cung với sở hữu hợp tác xã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy nhất
thiết phải nâng cao vai trò của sở hữu Nhà nước ở các doanh nghiệp Nhà nước, coi nó có
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là công cụ đắc lực của Nhà nước.
Thứ năm: Đảm bảo tính thống nhất giữa Pháp luật về kinh tế với hệ thống
Pháp luật nói chung. Tính thống nhất này nhằm hướng tới các mục tiêu lớn là phát triển
kinh tế đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi
trường sinh thái, xây dựng nền văn hóa dân tộc với bản sắc riêng và phát triển con người
Việt Nam một cách toàn diện.
Thứ sáu: Đảm bảo tính mở cửa hệ thống Pháp luật kinh tế. Trong điều kiện
hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, việc nghiên cứu để vận dụng hợp lý các kinh
nghiệm pháp lý của nước ngoài cũng như các thông lệ quốc tế vào việc xây dựng hệ
thống Pháp luật kinh tế ở nước ta là đòi hỏi bắt buộc.
1.4. Hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô khác:
Mỗi công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước tồn tại trong mối liên hệ với các cộng cụ
khác cũng như với các công cụ quản lý xã hội nói chung. Vì thế để hoàn thiện các công
cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước trước hết phải chú ý tính hệ thống của các loại công cụ.
Tính hệ thống của các loại công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước quyết định các định
hướng cho việc xây dựng và sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô là:
a) Đảm bảo tính đồng bộ: Đây là nguyên tắc quyết định chất lượng và hiệu quả của
hệ thống công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nguyên tắc này yêu cầu các công cụ phải
nhất quán về mục tiêu điều chỉnh, hướng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Do vậy,
Nhà nước ta phải có quan điểm, chính sách tổng thể về xây dựng và các công cụ quản lý
kinh tế trong chiến lược chung về phát triển kinh tế – xã hội.
b) Nguyên tắc phân công chức năng: Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng và sử
dụng hệ thống công cụ quản lý vĩ mô phải phát huy được khả năng điều chỉnh của mỗi
loại công cụ, tránh tình trạng chồng chéo chức năng làm suy giảm vai trò của các công cụ.
2. Hoàn thiện hệ thống doanh nghiệp Nhà nước:
Mục tiêu của những biện pháp đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
là khắc phục những yếu kém, bất cập của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước hiện tại, nâng
cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Để hoàn thiện hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước, cần quán triệt hai giải pháp mang tính nguyên tắc sau:
- Nhà nước có các biện pháp để chuyển mạnh cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước theo
hướng tinh gọn. Cụ thể là Nhà nước cần tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp hoạt động
công ích, phát triển mạnh các lĩnh vực hạ tầng cơ sở, giữ các vị trí then chốt trọng yếu
trong nền kinh tế như các ngành mũi nhọn, ngành công nghệ cao và phát huy sức mạnh
tổng hợp của nền kinh tế quốc dân để tham gia cạnh tranh khu vực và quốc tế. Cần giảm
dần số doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước.
- Xóa bỏ chế độ cấp vốn cho doanh nghiệp Nhà nước từ ngân sách Nhà nước. Nhà
nước cần hoàn thiện các định chế tài chính mới như các công ty tài chính hoạt động kinh
doanh vốn Nhà nước với tư cách là doanh nghiệp độc lập với hệ thống cơ quan chính
quyền Nhà nước cần quan tâm phát huy được năng lực của mọi thành phần kinh tế, cùng
chia sẻ rủi ro, cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi ích.
3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước, nâng cao trình độ năng lực đội ngũ cán bộ, công
chức Nhà nước trong quản lý kinh tế.
Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới đất nước, sự nghiệp cải cách bộ máy
Nhà nước nói chung và cải cách bộ máy hành chính nói riêng đã thu được những kết quả
quan trọng. Tuy nhiên, nhìn chung bộ máy Nhà nước vẫn còn cồng kềnh, thẩm quyền và
chức năng chưa rõ ràng, thủ tục hành chính còn phiền hà. Đó đang là những rào cản cho
hoạt động kinh doanh. Cần kiên quyết thực hiện cải cách bộ máy Nhà nước theo hướng
tinh gọn.
Trước hết, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Quan điểm
chung hiện nay là đề cao vai trò của Quốc hội, phải đổi mới Quốc hội sao cho Quốc hội
không toàn quyền nhưng thực quyền, tăng cường năng lực làm luật, quyết định ngân sách
và giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Để công cụ cải cách hành chính và cải
cách bộ máy Nhà nước đạt được kết quả tốt, Nhà nước ta nên có chiến lược cải cách bộ
máy Nhà nước và xây dựng các kế hoạch thực hiện với những bước đi cụ thể cho từng
thời kì trên cơ sở những luận cứ khoa học vững chắc.
Tăng cường sự liên kết phối hợp hoạt động nhịp nhàng giữa các cơ quan Nhà
nước. Cơ sở đề ra quan điểm này là sự tinh gọn, tính hệ thống của các văn bản do các cơ
quan Nhà nước ban hành, chúng phải hỗ trợ nhịp nhàng cho nhau trong việc thực hiện các
ý kiến chỉ đạo của các cơ quan. Tính chặt chẽ trong cơ chế hoạt động của các cơ quan
Nhà nước chính là cơ sở đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan này.
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cần có kế hoạch phát triển nâng cao trình
độ của họ – những người quyết định sự ổn định bền vững của nền KTTT. Trước hết cần
phải có giải pháp giúp hoàn thiện, nâng cao năng lực quản lý của hàng ngũ cán bộ bằng
cách thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn, làm cho họ có những
thông tin cập nhật về nền KTTT và những quan điểm điều hành của Nhà nước ta, làm cho
đội ngũ cán bộ có khả năng phản ứng nhanh trước những biến động của thị trường. Có
những chính sách khuyến khích những cán bộ quản lý giỏi về nghiệp vụ, có năng lực và
phẩm chất tốt. Kiên quyết trừng trị những bộ phận cán bộ thoái hóa, biến chất, làm tổn hại
đến nền kinh tế của nước nhà. Thứ hai, tuyên truyền giáo dục ý thức tự chủ và tự hào dân
tộc, yêu nước của cán bộ quản lý, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng
nhằm đối phó với những cám dỗ của nền KTTT hiện nay. Đảng và Nhà nước ta là người
xây dựng đề ra chính sách về kinh tế còn đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước lại là người
thi hành, phát huy tác dụng của những chính sách đó.
Các giải pháp mà chúng ta vừa xem xét ở trên là các giải pháp tác động tới cả tầm
vi mô và vĩ mô của nền kinh tế, mỗi giải pháp đều thể hiện vai trò của nó trong một lĩnh
vực riêng biệt nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ thống nhất với nhau với một mục
đích thống nhất là xây dựng nền KTTT ở nước ta ngày càng phát triển hơn.
iv. kết luận và ý nghĩa.
Qua hơn 10 năm đổi mới theo hướng chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN, vai trò quản lý Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước về kinh tế nói riêng ở
nước ta không ngừng được nâng cao và có những bước chuyển đổi cơ bản. Tuy nhiên
trong nền kinh tế vẫn còn nhiều hiện tượng tiêu cực, đang trở thành vấn đề nhức nhối
trong xã hội như: Buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, tham ô, tham nhũng, móc ngoặc, vẫn còn
bộ phận cán bộ viên chức Nhà nước tha hóa, biến chất. Yêu cầu đặt ra hiện nay là phải
tích cực đẩy lùi, dần dẫn đến xóa bỏ hoàn toàn những hạn chế đó.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế trong khu
vực và trên thế giới. Đó là một cơ hội tốt và cũng là thử thách khắc nghiệt, đòi hỏi Nhà
nước phải có định hướng rõ ràng, thận trọng trong quá trình tham gia và phát triển, hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường đầu tư an toàn trong khu vực và
trên thế giới, có nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động dồi dào vì vậy ta phải biết
tận dụng những thế mạnh này, kết hợp với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng
tới sự phát triển toàn diện cả kinh tế và xã hội. Kinh tế càng phát triển, vai trò kinh tế của
Nhà nước càng được tăng cường. Nhà nước càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển đất nước.
Việc nghiên cứu vai trò kinh tế của Nhà nước giúp ta hiểu thêm nhiều về chức
năng của Nhà nước, thấy rõ được tầm quan trọng của Nhà nước đối với sự phát triển của
đất nước đặc biệt là trong điều kiện đất nước ta như hiện nay – từ đó có những chiến lược
phát triển kinh tế sao cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Mục lục
trang
Lời nói đầu 3
I. Lý luận chung về vai trò kinh tế của Nhà nước 5
1. Sự cần thiết khách quan về vai trò kinh tế của Nhà nước
nói chung 5
2. Sự hình thành cơ chế quản lý kinh tế mới ở Việt Nam. 9
II. Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế mới
ở nước ta hiện nay 15
1. Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam
trong cơ chế mới 15
2. Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền KTTT
định hướng XHCN ở nước ta hiện nay 19
3. Mục tiêu, chức năng của quản lý vĩ mô nền kinh tế 22
4. Các công cụ quản lý 25
5. Thực trạng quản lý Nhà nước về kinh tế ở Việt Nam 27
III. Các giải pháp để tăng cường vai trò kinh tế
của Nhà nước 30
1. Hoàn thiện hệ thống Pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô 30
2. Hoàn thiện hệ thống doanh nghiệp Nhà nước 34
3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và đội ngũ cán bộ Nhà nước 35
IV. Kết luận và ý nghĩa. 37
Tài liệu tham khảo 38
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX.
Giáo trình kinh tế chính trị Mac - LêNin, tập II, NXB Giáo dục, 1998.
Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Tạp chí - lý luận chính trị - Số 5 - 2001.
“Kinh tế học” – tập I, Viện Quan hệ quốc tế, 1989 - P.Samuelson.
“Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam”, NXB
Thống kê, 1994.
Tạp chí: Lý luận chính trị - Số 4 - 2002.
Tạp chí: Phát triển kinh tế - Số 8 - 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay.pdf