Tài liệu Luận văn Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho đối tượng học sinh phổ thông trung học: LUẬN VĂN:
Tăng cường công tác giáo dục đạo
đức cho đối tượng học sinh phổ
thông trung học
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, vấn đề đạo đức xã hội ở nước ta đang diễn ra rất phức
tạp, đạo đức xã hội có phần bị xuống cấp, điều đáng lo ngại hơn cả là "có một bộ
phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo
lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và
đất nước" [9, 21]. Hiện tượng thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử,
dùng tiền để "mua điểm", "mua bằng cấp", hiện tượng đánh thầy chửi bạn... có nguy
cơ trở thành một tệ nạn. Không những thế, những tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc,
ma túy... cũng đang có xu hướng du nhập vào nhà trường gây ảnh hưởng lớn đối với
học sinh.
Tại sao trong một bộ phận học sinh hiện nay lại có sự sa sút về mặt phẩm
chất đạo đức? Hiện tượng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng phải thấy rằng
nguyên nhân chủ yếu...
65 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho đối tượng học sinh phổ thông trung học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tăng cường công tác giáo dục đạo
đức cho đối tượng học sinh phổ
thông trung học
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, vấn đề đạo đức xã hội ở nước ta đang diễn ra rất phức
tạp, đạo đức xã hội có phần bị xuống cấp, điều đáng lo ngại hơn cả là "có một bộ
phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo
lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và
đất nước" [9, 21]. Hiện tượng thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử,
dùng tiền để "mua điểm", "mua bằng cấp", hiện tượng đánh thầy chửi bạn... có nguy
cơ trở thành một tệ nạn. Không những thế, những tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc,
ma túy... cũng đang có xu hướng du nhập vào nhà trường gây ảnh hưởng lớn đối với
học sinh.
Tại sao trong một bộ phận học sinh hiện nay lại có sự sa sút về mặt phẩm
chất đạo đức? Hiện tượng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng phải thấy rằng
nguyên nhân chủ yếu nhất là do trong thời gian qua chúng ta ít quan tâm đến công
tác giáo dục đạo đức cho những đối tượng này, gia đình và xã hội gần như "gửi
gắm", thậm chí "khoán trắng" công việc giáo dục đạo đức con em mình cho nhà
trường. Mặt khác, giáo dục trong nhà trường lại có xu hướng coi nhẹ, thậm chí buông
lỏng giáo dục đạo đức, chạy theo giáo dục văn hóa đơn thuần vì mục đích thi cử.
Để khắc phục tình trạng xuống cấp, suy thoái về đạo đức trong một bộ phận
thanh niên học sinh, để đáp ứng những nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, xây
dựng con người cho thế kỷ XXI mà Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) đã vạch ra, phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đạo đức cho
thanh niên, mà đặc biệt là thanh niên học sinh trong các trường phổ thông trung học.
Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho đối tượng học sinh phổ thông
trung học, đó là vấn đề bức xúc hiện nay, đề tài luận văn này mong muốn góp một
phần nhỏ giải quyết vấn đề bức xúc đó.
2. Tình hình nghiên cứu
- Xung quanh vấn đề đạo đức học sinh ở các trường phổ thông trung học đã
có một số công trình nghiên cứu chuyên khảo và sách báo v.v... nhưng chưa có luận
văn thạc sĩ nào đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học
ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò nhân tố chủ quan trong công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học, và thực trạng của sự phát huy vai trò
của nhân tố này trong những năm qua, luận văn chỉ ra tính cấp thiết và đề xuất những
giải pháp chủ yếu, nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức
cho học sinh phổ thông trung học hiện nay.
Nhiệm vụ:
+ Phân tích mối quan hệ điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong
giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học.
+ Làm rõ tầm quan trọng của việc cao nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo
đức cho học sinh phổ thông trung học hiện nay.
+ Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò nhân tố chủ quan, trong công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học
hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt
là mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, đề tài được thực hiện
theo phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgic...
- Kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: khảo sát, điều
tra, tọa đàm, phỏng vấn, so sánh, tiếp cận, thống kê v.v...
5. ý nghĩa của đề tài
- Làm tài liệu nghiên cứu cho trường phổ thông trung học.
- Góp phần nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh phổ thông trung học tỉnh Kiên Giang.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 5 tiết.
Chương 1
Tầm QUAN Trọng Của Việc NÂNG CAO
NHÂN Tố Chủ QUAN TRONG Giáo Dục Đạo Đức
CHO Học SINH Phổ THÔNG TRUNG Học Hiện NAY
1.1. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho
học sinh phổ thông trung học
1.1.1. Đạo đức và vai trò giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung
học
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội sớm xuất hiện trong lịch sử nhân loại.
Con người là một sinh vật có tính xã hội, ngay từ thuở hoang sơ nhất của mình, con
người đã biết thiết lập các mối quan hệ với nhau, mặc dù những quan hệ đó lúc đầu
còn mang tính "quần cư đơn thuần". Trong quá trình phát triển, con người từng bước
ý thức được sự cần thiết phải hợp tác, tương trợ nhau trong cuộc sống, từ đó, dần dần
làm nảy sinh khát vọng tự nguyện, khát vọng về sự công bằng, nguyên tắc về sự bình
đẳng,... giữa các thành viên trong xã hội.
Cùng với sự tiến bộ của sản xuất, ngay trong xã hội nguyên thủy, mối quan
hệ giữa người và người cũng trở nên phức tạp, đa dạng, phong phú hơn. Chính trong
quá trình tồn tại và phát triển đời sống cộng đồng đó đã làm nảy sinh, xuất hiện
những "chuẩn mực" đạo đức biểu hiện ở những hành vi giao tiếp, ứng xử giữa các
thành viên trong xã hội. Những chuẩn mực đó dần dần được nội tâm hóa, trở thành
nhu cầu bên trong, thành khát vọng, thói quen, thành tình cảm đạo đức.
Như vậy, đạo đức không phải được nảy sinh từ bên ngoài xã hội, sự xuất hiện
của đạo đức là do nhu cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, của đời sống xã
hội, mà trước hết do nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất, trong đời
sống cộng đồng xã hội.
Do đó, đạo đức theo quan niệm mác xít là một hình thái ý thức xã hội, bao
gồm một hệ thống các qui tắc, các chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội để bảo vệ lợi ích của cá nhân và của cộng đồng.
Là một hình thái ý thức xã hội, nên cũng như các hình thái ý xã hội khác, đạo
đức phản ánh tồn tại xã hội. Sự xuất hiện của đạo đức đáp ứng đòi hỏi khách quan
của cuộc sống xã hội, nó phản ánh đời sống xã hội, mà trước hết là chế độ kinh tế -
xã hội. Khi nền kinh tế - xã hội có sự biến đổi, đòi hỏi đạo đức xã hội cũng phải thay
đổi theo.
Trong lịch sử nhân loại, cùng với sự phát triển của sản xuất, của tiến bộ xã
hội những quy tắc, chuẩn mực, phạm trù đạo đức... theo đó tăng lên, phản ánh đời
sống xã hội ngày càng phong phú, đa dạng hơn, trở thành một trong những phương
thức điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi của con người sao cho
phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực xã hội.
Phản ánh tồn tại xã hội, do đó đạo đức mang tính lịch sử, quan niệm về một
nền đạo đức vĩnh cửu, đặt trên mọi lịch sử và trên những sự khác biệt về dân tộc, một
thứ đạo đức bất chấp cả thời gian mà mọi sự biến thiên của thực tế là siêu hình, giáo
điều và duy tâm. Quan niệm đó là hoàn toàn xa lạ với quan niệm mác xít, khẳng định
tính lịch sử của đạo đức trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ăngghen đã chỉ ra rằng:
"Chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của
tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ" [2, 63].
Trong các xã hội có sự phân chia thành giai cấp, đạo đức luôn mang tính giai
cấp. Trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất còn kém phát triển, con người
phải nương tựa vào nhau và sống nhờ vào những ân huệ của giới tự nhiên, thì sự
thông cảm và tinh thần tương trợ cũng như công bằng và sự bình đẳng được coi là
công cụ tự bảo vệ, là điều kiện để tồn tại và là chuẩn mực đạo đức của xã hội đó.
Sự xuất hiện xã hội có giai cấp, dẫn tới sự phá vỡ ý thức đạo đức thống nhất
vốn có của xã hội nguyên thủy và hình thành một nền đạo đức khác, mở đầu cho lịch
sử đạo đức mang tính giai cấp trong xã hội có giai cấp. Đạo đức luôn luôn là đạo đức
của giai cấp, từ xã hội cổ đại cho đến xã hội hiện đại, từ giai cấp chủ nô đến giai cấp
phong kiến, từ giai cấp tư sản đến giai cấp vô sản, mỗi giai cấp đều có nền đạo đức
của nó: đạo đức của giai cấp chủ nô, đạo đức giai cấp phong kiến, đạo đức của giai
cấp tư sản, đạo đức của giai cấp vô sản.
Trong các nền đạo đức đã xuất hiện trong lịch sử, đạo đức mới, tức đạo đức
của giai cấp vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là nền đạo đức có giá trị phổ biến và
nhân đạo nhất.
Thừa nhận tính lịch sử, tính giai cấp của đạo đức, triết học Mác - Lênin
không hề phủ nhận những giá trị phổ biến toàn nhân loại của đạo đức. Những giá trị
đạo đức như lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, tính trung thực, sự công bằng, tôn
trọng lẽ phải... thì xã hội nào, thời kỳ nào cũng cần, cũng có. Tất nhiên, do những
điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, do lý tưởng đạo đức khác nhau mà đôi khi người
ta có cách hiểu không hoàn toàn giống nhau, về các giá trị đạo đức có ý nghĩa phổ biến
đó.
Thừa nhận có thứ đạo đức của con người đích thực, tức là thứ đạo đức thoát
khỏi sự tha hóa của con người, đạt tới sự tự do và giải phóng con người, thoát khỏi
mọi sự ràng buộc giai cấp, nhưng triết học mác xít cũng đã khẳng định rằng, để có
được một nền đạo đức thật sự có tính người, mang tính nhân loại phổ biến, điều
trước hết là phải xóa bỏ được sự đối lập giai cấp.
Nghiên cứu các nền đạo đức đã tồn tại trong lịch sử nhân loại, Ăngghen đã
chỉ ra rằng nền đạo đức có nhiều nhân tố hứa hẹn lâu dài nhất, chắc chắn là nền đạo
đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ chế độ hiện đại, bảo vệ tương lai, tức nền
đạo đức vô sản.
Đạo đức vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là một nền đạo đức thật sự có
tính người, mang tính nhân loại phổ biến. Nền đạo đức ấy kế thừa, có chọn lọc, có
phê phán và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất được nhân loại tạo ra trong lịch
sử, đó là một nền đạo đức của tương lai, một nền đạo đức mang tính nhân văn cao cả.
Đạo đức vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa biểu hiện sự sáng tạo mang tính
quần chúng rộng rãi. Các giá trị đạo đức này mang ý nghĩa cao cả, vì nó là những sản
phẩm sáng tạo của con người và vì con người. Những giá trị ấy nói lên bản chất sáng
tạo của trí tuệ, của ý thức danh dự, của lòng dũng cảm và những phẩm chất cao quý
của con người. Nền đạo đức ấy vừa là sản phẩm của nền sản xuất xã hội đầy sáng tạo
và nhân văn, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức mới, là nền đạo đức mà chúng ta hiện
nay đang hướng tới và xây dựng.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức một mặt được hình thành một cách tự
phát, từ chính cuộc sống hàng ngày của con người để đáp ứng đòi hỏi khách quan
của sinh hoạt cộng đồng. Mặt khác, đạo đức phải là kết quả của sự giáo dục và tự
giáo dục, tự rèn luyện của mỗi cá nhân theo các chuẩn mực giá trị đạo đức của xã
hội.
Giáo dục theo nghĩa chung nhất, đó là hoạt động nhằm tác động một cách có
hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối
tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng là một quá trình bao gồm hai
mặt, một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục, mặt khác thông
qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự
nâng mình lên qua giáo dục.
Đạo đức, nhất là đạo đức của lứa tuổi học sinh phổ thông trung học được hình
thành chủ yếu bằng con đường giáo dục. Giáo dục đạo đức góp phần chuyển các
quan niệm đạo đức từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng
nâng cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người, từ trình độ nhận thức
thông thường lên trình độ nhận thức khoa học. Nhận thức thông thường hình thành
do ảnh hưởng trực tiếp của những điều kiện sinh hoạt hàng ngày mang lại, nó phản
ánh những giá trị đạo đức gần gũi với cuộc sống đời thường, còn nhận thức khoa học
phản ánh các giá trị đạo đức một cách gián tiếp, khái quát, cả những giá trị đạo đức
hiện đại, cả những phẩm giá của con người được kết tinh trong truyền thống lâu dài
của dân tộc.
Giáo dục đạo đức góp phần to lớn, tích cực trong việc truyền lại cho thế hệ
đang trưởng thành những giá trị đạo đức, mà thế hệ trước đã tạo ra, những giá trị đạo
đức được kết tinh trong hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc. Trên cơ sở đó giúp họ
nhận ra chân giá trị của các giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị và ý thức cuộc sống
mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn sâu sắc, góp phần to lớn trong việc nhân đạo
hóa con người và đời sống xã hội của con người, trong việc hình thành, củng cố
những giá trị nhân cách tốt đẹp.
Chẳng hạn, qua giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản,
những giá trị đạo đức tốt đẹp như: lòng tự hào dân tộc, ý thức và hành vi sẵn sàng
bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, yêu hòa bình, tôn trọng các dân tộc khác...
được củng cố, được nâng lên làm cho thế hệ trẻ thấy được những giá trị lớn lao, ý
nghĩa đích thực của cuộc sống hòa bình, tự do, độc lập. Những giá trị ấy trở thành
tình cảm, động lực thôi thúc họ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để bảo vệ độc lập,
chủ quyền quốc gia vươn lên trong sự nghiệp xây dựng đời sống hòa bình, ấm no,
hạnh phúc.
Giáo dục đạo đức không chỉ có tác dụng nâng cao các giá trị đạo đức, tạo ra
những giá trị đạo đức mới, mà còn góp phần tích cực vào việc khắc phục những quan
điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, những thói hư tật xấu,
chống lại những hiện tượng vô đạo đức đang đầu độc bầu không khí xã hội, tạo ra cơ
chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hóa...
Tóm lại, giáo dục đạo đức có vai trò rất to lớn trong việc hình thành ý thức,
tình cảm cũng như các hành vi đạo đức của con người, đặc biệt của lứa tuổi học sinh
phổ thông trung học.
Nhận thức được vai trò của đạo đức mới, cũng như tác dụng to lớn của công
tác giáo dục đạo đức trong việc hình thành đạo đức mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã sớm quan tâm đến công tác này, nhất là giáo dục đạo đức trong các
trường học.
Hiện nay, trước nhiều biến động phức tạp của đạo đức trong xã hội, trước sự
suy thoái về đạo đức của một bộ phận thanh niên học sinh trong các trường học,
trong chiến lược chăm lo phát triển nguồn lực con người của Đại hội VIII, Đảng ta
đã khẳng định: "Cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại,
phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước,
ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước" [7, 29].
1.1.2. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức
cho học sinh phổ thông trung học
Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan: Các khái niệm "điều kiện khách
quan" và "nhân tố chủ quan" được hình thành và phát triển trong quá trình nghiên
cứu hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, để làm sáng tỏ nội dung của các khái
niệm trên, trước hết cần phải xác định rõ nội dung của các khái niệm có liên quan
trực tiếp tới hoạt động của con người. Đó là khái niệm "chủ thể" và "khách thể".
Trong hoạt động thực tiễn, con người đối lập với thế giới vật chất khách quan
như là đối tượng bên ngoài mà họ cần tác động và cải tạo, nhằm thỏa mãn những nhu
cầu và lợi ích của mình. ở đó, con người là chủ thể hoạt động. Những đối tượng chịu
sự tác động của con người chính là khách thể bị cải tạo. Con người với tư cách là
một chủ thể được hiểu có thể hoặc là toàn thể nhân dân, hoặc là một giai cấp, hoặc
một nhóm người, hoặc là một cá nhân nào đó. Còn khách thể là toàn bộ hiện thực
khách quan tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của chủ thể, được chủ thể sử dụng với
tư cách là đối tượng hoạt động thực tiễn của mình.
Các khái niệm: chủ quan và chủ thể, khách quan và khách thể quan hệ gắn bó
chặt chẽ, nhưng không đồng nhất với nhau. Nhân tố chủ quan, về thực chất, là những
phẩm chất, những thuộc tính về ý thức, ý chí của chính chủ thể hành động. Về mặt cơ
cấu, nhân tố chủ quan bao gồm: tri thức, ý chí, tình cảm và năng lực tổ chức hành
động của chủ thể, chúng chỉ phối hợp và biểu hiện ra trong hoạt động của chủ thể.
Những phẩm chất này bao giờ cũng có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Nếu như
nhân tố chủ quan phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể, thì điều kiện khách quan
lại lệ thuộc vào khách thể, vào những mối liên hệ của khách thể. Đó là tất cả những
gì tạo nên một hoàn cảnh hiện thực, quy định và tác động vào mọi hoạt động của chủ
thể, tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể hoạt động. Điều kiện khách quan
là một tổng thể các yếu tố, các bộ phận có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hệ
thống các thuộc tính, các mối liên hệ bản chất, quy luật chi phối sự tồn tại và phát
triển của khách thể là bộ phận quan trọng nhất, quyết định nhất.
Luận văn này quan tâm đến điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong
giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học.
Điều kiện khách quan ở đây, là nói tới bản thân người được giáo dục đạo đức
và những điều kiện kinh tế xã hội khác ảnh hưởng tới đạo đức của họ. Người được
giáo dục đạo đức đề cập trong luận văn là học sinh phổ thông trung học.
Đa số học sinh phổ thông trung học là ở lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi này hoạt
động tư duy ghi nhớ, chú ý, hứng thú, khát vọng, ý chí, tình cảm và xúc cảm đều
biến đổi so với thiếu niên. Họ có sức khỏe dồi dào, bộ máy thần kinh và hoạt động
thần kinh bậc cao trung đã hoàn thiện, nên họ có phản xạ chính xác, nhanh nhẹn, dễ
thích ứng hơn với các tác động khác nhau của hiện thực xung quanh, hăng hái trong
hoạt động, ham hiểu biết, thích đổi mới, nhu cầu về tình bạn, tình yêu phát triển
mạnh, những đặc điểm này tác động mạnh tới sự hình thành tư tưởng chính trị ở họ
và khi họ đã xác định được niềm tin, lý tưởng, họ có thể xả thân vì tưởng và phấn
đấu với niềm lạc quan, với sức sống mạnh mẽ để đạt được niềm tin và lý tưởng đó.
Tư duy của họ so với thiếu niên đã có hệ thống hơn, có tính phê phán hơn,
do vậy khi tiếp thu tri thức chính trị, nhất là tri thức lý luận, họ thường đòi phải
chứng minh, luận giải chặt chẽ. Vì có sự hiểu biết, họ có khả năng tranh luận, khả
năng tìm tòi đọc thêm sách báo, các nguồn thông tin khác để bổ sung cho tri thức của
mình. Sự phát triển hoàn chỉnh về tâm sinh lý cũng cho phép họ có khả năng tự tìm
hiểu, tự nghiên cứu những vấn đề chính trị xã hội. Học sinh ở lứa tuổi thanh niên
thích sinh hoạt cộng đồng, thích giao lưu. Vì vậy, họ tự nguyện và tích cực tham gia
các hoạt động đoàn thể, hoạt động lớp, các lễ hội, hoạt động chính trị xã hội, và
chính qua các hoạt động đó, họ được rèn luyện năng lực thực tiễn. ở họ, không có
tính bảo thủ, trì trệ như người lớn tuổi. Vì vậy, họ dễ thích ứng với đường lối đổi
mới, dễ thích ứng với các chủ trương, chính sách mới. Vì họ quan tâm đến tương lai,
luôn hướng về tương lai nên họ cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất
nước, của thời cuộc. Điều đó giúp họ xác định phương hướng tiến thân lập nghiệp.
Khả năng cảm thụ xúc cảm, đồng cảm của họ phát triển cao, do vậy họ cởi
mở để hòa nhập, thích những hình thức hoạt động văn hóa nghệ thuật, dễ cảm thông
với người khác. ở họ, kinh tế chưa độc lập, còn phụ thuộc gia đình. Vì vậy, họ coi
trọng các quan hệ xã hội, coi trọng gia đình, tích cực học tập, tích cực học thêm.
Những kiến thức họ được học ở phổ thông có tính chất cơ bản, phổ cập không bị gián
đoạn, chưa va chạm trong thực tế, nên khi học ở phổ thông trung học đảm bảo tính
liên thông, tính kế thừa và phát triển. Khi học ở phổ thông, họ đã ý thức được vị trí
của mình qua các chủ trương chính sách, quy định, quy chế hiện hành. Vì vậy họ
phải có sự tự điều chỉnh, tự rèn luyện, sự vươn lên trong môi trường phổ thông trung
học. Những sự tác động trên đã đưa họ vào những hoạt động cụ thể một cách tích cực
như: nghe nói chuyên đề về chế độ chính sách pháp luật, tham gia lao động công ích,
tham gia hoạt động văn hóa văn nghệ, quyên góp từ thiện, ủng hộ Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, tìm hiểu về Đảng, Bác Hồ ...
Vì có hoài bão, ước mơ, có lý tưởng chính trị và ý chí vươn lên, nên học sinh
đa số đã tích cực phấn đấu vào Đoàn, tuy nhiên đặc điểm của lứa tuổi cũng có những
mặt hạn chế tác động đến tuổi trẻ học sinh.
Thứ nhất, tâm lý không thích nghe, không thích bàn luận đến các vấn đề
chính trị mà thiên về những vấn đề tình bạn, tình yêu, văn hóa, nghệ thuật. Do đó
chính trị ít được quan tâm. Thứ hai, vì chưa trải qua các hoạt động thực tiễn trong
sản xuất, chiến đấu, thiếu kinh nghiệm sống, vốn sống chưa đủ nên dễ mơ hồ về
chính trị, ngại tham gia công tác đoàn thể. Sự chưa từng trải này nguy hiểm ở chỗ là
dễ bị các thế lực chính trị xấu lôi cuốn thông qua các hình thức hoạt động khác...
Chính vì vậy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: Giáo dục thanh niên không thể tách
rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội. Trong xã hội cũ
có nhiều nọc độc nó làm hại thanh niên, nhất là văn hóa độc ác của Mỹ, nó dùng mọi
cách như sách báo, phim ảnh v.v... để làm cho thanh niên hư hỏng trụy lạc, thậm chí
một số thanh niên hóa ra lưu manh, trộm cắp, cờ bạc, v.v... Người còn nói rằng: Từ
tiểu học, trung học cho đến đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên, óc
những người trẻ tuổi trong sạch như một tấm lụa trắng, nhuộm xanh thì nó sẽ xanh,
nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Có nghĩa là sự chưa từng trải, sự thiếu vốn sống ấy phải được
sự tác động tích cực của nhiều hình thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi để tạo ra nhu
cầu và cũng là để chiếm lĩnh khoảng trống trong họ trên mặt trận tư tưởng. Do có sức
sống dồi dào, có nguyện vọng muốn được thử sức mình nhưng lại chưa đủ kinh
nghiệm sống và không phải mọi mục tiêu đặt ra đều được ý thức rõ ràng, cho nên đôi
khi trong thâm tâm học sinh không thấy thỏa mãn, họ dễ thay đổi mục tiêu đã đề ra.
Họ thường quan tâm tới bản thân và nhân cách của mình nên càng đề cao mình quá
mức, và trong mọi hoạt động họ đều muốn thử sức, muốn bộc lộ khả năng của mình
và nhiều khi không phân biệt hoạt động đó là xấu, là tốt thế nào. Những đặc điểm
này dẫn đến dễ ngả nghiêng trước những bước ngoặt, trước những vấn đề phức tạp
của cuộc sống, dẫn đến những hành động bột phát trái với pháp luật, trái với đạo đức,
với những tiêu chuẩn hành vi đã được xã hội chấp nhận, nhất là trong lối sống, nếp
sống. Bác Hồ đã nêu rõ trong bức thư gửi thanh niên: Nói tóm lại: ưu điểm của thanh
niên ta là hăng hái giàu tinh thần xung phong; khuyết điểm là: ham chuộng hình
thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh "anh hùng".
Ngoài sự tác động của các đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đạo đức của học sinh
phổ thông trung học còn chịu ảnh hưởng không nhỏ của các điều kiện kinh tế - xã hội
khác.
Nhờ đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng qua 15 năm đổi
mới, đất nước ta không những đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm
trọng mà còn tăng trưởng kinh tế nhanh.
Nhiều công trình kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây
dựng, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đời sống vật chất của đại bộ phận nông dân
được cải thiện. Nhờ vậy nhiều gia đình học sinh đã có mức sống cao hơn, học sinh
khi tốt nghiệp ra trường có thêm điều kiện xin việc làm, ăn uống tuy chất lượng chưa
cao nhưng số lượng có thể đảm bảo, nhiều học sinh có khả năng đã theo học nhiều
lớp nghề, bổ túc kiến thức về chuyên môn, một số học sinh vẫn có thể làm tiếp việc
nhà, hình thức ăn mặc phong phú, màu sắc đa dạng hơn trước, đa số có phương tiện
đi lại riêng.
Sự tác động của những mặt trên đã làm cho nhân dân và học sinh phấn khởi,
lòng tin và sự gắn bó với Đảng, với chế độ được củng cố. Con đường độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh đã
bước đầu khơi dậy ở học sinh những lý tưởng và hoài bão cao đẹp. Nhờ thành tựu
kinh tế, họ thấy được sự đúng đắn của đường lối đổi mới và ý thức sâu sắc hơn về
mối quan hệ gắn bó giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thấy được tầm quan
trọng của nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ quá độ và
trách nhiệm học tập của mình.
Mặt khác, cơ chế thị trường trong mấy năm gần đây cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến việc hình thành đạo đức của học sinh. Cơ chế thị trường đã gây ra sự phân
hóa giàu nghèo, xuất hiện sự bất công trong xã hội "kẻ ăn không hết, người lần
không ra", lối sống chạy theo sự sùng bái của đồng tiền,... Nhiều thanh niên học sinh
tiêm nhiễm tâm lý tiêu xài, đua đòi chơi sang, tiêu dùng hàng ngoại đắt tiền, nhưng
vì gia đình không đủ cung cấp nên đã trở thành lưu manh, trộm cắp.
"Kinh tế thị trường - như Đảng ta đã xác định - có những mặt tiêu cực, mâu
thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức,
là tâm lý sùng bái đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm". Kinh tế thị trường,
dĩ nhiên cũng có sự tác động tích cực chẳng hạn như trong mấy năm gần đây, phần
đông học sinh quan tâm lo lắng đến kết quả học tập của mình, vì có liên quan trực
tiếp đến tương lai sau này. Nhưng vì ở nước ta, cơ chế thị trường đang ở giai đoạn sơ
khai, mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp, vẫn chưa phát
huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường, vẫn chưa hạn chế được nhiều mặt tiêu
cực của cơ chế đó. Vì thế, cho nên trong xã hội xuất hiện nhiều tiêu cực: tư tưởng
thực dụng, lối sống chạy theo đồng tiền, nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất
chính và nhiều tệ nạn xã hội khác phát triển nghiêm trọng đã làm cho nhiều người
dao động, giảm sút niềm tin vào đường lối chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng
và Nhà nước, một số xa rời lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo đức. ở học sinh,các biểu
hiện trên có tác động tới tư tưởng tình cảm đạo đức của họ. Học sinh xuất thân từ các
giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau, lại đang trong giai đoạn còn phụ thuộc nhiều
vào gia đình cả về kinh tế lẫn kinh nghiệm sống. Vì vậy, trong học sinh không thể
không bị ảnh hưởng của cách sống, cách suy nghĩ và hành động của các nhóm người
trong xã hội và của gia đình. Một số học sinh chỉ vì học "gạo", học "đối phó" một
cách máy móc, nhận thức hời hợt về những vấn đề lý tưởng, do đó không lý giải nổi
thực tế tiêu cực nảy sinh từ cơ chế thị trường, họ nghi ngờ hoang mang trước hiện
tại, lo lắng cho tương lai dẫn đến giảm sút niềm tin, xao lãng việc học tập, rèn luyện,
không đủ bản lĩnh để đấu tranh vượt qua những cái xấu, cái tiêu cực. Từ đó, một số
bị cuốn hút vào những dòng xoáy tiêu cực như ham chơi, cờ bạc, uống rượu, đánh
nhau, trộm cắp, đua đòi, ăn diện, ỷ lại, buông thả, chỉ đòi quyền lợi, hưởng thụ,
không nghĩ đến nghĩa vụ và trách nhiệm, cống hiến, không tích cực học tập và rèn
luyện,...
Nhân tố chủ quan trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông
trung học là nói tới những người, những tổ chức với tất cả ý chí, tình cảm và năng lực
của họ tham gia vào công tác này.
Nói đến nhân tố chủ quan trong công tác giáo dục cho học sinh phổ thông
trung học, trước hết phải nói đến đội ngũ giáo viên.
Đội ngũ giáo viên là đội ngũ những người thầy giáo, cô giáo làm việc trong
ngành giáo dục. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, họ là những người trực tiếp làm nhiệm vụ
giảng dạy hoặc tham gia vào quá trình giáo dục trong các trường học.
Giáo viên là nhân tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của giáo dục.
Khẳng định điều đó, Điều 14 Luật Giáo dục đã chỉ rõ: Nhà giáo giữ vai trò quyết
định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục, giáo viên đóng vai trò chủ đạo trong
quá trình sư phạm, trong các hoạt động đa dạng của học sinh. Nhà giáo phải không
ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho nguời học.
Để xứng đáng vị trí và vai trò của mình trong công tác giáo dục ở nhà trường,
người giáo viên phải có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng những yêu cầu sau:
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý, chương trình giáo dục.
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và
điều lệ của nhà trường.
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách của
người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng
của người học.
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người học.
Người giáo viên trong các trường học không chỉ có nhiệm vụ truyền đạt cho
học sinh những kiến thức, kỹ năng lao động thực hành... mà còn phải là một tấm
gương, một mẫu mực về đạo đức, về giáo dục đạo đức cho người học.
ở các trường phổ thông trung học, một số giáo viên được phân công giảng dạy
môn giáo dục công dân. Đó là môn học trực tiếp giáo dục đạo đức, chính trị và lý
tưởng cho học sinh. Tuy nhiên, giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học
không chỉ dừng lại ở môn học đó và cũng không phải chỉ là trách nhiệm của những
giáo viên đó. Trong khoa học sư phạm nói chung, cũng như truyền thống giáo dục ở
nước ta, giáo viên trong các trường học ngoài việc truyền đạt cho học sinh những tri
thức về những môn học cụ thể còn phải lồng ghép trong những bài giảng đó nội dung
giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách cho người học.
Do đó, người giáo viên trong các trường học, đặc biệt là ở các trường phổ
thông trung học phải vừa là người hướng dẫn, vừa là người cố vấn quá trình học tập,
rèn luyện cho học sinh, đồng thời vừa là người trọng tài trong việc đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện của học sinh. Giáo viên, đặc biệt là ở nước ta có vai trò tích cực
trong việc rèn luyện về phẩm chất đạo đức, xây dựng nếp sống văn hóa, ý thức tôn
trọng pháp luật của học sinh. Thông qua việc truyền thụ kiến thức văn hóa, khoa học,
người thầy là người tốt nhất để xây dựng cho học sinh những tình cảm tốt đẹp, những
nhận thức chính trị, tư tưởng đúng đắn.
Trong mấy năm qua nhiều trường chưa xác định đúng vị trí của công tác giáo
dục đạo đức cho thanh niên học sinh, chưa thấy được mối quan hệ giữa giáo dục đạo
đức với giáo dục văn hóa, thậm chí coi nhẹ buông lỏng việc bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng, đạo đức cho thế hệ trẻ, chạy theo dạy văn hóa đơn thuần, chạy theo thi cử.
Ngay cả trong việc đào tạo cán bộ giáo viên, bồi dưỡng giáo viên ở trường phổ thông
trung học chỉ trang bị năng lực giảng dạy văn hóa, mà chưa quan tâm đến năng lực
giáo dục đạo đức.
Sự giáo dục trang bị nhận thức cho thanh niên học sinh không đầy đủ sai
lệch, giáo dục theo kiểu chủ quan, duy ý chí, phiến diện, giáo điều chỉ bắt thanh niên
học sinh công nhận một chiều, thiếu tư duy biện chứng để phù hợp với sự phát triển
của thời đại, xã hội có sự biến động; tri thức không kịp thời đổi mới, thanh niên học
sinh không được phân tích định hướng kịp thời. Nhận thức không đầy đủ đúng đắn
lại bị thực tiễn diễn ra đầy mâu thuẫn, đảo lộn chân lý trong cuộc sống xã hội và
ngay trong cuộc sống nhà trường. Hiện tượng dùng tiền để thay cho việc học, dùng
tiền để mua bằng cấp, lấy sự quen biết móc ngoặc để kiếm chác. Kể cả cho kẻ lười
biếng, dốt nát lại đỗ đạt qua các kỳ thi mà còn được học bổng, khiến cho người chăm
chỉ, học lực giỏi nản lòng, khiến cho một số thanh niên học sinh suy nghĩ nông cạn,
ưa hưởng thụ mà ngại học hành, làm việc, lấy cái đó mà làm cái cớ bào chữa cho sự
lười học, để đến các kỳ thi dùng thủ thuật để quay cóp...
Trong những năm qua, mặc dù có nhiều khó khăn về kinh tế, các thầy cô giáo
đã cố gắng làm thêm bằng nhiều hình thức để tăng thêm thu nhập nâng cao đời sống,
nhưng vẫn giữ nếp sống mẫu mực của người thầy giáo, không ít thầy cô giáo tận tâm
với nghề nghiệp, say mê nghiên cứu, đọc thêm sách biên soạn giáo trình, giáo án có
chất lượng. Nhưng trong các trường phổ thông trung học hiện nay vẫn có những giáo
viên chăm việc dạy ngoài, dạy thêm hơn là việc giảng dạy trong chương trình nội
khóa, còn số giáo viên lâu năm trong nghề mà ít đọc thêm sách chuyên môn, hiện
tượng tổ chức quản lý học sinh trong những năm gần đây bị buông lỏng... uy tín,
nhân cách, tác phong, thái độ của người giáo viên cũng để lại dấu ấn mạnh mẽ trong
ký ức học sinh và góp phần thuyết phục học sinh trong sự tiếp nhận nội dung bài
giảng, đó là sự tín nhiệm của đồng nghiệp, của dư luận, sự đàng hoàng, chững chạc
trong cuộc sống. Trong ăn mặc, nói năng, cư xử, sự tin tưởng vào bản thân mình và
những vấn đề do chính mình truyền đạt, sự am hiểu để có thể giải đáp hoặc cùng học
sinh trao đổi, bàn luận những vướng mắc ở họ. Chỉ cần một chi tiết nhỏ thể hiện sự
lạc hậu thông tin cũng đủ làm lung lay uy tín của người thâỳ. Có trường hợp cuộc
sống của thầy quá nghèo, cách ăn mặc thường không đàng hoàng chững chạc (áo cho
ra ngoài quần, chân đi dép lê v.v...), bài giảng nhạt nhẽo, chỉ cốt đọc cho trò ghi, về
nhà phải làm thêm, không có thời gian đọc sách nghiên cứu v.v... Hoặc cũng có giáo
viên khi giảng giáo dục công dân thì thao thao bất tuyệt, nhưng lại luôn luôn xen vào
những câu bình luận, liên hệ mỉa mai, hài hước, lấy những ví dụ dung tục rẻ tiền để
minh họa, gây cười, tạo ra sự hứng thú không lành mạnh, mất tác dụng bài giảng,
thậm chí phản tác dụng về mặt chính trị.
Qua đó, chúng ta thấy hình ảnh người giáo viên đối với học sinh rất quan
trọng. Muốn hình thành được ở họ lòng tin vào chủ nghĩa xã hội, vào đường lối đổi
mới, vào lý tưởng ngày mai v.v... thì trước hết họ phải có tình cảm, phải được thuyết
phục bởi chính người thầy dạy họ những cái đó. Tuổi trẻ có lẽ dễ bị thuyết phục khi
tính khoa học, tính chân thực được kết hợp chặt chẽ với tính thẩm mỹ và tính lãng
mạn cách mạng, tức là từ cái đẹp của hiện thực trước mắt, cái đẹp trong khó khăn để
nuôi những ước mơ về cái đẹp trong tương lai.
Để đạt hiệu quả cao của giáo dục đạo đức trong nhà trường cần phải có
phương pháp phù hợp. Nghị quyết Bộ Chính trị về cải cách giáo dục ghi rõ: "Công
tác giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức cách mạng phải thông qua tất cả các hoạt
động giáo dục gắn học tập lý luận, hoạt động thực tiễn". Vì vậy, việc đổi mới này
phải thực hiện trên cả hai khâu cơ bản truyền thụ kiến thức và tổ chức hoạt động
nhằm đạt hiệu quả trên cả ba mặt: tri thức, niềm tin và hành động, thông qua hoạt
động giảng dạy và học tập. Muốn giáo dục đạo đức cách mạng, hình thành thế giới
quan khoa học phải bằng nhiều biện pháp, nhưng biện pháp cơ bản nhất và quan
trọng nhất là phải thông qua việc giảng dạy và học tập các môn học. Mặc dù có nhiều
môn học trong đó không nói một lời nào về đạo đức cách mạng, nhưng lại bao hàm
một nội dung đạo đức sâu sắc, chẳng hạn như môn toán học, vật lý học. Ngoài việc
làm phong phú tri thức cá nhân như những tiền đề cho việc xây dựng quan niệm đạo
đức thì bản thân chúng với tư cách là khoa học, nó làm cho con người hướng tới cái
chân, hướng tới cái thiện. Sự hình thành một hệ thống kiến thức ấy với tư cách là
một hệ thống lôi cuốn chặt chẽ sẽ góp phần rèn luyện tính trung thực, thái độ thẳng
thắn, tính nguyên tắc cho người học. Mặt khác, thông qua các môn học sẽ cung cấp
cho học sinh những kiến thức khoa học khách quan, có hệ thống để xây dựng niềm
tin, tình cảm đạo đức cho học sinh. Trên cơ sở tri thức ấy, họ có cách nhìn về thế giới
và rèn luyện cho mình nề nếp xem xét con người, cuộc sống xung quanh theo
phương pháp khoa học. Như vậy, hoạt động giảng dạy và hoạt động trong nhà trường
không những phát triển năng lực trí tuệ, mà thông qua việc bồi dưỡng trí tuệ phải
nhằm giáo dục thế giới quan, hình thành niềm tin tư tưởng, quan điểm sống tích cực
tạo ra một chất lượng về lối sống, nghĩa là tạo ra một hệ thống giá trị nhân cách. Đặc
biệt là bộ môn giáo dục công dân góp phần tích cực, trực tiếp vào việc xây dựng thế
giới quan, đạo đức cộng sản cho thanh niên học sinh.
Ngoài ra, các môn học khác giúp cho học sinh nắm được quy luật của mối
quan hệ giữa các nhóm xã hội, các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã hội, sử
học cung cấp kiến thức về quy luật vận động của các chế độ xã hội trong quá khứ,
trong đó có các trào lưu tư tưởng chính trị trong lịch sử v.v... và bản thân giáo viên
môn học bộc lộ thái độ chính trị qua bài giảng, qua liên hệ, qua tiếp xúc với học sinh.
Nói đến nhân tố chủ quan trong giáo dục còn phải nói tới hình thức giáo dục,
phương pháp giáo dục. Hình thức giáo dục là loại hình tổ chức để thực hiện quá trình
giáo dục một cách có hiệu quả tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu và nội dung giáo dục.
Thông qua hình thức giáo dục mà các phương pháp giáo dục được thực hiện, phương
pháp giáo dục là cách thức chuyển tải, cách thức tác động để đưa được nội dung giáo
dục từ chủ thể giáo dục tới người tiếp nhận giáo dục, hiện nay đang tồn tại các hình
thức giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục thông qua hoạt động đoàn thể chủ yếu là
đoàn thanh niên, hội thanh niên... hình thức tự giáo dục của học sinh, do học sinh tự
quản. Chẳng hạn, việc giáo dục ngoại khóa của nhà trường cũng giúp học sinh nắm
được sâu sắc các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các diễn
biến, các sự kiện chính trị trong và ngoài nước xác định được lợi ích, phương hướng,
chính trị của bản thân, nâng cao hiểu biết và kỹ năng thực hành chính trị. Nội dung
công việc như tập trung chỉ đạo học chính trị đầu năm cho học sinh gồm tình hình
nhiệm vụ chung, tình hình nhiệm vụ năm học mới, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về giáo dục đào tạo, nội quy quy chế quản lý học sinh của trường, giới
thiệu truyền thống của trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, tổ chức nói chuyện
thời sự trong nước và quốc tế, tổ chức nghiên cứu quán triệt các chủ trương chính
sách lớn của Đảng, Nhà nước. Thông qua hệ thống phát thanh truyền hình, bản tin
nội bộ, cung cấp cho học sinh các thông tin cần thiết, tổ chức các hoạt động lễ hội,
giáo dục truyền thống vào dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn hàng năm, phối hợp với
đoàn thanh niên, hội thanh niên, công đoàn duy trì các hoạt động văn hóa văn nghệ
thể dục thể thao, câu lạc bộ (hái hoa dân chủ), bên cạnh đó nắm diễn biến tình hình
tư tưởng học sinh để kịp thời có sự điều chỉnh hoạt động cho thích hợp. Đây là mảng
giáo dục vừa cung cấp tri thức lý luận, vừa cung cấp tri thức kinh nghiệm, vừa đưa
học sinh vào hoạt động thực tiễn, có định hướng rõ ràng, tăng cường mối giao lưu để
rèn luyện nhân cách cho họ.
Đoàn thể học sinh tham gia chủ yếu là đoàn thanh niên và hội thanh niên, đây
là hai tổ chức mang tính chất xã hội vì đó không phải là đảng chính trị, cũng không
phải là tổ chức quyền lực nhà nước, nhưng ở nước ta tính chất chính trị của đoàn và
hội thanh niên... được biểu hiện ở ý nghĩa chính trị trong hoạt động của tổ chức ấy.
Mọi sinh hoạt, hoạt động của đoàn thanh niên, hội thanh niên đều nhằm giáo dục,
nâng cao nhận thức chính trị cho các thành viên (tổ chức các hoạt động cho các thành
viên), tổ chức các hoạt động cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Tích
cực tham gia xây dựng nhà nước, thực hiện thắng lợi các đường lối chủ trương của
Đảng. Thông qua việc tuyên truyền vận động và thuyết phục, thông qua tổ chức các
hoạt động chính trị xã hội, các tổ chức này tác động mạnh mẽ tới việc hình thành tình
cảm, niềm tin, lý tưởng, nghĩa vụ, trách nhiệm, bản lĩnh và năng lực hoạt động chính
trị của học sinh... Đoàn thanh niên và hội thanh niên là tổ chức phù hợp với lứa tuổi
học sinh phổ thông trung học. Các tổ chức này cần có nhiều hoạt động phong phú, sôi
nổi hấp dẫn, vừa mang tính giáo dục, vừa đáp ứng được yêu cầu giải trí có ích, vừa
tạo cho họ môi trường hoạt động tập thể lành mạnh. Đoàn thanh niên trong trường
học còn là nơi giáo dục cho đoàn viên thể hiện được tính tiên phong gương mẫu, tích
cực trong hoạt động chính trị, rèn luyện để trở thành những người đảng viên. Đoàn
cần phối hợp hoạt động với nhà trường đảm bảo quyền làm chủ của học sinh, động
viên được học sinh quan tâm đến các công việc xã hội hóa. Đoàn thanh niên, một mặt
có chức năng tham mưu cho lãnh đạo trên cơ sở nắm bắt được tình hình tư tưởng
chính trị của học sinh để đề xuất những chủ trương, biện pháp có tính định hướng
giáo dục cao, tác động đến học sinh qua các hoạt động ngoài thời gian lên lớp hoặc
kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn tác động đến học sinh thông qua
các môn học để xác lập phương hướng chính trị đúng, đảm bảo sự ổn định về tư
tưởng, tạo được nề nếp, kỷ cương trong học tập, sinh hoạt nhằm thực hiện mục tiêu
đào tạo. Vì vậy, người cán bộ Đoàn hoạt động trong nhà trường không chỉ là người
hiểu biết về chính trị mà còn phải hiểu về giáo dục, về tâm lý thanh niên, về văn hóa
nghệ thuật, v.v... Họ không chỉ là người đề xuất mà còn là người biết tổ chức, biết
phối hợp, biết quản lý các hoạt động chính trị xã hội trong nhà trường, công việc của
họ, vừa mang tính chất quản lý, vừa mang tính chất trực tiếp giáo dục, đồng thời lại
mang tính chất phong trào, gần gũi với học sinh, không bị cách biệt bởi tính "mô
phạm" của người thầy, nên ảnh hưởng của họ đối với học sinh cũng rất trực tiếp và
quan trọng trong việc hình thành niềm tin, bản lĩnh và khả năng thực hành chính trị.
Cái mà họ mang đến cho học sinh thường phù hợp với nhu cầu, sở thích của học
sinh, nhất là các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, câu lạc bộ sở thích
v.v... Họ thường đảm đương việc truyền đạt cho học sinh về đường lối chính sách,
tình hình thời sự trong nước, ngoài nước, nội quy, quy chế của nhà trường, các hoạt
động văn hóa, thể dục thể thao, thực hành thường là phối hợp với đoàn thanh niên,
hội thanh niên để cùng thực hiện. Có thể nói, những tri thức mà học sinh đã học ở
các môn lý luận được bổ sung hoàn thiện, được cụ thể hóa, được làm phong phú
thêm, được vận dụng vào thực tiễn, được củng cố là thông qua các hoạt động đa dạng
này.
Nói tới nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông
trung học không thể không nói tới gia đình.
Gia đình như Mác và Ăngghen viết trong Hệ tư tưởng Đức - ngay từ đầu đã
tham gia vào quá trình phát triển của lịch sử, đó là nơi mà "hàng ngày tái tạo ra đời
sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác sinh sôi, nảy nở, đó
là quan hệ giữa chồng và vợ; cha mẹ và con cái". Gia đình vừa là một thiết chế xã
hội, vừa là một nhóm tâm lý xã hội đặc biệt, thực hiện các chức năng cao quý, tái sản
xuất ra con người, tái sản xuất ra sức lao động, tái sản xuất ra của cải vật chất và giá
trị tinh thần. Đó là nơi con người được sinh ra, được nuôi dưỡng và trưởng thành, là
mạch nguồn, là chiếc nôi ban đầu nuôi dưỡng và hình thành đạo đức con người Việt
Nam theo những chuẩn mực truyền thống của giống nòi. Gia đình là nơi đầu tiên, đào
luyện con người hình thành đạo đức; là môi trường đầu tiên để giáo dục ý thức công
dân, tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội cho mỗi thành viên của nó. Theo cách
nói của giáo sư Vũ Khiêu - gia đình: Đó là trường học đầu tiên để giáo dục con
người đi vào xã hội. Có thể nói, chức năng quan trọng nhất của gia đình là giáo dục
nền tảng đạo lý cho con người, dạy cho con người biết đâu là tình thương, lẽ phải,
đâu là nhân nghĩa thủy chung, đâu là đạo lý làm người (đạo làm con, làm anh, làm
chị, đạo làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ...), còn việc trau dồi kiến thức, nâng
cao trình độ học vấn, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp... thì gia đình có thể trông cậy
vào hệ thống giáo dục quốc dân. Thế mạnh của giáo dục gia đình so với giáo dục nhà
trường và giáo dục xã hội là ở chỗ gia đình có điều kiện để quan tâm, chú ý đến từng
thành viên của mình, biết được mặt mạnh, mặt yếu của nó, hiểu được tâm lý, tính
cách cũng như năng lực, nhất là năng lực tư duy của từng thành viên, từng con
người... Do đó, có phương pháp tác động thích hợp với từng đối tượng trên cơ sở tình
thương và trách nhiệm của mọi thành viên trong gia đình, thực tế cho chúng ta thấy
rằng: cuộc sống và lối sống của gia đình, của bố mẹ tác động trực tiếp đến tình trạng
thể chất cũng như đời sống tinh thần của con cái; nghĩa là ảnh hưởng trực tiếp đến
đạo đức của từng người con. Tục ngữ Việt Nam có câu: "Cha nào con nấy", "giỏ nhà
ai, quai nhà nấy", "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh"... Nếu gia đình
hòa thuận, bố mẹ có cuộc sống vật chất đầy đủ, đời sống tinh thần lành mạnh, phong
phú, ham học hỏi, chuộng tri thức, biết cư xử một cách hợp lý, sống hòa thuận, đức
độ với mọi người, luôn luôn lạc quan, yêu đời; thường xuyên quan tâm, chăm lo đến
sự tiến bộ của con cái... thì con cái dễ thành đạt trong học tập, trên con đường công
danh. Ngược lại, nếu gia đình bất hòa, ly tán, đời sống tinh thần nghèo nàn, "văn hóa
gia đình" ở trình độ thấp, thiếu tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau... sẽ làm ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển đạo đức của con cái. Dưới tác động của nền kinh tế thị
trường, với chính sách đối ngoại mở rộng, hội nhập với nền kinh tế và văn hóa thế
giới, bên cạnh mặt tích cực cần được khẳng định, bản thân kinh tế thị trường cũng có
mặt trái của nó, làm nảy sinh nhiều mặt tích cực: có sự xuống cấp về mặt đạo đức do
đề cao sức mạnh của đồng tiền, đặt quyền lợi cá nhân lên trên mọi đạo lý trong quan
hệ giữa các thành viên gia đình, giữa họ hàng thân tộc. ở một số gia đình, sự thiếu
gương mẫu của cha mẹ trong cách làm ăn, kiếm tiền, trong lối sống,... đã có tác động
xấu đến sự hình thành và phát triển thành phần đạo đức trong cấu trúc nhân cách của
con cái. Vai trò to lớn của gia đình trong việc giáo dục con cái thể hiện một cách rõ
nét nhất trong việc gia đình biết định hướng giá trị đúng cho các con để họ phấn đấu
vươn lên trong cuộc sống, trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội.
Trong thực tế có nhiều gia đình, bố mẹ tuy trình độ học vấn thấp, thậm chí
rất thấp, song họ lại là những người "hiểu biết", nắm bắt được những định hướng giá
trị xã hội chủ yếu, biết nuôi dạy con cái, biết hướng con cái hành động theo những
chuẩn mực đạo đức chân chính, dành hết tình cảm và công sức nuôi dạy con cái, đầu
tư cho con cái học tập để con cái nên người và làm người. Nhiều và rất nhiều những
người con sinh ra trong những hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, nhưng được sự chăm
sóc chu đáo và đúng mực của các bậc phụ huynh, họ đã trưởng thành một cách nhanh
chóng, đem lại niềm tin và sự tự hào, hiển vinh và sự tôn trọng cho cha mẹ. Đây là
nét đẹp của văn hóa Việt Nam cần tiếp tục phát huy.
1.2. Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học
sinh phổ thông trung học, một đòi hỏi bức thiết hiện nay
Thế hệ học sinh phổ thông trung học hiện nay được sinh ra và lớn lên trong
hoàn cảnh đất nước có hòa bình. Khác thế hệ học sinh trước, thế hệ học sinh ngày
nay ít bị khổ cực về mặt vật chất, ít hiểu biết quá khứ và càng dễ dàng lãng quên
hoặc phủ nhận những truyền thống tốt đẹp của chính cha mẹ mình. Trước sự tác động
của kinh tế thị trường và những biến động phức tạp khác, đạo đức học sinh vừa qua
có diễn biến phức tạp, nhất là ở lứa tuổi cuối cấp trung học cơ sở và phổ thông trung
học. Qua nhiều năm tổng kết, đánh giá thực trạng đạo đức của học sinh phổ thông
trung học ở Kiên Giang chúng tôi xin rút ra một số nhận định sau đây:
Học sinh phổ thông về bản chất vẫn giữ được tinh thần yêu nước, hăng hái
tham gia các hoạt động chính trị, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, và những hoạt
động xã hội phù hợp. Một bộ phận học sinh giỏi về văn hóa được tập trung ở lớp
chọn, trường chuyên, bộ phận này thật sự cố gắng học tập, say mê rèn luyện. Tuy
nhiên, số đông học sinh và ngay cả số học sinh giỏi cũng đã có những dấu hiệu lãng
quên truyền thống, xem nhẹ tư tưởng chính trị, thời sự, do đó kém hiểu biết mặt này.
Biểu hiện tư tưởng cầu an, thiếu đấu tranh trước các hiện tượng tiêu cực có chiều
hướng phát triển, cả tập thể bao che khuyết điểm cho một vài cá nhân vì muốn "giúp
đỡ bạn". Nhiều khi để biểu thị phản ứng trước những chủ trương hoặc cách đối xử
thiếu sư phạm của một số giáo viên, số học sinh nam thường biểu thị một thái độ tiêu
cực, ít tham gia các công tác chung của tập thể, tinh thần tập thể, ý thức tự quản, còn
nặng nề về hình thức, chỉ có 39 - 50% học sinh phổ thông trung học có ý thức tự quản.
Sống trong cơ chế bao cấp, học sinh trở nên ỷ lại, thụ động. Số đông học sinh có ý thức
kỷ luật trật tự ở trường, ở lớp và ở gia đình, song chưa thật sự tự giác và tùy thuộc vào
điều kiện tổ chức, một bộ phận học sinh (17%) có ý thức xấu đối với việc thực hiện kỷ
luật, trật tự... hiện tượng chửi bậy, nói tục khá phổ biến, tỉ lệ học sinh chậm tiến với
mức độ vi phạm nội quy và học sinh hư chủ yếu là vi phạm luật pháp, qua theo dõi từ
1996 - 2000 giảm ở trong nhà trường từ gần 3,2% xuống 1,8%. Cùng với những ưu
điểm và thiếu sót, bộc lộ khá cơ bản ở lứa tuổi thanh niên học sinh phổ thông trung
học, cần phải nhìn nhận và hiểu cho thấu đáo những mong muốn, những tâm tư
nguyện vọng của lớp trẻ, họ rất mong muốn một xã hội công bằng, một sự gương mẫu
của người lớn, mong muốn được giáo viên đối xử công bằng, họ coi thường những
giáo viên thiếu nhân cách, những cán bộ học sinh, cán bộ đoàn thiếu gương mẫu.
Trong một số trường hợp bị giáo viên "trù dập" "dồn đến chân tường", học sinh phản
ứng lại liều lĩnh, gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Đánh giá thực trạng đạo đức của học sinh không thể không nói tới công tác
giáo dục đạo đức hiện nay
Các hoạt động giáo dục ngoài nhà trường đối với học sinh phổ thông trung
học; cái được là từ hè 1996 cơ chế tổ chức hoạt động cho đoàn, hội thanh niên được
hình thành và bước đầu hoạt động có hiệu quả. Hoạt động này kéo theo sự hình thành
một bộ phận phụ trách để quản lý, điều hành hoạt động của đoàn thanh niên, đồng
thời tổ chức hoạt động cho chính học sinh phổ thông trung học. Các chi đoàn, đội cờ
đỏ của học sinh cũng được hình thành và tiến hành hoạt động trong một thời hạn nhất
định, thời gian chủ yếu trong ba tháng hè. Trong thực tế đã xuất hiện những mô hình
tốt được khẳng định, hội học sinh phổ thông trung học các trường Nguyễn Trung
Trực, Huỳnh Mẫn Đạt, Rạch Sỏi, Tân Hiệp... đã có một cơ chế tổ chức quản lý chặt
chẽ, một chương trình hoạt động phù hợp, có hiệu quả giáo dục.
Tuy nhiên, hình thức giáo dục này chưa phải là phổ biến do nhận thức của
cán bộ quản lý, giáo viên, cha mẹ học sinh về việc tổ chức hoạt động ngoài nhà
trường cho học sinh phổ thông trung học còn chưa được đặt thành một vấn đề cấp
thiết.
Vả lại, chương trình học văn hóa quá nặng nên không còn thời gian để học
sinh tham gia các hoạt động ngoài giờ. Quy chế đánh giá chưa thay đổi, tốt nghiệp
THPT vẫn qua một kỳ thi là chính nên học sinh coi việc học thi là mục đích cần phấn
đấu, bỏ qua các hoạt động khác.
Sự cần thiết phải giáo dục học sinh THPT trên địa bàn dân cư là vấn đề khỏi
phải bàn cãi. Đã lâu ngành giáo dục có mục tiêu "giáo dục vào ba môi trường" nhà
trường - gia đình - xã hội. Mục tiêu đó có ý nghĩa nếu như, chủ thể giáo dục biết sử
dụng tất cả tính tích cực của nó.
Với mục tiêu này, nhà trường trung học phải biết phát huy tất cả những tiềm
năng vốn có của mình trong việc "dạy chữ, dạy nghề, dạy người", và mỗi thầy giáo,
cô giáo của trường phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Các em học sinh
vào trường cảm thấy mình được đối xử, được học tập và rèn luyện, đó là những yếu
tố ban đầu, có sức thuyết phục trong giáo dục đạo đức đối với thanh thiếu niên học
sinh. Hiệu quả của giáo dục sẽ tăng lên nếu có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường
và địa phương. Thực tế cho thấy ở nhiều nơi do phương thức hoạt động của trường
kết hợp với địa bàn dân cư tốt nên những việc phức tạp đã giảm hẳn, tình hình an
ninh trật tự hết sức khả quan, sự phát triển dân trí trong địa bàn dân cư nâng lên rõ
rệt. Trong dịp nghỉ tết, nghỉ hè không học sinh nào vi phạm trật tự công cộng, cũng
như phạm pháp hình sự.
Nói về phương hướng lớn, chính sách thanh niên trong điều kiện hiện nay,
Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương (khóa VII) ghi rõ: "Thanh niên
học sinh là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự
nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí
xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng
thanh niên học sinh, và việc rèn luyện bồi dưỡng lực lượng thanh niên. Công tác
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng" [8]. Công tác vận động thanh niên trong thời kỳ đổi mới
thì thanh niên học sinh là một lực lượng quan trọng, đặc biệt nòng cốt, là những
người đang ngồi trên ghế nhà trường, đang được giáo dục đào tạo để trở thành người
công dân, người cán bộ bước vào đời để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để giúp họ
xứng đáng và gánh vác trách nhiệm nặng nề trên, nhà trường phổ thông trung học
phải có trách nhiệm giáo dục, đào tạo họ trở thành người có phẩm chất và có năng
lực tương xứng, trong đó đạo đức cách mạng là cái gốc, cái cốt lõi. Muốn giáo dục
đạo đức cách mạng trong tình hình hiện nay có hiệu quả, người làm công tác giáo
dục phải xác định nội dung giáo dục, phương hướng, biện pháp, hình thức phù hợp
với kinh tế xã hội hiện nay. Cơ sở cốt lõi của đạo đức cách mạng là thế giới quan và
nhân sinh quan cộng sản. Vì vậy, việc hình thành thế giới quan và nhân sinh quan là
một điều cần thiết, trung tâm của các trường phổ thông trung học. Thế giới quan là hệ
thống quan điểm về thế giới, các quan niệm của con người trong thế giới đó. Hình
thành thế giới quan, nhân sinh quan, là tạo nên sự thống nhất giữa ý thức và hành
động, giữa lời nói và việc làm, tạo nên sự thống nhất của trí tuệ, niềm tin và hành
động. Thế giới quan khoa học là kim chỉ nam cho hành động, biến chuyển từ tri thức
thành phương pháp, biết sử dụng tri thức một cách tổng hợp và có hệ thống như một
phương pháp và dùng phương pháp đó để phân tích hiện tượng của quá trình, của
cuộc sống, làm cho nhận thức đạt trình độ sâu sắc, bản chất hơn, biết phát hiện
những yếu tố mới, hoặc xem xét đánh giá từ những quan điểm và phương pháp mới.
Do đó, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng cho thanh niên học sinh
là cần thiết, đặc biệt trong tình hình hiện nay.
Lý tưởng là mục tiêu cuộc sống được phản ánh vào đầu óc con người dưới
hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi cuốn mạnh toàn bộ cuộc sống cá
nhân, chỉ đạo sự tu dưỡng và hành động của cá nhân trong một thời gian dài để vươn
tới mục tiêu đó. Như vậy lý tưởng của thanh niên học sinh, có vai trò rất quan trọng
trong việc hình thành đạo đức cách mạng của họ. Nếu xác định lý tưởng đúng đắn,
cao đẹp, người thanh niên học sinh sẽ trở thành một nhân tố có ích cho xã hội.
Những năm vừa qua với chủ trương, với chính sách mở cửa nhằm xây dựng và phát
triển đất nước chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về mọi mặt. Việc
chuyển từ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường đã làm thay đổi khá căn bản tâm lý của dân cư, mà trước hết là
thanh niên học sinh. Vì vậy, về mặt lý tưởng sống của thanh niên học sinh hiện nay,
chúng ta cần xác định cho phù hợp để kích thích động viên họ vươn lên làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội. Đã có một thời, chúng ta quan niệm lý tưởng thanh niên là lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, với sự hy sinh phấn đấu chính trị, đặt lợi ích của chủ nghĩa
xã hội lên trên hết. Nói như vậy, xét cho cùng thì không sai nhưng chưa đủ, chúng ta
đã quên đi hoặc không nhấn mạnh cái riêng của thanh niên học sinh, quá nhấn mạnh
con người cộng đồng, tập thể của thanh niên học sinh, xem nhẹ cá nhân, cá thể của
họ. Thực tế cho thấy hiện nay bên cạnh sự hy sinh, phấn đấu và cống hiến cho sự
phát triển của cộng đồng, tập thể, thanh niên rất quan tâm đến lợi ích cá nhân của gia
đình mình. Vì vậy, khi nghiên cứu nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh
niên cần phải nghiên cứu với tư cách là một công dân trẻ, với tư cách là cá thể cộng
đồng trong điều kiện kinh tế - xã hội và với thực tế hiện nay, nội dung giáo dục lý
tưởng cho thanh niên học sinh: cần phải kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cộng đồng với
lợi ích cá nhân.
Giáo dục lý tưởng đi phải đôi với giáo dục niềm tin, "niềm tin thường choán
lấy tâm hồn của con người và trở thành sợi dây ràng buộc không thể dứt ra mà
không làm tan nát trái tim". Niềm tin là sự thống nhất kiến thức và khát vọng của
con người. Bởi vậy nó trở thành chỉ đạo hành động hàng ngày. Niềm tin lý tưởng và
quan điểm đạo đức có quan hệ trực tiếp với hành động hàng ngày của nhân cách, nó
thôi thúc và hướng dẫn nhân cách trong lao động, trong học tập và thực tiễn những
công việc hàng ngày của con người. Các chuẩn mực đạo đức sẽ chẳng có ý nghĩa gì
nếu nó tồn tại ngoài ý thức chính trị, lý tưởng và niềm tin. Do đó, cần có sức mạnh
của ý chí, ý thức, niềm tin khoa học dựa trên cơ sở, những chứng cứ khoa học, tri
thức và tư tưởng đúng đắn về chân lý khách quan, nên bảo đảm cho ý chí và hành
động có hiệu quả. Vì vậy, cần củng cố niềm tin vào hệ tư tưởng Mác - Lênin, vào sự
nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, định hướng lại lý tưởng và niềm tin vững
chắc cho thanh niên học sinh.
Về sự tác động của nhu cầu hoạt động và học tập của học sinh. Nhu cầu là
những đòi hỏi của con người muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát
triển, còn lợi ích là cái thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Nói đến nhu cầu, là
nói đến đòi hỏi, đến sự cần thiết bên trong của cá nhân về một cái gì đó ở ngoài nó,
cái đó có thể là một sự vật, một hiện tượng hoặc những người khác. Những cái đó
được cá nhân nhận thức về tính thiết yếu của nó đối với sự tồn tại và phát triển của
mình. Lúc đó, nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy hoạt động đạt tới lợi ích nhằm
thỏa mãn nhu cầu. ở học sinh, nhu cầu về tình bạn là rất quan trọng, nó giúp cho học
sinh luôn hướng tới tập thể, tạo ra mối quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, hình thành mối
quan hệ tình cảm sâu sắc trong đời sống cá nhân mỗi người.
Trả lời câu hỏi "khi có những ước mơ hoặc nguyện vọng gì đó đối với
trường, lớp, bạn thường giải quyết như thế nào ?"
Học sinh thị
xã (%)
Học sinh
Rạch Sỏi (%)
Học sinh
huyện (%)
- Đề đạt với trường
- Đề đạt với lớp
- Đề đạt vối Đoàn TN
- Đề đạt với hội
- Tâm sự với bạn bè
16,4
36,3
3,8
3,7
56,8
10,0
46,1
5,0
_
58,5
7,2
20,0
3,1
2,1
67,4
- Chịu đứng 1 mình cho qua 18,3 10,1 13,5
Qua số liệu trên, cho ta thấy rõ đặc điểm lứa tuổi ở họ rất cần đến tình bạn,
qua đó, thấy bạn bè gần gũi với họ hơn cả và ở họ có thể có các nhóm bạn bè sau:
bạn bè theo quan hệ đồng hương, bạn bè cùng sở thích, bạn bè cùng lứa tuổi, bạn bè
trong học tập,... nhu cầu bạn bè khiến họ luôn luôn sống trong cộng đồng, tạo ra sự
giao lưu chân thực, góp phần hình thành nhân cách trong mỗi con người, đó chính là
mối quan hệ xã hội trong phạm vi hẹp và cũng rất sâu sắc trong đời sống tình cảm.
Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp quan hệ bạn bè nặng nề về tình cảm, nhẹ về lý
trí dẫn đến bao che, đua đòi giúp nhau làm việc xấu. Bản thân học sinh hướng tới
môi trường bè bạn không phải là xu hướng xấu, môi trường bè bạn là điều kiện quan
trọng đối với việc hình thành nhân cách con người, nhưng điều đáng e ngại là ở chỗ
trong điều kiện hiện nay, công tác giáo dục khó tiếp cận, khó điều chỉnh, đặc biệt là
những nhóm bạn và những thủ lĩnh tự phát của nhóm bạn đi vào những hoạt động
không lành mạnh như uống rượu, hút thuốc, cờ bạc, đua xe,... gây nên những hậu quả
xấu trong xã hội. Không chỉ có nhu cầu về bạn bè, học sinh còn có nhu cầu về hoạt
động văn hóa tinh thần. Nhu cầu đó giúp họ gần gũi, tiếp cận với bản sắc dân tộc, với
truyền thống dân tộc, với văn hóa nhân loại đã được điển hình hóa, góp phần nâng
cao tính thẩm mỹ, tính hướng thiện, hình thành nhu cầu và thị hiếu lành mạnh trong
hoạt động văn hóa nghệ thuật và trong cuộc sống, tâm hồn tình cảm. Tuy nhiên, nhu
cầu về sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của học sinh trong điều kiện kinh tế thị trường
cũng có những thay đổi đáng chú ý, họ ưa thích ca nhạc nước ngoài ở mức 64,83%,
trong khi ca nhạc hiện đại Việt Nam ở mức 59,09% và ca nhạc dân tộc chỉ ở mức
26,75%, thậm chí có một số học sinh có nhu cầu sai lệch đến mức coi thường bản sắc
văn hóa dân tộc, quay lưng lại với truyền thống, hướng tới những hoạt động không
lành mạnh. Đối với học sinh một nhu cầu nữa không thể không nói tới là nhu cầu
được học tập, được nâng cao trình độ văn hóa. Nhu cầu học tập của học sinh hiện nay
cũng có chuyển biến, nếu như trước kia học sinh thường chú trọng chọn trường do ý
thức cá nhân và nặng về ý nghĩa xã hội, thì ngày nay học sinh chú trọng chọn ngành
có điều kiện phát triển cá nhân mình, ngành dễ có việc làm và có thu nhập cao. Nếu
như trước kia chọn nghề theo thứ hạng "nhất y, nhì dược,...", thì ngày nay là "nhất
anh, nhì tin, tam kinh, tứ luật" hoặc một bộ phận không nhỏ chú ý tới ngành kiến
trúc, xây dựng là những ngành đang được đắc dụng. Như vậy, xuất phát từ nhu cầu
học tập để có nghề nghiệp đắc dụng sau này mà bản thân học sinh đã có sự chuyển
dịch nhận thức từ thụ động, ỷ lại nhà trường, gia đình và xã hội, sang thế chủ động,
tự lập, có ý chí tiến thân lập nghiệp. Tuy vậy, việc chuyển từ cơ chế bao cấp, sang cơ
chế thị trường, người học sinh cũng chuyển sang tình trạng chú trọng về chuyên môn
hơn, có phần xem nhẹ phẩm chất chính trị.
Nếu năm 1997 họ quan niệm: học giỏi là được (48 - 52%), tích cực phấn đấu
và rèn luyện toàn diện (33 - 40%), mọi mặt chỉ cần đạt yêu cầu là được (19 - 24%),
sống không có quan điểm (6 - 7%), thích sống tự do buông thả (6 - 8%); đến năm
1998 có sự thay đổi, quan niệm học giỏi được tăng lên 68,7% và học vấn luôn được
nâng cao 64,8%,... như vậy ta thấy thứ hạng lựa chọn của họ là gắn với cái thị trường
lao động cần hơn là những cái cơ bản phẩm chất.
Điều tra năm 1999 học sinh học thêm nhiều môn chiếm 29,9%, học sinh học
thêm một môn chiếm 64,7%, học sinh không học thêm gì chiếm 10,5%. Số học sinh
tự giác đi học thêm ngoài nhà trường gần 80% là biểu hiện mới, đáng khích lệ, cái
mà học sinh học thêm nhiều nhất là ngoại ngữ thu hút 79,4% học sinh đi học, toán tin
45,3%, việc học thêm đó cũng làm xao lãng việc học những kiến thức trong chương
trình nhà trường nhất là môn giáo dục công dân và tham gia hoạt động chính trị xã
hội, đó là điều hạn chế cần khắc phục.
Trước những biến đổi phức tạp như đã phân tích ở trên, một số người cho
rằng không cần và không thể giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Vì họ cho
rằng đạo đức cá nhân vốn có trong bản thân con người từ khi mới sinh ra là vĩnh cửu
không thể thay đổi được. Hoặc cũng có những người khác cho rằng đạo đức có
nguồn gốc từ kinh tế, vì vậy, chỉ cần đẩy mạnh kinh tế là mọi thứ tiêu cực, mọi hành
vi vô đạo đức sẽ tự động mất đi.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin con người không phải chỉ là sản
phẩm của hoàn cảnh mà còn là chủ thể của hoàn cảnh, con người không phải chỉ là sản
phẩm bị động của hoàn cảnh mà còn là khả năng cải tạo hoàn cảnh, thông qua đó,
con người tự cải tạo mình. Chúng ta cần thực hiện tốt việc kết hợp hữu cơ quá trình
giáo dục con người với quá trình cải tạo hoàn cảnh. Như vậy, trong hoàn cảnh kinh tế
xã hội có những mặt tiêu cực, không nhất thiết con người sẽ xấu về mặt đạo đức, vì
con người có ý thức phê phán, cải tạo mình và cải tạo hoàn cảnh. Ngoài ra, còn nhiều
nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển đạo đức, trong đó, có vai trò của
nhân tố giáo dục là một nhân tố quan trọng.
Tóm lại, con người thì được sinh ra, còn đạo đức thì không được sinh ra, đạo
đức chỉ được hình thành và phát triển thông qua hoạt động giao tiếp, giáo dục,...
trong đó hoạt động giao tiếp được coi là nhân tố trực tiếp quyết định đến sự hình thành
và phát triển đạo đức, còn giáo dục được xem là yếu tố chủ đạo. Về thực chất giáo dục
đạo đức là giáo dục khả năng tự giáo dục, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự thẩm định, tự điều
chỉnh hành vi đạo đức của mỗi cá nhân. Nhằm đánh thức lương tâm, khơi dậy lòng
nhân ái, đức tính vị tha, sự bao dung trong mỗi con người. Trong giáo dục đạo đức
nhân tố chủ quan đóng vai trò quan trọng. Hiện tượng có phần bị xuống cấp về đạo
đức của học sinh phổ thông trung học trong thời gian qua có nguyên nhân từ chỗ yếu
kém của nhân tố chủ quan.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, chủ trương về
công tác thanh niên như Nghị quyết 25/BCT (khóa VI), Nghị quyết Trung ương 4
(khóa VII)... Các nghị quyết này đã thể hiện sự quan tâm toàn diện của Đảng và Nhà
nước ta trong việc chăm lo bồi dưỡng con người mới, góp phần làm chuyển biến
nhận thức ở nhiều nơi, nhiều cấp. Nhưng xét trên tổng thể, nó vẫn chưa thực sự được
đưa vào cuộc sống, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng. Điều đó thể hiện
trên các mặt sau:
Thứ nhất: Vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan làm công tác giáo dục
đào tạo ít được chú ý phát huy. Điều đó không chỉ thể hiện ở chỗ ngân sách cho giáo
dục đào tạo chưa xứng với yêu cầu đòi hỏi, mà còn thiếu cả biện pháp hành chính để
tạo điều kiện có một môi trường lành mạnh, trong sạch, công bằng, kỷ cương cho
giáo dục. Chính vì thế, nhà trường - nơi nuôi dưỡng đạo đức, lý tưởng, nhân cách
hoài bão, ước mơ, trí tuệ và thể lực... cho học sinh cũng không tránh khỏi sự xâm
nhập, tấn công của các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội...
Thứ hai: Chúng ta chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các
ngành, các lực lượng xã hội trong việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ. Một số nơi, cấp
ủy đảng thiếu sự chỉ đạo thường xuyên, chính quyền buông lỏng quản lý, trong khi
đó nhiều gia đình các ông bố, bà mẹ mải lo làm ăn, ít quan tâm tới việc giáo dục con
cái, thậm chí một số ít còn làm gương xấu cho con cái. Một số tổ chức chính trị - xã
hội tập trung đầu tư công sức nhiều vào làm kinh tế, tham gia quản lý điều hành các
dự án... mà ít quan tâm tới trách nhiệm phối hợp với ngành giáo dục đào tạo và đoàn
thanh niên trong công tác giáo dục thế hệ trẻ. Nếu có sự tham gia tích cực hơn của
gia đình và các đoàn thể xã hội, chắc chắn việc giáo dục thế hệ trẻ sẽ thuận lợi hơn
rất nhiều.
Thứ ba: Bản thân ngành giáo dục, trước nhất là các nhà trường còn nhiều yếu
kém và lúng túng. Điều đó gây không ít khó khăn cho công tác giáo dục đạo đức,
chính trị, xây dựng nhân cách và lý tưởng sống của học sinh, thể hiện chủ yếu trên
các mặt:
Một là, ở những mức độ khác nhau, các nhà trường đều nhận thức được tầm
quan trọng của công tác chính trị, tư tưởng và đã tổ chức các hoạt động giáo dục bồi
dưỡng cho học sinh theo quy định của ngành. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục công
dân mới chỉ tiến hành ở bậc phổ thông (mặc dù nhiều nội dung trong chương trình
giáo dục công dân còn phải xem xét lại cho có hệ thống và chính xác). Các chủ
trương, chính sách cụ thể liên quan đến đời sống, học tập, việc làm của học sinh thì
thông tin quá ít ỏi và thường chậm, việc giải thích, hướng dẫn thực hiện thiếu sự nhất
quán; thậm chí nhiều chủ trương thay đổi liên tục gây thắc mắc lúng túng trong học
sinh. Do chưa coi trọng đúng mức nội dung giáo dục đạo đức, chính trị ngay từ khi
xây dựng chương trình cho từng cấp học, ngành học nên công tác quản lý, kiểm tra
việc thực hiện nội dung này ở các trường cũng buông lỏng. Do đó, nhiều sai phạm
kéo dài không được uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời. Nhìn chung, trong thời gian qua,
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, chính trị còn rất thấp.
Hai là, mặt trái của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng trực tiếp vào trong nhà
trường, nhất là những tiêu cực trong học tập, thi cử, cấp bằng... đã làm "chao đảo
niềm tin của xã hội, ... vào công bằng xã hội và kỷ cương phép nước" (Báo Nhân
Dân ngày 13-12-1991). Nhà trường có nơi đã bị thương mại hóa nên tình trạng mua
bằng, bán điểm xảy ra nghiêm trọng. Hàng loạt vụ tiêu cực trong quản lý thi cử đã
không được xử lý nghiêm, thậm chí còn được lãnh đạo một số trường và ngành giáo
dục đào tạo dung túng, bao che, khiến cho việc thi cử đã trở thành một căn bệnh, làm
đau lòng, nhức nhối cả xã hội. Rồi chuyện dạy thêm, học thêm không lành mạnh theo
kiểu "học đón đầu" (học trước chương trình), "học bù" (vì thời gian dạy chính thức ở
lớp không dạy hết chương trình"!... với những khoản đóng góp của học sinh được
một số người hiểu là xã hội hóa giáo dục, đã làm cho tình cảm thày trò bị tổn thương,
làm xói mòn truyền thống "tôn sự trọng đạo" bao đời nay của dân tộc. Những vi
phạm kỷ cương phép nước và truyền thống đạo lý nghề dạy học của một số người, ở
một số nơi đã làm ảnh hưởng đến việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống cho
học sinh của đại bộ phận thầy, cô giáo chân chính hết lòng vì học sinh, của các tổ
chức đảng, chính quyền và đoàn thanh niên.
Ba là, các chủ trương cải cách, nội dung chương trình giáo dục thay đổi liên
tục dẫn đến sự hoang mang, lo lắng không chỉ của học sinh, mà của tất cả các gia
đình có con em đang đi học. Đồng thời, việc này còn gây lãng phí rất lớn nguồn lực
cho đào tạo của nhà nước, của xã hội, vì gắn với mỗi thay đổi là một lần phải đầu tư
lại, chưa nói đến hiệu quả nhận được và nếu sai thì ảnh hưởng cho cả một thế hệ.
Việc giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ít được chú ý theo định hướng, nhu cầu của
đất nước (về số lượng, tỷ lệ cơ cấu theo ngành nghề, cấp bậc đào tạo...), mà có lúc
còn bị lạc hướng, chạy đua, tập trung vào các ngành nghề hiện được coi là "mốt".
Như vậy, đây không còn thuần túy là vấn đề đạo đức chuyên môn, mà là cả vấn đề
đạo đức, nhân cách, trách nhiệm của toàn xã hội đối với thế hệ trẻ.
Bốn là, vấn đề đời sống, bảo đảm điều kiện sinh hoạt, học tập, rèn luyện, vui
chơi cũng có ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục đạo đức, ý thức chính trị cho học sinh.
Đời sống của học sinh, nhất là học sinh ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khó khăn
gay gắt. Bên cạnh việc đại bộ phận số học sinh này cố gắng khắc phục khó khăn, bảo
đảm học tập bằng các việc làm chính đáng, cũng còn một số ít tìm cách xoay sở bằng
mọi cách, kể cả vi phạm pháp luật và các quy định chuẩn mực về nếp sống, đạo đức.
Môi trường văn hóa, xã hội quanh các nhà trường không phải ở mọi nơi đều lành
mạnh. Những kẻ xấu vì đồng tiền sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, lôi kéo, giăng
cạm bẫy để đưa học sinh sa ngã vào con đường bất chính như cờ bạc, nghiện hút ma
túy, ăn chơi trụy lạc, mại dâm, trộm cắp... Từ đó, các âm mưu và thủ đoạn "diễn biến
hòa bình" có mảnh đất thuận lợi để thực hiện. Bị thất bại trong chiến dịch "chuyển
lửa về quê nhà" cuối những năm 80, đầu 90 và bị chúng ta tấn công quyết liệt trong
tổ chức thực hiện Nghị định 87/CP, các thế lực thù địch và kẻ xấu đã chuyển sang
những thủ đoạn tinh vi và nguy hiểm hơn như: tăng cường tiếp sức cho việc buôn
bán ma túy nhằm vào đối tượng học sinh; đưa sách báo văn hóa phẩm độc hại bằng
kỹ thuật cài đặt vào các chương trình máy tính; tổ chức các hoạt động tôn giáo trái
pháp luật trong học sinh... Trong khi đó, kinh tế thị trường đã làm cho hầu hết các
hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí... đều phải hạch toán. Nhiều
hoạt động hấp dẫn tuổi trẻ nhưng tuổi trẻ không thể tham gia do thiếu kinh phí, địa
điểm và điều kiện tổ chức. Phải chăng, hiện nay chúng ta vẫn còn đang né tránh
những sự thật này, thậm chí nhiều nơi còn có xu hướng muốn khỏa lấp đi vì sự ảnh
hưởng đến thành tích của địa phương, cơ sở?
Những vấn đề nêu trên đang hàng này, hàng giờ tác động đến công tác giáo
dục đạo đức, chính trị và lý tưởng cho học sinh. Trong những điều kiện đó, các tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thanh niên... cùng đội ngũ những người làm công tác
giáo dục đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn để thực hiện nhiệm vụ của mình,
góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn cho đất nước, đào tạo ra lớp
người lao động mới phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù vẫn còn một bộ phận học sinh sa sút về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng
và hoài bão, nhưng đại đa số học sinh hiện nay có ý thức chính trị tốt, thừa nhận các
kết quả đổi mới đất nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước, có trách nhiệm với gia đình, với đất nước, do đó có ý thức học tập và rèn
luyện để trở thành người lao động chân chính, trong kết quả đó có sự nỗ lực đóng
góp của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Với việc phát động phong trào "học
tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh", các phong trào hoạt động lớn của tuổi trẻ trường học những năm qua như các
hoạt động giáo dục truyền thống, khuyến học, khuyến tài, nhân đạo, từ thiện, giáo
dục pháp luật, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao... do đoàn thanh niên
các cấp tổ chức đã có tác dụng nhất định trong việc tập hợp, giáo dục học sinh định
hướng, chuẩn bị cho họ hành trang vào đời, tham gia xây dựng đất nước do Đảng
lãnh đạo. Các hoạt động đó cũng đã tạo môi trường phấn đấu, rèn luyện cho một bộ
phận đoàn viên thanh niên tự khẳng định mình và trưởng thành. Nhiều người trong
số đó đã vươn lên thực hiện lý tưởng của Đảng và vinh dự được đứng trong hàng ngũ
của Đảng. Bên cạnh đó, cũng đã bộc lộ những mặt còn thiếu sót, yếu kém của đoàn
thanh niên như: chưa đoàn kết và tập hợp được rộng trãi đoàn viên thanh niên học
sinh; một số hoạt động chưa có hiệu quả và tác dụng thiết thực. Đoàn và hội chưa tìm
ra giải pháp để giáo dục và ngăn chặn kịp thời một bộ phận học sinh, đoàn viên vi
phạm kỷ luật, đạo đức. Vẫn còn một bộ phận học sinh mang tư tưởng thực dụng và
trung bình chủ nghĩa... Đội ngũ cán bộ đoàn, hội tuy rất nhiệt tình, nhưng chưa hoàn
toàn an tâm công tác vì còn thiếu một chính sách cụ thể và sự quan tâm, động viên
thỏa đáng đối với họ.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một sự nghiệp vĩ đại mà
yếu tố quyết định sự thành công là con người, nhưng trên hết và trước hết vẫn phải là
bảo vệ được thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ được nhân dân
và Đảng. Vì vậy, vấn đề quan trọng số một là chuẩn bị đội ngũ những người lao
động, những trí thức mới có bản lĩnh chính trị và lòng trung thành với lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, có đạo đức công dân tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bảo đảm
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác giáo dục thế
hệ trẻ nói chung, công tác giáo dục đạo đức, chính trị cho học sinh nói riêng càng có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Chính vì vậy, việc nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học hiện nay là vấn đề bức xúc.
Chương 2
Những Giải Pháp Định Hướng NÂNG CAO
VAI Trò NHÂN Tố Chủ QUAN TRONG Giáo Dục Đạo Đức CHO Học SINH
phổ thông trung học Hiện NAY
2.1. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường, nâng cao
tinh thần trách nhiệm, phẩm chất, năng lực của thầy, cô giáo trong giáo dục đạo
đức cho học sinh phổ thông trung học
Để thực hiện mục tiêu của trường phổ thông trung học về "giáo dục công dân,
giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên vì tương lai của bản
thân và tiền đồ của đất nước" mà Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu ra cần phải có
một môn học riêng về đạo đức. Hiện nay, trường phổ thông trung học đã xác định đó
là môn giáo dục công dân. Môn học này có hai chức năng cơ bản: một là trang bị cho
học sinh một cách trực tiếp và có hệ thống những tri thức cơ bản về thế giới quan
Mác - Lênin, về đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng Cộng sản Việt
Nam, pháp luật xã hội chủ nghĩa và đạo đức xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên không phải
chỉ có môn giáo dục công dân mới cho học sinh biết những tri thức đó. Nhưng chỉ
môn học này mới giúp cho học sinh có những kiến thức một cách trực tiếp và có hệ
thống. Những tri thức do môn giáo dục công dân đem lại cho học sinh có những tác
dụng sau:
Một là: Tạo ra một cơ sở quan trọng để tiếp thu tốt hơn các môn học khác và
các hoạt động giáo dục khác, làm cơ sở khoa học cho sự tu dưỡng, rèn luyện tư
tưởng, chính trị, đạo đức và ý thức pháp luật; giúp học sinh những cơ sở bước đầu để
bước vào đời sống xã hội hoặc tiếp tục học lên.
Hai là: Góp phần hình thành những cơ sở tư tưởng ý thức chính trị, pháp luật
và đạo đức xã hội chủ nghĩa của người công dân, chuẩn bị cho học sinh thực hành
đúng quyền và nghĩa vụ của công dân trong một vị trí xã hội của họ sau khi ra
trường.
Những cơ sở đó phải được thể hiện ngay trong thời gian học tập ở nhà
trường. Cụ thể là: phải có thái độ học tập đúng đắn, trước hết là nghiêm túc học tập
có kết quả môn giáo dục công dân, có ý thức đóng góp cụ thể vào việc hoàn thành
những nhiệm vụ cụ thể từng học kỳ, từng năm học của nhà trường. Hăng hái tham
gia các hoạt động chính trị xã hội, góp phần cụ thể vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở địa phương, có những phản ứng tích cực với những hình thức và mức độ
khác nhau đối với những biểu hiện tiêu cực trong tập thể học sinh và trong đời sống
xã hội. Như vậy, môn giáo dục công dân một mặt là một môn khoa học xã hội như
các môn khoa học xã hội khác, và mặt khác nó có tác dụng bồi dưỡng một cách có hệ
thống những vấn đề tư tưởng, ý thức chính trị, pháp luật và đạo đức. Muốn vậy, một
trong những phương hướng quan trọng bậc nhất hiện nay là phải quán triệt sâu sắc
các quan điểm của Đảng, nâng cao nhận thức đối với công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh, coi công tác giáo dục đạo đức, lối sống,... là những nội dung giáo dục
không thể thiếu được. Thực hiện bằng được lời căn dặn của Bác Hồ: Đạo đức học
phải là một ngành khoa học xã hội và những người có trách nhiệm phải đi sâu
nghiên cứu chuyên cần hơn nữa, phải trở thành một môn học không thể thiếu được
trong các trường phổ thông trung học. Để thực hiện lời dạy đó của Người, trước hết
ngành giáo dục đào tạo phải quán triệt sâu sắc tinh thần, quan điểm trong các văn
kiện của Đảng đối với công tác giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh
cho học sinh.
Nhà trường, như Lênin nói là: đem lại cho thanh niên học sinh những kiến
thức cơ bản, dạy cho họ tự biết tạo ra những quan điểm cộng sản và phải đào tạo họ
thành những người có học thức vững vàng trước những biến động xã hội, biết phân
tích một cách khoa học những hiện tượng tiêu cực diễn ra trong xã hội, hiểu được
nguyên nhân đẻ ra những hiện tượng đó, tự tạo ra cho mình một cơ chế phòng ngừa
tích cực và có hiệu quả. Trong giáo dục nhà trường, giáo dục đức dục và giáo dục trí
dục, hai nhân tố cơ bản của cấu trúc đạo đức là những nội dung quan trọng nhất, giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, giáo dục đạo đức phải dựa trên nền tảng
của giáo dục trí tuệ - một lĩnh vực hoạt động nhằm phát triển năng lực trí tuệ và tư
duy khoa học cho học sinh. Qua đó, thế giới quan khoa học được hình thành, tạo điều
kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục đạo đức. Giáo dục
đạo đức trong nhà trường bao quát một phạm vi rộng lớn nhưng phương hướng cơ
bản của nó là: kết hợp giáo dục những giá trị đạo đức mới, những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc với những giá trị đạo đức phổ quát của nhân loại và của
thời đại từ truyền thống đi đến hiện đại, từ hiện đại để nâng cao truyền thống. Qua
đó, sự phát triển về mặt đạo đức ngày một cao, sự hình thành bộ mặt tinh thần của
học sinh ngày một phong phú. So với các tổ chức, thiết chế xã hội khác, nhà trường
có vai trò hết sức quan trọng và nhiều lợi thế trong công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh. Thông qua giảng dạy và học tập môn đạo đức học, giáo viên có điều kiện
giúp cho học sinh nắm bắt được một cách có hệ thống, khái quát và toàn diện nhất về
những khái niệm, phạm trù, nguyên tắc cơ bản của đạo đức học. Trên cơ sở đó mà
hình thành ý thức, tình cảm, niềm tin và mục đích cuối cùng là để tạo lập những thói
quen, hành vi có đạo đức, biết hành động theo lẽ phải và sự công bằng, biết sống
không chỉ vì mình, cho mình mà còn cho người khác vì người khác. Cùng với việc
trang bị cho học sinh hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các nguyên tắc cơ bản
của đạo đức học mà nhà trường - thông qua các hình thức hoạt động (lao động, sinh
hoạt đoàn thể, giao lưu văn hóa...) để giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp họ hiểu
thêm các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần truyền thống dân tộc, rèn luyện ý thức tập
thể, tính cộng đồng, tính nhân ái. Một thực tế cho thấy, những năm qua nhà trường
chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các hình
thức hoạt động trên. Trong các trường phổ thông trung học, hai tổ chức Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Thanh niên Việt Nam có vai trò hết sức quan
trọng đối với công tác này, nhưng hai tổ chức đó, ở nhiều trường chưa phát huy hết
vai trò của mình, một bộ phận lớn học sinh không muốn sinh hoạt đoàn thể vì những
hoạt động này chưa có nội dung và hình thức hấp dẫn, chưa giải quyết được những
tâm tư tình cảm nguyện vọng của học sinh, thậm chí ở một số nơi, đoàn thanh niên
trong thời gian dài đã không sinh hoạt. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giáo dục nhà
trường giữ vị trí trung tâm trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học,
bởi vì nơi đây là môi trường giáo dục thuận lợi nhất, có một tập thể học sinh cùng
thực hiện một nhiệm vụ chính trị cơ bản của mình là học tập, rèn luyện tu dưỡng vì
ngày mai lập nghiệp, vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Dưới sự dẫn
dắt điều khiển của các nhà sư phạm có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, với phẩm
chất đạo đức tốt đẹp, đồng thời họ còn là những nhà tổ chức, quản lý học sinh, đào
tạo họ trở thành những con người có ích cho xã hội.
Bài phát biểu tại Đại hội Đảng bộ Đại học sư phạm 19/01/1996, nguyên Tổng
bí thư Đỗ Mười có nói: "Chúng ta khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của thầy cô
giáo và giáo dục nhà trường trong vấn đề nâng cao đạo đức cho học sinh và phát
triển nhân cách cho học sinh, cho thế hệ trẻ, xây đắp nên nền dân trí của đất nước,
đào tạo toàn bộ nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát hiện, bồi
dưỡng nhân tài cho các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội" [29]. Có một thực tế cần
được nhận thức một cách sâu sắc bằng tư duy biện chứng duy vật là: bên cạnh đại bộ
phận các thầy giáo, cô giáo chân chính, hết lòng vì học sinh thân yêu, bên cạnh
những nhà trường thật sự trở thành nơi bồi dưỡng, đào tạo nhân tài cho đất nước,
nguồn nhân lực có tay nghề cao, với phẩm chất đạo đức trong sáng, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng còn có nơi nhà trường bị
"thương mại hóa", nhiều vụ tiêu cực trong thi cử, trong dạy thêm học thêm một cách
tràn lan đã làm cho tình cảm cao quý giữa thầy và trò bị tổn thương, vị trí xã hội của
người thầy bị suy giảm, làm xói mòn truyền thống "tôn sư trọng đạo" lâu đời của dân
tộc, ảnh hưởng không nhỏ đến việc tuyên truyền giáo dục đạo đức, lối sống tốt đẹp,
lành mạnh cho học sinh. Dẫu không phải là cái bản chất, song đó là một thực tế cần
phải khắc phục, trả lại môi trường giáo dục lành mạnh cho con em chúng ta - những
chủ nhân tương lai của đất nước. Ngày nay, trong lý luận dạy học, quan điểm "lấy
học sinh làm trung tâm" đang được phát huy trong mối tương quan vốn có của quá
trình sư phạm: "Học sinh là trung tâm, giáo viên là chủ đạo". Quá trình này một mặt
nhấn mạnh, đề cao vai trò tích cực học tập của học sinh, mặt khác, cũng đề cao vai
trò, trách nhiệm của người thầy trong việc giáo dục, đào tạo những công dân và cán
bộ tốt, những người chủ tương lai tốt cho nước nhà như Bác Hồ từng căn dặn. Trong
mối tương quan vốn có của quá trình sư phạm này, trên bình diện đạo đức và giáo
dục đạo đức, đòi hỏi người thầy phải làm thế nào phát huy cao độ tính độc lập, sáng
tạo và tự chủ của học sinh trong tiếp thu kiến thức cũng như xử lý tình huống có vấn
đề, trang bị cho họ một thế giới quan và phương pháp luận khoa học để họ tự giải
đáp những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, đội ngũ các thầy
cô giáo phải không ngừng nghiên cứu, nắm bắt những thông tin mới, không ngừng
nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, chống "sự lão hóa" về mặt kiến thức, chống
sự "tụt hậu" về trình độ và tư duy khoa học, đồng thời phải chú ý trau dồi phẩm chất
đạo đức của người giáo viên xã hội chủ nghĩa, thật sự là tấm gương sáng cả về phẩm
chất và năng lực chuyên môn, có tác dụng giáo dục đạo đức to lớn, có sức cảm hóa
đối với học sinh. Trong bài "Về vai trò của giáo viên và vị trí của hệ thống sư phạm",
nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân viết: "Mỗi giáo viên
phải không ngừng trau dồi phẩm chất, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ, trau dồi năng lực, khai thác hợp lý mối quan hệ tác động qua lại giữa
thầy và trò, giữa dạy và học, tạo ra động lực bên trong của quá trình học tập rèn
luyện của học sinh" [33]. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò của giáo dục nhà trường cần phải được
nâng cao, địa vị và uy tín của đội ngũ thầy, cô giáo cần phải được củng cố, truyền
thống "tôn sư trọng đạo" cần phải được giữ gìn và phát huy. Trách nhiệm của nhà
trường, của thầy cô giáo đối với học sinh, với xã hội không hề giảm mà ngày càng
nặng nề hơn, lớn lao hơn.
Trong nhà trường, thầy cô giáo là người tiếp nối, duy trì và phát huy bản sắc
văn hóa, truyền thống đạo đức dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là
người có trọng trách sáng tạo ra giá trị cao quý nhất, đó là những con người có đủ
phẩm chất và năng lực, tình cảm và ý chí, khát vọng và niềm tin, ước mơ và hoài
bão, vươn lên những đỉnh cao trong cuộc sống.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) tháng 1-1993, Đảng ta ra
nghị quyết riêng "Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo" đã chỉ rõ chú trọng
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nội dung nhân văn và bản
sắc văn hóa dân tộc... đẩy mạnh giáo dục pháp luật, đạo đức, lối sống... cho học sinh,
coi đó là một trong những nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa quan trọng trong giáo
dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, thương nước, thương nhà, thương
mình, thương người, đại đoàn kết dân tộc, tinh thần quốc tế vô sản để cho giáo dục
và đào tạo góp phần đắc lực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phát
triển con người và thật sự trở thành quốc sách hàng đầu. Sau nghị quyết "Về tiếp tục
đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo" là nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành
Trung ương (khóa VIII) (12-1996) "về định hướng chiến lược phát triển giáo dục
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000",
nghị quyết lần này xác định nhiệm vụ và mục tiêu phát triển giáo dục từ nay đến năm
2000 là: thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các
bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, nhân cách... cho học
sinh.
Gần đây, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII) (tháng 7-
1998) ra nghị quyết "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc" khẳng định: "tư tưởng, đạo đức, lối sống là những lĩnh vực then
chốt của văn hóa" [10] và đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo nhiệm vụ phải coi
trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức lối sống... cho học sinh. Thực tế nhiều năm qua,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức cho học sinh, tiến hành biên soạn một số giáo trình và đề cương bài giảng môn
đạo đức học, tổ chức một số cuộc hội nghị, hội thảo khoa học bàn về công tác giáo
dục đạo đức lối sống cho học sinh.
Chất lượng hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức những
năm qua đã góp phần to lớn trong việc hình thành nhân cách cho học sinh, xuất hiện
ngày càng nhiều tấm gương tiêu biểu trong học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học...
Song, so với yêu cầu và nhiệm vụ, nhìn chung công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức trong nhiều năm qua còn nhiều bất cập, trước hết là về mặt nhận thức, thái
độ, quan điểm đối với vấn đề này trong một bộ phận giáo viên trong các trường. Tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Đảng ta đã phê phán sâu sắc việc buông lỏng
công tác bồi dưỡng lý tưởng cách mạng và đạo đức xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ,
khuyết điểm này lẽ ra phải được khắc phục sớm, song, cho đến nay, như nghị quyết
Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) chỉ rõ: "Công tác
giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức và nhân cách cũng như việc giảng dạy các môn
khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ bị xem nhẹ, hiệu
quả giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin bị hạn chế" [9].
Hiện nay, môn đạo đức học chưa phải là môn học bắt buộc, không có trong
danh mục của bảy chương trình đào tạo ở giai đoạn một, nó vẫn thuộc "phần mềm",
do đó, rất nhiều trường không dạy hoặc chỉ dạy cho một số ít. Đã đến lúc, ngành giáo
dục đào tạo cần thực hiện nghiêm túc Quyết định số 1226/GD-ĐT ngày 06/04/1995
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định một số vấn đề về dạy và học các
môn khoa học Mác - Lênin ở các trường. ở mục 5 có ghi "nội dung giáo dục đạo đức
trong tất cả các loại hình trường với tư cách là môn bắt buộc". Tiếc rằng, quyết định
này đến nay đã được ban hành nhưng không được chỉ đạo thực hiện một cách cụ thể.
Về đội ngũ giáo viên giảng dạy môn đạo đức không được đào tạo chuyên sâu về đạo
đức học, do đó, ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả học tập, giảng dạy của
môn học. Một vấn đề nữa đang đặt ra, là một số giáo viên giảng dạy các bộ môn khoa
học khác thường chỉ nhấn mạnh về mặt "tài" của người cán bộ trong tương lai, không
thông qua các bài giảng của mình mà giáo dục quan điểm, phương pháp luận khoa
học, tư tưởng chính trị và đạo đức cho học sinh. Xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho
học sinh không chỉ ở một bộ phận cán bộ trong nhà trường, đó còn là điểm yếu trong
xã hội. Trong "kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo 1997 - 2001 và định hướng
đến 2020, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của Bộ Giáo
dục và Đào tạo tháng 9/1996 có viết: "Trong xã hội, chưa có sự tôn trọng đúng mức
các giá trị nhân cách về đạo đức phẩm chất, kiến thức kỹ năng, tài năng mà người
học có được nhờ vào giáo dục, đào tạo do đó hạn chế động cơ thúc đẩy học tập, rèn
luyện của học sinh". Đã đến lúc, đòi hỏi chúng ta phải có thái độ khách quan, khoa
học hơn trong việc đánh giá vị trí, vai trò của việc giáo dục đạo đức và giảng dạy
môn đạo đức học trong các trường phổ thông trung học. Trên cơ sở đó, đề ra chủ
trương, biện pháp tích cực, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả môn học, góp
phần hình thành nên những nhân cách học sinh toàn diện phục vụ cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con người phát
triển.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường vai trò của thầy cô giáo là rất quan trọng.
Vì vậy, thầy cô giáo phải phấn đấu làm cho môi trường này có tính thuyết phục mạnh
mẽ đối với thực hành chính trị đạo đức của học sinh, thế giới quan Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, lòng nhân ái cách
mạng, quan điểm và thái độ lao động, nếp sống văn minh phải được chứng minh
trong đời sống nhà trường. Muốn làm được điều đó, nhà trường phải thực hiện những
yêu cầu như: trước hết nhà trường phải là tấm gương để học sinh noi theo, mọi tổ
chức, mọi thành viên trong nhà trường phải thật sự là tấm gương trong việc giáo dục
đạo đức cộng sản, người gác cổng tận tụy làm tròn trách nhiệm gác cổng quản lý
người ra vào; chị phục vụ nhà ăn gọn gàng, sạch sẽ, niềm nở tận tình phục vụ người
ăn; chị nhân viên kế toán làm việc nhanh chóng chính xác, không gây phiền hà cho
người thanh toán... đều là tấm gương sáng làm nâng cao hiệu quả giáo dục. Nhưng
trong đó người thầy giáo phải là tấm gương sáng nhất trong tất cả các tấm gương của
nhà trường, vì rằng, đối tượng của thầy cô giáo là con người, là những học sinh đang
biến đổi về chất. Vì vậy, họ có thể tiếp thu những cái mới, hấp thụ cái xấu. ở thời kỳ
này, tác động của thầy cô giáo rất quan trọng, học sinh mong mỏi và hy vọng ở thầy
cô giáo rất nhiều về tri thức khoa học, phương pháp truyền thụ và lối sống, cách sống
mẫu mực trong sáng, chí công vô tư, tôn trọng và yêu thương học sinh... Sự gương
mẫu, lòng nhân ái sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành những phẩm chất tốt đẹp
cho học sinh. Sự gương mẫu đó sẽ tác động đến quá trình nhận thức và thuyết phục
họ hành động theo yêu cầu của xã hội. Sự gương mẫu của thầy cô giáo làm cho lời
nói của mình có trọng lượng, uy tín của giáo viên nhà trường được nâng cao trước
học sinh. Để xứng đáng với vai trò vị trí của mình, cần xây dựng tập thể giáo viên có
đủ phẩm chất và năng lực làm tốt công tác giáo dục. Các Mác đã nêu một nguyên lý
nổi tiếng: Người đi giáo dục trước hết phải được giáo dục, vì vậy người thầy giáo
phải tự giáo dục mình.
Năng lực giảng dạy đó là ưu thế hấp dẫn của thầy giáo đối với thanh niên học
sinh, đó là năng lực tổ chức hoạt động thưởng thức cho học sinh thông qua bài giảng
bằng ngôn ngữ. Thầy giáo phải giỏi chuyên môn, biết mười dạy một, để tạo nên uy
tín, kính trọng của trò, kiến thức của thầy tạo ra sự khát vọng hiểu biết của trò, để
hướng học sinh hoàn thiện nhân cách theo yêu cầu giáo dục. Muốn thế thầy cô giáo
phải thường xuyên theo dõi thành tựu khoa học mới, những biến đổi thời sự trong
nước và trên thế giới, biết tiến hành nghiên cứu khoa học, có khả năng tự bồi dưỡng
kiến thức, tự cải tiến phương pháp giảng dạy để hoàn thiện khả năng của mình, thầy
giáo phải hiểu được học sinh và làm cho họ hiểu, nghĩ, nói và làm theo yêu cầu giáo
dục.
Nhà trường phải chứng minh được những tình cảm lớn được biểu hiện ngay
trong cuộc sống nhà trường, tạo nên môi trường lành mạnh để tác động đến học sinh.
Từ đó, tạo nên sự thúc đẩy các em thực hành đạo đức ở gia đình và xã hội. Tình thầy,
tình bạn, tình yêu, tình yêu thương quí trọng nhau, tính kỷ luật, văn minh phải thể
hiện lối sống có văn hóa của một trí thức tương lai.
Trước sóng gió của kinh tế thị trường cũng kéo theo sự xuống cấp đạo đức
trong một bộ phận nhân dân, trong đó có một bộ phận thanh niên học sinh và cũng là
lúc các ngành quản lý giáo dục đã quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách mạng
cho học sinh. Các trường phổ thông trung học đã trở về với phương châm "tiên học lễ,
hậu học văn". Có lẽ chúng ta đều hiểu "lễ" là đạo đức, nhân cách, "văn" là kiến thức
khoa học, đạo đức kiến thức phải đi đôi yểm trợ cho nhau mới tạo ra con người và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình giảng dạy môn đạo đức học, cũng như một số môn khoa học
xã hội khác, hầu hết giáo viên đều sử dụng phương pháp diễn giảng như là một
phương pháp chủ yếu, các phương pháp khác không sử dụng hoặc sử dụng ở một
mức độ rất hạn chế. Vì vậy, ngoài việc sử dụng phương pháp diễn giảng, ngoài cái
lợi có được, cái hạn chế lớn nhất là: không phát huy được khả năng độc lập, sáng tạo
của học sinh trong quá trình nhận thức, giáo viên dạy lý thuyết là chủ yếu, đơn thuần
cung cấp khái niệm, còn phần thực hành giáo dục, liên hệ thực tế ít chú ý, do đó khó
giúp đỡ học sinh khắc sâu khái niệm và rèn luyện. Từ thực tế đó, trên góc độ của
người lên lớp điều quan trọng nhất là đổi mới phương pháp giảng dạy, nguyên tắc
chung nhất: nên giảm bớt tính chất "truyền giáo", nâng dần tính chất hướng dẫn, tức
tổ chức điều khiển theo hướng tích cực hóa hoạt động người học, nhằm phát huy tính
tích cực chủ động, độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập bộ môn đạo
đức học. Để thực hiện nguyên tắc đó, cần có điều kiện và việc làm cần thiết là phải
có một giáo trình tương ứng cho học sinh theo chương trình vạch ra; ngoài ra cần có
một số sách liên quan để học sinh tham khảo, người thầy phải có một đề cương
hướng dẫn học tập ứng với đối tượng mình phụ trách, nội dung đó phải vạch ra nội
dung làm việc, tài liệu và thời gian hoạt động của học tập; thầy dạy đạo đức học, bản
thân phải được học hệ thống về đạo đức học, tựa như thầy dạy sử phải được học hệ
thống về lịch sử Việt Nam và thế giới, và thầy dạy đạo đức học phải là người có đạo
đức nhân cách gương mẫu.
2.2. Tăng cường sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội
trong giáo dục đạo đức
Đây là một trong những giải pháp hết sức cơ bản để không ngừng nâng cao
chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức hiện nay trong các trường phổ
thông trung học, thực chất của giải pháp này là nhằm tạo ra một sức mạnh tổng hợp
với sự tác động nhiều chiều, đa dạng trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là giáo dục tính thống nhất, toàn vẹn các phẩm chất
đạo đức phù hợp với sự phát triển toàn diện của một nhân cách, kết hợp hài hòa giữa
sự phong phú về tâm hồn, trong sáng về đạo đức, lối sống với sự hoàn thiện về trí lực
và thể lực. Với ý nghĩa đó, giải pháp này không chỉ giáo dục cho học sinh những
phẩm chất tốt đẹp mang tính cá biệt, riêng lẻ nào đó, mà phải giáo dục cho họ có
được những phẩm chất tốt đẹp của một nhân cách phát triển toàn diện cả đức lẫn tài
để đáp ứng yêu cầu trước mắt và thích ứng với cả tương lai. Trong giáo dục đạo đức
cho học sinh phổ thông trung học, giáo dục nhà trường giữ một vị trí hết sức quan
trọng. Nhà trường là một tổ chức chuyên nghiệp thực hiện công tác giáo dục đào tạo
theo một kế hoạch chương trình đã được định sẵn, với một nội dung khoa học đã
được chọn lọc kỹ càng, cùng với những trang thiết bị kỹ thuật đặc thù phục vụ cho
công tác giáo dục đào tạo do các nhà sư phạm đảm nhiệm.
Giáo dục nhà trường là hoạt động có mục đích, mang tính chiến lược, với
một định hướng giá trị đạo đức tiến bộ, tôn trọng nhân phẩm, phát triển tài năng, rèn
luyện ý chí, trau dồi đạo đức... trong giáo dục nhà trường học sinh được trang bị một
khối lượng lớn tri thức khoa học, được tiếp thu các giá trị văn hóa, tinh thần, đạo
đức, thẩm mỹ... của nhân loại đã được tích lũy trong lịch sử. Thông qua học tập và
thực hành theo các lĩnh vực chuyên môn mà kỹ năng lao động được hình thành, trí
tuệ được phát triển và cái quan trọng hơn là tình cảm đạo đức (tình yêu đối với lao
động, với cuộc sống) được nhân lên, họ cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa khi con người
biết gắn mình với công việc. Cùng với nhà trường và giáo dục nhà trường, gia đình
và giáo dục gia đình có vai trò hết sức lớn lao trong việc giáo dục đạo đức cho học
sinh phổ thông trung học, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác định: "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân
yêu, nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách giáo dục đạo đức".
Theo kết quả điều tra, nghiên cứu của chương trình khoa học công nghệ cấp
Nhà nước KX-07, đề tài KX-07-18 "Gia đình, nhà trường, xã hội với việc phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ tài năng" cho thấy: "Có khá
nhiều danh nhân có tài năng xuất chúng, xuất thân từ những gia đình bình thường" và
"nếu môi trường giáo dục ở gia đình, xã hội và đặc biệt là ở trường học tốt, lành
mạnh thì thanh thiếu niên có nhiều cơ hội để thành người có năng khiếu, tài năng".
Hoàn cảnh sống của gia đình, nhất là điều kiện kinh tế, mặt bằng tri thức của
gia đình,... liên quan trực tiếp đến sự phát triển toàn diện của đạo đức con người, do
đó, phấn đấu để có một cuộc sống sung túc, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho con cái
học tập để trưởng thành là trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của mỗi gia đình. Ngày
nay, sự phân hóa giàu - nghèo đang diễn ra một cách gay gắt, đại bộ phận học sinh
của chúng ta xuất thân từ nông dân, từ tầng lớp xã hội có mức thu nhập thấp hoặc
trung bình, đời sống gặp rất nhiều khó khăn. Theo kết quả điều tra, học sinh tự đánh
giá mức sống của mình như sau: đầy đủ 2,8%, tạm đủ 36,5%, khó khăn 48,4%, rất khó
khăn 10%, có khả năng bỏ học 2,5%. Để tạo điều kiện cho con em nông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho đối tượng học sinh phổ thông trung học.pdf