Tài liệu Luận văn Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội: 1
Luận văn
Tăng cường kiểm soát nguồn
thu thuế GTGT từ các Doanh
nghiệp trên địa bàn Hà nội
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong điều kiện hiên nay, do sự phát triển không ngừng của cách
mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đòi hỏi phải tăng cường chức năng
kinh tế, xã hội của nhà nước.Để thực hiện các chức năng đó, Nhà nước cần
phải sử dụng các công cụ khác nhau để tác động đến nền kinh tế, nhằm
thoả mãn các nhu cầu xã hội.
Việc tăng cường vai trò kinh tế, xã hội của nhà Nước dẫn đến tốc độ
chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên, điều đó tất yếu đòi hỏi Nhà nước
phải mở rộng quỹ tài chính của mình. Quỹ tài chính của Nhà nước được
hình thành nên từ các nguồn thu.Trong đó Thuế vừa là nguồn thu chủ yếu
của NSNN, vừa là một công cụ đắc lực để quản lí nền kinh tế. Đặc biệt là
thuế GTGT.
Thuế GTGT được áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999. Sau hơn
hai năm thực hiện, ngoài những ưu điểm giúp cho việc kiểm soát nguồn thu
tương đ...
97 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1021 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Tăng cường kiểm soát nguồn
thu thuế GTGT từ các Doanh
nghiệp trên địa bàn Hà nội
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong điều kiện hiên nay, do sự phát triển không ngừng của cách
mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đòi hỏi phải tăng cường chức năng
kinh tế, xã hội của nhà nước.Để thực hiện các chức năng đó, Nhà nước cần
phải sử dụng các công cụ khác nhau để tác động đến nền kinh tế, nhằm
thoả mãn các nhu cầu xã hội.
Việc tăng cường vai trò kinh tế, xã hội của nhà Nước dẫn đến tốc độ
chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên, điều đó tất yếu đòi hỏi Nhà nước
phải mở rộng quỹ tài chính của mình. Quỹ tài chính của Nhà nước được
hình thành nên từ các nguồn thu.Trong đó Thuế vừa là nguồn thu chủ yếu
của NSNN, vừa là một công cụ đắc lực để quản lí nền kinh tế. Đặc biệt là
thuế GTGT.
Thuế GTGT được áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999. Sau hơn
hai năm thực hiện, ngoài những ưu điểm giúp cho việc kiểm soát nguồn thu
tương đối chặt chẽ và thuận lợi như : Đơn giản, dễ hiểu, có tính chất liên
hoàn, tăng cường công tác hạch toán, kế toán tại doanh nghiệp. . . Luật thuế
GTGT và quy trình quản lí thuế GTGT cũng bộc lộ những nhược điểm, ảnh
hưởng tới công tác kiểm soát nguồn thu, do vậy ảnh hưởng trực tiếp tới kế
hoạch thu ngân sách của Nhà nước. Kiểm soát tốt được nguồn thu thuế
GTGT cũng đồng nghĩa với việc tăng thu cho NSNN.
Xuất phát từ vai trò quan trọng đó nên việc “ Tăng cường kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội” là đề
tài được chọn trong luận án thạc sĩ của tôi.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
3
Luận án nghiên cứu thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT đối
với các Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội. Hệ thống hoá những
quan điểm mới về kiểm soát phù hợp với vai trò quản lí của Nhà nứớc, trên
cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT- một nguồn thu quan trọng của Nhà nước.
3. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Ngoài lời mở đầu và kết luận , luận án gồm 3 chương:
Chương I: Lí luận chung về kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các
Doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh
nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà nội
Chương III: Những giải pháp tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Luận án nghiên cứu việc tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT từ các Doanh nghiệp thực hiện luật thuế GTGT theo phương pháp
khấu trừ.
Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác - Lê nin, kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích và
phương pháp so sánh.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Luận án làm rõ ý nghĩa quan trọng của việc tăng cường kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT, nêu lên thực trạng của hoạt động kiểm soát nguồn
thu thuế GTGT đối với các Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội,
đồng thời nêu ra những giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động này
4
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT
TỪ CÁC DOANH NGHIỆP.
1.1/ KIỂM TRA, KIỂM SOÁT TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC.
Kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là một trong những hoạt động
quản lý của Nhà nước. Do vậy để hiểu được khái niệm về kiểm soát nguồn
thu Thuế GTGT, chúng ta phải xuất phát từ quản lý nói chung và quá trình
quản lý của Nhà nước nói riêng.
1.1.1 - Những vấn đề chung về quản lý.
Một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức
thực hiện các mục tiêu đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm
đạt hiệu quả cao nhất.
Quá trình quản lý bao gồm 4 giai đoạn cơ bản:
Thứ nhất: trên cơ sở dự báo về các nguồn lực hiện có và các nguồn
lực tiềm năng, người quản lý xác định các mục tiêu của quản lý. Đây là giai
đoạn định hướng.
Thứ hai: Xây dựng các chương trình, các kế hoạch để đạt được mục
tiêu của quản lý. Ở giai đoạn này, người quản lý phải đưa ra các quyết định
cụ thể để tổ chức thực hiện với những công cụ, các biện pháp, các chính
sách.v...v...
Thứ ba: Giai đoạn tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn này, cần kết
hợp các nguồn lực theo một phương án tối ưu nhất, sử dụng các quyết định
quản lý một cách hiệu quả nhất nhằm đạt được kết quả tối ưu như mục tiêu
đã đặt ra.
Thứ tư: là giai đoạn đánh giá kết quả hoạt động. Giai đoạn này rất
quan trọng vì các thông tin thu được sẽ cho biết các kết quả đạt được có
5
thoả mãn các mục tiêu của người quản lý hay không, từ đó người quản lý
có thể có những điều chỉnh cần thiết.
Trong suốt quá trình quản lý, kiểm tra luôn gắn kết với các giai đoạn
của quản lý. Ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về nguồn lực và
mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và
mục tiêu, xây dựng các chương trình, kế hoạch...Sau khi các chương trình,
kế hoạch đã được kiểm tra có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức
thực hiện. Ở giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo
phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả
của các quá trình để đIều hoà các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và
mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động.
Như vậy, kiểm tra không phải là một giai đoạn hay một pha của quản
lý mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này. Bởi vậy,
kiểm tra là một chức năng của quản lý. Tuy nhiên, chức năng này được thể
hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại
hình hoạt động cụ thể, vào những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và trong
từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
1.1.2 - Kiểm tra, kiểm soát- một chức năng của quản lý Nhà nước.
Để hiểu được vai trò của kiểm tra, kiểm soát trong quá trình quản lý,
chúng ta cần đi từ khái niệm của kiểm tra, kiểm soát.
Trong quản lý, kiểm tra là công việc nhằm soát xét lại những quyết
định và quá trình thực thi những quyết định đó, nhưng được giới hạn theo
cấp bậc quản lý (ví dụ kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới). Kiểm tra
thường gắn liền với xử lý, gọi là thanh tra.
Kiểm soát là công việc nhằm soát xét lại những quy định, những quá
trình thực thi các quyết định quản lý được thể hiện trên các nghiệp vụ
6
(những thao tác cụ thể) nhằm nắm bắt và đIều hành được những nghiệp vụ
đó.
Nhằm tham gia vào quá trình quản lý, kiểm tra kiểm soát phải tuân
thủ theo 3 bước cơ bản:
Thứ nhất là xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dựa trên cơ sở của những
mục tiêu quản lý.
Thứ hai là đo lường việc thực hiện theo những tiêu chuẩn đã được
xây dựng. Ở bước này người quản lý sẽ nhận được các thông tin về đối
tượng quản lý.
Thứ ba là dựa trên những thông tin thu thập được ở bước thứ hai,
người quản lý điều chỉnh các sai lệch trong việc thực hiện.
Như vậy, kiểm tra kiểm soát gắn liền với hoạt động quản lý. Ở đâu
có quản lý thì ở đó có kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra, kiểm soát không tự
nhiên tồn tại mà nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý và phục vụ
quản lý. Kiểm tra kiểm soát là cầu nối giữa thực tế sinh động và nhận thức
chủ quan của con người trong quá trình quản lý.
Về phân cấp quản lý, có rất nhiều mô hình khác nhau song chung
nhất thường là phân thành quản lý vĩ mô (của Nhà nước ) và quản lý vi mô
(của các đơn vị cơ sở). Ngoài ra, trong nhiều trường hợp giữa hai cấp quản
lý cơ bản nói trên còn có cấp quản lý trung gian vừa chịu sự quản lý vĩ mô
của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý của các đơn vị cơ sở.
Đối với quản lý vi mô, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, tất yếu mỗi
đơn vị cơ sở đều tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu :
rà soát các tiềm lực, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối
chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát xét lại các thông tin thực
hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của mọi
nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động. Công việc này
là kiểm soát nội bộ hay còn gọi là nội kiểm.
7
Trong khi đó, với cương vị quản lý vĩ mô, Nhà nước cũng thực hiện
chức năng kiểm tra của mình. Trong nền kinh tế, Nhà nước có vai trò bảo
đảm một môi trường kinh doanh ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh hơn nữa,
Nhà nước còn giữ vai trò định hướng sự phát triển của nền kinh tế thông
qua việc điều tiết kinh tế vĩ mô. Với những vai trò đó, đối tượng của quản
lý Nhà nước là rất rộng lớn, từ các doanh nghiệp cho tới những lĩnh vực ,
những ngành nghề khác nhau và trên nguyên tắc, tất cả các hoạt động kinh
tế đều thuộc đối tượng quản lý của Nhà nước. Với đối tượng quản lý rất
rộng, việc quản lý của Nhà nước đòi hỏi phải bám sát thực tế kinh doanh
của doanh nghiệp, nhưng đồng thời phải bảo đảm đúng định hướng, bảo
đảm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước.
Mặt khác, Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi
của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để
cai trị xã hội. Để duy trì sự hoạt động của mình, Nhà nước cần có những
nhu cầu chi tiêu chung có tính chất xã hội. Do đó, Nhà nước phải dùng
quyền lực chính trị vốn có để giành lấy một bộ phận của cải xã hội phục vụ
cho các chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó là lý do tồn tại của nguồn thu
NSNN. Về thực chất, nguồn thu NSNN là sự phân phối của cải xã hội
nhằm thực hiện chức năng của tài chính. Do tính chất quan trọng của nguồn
thu NSNN, Nhà nước phải thực hiện quản lý và thiết lập việc kiểm soát các
nguồn thu này.
Do vậy, kiểm tra kiểm soát nói chung và kiểm soát nguồn thu NSNN
nói riêng là rất cần thiết và vô cùng quan trọng trong quản lý Nhà nước.
Trong việc kiểm soát của Nhà nước, các tiêu chuẩn kiểm soát là hệ thống
các Luật và các quy định dưới Luật.
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp. Ở cấp độ trực tiếp (thông thường với tư cách chủ sở hữu) Nhà
8
nước kiểm tra các mục tiêu các chương trình, kế hoạch hoạt động, kiểm tra
các nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các
doanh nghiệp Nhà nước và bộ máy hành chính, kiểm tra tính trung thực của
các thông tin cũng như tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ. Ở
cấp độ gián tiếp, Nhà nước có thể sử dụng kết quả kiểm tra của các chuyên
gia hoặc các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết vĩ mô qua các
chính sách của mình, hoặc tham gia đầu tư hoặc với tư cách là các khách
hàng của các tổ chức kinh tế.
Việc kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước khác với kiểm tra, kiểm soát
của các doanh nghiệp do mục đích quản lý, đối tượng quản lý là hoàn toàn
khác nhau. Nếu như đối với doanh nghiệp, mục tiêu của quản lý là tạo ra
lợi nhuận tối đa và một nền tảng bền vững để phát triển thì đối với Nhà
nước, mục tiêu quản lý lại là ổn định nền kinh tế trên các lĩnh vực: sản
xuất, thương mại, tài chính - tiền tệ , bảo đảm một môi trường kinh doanh
ổn định và thực hiện huy động đủ nguồn thu NSNN. Đối tượng quản lý của
quản lý Nhà nước là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, các yếu tố của môi trường
kinh doanh, các giá trị văn hoá, môi trường xã hội. Còn đối tượng quản lý
của doanh nghiệp lại là những vấn đề chi phí, thu nhập, cơ cấu các nguồn
vốn sử dụng, quy trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ..v.v... Do vậy, quá trình
kiểm tra kiểm soát đối với doanh nghiệp thì ngoài việc kiểm tra trong nội
bộ doanh nghiệp còn phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát này nhằm bảo đảm
các quyết định quản lý kinh tế của Nhà nước, trong đó có chính sách huy
động nguồn thu NSNN được thực hiện một cách có hiệu quả.
Trên giác độ tài chính, cả kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp và kiểm
soát của Nhà nước đều hướng tới một đối tượng chung là hoạt động tài
chính của doanh nghiệp.
1.1.3 - Kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
9
Phạm vi quản lý bao gồm tất cả các lĩnh vực chức năng khác nhau.
Tùy theo tính chất nghiệp vụ, sự chuyên môn hoá và sự phân quyền mà các
bộ phận chức năng có thể được thiết lập. Quá trình quản lý trong mỗi lĩnh
vực đều phải tuân thủ theo các bước như đã nêu ở trên nhưng phải tập trung
vào việc thực hiện chức năng đã định một cách hiệu quả nhất. Để thực hiện
mục tiêu này, cần phải thiết lập hệ thống kiểm soát trên hai khu vực, đó là
kiểm soát quản lý và kiểm soát kế toán.
Theo các chuẩn mực đã hệ thống hoá của Hội đồng kế toán viên
công chứng Mỹ (AICPA), phần thực hành kiểm toán (32009) thì :
Kiểm soát quản lý (trong doanh nghiệp được cụ thể hoá là kiểm soát
quản trị - Administrative) bao gồm (nhưng không hạn chế) kế hoạch tổ
chức và các trình tự, hồ sơ cần cho quá trình ra quyết định để cho phép tiến
hành các nghiệp vụ. Kiểm soát quản lý gắn liền với trách nhiệm thực hiện
các mục tiêu của tổ chức và là điểm xuất phát để thiết lập kiểm soát kế
toán.
Kiểm soát kế toán (Accounting Control) bao gồm kế hoạch tổ chức
và các trình tự, hồ sơ cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của sổ
sách tài chính và do đó phải bảo đảm hợp lý rằng :
- Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể
của quản lý.
- Các nghiệp vụ được ghi sổ là cần thiết để : (1) Giúp chuẩn bị các
báo cáo tài chính đúng với nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận hoặc
các tiêu chuẩn có thể áp dụng cho các báo cáo này; (2) Duy trì khả năng
hạch toán của tài sản.
- Chỉ khi được phép của nhà quản lý mới động đến tài sản.
- Tài sản đã ghi sổ phải được đối chiếu với tài sản thực có tại thời
điểm thích hợp và phải có sự điều chỉnh phù hợp khi có những chênh lệch.
10
Như vậy, kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của
doanh nghiệp được phản ánh trên các tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm
soát quản lý yêu cầu một phạm vi rộng hơn của các đối tượng kiểm soát
theo mục tiêu quản lý của toàn bộ tổ chức. Tuy nhiên, kiểm soát kế toán lại
có vai trò là cơ sở cho kiểm soát quản lý. Các chứng từ kế toán không chỉ
là sự thông tin mà còn là minh chứng pháp lý cho sự hình thành các nghiệp
vụ kinh tế. Từ đó, kiểm soát kế toán có thể hình thành phương pháp tự
kiểm soát : đối ứng tài khoản không chỉ là phương pháp phân loại, phản
ánh sự vận động của tài sản mà còn là phương pháp kiểm tra những quan
hệ cân đối cụ thể, tổng hợp - cân đối kế toán không chỉ cung cấp những
thông tin tổng hợp mà còn là phương pháp kiểm tra kết quả cân đối tổng
quát trong thông tin kế toán. . .
Tuy vậy, thực trạng hoạt động tài chính và sự phản ánh nó trong kế
toán vẫn có những sự cách biệt do giới hạn của trình độ, phương tiện thu
thập thông tin và những giới hạn cho phép về nghề nghiệp trong chính sách
kế toán với sự đa dạng, thường xuyên của lượng thông tin phát ra từ hoạt
động tài chính. Do vậy, cần phải có kiểm tra ngoài kế toán mới có thể xác
minh một cách chính xác thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Từ những lý luận trên, có thể cụ thể hoá đối tượng của kiểm soát kế
toán trong hoạt động tài chính doanh nghiệp trên những vấn đề sau :
+ Thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, thực trạng hoạt động tài chính bao gồm 2
phần rõ rệt: một phần được phản ánh trong các tài liệu kế toán và phần còn
lại chưa được phản ánh trong tài liệu kế toán. Đối với phần thực trạng được
phản ánh trong các tài liệu kế toán, việc kiểm soát đã có đầy đủ bằng
chứng, đó là các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập ra trên cơ sở các
nghiệp vụ phát sinh và các quy định của hệ thống Luật pháp về kế toán.
Tuy vậy, đây chỉ là phần nổi của các hoạt động tài chính. Hoạt động kiểm
11
soát còn quan tâm đến phần thực trạng hoạt động tài chính chưa được phản
ánh trong tài liệu kế toán. Đó là khi các chứng từ kế toán không đủ độ tin
cậy mà trên thực tế không phát sinh các nghiệp vụ kinh tế, hoặc các nghiệp
vụ kinh tế chưa được phản ánh đầy đủ trên các chứng từ.
+Kiểm soát về tài liệu kế toán.
Thực trạng hoạt động tài chính là đối tượng chung của kiểm soát.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi các nghiệp vụ kế toán và tài
chính phát triển đến trình độ cao và hệ thống Luật pháp ngày càng trở nên
chặt chẽ thì yêu cầu chung đối với quản lý là tất cả các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh phải được phản ánh đầy đủ trên các tài liệu kế toán. Một mặt đây
là sự lượng hoá các nghiệp vụ kinh tế, mặt khác tài liệu kế toán còn thể
hiện tính pháp lý của hoạt động kinh tế.
Đối với các tài liệu kế toán, việc kiểm soát phải thực hiện theo các
nội dung sau:
- Kiểm tra tính hiện thực của các thông tin kế toán. Tính hiện thực
của thông tin trên các tài liệu kế toán thể hiện sự phản ánh một cách trung
thực, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Kiểm tra tính hợp pháp của các biểu mẫu, của trình tự lập và luân
chuyển các tài liệu kế toán.
- Kiểm tra tính hợp lý của các đói tượng kế toán phù hợp với nội
dung của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- Và cuối cùng, kiểm tra tính pháp lý trong việc thực hiện các quy
định, chuẩn mực và chế độ tài chính của doanh nghiệp.
Để tiến hành kiểm soát cần phải có những phương pháp cụ thể , đó là
phương pháp kiểm soát trên chứng từ và phương pháp kiểm soát ngoài
chứng từ.
Các phương pháp kiểm soát trên chứng từ.
12
Các phương pháp kiểm soát trên chứng từ dựa trên cơ sở các nguồn
tài liệu kế toán sẵn có của doanh nghiệp. Các phương pháp này gồm có:
- Phương pháp kiểm soát cân đối kế toán: là phương pháp dựa trên
các cân đối kế toán và các cân đối khác để kiểm soát các quan hệ nội tại
của các yếu tố cấu thành nên quan hệ cân đối đó. Đó là cân đối giữa nguồn
lực và kết quả cân đối giữa số phát sinh nợ và số phát sinh của các tài
khoản v.v...
- Phương pháp đối chiếu trực tiếp: Là phương pháp so sánh (về mặt
lượng) trị số của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kế toán. Phương pháp
đối chiếu trực tiếp thường sử dụng trong các trường hợp sau:
+ Đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu năm hoặc giữa các kỳ về chỉ
tiêu doanh thu, chi phí, thu nhập để phát hiện sự biến động bất thường
trong các chỉ tiêu đó.
+ Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu với trị số của các yếu tố cấu thành
chỉ tiêu đó. Chẳng hạn đối chiếu số lượng, đơn giá với số tiền trong các
chứng từ gốc, đối chiếu thu nhập, chi phí với kết quả kinh doanh.
Tuy vậy, phương pháp này chỉ được sử dụng trong trường hợp các
chỉ tiêu được hạch toán theo cùng một nội dung, cùng phương pháp, cùng
đơn vị , trong cùng một khoảng thời gian điều kiện tương tự nhau.
- Phương pháp đối chiếu logic: Là phương pháp xem xét mức biến
động tương ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song
nó có thể có mức biến động khác nhau theo những chiều hướng khác nhau
(ví dụ giữa hàng tồn kho với tiền mặt, tiền gửi và các khoản phải thu).
Các phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ
- Phương pháp kiểm kê: Là phương pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài
sản. Phương pháp này giúp việc kiểm soát phát hiện sự sai lệch giữa thực
trạng tài sản và việc phản ánh trên các chứng từ kế toán.
13
- Phương pháp thực nghiệm: Là phương pháp diễn lại hoặc nghiên
cứu, phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có,
đã diễn ra và cần xác minh lại.
- Phương pháp điều tra: Đây là phương pháp xác định lại một tài
liệu, hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận trong
quá trình kiểm soát.
Tóm lại, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp chính là thực hiện
việc kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính. Nó có vai trò rất quan trọng
trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp và của Nhà nước. Do có đối
tượng, có phương pháp cụ thể, kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính
đã đáp ứng được các nhu cầu của quản lý và là một chức năng quan trọng
của quản lý. Trong phạm vi của đề tài, tác giả sẽ đi sâu vào một hoạt động
kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đó là kiểm
soát nguồn thu thuế GTGT.
1.2/ KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH
NGHIỆP.
1.2.1 - Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT.
Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế
đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT (gồm cả khoản
phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng).
Có hai phương pháp tính thuế GTGT:
+ Phương pháp khấu trừ thuế.
+ Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Trong luận văn này chúng ta chỉ đi vào xem xét phương pháp thứ
nhất: phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp.
14
Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho các cơ sở kinh doanh
đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ
các quy định của chế độ hoá đơn, chứng từ bao gồm: các doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các
Công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác.
Cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế
phải sử dụng hoá đơn GTGT (trừ trường hợp được dùng chứng từ ghi giá
thanh toán đã có thuế GTGT). Trên hoá đơn GTGT phải ghi rõ: giá bán
(chưa có thuế GTGT), các khoản phụ thu, thuế GTGT và tổng số tiền phải
thanh toán.
Thuế GTGT phải nộp là số chênh lệch giữa số thuế GTGT đầu ra với
số thuế GTGT đầu vào. Công thức tính như sau:
Thuế GTGT
phải nộp = Thuế GTGT đầu ra -
Thuế GTGT đầu
vào
Trong đó, thuế GTGT đầu ra là số thuế tính trên tổng giá bán (chưa
bao gồm thuế GTGT) hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kỳ. Thuế GTGT đầu
ra được tính theo công thức sau:
Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế x Thuế suất
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng
hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh
doanh phải ghi rõ giá bán chưa bao gồm thuế GTGT, thuế GTGT, tổng giá
thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi rõ giá
chưa có thuế GTGT và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ
bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ.
15
Thuế GTGT đầu vào là số thuế GTGT được ghi trên hoá đơn GTGT
khi mua hàng hoá, dịch vụ hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của hàng
hoá, dịch vụ nhập khẩu.
Đối với quản lý Nhà nước, mục tiêu của việc áp dụng thuế GTGT là :
- Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá,
đẩy mạnh xuất khẩu. Thuế GTGT khắc phục được việc thu trùng lắp của
thuế doanh thu, thuế GTGT không thu trên vốn đầu tư, do đó khuyến khích
sản xuất kinh doanh và đầu tư. Đối với hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp
không phải nộp thuế GTGT, mặt khác lại được hoàn thuế GTGT đầu vào
nên có điều kiện hạ giá bán, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường
quốc tế.
- Bảo đảm động viên số thu quan trọng và tương đối ổn định cho
NSNN.
- Tăng cường công tác hạch toán kế toán và khuyến khích việc mua
bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ.
- Phù hợp với thông lệ quốc tế và đẩy nhanh tiến trình hội nhập với
các nước trong khu vực và trên thế giới
1.2.2 - Vai trò của kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT.
1.2.2.1- Vai trò của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT
Nguồn thu NSNN là nguồn tài chính nuôi sống sự hoạt động của bộ
máy Nhà nước. Hơn nữa nguồn thu NSNN còn quyết định mức chi NSNN,
do đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Từ đó có
thể thấy rằng việc quản lý Nhà nước phải đặt việc quản lý nguồn thu
NSNN, trong đó có nguồn thu thuế GTGT là một trong những mục tiêu
quan trọng nhất. Mà như chúng ta đã biết, việc quản lý luôn luôn tồn tại
cùng với việc kiểm tra, kiểm soát. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế
GTGT đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý Nhà nước về kinh tế.
16
Có thể thấy vai trò của kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT trên những
khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT có vai trò quan trọng
trong việc động viên nguồn thu thường xuyên, ổn định cho NSNN vì nguồn
thu từ thuế GTGT chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng nguồn thu
NSNN ( Tù 20 đến 30%). Ở mỗi quốc gia, trong chính sách vĩ mô luôn có
một chiến lược phát triển nguồn thu Thuế GTGT. Tuy nhiên, khi các mục
tiêu được đặt ra và mặc dù đã có một hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh
thì các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân vẫn có thể không thực hiện
đóng góp nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước. Bản thân Nhà nước cũng không
chắc chắn các mục tiêu kinh tế vĩ mô có thực hiện được không. Do vậy,
kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là vô cùng quan trọng. Nó giúp cho Nhà
nước nhận diện đầy đủ các đối tượng nộp thuế và các khoản thu khác, đồng
thời đem lại những thông tin về thuế suất cũng như mức đóng góp có phù
hợp với thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp hay không, để từ đó
Nhà nước có những điều chỉnh kịp thời nhằm động viên một cách đầy đủ
các nguồn thu vào NSNN.
Thứ hai, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT có vai trò quan trọng
trong thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, giúp Nhà nước
can thiệp có hiệu quả vào đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể
thấy tác dụng điều tiết kinh tế vĩ mô được thể hiện rõ nét nhất qua chính
sách thuế GTGT. Chính sách thuế GTGT có ảnh hưởng tới giá cả nguyên
vật liệu đầu vào, từ đó tác động tới giá thành sản xuất. Chính sách thuế
GTGT lại có thể ảnh hưởng đến giá bán đầu ra, quyết định đến sự chấp
nhận của người tiêu dùng đối với hàng hoá. Tóm lại, thông qua thuế suất và
đối tượng đánh thuế, đối tượng nộp thuế, Nhà nước có thể tác động một
cách mạnh mẽ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tuy vậy sự can thiệp của Nhà nước chỉ thực sự có hiệu quả khi thực hiện
17
tốt kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT. Bởi ở góc độ điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, các mục tiêu của Nhà nước và lợi ích của từng doanh nghiệp không phải
bao giờ cũng thống nhất. Trong khi đó, Nhà nước với tư cách đại diện cho
ý chí toàn bộ xã hội luôn phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
Thứ ba, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT tạo điều kiện hình thành
thói quen tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp, các cá nhân trong hoạt
động kinh tế - xã hội. Đối với các doanh nghiệp, chính sách thuế GTGT
của Nhà nước luôn là mối quan tâm sâu sắc nhất. Nền kinh tế thị trường có
thể phát huy mọi tiềm năng, giải phóng sức sản xuất nhưng cũng tạo ra
những tiêu cực như trốn, lậu thuế,... Kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT nếu
được thực hiện tốt sẽ buộc các doanh nghiệp, các cá nhân tuân thủ Luật
thuế, từ đó tạo ra thói quen tự giác chấp hành pháp luật của nhà nước trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cuối cùng, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT góp phần tạo ra một
môi trường kinh doanh ổn định, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong các
hoạt động kinh tế. Trên góc độ quản lý Nhà nước, tất cả các doanh nghiệp
phải bình đẳng và có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ việc nộp thuế và các
nguồn thu khác cho NSNN. Tuy nhiên thực tế các doanh nghiệp có thể thực
hiện rất khác nhau về nghĩa vụ đóng góp, có doanh nghiệp thực hiện
nghiêm chỉnh, song cũng có doanh nghiệp không thực hiện, hoặc thực hiện
không đầy đủ các nghĩa vụ nộp thuế. Điều đó dẫn tới sự cạnh tranh không
lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Trên nguyên tắc, Nhà nước có vai trò là
người trọng tài, không được thiên vị. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế
GTGT khi được thực hiện đầy đủ tới mọi đối tượng nộp thuế sẽ tạo ra sự
công bằng bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Tóm lại, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là sự cần thiết khách quan
trong quản lý Nhà nước. Thực hiện kiểm soát được các nguồn thu Thuế
GTGT vào NSNN đồng nghĩa với việc góp phần thực hiện thành công
18
chính sách tài chính, đồng thời Nhà nước nâng cao tính pháp chế, tính
quyền lực của mình trong các hoạt động kinh tế. Mặc dù vậy, kiểm soát
nguồn thu Thuế GTGT khi không được thực hiện tốt có thể đưa đến những
tác hại khôn lường, gây thiệt hại về kinh tế và tạo ra thói quen bỏ qua Luật
pháp, lách Luật của các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2.2.2 - Những mục tiêu cơ bản của kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT:
Thứ nhất, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp
phải tập trung, huy động đầy đủ số thu cho NSNN. Đây là mục tiêu chủ yếu
vì với mục tiêu này, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT mới thể hiện đầy đủ
vai trò của nó trong việc quản lý nguồn thu NSNN từ các doanh nghiệp.
Thứ hai, tăng cường ý thức nghiêm chỉnh chấp hành Luật thuế và
nâng cao ý thức pháp luật nói chung cho các doanh nghiệp. Mục tiêu này
có tính chất thường xuyên, lâu dài và tác động tới ý thức, tư tưởng của các
doanh nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này thì Kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh các quy định của quá
trình kiểm tra, kiểm soát.
Thứ ba, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp phải
phát huy tốt nhất vai trò của thuế GTGT trong nền kinh tế. Đây không chỉ
là mục tiêu chung của chính sách thuế mà còn là mục tiêu cụ thể của Kiểm
soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. Bởi vì chất lượng của
Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT tốt thì vai trò thực sự của thuế GTGT mới
được phát huy có hiệu quả trong nền kinh tế.
Để đạt được các mục tiêu trên, yêu cầu đặt ra với Kiểm soát nguồn
thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp là:
Thứ nhất, phải chấp hành và thực hiện đúng Luật Thuế GTGT và
pháp luật có liên quan. Trong việc Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các
doanh nghiệp, hệ thống Luật pháp vừa là căn cứ để thực hiện kiểm tra, đối
19
chiếu, vừa là công cụ trong việc điều chỉnh, xử lý vi phạm của các Doanh
nghiệp . Do vậy, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bám sát vào các
quy định pháp luật và phải thực hiện đúng theo các quy định đó.
Thứ hai, phải tuân thủ quy trình quản lý thu thuế. Việc quản lý
nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp luôn được thực hiện theo quy
trình cụ thể. Kiểm soát là một chức năng của quản lý và tham gia vào tất cả
các giai đoạn của quản lý. Do đó kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT từ các
doanh nghiệp phải tuân thủ theo quy trình quản lý thu thuế.
Thứ ba, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bao quát hết tất cả các
nghiệp vụ phát sinh từ doanh nghiệp. Cụ thể là bao quát về số lượng các
Doanh nghiệp, các loại hoạt động, số Doanh nghiệp trong diện điều tiết của
thuế GTGT.
Thứ tư, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bảo đảm tính công
bằng cho các Doanh nghiệp. Chúng ta đều hiểu rằng việc kiểm soát về thuế
và các nguồn thu đối với Doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc của pháp luật.
Tuy vậy, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không phải vì vậy mà kiểm soát
chặt chẽ Doanh nghiệp này, buông lỏng với Doanh nghiệp khác làm mất
tính công bằng của môi trường pháp luật.
1.2.3 - Nội dung của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh
nghiệp.
Việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thực chất là kiểm tra kế toán
trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp dựa trên quy trình quản lý thu
thuế. Do đó, trước hết chúng ta phải xuất phát từ quy trình quản lý thu thuế.
1.2.3.1. Quy trình quản lý nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh
nghiệp.
Quy trình quản lý thu thuế GTGT của Doanh nghiệp được tiến hành
theo những bước cơ bản sau:
* Đăng ký thuế và cấp mã số thuế
20
Hàng năm trên cơ sở khai đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp,
Cơ quan Thuế tiến hành cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp. Việc quản
lý đối tượng nộp thuế được thực hiện trên cơ sở mạng máy vi tính thống
nhất trong cả nước. Mỗi doanh nghiệp được gắn một mã số duy nhất. Tất
cả các thông tin về doanh nghiệp như ngành nghề kinh doanh, tính chất và
quy mô kinh doanh, địa chỉ, trụ sở... được lưu vào máy tính với file dữ liệu
riêng biệt. Khi cần kiểm tra một doanh nghiệp nào đó thì chỉ cần mở file
theo mã số của doanh nghiệp.
Đây là phương thức hiện đại được áp dụng ở nhiều nước trên thế
giới. Nó cho phép Cơ quan Thuế tiết kiệm được thời gian, công sức trong
công tác quản lý thuế mà vẫn bảo đảm tính chính xác ngay cả trong điều
kiện số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hàng năm tăng rất
nhanh. Phương thức này còn giúp Cơ quan Thuế dễ dàng phát hiện ra
những gian lận trong công tác thu nộp thuế, đặc biệt là thuế GTGT.
* Tính thuế và kê khai thuế
Hiện nay ở nước ta việc tính thuế và kê khai thuế do các doanh
nghiệp tự giác thực hiện, có sự kiểm tra, thanh tra của Cơ quan Thuế. Trên
cơ sở các quy định cụ thể của Luật thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành,
doanh nghiệp tự áp thuế suất và tự tính doanh thu, thu nhập chịu thuế, từ đó
lập ra tờ khai thuế phải nộp. Cơ quan Thuế quy định cụ thể các chỉ tiêu
trong nội dung của tờ khai tương ứng với loại thuế. Đối với mỗi loại thuế
cũng quy định cụ thể kỳ tính thuế, thời hạn lập tờ khai thuế. Đến thời hạn
quy định, doanh nghiệp phải nộp tờ khai cho Cơ quan Thuế.
* Xử lý miễn thuế, giảm thuế và tạm giảm thuế
Đối với các doanh nghiệp thuộc đối tượng được miễn, giảm, tạm
giảm thuế theo Luật thuế, Cơ quan Thuế thực hiện miễn, giảm, tạm giảm
thuế cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã lập đủ hồ sơ và gửi cho Cơ
21
quan Thuế. Quyết định miễn, giảm, tạm giảm thuế phải có đầy đủ nội dung
như thuế suất được giảm, tạm giảm, thời hạn miễn, giảm, tạm giảm thuế
* Tổ chức thu nộp tiền thuế
Trên cơ sở tờ khai đã lập ra, doanh nghiệp phải tự giức nộp thuế vào
Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng. Đối với khâu này, Cơ quan Thuế phối
hợp chặt chẽ, thường xuyên với Kho bạc, ngân hàng trong đó đặt ra quy
chế cho việc luân chuyển chứng từ, sau khi thu thuế giữa ba cơ quan này.
Để tăng hiệu lực của việc nộp thuế, Cơ quan Thuế cũng đưa ra biện pháp
khá mạnh mẽ về kinh tế và hành chính xử lý vi phạm trong trường hợp
doanh nghiệp chậm nộp tiền thuế. Chẳng hạn, doanh nghiệp phải chịu phạt
0,1% trên số tiền thuế chậm nộp trong 1 ngày.
* Hoàn thuế, quyết toán thuế
Việc hoàn thuế được thực hiện với thuế GTGT, doanh nghiệp lập hồ
sơ hoàn thuế theo quy định của Luật thuế gửi kèm với các hoá đơn chứng
từ đến Cơ quan Thuế. Cơ quan Thuế sẽ kiểm tra hồ sơ hoàn thuế và thực
hiện hoàn thuế cho doanh nghiệp.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch, doanh
nghiệp phải lập và gửi quyết toán thuế cho Cơ quan Thuế. Quyết toán thuế
phải có đầy đủ nội dung về số thuế phải nộp, số thuế được hoàn trả, số
thuế đã nộp, số thuế được khấu trừ trong kỳ tới v.v....
Cơ quan Thuế kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của quyết toán thuế và
quyết định số thuế được khấu trừ, số thuế còn phải nộp cho doanh nghiệp.
* Thanh tra thuế
Thanh tra thuế là một trong những nội dung quan trọng của quá trình
kiểm soát nguồn thu thuế. Thanh tra thuế được tiến hành sau những bước
cơ bản trong quá trình thu thuế từ doanh nghiệp như đã trình bày ở trên.
Thực chất thanh tra thuế là kiểm tra việc nộp thuế của doanh nghiệp và
kèm theo việc xử lý vi phạm. Mục đích của thanh tra thuế là:
22
- Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi
phạm Luật thuế như khai man thuế, nợ đọng thuế, chiếm dụng tiền thuế,
hạn chế mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước.
- Bảo đảm nâng cao ý thức chấp hành Luật thuế cho các doanh
nghiệp và cho người thi hành công vụ trong ngành Thuế.
- Phát hiện những nội dung không phù hợp của Luật thuế với thực
tiễn đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, các vấn đề nghiệp vụ trong công
tác thu thuế, những điều không hợp lý của công tác tổ chức hệ thống bộ
máy kiểm tra thuế, đề từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ
sung kịp thời nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát thuế một cách chặt chẽ.
Nội dung của thanh tra thuế:
Công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp tập trung vào những
vấn đề cơ bản sau:
- Thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng ký, kê khai nộp
thuế mà cụ thể là:
+ Kê khai về địa điểm, tính chất hành nghề, mặt hàng kinh doanh.
+ Kê khai tình hình vốn và tài sản, doanh thu, chi phí và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Kê khai việc sử dụng hình thức sổ sách kế toán, phương pháp hạch
toán.
+ Kê khai về tài khoản giao dịch.
- Thanh tra việc chấp hành thống kê - kế toán, hoá đơn, chứng từ
theo pháp luật hiện hành.
- Thanh tra việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Với những quốc gia thực hiện quy trình quản lý thu thuế trên cơ sở
tự nguyện, tự giác của các doanh nghiệp thì thanh tra thuế đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong kiểm soát nguồn thu từ thuế. Có thể nói rằng công
23
tác thanh tra thuế là một hoạt động rất đặc trưng của công tác kiểm soát
nguồn thu ngân sách Nhà nước từ các doanh nghiệp.
1.2.3.2 Tổ chức bộ máy kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ doanh
nghiệp
Gắn liền với quy trình quản lý thu thuế là việc tổ chức một bộ máy
chuyên trách thực hiện kiểm soát nguồn thu thuế GTGT mà chủ yếu là bộ
máy ngành Thuế. Bên cạnh đó, do việc thu thuế được thực hiện trên nhiều
mặt hàng khác nhau, nhiều đối tượng khác nhau nên có liên quan đến nhiều
bộ, ngành khác nhau. Đó là các cơ quan sau:
- Bộ chủ quản của doanh nghiệp.
- Cơ quan Hải quan (liên quan đến việc thu thuế đối với hàng hoá
nhập khẩu)
- Kho bạc và ngân hàng: là những cơ quan trực tiếp thu nộp tiền thuế
của doanh nghiệp.
Để kiểm soát các nguồn thu thuế GTGT một cách chặt chẽ, các cơ
quan trên phải có sự phối hợp đồng bộ với ngành thuế theo chức năng
nhiệm vụ và quyền hạn của mình, tránh sự chồng chéo, gây khó khăn cho
các doanh nghiệp. Riêng đối với bộ máy ngành thuế phải được tổ chức gọn
nhẹ phải bao quát hết các đối tượng nộp thuế cũng như các nguồn thu khác
nhau từ doanh nghiệp. Để thực hiện được yêu cầu này, Nhà nước cần phải
có một hệ thống pháp luật về thuế có hiệu lực, dễ thực hiện và Nhà nước
cần đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, nhất là công nghệ thông tin.
Hiện nay ở nước ta, bộ máy quản lý thu thuế được tổ chức theo mô
hình sau:
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp quốc doanh.
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu nước
ngoài.
24
- Bộ phận tính thuế và thông báo thuế.
1.2.3.3- Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thông qua kiểm tra thực
trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT quan tâm đến doanh thu bán hàng
(liên quan đến thuế đầu ra) và chi phí mua hàng (liên quan đến thuế đầu
vào). Đối với doanh thu và chi phí, phải kiểm soát cả thực trạng hoạt động
tài chính và kiểm soát tài liêụ kế toán của doanh nghiệp. Đối với thực trạng
hoạt động tài chính, việc kiểm soát tập trung vào việc phản ánh các giao
dịch mua, bán trên các tài liệu kế toán , chủ yếu là các hoá đơn mua, bán
hàng hoá, dịch vụ. Quan tâm một cách đầy dủ đến thực trạng hoạt động tài
chính của các doanh nghiệp, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không những
phát hiện các hiện tượng trốn thuế (không phản ánh vào tài liệu kế toán),
những nhầm lẫn, những sai phạm không cố ý của Doanh nghiệp trong việc
phản ánh doanh thu, lãi, lỗ và số thuế phải nộp, để thực hiện thu đúng, thu
đủ mà còn cung cấp thông tin cho việc quản lý nguồn thu ngân sách nhà
nước để từ đó Nhà nước có chính sách thực tế hơn trong việc nuôi dưỡng,
phát triển các nguồn thu, tránh tình trạng các doanh nghiệp phải gánh chịu
những khoản thuế nặng nề ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Trong việc kiểm soát tài liệu kế toán, các tài liệu cần thiết đối với
kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là:
- Các tài liệu hoạch toán ban đầu, hay còn gọi là chứng từ gốc. Đó là
các hoá đơn mua bán hàng hoá, dịch vụ.
- Các bảng kê, bảng tổng hợp chứng từ kế toán.
- Các sổ tổng hợp và chi tiết kế toán.
- Các bảng cân đối, tổng hợp kế toán.
- Các biên bản xử lý, thanh lý tài sản, vốn, vật tư, hàng hoá v.v...
25
Trong việc kiểm soát thu thuế đối với doanh nghiệp, các tài liệu kế
toán đóng vai trò rất quan trọng. Đối với thuế GTGT, các chứng từ hạch
toán ban đầu là quan trọng nhất vì nó chỉ ra số thuế doanh nghiệp phải nộp
cũng như số thuế được khấu trừ. Do vậy, nội dung việc kiểm tra tập trung
vào tính hiện thực của tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm tra tính hợp pháp
của các biểu mẫu, trình tự lập và luân chuyển chứng từ, kiểm tra tính hợp lý
của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh sẽ cho biết chất lượng của công tác kế
toán và việc chấp hành các quy định, thể lệ của pháp luật về kế toán tài
chính. Việc vi phạm hai nội dung này sẽ gây khó khăn cho công tác kiểm
tra, kiểm soát việc tính thuế, kê khai của doanh nghiệp.
Các phương pháp kiểm soát nguồn thu thuế GTGT.
Với những đối tượng kiểm soát khá rộng, việc kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT có nhiều phương pháp khác nhau, trong đó sử dụng cả hai
phương pháp là phương pháp kiểm soát trên chứng từ và phương pháp
kiểm soát ngoài chứng từ.
Đối với các phương pháp kiểm soát chứng từ, phương pháp cân đối
rất hay được sử dụng trong kiểm tra tính thuế và kê khai thuế của các
doanh nghiệp khi kiểm tra doanh thu, thu nhập và tính toán kết quả kinh
doanh. Phương pháp đối chiếu trực tiếp được sử dụng tương đối phổ biến
trong kiểm tra chứng từ để tính thuế, để đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu
năm hoặc giữa các kỳ về các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, thuế phải nộp để
phát hiện sự biến động bất thường trong các chỉ tiêu đó. Phương pháp đối
chiếu logic cũng được sử dụng để phát hiện những mâu thuẫn trong việc
tính thuế, kê khai thuế của doanh nghiệp.
Bên cạnh phương pháp kiểm soát chứng từ, kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT còn sử dụng các phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ. Phương
pháp kiểm kê được sử dụng để phát hiện các chứng từ khống, hoặc doanh
thu bán hàng chưa lập chứng từ, hoá đơn đầy đủ. Do vậy, nó được sử dụng
26
trong việc kiểm soát kê khai thuế GTGT của doanh nghiệp. Ngoài ra,
phương pháp điều tra cũng được sử dụng khi có những biểu hiện bất
thường của các chỉ tiêu kê khai thuế của doanh nghiệp, hoặc khi có các đơn
từ tố cáo.
Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, chúng
ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau và trong quá trình kiểm
tra, kiểm soát cần vận dụng kết hợp giữa các phương pháp một cách linh
hoạt.
1.3/ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIỂM SOÁT THUẾ
GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP.
Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp là một hoạt
động quản lý Nhà nước về kinh tế. Do vậy, nó mang ý nghĩa áp đặt tư
tưởng, ý chí của giai cấp thống trị mà đại diện là nhà nước. Ngược lại,
doanh nghiệp lại có những mục tiêu hoạt động riêng, đó là lợi nhuận, sự an
toàn để tồn tại và phát triển.
Giải quyết mâu thuẫn giữa những mục tiêu khác nhau đó là một nội
dung vô cùng quan trọng của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Để đạt được
mục tiêu đã đặt ra, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải được thực hiện
trong những điều kiện nhất định.
1.3.1 - Tác động của ý thức xã hội đối với việc chấp hành Luật
pháp Nhà nước.
Ý thức xã hội là một điều kiện rất quan trọng đối với việc thực thi
pháp luật nói chung và với kiểm soát nguồn thu ngân sách nhà nước nói
riêng. Trong một xã hội có nhiều hiện tượng tiêu cực, pháp luật không có
hiệu lực thì việc chấp hành các Luật thuế của Nhà nước không thể đầy đủ
và nghiêm túc. Ngược lại, khi công chúng tự giác chấp hành pháp luật thì
các doanh nghiệp sẽ có ý thức hơn khi đóng góp thuế và các nghĩa vụ tài
chính khác cho Nhà nước. Ý thức xã hội có tác động mạnh nhất đến tư
tưởng cán bộ công vụ thực hiện kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các
27
doanh nghiệp, đó chính là yếu tố con người. Trong đó kiểm soát thu thuế
là vấn đề rất nhạy cảm và không thể có vấn đề tuyệt đối hoá vấn đề con
người trong công vụ ngay cả ở những nước phát triển. Để khắc phục hiện
tượng này, chỉ có tính chặt chẽ của hệ thống Luật pháp, một quy trình quản
lý thu thuế hiện đại và sự tiến bộ trong công nghệ thông tin mới có thể giải
quyết được.
1.3.2 - Tác động của hệ thống Luật pháp
Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, tính
chặt chẽ, hợp lý của hệ thống Luật pháp có vai trò vô cùng quan trọng.
Một hệ thống Luật lý tưởng là một hệ thống Luật bao quát mọi vấn đề, mọi
quan hệ kinh tế phát sinh trong nền kinh tế, thực hiện các quy Luật kinh tế
và bảo đảm để thực hiện. Nếu không đáp ứng các yêu cầu trên sẽ gây khó
khăn cho các doanh nghiệp và cho cả người thực hiện công vụ. Chính vì
vậy, không những thực thi Luật pháp mà kiểm soát nguồn thu thuế GTGT
còn phải cung cấp thông tin về thực trạng các doanh nghiệp để Nhà nước
hoàn thiện hơn nữa hệ thống Luật thuế.
1.3.3 - Ảnh hưởng của hệ thống kiểm toán nội bộ
Theo khái niệm về kiểm toán nội bộ trong cuốn Kiểm toán nội bộ
hiện đại của V. Brink và H.Witt thì :
Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập
bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức
đó, với tư cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó.
Trong doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm xem
xét lại một cách định kỳ các biện pháp mà Ban giám đốc và các cơ quan
quản lý Nhà nước áp dụng để quản lý và kiểm soát doanh nghiệp. Các mục
tiêu chính của kiểm toán nội bộ trong khuôn khổ xem xét định kỳ là kiểm
tra các thủ tục có đủ độ an toàn và các thông tin có trung thực, tin cậy hay
28
không, các nghiệp vụ có hợp thức, tổ chức hoạt động có hiệu quả, cơ cấu
có rõ ràng và thích hợp với hoạt động kinh doanh, với chế độ kế toán hay
không. Kiểm toán nội bộ có ba chức năng: kiểm tra, xác nhận và đánh giá.
Phạm vi kiểm tra, xác nhận và đánh giá của kiểm toán nội bộ bao gồm:
- Độ tin cậy của thông tin tài chính kế toán do kế toán tổng hợp, xử
lý và trình bày.
- Tính tuân thủ Luật pháp và các quy chế, các quy định của Nhà
nước, các quy định của bản thân doanh nghiệp.
- Tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp.
- Tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế và việc sử dụng các nguồn
lực, lựa chọn các phương án, các quyết định kinh tế.
Với các chức năng trên, hệ thống kiểm toán nội bộ là đầu mối thu
thập, xử lý, phân tích, tổng hợp tất cả các thông tin, nhất là các bảng công
bố tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ
doanh nghiệp cần phải thông qua kiểm toán nội bộ để xác định một cách
đầy đủ các thông tin phục vụ cho việc tính thuế, kê khai thuế của doanh
nghiệp. Hơn nữa kiểm toán nội bộ cũng giúp cho việc kiểm soát thuế được
nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm thời gian hơn. Tuy vậy, những thông tin
từ hệ thống kiểm toán nội bộ là những thông tin thứ cấp. Nghĩa là đã được
xử lý trước khi cung cấp cho cơ quan quản lý Nhà nước.
1.3.4 - Cơ sở vật chất kỹ thuật
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các giao dịch kinh tế là vô
cùng lớn. Về nguyên tắc, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải kiểm soát
được tất cả các giao dịch này. Vì vậy một yêu cầu vô cùng quan trọng là
cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là công nghệ thu thập và xử lý thông tin phải
đủ mạnh để trang bị cho kiểm soát nguồn thu ngân sách nhà nước. Đặc biệt,
cần kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, Kho bạc và hệ
29
thống ngân hàng với bộ máy ngành Thuế. Với hệ thống thông tin này,
kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp sẽ được thực hiện
nhanh chóng, bảo đảm chống gian lận trong việc nộp thuế và các nguồn thu
khác từ doanh nghiệp.
Tóm lại, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp là một
nhu cầu tất yếu của quản lý nhà nước về kinh tế. Việc kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT từ các doanh nghiệp phải tuân thủ chặt chẽ quy trình kiểm tra,
kiểm soát nói chung và quy trình quản lí thu thuế nói riêng, từ kiểm soát
việc đăng ký, kê khai cho đến việc nộp tiền thuế vào ngân sách Nhà nước.
Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp có đối tượng riêng,
mục đích, yêu cầu riêng và có những phương pháp riêng. Song để thực hiện
có hiệu quả kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, Nhà
nước cần phải tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho Ngành thuế.
Mặt khác, những điều kiện về kinh tế - xã hội có những tác động nhiều
chiều, hoặc tích cực, hoặc tiêu cực đến kiểm soát nguồn thu ngân sách nhà
nước từ các doanh nghiệp. Do vậy, hệ thống Luật pháp của Nhà nước cần
phải thực sự chặt chẽ và có hiệu lực.
30
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT
TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI
2.1/ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI LUẬT THUẾ GTGT VỚI KIỂM SOÁT
NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN HÀ NỘI.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với khu vực và quốc tế. Để
có chính sách thuế phù hợp với thông lệ quốc tế và cơ chế thị trường, Việt
Nam đã tiến hành cải cách hệ thống và chính sách thuế. Ngày 10/05/1997,
Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 đã thông qua 2 Luật thuế mới: Luật Thuế
GTGT và Luật Thuế TNDN và được áp dụng từ ngày 01/01/1999.
Qua 2 năm thực hiện Luật thuế mới, Luật Thuế GTGT đã tỏ ra có
hiệu quả trong việc kích thích sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển sản
xuất, giúp cho việc ổn định và tăng trưởng nguồn thu vào NSNN. Tuy
nhiên, qua thực hiện, có nhiều điểm trong Luật Thuế còn bất cập, không
phù hợp với tình hình thực tế. Đã có quá nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung,
điều này đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cho các nhà quản lý. Vì
vậy, ngày 29/12/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2000/NĐ-
CP hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật thuế GTGT, thực hiện từ 1/1/2001.
Nghị định này ban hành thay thế các nghị định hướng dẫn về thuế GTGT
của Chính phủ đã ban hành trước đây. Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư
số 122/2000/ TT - BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định
này. Thông tư này thay thế các thông tư hướng dẫn về thuế GTGT của Bộ
Tài chính đã ban hành trước đây.
Để thực hiện tốt luật thuế mới trên địa bàn Thành phố Hà Nội,
UBND Thành phố Hà Nội đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện các Luật thuế
mới bao gồm lãnh đạo các sở, ban, ngành chức năng nhằm tập trung chỉ
đạo tổ chức thực hiện từ ngày 1/1/1999. Công tác chuẩn bị được thực hiện
tương đối tốt. Cục Thuế Hà Nội đã mở nhiều lớp tập huấn quy trình quản lý
thuế, chế độ kế toán và việc sử dụng Hoá đơn theo Luật thuế GTGT. Đồng
31
thời, các doanh nghiệp cũng đã mua Hoá đơn mới để chuẩn bị sử dụng vào
ngày 1/1/1999. Đến 31/12/1998 đã có 75% số doanh nghiệp mua Hoá đơn
GTGT, số còn lại tiếp tục mua vào quý 1/1999.
Bên cạnh việc mở các lớp tập huấn, Cục Thuế Hà Nội đã phối hợp
với các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền phổ biến các Luật thuế
mới, đặc biệt là Luật thuế GTGT và việc sử dụng Hoá đơn GTGT cho các
đối tượng nộp thuế. Cục Thuế Hà Nội cũng đã phối hợp với Đài phát thanh
và truyền hình Hà Nội thực hiện chuyên mục thuế để tuyên truyền những
nội dung cơ bản của Luật Thuế GTGT, giải đáp các khó khăn, vướng mắc
trong việc sử dụng Hoá đơn, chứng từ mới và kê khai thuế, nộp thuế.
Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc triển khai Luật Thuế
GTGT và vai trò của mình, Cục Thuế Hà nội đã thực hiện kiện toàn bộ máy
tổ chức, xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng phòng,
ban.
Cơ cấu tổ chức bộ máy Cục Thuế Hà Nội từ khi thực hiện Luật Thuế
GTGT như sau:
Sơ đồ 1 : CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY CỤC THUẾ HÀ NỘI SAU KHI TRIỂN
KHAI THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GTGT.
- Phòng nghiệp vụ
- Phòng ấn chỉ
- Phòng Trước bạ
- Phòng máy tính
- Phòng Tài vụ
- Phòng Hành chính
Phòng Thanh
tra, xử lý tố
tụng
Các phòng
Quản lý thu
quốc doanh
Các phòng
Quản lý thu
Ngoài quốc
doanh
Phòng Kế hoạch Các Cục Phó Phòng Tổ chức
Cán bộ
Cục trưởng Cục Thuế
T.P. Hà Nội
32
- Các Phòng Quản lý thu: bao gồm các Phòng quản lý thu các doanh
nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp
Ngoài quốc doanh...Các phòng này có nhiệm vụ :
+ Quản lý đối tượng nộp thuế: theo dõi tình hình biến động về đối
tượng nộp thuế trên lĩnh vực, địa bàn quản lý như: nắm số doanh nghiệp
phát sinh, doanh nghiệp phá sản, giải thể, sáp nhập, liên doanh, liên kết...
Phân tích tình hình thu nộp, tham gia việc lập dự toán thu, khai thác nguồn
thu trong lĩnh vực được giao quản lý, tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Cục
các biện pháp quản lý thuế.
+ Hướng dẫn đối tượng nộp thuế các thủ tục kê khai đăng ký thuế, kê
khai thuế, lập hồ sơ miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế...
giải đáp các thắc mắc của đối tượng nộp thuế liên quan đến việc tính thuế,
thu nộp thuế, lập và tổ chức lưu giữ hồ sơ các doanh nghiệp.
+ Thực hiện việc kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên các tờ khai đăng
ký kinh doanh, kê khai nộp thuế, hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, hoàn
thuế và quyết toán thuế, liên hệ với đối tượng nộp thuế để chỉnh sửa việc kê
khai theo đúng quy định.
+ Đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo Cục giải quyết các trường hợp
miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế; lập các thủ tục xét miễn, giảm, hoàn thuế
theo quy định; kiểm tra hồ sơ quyết toán thuế, xác định số thuế quyết toán
từng doanh nghiệp; cung cấp các thông tin trên cho bộ phận tính thuế.
+ Thực hiện việc ấn định thuế cho các đối tượng nộp thuế không nộp
hoặc chậm nộp tờ khai thuế; xác định các đối tượng nộp thuế cần phát hành
lệnh thu hoặc phạt hành chính thuế.
+ Theo dõi tình hình nộp thuế của các doanh nghiệp và đôn đốc, nhắc
nhở các doanh nghiệp nộp đúng hạn...
- Phòng Kế hoạch - Kế toán - Thống kê và Máy tính có nhiệm vụ:
33
+ Căn cứ số liệu tình hình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương,
phân tích số liệu thống kê thuế để lập dự toán thu hàng năm của đơn vị;
phân bổ kế hoạch và theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch.
+ Thực hiện nhập tờ khai đăng ký thuế và quản lý hệ thống cấp mã số
đối tượng nộp thuế, in giấy chứng nhận đăng ký thuế.
+ Xử lý tính thuế, tính nợ, tính phạt nộp chậm, nhận giấy nộp tiền từ
Kho bạc, chấm nợ; nhận các kết quả xét miễn, giảm, hoàn thuế, quyết toán
thuế và các kết quả thanh tra, kiểm tra từ các Phòng Quản lý thu và Phòng
Thanh tra - xử lý tố tụng để tính điều chỉnh số thuế phải nộp của từng đối
tượng nộp thuế.
+ Thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế theo chế độ quy định,
kiểm tra đối chiếu số thu với Kho bạc.
- Phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng:
+ Kiểm tra phát hiện các đối tượng có hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ nhưng không kê khai đăng ký nộp thuế để đưa vào diện
quản lý thu thuế.
+ Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra trình lãnh đạo Cục duyệt, tổ chức
lực lượng kiểm tra và tiến hành kiểm tra các đối tượng cần kiểm tra về hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, kiểm tra sổ sách kế toán, Hoá đơn
chứng từ mua bán hàng hoá, phát hiện kịp thời các hành vi khai man, trốn
lậu thuế, đề xuất các hình thức xử lý theo pháp luật.
+ Hỗ trợ các Phòng Quản lý thu để quản lý, đôn đốc thu nộp và thực
hiện các biện pháp cưỡng chế thu đối với những đối tượng cố tình vi phạm
Luật thuế.
+Kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý thu và tính thuế
của các bộ phận trong Cơ quan Thuế để kịp thời chấn chỉnh những sai sót.
Để chuẩn bị cho việc thực hiện Luật Thuế GTGT, Tổng cục Thuế đã
ban hành Quyết định số 1368/TCT-QĐ-TCCB ngày 16/12/1998 về quy
34
trình quản lý thu thuế. Các bộ phận trên sẽ phối hợp đồng bộ để kiểm soát
thu thuế theo 5 Quy trình cụ thể là:
- Quy trình đăng ký thuế và cấp mã số thuế.
- Quy trình xử lý tờ khai, chứng từ nộp thuế,
- Quy trình xử lý hoàn thuế,
- Quy trình xử lý miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế,
- Quy trình xử lý quyết toán thuế.
Các quy trình trên có thể tóm tắt bằng sơ đồ 2:
Sơ đồ số 2 : QUY TRÌNH KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ.
(3)
(4)
(3) (4) (5) (1)+(2) (2)
(5)
(1)+(2)
(2)
(3)
(4)
(4) (1)+(2)
(2)+(4)
Kho bạc
Ngân hàng
Doanh nghiệp
PHÒNG HÀNH CHÀNH
Các Phòng
quản lý thu thuế
Phòng Thanh tra,
xử lý tố tụng
- Phòng Kế hoạch-Kế toán
- Thống kê
- Phòng máy tính
Phòng
nghiệp vụ
35
(1) Đăng ký, cấp mã số thuế, doanh nghiệp nộp tờ khai
(2) Xử lý tờ khai, chứng từ nộp thuế, thông báo thuế, miễn thuế, giảm thuế,
tạm giảm thuế
(3) Doanh nghiệp nộp thuế
(4) Hoàn thuế.
(5) Quyết toán thuế.
Quy trình quản lý thu thuế này hoàn toàn trên cơ sở các doanh
nghiệp tự đăng ký, kê khai và nộp thuế vào Kho bạc.
- Đăng ký và cấp mã số thuế : Doanh nghiệp nộp hồ sơ bao gồm
quyết định thành lập, đăng ký kinh doanh, trong đó kê khai rõ tên, địa chỉ
kinh doanh, lọai hình doanh nghiệp, các hoạt động kinh doanh, các mặt
hàng kinh doanh, tài khoản giao dịch ở ngân hàng... cho Phòng Hành chính.
Hồ sơ này sẽ được Các phòng Quản lý thu thuế kiểm tra, xác minh. Sau khi
kiểm tra hồ sơ đăng ký mã số thuế, Phòng quản lý thu sẽ chuyển hồ sơ cho
bộ phận Máy tính để cấp mã số thuế cho doanh nghiệp.
- Kê khai thuế, nộp thuế : Hàng tháng, doanh nghiệp phải kê khai
doanh thu, thuế GTGT đầu ra, giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào, thuế
GTGT đầu vào, tự tính thuế phải nộp, gửi tờ khai cho Cục Thuế qua Phòng
Hành chính. Các phòng Quản lý thu sẽ kiểm tra tờ khai và chuyển cho
Phòng Máy tính để hạch toán số thuế phải nộp của doanh nghiệp và ra
thông báo thuế gửi cho Doanh nghiệp qua Phòng Hành chính. Trong quá
trình xử lý tờ khai, nếu có dấu hiệu nghi vấn, phòng Quản lý thu sẽ phối
hợp với Phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng để xác minh chính xác số thuế
phải nộp.
Trên cơ sở Thông báo Thuế, doanh nghiệp tự giác lập giấy nộp tiền
vào NSNN và chuyển tiền đến Kho bạc Nhà nước để nộp thuế.
- Miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế : Trên cơ sở các quy định của
Luật Thuế GTGT và các Luật có liên quan, doanh nghiệp có thể được miễn
thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp phải
gửi đầy đủ hồ sơ đến Cục Thuế để Cục Thuế xem xét, quyết định. Đối với
các doanh nghiệp đã gửi hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm
36
thuế, Phòng Quản lý thu phối hợp với Phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng để
xác minh và trình Lãnh đạo Cục Thuế quyết định.
- Hoàn thuế : Các doanh nghiệp sẽ được hoàn thuế nếu như số thuế
GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra. Nếu doanh
nghiệp có những dấu hiệu vi phạm trong quá trình hoàn thuế, Phòng Quản
lý thu phải phối hợp với phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng để xác minh lại.
Trong trường hợp doanh nghiệp được hoàn thuế, Phòng Quản lý thu thuế
sẽ phối hợp với Phòng Nghiệp vụ để trình Lãnh đạo Cục thuế Quyết định
hoàn thuế cho doanh nghiệp. Quyết định hoàn thuế được gửi cho doanh
nghiệp và Kho bạc để chuyển trả lại tiền thuế cho doanh nghiệp.
- Quyết toán thuế: Hàng năm, căn cứ vào quyết toán thuế GTGT và
báo cáo tài chính của Doanh nghiệp, cục Thuế Hà nội tiến hành kiểm tra
việc chấp hành luật thuế tại đơn vị. Việc quyết toán thuế hàng năm chính là
một hoạt động kiểm soát của Nhà nước thông qua cơ quan quản lí là Cục
thuế nhằm kiểm soát chặt chẽ các nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, nhất
là nguồn thu từ thuế GTGT.
2.2/ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ
GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP THEO QUY TRÌNH QUẢN LÝ
THUẾ.
2.2.1 - Tác động của Quy trình quản lý thuế đối với Kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT.
Sau 2 năm triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT, thực tế đã chứng
minh Luật Thuế GTGT đã đi vào thực tiễn cuộc sống. Công chúng và các
doanh nghiệp đã tạo được thói quen tính toán hiệu quả kinh tế cũng như sử
dụng Hoá đơn, chứng từ trên cơ sở của Thuế GTGT. Đồng thời, thực tế
cũng đã chứng minh: Thuế GTGT là loại thuế có tính khoa học, chuyên
môn hoá cao, có tác dụng kích thích mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, đầu tư
và tạo điều kiện thuận lợi đối với công tác quản lý Nhà nước về kinh tế. Có
thể thấy tác dụng của Luật Thuế GTGT trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá
phát sinh trong quá trình luân chyển từ sản xuất đến tiêu dùng nên đã loại
37
bỏ triệt để tính trùng lắp, thuế trùng lên thuế của thuế doanh thu trước đây.
Điều đó thể hiện tính khoa học của thuế GTGT và tạo điều kiện thuận lợi
để thuế GTGT được các doanh nghiệp chấp nhận, ủng hộ.
Thứ hai, Luật Thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất
nhập khẩu. Đối với hoạt động nhập khẩu, thuế GTGT đánh vào hàng nhập
khẩu (điều mà thuế doanh thu không thực hiện được) đã tạo ra ba khả năng
quan trọng: (1) góp phần khuyến khích và bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa;
(2) cho phép có thể giảm thuế nhập khẩu, thúc đẩy tiến trình Việt nam hội
nhập kinh tế với Thế giới mà trước mắt là khối ASEAN; (3) góp phần
chuyển dịch cơ cấu thuế theo hướng nội địa hoá.
Đối với hoạt động xuất khẩu, Luật Thuế GTGT đã khuyến khích
mạnh mẽ hàng xuất khẩu. Với thuế suất 0% cho hàng hoá xuất khẩu, toàn
bộ thuế GTGT đầu vào được hoàn trả cho doanh nghịêp xuất khẩu. Thực
chất đây là một biện pháp trợ giá cho các Doanh nghiệp xuất khẩu nên đã
giúp các doanh nghiệp tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu
và có lợi thế do giảm được giá vốn hàng xuất khẩu, nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đó là một động lực mạnh mẽ đối với
hoạt động xuất khẩu mà không một sắc thuế nào có thể tạo ra. Vì thế năm
1999, năm đầu tiên thực hiện Luật Thuế GTGT, khoảng 1.720 tỷ đồng thuế
GTGT đã được hoàn trả cho các đơn vị xuất khẩu, góp phần quan trọng
thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng 23,8%, gấp gần 4 lần chỉ tiêu do Quốc
hội đề ra.
Thứ ba, Luật Thuế GTGT khuyến khích mạnh mẽ việc đầu tư tài sản
cố định, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá
thành sản xuất. Theo Luật Thuế GTGT, thiết bị máy móc, phương tiện vận
tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc
loại trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu thì không thuộc diện
chịu thuế GTGT. Ngoài ra, toàn bộ thuế GTGT của công trình xây dựng
được khấu trừ hoặc hoàn trả mà không cấu thành nguyên giá công trình.
Đồng thời, kể từ ngày 1/9/1999, hoạt động xây dựng và lắp đặt được giảm
thuế suất từ 10% xuống 5%. Tất cả những điều đó đã tạo điều kiện giảm
38
giá thành xây dựng, lắp đặt, từ đó làm giảm chi phí khấu hao tài sản cố
định trong giá thành sản phẩm.
Thứ tư, Luật Thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho việc phản ảnh
trung thực tình trạng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, giải quyết mối
quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp một cách khách quan, công bằng.
Cơ chế vận hành của thuế GTGT là lấy thuế đầu ra trừ đi số thuế đầu vào
trong cùng kỳ. Thuế đầu ra phản ánh doanh thu, thuế đầu vào phản ánh giá
trị tài sản, vật tư, dịch vụ mua trong kỳ. Nếu Doanh nghiệp không tạo được
thêm GTGT trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì không phải nộp thuế.
Điều này giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện để phục hồi, phát triển
sản xuất.
Thứ năm, Luật Thuế GTGT tạo điều kiện cho công tác quản lý Nhà
nước về kinh tế, thể hiện trên 2 mặt: Một là, Luật Thuế GTGT giúp tăng
cường chế độ hạch toán kế toán tại các Doanh nghiệp. Việc tính thuế được
thực hiện trên hoá đơn bán hàng và mua hàng, vì thế các Doanh nghiệp
ngày càng chú trọng hơn công tác kế toán nhằm hạch toán một cách chính
xác giá trị vật tư, hàng hoá, dịch vụ đầu vào, tiết kiệm chi phí, tránh được
những chi phí khống, giúp sản xuất có hiệu quả hơn. Đồng thời các doanh
nghiệp cũng thực hiện lưu giữ, bảo quản tốt sổ sách, hoá đơn, chứng từ.
Hai là, Luật Thuế GTGT tạo tiềm năng chống trốn thuế. Với phương pháp
hành thu liên hoàn làm cho Luật thuế chặt chẽ và tạo cơ chế tự kiểm soát
giữa những người nộp thuế, từ đó, để được khấu trừ thuế, những người mua
hàng đều phải cần đến hoá đơn GTGT, buộc người bán phải xuất hoá đơn,
loại bỏ hiện tượng giấu doanh thu như đã từng gặp đối với thuế doanh thu
trước đây. Qua đó, bảo đảm công bằng giữa các Doanh nghiệp trong việc
thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN.
Những tác động tích cực của Luật Thuế GTGT có thể phát huy được,
một phần quan trọng phụ thuộc vào việc xây dựng được một quy trình quản
lý thu thuế một cách khoa học. Quá trình thực hiện Luật Thuế GTGT đã
cho thấy quy trình quản lý thu thuế mới đã cải cách công tác hành thu, nâng
cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế, đóng góp không nhỏ vào công cuộc
39
cải cách thuế bước 2, góp phần giúp cho Nhà nước kiểm soát chặt chẽ được
nguồn thu thuế GTGT.
Về thủ tục hành chính thuế, có thể nói từ khi triển khai Luật Thuế
GTGT và thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới, thủ tục hành chính thuế
đã được cải cách một bước rất đáng kể. Thông qua việc quy định các doanh
nghiệp tự tính thuế, tự kê khai và nộp thuế đã khơi dậy được ý thức trách
nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Mặt khác, phát huy được chức
năng, quyền hạn của Cơ quan Thuế trong việc hành thu theo chức năng
Nhà nước quy định, từng bước xoá bỏ chế độ chuyên quản thuế. Ngoài ra,
việc ra thông báo thuế đã giúp cho các doanh nghiệp nâng cao ý thức trách
nhiệm trong việc nộp thuế đầy đủ và đúng kỳ hạn, giảm được tình trạng
dây dưa, nợ đọng thuế, từ đó giúp cho Cơ quan Thuế quản lý tốt nguồn thu
phát sinh, kiểm soát chặt chẽ nguồn thu thuế GTGT.
Đặc biệt, Cục Thuế Hà Nội đã chú trọng tới kiểm tra, kiểm soát việc
đăng ký, cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp, việc kê khai thuế, tăng
cường việc xác minh, xử lý hoá đơn, xác định chính xác thuế suất các mặt
hàng, xác định số thuế phải nộp của các doanh nghiệp. Từ khi áp dụng quy
trình quản lý thu thuế mới, hầu hết các doanh nghiệp đã có ý thức tự giác
chấp hành Luật Thuế và việc nộp thuế đầy đủ, đúng kỳ hạn đã trở thành
một mối quan tâm thường xuyên đối với các doanh nghiệp. Tất cả những
điều đó đã đem lại kết quả đáng kể trong việc huy động nguồn thu vào
NSNN. Kết quả cụ thể được thể hiện trên bảng 1.
40
Bảng 1: KẾT QUẢ THU NSNN VÀ THU THUẾ GTGT TRÊN ĐIẠ BÀN HÀ
NỘI TRONG NHỮNG NĂM QUA:
Đơn vị : tỷ đồng.
TT Chỉ tiêu
Thực
hiện
1999
Thực
hiện
2000
% so sánh thực hiện 2000
Dự toán
năm 2000
của BTC
Dự toán năm
2000 của
UBNDTP
Thực hiện
1999
1.
2.
3.
4.
Thu từ DNNNTW
Trong đó thuế GTGT
Thu từ các DNĐP
Trong đó: Thuế GTGT
Thu DN có vốn ĐTNN
Trong đó: Thuế GTGT
Thu ngoài quốc doanh
Trong đó: Thuế GTGT
6.244
1.606
289
124
675
321
463
244
7.533
1.192
290
127
789
405
457
227
132,91 %
95,37 %
132,18 %
124,12 %
105,23 %
121,53 %
80,56 %
73,66 %
132,91 %
95,37 %
125,77 %
122,59 %
105,23 %
121,53 %
80,56 %
73,66 %
120,64 %
74,24 %
100,04 %
102,43 %
116,94 %
126,08 %
98,62 %
93,17 %
Tổng cộng:
Trong đó: Thuế GTGT
7.671
2.295
9.069
1.951
118,22 %
97,86 %
125,69 %
97,80 %
118,22 %
85,01 %
Trên địa bàn Thành phố Hà Nội, những kết quả trên đã chứng minh
quy trình quản lý thu thuế cơ bản là phù hợp với tình hình thực tế của địa
bàn và việc thực hiện tốt quy trình quản lý thu thuế là một nhân tố quan
trọng để đạt kết quả đó.
Tóm lại : Việc xác định thuế GTGT dựa trên cơ sở Thuế đầu ra trừ thuế
đầu vào, đã tạo cơ sở cho việc kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của
các doanh nnghiệp, từ đó đã góp phần quan trọng trong kiểm soát nguồn
thu thuế GTGT. Việc xây dựng một quy trình nộp thuế một cách khoa học
hợp lý sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tự
kiểm tra giám sát nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước cũng như giúp cho
Cục Thuế là người thay mặt Nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là
kiểm soát được các nguồn thu và ổn định nguồn thu cho NSNN.
2.2.2 - Những mặt tồn tại của Luật thuế GTGT và quy trình kiểm
soát nguồn thu Thuế GTGT.
41
Việc thực hiện Quy trình quản lý thu thuế mới đã có những tác động
tích cực không thể phủ nhận. Tuy vậy, trong quá trình kiểm soát nguồn thu
Thuế GTGT không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc xuất phát từ
các quy định của Luật Thuế GTGT và bản thân Quy trình quản lý thu thuế.
Những vướng mắc trong Luật Thuế GTGT có thể được khái quát
trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất là việc đánh thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu.
Theo quy trình quản lý thu thuế, người nhập khẩu phải kê khai và
nộp thuế GTGT ngay tại cửa khẩu. Giá tính thuế thuế GTGT hàng nhập
khẩu bằng giá nhập khẩu ( giá CIF) cộng thuế nhập khẩu. Rõ ràng ở khâu
nhập khẩu lại xuất hiện hiện tượng “ thuế chồng lên thuế”.Hơn nữa, giá
nhập khẩu (giá CIF) cộng thuế nhập khẩu của hàng hoá nhập khẩu không
phải là giá trị tăng thêm của hàng hoá. Cơ chế này tạo ra hai tác động tiêu
cực đối với cơ sở sản xuất kinh doanh: Một là, doanh nghiệp nhập khẩu
phải chịu chi phí đầu vào cao hơn, do vậy làm tăng giá thành và với những
cơ sở sản xuất kinh doanh thực sự muốn hạch toán nghiêm túc lỗ, lãi thì
việc đánh thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu có thể triệt tiêu động cơ kinh
doanh của họ. Hai là, việc nộp thuế GTGT đồng thời với thuế nhập khẩu sẽ
gây khó khăn cho doanh nghiệp về vốn, doanh nghiệp phải ứng ngay vốn
trong khi nguyên vật liệu chưa được đưa vào quá trình sản xuất, vốn chưa
luân chuyển. Những tác động này cần phải được khắc phục để tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, có thể dưới hình thức thuế khác
với mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước.
Thứ hai là đối với việc quy định sử dụng hai loại hoá đơn:
Trong quá trình thực hiện Luật Thuế GTGT, Bộ Chính trị đã có chỉ
đạo tại thông báo số 41/TB-TW ngày 12/02/1997 là ‘những người kinh
doanh có nơi sản xuất, có cửa hàng, cửa hiệu cố định đều là đối tượng áp
dụng thuế GTGT, không nên phân biệt hộ kinh doanh lớn, hộ kinh doanh
nhỏ. Những người kinh doanh không có nơi cố định thì áp dụng chế độ
khoán ‘.
42
Căn cứ vào thực tiễn nước ta, căn cứ vào sự chỉ đạo của Bộ chính trị,
Luật Thuế GTGT đã đưa ra 2 phương pháp tính thuế là: phương pháp khấu
trừ thuế và phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu
trừ thuế được áp dụng đối với các doanh nghiệp được thành lập, hoạt động
theo Luật DNNN, Luật đầu tư nước ngoài, Luật công ty, Luật hợp tác xã và
những hộ kinh doanh lớn chấp hành tốt chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT áp dụng chủ yếu đối với những
hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ. Để triển
khai, ứng với 2 phương pháp tính thuế có 2 loại hoá đơn tương ứng là hoá
đơn GTGT ( dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ) và
hoá đơn bán hàng ( dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực
tiếp).
Thực chất của phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp là biện pháp
khoán thuế giống như thuế doanh thu trước đây. Hiện nay, chính sách thuế
đã sửa đổi, cho phép cả hoá đơn GTGT và hoá đơn bán hàng đều được
khấu trừ thuế thì việc quy định sử dụng 2 loại hoá đơn cho 2 đối tượng kinh
doanh khác nhau như hiện nay là không còn phù hợp.
Thứ ba là về thuế suất thuế GTGT.
Chuyển từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 4 mức thuế
suất GTGT ( 0% - 5% - 10% - 20%) được xác định là giai đoạn đầu để dần
tiến tới còn 1 mức thuế suất theo mục tiêu, yêu cầu đơn giản, bình đẳng,
công bằng mà cải cách thuế bước II đã đặt ra. Nếu so với mức thuế doanh
thu trước kia thì với 4 mức thuế suất GTGT là bước tiến lớn trong việc cải
cách chính sách thuế, thể hiện sự tiến bộ và đơn giản của Luật Thuế GTGT.
Tuy nhiên thực tế đặt ra 2 vấn đề cần giải quyết:
Thuế suất được định ra trên cơ sở công dụng, mục đích sử dụng của
hàng hoá, nhưng tiêu chí để phân định mục đích sử dụng của hàng hoá,
dịch vụ là rất phức tạp, dẫn đến tình trạng cùng một mặt hàng nhưng có thể
áp dụng các mức thuế suất khác nhau, chênh lệch nhau. Chẳng hạn, nhiều
sản phẩm không có tiêu thức để phân định là sản phẩm cơ khí tiêu dùng
43
hay cơ khí là tư liệu sản xuất, các loại hoá chất cơ bản và hoá chất thông
thường...
- Việc quy định 4 mức thuế suất với sự chênh lệch tương đối lớn
giữa các mức thuế suất thuế GTGT và thuế doanh thu trước đây, do vậy
nhiều doanh nghiệp trước đây nộp thuế doanh thu thấp, nay nộp thuế
GTGT với mức thuế suất cao hơn, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh
doanh.
Bên cạnh những vướng mắc của Luật Thuế, Quy trình quản lý thu
thuế cũng còn một số hạn chế.
Việc ra thông báo thuế cũng có những bất cập. Hầu hết các văn bản
pháp luật về thuế hiện hành đều quy định: các doanh nghiệp phải nộp theo
số thuế và thời hạn ghi trong thông báo của Cơ quan Thuế, mà không đưa
ra yêu cầu các doanh nghiệp sau khi kê khai thuế phải chủ động, tự giác
nộp đầy đủ số thuế đã kê khai vào Kho bạc Nhà nước theo thời hạn quy
định của Luật thuế. Từ đó tạo ra cho doanh nghiệp có tư tưởng trông chờ
vào thông báo nộp thuế hoặc đổ lỗi chậm nộp do Cơ quan Thuế chậm gửi
thông báo thuế. Bên cạnh đó, thông báo nộp thuế của Cơ quan Thuế vẫn có
những tồn tại, chẳng hạn:
- Số thuế phải nộp trên thông báo thuế không đồng nhất với số thuế
phải nộp trên tờ khai thuế do việc tính toán lại số thuế phải nộp trên máy vi
tính của Cơ quan Thuế hoặc do việc nhập số liệu không kịp thời, không
đồng bộ các loại tờ khai thuế và giấy nộp tiền vào NSNN của doanh
nghiệp. Từ đó dẫn đến tình trạng phản ứng của doanh nghiệp khi nhận
được thông báo thuế.
- Thời điểm gửi tờ thông báo nộp thuế đến doanh nghịêp nhiều khi
còn chậm so với thời hạn nộp thuế được quy định trong các Luật thuế, dẫn
đến các doanh nghiệp nộp chậm thuế, chậm chí còn có trường hợp doanh
nghiệp đôn đốc Cơ quan Thuế gửi thông báo để nộp thuế. Từ đó đã làm
giảm đi tính tích cực, chủ động của doanh nghiệp trong việc nộp thuế.
Việc in ấn, chỉnh sửa số liệu nhiều lần dẫn đến việc ra thông báo nộp
thuế lãng phí nhiều thời gian, công sức, chi phí và kém hiệu quả.
44
Đánh giá một cách chung nhất, trên thực tế quy trình quản lý thu
thuế hiện nay vẫn chưa xoá bỏ được triệt để chế độ chuyên quản thuế. Mặc
dù quy trình quản lý thuế mới quy định cá nhân cán bộ thuế không được
quan hệ trực tiếp với đối tượng nộp thuế, nhưng các quy định khác (như
chế độ báo cáo thông tin về doanh nghiệp...) buộc cán bộ thuế phải trực tiếp
tới doanh nghiệp để lấy thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh. Do vậy,
tạo ra sự “cả nể” trong khi làm việc giữa cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế,
mặt khác, ngành Thuế vẫn phải mất khá nhiều nhân lực vào công tác thu
thuế mà hiệu quả công tác lại không cao.
Bên cạnh đó, do quy trình quản lý thu thuế chưa có những quy định
rõ ràng về việc phối hợp giữa các Cơ quan Thuế ở các địa phương khác
nhau nên đối với trường hợp doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn nhiều
tỉnh phải kê khai đăng ký và nộp thuế riêng biệt tại từng tỉnh, đã gặp nhiều
khó khăn trong việc kê khai, nộp thuế, có doanh nghiệp còn lợi dụng điểm
này để trốn thuế. Cá biệt, vì bệnh thành tích, các Cơ quan Thuế ở các địa
phương còn cạnh tranh nhau để thu thuế các đối tượng này. Đây là những
vướng mắc trong việc thực hiện quy trình quản lý thu thuế cần phải được
khắc phục ngay nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát nguồn thu, nhất là
nguồn thu từ thuế GTGT.
2.3/ CÔNG TÁC TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI
KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH
NGHIỆP.
Theo cơ cấu tổ chức của Cục Thuế Hà Nội, các phòng Quản lý thu quốc
doanh sẽ trực tiếp kiểm soát đối với các DNNN, các Công ty cổ phần và
các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các phòng Quản lý thu ngoài
quốc doanh quản lý các Doanh nghiệp tư nhân và Công ty TNHH. Tất cả
các cán bộ quản lý ở các phòng Quản lý thu quốc doanh đều có trình độ từ
Đại học trở lên, vì vậy việc kiểm soát các nguồn thu, đặc biệt là nguồn thu
từ thuế GTGT được thực hiện tương đối tốt. Việc kiểm tra, phát hiện những
sai sót trong quá trình kê khai thuế, kiểm tra quyết toán thuế hàng năm đã
làm tăng nguồn thu cho NSNN.
45
Tuy nhiên, việc kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT từ các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chưa được chặt chẽ. Bên cạnh việc ban hành QĐ1368,
Bộ Tài Chính đã ban hành thông tư 110/1998-TT-BTC ngày 3/8/1998 sửa
đổi về bộ máy Cục thuế nhằm tổ chức quản lý tập trung các doanh nghiệp,
tổ chức nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ tại Cục thuế. Thực hiện
nghiêm túc quy định này, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trước đây do
các chi cục thuế quản lý đã chuyển về Cục thuế quản lý trực tiếp. Tuy vậy,
trong quá trình triển khai thực hiện các Luật thuế mới, đặc biệt từ khi Luật
doanh nghiệp được thực hiện thì số doanh nghiệp tăng lên rất nhanh. Do
đó, số lượng các đối tượng nộp thuế do Cục thuế Hà Nội quản lý quá lớn,
với 80 cán bộ ở 2 phòng quản lý thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(trên 5.870 doanh nghiệp). Cán bộ thuế chỉ đủ thời gian để xét duyệt các tờ
khai thuế và làm các thủ tục hành chính, không còn thời gian để thực hiện
các khâu khác của quy trình quản lý thu thuế. Và đó cũng là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng là mặc dù sản lượng hàng năm của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tăng lên, mức đóng góp vào GDP của toàn Thành phố
tăng lên nhưng do bị buông lỏng quản lý, kiểm soát thu thuế GTGT khu
vực ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà Nội chưa thực hiện tốt, từ đó dẫn
đến kết quả thu thuế GTGT của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn
thấp, chưa đạt chỉ tiêu so với kế hoạch đã đề ra.
2.4/ CÔNG TÁC KIỂM TRA VIỆC CHẤP HÀNH LUẬT THUẾ CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP THÔNG QUA QUYẾT TOÁN THUẾ.
Để làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các
doanh nghiệp, ngoài việc kiểm tra tại chỗ trên cơ sở các tờ khai hàng tháng,
hàng năm, Cục Thuế Hà Nội còn tổ chức kiểm tra quyết toán thuế tại các
doanh nghiệp. Kiểm tra quyết toán thuế thực chất là kiểm tra thực trạng
hoạt động tài chính của các doanh nghiệp. Việc kiểm tra quyết toán thuế
giúp cho các doanh nghiệp xác định chính xác số thuế phải nộp cũng như
giúp cho Nhà nước kiểm soát chặt chẽ được nguồn thu thuế của mình.
Việc thực hiện kiểm tra quyết toán thuế được tiến hành trên những nội
dung sau:
46
Thứ nhất là kiểm tra tính trung thực của các nội dung trên tờ khai
thuế : doanh thu bán hàng, số thuế GTGT đầu ra, giá trị vật tư, hàng hoá
mua vào, các chi phí phục vụ cho quá trình sản xuất, thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ. Việc kiểm soát doanh thu và chi phí của các doanh nghiệp
được thực hiện trên cơ sở hoá đơn, chứng từ. Hoá đơn, chứng từ mua, bán
hàng hoá, dịch vụ là chứng từ gốc để hạch toán tại doanh nghiệp. Hoá đơn
cũng là căn cứ để xác định doanh thu, chi phí, từ đó xác định chính xác số
thuế GTGT đầu ra , số thuế đầu vào được khấu trừ và số thuế GTGT phải
nộp hoặc được hoàn. Việc kiểm soát chặt chẽ hoá đơn, chứng từ còn là cơ
sở để xác định chính xác kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Trên
thực tế, nhiều doanh nghiệp đã kê khai không đúng thuế GTGT đầu vào
cũng như thuế đầu ra do hiểu không đúng chế độ hoặc cố tình giấu doanh
thu. Do đó việc kiểm tra sẽ chỉ ra tính hiện thực của các thông tin mà doanh
nghiệp kê khai để từ đó xác định chính xác số thuế phải nộp.
Thứ hai là kiểm tra tính hợp pháp của các biểu mẫu, của trình tự lập
và luân chuyển chứng từ. Việc kiểm tra này sẽ phát hiện những sai phạm
trong quá trình hạch toán doanh thu, chi phí vào các khoản mục khác (như
hàng tồn kho, các khoản phải thu...) để trốn thuế của doanh nghiệp
Thứ ba là kiểm tra tính hợp lý của các đối tượng kế toán và nội dung
của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nhiều doanh nghiệp có quá trình mua
bán hàng hoá dịch vụ rất phức tạp, qua nhiều công đoạn. Như trong xây
dựng cơ bản, hiện tượng phổ biến là nhượng thầu, bán thầu...Việc kiểm tra
đúng tính chất nghiệp vụ phát sinh để áp đúng thuế suất sẽ giúp cơ quan
Thuế kiểm soát chặt chẽ hơn việc tính thuế GTGT của doanh nghiệp.
Thứ tư là kiểm tra tính pháp lý trong việc thực hiện chế độ tài chính
của doanh nghiệp. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp hạch toán vào chi phí
cả những TSCĐ, do đó làm tăng chi phí, giảm thuế TNDN phải nộp... Do
vậy, kiểm tra việc thực hiện chế độ tài chính sẽ giúp cơ quan Thuế xác định
chính xác giá trị doanh thu, chi phí cũng như thu nhập chịu thuế theo chế
độ tài chính của Nhà nước.
47
Kiểm tra quyết toán thuế hàng năm, ngoài việc kiểm tra chấp hành
luật thuế, kiểm soát nguồn thu cho NSNN còn chính là thực hiện kiểm tra
thực trạng tài chính của các doanh nghiệp. Qua kiểm tra, Cục Thuế Hà Nội
đã phát hiện ra nhiều sai phạm, nhầm lẫn trong quá trình lập báo cáo của
Doanh nghiệp, khai thác tăng thu cho NSNN.
Sau đây là bảng số liệu cho thấy Kết quả khai thác tăng thu nguồn
thu thuế GTGT ở một số Doanh nghiệp sau kiểm tra quyyết toán thuế.
Bảng 2: Kết quả khai thác tăng thu Thuế GTGT qua kiểm tra quyết
toán thuế
TT Tên đơn vị
Kết quả năm 1999 Kết quả năm 2000
Số
báo
cáo
Số
kiểm
tra
Chênh
lệch
Số
báo
cáo
Số
kiểm
tra
Chênh
lệch
1 CT Cơ điện trần phú 1260 1083 -177 1956 1956 0
2 CT Đtư XD hạ tầng -152 -152 0 671 814 143
3 CT Khảo sát đo đạc 61 107 46 119 328 209
4 CT Xlắp&KDVTTbị 844 1091 247 688 783 95
5 CT Vận tải biển 210 235 25 -318 107 425
6 CT Công trình 246 -135 1513 1648 766 890 124
7 CTXDCôngtrình Việt -
Lào
47 61 14 -483 -426 57
8 CT Địa chính Hà nội 350 372 22 274 353 79
9 CT XD Thủ đô 123 295 172 213 270 57
10 CT Xdựng số 2 1290 2595 1305 595 650 55
Tổng cộng 3898 7200 3302 4481 5725 1244
Tuy vậy, việc kiểm tra quyết toán thuế vẫn còn nhiều hạn chế do tình
hình thực tế hiện nay cũng như cách quy định xác định doanh thu trong một
số lĩnh vực nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và vận tải còn nhiều
vướng mắc.
Từ khi thực hiện Luật Thuế GTGT, hoá đơn đã và đang trở thành
vấn đề nổi cộm, thu hút sự quan tâm nhất của các doanh nghiệp và các nhà
quản lý. Nhìn chung, đại bộ phận các doanh nghiệp đã có nhiều chuyển
48
biến trong việc chấp hành chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ. Tuy
nhiên, đã có không ít doanh nghiệp sử dụng hoá đơn, chứng từ để trốn lậu
thuế, gây thất thoát cho nguồn thu NSNN. Các hình thức vi phạm phổ biến
là:
- Trong thực tế, hiện nay việc sử dụng tiền mặt để mua hàng hoá còn
là tình trạng phổ biến. Người bán sẵn sàng thông đồng với người mua bằng
cách ghi liên 2 cao hơn liên 1 để trốn thuế cho người bán hàng và tham ô
cho người mua hàng. Từ đó dẫn tới việc khai khống thuế GTGT đầu vào,
làm giảm thuế GTGT phải nộp, gây thất thu cho NSNN.
- Mua hoá đơn giả ( không do Bộ Tài chính in và phát hành) để kê
khai tăng số thuế đầu vào để được khấu trừ.
- Bán hàng xuất hoá đơn nhưng không kê khai nộp thuế (phổ biến ở
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh).
- Không viết hoá đơn khi bán hàng: hình thức này phổ biến xảy ra ở
các đơn vị bán lẻ và ở nước ta, do thói quen người tiêu dùng rất ít khi đòi
hỏi người bán hàng phải xuất hoá đơn bán hàng. Thói quen này đã vô tình
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trốn thuế. Hiện nay vẫn chưa có quy
định xử lý nghiêm minh đối với việc bán hàng nhưng không viết hoá đơn
của các doanh nghiệp Đây là một trong những khó khăn, vướng mắc rất lớn
đối với việc kiểm soát chặt chẽ thuế GTGT đầu ra.
- Một số doanh nghiệp báo mất hoá đơn nhưng thực chất là bán và
hoá đơn vẫn được lưu hành. Nhiều doanh nghiệp lại mua lại các hoá đơn
báo mất này và sử dụng làm hoá đơn đầu vào để được khấu trừ.
Như vậy, có thể thấy rằng trong điều kiện bộ máy thanh tra thuế, cán
bộ thuế còn mỏng, trang bị cho ngành Thuế như máy tính, nối mạng còn
thiếu, sự phối kết hợp giữa ngành Thuế và các cơ quan chức năng chưa
chặt chẽ, các quy định xử phạt chưa nghiêm thì vẫn còn rất nhiều sơ hở
trong quản lý hoá đơn để các doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế và rút tiền
của Nhà nước.
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản cũng xuất hiện những vướng mắc
nhất định. Theo quy định, các doanh nghiệp xây lắp đều thực hiện viết hoá
49
đơn và kê khai doanh thu trên cơ sở biên bản nghiệm thu, bàn giao khối
lượng xây dựng cơ bản hoàn thành giữa bên A( Chủ đầu tư) và bên B ( Bên
nhận thầu), và lúc này, bên B phải nộp thuế theo giá trị doanh thu trên,
đồng thời bên A lại được hoàn thuế theo đúng số thuế viết trên hoá đơn.
Tuy vậy, sau đó, khi cơ quan cấp vốn ( Kho bạc - đối với vốn NSNN) ,
hoặc cơ quan có thẩm quyền ( đối với các loại vốn khác) thẩm định lại
quyết toán công trình, thì giá trị thanh toán là gía trị được duyệt sau khi
thẩm định, thường là thấp hơn giá trị trên biên bản nghiệm thu, bàn giao
trước đó. Vậy, thực chất doanh thu chịu thuế là giá trị khối lượng sau khi
đã được thẩm định chứ không phải giá trị đã viết trên hoá đơn, điều này vô
tình đã làm thất thoát tiền thuế của Nhà nước do số thuế đầu vào được khấu
trừ của bên A lớn hơn số thuế đầu ra phải nộp của bên B. Đây là một trong
những vướng mắc cần được tháo gỡ kịp thời để xác định doanh thu trong
lĩnh vực xây dựng cơ bản một cách chính xác, tránh gây thất thu cho
NSNN theo kiểu nêu ở trên
2.5/ ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC THANH TRA THUẾ GTGT.
Hiện nay, quy trình quản lý thu thuế GTGT thực chất là quy trình tự
tính, tự kê khai và nộp thuế vào Kho bạc. Quy trình này đòi hỏi tính tự giác
cao của các doanh nghịêp trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo Luật
định, đồng thời phát huy chức năng, quyền hạn của Cơ quan Thuế trong
việc hành thu, áp dụng biện pháp xử phạt nghiêm minh đối với các trường
hợp khai man trốn lậu thuế. Vì vậy, vai trò của công tác thanh tra thuế trở
nên rất quan trọng. Nếu buông lỏng thanh tra, kiểm tra thuế sẽ có thể dẫn
đến thất thu thuế, không ngăn chặn được các hành vi trốn lậu thuế. Khi áp
dụng quy trình quản lý thu thuế với việc tự tính, tự kê khai và tự nộp thuế,
ngành Thuế càng phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh tra, kiểm tra, Cục
thuế Hà Nội đã triển khai việc thanh tra, kiểm tra thường xuyên, kiểm tra
quyết toán thuế và kiểm tra sau hoàn thuế. Đối với công tác thanh tra
thường xuyên, trong năm 2000 Cục thuế Hà Nội đã Thanh tra 62 doanh
nghịêp quốc doanh, 197 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, xác định số thuế
50
phải nộp vào NSNN là 38,7 tỷ đồng, trong đó truy thu và phạt hành chính
27 tỷ đồng. Trong việc kiểm tra quyết toán thuế, Cục thuế Hà Nội đã kiểm
tra 542 DNNN và 1.898 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau kiểm tra
quyết toán thuế khai thác tăng thu 174 tỷ đồng. Riêng đối với kiểm tra sau
hoàn thuế, Cục thuế Hà Nội đã kiểm tra được 24 doanh nghiệp được hoàn
thuế, sau kiểm tra phát hiện số thuế phải truy hoàn là 20 tỷ đồng. Qua kiểm
tra phát hiện có 10 doanh nghiệp vi phạm chế độ hoàn thuế, đã xử lý phạt
99 triệu đồng.
Mặc dù vậy, những kết quả trên chưa phản ánh đúng thực trạng của
việc vi phạm pháp luật thuế mà công tác thanh tra phải kiểm soát được.
Thực hiện cải cách hành chính thuế, dần dần xoá bỏ chế độ chuyên quản
nhưng các Phòng Quản lý thu thuế vẫn coi công tác thanh tra, kiểm tra là
của Phòng thanh tra. Sự phối hợp giữa Phòng Thanh tra- Xử lý tố tụng với
các Phòng Quản lý thu thuế chưa mạnh mẽ và thường xuyên. Cục thuế Hà
Nội vẫn chưa xây dựng được kế hoạch kiểm tra, thanh tra một cách cụ thể
cho từng phòng. Do vậy, trong năm 2000, kiểm tra quyết toán thuế, kiểm
tra hoàn thuế, kiểm tra sử dụng hoá đơn chưa được thực hiện tốt, nhất là
kiểm tra sau hoàn thuế là công việc rất mới và phức tạp, có thể có nhiều
doanh nghiệp lợi dụng hoàn thuế để chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
Mặt khác, vì bỏ chế độ chuyên quản nên việc nắm bắt thông tin về
tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của các doanh nghiệp
nhiều khi không được kịp thời, chính xác, ảnh hưởng đến việc đánh giá,
phân tích về thuế đối với các doanh nghiệp, các khu vực kinh tế, đặc biệt là
các đơn vị hạch toán toàn ngành, các Tổng công ty 90,91.
Về phương pháp kiểm soát thuế GTGT, hiện nay các cán bộ thuế vẫn
sử dụng các phương pháp kiểm soát trên chứng từ là chủ yếu. Việc kiểm tra
vẫn dựa trên tờ khai thuế GTGT do các doanh nghiệp tự kê khai là chính
trên cơ sở đối chiếu trực tiếp với hoá đơn, chứng từ. Trên thực tế, để trốn
thuế, doanh nghiệp hoàn toàn có thể hoàn chỉnh bộ chứng từ gốc gồm hoá
đơn, chứng từ và sổ cái, sổ phụ, nhật ký chứng từ... với việc kê khai thuế
GTGT. Do vậy, phương pháp đối chiếu trực tiếp không phát huy hiệu quả
51
khi doanh nghiệp không kê khai doanh thu mua, bán hàng hoá. Để thực
hiện triệt để chống thất thu thuế GTGT, ngành Thuế cần phải đối chiếu hoá
đơn mua, bán hàng hoá của các doanh nghiệp có liên quan với sự trợ giúp
của máy tính.
Về các dấu hiệu nghi ngờ vi phạm trên tờ khai thuế GTGT, hiện nay
theo quy trình quản lý thu thuế thực hiện theo nguyên tắc: doanh thu tháng
này tăng, giảm quá mức so với tháng trước; thuế phát sinh tháng này tăng,
giảm quá mức so với tháng trước; thuế được khấu trừ quá lớn so với thuế
đầu ra...Trong tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều
diễn biến phức tạp do thị trường, do sự thay đổi của cơ chế chính sách...như
hiện nay thì những dấu hiệu vi phạm trên là quá cứng nhắc để cơ quan
Thuế thực hiện kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế hiện nay cũng còn rất nhiều
điều cần bàn. Trước hết là do các quy định xử phạt hành chính, kinh tế và
hình sự đối với các đối tượng nộp thuế chưa có tính răn đe mạnh. Và dường
như các quy định về thuế chỉ chú trọng tới việc tháo gỡ khó khăn vướng
mắc cho các doanh nghiệp, các ngành, các lĩnh vực mà chưa quan tâm tới
việc chấp hành Luật thuế. Chẳng hạn, hiện nay quy định doanh nghiệp bị
phạt nộp chậm 0,1% một ngày trên số tiền thuế chậm nộp theo thông báo
thuế nhưng hầu như tất cả các quy định về thuế đều cho phép doanh nghiệp
được điều chỉnh, bổ sung doanh thu, thuế phải nộp kê khai sót vào lần kê
khai sau hoặc vào kỳ quyết toán thuế. Điều này đã tạo sơ hở để các doanh
nghiệp lợi dụng kê khai thiếu thuế mà không sợ bị xử lý hành vi trốn, lậu
thuế.
Bên cạnh đó, việc thực hiện xử phạt của Cơ quan Thuế trên những
quy định xử lý hiện hành vẫn chưa thực sự nghiêm minh. Trong khi nạn sử
dụng hoá đơn giả, mua bán hoá đơn đang trở thành quốc nạn của ngành Tài
chính thì trên địa bàn Hà Nội, Cục thuế Hà Nội chưa có biện pháp để xử lý
những vi phạm về sử dụng hoá đơn chứng từ, bán hàng không xuất hoá
đơn, ghi giá trong hoá đơn thấp hơn giá bán thực tế... Việc xử lý các vi
52
phạm khác về thuế như tính sai thuế suất, lập bảng kê khống, lợi dụng hoàn
thuế để rút tiền Nhà nước chỉ được xử lý ở mức xử phạt hành chính, theo
kiểu "gọi là có". Do vậy, những hành vi vi phạm Luật thuế xảy ra khá phổ
biến, làm giảm ý thức tự giác nộp thuế của các đối tượng nộp thuế. Tất cả
các hiện tượng trên đã và đang làm giảm tính hiệu lực của Luật thuế, cũng
như chưa phát huy được quyền lực của Cơ quan Thuế với tư cách là một cơ
quan công quyền để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2.6/ VỀ CÔNG TÁC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG DOANH NGHIỆP.
Theo định nghĩa tại phần 1.3.3 thì nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ là
phải đáp ứng được yêu cầu của các nhà quản lí, đó là: Tài sản của doanh
nghiệp có được bảo vệ tốt không, các quy tắc, quy phạm của Công ty có
được tuân thủ không, sổ sách tài chính có được ghi chép đầy đủ không.
Điều quan trọng nữa là phát hiện gian lận và giữ gìn mọi thứ nguyên vẹn.
Trên phạm vi rộng hơn nữa, kiểm toán nội bộ cũng được coi là sự mở rộng
liên quan chặt chẽ tới công việc của kiểm toán viên bên ngoài, do đó nếu
làm tốt công tác kiểm toán bội bộ sẽ giúp cho nhà quản lí doanh nghiệp,
cũng như các cơ quan quản lí nắm vững được hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ở mọi khâu, do đó nó cũng giúp cho kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT ngày càng chặt chẽ. Kiểm toán viên bên ngoài quan
tâm đến sự đúng đắn của báo cáo tài chính, còn kiểm toán viên nội bộ quan
tâm hàng đầu vào hiệu quả chung của các nghiệp vụ và khả năng có lãi của
công ty. Việc kiểm tra của cơ quan Thuế đối với hoạt động tài chính của
doanh nghiệp cũng giống như là việc kiểm tra của Kiểm toán viên bên
ngoài. Do vậy việc kết hợp giữa Kiểm toán nội bộ và cơ quan Thuế nhằm
đảm bảo nội dung kiểm toán được đầy đủ, giảm thiểu công việc bị trùng
lặp, giúp cho việc kiểm soát chặt chẽ nguồn thu ngay tại doanh nghiệp.
Đồng thời, tăng cường tính tự giác của doanh nghiệp đối với việc chấp
hành các chủ trương, chính sách của Nhà nước trong đó có việc chấp hành
53
các Luật thuế. Vì vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ có vai trò vô cùng quan
trọng trong kiểm soát nguồn thu NSNN, đặc biệt là nguồn thu thuế GTGT.
Về nguyên tắc, bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp là bộ
phận có thể trợ giúp hiệu quả nhất cho công tác kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT. Bởi vì thuế GTGT bao trùm lên tất cả các giao dịch kinh tế về mua,
bán hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, và do vậy khối lượng công việc
kiểm soát sẽ là vô cùng lớn. Vì vậy báo cáo kế toán sau khi đã được sự
kiểm soát của Kiểm toán nội bộ sẽ giúp cơ quan Thuế nắm chính xác được
nguồn thu thuế phát sinh tại doanh nghiệp, nhất là nguồn thu từ thuế
GTGT. Hơn nữa, bộ phận kiểm toán nội bộ nếu được thực hiện tốt còn
mang ý nghĩa tích cực với doanh nghiệp là kịp thời có những kiến nghị về
chính sách thuế, giúp cho Nhà nước nắm được những thông tin về tác động
của thuế đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, do đó
có những điều chỉnh kịp thời.
Trên thực tế, khi thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế tại các doanh
nghiệp, các cán bộ thuế vẫn làm việc trực tiếp với Kế toán trưởng doanh
nghiệp. Theo pháp lệnh Kế toán - Thống kê, Kế toán trưởng có hai chức
năng: chức năng tổ chức hạch toán kế toán các thông tin kế toán của doanh
nghiệp và chức năng kiểm tra kiểm soát của cấp trên đặt tại doanh nghiệp.
Hai chức năng đối lập có tính chất chế ước lẫn nhau cùng được đặt vào một
con người (Kế toán trưởng) đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc
thao túng thông tin, phản ánh sai lệch kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của Doanh nghiệp. Và mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định
832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 về việc ban hành Quy chế kiểm toán
nội bộ để thực hiện việc kiểm tra, xác nhận và đánh giá một cách độc lập,
khách quan các thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, nhưng trên thực tế, rất
ít doanh nghiệp tổ chức một cách nghiêm chỉnh bộ phận kiểm toán nội bộ
theo đúng yêu cầu đặt ra.
54
Trước hết phải kể đến là sự nhận thức không đầy đủ của Giám đốc,
Kế toán trưởng cũng như các tổ chức Đảng, Công đoàn về vai trò của kiểm
toán nội bộ, thậm chí thái độ và cung cách quản lý của Giám đốc hoặc Hội
đồng quản trị có chi phối rất lớn đến việc định hình bộ phận kiểm toán nội
bộ trong doanh nghiệp. Bộ máy kiểm toán nội bộ thành lập ra ở đơn vị chỉ
mang tính hình thức. Nhiều người làm nhiệm vụ kiểm soát có trình độ
chuyên môn thấp, thậm chí có một số người được giao nhiệm vụ dựa trên
một cơ sở duy nhất là đạo đức. Trong tình hình quốc nạn tham nhũng đang
gia tăng hiện nay, cá biệt có một số Doanh nghiệp sử dụng Kiểm toán nội
bộ làm công cụ nhằm “làm sạch” chứng từ để đối phó với Cơ quan Thuế.
Tiếp theo, đó là sự quản lý và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của
các cơ quan chức năng của Nhà nước. Hiện nay Bộ Tài chính mới ban hành
Quyết định số 832/TC-QĐ/CĐKT ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ tại
các doanh nghiệp. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng đây mới chỉ là giải pháp
mang tính tình thế trước thực trạng và nhu cầu kiểm soát nội bộ của các
doanh nghiệp, các Tổ chức kinh tế Nhà nước. Và vì Bộ Tài chính vừa là cơ
quan quản lý, giám sát các hoạt động tài chính của doanh nghiệp nên việc
Bộ Tài chính ban hành và quản lý các chuẩn mực kiểm toán nội bộ là vi
phạm nguyên tắc cơ bản nhất của kiểm toán là tính độc lập. Vì những ý
kiến trên, và vì sự đòi hỏi của công tác quản lý Nhà nước, hy vọng rằng
trong thời gian tới các Luật Kế toán, Luật Kiểm toán ra đời sẽ đặt nền
móng một cách vững chắc cho công tác kiểm toán nội bộ tại các doanh
nghiệp được triển khai thực hiện.
Những vấn đề trên hiện đã và đang ảnh hưởng rất lớn tới những
chuẩn mực chuyên môn của kiểm toán nội bộ, đó là tính độc lập, phạm vi
công việc cũng như khả năng chuyên môn, từ đó làm sai lệch các thông tin
mà chính ra phản ánh đúng thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và ảnh hưởng đáng kể theo chiều hướng tiêu cực đến kiểm
soát thu thuế GTGT.
55
2.7/ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIỂM SOÁT NGUỒN THU
THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ
NỘI.
2.7.1 - Tác động của việc ban hành các văn bản pháp quy.
Để đưa Thuế GTGT trở thành một công cụ có tính khoa học, chuyên
môn hoá của quản lý Nhà nước, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thuế
GTGT. Luật Thuế GTGT từ khi mới được thực hiện đã thể hiện rõ tính ưu
việt so với Luật Thuế doanh thu trước đây, tạo điều kiện thuận lợi để Thuế
GTGT đi vào cuộc sống. Đây là thành công cơ bản của Luật Thuế GTGT.
Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện có nhiều vướng mắc từ phía các
doanh nghiệp, do vậy UBTVQH, Chính phủ và Bộ Tài chính đã phải ban
hành nhiều văn bản dưới Luật để chỉnh sửa, bổ sung. Việc chỉnh sửa, bổ
sung này ít nhiều đã làm xói mòn tính trung lập của Thuế GTGT và làm
cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT gặp nhiều trở ngại.
Trở ngại lớn nhất phải nói đến ở đây là việc ban hành quá nhiều văn
bản pháp quy. Tính đến nay, UBTVQH đã thông qua 2 Nghị quyết, Chính
phủ đã ban hành 3 Nghị định, Bộ Tài chính ban hành 27 Thông tư khác
nhau hướng dẫn trong 2 năm triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT. Việc
ban hành chỉnh sửa, bổ sung quá nhiều nội dung thực hiện Luật Thuế
GTGT có thể tháo gỡ cho một bộ phận doanh nghiệp này nhưng lại gây khó
khăn cho các doanh nghiệp khác. Làm cho các doanh nghiệp khác không
nắm bắt kịp thời để thực hiện tốt. Bên cạnh đó, các nội dung được chỉnh
sửa, thay đổi lại tập trung chủ yếu vào các vấn đề là thuế suất và diện được
hưởng thuế suất ưu đãi. Do vậy, ít nhiều việc ban hành các văn bản pháp
quy đã làm mất tính trung lập, mất tính công bằng của Luật thuế đối với
các thành phần kinh tế khác nhau, các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
Đối với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT, việc quy định quá nhiều
mức thuế suất, nhiều tỉ lệ khấu trừ khác nhau đã làm cho việc thực hiện trở
nên khó khăn hơn. Cán bộ thuế phải đối chiếu trên nhiều loại hàng hoá
khác nhau để xác định đúng mức thuế suất, đúng tỉ lệ khấu trừ. Bên cạnh
56
đó, hàng hoá với công dụng khác nhau khiến cán bộ thuế lúng túng khi tính
thuế.
Trên khía cạnh pháp luật, một trở ngại nữa là cho đến nay, cơ quan
Thuế vẫn chưa được giao quyền điều tra, khởi tố các đối tượng nộp thuế vi
phạm nghiêm trọng Luật thuế. Điều này làm giảm quyền lực của cơ quan
Thuế trong việc thực thi Pháp luật thuế, làm giảm hiệu quả của kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT. Mặt khác, cũng làm cho người dân và giới doanh
nghiệp có cảm giác bị áp đặt khi chịu sự kiểm soát của cơ quan Thuế.
Ngoài ra, như đã trình bày ở những phần trước, ở tất cả các khâu của
quy trình quản lý thu thuế, từ xác định đối tượng chịu thuế, thuế suất để
tính thuế đến khấu trừ thuế, hoàn thuế và cuối cùng là thanh tra, kiểm tra
thuế, các quy định của Nhà nước vừa thiếu lại vừa thừa, làm cho kiểm soát
thu thuế GTGT gặp nhiều trở ngại. Tất cả những điều đó đã làm giảm hiệu
quả của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT và việc thực hiện động viên
nguồn thu thuế GTGT vào NSNN không đạt được mục tiêu ban đầu đã đề
ra là động viên 19-20% GDP vào NSNN.
2.7.2 - Tác động của ý thức xã hội đối với kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT.
Chuyển từ thực hiện Thuế doanh thu sang Thuế GTGT là một bước
tiến cơ bản của chính sách thuế, có tác động tới mọi mặt của đời sống kinh
tế - xã hội. Nhà nước đã có nhiều biện pháp tuyên truyền cho nhân dân và
các doanh nghiệp nhưng dường như nhân dân ta vẫn chưa chuẩn bị một
cách đầy đủ để đón nhận chính sách Thuế GTGT.
Việc thực hiện Luật Thuế GTGT đòi hỏi nhân dân ta phải thay đổi
một thói quen trong tiêu dùng từ trước tới nay là khi chi tiêu chỉ quan tâm
đến số tiền phải thanh toán mà không quan tâm đến số tiền thuế phải chịu.
Thực chất Thuế GTGT là loại thuế gián thu, thuế do người tiêu dùng chịu
còn các doanh nghiệp chỉ thu hộ, trả hộ số thuế cho Nhà nước. Song cho
đến thời điểm này, nhân dân ta đại bộ phận vẫn chưa ý thức được bản thân
57
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội.pdf