Luận văn Tăng cường quản lý đội xây dựng ở Công ty xây dựng 319 – Bộ Quốc Phòng

Tài liệu Luận văn Tăng cường quản lý đội xây dựng ở Công ty xây dựng 319 – Bộ Quốc Phòng: LUẬN VĂN: Tăng cường quản lý đội xây dựng ở Công ty xây dựng 319 – Bộ Quốc Phòng Lời Mở đầu Ngành xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn, sản phẩm của ngành xây dựng có vai trò quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân, tác động đến sự phát triển văn hoá- nghệ thuật- kiến trúc và môi trường sinh thái. Ngày nay, cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tìm mọi biện pháp để tăng sức cạnh tranh, tiến hành sản xuất kinh doanh với mức chi phí tối thiểu nhưng vẫn đảm bảo chất lượng công trình. Trong doanh nghiệp xây dựng, đội được xem như đơn vị thi công cơ bản, đơn vị trực tiếp sản xuất, khâu đầu tiên trong cơ cấu của các tổ chức xây lắp. Cùng với sự phát triển về quy mô và sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, tổ chức và quản lý kinh tế đội trở thành một vấn đề quan trọng và phức tạp. Qua thời gian thực tập ở công ty xây dựng 319 ...

pdf69 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1008 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tăng cường quản lý đội xây dựng ở Công ty xây dựng 319 – Bộ Quốc Phòng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tăng cường quản lý đội xây dựng ở Công ty xây dựng 319 – Bộ Quốc Phòng Lời Mở đầu Ngành xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn, sản phẩm của ngành xây dựng có vai trò quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân, tác động đến sự phát triển văn hoá- nghệ thuật- kiến trúc và môi trường sinh thái. Ngày nay, cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tìm mọi biện pháp để tăng sức cạnh tranh, tiến hành sản xuất kinh doanh với mức chi phí tối thiểu nhưng vẫn đảm bảo chất lượng công trình. Trong doanh nghiệp xây dựng, đội được xem như đơn vị thi công cơ bản, đơn vị trực tiếp sản xuất, khâu đầu tiên trong cơ cấu của các tổ chức xây lắp. Cùng với sự phát triển về quy mô và sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, tổ chức và quản lý kinh tế đội trở thành một vấn đề quan trọng và phức tạp. Qua thời gian thực tập ở công ty xây dựng 319 -Bộ quốc Phòng, nhận thấy “ Vấn đề quản lý đội xây dựng “ được công ty hết sức quan tâm. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này tôi đã chọn đề tài: "Tăng cường quản lý đội xây dựng ở Công ty xây dựng 319 – Bộ Quốc Phòng”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm ba phần chính: Phần thứ nhất: Tổng quan về Công ty xây dựng 319. Phần này nhằm giới thiệu khái quát về Công ty và những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Phần thứ hai: Thực trạng quản lý đội xây dựng ở Công ty xây dựng 319. Nội dung phần này đi sâu vào phân tích thực trạng quản lý đội xây dựng, những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại và nguyên nhân của nó. Phần thứ ba: Tăng cường quản lý đội xây dựng ở công ty xây dựng 319. Nội dung chủ yếu của phần này là đề ra những biện pháp để tăng cường quản lý đội xây dựng của Công ty. Phần I. Tổng quan về công ty xây dựng 319 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. Công ty xây dựng 319 tiền thân là Sư đoàn 319 – Quân khu 3, được thành lập ngày 07/3/1979 theo quyết định 231/QĐ – QP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ban đầu, nhiệm vụ của sư đoàn là huấn luyện quân dự nhiệm và tổ chức thi công các công trình quân sự như hầm, hào, bến cảng và các công trình Quân sự khác. Sau khi có quyết định, dưới sự chỉ đạo điều hành của Bộ Tư lệnh Quân khu 3, các đơn vị, các cán bộ, chiến sỹ từ nhiều nơi đã trở về thành lập Sư đoàn. Hội trường thôn Lạc Thủy, xã Đông Kết, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) là vị trí đứng chân của sở chỉ huy Sư đoàn trong những ngày đầu mới thành lập. Năm 1980: Chấp hành Nghị quyết 27 của Bộ chính trị (ngày 26 tháng 6 năm 1980) về nhiệm vụ Quân đội tham gia làm kinh tế ; căn cứ vào chỉ thị của Hội đồng Chính phủ – Hội đồng Bộ trưởng (ngày 12 tháng 9 năm 1980) giao nhiệm vụ cho Quân đội góp phần xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại, theo quyết định số 579/QĐ-QP ngày 27/9/1980 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết định Sư đoàn chuyển sang làm nhiệm vụ kinh tế, lấy tên là Công ty xây dựng 319 – Bộ Quốc phòng và trực tiếp xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại cùng nhiều công trình khác. Sau khi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên công trường Phả Lại, Công ty chuyển địa điểm về đóng quân tại Gia Lâm – Hà Nội. - Năm 1996: Thực hiện Nghị quyết của Đảng uỷ trung ương về việc sắp xếp lại các doanh nghiệp trong Quân đội, đồng thời để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và tạo sức mạnh cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Công ty xây dựng 319 được thành lập lại theo quyết định 564/QĐ- QP ngày 22 tháng 4 năm 1996 của Bộ trưởng bộ quốc phòng trên cơ sở sáp nhập 05 doanh nghiệp cùng ngành nghề, hoặc khác ngành nghề nhưng phục vụ trực tiếp cho mục tiêu sản xuất kinh doanh chính của Công ty(gồm: công ty xây dựng 319; Xí nghiệp 29; Xí nghiệp xây lắp 11; Xí nghiệp 7; Xí nghiệp xây dựng cơ bản 487). - Năm 1997: Công ty xây dựng 319 được phân định loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp kinh tế quốc phòng theo quyết định số 995/QĐ-QP ngày 18/7/1997 của bộ trưởng bộ quốc phòng. - Năm 1999: Công ty xây dựng 319 sáp nhập thêm hai doanh nghệp (công ty 19 và công ty 496) về công ty theo quyết định số 641/1999/QĐ- BQP ngày 12/5/1999của Bộ Quốc Phòng. - Năm 2000: Công ty xây dựng 319 được công nhận xếp hạng: Hạng 1 theo quyết định số 923/QĐ ngày 23/5/2000 của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Năm 2002, Công ty xây dựng 319 được Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu “ Anh hùng lao động “ trong thời kỳ đổi mới. Công ty xây dựng 319 – Bộ quốc phòng là tên truyền thống được giữ cho đến hôm nay. Trải qua 26 năm thành lập và phát triển cho tới nay, công ty xây dựng 319 với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước, có tài khoản tại ngân hàng, được sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước, hoạt động và sản xuất kinh doanh trong phạm vi pháp luật quy định, công ty không ngừng lớn mạnh và phát triển vững vàng về mọi mặt, thường xuyên xây dựng và kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực chỉ huy, điều hành, quản lý, đổi mới trang thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất kinh doanh, mở rộng địa bàn hoạt động đến hầu hết các tỉnh trong cả nước … Vì vậy đã thi công hàng trăm công trình với nhiều quy mô thuộc nhiều ngành nghề, ở nhiều địa điểm, có yêu cầu phức tạp nhưng đảm bảo được tốt yêu cầu, kiến trúc, thẩm mỹ, chất lượng, tiến độ. Ngày nay, công ty thực sự là một doanh nghiệp có uy tín cao trên thị trường và đầy đủ năng lực thi công mọi công trình theo yêu cầu của chủ đầu tư. 2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty. * Chức năng của công ty. + Xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông. thủy lợi, thủy điện, đường dây và trạm điện, lắp đặt dây chuyền công nghệ. + Tư vấn thiết kế các công trình xây dựng, giao thông thủy lợi. + Khảo sát, dò tìm xử lý bom mìn – vật nổ. + Kinh doanh bất động sản. + Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng. * Nhiệm vụ chủ yếu của công ty. + Xây dựng và thực hiện kế hoạch, không ngừng nâng cao hiệu quả và mở rộng sản xuất kinh doanh, đạt chất lượng cao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. + Đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong toàn công ty, giải quyết việc làm và thực hiện đầy đủ chế độ chính sách của Nhà nước. + Bảo vệ tài sản của công ty, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự xã hội, làm tròn nghĩa vụ quốc phòng, tuân thủ pháp luật, hạch toán và báo cáo trung thực theo chế độ chính sách của nhà nước quy định. 3. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý đội xây dựng 3.1. Đặc điểm về sản phẩm. Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Hoạt động của ngành xây dựng là hoạt động hình thành nên năng lực sản xuất cho các ngành, các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Nói một cách cụ thể hơn, sản xuất xây dựng bao gồm các hoạt động: xây mới, mở rộng, khôi phục, cải tạo hay hiện đại hoá các công trình hiện có trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. So với các ngành sản xuất vật chất khác, ngành xây lắp có những dặc điểm riêng và ảnh hưởn đến công tác quản lý đội xây dựng. Những đặc điểm đó thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc … có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian sản xuất sản phẩm dài.Đặc điểm này đòi hỏi công tác quản lý đội xây dựng phức tạp hơn, tổng hợp về các mặt không những về kỹ thuật, vật tư, tài chính mà quản lý cả về lao động, tổ chức chăm lo cho đời sống của công nhân viên trong đội. Thứ hai, sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện sản xuất (xe, máy, thiết bị thi công, người lao động…) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm Đặc điểm này làm cho việc quản lý đội xây dựng rất khó khăn và phức tạp do ảnh hưởng của kiều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ phát sinh các vấn đề ngoài dự tính như: việc mất mát, hư hỏng nguyên vật liệu, các vấn đề về dân cư địa phương. Thứ ba, địa bàn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng thường rất rộng, luôn thay đổi theo địa bàn bàn thi công công trình. Điều này dẫn đến việc quản lý đội xây dựng thường không dễ dàng, đặc biệt là khi mỗi công trình hoàn thành thì máy móc thiết bị , nhân công đều phải di chuyển đi nơi khác. Thứ tư, sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đi vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời nên chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng mưa,lũ lụt. Đặc diểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế dự toán. Ngoài ra, trong xây dựng còn ảnh hưởng của lợi thế so sánh do điều kiện địa lý của từng địa điểm đem lại. Đó chính là giá cả nguồn vật liệu, máy móc thuê ngoài, nhân công tại địa phương... Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, tổ chức xây lắp ở nước ta chủ yếu theo hình thức “khoán gọn” các công trình, hạng mục công trình cho các đội, xí nghiệp xây dựng. Việc giao khoán trên sẽ có tác dụng nâng cao trách nhiệm trong quản lý xây dựng của các bộ phận trực tiếp thi công. Những đặc điểm trên của ngành xây dựng cơ bản có ảnh hưởng tới quản lý đội xây dựng của công ty. Việc quản lý đội phải gắn vào từng công trình, phù hợp với tính chất khác biệt theo từng đặc điểm của chúng như vị trí thi công, thời gian thi công, các yêu cầu chất lượng, đặc điểm kỹ thuật, mỹ thuật, và các yêu cầu khác của chủ đầu tư. 3.2. Quy trình công nghệ thực hiện công trình Đội xây dựng có nhiệm vụ gắn liền với các công trình xây lắp nên các đặc điểm về công nghệ sản xuất, quy trình sản xuất sản phẩm có tác động trực tiếp đến công tác tổ chức quản lý. Mọi sự biến đổi của công nghệ sản xuất, quy trình sản xuất yêu cầu một cơ cấu quản lý, một cơ chế quản lý tương ứng. Mô hình tổng quát quy trình thực hiện công trình có thể biểu diễn qua sơ đồ sau: Sơ đồ 01: Quy trình công nghệ thực hiện công trình Trong quy trình trên, bốn khâu đầu do Công ty tiến hành, còn lại các khâu sau chủ yếu tập trung vào đội. Thông thường, sau khi công ty ký hợp đồng kinh tế với chủ đầu tư, sẽ giao lại công trình cho đội đảm nhiệm, đội tiến hành thi công công trình, khi hoàn thành sẽ làm thanh quyết toán và cùng với các phòng ban của công ty bàn giao cho chủ đầu tư. Do đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản nên quá trình để hoàn thành một sản phẩm dài hay ngắn tùy thuộc vào từng công trình, hạng mục công trình có qui mô lớn Tổ chức hồ sơ đấu thầu Thông báo trúng Chỉ định thầu Hợp đồng kinh tế với chủ đầu tư Thành lập ban chỉ huy công trường Lập phương án tổ chức thi công Bảo vệ phương án và biện pháp thi công Tiến hành tổ chức thi công theo kế hoạch được duyệt Tổ chức nghiệm thu khối lượng và chất lượng công trình Lập bảng nghiệm thu thanh toán công trình Công trình hoàn thành, làm quyết toán và bàn giao cho Tổ chức hồ sơ đấu thầu Thông báo trúng Chỉ định thầu Hợp đồng kinh tế với chủ đầu tư Thành lập ban chỉ huy công trường Lập phương án tổ chức thi công Bảo vệ phương án và biện pháp thi công Tiến hành tổ chức thi công theo kế hoạch được duyệt Tổ chức nghiệm thu khối lượng và chất lượng công trình Lập bảng nghiệm thu thanh toán công trình Công trình hoàn thành, làm quyết toán và bàn giao cho nhỏ khác nhau. Mặt khác, sản phẩm của ngành xây dựng mang tính đơn chiếc và thị trường phân tán, tổ chức sản xuất ở cấp đội được biên chế đầy đủ cán bộ chỉ huy, cán bộ kỹ thuật, nhân viên kế toán, nhân viên vật tư…Đối với một số công trình đặc biệt, sẽ được Nhà nước và Bộ Quốc Phòng chỉ định thầu thông qua công ty, còn lại các công trình khác công ty tổ chức đấu thầu, sau đó giao lại cho xí nghiệp. Khi đó xí nghiệp tiến hành khảo sát, thiết kế, tập hợp nhân lực, vật lực chuẩn bị cho quá trình thi công công trình. Sau khi công trình đã hoàn thành sẽ được tiến hành nghiệm thu và bàn giao công trình cho chủ đầu tư. 3.3. Đặc điểm vốn kinh doanh Vốn là yếu tố quan trọng để hoạt động kinh doanh diễn ra bình thường.Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp nói chung đặc biệt trong kinh doanh xây dựng là vô cùng quan trọng, nó liên quan đến mọi khâu mọi giai đoạn trong quá trình thực hiện dự án xây dựng. Nhu cầu về vốn cho mỗi giai đoạn là khác nhau, với mục đích sử dụng cũng khác nhau. Trong giai đoạn xác định dự án, xây dựng dự án, đánh giá dự án, nhu cầu về vốn phục vụ cho công tác nghiệp vụ tại văn phòng nên quy mô huy động là nhỏ. Trong giai đoạn tổ chức thực hiện thi công dự án, nhu cầu về vốn đặc biệt lớn, chủ yếu chi phí phát sinh trong giai đoạn này chi cho nguyên vật liệu, chi phí máy móc thiết bị, chi phí nhân công. chi phí cho quản lý, chi phí bảo lãnh công trình. Trong giai đroạn nghiệm thu bàn giao công trình, chi phí chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị công trình, chủ yếu là chi phí bảo lãnh công trình thường chiếm khoảng từ 5- 10% giá trị tổng dự toán. Sau khi ký kết hợp đồng giao khoán nội bộ với doanh nghiệp các đội cần được doanh nghiệp ứng trước một phần vốn để thực thi công trình. Yêu cầu đặt ra cho công ty là phải ứng đủ vốn và kịp thời theo từng giai đoạn thi công xây lắp. Nếu lượng vốn không đủ hoặc chậm chễ sẽ làm ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng công trình. Công ty xây dựng 319 là một doanh nghiệp nhà nước có quyền tự huy động vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng như các doanh nghiệp khác trong ngành, nguồn vốn sử dụng trong sản xuất kinh doanh của công ty rất lớn và vòng quay vốn chậm. Vì vậy khả năng về tài chính là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến lợi thế của công ty trong quá trình tham gia dự thầu. Nguồn vốn của công ty được huy động từ nhiều nguồn khác nhau nhưng cơ bản là 3 nguồn chính sau: Nguồn ngân sách cấp Nguồn tự bổ sung Nguồn vốn vay. Bảng số 01: Cơ cấu vốn kinh doanh Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 2003 2004 1.Tổng vốn 34,79 45,41 67,24 2.Cơ cấu vốn theo tính chất 2.1. Vốn lưu động 2.2.Vốn cố định 11,59 23,2 15,13 29,98 23,11 44,13 3.Cơ cấu vốn theo sở hữu 3.1.Vốn chủ sở hữu 3.2.Vốn vay 23,57 11,22 20,1 25,31 21,71 45,53 4.Tỷ lệ % vốn vay so với tổng vốn(%) 32,25 55,73 67,71 5. Tỷ lệ % vốn vay so với vốn chủ sở hữu (%) 47,60 125,92 209,71 (Nguồn:Phòng tài chính) Từ bảng số liệu ta thấy tổng vốn của công ty không ngừng tăng qua các năm. Tỷ lệ tăng vốn năm 2003 tăng 30.52% so với năm 2002, năm 2004 tăng 48,07% so với năm 2003. Điều này chứng tỏ trong những năn gần đây tình hình sản xuất kinh doanh của công ty là rất có hiệu quả, đặc biệt là năm 2004. Trong các năm 2003, 2004 nguồn vốn kinh doanh của công ty không ngừng tăng lên:Tỷ lệ tăng vốn năm 2003 so với năm 2002 là 30,52%, năm 2004 so với năm 2003 là 48,07%. Điều này chứng tỏ là trong những năm gần đây tình hình sản xuất kinh doanh của công ty là rất có hiệu quả đặc biệt là năm 2004 vừa qua. Nguồn vốn vay của công ty thay đổi theo thời gian và năm sau cao hơn năm trước. Trong năm 2004 nguồn vốn vay là rất lớn do trong thời gian này công ty đã trúng thầu và được chỉ định thầu rất nhiều công trình có giá trị lớn. Lượng vốn vay năm 2004 tăng 2002 tỷ đồng so với năm 2003. Tỷ lệ vốn vay / tổng vốn năm 2002 là 32,25%, năm 2003 là 55,73%, đến năm 2004 là 67,71%; lượng vốn vay đã góp phần giúp công ty thi công các công trình để đảm bảo đúng tiến độ. Từ số liệu trên ta thấy tình hình tài chính của công ty là không an toàn do lượng vốn vay quá lớn đặc biệt là trong năm 2004, hệ số nợ có thể làm công ty phải gánh lãi nhiều nhưng nó lại bù đắp được rất nhiều tình trạng thiếu vốn hiện nay của công ty khi mà công ty đang có rất nhiều công trình được thi công. Điều này giúp cho chủ đầu tư đánh giá cao về khả năng tài chính của công ty và giúp cho công ty nâng cao được năng lực hồ sơ đấu thầu, từ đó nâng cao được hiệu quả đấu thầu của công ty. 3.4. Cơ cấu sản xuất Bộ phận sản xuất chính của công ty là các xí nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc, mỗi xí nghiệp thành viên đều có các đội xây dựng, xản xuất, chuyên môn hóa, trực tiếp thi công công trình tạo ra sản lượng xây lắp chính cho công ty. Vì sản phẩm của công ty thay đổi theo từng địa điểm của công trình, vì vậy việc tổ chức sản xuất của công ty cũng thay đổi theo từng công trình cụ thể về cả cơ cấu và nguồn nhân lực. Tuy nhiên có thể khái quát một sơ đồ tổ chức thi công công trình của công ty như sau: Sơ đồ số 2: Cơ cấu sản xuất của công ty Trong mô hình ta thấy sự phân công nhiệm vụ và quyền hạn rất là rõ ràng. Chính điều này đã làm cho công ty có thể nâng cao khả năng sản xuất kinh doanh và hoàn thành tốt các công trình đã thắng thầu, làm tăng uy tín cho doanh nghiệp. Công ty là cấp quản lý cao nhất đóng vai trò điều tiết hoạt động của các xí nghiệp thành viên để bổ sung hỗ trợ cho nhau. Nhưng đồng thời các xí nghiệp thành viên cũng có sự độc lập với nhau. Đối với một số công trình đặc biệt, Nhà nước và Bộ Quốc Phòng giao cho các xí nghiệp thông qua chỉ định thầu. Đối với các công trình khác, công ty tổ chức đấu thầu trong công ty sau đó giao lại cho xí nghiệp. Trong quá trình thi công, xí nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và công ty về an toàn lao động và chất lượng công trình. Sau khi công trình đã hoàn thành, sẽ được tiến hành nghiệm thu và bàn giao công trình cho chủ đầu tư.Tuỳ theo đặc điểm của từng công trình hoặc hạng mục công trình, công ty sẽ giao cho đội trưởng tổ chức các hoạt động sản xuất, thi công xây dựng công trình theo cách: Công ty trực tiếp quản lý, điều hành công việc và giao khoán công nhân cho đội, giao khoán vật liệu phụ, giao Tổ XD Tổ XD Đội xây dựng Công ty Xí nghiệp 1 Xí nghiệp 2 Xí nghiệp … Tổ XD Tổ XD Đội xây dựng Tổ XD Tổ XD Đội xây dựng khoán vật tư, giao khoán chi phí gián tiếp, giao khoán hoàn toàn, nộp tỷ lệ thích hợp. Như vậy, Đội xây dựng đóng vai trò chủ đạo trong cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty. 3.5. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Công ty xây dựng 319 thuộc loại doanh nghiệp nhà nước có quy mô tương đối lớn. Mô hình quản lý của công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng, điều hành sản xuất theo chế độ thủ trưởng, có mối quan hệ và liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá và có trách nhiệm quyền hàn nhất định. Một doanh nghiệp hiện đại đòi hỏi một sự chỉ huy sản xuất và quản trị kinh doanh theo một ý chí thống nhất tuyệt đối, đòi hỏi một sự phục tùng kỷ luật hết sức nghiêm ngặt, sự điều khiển cả bộ máy quản trị theo những quy tắc thống nhất từ trên xuống dưới. Hiện nay, công ty có một bộ máy quản lý tinh giản, gọn nhẹ, đủ năng lực và thuận tiện cho công tác quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty xây dựng 319 có thể được khái quát theo sơ đồ sau (trang bên): Mô hình tổ chức toàn Công ty là mô hình thống nhất, theo tổ chức của một doanh nghiệp Nhà nước hạng I kết hợp kinh tế, Quốc phòng. Tổ chức gọn nhẹ, tinh giảm, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và chuyển nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Sơ đồ số 03: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty: * Bao gồm: - 01 xưởng khảo sát thiết kế. Theo sơ đồ này, chúng ta có thể thấy được rằng bộ máy quản lý của công ty được thiết lập theo kiểu cơ cấu tổ chức trực tuyến chức năng. Giám đốc công ty là người lãnh đạo cao nhất của công ty, có nhiệm vụ quản lý toàn diện, chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động sản xuất , kỹ thuật, kinh doanh và đời sống của doanh nghiệp, nắm quyền ra G i á m đ ố c x í n g h i ệ p 7 x ư ở n g 4 0 G i á m đ ố c X í n g h i ệ p 9 G i á m đ ố c X í n g h i ệ p 1 1 G i á m đ ố c X í g h i ệ p 1 9 G i á m đ ố c X í n g h i ệ p 2 9 G g i á m đ ố c X í n g h i ệ p 2 9 6 G Đ N m x m v ạ n c h á n h G Đ c h i n h á n h T P H C M T T x ử l ý B M V N & p t h t Các đội thi công, các xưởng, phân xưởng, Ban chỉ huy các công trường G i á m đ ố c X í n g h i ệ p 4 8 7 G Đ X N x l v à d ạ y n g h ề G i á m đ ố c X í n g h i ệ p 3 5 9 giám đốc công ty phó giám đốc chính trị phó giám đốc kế hoạch – kỹ thuật phó giám đốc phòng kế hoạch kỹ thuật phòng Vật tư xe máy phòng Đầu tư PTHT và KD nhà phòng tài chính Ban kiểm toán Phòng chính trị Phòng lao động tiền lương Phòng hậu cần C á c B a n đ i ề u h à n h c á c d ự á n l ớ n quyết định về tất cả các vấn đề sản xuất kinh doanh của công ty. Giám đốc là người có quyền quyết định cao nhất nhưng đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm chung về công ty trước Nhà nước và Pháp luật. Giúp việc và tham mưu cho Giám đốc là các phó giám đốc và các phòng ban chức năng. Để có thời gian tập trung vào những vấn đề lớn, có tính chiến lược, giám đốc giao quyền chỉ huy sản xuất và kỹ thuật cho phó giám đốc. Toàn bộ hoật động tài chính - kế toán theo quy định hiện nay được giao cho kế toán trưởng có vị trí như một phó giám đốc. Các phòng ban chức năng có nhiệm vụ tham mưu cho toàn bộ hệ thống trực tuyến, giúp giám đốc (và các phó giám đốc) chuẩn bị các quyết định theo dõi, hướng dẫn các phân xưởng, các bộ phận sản xuất kinh doanh cũng như các cán bộ, nhân viên cấp dưới thực hiện đúng đắn kịp thời những quyết định quản lý. Những quyết định quản lý do các phòng ban chức năng nghiên cứu, đề xuất, khi được giám đốc công ty thông qua mới thành mệnh lệnh được truyền đạt từ trên xuống dưới theo tuyến đã định. Trách nhiệm chung của các phòng chức năng là vừa phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, vừa phải phối hợp chặt chẽ với các phòng khác, nhằm đảm bảo cho tất cả các kĩnh vực công tác của doanh nghiệp được tiến hành ăn khớp, đồng bộ, nhịp nhàng. Các phòng chức năng không có quyền trực tiếp chỉ huy các phân xưởng, các bộ phận sản xuất. Hạn chế của mô hình này thể hiện ở chỗ chia cắt các bộ phận trong công ty, thiếu sự phối hợp giữa các phòng ban và các xí nghiệp thành viên, điều này ảnh trực tiếp đến việc quản lý các đội. Các đội thực hiện hạch toán đội và thực hiện báo cáo thông qua hoá đơn chứng từ. Hầu hết các cán bộ quản lý đội là do giám đốc bổ nhiệm. Chính cơ chế quản lý điều hành của công ty sẽ quy định nên cơ chế quản lý của công ty với đội cũng như cách thức cơ chế quản lý của bản thân mỗi đội Phần 2. Thực trạng quản lý đội xây dựng ở công ty xây dựng 319- bộ quốc phòng 1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty xây dựng 319 Bảng số 02: Các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu (Đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 2003 2004 1. Giá trị. 1.1. Giá trị sản xuất 885.325 892.140 915.203 - Xây lắp 752.277 616.042 834.703 - Sản xuất công nghiệp 36.034 30.213 34.883 - Tư vấn thiết kế 2.303 2.300 3.651 - Dò mìn 94.711 42.284 41.966 - Đường 18 168.041 - Đường 353 33.260 1.2. Doanh thu 727.597 830.424 843.321 1.3. Giá trị thu hồi vốn 676.975 699.940 627.123 2. Chỉ tiêu tài chính 2.1. Lợi nhuận 19.975 21.133 21.410 2.2. Các khoản nộp ngân sách 49.774 52.300 57.646 2.3. Thu nhập bình quân 1 tháng 1 CNV (đơn vị: đồng) 1.026 1.137 1.185 (Nguồn: Phòng kế hoạch – kỹ thuật) Bảng số 03 : So sánh tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh từ năm 2002-2004 Chỉ tiêu So sánh năm 2004/2002 So sánh năm 2004/2003 Chênh lệch % Chênh lệch % 1. Giá trị. 1.1. Giá trị sản xuất 29.878 103,4% 23.063 102,6% 1.2. Doanh thu 115.724 114,6% 12.897 101,5% 1.3. Giá trị thu hồi vốn - 49.852 92,6% - 72.817 89,6% 2. Chỉ tiêu tài chính 2.1. Lợi nhuận 1.435 107,2% 277 101,3% 2.2. Các khoản nộp ngân sách 7.872 115,8% 5.346 110,2% Qua các bảng trên ta thấy: hầu hết các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu của công ty đều có những dấu hiệu tăng rất đáng mừng. Biểu số 1: Tổng doanh thu từ năm 2002- 2004 Doanh thu Tr.đ 843.321830.424 727.597 660.000 680.000 700.000 720.000 740.000 760.000 780.000 800.000 820.000 840.000 860.000 2002 2003 2004 Năm Biểu số 2: Lợi nhuận từ năm 2002-2004 Lợi nhuận 21.410 21.133 19.975 19.000 19.500 20.000 20.500 21.000 21.500 22.000 2002 2003 2004 Nhận xét: Nhìn vào biểu số 1 ta thấy tổng doanh thu từ năm 2003 đến năm 2004 tăng đáng kể tuy rằng không bằng năm 2004. Mức tăng của năm 2004 so với 2003 về doanh thu tăng 12,897 tỷ đồng(tăng 1,5%); năm 2004 mức doanh thu tăng 115,724 tỷ đồng(tăng 14,6%) so với năm 2002. Mức tăng này là do tác động của sự phát triển thị trường xây dựng ngày càng tăng, đã làm cho số công trình mà công ty tiến hành thi công tăng lên. Điều này góp phần quan trọng làm cho giá trị sản lượng xây lắp năm 2002 đến năm 2004 tăng lên rất nhanh khi các dự án được triển khai. Cùng với sự tăng trưởng của doanh thu và giá trị sản lượng, ta thấy lợi nhuận của công ty cũng tăng từ 19,975 tỷ đồng năm 2002 lên đến 21,410 tỷ đồng năm 2004(tăng 7,2%). Tuy nhiên, tốc độ tăng lợi nhuận từ năm 2003 đến 2004 là rất chậm, mức tăng là 277 triệu đồng(tăng 1,3%).Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của công ty vẫn còn thấp. Năm 2004 tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đạt 2,5%, nghĩa là trong 100 đồng doanh thu thì có 2.5 đồng lợi nhuận. Sở dĩ tỷ suất lợi nhuận của công ty thấp trong khi doanh thu hàng năm khá cao là do việc đảm bảo chất lượng và phát sinh nhiều khoản mục chi phí trong thi công mà khi lập giá dự thầu Công ty không lường hết được, điều này đã làm cho chi phí của thi công tăng cao. Mặt khác, do khối lượng công trình thi công lớn, địa Tr.đ Năm bàn thi công dàn trải trong khi năng lực cán bộ kỹ thuật còn hạn chế nên chưa đạt hiệu quả cao. Đa số các chỉ tiêu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch của công ty năm 2004, chứng tỏ công tác quản lý thi công tốt trong điều kiện thời tiết thuận lợi, đảm bảo tiến độ, công tác huy động máy móc thiết bị hiệu quả, tinh thần trách nhiệm của bộ máy quản lý các dự án của công ty cao, đảm bảo được chất lượng công trình.Các chỉ tiêu tăng trưởng về giá trị sản lượng và doanh thu qua các năm đã phản ánh rõ tác động tích cực của công tác quản lý đội xây dựng đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Thu nhập bình quân một tháng của một công nhân viên tăng dần qua các năm. Điều này chứng tỏ Ban lãnh đạo công ty rất quan tâm đến vấn đề nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên của công ty. Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây có xu hướng tăng nhanh. Nguyên nhân của tình trạng trên là do: + Sự quan tâm và sự chỉ đạo sát sao của BCH Đảng bộ Công ty đưa ra những chủ trương, đường hướng đúng đắn phù hợp với điều kiện và khả năng của Công ty. Lãnh đạo công ty đã triển khai chủ trương của Đảng uỷ một cách năng động và sáng tạo từng lúc, từng nơi, từng điều kiện cụ thể để đạt được hiệu quả cao trong SXKD. + Sự quan tâm tạo điều kiện và sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo, các phòng chức năng công ty. + Sự đoàn kết thống nhất trong lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên công ty. + Sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên trong công ty quyết tâm khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2004 và những năm tiếp theo. 2. thực trạng Công tác quản lý đội xây dựng ở công ty xây dựng 319 2.1. Thực trạng tổ chức đội xây dựng 2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của đội xây dựng Đội xây dựng là một hình thức hiệp tác lao động là lao động tập thể có tổ chức ở khâu đầu tiên trong hoạt động xây lắp, dựa trên sự hợp nhất những cố gắng khác nhau của nhiều người, nhiều nghề, nhằm thực hiện một loại việc, hoặc một tập hợp nhiều loại việc, một giai đoạn công tác riêng biệt hoặc một hạng mục công trình, một công trình xây dựng. - Chức năng của đội: + Thực thi công trình: Đội với tư cách là tổ chức cơ bản trực thuộc doanh nghiệp, thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ, cho nên chức năng chủ yếu của đội là thực thi công trình, trực tiếp thi công xây lắp và điều hành tác nghiệp công việc tại hiện trường. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay nhiều đội xây dựng đang được giao nhiệm vụ tiếp cận thị trường, thậm chí phải tự lo liệu lấy công ăn việc làm, do đó quyền hạn của đội cũng được mở rộng hơn. + Tạo ra lợi nhuận: Đội là đơn vị trực thuộc doanh nghiệp, đội phải có trách nhiệm tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp thông qua việc hoàn thành xuất sắc công việc của mình. - Nhiệm vụ của đội: + Góp phần khai thác và mở rộng, củng cố thị trường. + Thực hiện tốt các nhiệm vụ kế hoạch được giao. + Thực hiện đúng quy trình, quy phạm kỹ thuật xây dựng, đảm bảo chất lượng công trình, thực hiện đúng các quy định về bảo hộ và an toàn lao động. + Tiết kiệm các yếu tố chi phí đầu vào của dự toán công trình(nhân công, vật liệu, sử dụng máy và các chi phí khác) do đội quản lý. + Hoàn thành mọi nghĩa vụ đối với doanh nghiệp; thực hiện tốt công tác thống kê kế toán thuộc phạm vi phân cấp. + Thực hiện chế độ phân phối hợp lý, hợp pháp, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. 2.1.2. Thực trạng tổ chức đội ở công ty Đội là một cấp trong cơ cấu sản xuất kinh doanh của công ty, hiện công ty có 90 đội xây dựng hoạt động trong hệ thống các xí nghiệp thành viên, trong đó có 42 đội được đánh giá là có chất lượng cao, số còn lại có chất lượng trung bình.Có 70-80% nhân sự được đào tạo nghề và đào tạo cao cấp, trong đó có 60 % số đội trưởng có trình độ đại học, 30% có trình độ trung cấp, số còn lại do làm việc lâu năm được giao trách nhiệm quản lý đội. Mỗi đội là một cấp quản lý trực tiếp theo năm lĩnh vực (năm quản: kế hoạch, vật tư, tài chính, lao động, kỹ thuật), trên cơ sở đó có các cán bộ: kỹ thuật, kế toán, vật tư. Mỗi người cán bộ đựợc giao chịu trách nhiệm trước đội trưởng về công việc của mình. Đội trưởng chịu trách nhiệm hạch toán lỗ lãi với công ty về công trình được giao. Các đội được ưu tiên tối đa về nguồn lực và tự chủ động, năng động trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Đội ngũ công nhân xây dựng và sản xuất nằm trong biên chế của xí nghiệp thường có ít nhất 15 người trở lên. Công ty có 12 đơn vị thành viên, với tổng số cán bộ công nhân viên là 4.238 người, trong đó Xí nghiệp 11 là một đơn vị độc lập, trước kia là một trung đoàn được sáp nhập vào Công ty. Sau đây là tình hình thực hiện kế hoạch sản lượng và doanh thu của một số Xí nghiệp điển hình trong năm 2004: Bảng số 04 : Sản lượng và doanh thu tại một số Xí nghiệp điển hình năm 2004 (Đơn vị tính: Triệu đồng) STT Tên đơn vị KH năm 2004 TH năm 2004 SL DT SL DT 1. Xí nghiệp 7 65.000 60.000 66.696 61.376 2. Xí nghiệp 11 110.000 105.000 98.190 68.438 3. Xí nghiệp 19 65.000 65.000 68.600 65.000 4. Xí nghiệp 296 70.000 80.000 77.597 79.376 5. Xí nghiệp XL- DN 60.000 65.000 63.914 65.166 6. Xí nghiệp 29 50.000 55.000 50.077 48.062 7. Xí nghiệp 9 45.000 40.000 41.022 38.678 (Nguồn: Phòng kế hoạch – kỹ thuật) 2.1.3. Kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội xây dựng Có thể thấy được kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội xây dựng qua bảng tổng hợp giá trị sản lượng của một số đội thuộc xí nghiệp 11- một đơn vị điển hình của Công ty trong năm 2004 như sau: Bảng số 05 : Giá trị sản lượng của một số đội xây dựng tại Xí nghiệp 11- năm 2004 (Đơn vị tính: nghìn đồng) STT Tên đội Sản lượng Thu hồi Quý 4 Năm 2004 Quý 4 Năm 2004 1 Đội 13 13.026.088 18.089.626 1.582.937 15.718.669 2 Đội 15 3.858.430 12.093.870 3.883.008 10.142.830 3 Đội 17 1.732.678 8.553.562 178.500 4.090.991 4 Đội 110 2.347.378 7.231.705 2.240.000 5.330.711 5 Đội 19 5.190.971 6.157.057 1.898.373 4.980.153 6 Đội 115 550.395 4.380.897 5.431.860 6.331.860 (Nguồn: Ban kế hoạch kỹ thuật - XN 11) Qua đó ta thấy, giá trị sản lượng đội thực hiện là tương đối lớn, đặc biệt là 3 tháng cuối năm 2004. Điều này chứng tỏ số công trình mà đội thực hiện có xu hướng ngày càng tăng. Để tìm hiểu và nắm được kết quả của công tác quản lý đội xây dựng ở công ty, ta có thể đi cụ thể, chi tiết vào ba đội điển hình cho kết quả cao, trung bình, thấp. Do Xí nghiệp 11 là đơn vị thành viên lớn, tiêu biểu của công ty nên ta có thể lấy ví dụ về đội thuộc xí nghiệp để phân tích. Bảng số 06 : Bảng so sánh kết quả quản lý đội Tiêu chí Đội 13 Đội 17 Đội 112 Quy mô đội - Lao động trong biên chế: 55 người - Hợp đồng thời vụ: tuỳ từng công trình, từ 80- 130 người. - Lao động trong biên chế: 35 người - Hợp đồng thời vụ: 60- 100 người. - Lao động trong biên chế: 25 người - - Hợp đồng thời vụ: 45- 90 người. Giá trị sản lượng (Đơn vị: triệu đồng) 18.089 8.554 3.776 Thu nhập bình quân (Đơn vị: 1000 đồng) 1.287 1.126 1.013 (Nguồn: Ban kế hoạch kỹ thuật – Xí nghiệp 11) Qua bảng trên ta thấy mức độ chênh lệch giữa đội có kết quả cao và đội có kết quả thấp là tương đối lớn. Thông thường, các công trình đội thực hiện là do Công ty, Xí nghiệp giao cho, dựa vào kết quả sản xuất của đội như: chỉ tiêu lãi, lỗ, tiến độ thực hiện, đặc biệt là kinh nghiệm đã từng làm các công trình tương tự; công trình đội đang thi công chưa hoàn thành (để chuyển sang công việc khác). Thu nhập bình quân trong đội 13 là 1.287 nghìn đồng, hơn 161 nghìn đồng so với đội 17, hơn 274 nghìn đồng so với đội 112. Như vậy là mức độ chênh lệch giữa đội cao nhất và đội thấp nhất là khá cao, thể hiện công tác quản lý đội xây dựng trong đội 13 là tốt, đạt hiệu quả cao, mức sống của người lao động trong đội tương đối cao. Nguyên nhân của sự chênh lệch giữa các đội trên là do: Trước hết, phải kể đến công lao to lớn của người đội trưởng,đội trưởng có vai trò quan trọng đối với sự thành công của đội. Điều đó thể hiện ở năng lực quản lý, sự năng động trong các mối quan hệ của người đội trưởng. Mặt khác, việc sử dụng có hiệu quả số lượng, chất lượng lao động, thời gian lao động, cường độ lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, việc so sánh trên chỉ mang tính tương đối: do các công trình đội thực hiện là khác nhâu về số lượng, mức độ phức tạp về kỹ thuật thi công công trình… 2.2. Thực trạng công tác quản lý đội xây dựng 2.2.1. Quy trình quản lý đội xây dựng Quy trình hoạt động quản lý đội xây dựng được thực hiện theo một quy trình thông suốt từ chủ thể quản lý là Công ty đến khách thể quản lý là các đội. Mô hình tổng quát quy trình quản lý đội xây dựng có thể biểu diễn qua sơ đồ sau: Sơ đồ số 04 : Quy trình quản lý đội xây dựng Hệ thống thông tin tại các phòng ban chức năng, đặc biệt là phòng Kế hoạch kỹ thuật, có nhiệm vụ tìm kiếm, tập hợp, xử lý thông tin về các công trình, dự án. Phòng kế hoạch chủ trì lựa chọn dự toán, gửi hồ sơ dự thầu, tổ chức tham gia đấu thầu. Hồ sơ dự thầu chỉ được gửi đi khi đã dự tính được các lợi ích thu được từ dự án, khả năng thực hiện các mục tiêu của dự án cũng như khả năng thắng thầu. Khảo sát thiết kế công trình, Tham gia đấu thầu Chọn đội thi công Tổ chức thi công xây lắp Nghiệm thu và bàn giao Thanh quyết toán và bảo hành Căn cứ vào đề nghị của phòng kế hạch, Giám đốc lựa chọn đội thi công và đặc biệt là việc xác định mức khoán nộp đối với từng dự án, thông thường khoảng 5-8% giá trị xây lắp công trình. Đội xây dựng, sau khi có hợp đồng nội bộ với công ty, sẽ triển khai các hoạt động xây lắp, bắt đầu bằng việc tiếp nhận và quản lý các nguồn lực từ công ty, xí nghiệp như máy móc, tài chính, nguyên vật liệu. Các đội cũng thực hiện ứng vốn bằng các nguồn lực của mình. Đội trưởng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực thi sản xuất cũng như cơ chế quản lý nội bộ đội. Đội trưởng phải trực tiếp ở công trường chỉ huy, đôn đốc việc xây lắp và là người chịu trách nhiệm trước công ty và bên A về chất lượng và tiến độ của công trình. Đội trưởng tham gia vào quá trình nghiệm thu và bàn giao, quyết toán công trình. Mọi giao dịch phải thực hiện thông qua Công ty và xí nghiệp, đội chỉ nhận lại công trình theo hình thức các hợp đồng khoán với công ty. Quá trình thanh quyết toán công trình được thực hiện trực tiếp giữa công ty với bên A, sau đó công ty sẽ có kế hoạch thanh toán lại cho đội trên cơ sở các tỷ lệ khoán đã ký kết. 2.2.2. Cơ cấu tổ chức quản lý đội xây dựng Mô hình tổ chức quản lý ở cấp đội có ảnh hưởng trực tiếp tới cách thức tổ chức quản lý đội xây dựng. Sơ đồ số 05: Tổ chức bộ máy quản lý cấp đội Đội trưởng: Đội trưởng được công ty bổ nhiệm, xí nghiệp uỷ quyền giải quyết toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh xây dựng đơn vị của đội và chịu trách nhiệm trước Đảng uỷ, ban Giám đốc xí nghiệp trong sản xuất kinh doanh, quy định thu chi tài chính, quyết định thu chi giao nộp, lao động tiền lương, phân phối lợi nhuận và đảm bảo các quyền lợi trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ công nhân viên thuộc quyền theo quy định của xí nghiệp, công ty và của pháp luật. Trong Công ty, đa số các đội trưởng có trình độ trung cấp kỹ thuật xây dựng hoặc trung cấp quản lý kinh tế trở lên. Tuy nhiên, có một vài trường hợp người phụ trách không có bằng cấp như quy định được công ty xem xét cụ thể từng trường hợp, căn cứ trên số năm công tác, khả năng quản lý, uy tín để quyết định cho phép hành nghề. - Chức năng, nhiệm vụ của đội trưởng đội xây dựng + Trực tiếp tổ chức, quản lý, chỉ đạo thi công các công trình Xí nghiệp đã giao cho đội theo đúng hồ sơ và hợp đồng kinh tế xí nghiệp đã ký kết với chủ đầu tư. + Chịu trách nhiệm trước Xí nghiệp về:  Chất lượng, kỹ mỹ thuật công trình  Tiến độ thi công  Hiệu quả kinh tế trong quá trình thi công  Giữ tốt mối quan hệ chủ đầu tư, tranh thủ sự giúp đỡ hỗ trợ của các chủ đầu tư.  Đảm bảo đầy đủ về các thủ tục xây dựng cơ bản như: Hợp đồng kinh tế, dự toán, thiết kế, lệnh khởi công, kế hoạch vốn, các văn bản nghiệm thu, thử mẫu… Đội trưởng Đội phó Đội phó Kế toán Cán bộ kỹ Cán bộ chính  Quản lý sử dụng lao động, đảm bảo an toàn lao động cho người và thiết bị, an toàn hàng hoá vật tư, tiền vốn, tài liệu… trên công trường và trên đường công tác  Đảm bảo đầy đủ bảo hộ lao động, duy trì nghiêm kỷ luật lao động, nội quy công trường, biển báo công trường… + Chịu trách nhiệm trước xí nghiệp về quản lý tài chính  Chịu trách nhiệm trước Xí nghiệp và pháp luật về việc sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích về vốn, trang thiết bị, phương tiện, vật tư… của xí nghiệp và Công ty giao váo việc thi công các công trình.  Thu hồi vốn triệt để nhanh gọn, không để tồn đọng, thất thoát vốn.  Giao nộp đầy đủ chỉ tiêu và các khoản phải nộp khác đối với từng công trình theo quy định. + Đội trưởng cần phải làm tốt các chức năng sau:  Chịu trách nhiệm khai thác sâu những thị trường đội đang thi công, mở thị trường mới, tích cực cùng Ban giám đốc và các cơ quan chức năng của xí nghiệp trong việc tiếp thị mở thị trường.  Lập kế hoạch đầu tư hàng tháng, hàng quý theo đúng quy định. Thường xuyên báo cáo về chế độ thi công, về việc sử dụng tài chính, triển khai nhanh quyết toán để thu hồi vốn.  Duy trì nghiêm túc các chế độ sinh hoạt, hội họp ở xí nghiệp cũng như ở công trường, thường xuyên giáo dục, tăng cường công tác quản lý đối với công nhân và mọi người lao động trên công trường. Chịu trách nhiệm với mọi vi phạm của người lao động thuộc quyền quản lý. - Quyền hạn của đội trưởng: Được trực tiếp khoán công việc thời vụ, sử dụng nhân lực tại chỗ vào việc thi công công trình, song phải đúng thủ tục, nguyên tắc quản lý lao động. Đội phó: Giúp việc cho đội trưởng theo nhiệm vụ được giao như công tác Đảng, công tác chính trị, đời sống, kế hoạch kỹ thuật… Chịu trách nhiệm trước đội trưởng và ban giám đốc xí nghiệp về công việc được phân công. Kế toán đội: - Giúp việc đội trưởng đảm bảo vốn cho sản xuất và hoạt động của đội. Chấp hành nghiêm túc và đầy đủ quy định của Xí nghiệp và cấp trên về nguyên tắc thu chi tài chính ở cấp đội. - Mở hệ thống sổ sách kế toán và thu chi theo nguyên tắc, chế độ quy định của Xí nghiệp, Công ty và Nhà nước. - Chịu sự quản lý, kiểm tra của Ban tài chính xí nghiệp về công tác tài chính, chuyên môn sổ sách cũng như mọi hoạt động tài chính của đội theo phân cấp quản lý. Chịu trách nhiệm về tính chính xác của công tác tài chính thuộc đội mình đối với xí nghiệp. Cán bộ kỹ thuật - Chịu trách nhiệm trước đội trưởng về việc chuẩn bị, triển khai công trình, hướng dẫn kỹ thuật, kiểm tra nghiệm thu công trình hoàn thành, phát hiện các sai phạm trong thi công và đưa ra cách xử lý. - Tổ chức và quản lý lao động, vật tư máy móc, bảo hộ lao động, an toàn lao động, lập biện pháp thi công theo dõi tiến độ, chất lượng công trình. - Hoàn tất các sổ nhật ký công trình. Các công việc chuyên môn liên quan đến cơ quan chức năng nào Đội phải trực tiếp báo cáo làm việc với cơ quan đó giải quyết trước khi làm việc với ban giám đốc. Khi đội hết việc, phải báo cáo xí nghiệp sau khi xem xét có thể bố trí làm việc khác trả lương theo quy định của xí nghiệp, hoặc nếu đi tìm việc làm Công ty trả lương không quá 3 tháng kể từ khi hết việc Trong thời gian hành nghề tại xí nghiệp, không được tự ý ký kết hợp đồng với bên ngoài khi chưa được sự cho phép của xí nghiệp, nếu đội hoặc cá nhân muốn làm các công việc trên phải báo cáo xí nghiệp và do xí nghiệp ký kết hợp đồng. Các đội khi đủ điều kiện thành lập muốn hoạt động xây lắp phải nộp một khoản bảo lãnh hành nghề. Việc bảo lãnh hành nghề nhằm nâng cao trách nhiệm của người tổ chức quản lý đơn vị thi công, gắn quyền lợi vật chất giữa cá nhân với tập thể, cũng có thể coi khoản nộp bảo lãnh như là một điều kiện đảm bảo để Công ty, xí nghiệp cho vay vốn. Trong biên chế đội có ít nhất một cán bộ kỹ thuật là kỹ sư xây dựng, hoặc trung cấp xây dựng có thâm niên nghề từ 3 năm trở lên. 2.2.3. Các lĩnh vực quản lý đội xây dựng * Quản lý về lao động Lực lượng lao động duy trì thường xuyên trong đội là 30 người (lao động trong biên chế). Lực lượng lao động theo biên chế chung của công ty nói chung là có trình độ và kinh nghiệm lâu năm. Tuy nhiên do các yêu cầu đặc thù của hoạt động xây lắp nên có nhiều hợp đồng phải huy động thêm công nhân bằng cách thuê lao động ngoài xã hội để đáp ứng yêu cầu về mặt kỹ, mỹ thuật, chất lượng công trình(lao động thời vụ). Lực lượng này co giãn tuỳ từng thời điểm thi công, tuỳ từng loại công trình. Tuy nhiên, lực lượng này nhiều khi ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình Lực lượng mới này do trình độ kỹ năng thấp, tuyển chọn sơ sài mang tính thời vụ nên làm giảm chất lượng đội xây dựng, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng các công trình, làm giảm bớt sự tín nhiệm của các chủ đầu tư. Cơ cấu lao động của Đội gồm hai bộ phận là lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. - Lao động gián tiếp: là bộ phận quản lý (đội trưởng, đội phó, kế toán, thủ quỹ đội…). Đây là bộ phận hưởng lương theo thời gian,ngoài ra còn được hưởng mức phần trăm hoàn thành công trình đối với công nhân, do vậy cách tính lương theo thời gian là khá linh hoạt, thúc đẩy được bộ phận quản lý đôn đốc hoàn thành công trình. - Lao động trực tiếp: là lực lượng công nhân tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Đây là bộ phận hưởng lương theo khoán sản phẩm, và chiếm tỷ lệ rất đông trong lực lượng lao động của toàn công ty. * Về phân công bố trí lao động Đội tiến hành phân công bố trí lực lượng theo phương thức giỏi một nghề, biết nhiều nghề, thực hiện đa dạng hoá tay nghề người lao động. Như vậy, sẽ tăng mức độ đảm nhận công việc của người lao động, tiết kiệm được thời gian lao động. Ngoài ra, đối với những công trình lớn, thời gian thi công dài, Đội tiến hành phân công lao động theo chuyên môn hoá để tăng năng suất lao động. * Công tác an toàn lao động Đội trưởng xây dựng chịu trách nhiệm trứơc Giám đốc xí nghiệp về an toàn lao động và bảo hộ lao động trên công trình mà mình phụ trách. + Các đơn vị thi công lập biện pháp an toàn lao động cho từng phần việc sau đó phổ biến đến từng cá nhân tham gia thi công (kể cả lao động hợp đồng) và hướng dẫn thực hiện biện pháp đó. + Lực lượng tham gia thi công phải có tay nghề đã được đào tạo và được huấn luyện về an toàn lao động, có kiểm tra sức khoẻ định kỳ, đặc biệt là công nhân làm việc trên cao, những nơi độc hại, nguy hiểm phải có chứng nhận sức khoẻ do cơ quan y tế cấp. + Những công trình cao tầng, những công việc phức tạp, nguy hiểm, sử dụng thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất mới… Phòng kế hoạch - kỹ thuật chủ động phối hợp với đội thi công lập biện pháp thi công và biệ pháp an toàn lao động. + Đơn vị thi công trang bị phương tiện bảo hộ lao động, phương tiện làm việc cho công nhân theo đúng tính chất nghề nghiệp. + Cán bộ kỹ thuật đội tiến hành kiểm tra việc thực hiện quy phạm về an toàn lao động, việc trang bị, sử dụng bảo hộ lao động trong quá trình thi công, khi phát hiện vi phạm phải có biện pháp sử lý kịp thời. * Về phương tiện trang bị phục vụ cho sản xuất: Những trang thiết bị chủ yếu phục vụ cho thi công bao gồm: máy trộn vữa, giàn giáo, sàn thao tác… Tuỳ theo yêu cầu cụ thể của từng công trình, đội có thể đi thuê hoặc mua sắm sao cho có hiệu quả nhất, vì mỗi công trình có những đặc thù riêng. Người sử dụng máy móc thiết bị phải có bằng hoặc được huấn luyện, hướng dẫn kỹ, giao trách nhiệm cho cá nhân sử dụng, bảo quản. Các loại phương tiện, thiết bị, máy móc Xí nghiệp trang bị cho đội quản lý hàng năm tính khấu hao trích nộp về xí nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển, việc đầu tư máy móc thiết bị xây dựng vẫn chưa thực sự được quan tâm đứng mức, do thiếu nguồn vốn lớn để thực hiện. Việc bố trí điều chuyển máy móc ( đặc biệt là những máy móc lớn như: cần trục, máy kéo, máy ủi…)gặp nhiều khó khăn do việc đồng loạt thi công nhiều hạng mục công trình đã làm cho nhu cầu máy ở các xí nghiệp, đội là bị trùng lặp. * Công tác quản lý thi công Trước khi vào thi công các hạng mục công trình, ngoài các điều kiện như có đầy đủ tài liệu thiết kế, dự toán đã duyệt, mặt bằng thi công được giao, đơn vị thi công lập biện pháp thi công, phương án tổ chức thi công, tiến độ tổ chức thi công thông qua phòng dự án trình giám đốc duyệt. Trong quá trình thi công, đơn vị thi công thực hiện đúng trình tự và các yêu cầu về thi công như nội dung, biện pháp mà xí nghiệp đã phê duyệt. Đơn vị thi công cử cán bộ thường xuyên chỉ đạo thi công công trường Đội trưởng bắt buộc phải có mặt trong các trường hợp sau: khi thi công các kết cấu chính, các kết cấu lớn, quan trọng và phức tạp,khi lãnh đạo phòng ban đến kiểm tra hiện trường. * Công tác quản lý vật tư Căn cứ vào các bản thiết kế công trình xây dựng theo hợp đồng, dựa vào chương trình sản xuất xây dựng để xác định chủng loại, số lượng vật tư cần sử dụng. Dựa vào định mức sử dụng vật liệu để tiến hành cung ứng theo tiến độ thi công. Đối với những loại vật tư đắt tiền như: sắt, thép…sẽ được xuất tại kho nguyên liệu của công ty, còn lại những loại rẻ tiền như: cát, sỏi, đá… Đội sẽ tự mua sắm. Thông thường, dựa vào tiến độ thi công và định mức hao hụt nguyên vật liệu để có biện pháp đảm bảo cung ứng vật tư kịp thời và đảm bảo chất lượng. Mức độ hao hụt nguyên vật liệu trong quá trình thi công công trình là tương đối lớn và rất khó kiểm soát, khó xác định một cách chính xác. Ngoài hao hụt tự nhiên đã có trong định mưc, mức độ hao hụt, thất thoát vật liệu phụ thuộc vào cách quản lý của đội, loại nguyên liệu, vị trí thi công, cán bộ thống kê có trung thực hay không… * Công tác quản lý kỹ thuật Đơn vị thi công có trách nhiệm tổ chức thực hiện thi công công trình đúng thiết kế và biện pháp đã được duyệt, thực hiện đứng quy trình, quy phạm kỹ thuật hiện hành, chấp hành đủ chế độ nghiệm thu công trình. Cán bộ kỹ thuật có nhiệm vụ nghiên cứu bản vẽ thiết kế, biện pháp tổ chức thi công và hướng dẫn thi công tại hiện trường. Kiểm tra và phát hiện kịp thời những sai sót trong thi công và hướng dẫn xử lý,tổ chức quản lý sử dụng vật tư, thiết bị thi công, an toàn lao động trên công trường. Triển khai áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây dựng và công nghệ xây dựng theo yêu cầu của thị trường. 2.2.4. Các công cụ sử dụng trong quản lý đội xây dựng - Kế hoạch tiến độ: Để đảm bảo các công trình được tiến hành theo đúng tiến độ, thời gian giao nộp theo hợp đồng, trong mỗi đội lập ra kế hoạch tiến độ thi công. Căn cứ để lập ra kế hoạch này là dựa vào các bản vẽ thiết kế chi tiết, dựa vào bản vẽ tiên lượng của từng khối lượng công việc cụ thể, dựa vào các loại thiết bị được sử dụng trong thi công và hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật. Kế hoạch tiến độ thi công giúp cho mỗi thành viên, bộ phận trong đội nắm rõ được nhiệm vụ của mình, sử dụng hợp lý sức lao động và thiết bị thi công nhằm nâng cao năng suất lao động. Theo kế hoạch tiến độ thi công mà tổ chức cung cấp kịp thời về số lượng, chất lượng, chủng loại và thời gian, đảm bảo tiến độ thi công công trình và hiệu quả xây dựng. - Đòn bẩy kinh tế ( lương, thưởng): Để hoàn thành khối lượng công tác xây dựng của công tình, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, đội phải tính toán cụ thể số lượng từng loại lao động với từng ngành nghề, từng cấp bậc công việc, bố trí lao động, phân phối tiền lương phù hợp, tạo ra môi trường làm việc công bằng cho người lao động. Từ đó thúc đẩy được người lao động hăng say làm việc, nâng cao năng suất lao động, sử dụng các yếu tố sản xuất một cách hiệu quả nhất. Hiện nay, đội áp dụng cả hai hình thức tiền lương, theo thời gian và theo sản phẩm: + Tiền lương theo thời gian: Trả theo trình độ kỹ thuật và thời gian làm việc . Hình thức tiền lương này thường áp dụng đối với bộ phận công việc không định mức được . ( ví dụ cán bộ quản lý: đội trưởng, đội phó, kế toán, thủ kho, bảo vệ…) + Tiền lương sản phẩm: Trả theo số lượng sản phẩm làm ra theo tiêu chuẩn chất lượng quy định và đơn giá tiền lương đã xác định.Hình thức tiền lương này thường áp dụng đối với bộ phận lao động trực tiếp như công nhân sản xuất. Ngoài tiền lương, đội xây dựng còn áp dụng các hình thức tiền thưởng để khuyến khích cán bộ công nhân viên như: thưởng do nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng do tiết kiệm vật tư, thưởng do việc rút ngắn tiến độ, thưởng phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật… Ngoài ra, đội còn trang bị cho các cán bộ quản lý các phương tiện cá nhân khác như: máy móc, điện thoại cố định, điện thoại di đông…để khuyến khích họ làm việc và gắn bó lâu dài với đơn vị. - Công cụ hành chính: Hoạt động quản lý lao động trong đội là rất khó khăn và phức tạp, vì vậy ngoài những nội quy, quy chế do công ty đề ra, đội cũng lập ra các yêu cầu, quy chế bắt buộc đối với người lao động trong đội phải tuân theo. Lực lượng lao động trong đội thường có hai bộ phận: trong biên chế và lao động hợp đồng ngắn hạn. Đối với công nhân thuê ngoài, vẫn phải tuân thủ theo các quy định chung trong đội, để đảm bảo ổn định trong hoạt động quản lý đội. Để nâng cao chất lượng công tác quản lý, đội thường xuyên tiến hành các hoạt động sau: + Giáo dục cho công nhân ý thức, trách nhiệm, tránh làm bừa, làm ẩu, ảnh hưởng đến chất lượng công trình. + Chống gian dối khối lượng, công lao động Đối với các trường hợp vi phạm nội quy quy chế đề ra, đội có những biện pháp xử lý, kỷ luật nghiêm khắc. 3. Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý đội xây dựng ở công ty 3.1. Nhân tố bên ngoài 3.1.1. Nhân tố về môi trường kinh tế- chính trị- xã hội Xây dựng là một ngành kinh tế lớn, có vai trò quan trọng đối với tốc độ phát triển của nền kinh tế, tác động đến phát triển văn hoá, nghệ thuật, kiến trúc và môi trường sinh thái. Môi trường kinh tế, chính trị, phâp luật, chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp tới quản lý đội xây dựng trong doanh nghiệp.Chẳng hạn như các chế tài về tổ chức lao động tiền lương, các quy định về quản lý tài chính, về phương pháp xác định chi phí lập dự toán công trình. Các quy định mà doanh nghiệp áp dụng đối với đội phải đảm bảo sự phù hợp và tuân theo pháp luật. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn đòi hỏi tính tổ chức khoa học của công tác quản lý càng cao. Khi đó có thể coi tổ chức quản lý cũng là một yếu tố của sản xuất, chi phí của quảnlý cũng được tính vào giá thành sản phẩm và cách thức quản lý cũng là công cụ cạnh tranh. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra những thay đổi trong phương thức quản lý của đội. Việc ra đời những phương tiện máy móc hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến đã làm thay đổi căn bản cách thức làm việc của đội trong quá trình thi công công trình. 3.1.2. Thị trường và khách hàng Trong lĩnh vực xây dựng quá trình mua bán xảy ra trước lúc bắt đầu giai đoạn sản xuất(tức là giai đoạn xây dựng công trình) thông qua đấu thầu và ký kết hợp đồng. Quá trình nay còn tiếp tục thông qua những đợt thanh toán từng phần cho tới khi bàn giao công trình và quyết toán cuối cùng. Cạnh tranh trong thị trường xây dựng chủ yếu thông qua hình thức đấu thầu. Công ty xây dựng 319 là một trong những công ty mạnh của Bộ Quốc Phòng. Hiện tại, có thị trường rất rộng rãi, địa bàn hoạt động của công ty có mặt ở cả 3 miền Bắc,Trung, Nam. Đây là điều kiện rất thuận lợi góp phần nâng cao năng lực đấu thầu và khả năng cạnh tranh về thị trường với các công ty thuộc Bộ Quốc Phòng nói riêng và các công ty khác nói chung. Khách hàng của công ty chủ yếu là khách hàng trong nước, đặc biệt là các khách hàng của Bộ Quốc Phòng( Quân đội). Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại thị trường của doanh nghiệp, có thể dựa vào giá trị công trình, tính chất công trình, khu vực hoạt động của doanh nghiệp hay khách hàng của doanh nghiệp. Bảng số 07: Doanh thu theo khu vực Khu vực Năm 2003 2004 Doanh thu (tr.đ) % Doanh thu (tr.đ) % Miền bắc 426.007,5 51,3 390.457,6 46,3 Miền trung 71.416,5 8,6 94.452 11,2 Miền nam 333.000 40,1 358.411,4 42,5 Cộng 830.424 100 843.321 100 (Nguồn: Phòng kế hoạch – kỹ thuật) Bảng số 08: Doanh thu theo tính chất công trình Tính chất sản phẩm Năm 2003 2004 Doanh thu tr.đ) % Doanh thu (tr.đ) % Công trình công nghiệp và dân dụng 389.468,9 46,9 379.494,5 45 Công trình giao thông, thuỷ lợi: 327.187 39,4 364.314,7 43,2 Công trình đường dây và trạm: 34.877,8 4,2 28.672,9 3,4 Công trình khác 78.890,3 9,5 70.838,9 8,4 Cộng 830.424 100 843.321 100 (Nguồn: Phòng kế hoạch- kỹ thuật) Mặc dù có ưu thế là công ty trực thuộc Bộ quốc phòng, số các công trình được chỉ định thầu và điểm ưu tiên ngành dọc là cao hơn các công ty khác trong đấu thầu, nhưng công ty vẫn gặp phải sự cạnh tranh gy gắt do ngày càng có nhiều các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xây dựng. Do tính chất cạnh tranh ngày càng quyết liệt như vậy, muốn có việc làm liên tục, các đội trong quá trình thi công công trình phải tạo ra lòng tin với khách hàng, chủ đầu tư bằng tiến độ thi công, chất lượng, mỹ thuật công trình theo đúng bản vẽ thiết kế của chủ đầu tư. Công ty có trách nhiệm đưa ra các mức dự toán công trình để có thể thắng thầu, đồng thời có mức giao khoán hợp lý đảm bảo cho các đội có nguồn thu mà vẫn đảm bảo chất lượng, tiến độ công trình. Do địa bàn hoạt động rộng lớn, các đội xây dựng phải liên tục di chuyển đến các công trình mới, mỗi lần di chuyển do tính chất công việc khác nhau nên phải tiến hành tổ chức điều động nhân lực, máy móc thiết bị, công cụ thi công, nhiều khi còn phải thay đổi tác phong làm việc cho phù hợp với từng dự án. Hơn nữa, do thị trường rộng lớn như vậy nên công tác tổ chức thông tin và tiếp nhận thông tin rất khó khăn, nhất là với các công trình thi công ở vùng sâu vùng xa.Tính cập nhật của thông tin bị giảm đi do đó các quyết định quản lý từ công ty sẽ bị chậm chễ và ít được tuân thủ. Với các trường hợp như vậy công ty thường tổ chức lực lượng chỉ huy công trường với các dự án lớn, những dự án nhỏ thực hiện các hình thức khoán để khai thác triệt để năng lực quản lý của đội và giảm bớt áp lực công việc cho công ty. 3.1.2. Đối thủ cạnh tranh Công ty xây dựng 319 luôn được đánh giá là một công ty mạnh của Quân khu, của Bộ Quốc Phòng. Tuy nhiên, nếu so sánh với các công ty và tổng công ty khác thì Công ty vẫn còn nhỏ bé và khó khăn trong cạnh tranh với các đối thủ khổng lồ này. Xét cùng một mặt bằng so sánh, so với các công ty thuộc Bộ Quốc Phòng, Công ty 319 luôn thuộc tốp dẫn đầu, là một công ty có quy mô lớn, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng uỷ Quân khu. Trong những năm gần đây, cơ chế thị trường cùng với sự chuyển đổi nhiệm vụ chiến đấu sang nhiệm vụ kinh tế đã làm xuất hiện ngày càng nhiều các công ty trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Điều này đã làm cho mức độ cạnh tranh trở nên gay gắt, gây cho Công ty những khó khăn nhất định. Các đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Công ty trong ngành dọc cũng không phải là quá mạnh, bao gồm: Công ty xây dựng 344 Tổng công ty xây dựng Thành An Công ty xây dựng Lũng Lô Công ty xây dựng 695 Binh đoàn 11 … Ngoài ra, với cơ chế mở cửa, các công ty nước ngoài đang từng bước tiến vào thị trường xây dựng Việt Nam làm cho mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Vấn đề đặt ra với công ty là không chỉ tiến hành các hợp đồng, công trình ở trong Quân đội hay do Quân khu, Bộ Quốc Phòng chỉ định, mà phải mở rộng thị trường ra bên ngoài. Điều này đã làm cho công ty gặp nhiều khó khăn trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Bên cạnh đó, các công ty xây dựng của địa phương có dự án chuẩn bị thực hiện có mối quan hệ chặt chẽ với chủ đầu tư, am hiểu thị trường địa phương về nguyên vật liệu, nhân công… nên khả năng cạnh tranh của công ty với họ cũng trở nên gay gắt Điều này đòi hỏi công tác quản lý đội xây dựng ngày càng phải được hoàn thiện và tăng cường. Đội xây dựng trực tiếp sản xuất xây lắp, là đại diện của công ty chịu trách nhiệm trước khách hàng về các đặc tính chất lượng của sản phẩm xây lắp. Vì vậy, phương thức quản lý đội phù hợp sẽ trực tiếp tác động đến uy tín của doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. 3.1.3. Tính thời vụ của công trình Đây có thể nói vừa là nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan vì nó vừa do nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty, lại vừa do điều kiện tự nhiên quyết định. Trên thực tế, người ta thường xây dựng công trình vào mùa khô, vì mùa này điều kiện thời tiết thường tương đối ổn định, phù hợp với việc thi công công trình. Vì vậy, vào mùa này lượng công trình thường nhiều hơn và do đó trong mùa này thì nhân công của công ty cũng cao hơn, thường phải thuê thêm lực lượng lao động từ bên ngoài(lao động ngoài biên chế). Trong điều kiện như vậy, những yêu cầu và đòi hỏi về quản lý đội xây dựng cũng có nhiều thay đổi cho phù hợp, yêu cầu về tiến độ thi công công trình cũng phải nhanh hơn. Việc quản lý về lao động trong đội trở nên phức tạp hơn, cần phải trích một lượng quỹ lương lớn hơn trong mùa này. Mặt khác, việc bố trí, điều chuyển máy móc thiết bị giũa các đội cũng đòi hỏi việc quản lý phải trở nên linh động hơn rất nhiều. Ngược lại, vào những khoảng thời gian không phải mùa xây dựng, nhu cầu về xây dựng giảm đi rất nhiều, đòi hỏi các đội, đặc biệt là các đội trưởng phải năng động trong các mối quan hệ, linh động trong việc tìm kiếm việc làm. Khi tiến hành thi công các công trình trong mùa này cũng phải hết sức chú ý đến những điều kiện khách quan có thể ảnh hưởng đến công việc. 3.2. Nhân tố bên trong 3.2.1. Nhân tố về máy móc thiết bị và công nghệ Để tạo ra một sản phẩm của ngành xây dựng phải trải qua thời gian dài, gồm nhiều công đoạn từ khâu khảo sát, thiết kế, lập dự toán đến thi công và cuối cùng là hoàn thiện một số chi tiết của công trình mới. Chu kỳ của một sản phẩm xây dựng kéo dài, thường từ 1-5 năm và chúng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như nguồn vốn, nguồn nhân lực, vật tư và thiết bị, điều kiện thời tiết. Từ đó ta thấy quy mô, tính chất của sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh chung của công ty cũng như tác động mạnh đến công tác quản lý. Nếu công trình có quy mô phù hợp, tính chất công việc đơn giản, điều kiện thi công thuận lợi sẽ dễ dàng thi công và hoàn thành tốt hợp đồng qua đó tạo được uy tín với khách hàng, đây là cơ hội cho công ty vươn lên. Ngược lại khi thi công gặp phải công trình phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật- chất lượng cao, điều kiện thi công khó khăn chắc chắn công tác đấu thầu sẽ gặp phải nhiều khó khăn hơn và hiệu quả công việc sẽ giảm đi nhiều. Ngoài ra, ta thấy công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm của công nghệ sản xuất ra sản phẩm xây dựng không phải là công nghệ sản xuất ra hàng loạt mà nó chỉ được áp dụng trên từng công đoạn. Nó không được bố trí theo nguyên tắc đối tượng hay hỗn hợp mà theo nguyên tắc công nghệ, các loại công việc khác nhau về tính chất công nghệ như: công nghệ sắt, mộc đổ bê tông, xây,… Tuỳ thuộc vào qui mô, tính chất của công trình, trong mỗi giai đoạn công nghệ, nó được chia ra thành nhiều giai đoạn nhỏ. Các giai đoạn nhỏ này phải được tiến hành một cách chính xác về số lượng, kỹ thuật để nhằm mục đích tạo ra sản phẩm cuối cùng có chất lượng tốt đáp ứng được toàn bộ yêu cầu của công trình. Mỗi công đoạn có những yêu cầu kỹ thuật khác nhau nhưng nếu chúng ta tuân thủ nghiêm ngặt quy trình công nghệ thì cho phép chúng ta tạo ra được một sản phẩm với công nghệ thống nhất. Do đặc điểm về sản phẩm và thị trường của ngành xây dựng nên để đáp ứng được tốt các công trình thì máy móc thiết bị đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng các công trình. Trong quá trình phát triển, Công ty chủ trương áp dụng công nghệ hiện đại trang bị cho bộ máy quản lý và các đơn vị sản xuất kinh doanh để nâng cao chất lượng hoạt động. Dự án, phương án kinh doanh của Công ty được xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học, các tiêu chuẩn, định mức tiên tiến. Trình độ của máy móc thiết bị và công nghệ là nhân tố có tác động mạnh mẽ đến chất lượng và tiến độ thi công công trình của đội. Nếu máy móc thiết bị lạc hậu thì việc thi công sẽ gặp rất nhiều khó khăn, chất lượng công trình kém, tiến độ thi công chậm, thậm chí còn không an toàn cho công nhân khi lao động. Chính vì thế công ty phải không ngừng mua sắm,đổi mới, trang bị cho mình các thiết bị hiện đại, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, ở các nước có trình độ về công nghệ hiện đại để đáp ứng được về năng lực thiết bị cho các dự án có quy mô lớn, tiêu chuẩn kỹ thuật cao. Số lượng thiết bị hiện nay của công ty khá dồi dào (bảng 09) đã giúp công ty khi thực hiện các công trình sử dụng các thiết bị máy móc của mình tạo được tính chủ động cao. Bên cạnh đó thì công ty cũng có những khó nhăn nhất định, có những máy móc bị hỏng chưa sửa chữa kịp hoặc một số máy cũ công suất đạt được không cao. Bảng số 09: Danh mục máy móc thiết bị chủ yếu của công ty. (Đơn vị: cái) STT Danh mục máy móc, thiết bị Nước sản xuất Số lượng (cái) Giá trị còn lại (%) 1 Cần trục tự hành Nhật - Nga 03 92 2 Cần trục tự hành ô tô Nhật 02 90 3 Cần trục tháp TQ- Italia 03 80 4 Máy vận thăng Nga - VN -TQ 08 95 5 Máy ủi Nga-Nhật 15 89 6 Máy ép cọc Nga-Nhật 03 95 7 Máy đóng cọc Nga-Nhật 03 93 8 Trạm trộn bê tông Hàn Quốc 02 80 9 Máy trộn bê tông Nga-VN-TQ 96 92 10 Máy trộn vữa Nga-VN-TQ 93 80 11 Đầm(bàn, dùi, cạnh) Nga- Nhật-TQ 175 97 12 Máy san đất Nga-Nhật 12 90 13 máy cạp đất Nga-Nhật 09 90 14 Máy rải nhựa Đức- Nhật 06 75 15 Máy hút bùn Nhật 01 70 16 Xe tưới nhựa Nga 02 85 17 Máy dò mìn Mỹ- TQ 12 65 18 Xe con Nga-Nhật 36 65 19 Xe tải Nga-Nhật 42 73 20 Máy phát điện Nhật-Nga 19 80 21 Máy cắt uốn thép Việt Nam-Nga 17 85 22 Máy hàn các loại Nga-TQ 24 78 23 Máy bơm các loại Nga-Nhật-TQ 33 70 23 Máy nén khí Đức-TQ 10 87 24 Máy khoan ép hơi Đức-Nga 04 92 (Nguồn: Phòng vật tư –xe máy) 3.2.2. Nguồn lực lao động Nguồn nhân công có vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp. Con người cung cấp tư liệu đầu vào để hoạch định mục tiêu, phân tích bối cảnh môi trường, lựa chọn và thực hiện các chiến lược của doanh nghiệp. Cho dù các quan điểm của hệ thống kế hoạch hoá tổng quát có đúng đắn đến mức độ nào thì nó cũng không mang lại hiệu quả cao nếu không có những con người làm việc hiệu quả.Trình độ của lao động có quan hệ tới việc thi công các công trình đúng tiến độ, đảm bảo đúng tiêu chuẩn về chất lượng, kỹ thuật cho phép. Bảng số 10: Cơ cấu lao động (thời điểm 31/12/2004) Chỉ tiêu Số lượng (Người) Tỷ trọng (%) Tổng số 6.291 1. Cơ cấu giới tính - Nam - Nữ 5.033 1.258 80 20 2. Tính chất lao động - Lao động trực tiếp - Lao động gián tiếp 5.347 944 84,99 15,01 3. Trình độ - Đại học, trên đại học - Cao đẳng, trung cấp - Lao động có đào tạo - Lao động giản đơn 421 318 157 5.395 6,69 5,05 2,49 85,77 4. Thâm niên - Lao động có biên chế - Lao động hợp đồng dài hạn - Lao động hợp đồng ngắn hạn 670 1.315 4.306 10,65 20,9 68,45 5. Lứa tuổi - Trên 50 - Từ 40- 50 - Từ 30-40 - Từ 18-30 50 973 1921 3.347 0,79 15,47 30,54 53,2 (Nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương) Từ bảng số liệu trên cho thấy, do đặc điểm của ngành kinh tế xây dựng có nhiều điểm khác biệt và phức tạp hơn so với các ngành kinh tế khác nên cơ cấu lao động của ngành nói chung và của công ty nói riêng cũng có những đặc trưng riêng. Toàn công ty có tổng số 6.291 người, trong đó có 5.033 người là nam chiếm 80% ; lao động nữ là 1.258 người, chiếm 20%. Điều này là rất dễ hiểu và hợp lý đối với công ty kinh doanh xây dựng do đặc điểm của ngành xây dựng đòi hỏi trình độ kỹ thuật,lao động phức tạp, nặng nhọc. Lao động trực tiếp là 5.347 người chiếm 85%, lao động gián tiếp là 944 người chiếm 15%. Đối với các công ty xây dựng, cần số lượng lao động trực tiếp thi công công trình là lớn, lượng công nhân làm việc trong các đội, các phân xưởng là nhiều. Lao động có trình độ đại học, trên đại học là 421 người chiếm 6,69%; cao đẳng, trung cấp là 318 người chiếm 5,05%; lao động có đào tạo là 157 người chiếm 2,49%; lao động giản đơn là 5.395 người chiếm 85,77%. Lao động trong biên chế là: 670 người chiếm 10,65% trong đó gồm sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan binh sỹ và công nhân quốc phòng. Lao động hợp đồng ngắn hạn là lớn 4.306 người chiếm 68,45% mặc dù đây là một công ty quân đội nhưng lượng lao động thuộc quân số quốc phòng là không nhiều, chủ yếu là tuyển dụng từ bên ngoài, đa số các cán bộ quản lý trong công ty là các sỹ quan quân đội. Cơ cấu lao động theo lứa tuổi ở công ty là không đồng đều, có sự chênh lệch khá lớn : lao động ở tuổi từ 18-30 là 3.347 người chiếm 53,2%, lao động từ 30-40 tuổi là 1.921 chiếm 30,54%, từ 40-50 tuổi là 937 người chiếm 15,47%, lao động trên 50 tuổi là 50 người chiếm 0.79%. Trong doanh nghiệp xây dựng, đội là đơn vị thi công cơ bản, đơn vị trực tiếp sản xuất, vì vậy lực lượng lao động trong đội chủ yếu là lao động trực tiếp, lao động giản đơn chiếm tỷ lệ lớn, đội ngũ lao động trong đội có lứa tuổi bình quân từ 18- 30 tuổi.Từ đó, làm cho cách thức quản lý lao động trong đội cũng có nhiều nét khác biệt. Tuy nhiên với một công ty có thị trường rộng thì số lượng lao động như vậy không phải là đã đáp ứng được toàn bộ công việc một cách có hiệu quả nhất. Đặc biệt là hiện nay công ty đang thiếu đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ kỹ thuật còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu để thực hiện các công trình đã thắng thầu và đang thi công với số lượng lớn. Để đảm bảo yêu cầu về chất lượng, chi phí và tiến độ thi công công trình, vấn đề đặt ra với công ty là cần làm tốt công tác tuyển dụng lao động, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Về công nhân, thợ lành nghề thì hiện nay công ty đang có một lợi thế rất lớn là đa số các công nhân ở mọi ngành nghề đề có tay nghề khá cao, hầu hết đều có bậc thợ bình quân trên bậc 3, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia đấu thầu các công trình có đòi hỏi về chất lượng và kỹ thuật cao. Trong thời gian tới, công ty cũng có những ưu tiên phát triển đội ngũ cán bộ, tuyển chọn và đào tạo những công nhân am hiểu về công nghệ, kỹ thuật, nghề nghiệp, đảm đương những công việc đảm bảo chất lượng, tiến độ. Công tác quản lý và sử dụng lao động, hợp đồng lao động, chế độ BHXH, BHYT thực hiện theo Bộ luật Lao động và điều lệ bảo hiểm Việt Nam đã sửa đổi bổ sung. 3.2.3. Đặc điểm về nguyên vật liệu xây dựng Nguyên vật liệu trong ngành xây dựng cơ bản là một yếu tố cơ bản của quá trình thi công công trình, nguyên vật liệu trực tiếp tạo nên thực thể của công trình, nếu thiếu nó thì quá trình thi công không thể thực hiện được. Nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn của công ty dành cho công trình, bởi vì nó là yếu tố cấu thành nên đơn giá dự thầu. Mặt khác, nguyên vật liệu cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình. Vì vậy nó ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của công ty khi tham gia dự thầu. Các công trình do công ty thực hiện xây lắp đòi hỏi rất nhiều chủng loại vật tư, vật liệu khác nhau. Chính vì sự đa dạng đó đòi hỏi việc quản lý phải có biện pháp vận chuyển, bảo quản và dự trữ phù hợp. Đồng thời, công ty cũng thực hiện việc phân cấp quản lý vật tư, giao quyền chủ động thu mua cho các xí nghiệp thành viên trên cơ sở đơn giá do các địa phương có công trình qui định. Hoặc khai thác các nguồn nguyên vật liệu tại chỗ phục vụ cho việc thi công. Việc xuất dùng nguyên vật liệu được tiến hành theo từng công trình, các phiếu xuất kho vào cuối quý hạch toán, kế toán tập hợp theo từng công trình, đây là cơ sở cho việc hạch toán vật liệu. Bảng số 11: Danh mục nguyên vật liệu chủ yếu STT Danh mục nguyên vật liệu Tỷ lệ % về giá trị so với tổng giá trị nguyên vật liệu Nguồn cung ứng 1 Xi măng PC 30 0,15 Bỉm Sơn, Hoàng Thạch. Bút Sơn… 2 Thép tròn, thép vàng 0,95 SP của Tổng công ty Thép Việt Nam 3 Gạch xây 0,08 Máy loại AI mác 75 4 Cát vàng 11,4 Sông Hồng, Sông Lô 5 Cát đen 6,1 Sông Hồng, Sông Lô 6 Đá dăm, đá xây 1,2 Tự khai thác 7 Gỗ cốp pha 5,3 Nhóm 5 8 Cốp pha, sắt 2,3 Việt Nam 9 Vôi ve các loại 64 Việt Nam … (Nguồn: Phòng vật tư – xe máy) 4. Đánh giá tổng quát hoạt động quản lý đội xây dựng ở công ty 4.1. Những thành tựu đạt được Việc làm tốt chủ trương giao quyền chủ động sản xuất kinh doanh cho các đội đã thực sự tạo ra rất nhiều các động lực cho sản xuất phát triển. Các đội từ chỗ bị bó hẹp trong hệ thống sản xuất kinh doanh tập trung, luôn ở trong tình trạng phải chờ việc từ trên giao xuống, nay đã chủ động linh hoạt trong việc tìm kiếm thic trường, khai thác các khả năng của mình, mang việc làm về cho doanh nghiệp. Nhất là trong điều kiện công ty gặp nhiều khó khăn, số lượng các hợp đồng quy mô nhỏ và vừa do các đội mang về tăng lên đang kể. Nhờ đó, trong những năm qua, bên cạnh việc thực thi những công trình lớn, thời gian dài, công ty đã duy trì được một tốc độ tăng trưởng khá cao, doanh thu tăng đều đặn ở mức trên 10%. Thu nhập và đời sống của người lao động được cải thiện đáng kể. Đặc biệt ở một số xí nghiệp thành viên, dưới tài lãnh đạo của bộ máy quản lý xí nghiệp, đã nâng mức thu nhập bình quân của người lao động lên mức 1,4 triệu đồng một tháng. Việc hoàn thành các mục tiêu kinh doanh ở cấp cơ sở đã tạo điều kiện để toàn công ty hoàn thành vượt mức kế hoạch về sản lượng và doanh thu đề ra với một tỷ lệ vượt kế hoạch khá cao, đặc biệt là ở một số đơn vị thành viên. 4.2. Những tồn tại - Một thực tế hiện nay đang diễn ra làm đau đầu các nhà quản lý xây lắp ở công ty xây dựng 319 là hiện trạng không quản lý được tình hình chi phí thực tế của các đội. Sau khi nhận hợp đồng giao khoán với mức khoán nào đó, các đội trưởng sẽ phối hợp với công ty để tiến hành thực thi công trình. Hầu hết các phần việc đều do đội trưởng tự sắp xếp, từ việc tổ chức công nhân, máy móc thiết bị, đến việc tìm kiếm các nhà cung ứng. Thực tế cho thấy những chi phí thực tế phát sinh so với trong dự toán thường có một mức chênh lệch khá lớn, nhưng hệ thống chứng từ đội báo về doanh nghiệp luôn thể hiện những con số rất hợp lý. - Trong công tác quản lý chất lượng, còn thiếu sự thống nhất giữa Công ty và các đội. Nhiều khi do chạy theo tiến độ do thời kỳ trước thi công chậm trễ các đội đã tự ý bỏ qua một số bước trong quy trình công nghệ thi công, quy phạm kỹ thuật, điều này ảnh hưởng xấu tới chất lượng công trình. Các đội thường có xu hướng không hợp tác với các cán bộ kỹ sư giám sát từ công ty xuống trong việc thực hiện các mục tiêu về thi công, chi phí, chất lượng. Ngay bản thân hệ thống giám sát của công ty vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được các yêu cầu đề ra. - Việc quản lý lao động, đặc biệt là lao động ngắn hạn và lao động thời vụ gặp khó khăn về tính kỷ luật trong lao động, trình độ tay nghề, tác phong, thái độ lao động. Một bộ phận lớn(khoảng 40%) số đội hiện có ở công ty vẫn bị đánh giá là có chất lượng lao động ở mức trung bình. Chất lượng lao động ở đây không chỉ là chất lượng của lực lượng tham gia sản xuất mà còn là chất lượng của nhữn người làm công tác quản lý, của người đứng đầu đội. - Các đội trưởng do không được chọn lọc kỹ, còn yếu về chuyên môn, khả năng lãnh đạo kém. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến đội trong việc thực thi công trình một cách có hiệu quả. - Công ty xử lý chứng từ, hoá đơn của các đội còn chậm, không theo một phương pháp khoa học, không tiêu chuẩn hoá được, ảnh hưởng đến công tác kế hoạch, hạch toán, khấu trừ đầu vào cũng như các kế hoạch tài chính của công ty. - Việc tổ chức thi công vẫn diễn ra tình trạng có khi người lao động phải làm việc trên công trường quá thời gian quy định, có khi phải nghỉ chờ việc, chờ máy thi công hay chờ các bộ phận khác hoàn thành xong nhiệm vụ của họ mới tới công việc của mình. Điều này gây lãng phí lớn về thời gian và chi phí quản lý. 4.3. Những nguyên nhân tồn tại Những tồn tại trong hoạt động quản lý đội xây dựng của công ty như đã nói ở trên là xuất phát từ một số các nguyên nhân sau: * Nguyên nhân bên trong - Trước hết, đó là hệ thống truyền tin và cung cấp thông tin từ cơ sở đến công ty còn bộc lộ nhiều chỗ hổng. Các phòng ban, các xí nghiệp, các đội còn chưa có các phương thức trao đổi thông tin, hỗ trợ thông tin lẫn nhau có hiệu quả để cùng thực hiện dự án, thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty. Những luồng thông tin quan trọng về chủ đầu tư, nhà cung ứng không được cung cấp đầy đủ trong suốt vòng đời của dự án. - Bên cạnh đó, Đội không được hỗ trợ kịp thời từ phía công ty trong qú trình thực hiện thi công, đặc biệt là trong giai đoạn Công ty tham gia thực hiện nhiều dự án một lúc, sẽ xuất hiện tình trạng khủng hoảng thiếu cán bộ kiểm tra kỹ thuật, kinh tế. - Bộ máy quản lý từ công ty xuống các đội yếu và tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa bám sát các đội, tìm ra những giải pháp phù hợp để đề xuất trong quản lý thi công. - Một số đội trưởng có trình độ năng lực yếu kém, không hiểu hết nội dung công việc để điều hành, nhưng cũng có những đội trưởng lợi dụng việc quản lý lỏng lẻo, quy chế giao khoán không cụ thể rõ ràng của công ty, lách vào những sơ hở trong quản lý để thu lợi cá nhân. - Công tác quản lý chất lượng, kỹ thuật thi công không chặt, không đúng quy phạm, đôi khi phải phá đi làm lại, dẫn tới thiệt hại lâu dài về uy tín cũng như về kinh tế cho Công ty. - Công tác quản lý lao động không tốt, hiệu quả ngày công lao động thấp, việc thanh toán lương, thưởng và các chế độ của người lao động không được khuyến khích, làm ảnh hưởng đến tâm lý người lao động(lao động cầm chừng, trông chờ, ỷ lại). Số lượng lớn lao động ngắn hạn, lao động thời vụ chưa được huấn luyện kỹ càng về kỹ thuật thi công, tác phong lao động, công tác an toàn lao động. Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo và tuyển dụng của Công ty chưa thực sự bám sát yêu cầu của thực tiễn. Một chiến lược dài hạn, cụ thể trên cơ sở nguồn lực, thị trương về nguồn nhân lực cho các đội, cho các xí nghiệp vẫn chưa tồn tại trong công ty, dẫn đến việc các ngành nghề lĩnh vực kinh doanh mới được mở rộng thiếu cán bộ quản lý, kỹ sư có trình độ và năng lực tham gia quản lý và vận hành. - Kế hoạch sử dụng lao động chưa được thực hiện thông suốt từ công ty, các xí nghiệp thành viên đến các đội, nhất là kế hoạch điều động lao động từ các công trường khác, từ các đơn vị khác trong công ty. - Quản lý vật tư vật liệu không chặt chẽ, tỷ lệ hao hụt cao (đôi khi thất thoát). Việc mua vật tư, vật liệu ở địa phương không đủ chứng từ, gây ách tắc trong việc thanh quyết toán công trình. - Trong đầu tư, sử dụng máy móc thiết bị, mặc dù đã cố gắng song vẫn còn hạn chế, đặc biệt là hạn chế về vốn nên công tác đầu tư chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường xây dựng. - Công tác đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý của cán bộ quản lý, cũng như khả năng kỹ thuật của các kỹ sư chuyên môn đã được thực hiện, nhưng hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường. - Các quyết định quản lý đôi khi không được thực hiện một cách nghiêm túc, đặc biệt là các quyết định thuyên chuyển lao động, thể hiện qua việc chậm trễ thi hành, thực hiện sai hoặc không kịp thời. - Các phòng ban chức năng còn thực hiện quá nhiều nhiệm vụ trong cùng một thời điểm nên chất lượng của sự hỗ trợ của chúng tới các dự án, các đội là không đảm bảo. - Công tác bố trí sử dụng lao động trên công trường cong diễn ra tình trạng một cán bộ kỹ sư quản lý quá nhiều công nhân, hay việc bố trí không gian lao động trên công trường chưa được quan tâm đứng mức, hay huy động cùng lúc một lượng lao động lớn hơn mức cần thiết. - Quản lý thanh toán vốn còn nhiều bất cập ở nhiều khía cạnh như vi phạm do kém trình độhoặc tư lợi, lử dụng ở mục đích khác, nợ các chủ vật liệu dẫn đến thất thoát vốn, gây lên tình trạng thua lỗ. - Việc phối hợp giữa các đội và phòng ban của công ty chưa đồng bộ, công tác đánh giá tổng kết hàng năm từng đội sản xuất của công ty còn nhiều thiếu sót. * Nguyên nhân bên ngoài - Sự biến động lớn của các chính sách, các quy định của nhà nước trong quản lý xây dựng nói riêng và trong quản lý kinh tế nói chung đã tác động đến công tác quản lý xây dựng kế hoạch của toàn doanh nghiệp, cũng như công tác quản lý dự án. Điều này dẫn đến các khiếm khuyết trong tổ chức quản lý, mua sắm thiết bị, nguyên vật liệu. - Các thủ tục hành chính ở mỗi địa phương lại khác nhau và có độ chênh nhất định so với pháp luật. Các thủ tục hành chính rườm rà chậm trễ trong giải quyết làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi các công trình. Tình trạng quan liêu của bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, nhất là từ phía đội ngũ giám sát làm ảnh hưởng đến việc cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu và việc điều hành thực hiện dự án của đội. Việc một số công trình bị trì hoãn giải phóng mặt bằng dẫn đến chậm tiến độ là có nguyên nhân từ đây. - Sức ép cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn, đòi hỏi của thị trường ngày càng cao hơn. Điều này gây ra sức ép lớn đối với công ty và các đội. - Thị trường máy móc thiết bị thi công hoạt động chưa thực sự hiệu quả, nhất là mảng thuê mua máy móc thiết bị. - Nhu cầu về cán bộ quản lý, kỹ sư có trình độ, kinh nghiệm là lớn, nhưng thị trường hiện nay chưa đáp ứng kịp thời. - Nhiều chủ đầu tư trong quá trình thi công thường có sự thay đổi bản vẽ thiết kế, cấu trúc công trình, đôi khi thay đổi hoàn toàn thiết kế tạo ra sự bị động đối với công ty, xí nghiệp và các đội, bởi vì sự thay đổi đó kéo theo sự thay đổi kế hoạch tổ chức thi công, kế hoạch tài chính của đội. - Sự tiếp cận đối với các thành tựu của công nghệ thông tin trong lĩnh vực quảnlý xây dựng còn hạn chế, các phần mềm về quản lý xây dựng cũng có trên thị trường nhưng việc áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam còn mang tính miễn cưỡng và chi phí sử dụng là quá đắt so với các điều kiện của doanh nghiệp như hiện nay. - Chúng ta chưa có một cơ chế quản lý cấp đội thống nhất trong điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh mới, đa dạng, nhiều thành phần nên công ty nào có cơ chế quản lý chặt chẽ ở đội thì có lãi, công ty nào khán lỏng lẻo dẫn đến cá nhân đội trưởng thu lợi, công ty đó phải gánh chịu. - Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận những yếu kém còn tồn tại đó là: nền kinh tế còn ở trình độ thấp, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng hết, đào tạo cán bộ công nhân viên chưa theo kịp yêu cầu, đặc biệt là về chất lượng, khoa học công nghệ, chưa thực sự là đòn bẩy cho sự phát triển. Tốc độ phát triển khoa học công nghệ cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là những sức ép lớn đối với cả nền kinh tế cũng như đối với doanh nghiệp. Những vấn đề trên đặt ra cho việc điều hành sản xuất kinh doanh nói chung và công tác quản lý cấp đội nói riêng những thách thức mới, đòi hỏi công tác quản lý cấp đội phải chặt chẽ và cụ thể nhằm phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch, đảm bảo năng suất, chất lượng và hiệu quả. Phần 3. Tăng cường quản lý đội xây dựng ở công ty xây dựng 319- bộ quốc phòng 1. Phương hướng và mục tiêu phát triển của công ty 1.1. Mục tiêu chung Tăng trưởng hợp lý từ 10 - 15% mỗi năm.Với các dự án hiện có được đầu tư khai thác từ giữa năm 2004 và đang được tổ chức thực hiện có hiệu quả trong những năm 2005-2008, phấn đấu việc làm ổn định, khả năng giá trị sản lượng sẽ tăng nhanh. Phương châm phát triển vững chắc, hợp lý: tăng chất lượng của sản xuất kinh doanh. Từng bước chuẩn bị cho cổ phần hoá (từ năm 2006 trở đi): chuẩn bị về đánh giá tài sản. Chú trọng công tác quy hoạch đào tạo cán bộ cho 5 năm tới nhằm đáp ứng mục tiêu đã đề ra. 1.2. Mục tiêu cụ thể Chú trọng mở rộng quan hệ khai thác công việc ra các tỉnh miền Trung, biên giới hải đảo, mở thêm nhiều các hoạt động mới như: liên kết sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng,kinh doanh phát triển nhà…nhằm thu hút lao động, xã hội, tăng thu nhập tích luỹ cơ quan, đóng góp ngân sách cho Nhà nước. Phấn đấu đến năm 2008 tăng thu nhập trung bình của người lao động lên 1.800.000 Đ/ tháng. Hàng năm đầu tư mua sắm thiết bị với giá trị từ 8 đến 12 tỷ đồng, để bổ sung cho thiết bị máy móc để tăng năng lực cho đơn vị. Củng cố và phát triển các đội, phân xưởng hiện có đủ mạnh để có thể đảm đương được khối lượng công việc nhiều hơn nữa. Tuỳ theo tính chất từng dự án có thể mở các công trường lớn (các đội sẽ nằm trong phạm vi quản lý của chỉ huy công truường đó). Bảng số 12: kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2005 – 2009: Nội dung chỉ tiêu ĐVT 2005 2006 2007 2008 2009 Doanh thu Tỷ đồng 625 650 680 705 740 - Doanhthu quốc phòng Tỷ đồng 215 225 240 260 280 - Doanh thu kinh Tế Tỷ đồng 410 425 440 445 460 Lợi nhuận thực hiện Tỷ đồng 12.5 12.8 13.2 13.7 14.1 2. Giải pháp tăng cường quản lý đội xây dựng ở công ty xây dựng 319 Giải pháp 1: Hoàn thiện công tác giám sát thi công công trình xây dựng 1. Cơ sở lý luận Giám sát xây dựng là công tác kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo và đánh giá công việc của những người tham gia công trình. Giám sát xây dựng lấy hoạt động của hạng mục công trình xây dựng làm đối tượng, lấy pháp luật, quy định, chính sách và tiêu chuẩn kỹ thuật có liên quan, văn bản hợp đồng công trình làm chỗ dựa, lấy quy phạm thực hiện công việc, lấy hiệu quả xây dựng làm mục đích. 2. Cơ sở thực tiễn Trên thực tế, công ty xây dựng 319 đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình thi công công trình, có những sự cố xảy ra, làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các bên. Các kết quả nghiên cứu cho thấy một số các sai sót trong xây dựng công trình thường do kinh nghiệm thực tiễn không đủ. Mặt khác, hiện nay công ty vẫn còn thiếu một đội ngũ kỹ sư giám sát cả về số lượng và trình độ chuyên môn. Thực hiện cơ chế khoán công trình, các đội nhận trách nhiệm xây dựng công trình cho công ty. Nếu xét về tư cách kinh tế thì các đội có thể coi như một đối tác của công ty, nhận trách nhiệm xây dựng công trình thông qua các hợp đồng khoán nội bộ, còn công ty là người đặt hàng đồng thời công ty phải chịu trách nhiệm với chủ đầu tư chính về công trình và cũng chịu trách nhiệm về khoản đầu tư của mình. Xuất phát từ lý do như vậy, công ty phải thực hiện công tác giám sát thi công để bảo vệ lợi ích của mình, đảm bảo việc chuyển giao lại cho khách hàng những công trình đảm bảo về chất lượng, mỹ thuật, kỹ thuật theo đúng thiết kế. 3. Phương thức tiến hành Nội dung giám sát thi công + Giúp đỡ đơn vị nhận thầu viết báo cáo khởi công. + Thẩm tra thiết kế tổ chức thi công, phương án kỹ thuật, kế hoạch và tiến độ thi công mà đội đã đề xuất, đồng thời góp ý kiến. + Thẩm tra danh mục vật liệu và thiết bị thi công, quy cách tiêu chuẩn mà đơn vị nhận thầu đề xuất. + Đôn đốc, kiểm tra đội thực hiện nghiêm túc hợp đồng bao thầu và tiêu chuẩn kỹ thuật công trình. + Kiểm tra chất lượng vật liệu, cấu kiện và thiết bị mà công ty sử dụng, kiểm tra công tác an toàn lao động. + Kiểm tra tiến độ thi công công trình và chất lượng thi công, nghiệm thu hạng mục công trình, ký chứng từ thanh toán. + Tổ chức đơn vị thiết kế và đội thi công tiến hành nghiệm thu toàn bộ công trình, ký chứng từ thanh toán. + Thẩm tra kết toán công trình. Nội dung giai đoạn giám sát thi công theo kinh nghiệm của nước ngoài thể hiện 6 loại nhiệm vụ là khống chế đầu tư, khống chế tiến độ, khống chế chất lượng, quản lý hợp đồng, quản lý tin tức và phối hợp nhịp nhàng tổ chức công trình. Trong đó 3 nhiệm vụ đầu là mục tiêu quản lý, còn 3 nhiệm vụ sau là cách quản lý. Sơ đồ 04: Nội dung giám sát thi công Giám sát thi công Giám sát chất Giám sát hợp đồng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Khống chế Khống chế giá 1. Xét duyệt vật liệu 7. Chi trả theo khối lượng 2. Xét duyệt công nghệ thiết bị 8. Thay đổi công trình 3. Giám sát hiện trường thi công 9. Chi phí đền bù 4. Xử lý khuyết tật công trình 10. Điều chỉnh giá 5. Nghiệm thu thành phẩm 11. Khống chế ngày công 6. Nghiệm thu hoàn công 12. Duyệt kéo dài ngày công Trình tự giám sát thi công Kỹ sư giám sát chấp hành nghiêm chỉnh trình tự giám sát để khống chế trình tự thi công của các đội thi công. Đối với việc đảm bảo tiến độ công trình, chất lượng công trình và khống chế giá thành rất có lợi. Trình tự giám sát được chia làm 3 mảng rõ ràng là: giám sát chất lượng công trình, giám sát tiến độ công trình và giám sát giá thành công trình. Trình tự giám sát giá thành công trình có thể biểu diễn qua sơ đồ sau: Sơ đồ 05: Trình tự giám sát giá thành công trình Nghiệm thu khối lượng thực của công trình Đơn vị thi công báo khối lượng nghiệm thu Kỹ sư chuyên ngành ký nghiệm thu Đơn vị thi công báo khối lượng tháng Kỹ sư giám sát kinh tế duyệt Kỹ sư giám sát trưởng ký Ký nghiệm thu Xây dựng chế độ trách nhiệm theo các mục tiêu khống chế + Xây dựng chế độ trách nhiệm dựa theo khống chế chất lượng: chia làm 3 giai đoạn - Giai đoạn chuẩn bị thi công: kiểm tra chặt chẽ vật liệu ở hiện trường, vật liệu không phù hợp về chất lượng quy cách phải yêu cầu đơn vị thi công bổ xung cho đủ số lượngvà chất lượng theo yêu cầu. Kiểm tra thiết bị máy móc, không cho phép sử dụng thiết bị không đạt tiêu chuẩn mà quy phạm quy định đối với công nghệ, phải bổ xung thiết bị mà số lượng và năng suất sản xuất không đủ để đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình - Giai đoạn thi công: kiểm tra hệ thống đảm bảo chất lượng của đơn vị thi công và phát huy tác dụng của nó, kiểm tra các mặt hoạt động công trình của đội xây lắp, nếu phát hiện ra các sai sót có quyền ra quyết định sửa chữa hoặc đình chỉ thi công. - Giai đoạn nghiệm thu: Thẩm tra nội dungghi chép nhật ký công trình theo hệ thống đảm bảo chất lượng. Tiến hành kiểm tra chất lượng bên trong của sản phẩm và kích thước hình học, ký nhận đối với sản phẩm đạt yêu cầu, phê duyệt kết quả nghiệm thu cuối cùng, xác nhận trách nhiệm sai sót. + Xây dựng chế độ trách nhiệm dựa theo khống chế tiến độ công trình - Xét duyệt kế hoạch tiến độ công trình - Kiểm tra việc thực hiện tiến độ, nêud tiến độ thi công của các đội không theo kịp tiến độ kế hoạch thì phải chỉ thị cho đội tìm biện pháp để đuổi kịp tiến độ. - Thời gian đã duyệt bị kéo dài: nếu sự kéo dài tiến độ của đội là những nguyên nhân ngoài bản thân đội thì dựa vào điều kiện hợp đồng kéo dài và có trách nhiệm duyệt bù chi phí cho đội. + Xây dựng trách nhiệm theo khống chế giá thành - Tính toán khối lượng các đội đã hoàn thành dựa vào kết quả tính toán và chứng từ, thanh toán tiền cho đội. - Điều chỉnh giá cả dựa theo sự thay đổi của thị trường và theo những quy định trong hợp đồng, điều chỉnh giá cả đối với nguyên vật liệu, lao động và thiết bị thi công. Trong mọi trường hợp kỹ sư giám sát phải lắng nghe ý kiến của đơn vị thi công công trình, thực hiện chỉ thị của cơ quan quản lý xây dựng, kịp thời tổng kết bài học kinh nghiệm, thường xuyên nâng coa trình độ giám sát. Việc tổ chức hệ thống giám sát thi công một cách khoa học tạo điều kiện để doanh nghiệp nắm vững tình hình thực tế đang diễn ra tại công trường, có những điều chỉnh kịp thời. Tránh tình trạng lãng phí các nguồn lực khi có những sai sót xảy ra. 4. Điều kiện thực hiện - Trước hết,công ty cần có được một quy chế rõ ràng về nội dung giám sát thi công công trình, quy định rõ trách nhiệm của bên thi công cũng như bên giám sát, có quy định các cách thức sử lý khi có sự cố xảy ra. - Cần chấp hành đúng đắn quy định, quy phạm, tiêu chuẩn, pháp luật của nhà nước và địa phương. - Phải có đội ngũ kỹ sư giám sát có trình độ chuyên môn. - Công ty cần có trang bị đầy đủ phục vụ cho công tác kiểm tra, thí nghiệm, nghiệm thu công trình. 5. Hiệu quả thực hiện biện pháp Khi áp dụng biện pháp này, các đội sẽ được giám sát chặt chẽ hơn, việc tự ý thay đổi các quy trình thiết kế thi công, hay gian lận trong việc lử dụng các yếu tố đầu vào để hưởng lợi sẽ giảm đi rất nhiều. Trình độ thi công xây lắp các công trình của các đội cũng được nâng cao, do luôn nhận được sự hướng dẫn có tính quy trình, quy phạm của các kỹ sư giám sát của công ty. Công ty có được những công tình đảm bảo chất lượng, tiến độ để bàn giao cho khách hàng. Kinh nghiệm, và năng lực của đội ngũ kỹ sư giám sát ngày càng cao, thuận lợi cho việc thực hti các công trình sau này. Dự kiến khi thực hiện biện pháp này sẽ làm tăng doanh thu lên khoảng 8%. Như vậy, doanh thu tăng lên nhờ áp dụng biện pháp tổ chức giám sát thi công công trình là: 843.321 * 8%= 67.465,7 triệu đồng. Với mức tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 0,025, lợi nhuận thu được thêm nhờ áp dụng biện pháp này sẽ là: 0,025* 67.465,7= 1.686,6 triệu đồng. Giải pháp 2: Lập kế hoạch huy động, điều chuyển máy móc thiết bị một cách hợp lý, hiệu quả 1. Cơ sở lý luận đề ra giải pháp Máy móc thiết bị có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của đội xây dựng. Việc bố trí máy móc thiết bị một cách hợp lý sẽ cho phép kết hợp chặt chẽ giữa sức lao động và tư liệu sản xuất cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất của công ty, quy mô sản xuất và công nghệ sản xuất đã xác định nhằm tạo ra hiệu quả sản xuất cao nhất. Đây cũng chính là một nội dung quan trọng trong công tác tổ chức sản xuất, quản lý đội xây dựng. Việc bố trí mấy móc thiết bị được coi là hợp lý khi nó đảm bảo được tính cân đối: cân đối trong quan hệ tỷ lệ giữa công suất máy móc khả năng lao động, số lượng và chất lượng của nguyên vật liệu mang vào, tức là đảm bảo tính cân đối giữa ba yếu tố của quá trình sản xuất. Như vậy, việc bố trí máy móc thiết bị một cách hợp lý sẽ khắc phục được tình trạng gián đoạn của máy do lúc thì thiếu, lúc thì thừa máy ở các đội xây dựng, lúc thì hoạt động thong thả cầm chừng, khi thì vội vã, khẩn trương gây lãng phí về sức người sức của, ảnh hưởng tới chất lượng, tiến độ thi công công trình của đội. 2. Cơ sở thực tiễn Hiện nay công ty đang gặp rất nhiều khó khăn trong khâu điều chuyển máy móc, thiết bị giữa các xí nghiệp, giữa các đội xây dựng sao cho có hiệu quả cao nhất. Do việc đồng loạt thi công nhiều hạng mục công trình cũng như nhu cầu máy giữa các xí nghiệp khác nhau nhiều khi bị trùng lặp. Nếu điều chuyển máy móc, thiết bị tới xí nghiệp này thì công tình của xí nghiệp kia lại phải chờ máy, ảnh hưởng tới tiến độ thi công, trong khi việc thuê máy tại chỗ nhiều khi gặp khó khăn. Nhiều công trình có tính chất quan trọng hơn nhưng lại ở xa hơn so với công trình cũng đang có nhu cầu máy nhưng có tính chất ít quan trọng hơn và ở gần địa điể đặt máy hơn. Việc chuyển máy tới công trình này trước sẽ có hiệu quả cao hơn trong giảm chi phí vận chuyển máy nhưng thiệt hại do công trình ở xa mang lại có thể lớn hơn nhiều nếu không đáp ứng máy kịp thời. Cũng chính vì còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị mà nhiều khi công ty không tận dụng được ưu thế, công suất của máy móc, làm tăng chi phí, làm chậm tiến độ. Đó cũng chính là lý do làm cho hiệu quả quản lý và sử dụng máy về thời gian là chưa cao, ảnh hưởng đến hoạt động của đội xây dựng. Chính vì vậy việc bố trí máy móc thiết bị một cách hợp lý hơn là một đòi hỏi bức thiết đối với công tác quản lý đội xây dựng của công ty. 3. Cách thức tiến hành Việc bố trí máy móc, thiết bị một cách hợp lý trước hết thuộc trách nhiệm của xí nghiệp cơ giới, nơi quản lý hầu hết máy móc thiết bị xây dựng của công ty. Xí nghiệp cần phải xây dựng một bản kế hoạch về máy móc thiết bị xây dựng của các đội xây dựng, ít nhất trước một tháng về: chủng loại máy, số lượng, thời gian máy, địa điểm tập kết diện tại của các loại máy móc thiết bị. Trên cơ sở đó đưa ra kế hoạch điều chuyển qua lại giữa các công trình sao cho tối ưu nhất. Các xí nghiệp, các đội xây dựng cũng có thể căn cứ vào bản kế hoạch này của xí nghiệp để xây dựng kế hoạch cho mình, tạo thế chủ động trong thi công công trình. Về địa điểm tập kết máy, không nhất thiết các máy móc thiết bị do xí nghiệp cơ giới quản lý phải tập kết đúng địa điểm tập kết của xí nghiệp mà cần hết sức linh động trên cơ sở nắm bắt tốt thị trường cho thuê máy nơi công trường thi công. Địa điểm tập kết máy, nếu có thể đặt xa trung tâm mặc dù hiện tại công trình ở đó là chưa có nhu cầu ngay. Đối với những công trình đặt ỏ nơi có nhiều công trình xây dựng đang thi công của các công ty khác, có thể cân nhắc, xem xét mặt thiệt - hơn để có thể ưu tiên cho thuê máy của đơn vị bạn, khi mà việc thuê máy là có lợi hơn, không nhất thiết phải điều chuyển máy của công ty tới. Ta có thể mô hình hoá cách bố trí này như sau: Sơ đồ số 06: Bố trí máy móc thiết bị theo mối quan hệ trực tiếp Hiện nay việc điều chuyển máy trong công ty vẫn mang nặng tính định mức cấp phát, chưa thực sự trao quyền chủ động cho các xí nghiệp, các đội xây dựng.Công ty nên áp dụng chế độ thuê máy trên cơ sở hạch toán độc lập giữa các xí nghiệp thành viên và công ty. Qua đó sẽ tạo thế chủ động hơn trong công tác sử dụng máy móc thiết bị. Các xí nghiệp sẽ xây dựng kế hoạch máy trên cơ sở nhu cầu thực tế của xí nghhiệp mình do phải cân nhắc tới hiệu quả chi phí máy.. Tất nhiên, việc ưu tiên trong thuê máy cho các xí nghiệp trong công ty vẫn được ưu tiên, trên cơ sở lợi ích kinh tế nhằm vừa tận dụng được công suất máy của công ty, cừa nâng cao hiệu quả kinh tế trong thi công. 4. Điều kiện thực hiện - Phòng vật tư –xe máy phải lập dự án trình lên ban giám đốc công ty phê duyệt, để có cơ sở triển khai thực hiện. - Công ty phải lập kế hoạch cụ thể, cử cán bộ có năng lực và kinh nghiệm tìm hiểu, nghiên cứu và bố trí mấy móc thiết bị cho phù hợp với điều kiện thực tế của công ty. XNXD số 1 xí nghiệ p cơ giới XNXD số 5 XNXD số 2 XNXD số 3 XNXD số 4 5. Dự kiến hiệu quả mang lại Nếu đảm bảo thực hiện tốt việc bố trí máy móc, thiết bị như trên sẽ cho phép Công ty nâng cao hơn nữa hiệu quả trong công tác diều chuyển qua lại máy móc thiết bị giữa các xí nghiệp. Qua đó vừa cho phép công ty tận dụng được tối đa công suất máy, vừa cho phép các xí nghiệp chủ động trong tạo nguồn máy móc thiết bị cho mình, tăng tính liên tục, giảm thời gian ngừng việc do thiếu máy, đảm bảo tiến độ bàn giao công trình cho chủ đầu tư, tạo uy tín và lòng tin trong quan hệ với khách hàng. Về mặt chi phí cho công tác điều chuyển, ta có thể hình dung hiệu quả mang lại như sau: Bảng số 13 : Điều chuyển máy móc thiết bị năm 2004 và hiệu quả dự kiến STT Loại máy móc thiết bị Thực tế điều chuyển năm 2004 Hiệu quả dự kiến Số lượt (lượt) CPĐC (1000 đ) Số lượt (lượt) CPĐC (1000 đ) 1 Cần trục tự hành 12 8.251 9 6.160 2 Cần trục tự hành ô tô 12 6.201 9 4.100 3 Cần trục tháp 15 14.306 10 11.200 4 Máy vận thăng 18 2.013 15 1.750 5 Máy ủi 16 3.624 12 2.150 6 Máy ép cọc 10 9.213 7 7.600 7 Máy đóng cọc 10 10.600 7 7.215 8 Trạm trộn bê tông 0 0 0 0 9 Máy trộn bê tông 35 2.679 26 1.300 10 Máy trộn vữa 31 2.563 25 1.100 11 Đầm(bàn, dùi, cạnh) 9 1.024 6 700 12 Máy san đất 12 2.131 9 1.600 13 Máy cạp đất 12 2.142 9 1.230 14 Máy rải nhựa 15 4.357 10 3.000 15 Máy hút bùn 7 1.569 5 755 16 Xe tưới nhựa 9 2.015 5 1.231 17 Máy dò mìn 5 1.112 3 810 18 Xe con 14 3.210 10 1.900 19 Xe tải 17 4.352 11 3.100 20 Máy phát điện 15 1.692 9 530 21 Máy cắt uốn thép 18 3.215 15 2.115 22 Máy hàn các loại 14 1.189 12 720 23 Máy bơm các loại 10 2.541 6 1.020 23 Máy nén khí 5 1.523 2 562 24 Máy khoan ép hơi 7 1.567 5 687 Cộng 93.089 62.535 Tuy chi phí cho việc điều chuyển qua lại giữa các công trình chỉ giảm khoảng hơn 30 triệu đồng khi thực hiện biện pháp này, nhưng hiệu quả mang lại từ việc giảm thời gian gián đoạn thi công công trình có thể lên đến hàng trăn triệu, thậm chí cả tỷ đồng, củng cố thêm uy tín của doanh nghiệp. Giải pháp 3: Tuyển dụng và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nhân sự của các đội. 1. Cơ sở lý luận. Thực tế đã chứng minh một điều là chất lượng của một hệ thống quản lý phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng con người trong hệ thống ấy. Chính con người tạo ra các cơ chế quản lý và cũng chính con người thực hiện các cơ chế ấy. Sự thành bại của một tổ chức phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của của hệ thống quản lý hay nói một cách khác là phụ thuộc vào chất lượng con người trong tổ chức đó. Chất lượng con người trong một tổ chức phụ thuộc vào 2 quá trình, đó là quá trình tuyển dụng và quá trình bồi dưỡng, đào tạo. Do yêu cầu ngày càng cao trong công việc, tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, các công nghệ hiện đại xuất hiện ngày càng nhiều trong phương pháp sản xuất kinh doanh xây lắp đòi hỏi con người phải có trình độ tay nghề, phải được đào tạo một cách cơ bản. 2. Cơ sở thực tiễn Trong công tác tuyển dụng và đào tạo của công ty thời gian qua đã bộc lộ những khiếm khuyết, chất lượng lao động của công ty tương đối đồng đều song chưa cao, ảnh hưởng nhiều đến công tác quản lý đội xây dựng. Cong nhiều bất cập trong công tác quản lý, việc đào tạo một lớp người quản lý mới, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ lao động kỹ thuật của Công ty vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức, hiệu quả đào tạo chưa cao. Trong cơ chế thị trường, chất lượng và tiến độ thi công công trình là yếu tố quyết định tới sự sống còn của công ty. Những năm qua đã có nhiều lượt cán bộ được

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Tăng cường quản lý đội xây dựng ở Công ty xây dựng 319 – Bộ Quốc Phòng.pdf
Tài liệu liên quan