Tài liệu Luận văn Tác động của việc đổi mới chương trình giảng dạy môn tiếng Anh đến hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập ở trường cao đẳng sư phạm qua nghiên cứu trường hợp tại trường cao đẳng sư phạm Bắc Giang: PHẦN I GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình đào tạo đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc
đảm bảo chất lượng đào tạo ở mọi cấp học và ngành học.
Bất kỳ một chương trình đào tạo nào cũng phải đảm bảo thực hiện được
mục tiêu đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế xã hội.
Vì vậy, yêu cầu một chương trình đào tạo mới phù hợp với sự phát triển
của thực tế xã hội, một chương trình đào tạo mới tăng tính chuyên sâu về môn
học và một chương trình đào tạo mới đảm bảo sự cân đối giữa lý thuyết với
thực nghiệm và gắn với thực tế xã hội Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Nhận thấy tầm quan trọng của chương trình đào tạo và tính cấp thiết của
việc phải đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với giai đoạn phát triển
xã hội hiện nay, vì vậy Chương trình đào tạo giáo viên Trung học cơ sở
(GVTHCS) trình độ Cao đẳng sư phạm (CĐSP) được ban hành theo Quyết
định số 15/2004/QĐ-BGD&ĐT, ngày 10/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo cho các k...
95 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tác động của việc đổi mới chương trình giảng dạy môn tiếng Anh đến hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập ở trường cao đẳng sư phạm qua nghiên cứu trường hợp tại trường cao đẳng sư phạm Bắc Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình đào tạo đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc
đảm bảo chất lượng đào tạo ở mọi cấp học và ngành học.
Bất kỳ một chương trình đào tạo nào cũng phải đảm bảo thực hiện được
mục tiêu đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế xã hội.
Vì vậy, yêu cầu một chương trình đào tạo mới phù hợp với sự phát triển
của thực tế xã hội, một chương trình đào tạo mới tăng tính chuyên sâu về môn
học và một chương trình đào tạo mới đảm bảo sự cân đối giữa lý thuyết với
thực nghiệm và gắn với thực tế xã hội Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Nhận thấy tầm quan trọng của chương trình đào tạo và tính cấp thiết của
việc phải đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với giai đoạn phát triển
xã hội hiện nay, vì vậy Chương trình đào tạo giáo viên Trung học cơ sở
(GVTHCS) trình độ Cao đẳng sư phạm (CĐSP) được ban hành theo Quyết
định số 15/2004/QĐ-BGD&ĐT, ngày 10/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo cho các khối ngành CĐSP nói chung và chương trình đào tạo cho
môn Anh văn nói riêng [1]. Sau 3 năm đưa vào thực hiện, việc đánh giá
chương trình đào tạo mới là việc làm cần thiết.
Mục đích của việc làm này là để khẳng định rằng chương trình đào tạo
mới phù hợp với nền giáo dục và sự phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, nó
cũng rất cần thiết đối với sự phát triển tiếp theo của những kết quả đầu ra.
Ngoài ra, thông qua việc đánh giá này những nhà lãnh đạo cũng muốn biết
xem chương trình mới có gì khác so với chương trình cũ và nó có đáng để
được sử dụng nữa hay không. Còn đối với các nhà trường, các khoa trực tiếp
giảng dạy theo chương trình mới họ cũng cần có những thông tin để trên cơ
sở đó họ có thể đưa ra những thay đổi hay những cải biến cần thiết về nội
dung và phương pháp giảng dạy.
1
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã có rất nhiều những nghiên cứu,
những bài viết về việc đánh giá chương trình đào tạo của một khoá học cũng
như là của một bậc học hay một ngành học. Hơn nữa, trên thế giới còn có
những nghiên cứu về tác động của chương trình đào tạo đối với hoạt động
giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. Thông qua những
nghiên cứu về vấn đề này, chúng ta có thể thấy được với mỗi một chương
trình đào tạo cụ thể đều có những tác động nhất định đến thái độ học tập,
động lực của học sinh cũng như là những tác động đến công việc giảng dạy
của mỗi giáo viên. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc nghiên cứu về tác động của
chương trình đào tạo đối với hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập còn là
một vấn đề chưa được quan tâm đến nhiều và chưa đựơc nghiên cứu nhiều. Vì
vậy, chúng tôi đã chọn đề tài : "Tác động của việc đổi mới chương trình giảng
dạy môn tiếng Anh đến hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập ở trưòng
CĐSP qua nghiên cứu trường hợp tại trường CĐSP Bắc Giang", nhằm
nghiên cứu tác động của chương trình giảng dạy đối với hoạt động giảng dạy
môn tiếng Anh cho sinh viên không chuyên tiếng Anh ở trường CĐSP Bắc
Giang; nghiên cứu tác động của chương trình giảng dạy đối với hoạt động học
tập môn tiếng Anh của sinh viên không chuyên tiếng Anh ở trường CĐSP Bắc
Giang; trên cơ sở đó xác lập những cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số
giải pháp phù hợp với việc giảng dạy và học tập môn tiếng Anh cho sinh viên
không chuyên tiếng Anh của trường CĐSP Bắc Giang.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài này hướng đến những mục tiêu sau:
• nghiên cứu những tác động của chương trình giảng dạy mới tới việc
giảng dạy môn tiếng Anh của giảng viên tiếng Anh khoa ngoại ngữ
trường CĐSP Bắc Giang.
2
• nghiên cứu những tác động của chương trình giảng dạy mới tới hoạt
động học tập môn tiếng Anh của sinh viên các khoa không chuyên
tiếng Anh trường CĐSP Bắc Giang.
• trên cơ sở kết quả của những nghiên cứu trên, đưa ra một số khuyến
nghị và đề xuất một số giải pháp phù hợp với hoạt động giảng dạy và
học tập môn tiếng Anh cho sinh viên không chuyên tiếng Anh tại
trường CĐSP Bắc Giang.
3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài này chúng tôi tập trung vào nghiên cứu trong trường CĐSP Bắc
Giang và trong các khoa không chuyên tiếng Anh của trường CĐSP Bắc
Giang; nghiên cứu những tác động của chương trình giảng dạy mới của môn
tiếng Anh đến hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập của giảng viên tiếng
Anh khoa ngoại ngữ và sinh viên các khoa không chuyên tiếng Anh trường
CĐSP Bắc Giang.
PHẦN II TỔNG QUAN
1. Những nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam đã có rất nhiều nghiên cứu, nhiều bài viết về việc đánh giá
chương trình đào tạo.
Năm 2005, PGS.TS Lê Đức Ngọc và cộng sự cũng đã đưa ra một tham
luận về việc đánh giá chương trình đào tạo và đánh giá chương trình giảng
dạy.Trong bản tham luận này, các tác giả đề cập đến mục tiêu, nội dung của
đánh giá chương trình đào tạo và chương trình giảng dạy đại học. Bên cạnh
đó các tác giả còn phác thảo các bước tiến hành đánh giá chương trình. Phần
3
cuối cùng các tác giả đã giới thiệu ba ví dụ đánh giá chương trình (hệ thống
chỉ tiêu đánh giá) cho bạn đọc tham khảo [8].
Năm 2006, Dự án THCS cũng đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tác động
của chương trình đào tạo mới thông qua việc đánh giá giảng viên của một số
trường CĐSP trong toàn quốc nhằm hiểu rõ sự thay đổi chức năng của người
giảng viên trước yêu cầu đổi mới giáo dục, các năng lực và kỹ năng sư phạm
của người giáo viên trong bối cảnh xã hội đang đổi mới để vận dụng vào công
tác đào tạo ở trường sư phạm.
Trong hai năm 2004 và 2005 PGS.TS Nguyễn Hữu Châu và cộng sự
(Viện nghiên cứu chiến lược) đã tiến hành nghiên cứu cấp Nhà nước về đánh
giá chất lượng và hiệu quả triển khai đại trà chương trình sách giáo khoa mới
bậc tiểu học và trung học cơ sở. Trong nghiên cứu của mình, nhóm tác giả đã
xác định cơ sở khoa học của việc đánh giá Chương trình SGK mới; đánh giá
quy trình xây dựng chương trình mới; nghiên cứu so sánh Chương trình, SGK
mới với Chương trình, SGK trước; nghiên cứu đánh giá mức độ phù hợp của
Chương trình, SGK mới đối với tâm-sinh lí học sinh tại 4 tỉnh: Nam Định,
Sơn La, Kon Tum, Đồng Tháp; đánh giá chất lượng lĩnh hội tri thức của học
sinh qua bài kiểm tra trắc nghiệm của học sinh lớp 1, lớp 2, lớp 6 và 7 ở 80
trường tiểu học và 80 trường THCS của 5 tỉnh : Nam Định, Sơn La, Kon
Tum, Ninh Thuận và Đồng Tháp; nghiên cứu đánh giá khả năng thực hiện
Chương trình, SGK mới của giáo viên thông qua bảng hỏi; nghiên cứu khảo
sát hiện trạng tổ chức dạy học ở các trường; xây dựng báo cáo kết quả đánh
giá chất lượng, hiệu quả triển khai Chương trình, SGK mới ở Tiểu học và
THCS; nghiên cứu đề xuất giải pháp điều chỉnh Chương trình, SGK mới [21].
Tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ đưa ra những cơ sở lý luận chung
và những phương pháp đánh giá chung nhất cho bất kỳ một chương trình đào
tạo, hay một chương trình giảng dạy nào. Như vậy, những nghiên cứu về tác
4
2. Những nghiên cứu nước ngoài
Benoit Galand, Chủ tịch phụ trách về hoạt động giảng dạy và học tập ở
trường đại học của UNESCO (Padova, Italy, 2003), đã nghiên cứu về “Tác
động của việc áp dụng chương trình giảng dạy của việc học tập trên cơ sở giải
quyết vấn đề đến động lực học tập và sự tự điều chỉnh của sinh viên”. Mục
đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của chương trình giảng dạy của
việc học tập trên cơ sở giải quyết vấn đề đối với động cơ và nhận thức của
sinh viên đang học tập trong trường đại học. Nghiên cứu này được tiến hành
trong khoa cơ khí nơi mà chương trình giảng dạy mới này vừa được áp dụng
được hai năm. Đối tượng nghiên cứu của tác giả là hai nhóm sinh viên, một
nhóm là những sinh viên đã được học chương trình giảng dạy cũ, nhóm thứ
hai là nhóm sinh viên được học chương trình mới. Qua kết quả nghiên cứu
của mình, tác giả cũng đã đưa ra những ý kiến của sinh viên về những ảnh
hưởng tích cực của chương trình mới, bên cạnh đó họ cũng chỉ ra những vấn
đề liên quan đến việc áp dụng chương trình mới.
Mặc dù vậy tác giả chỉ nghiên cứu tác động của chương trình giảng dạy
đối với động cơ và nhận thức của SV mà chưa nghiên cứu tác động của nó đối
với PP học tập và kỹ năng học tập để thi kiểm tra của SV [20].
Trong tạp chí “Giảng dạy tiếng Anh ở châu Á”, tháng 12 năm 2005
(tuyển tập: 7; kỳ phát hành: 4), hai tác giả Hong Wang và Liying Cheng đã
đưa ra nghiên cứu của mình về “ Tác động của việc đổi mới chương trình đến
hoạt động giảng dạy”. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã mô tả dự án
cuốn chiếu được áp dụng trong khoa tiếng Anh của một trường đại học thuộc
5
6
PHẦN III NỘI DUNG LUẬN VĂN
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm
1.1.1 Chương trình giảng dạy là gì?
Thuật ngữ chương trình đào tạo có thể dùng ở nhiều cấp độ khác nhau:
như chương trình đào tạo của một ngành học, khoá học, môn học. Chương
trình CĐSP được xây dựng ở 3 cấp độ, đó là: chương trình khung là chương
trình đào tạo Cao Đẳng Sư Phạm thuộc khối ngành sư phạm, nhóm ngành sư
phạm giáo viên THCS, trình độ đào tạo: cao đẳng, hình thức đào tạo: tập
trung; chương trình ngành học, ví dụ, ngành CĐSP Toán, ngành CĐSP Lý,
ngành CĐSP Hoá...; chương trình môn học hay học phần, ví dụ, môn Cơ học
lượng tử, học phần Ngoại ngữ...
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài khái niệm chương trình chương
trình giảng dạy được hiểu là chương trình môn học.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chương trình đào tạo hay
chương trình giảng dạy.
"Chương trình đào tạo là kế hoạch cho toàn bộ một khoá học. Đặc biệt,
chương trình này bao gồm những mục tiêu của khoá học, những chủ điểm,
những nguồn tài liệu được sử dụng trong khoá học và những tiêu chí kiểm tra
đánh giá. Chương trình đào tạo cũng có thể bao gồm những mục tiêu học tập,
những hoạt động học tập và những câu hỏi nghiên cứu. Chính vì vậy, chương
trình đào tạo đại diện cho kế hoạch của cả một khoá học, những yếu tố của cả
mục tiêu và phương tiện của khoá học" [13 ].
Theo PGS.TS Lê Đức Ngọc thì “Chương trình đào tạo là một văn bản
pháp qui về kế hoạch tổ chức đào tạo một văn bằng, bao gồm: mục tiêu đào
tạo; nội dung và yêu cầu bắt buộc, tự chọn hay tuỳ ý, phân bố thời lượng của
7
các môn học; kế hoạch thực hiện chương trình và điều kiện xét cấp văn bằng.”
[8 ] . GS.TS Trần Bá Hoành cho rằng:
Chương trình đào tạo phản ánh mối quan hệ tương tác giữa các thành
phần cấu trúc của quá trình đào tạo: mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương
tiện, tổ chức, đánh giá, trong đó mối quan hệ giữa mục tiêu - nội dung -
phương pháp là cốt lõi. Chương trình đào tạo hướng về quá trình đào tạo diễn
ra tại cơ sở đào tạo (lớp học, phòng thí nghiệm) chứ không phải là bản thiết
kế nội dung đào tạo. Chương trình đào tạo quan tâm không chỉ hoạt động dạy
mà đặc biệt quan tâm đến sản phẩm đào tạo. Văn bản chương trình đào tạo
chứa đựng những thông tin cần thiết về mục tiêu, nội dung đào tạo, phương
pháp tổ chức hoạt động dạy và học, các phương tiện thiết bị để tiến hành đào
tạo, các hình thức và tiêu chí đánh giá kết quả đào tạo [2 ].
Trong nghiên cứu của mình chúng tôi xác định khái niệm chương trình
giảng dạy được hiểu như sau:
“Chương trình giảng dạy là một văn bản qui định về mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra đánh giá tiếp thu môn học
cho một môn học hay một học phần nhất định”
1.1.2 Dạy là gì?
Dạy học được xem như là một trong những hoạt động hấp dẫn nhất và
thú vị nhất của con người khi nó đựơc thực hiện tốt và cũng là một trong
những hoạt động tẻ nhạt nhất khi người ta thực hiện nó không tốt. Có rất
nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm dạy là gì. "Dạy là phải làm cho việc
học của học sinh được thực hiện. Dạy liên quan đến việc thay đổi sự hiểu biết
của học sinh để họ có thể bắt đầu khái niệm hoá được những sự việc, những ý
tưởng mà những nhà khoa học hay những chuyên gia đã định nghĩa chúng
bằng chính cách hiểu của họ" [18 ]; hay dạy được xem như là việc "tạo cơ hội
cho học sinh học tập. Nó là một quá trình tác động qua lại cũng như là một
8
hoạt động có chủ định. Tuy nhiên, học sinh không phải luôn học những gì mà
chúng ta muốn họ học mà thỉnh thoảng họ có thể học những điều mà chúng ta
không có dự định dạy cho họ." [12 ]. Hay "Dạy là việc giúp cho người học tự
mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến đổi những
tình cảm, thái độ" [10].
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình, chúng tôi hiểu khái niệm này như
sau: "Dạy là quá trình người thày giúp cho học trò thay đổi sự hiểu biết của
mình về những vấn đề của môn học mà người thày giảng dạy"
1.1.3 Học là gì?
Dạy và học là những hoạt động không tách rời nhau, chúng liên kết với
nhau một cách chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Sẽ là thiếu sót nếu chỉ đề
cập đến hoạt động dạy mà không nói đến hoạt động học. Vậy học là gì?
Theo Michel Develay, 1994 " Học là quá trình tự biến đổi mình và làm
phong phú mình bằng cách chọn nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường
xung quanh".
Hay "Học là một quá trình kết hợp giữa những kiến thức cũ và kiến thức
mới; là một quá trình hình thành những hệ thống, sự liên kết bên trong và
giữa các đơn vị hiểu biết lẫn nhau" [12]
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi xác định khái niệm học như sau:
"Học là quá trình nhận biết những kiến thức mới; là quá trình lâu dài và thay
đổi của những biến đổi trong hiểu biết".
1.1.4 Tác động là gì?
Tác động là một trong những thuật ngữ được dùng trong nghiên cứu của
chúng tôi. Có rất nhiều cách hiểu về thuật ngữ "tác động".
Trên quan điểm đánh giá trong giáo dục, Weiss đã định nghĩa "Tác động
là kết quả của một chương trình (ví dụ: đó là kết quả thu được đối với những
người tham dự một chương trình trừ đi những gì thu được của nhóm người
9
không tham dự chương trình)"(1998:331). Cũng chính bà sau đó đã mở rộng
khái niệm này thành " Tác động có thể coi như là những kết quả của một
chương trình tới một cộng đồng lớn hơn".
"Tác động (cũng có thể xem như là kết quả) có thể như dự định hoặc
không như dự định; có thể là những tác động tích cực hoặc tiêu cực; có thể
đạt được ngay hoặc đạt được sau một thời gian nhất định; và có thể kéo dài
hoặc không kéo dài. Tác động có thể quan sát được, đo đếm được trong suốt
quá trình thực thi, khi dự án kết thúc hoặc sau một thời gian khi kết thúc dự
án" (Department for International Development (DFID) Glossary of terms
1998)
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi thống nhất khái niệm tác động
như sau: "Tác động là sự khác biệt có thể thông báo được, có thể xác định
được mà một chương trình hay một dự án mang lại cho con người."
1.2. Những thay đổi trong khung chương trình đào tạo năm 2004 so với
năm 1996.
Từ khi hình thành hệ Cao Đẳng Sư Phạm ở nước ta, chương trình Cao
Đẳng Sư Phạm đã trải qua các đợt chỉnh lý vào các năm 1980, 1988, 1996 và
gần đây nhất là năm 2004. Trong lần chỉnh lý năm 2004, các nhà làm chương
trình lý giải rằng chương trình CĐSP cần phải được đổi mới nhằm đáp ứng
những yêu cầu đổi mới của việc đào tạo đội ngũ giáo viên, phục vụ phổ cập
giáo dục THCS, chuẩn bị nhân lực cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Trên cơ sở kế thừa những ưu điểm, khắc phục những nhược điểm trong
chương trình hiện hành, chương trình CĐSP tiếp tục đổi mới theo những định
hướng cơ bản như: chương trình CĐSP phải làm cho giáo sinh nghiên cứu kỹ,
nắm vững chương trình và SGK mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá đảm bảo giáo sinh tốt nghiệp dạy
10
tốt chương trình và sách giáo khoa THCS mới, đón trước những yêu cầu tiếp
tục phát triển chương trình THCS trong thập kỷ sau; chương trình đào tạo GV
là chuyển từ đào tạo kiến thức là chủ yếu sang mục tiêu đào tạo các năng lực,
bảo đảm cho giáo sinh tốt nghiệp hành động có hiệu quả trong các hoạt động
nghề nghiệp; trong quá trình dạy học nhấn mạnh vai trò của người học và vị
trí của hoạt động học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang
học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
Chương trình khung bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời gian
đào tạo, tỉ lệ phân bổ thời gian đào tạo giữa các môn học cơ bản và chuyên
ngành, giữa lý thuyết và thực hành, thực tập. So với khung chương trình đào
tạo năm 1996 thì khung chương trình đào tạo năm 2004 có những thay đổi
nhất định, cụ thể là thời lượng của toàn khoá học là 173 đơn vị học trình, tăng
03 đơn vị học trình so với năm 1996. Vì vậy, thời lượng dành cho học phần
ngoại ngữ cũng thay đổi. Nếu trong khung chương trình của năm 1996 thời
lượng dành cho học phần ngoại ngữ chiếm 11,76 % (20/170 đvht) thời lượng
của toàn khoá học thì trong khung chương trình năm 2004 thời lượng dành
cho môn này giảm xuống còn 5,78 % (10/173 đvht) thời lượng của toàn khoá
học [1].
Lý giải cho sự thay đổi này, khi xây dựng chương trình khung cho các
ngành đào tạo đại học và cao đẳng Bộ Giáo dục và Đào tạo (Vụ Đại học) cho
rằng trình độ ngoại ngữ của giáo sinh tuyển vào sư phạm ngày càng được cải
thiện chứ không phải là bắt đầu bằng số không như trước đây.Trên cơ sở
chương trình khung của Bộ ban hành, mỗi ngành đào tạo ở mỗi trường Cao
Đẳng Sư Phạm sẽ dựa vào đó để xây dựng mục tiêu cụ thể, cụ thể hoá mục
tiêu đào tạo đến từng môn học/học phần cần thiết cho ngành của mình cho
môn học/ học phần mà mình giảng dạy. Sau khi đã xác định được các mục
11
tiêu cho từng môn học mỗi ngành có thể qui định về kế hoạch đào tạo, nội
dung và phương pháp đào tạo phù hợp với từng môn học .
1.3. Những thay đổi đối với học phần ngoại ngữ tiếng Anh trong nhà
trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Giang.
Trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Giang là trường sư phạm duy nhất của
tỉnh Bắc Giang. Trường có trách nhiệm đào tạo giáo viên THCS các ngành:
Ngoại Ngữ, Toán, Sinh, Hoá, Mĩ thuật, Âm nhạc... cho tỉnh. Từ năm 1991, do
nhu cầu đào tạo giáo viên tiếng Anh của tỉnh, Khoa Ngoại ngữ của trường
được thành lập với 24 giáo viên tiếng Anh. Kể từ đó trở đi, nhà trường đào
tạo khoảng 200 sinh viên chuyên Anh và 1500 sinh viên không chuyên mỗi
năm. Vào năm 1997, khi tỉnh Hà Bắc được chia làm hai tỉnh Bắc Giang và
Bắc Ninh thì số lượng giáo viên và sinh viên của trường đều giảm. Gần đây,
do số lượng giáo viên tiếng Anh THCS trong tỉnh đã đủ nên nhà trường đã
không đào tạo giáo viên ngành Anh văn. Toàn bộ giáo viên khoa Ngoại Ngữ
đều được phân công giảng dạy ở các lớp sinh viên không chuyên tiếng Anh.
Những sinh viên này đến từ những huyện khác nhau trong tỉnh. Khi vào
trường Cao Đẳng, có những sinh viên đã được học tiếng Anh 3 năm, 5 năm
hoặc 7 năm, có những sinh viên thì học tiếng Nga, tiếng Pháp..., nên trình độ
tiếng Anh của họ rất khác nhau. Trên cơ sở nắm bắt được trình độ không đồng
đều của sinh viên, Ban giám hiệu nhà trường đã giao trách nhiệm cho lãnh
đạo và toàn bộ giáo viên khoa Ngoại ngữ nghiên cứu để xây dựng một
chương trình cụ thể cho phù hợp với mọi đối tượng sinh viên trong trường.
Sau khi nghiên cứu chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành và qua việc tìm hiểu và học hỏi từ các trường Cao Đẳng Sư Phạm khác,
cán bộ, giáo viên khoa Ngoại ngữ trường Cao Đẳng sư phạm Bắc Giang đã
đưa ra được một chương trình đào tạo chung cho sinh viên các khoa không
chuyên tiếng Anh trong toàn trường. Với mục tiêu cung cấp những kiến thức
12
cơ bản nhất về tiếng Anh, về đất nước, về con người của một số quốc gia sử
dụng tiếng Anh trên thế giới cho sinh viên, giúp sinh viên hình thành và phát
triển các kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh, giúp sinh viên có thể sử dụng
tiếng Anh trong những tình huống giao tiếp thông thường hàng ngày, nên việc
giảng dạy tiếng Anh được diễn ra thường xuyên trong suốt khoá học. Cụ thể
là, trước năm 2004, đối với sinh viên không chuyên ngữ, học phần Anh văn
được giảng dạy trong 5 học kì, từ học kì 1 đến học kì 5 trong toàn bộ khoá
học, mỗi học kì gồm 4 đơn vị học trình (60 tiết). Giáo trình được lựa chọn sử
dụng cho khoá học là giáo trình LifeLines (Elemetary & Pre-intermediate),
Tom Hutchinson, Oxford University Press 1997. Với việc sử dụng giáo trình
này, sinh viên được cung cấp những cấu trúc ngữ pháp cơ bản, những chủ
điểm từ vựng phù hợp với nội dung của từng bài học. Ngoài ra, sinh viên còn
có cơ hội phát triển các kỹ năng như nghe, nói, đọc và viết thông qua những
tình huống cụ thể trong từng đơn vị bài học.
Trên cơ sở mục tiêu đề ra của môn học, giáo viên tập trung rất nhiều vào
việc rèn luyện phát triển kỹ năng giao tiếp cho sinh viên, luôn tạo mọi điều
kiện có thể để giúp sinh viên có thể giao tiếp được càng nhiều ,càng tốt.Với
phương pháp giảng dạy như trên thì phương pháp kiểm tra đánh giá cũng
hướng nhiều đến việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp.Sinh viên phải viết
nhiều, phải trình bày nhiều trong bài thi kiểm tra của mình.
Tuy nhiên, từ năm 2004, do chương trình khung thay đổi, do những nhà
soạn thảo chương trình có cái nhìn thay đổi về trình độ ngoại ngữ của các giáo
sinh ở các trường cao đẳng, nên thời lượng của môn ngoại ngữ cũng thay đổi
theo.
Chương trình giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ
trong nhà trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Giang được chia làm 2 giai đoạn
với tổng số 150 tiết. Giai đoạn 1 là 105 tiết được tiến hành giảng dạy trong
13
học kì 1 và 2. Trong giai đoạn này sinh viên được học tiếng Anh cơ bản với
mong muốn đạt được trình độ trung cấp trước khi họ học giai đoạn 2. Mục
tiêu của giai đoạn này là cung cấp cho sinh viên những cấu trúc ngữ pháp cơ
bản (các thì; câu chủ động, bị động; lời nói trực tiếp, gián tiếp; mệnh đề quan
hệ; so sánh...), trang bị cho sinh viên vốn từ vựng nhất định để giao tiếp trong
các tình huống giao tiếp nhất định, phát triển cho sinh viên kỹ năng đọc,viết
và nói trong đó chú trọng đến kỹ năng đọc và viết hơn cả. Giai đoạn 2 được
thực hiện giảng dạy trong 45 tiết. Giai đoạn này dành cho sinh viên học tiếng
Anh theo đúng chuyên ngành của mình được đào tạo (ví dụ như tiếng Anh
chuyên Ngành Toán; tiếng Anh chuyên ngành Hoá; tiếng Anh chuyên ngành
Mỹ thuật; tiếng Anh chuyên ngành Âm nhạc...). Mục tiêu của giai đoạn này là
cung cấp cho sinh viên lượng từ vựng tiếng Anh chuyên ngành cũng như một
số cấu trúc ngữ pháp cần thiết để sinh viên có thể sử dụng để đọc hiểu những
văn bản đơn giản bằng tiếng Anh về đúng chuyên ngành của họ. Bên cạnh đó,
giúp sinh viên phát triển kỹ năng đọc hiểu, cung cấp một số kỹ thuật giúp sinh
viên có thể sử dụng những kỹ thuật đó để đọc văn bản để nắm bắt được một
số thông tin liên quan đến chuyên ngành được đào tạo.
Tuy nhiên các giáo trình đã được sử dụng trước đây không thể đáp ứng
được đầy đủ những mục tiêu đề ra.Vì vậy, sau khi đi tìm hiểu các chương
trình và giáo trình của một số trường cao đẳng khác như Trường Cao Đẳng sư
phạm Bắc Ninh, Trường Cao Đẳng sư phạm Hà Nội... toàn thể giáo viên
trong khoa ngoại ngữ đã thảo luận và quyết định lựa chọn những bài học phù
hợp nhất từ những giáo trình đã được xuất bản như Streamline English -
Departure, Hartley & Viney (1985); Headway, Liz Soars (1991); Lifelines,
Tom Hutchinson (2002), The New Cambridge, Swan & Walter (1990);
Grammar in Use, Murphy (1985) để tạo cho mình một bộ giáo trình mới đó là
bộ giáo trình “Tiếng Anh cơ bản I & II”. Bộ giáo trình này gồm 28 đơn vị bài
14
học cho phần 1 và 14 đơn vị bài học cho phần 2. Hai phần này được sử dụng
giảng dạy cho giai đoạn 1. Mỗi bài học bao gồm các phần như: giới thiệu ngữ
liệu mới (cấu trúc ngữ pháp); phần luyện tập (thực hành các cấu trúc ngữ
pháp mới) và phần đọc hiểu. Đối với giai đoạn 2, giáo trình được sử dụng là
giáo trình tiếng Anh chuyên ngành như tiếng Anh chuyên ngành Toán học,
tiếng Anh chuyên ngành Vật lý, tiếng Anh chuyên ngành Mỹ thuật, tiếng Anh
chuyên ngành Âm nhạc, tiếng Anh chuyên ngành Hoá học... .Với mỗi bộ giáo
trình tiếng Anh chuyên ngành bao gồm 14 đơn vị bài học. Mỗi đơn vị bài học
là một chủ đề về chuyên ngành bao gồm các phần: đọc hiểu; giới thiệu ngữ
liệu mới và luyện tập.
Như vậy, so với chương trình khung của năm 1996 thì chương trình
khung của môn tiếng Anh từ năm 2004 được thực hiện tại trường CĐSP Bắc
Giang đã thay đổi rất nhiều cả về thời lượng, mục tiêu, nội dung và giáo trình
giảng dạy.
15
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của chúng tôi nhằm trả lời cho các câu hỏi sau:
1. Chương trình đào tạo mới có tác động như thế nào đến hoạt động
giảng dạy của giảng viên tiếng Anh khoa ngoại ngữ trường CĐSP
Bắc Giang?
2. Chương trình đào tạo mới có tác động như thế nào đến hoạt động
học tập của sinh viên các khoa không chuyên tiếng Anh trong
trường CĐSP Bắc Giang?
Trên cơ sở những nội dung nghiên cứu của những câu hỏi trên của đề tài,
chúng tôi giả thiết mô hình đánh giá sẽ tác động hai chiều đến các thành phần
và được mô tả trong sơ đồ sau.
Mô hình đánh giá
16
MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ
Thái độ của
giáo viên
CTĐT
HOẠT
ĐỘNG DẠY
Phương pháp giảng dạy &
phương pháp kiểm tra
đánh giá
HOẠT
ĐỘNG HỌC
Kỹ năng học
để thi, kiểm tra
Phương pháp
học tập
Thái độ học tập
của sinh viên
17
2.2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này là toàn bộ 18 giảng viên tiếng
Anh đã và đang công tác tại khoa ngoại ngữ của trường CĐSP Bắc Giang,
những người đã và đang tham gia giảng dạy chương trình đào tạo cũ và
chương trình đào tạo mới cho sinh viên không chuyên tiếng Anh tại trường
CĐSP Bắc Giang. 77 cựu sinh viên đã học tập tại các khoa Tự nhiên, Xã hội,
tốt nghiệp các năm 2000, 2001 và 2002 (các khoá học theo chương trình đào
tạo cũ) hiện đang công tác tại các trường THCS trong 5 huyện, thành phố của
tỉnh và toàn bộ 147 sinh viên đang học tập tại các lớp Toán-tin, Sư phạm công
nghệ, Giáo dục công dân - Công tác đội trường CĐSP Bắc Giang để đối
chứng giữa kết quả học tập của sinh viên đã ra trường trước khi áp dụng
chương trình đào tạo mới và kết quả học tập của sinh viên hiện đang học tập
theo chương trình đào tạo mới ở các khoa trong trường.
2.3. Các phương pháp thu thập thông tin
Dựa trên mô hình đánh giá đã nêu, chúng tôi đã thiết kế các bộ phiếu
khảo sát đối với giảng viên và sinh viên. Sau khi tham khảo ý kiến chuyên
gia, chúng tôi đã đưa ra được hai bộ phiếu khảo sát sau:
2.3.1 Phiếu khảo sát đối với giảng viên
Bộ phiếu khảo sát đối với giảng viên được thiết kế cho những giảng
viên, những người đã và đang tham gia tham gia giảng dạy môn tiếng Anh
theo chương trình giảng dạy cũ và mới cho sinh viên không chuyên tiếng Anh
tại trường CĐSP Bắc Giang. Bộ phiếu này gồm 2 phần: phần A là những
thông tin chung; phần B là phần nội dung. Trong phần B của bộ phiếu này
gồm 2 nhân tố: Phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá;
Thái độ của giảng viên. Bộ phiếu này gồm 24 câu hỏi. Các câu hỏi từ 1 đến
18 là những câu hỏi về PP giảng dạy và PP kiểm tra đánh giá đối với chương
trình đào tạo cũ và mới, bao gồm những kiến thức giảng dạy, các nguồn sử
18
dụng, thời gian phân phối, phương pháp giảng dạy, các thủ thuật giảng dạy,
các hình thức tổ chức hoạt động trên lớp, các kiến thức kỹ năng của bài kiểm
tra, đánh giá những ưu điểm và những hạn chế của bài kiếm tra ; từ câu 19
đến câu 24 là các câu hỏi về thái độ của giảng viên về việc thực hiện chương
trình đào tạo cũ và mới, đó là những hoạt động mà giảng viên thực hiện và
những tác động của chương trình mang lại .
2.3.2 Phiếu khảo sát đối với sinh viên
Bộ phiếu này được thiết kế cho cựu sinh viên (những người đã theo học
chương trình đào tạo cũ) và những sinh viên đang học trong nhà trường CĐSP
Bắc Giang (những người đang theo học chương trình đào tạo mới). Mục đích
của bộ phiếu này là nhằm tìm hiểu ý kiến của sinh viên về sự cần thiết đối với
việc học tiếng Anh của họ; phương pháp mà họ sử dụng để học tập; và
phương pháp mà họ ôn tập để thi kiểm tra môn tiếng Anh trong nhà trường
CĐSP Bắc Giang.
Bộ phiếu này gồm 11 câu hỏi. Câu hỏi 1 và 2 là những câu hỏi về thái độ
học môn tiếng Anh của sinh viên bao gồm động cơ học tập và các hoạt động
chuẩn bị bài của sinh viên; các câu hỏi từ 3 đến 8 là các câu hỏi về phương
pháp học tập môn tiếng Anh của sinh viên. Những câu hỏi phần này là những
câu hỏi về kiến thức, những hoạt động, những cơ hội học tập, khối lượng kiến
thức và thời lượng chương trình ; câu hỏi 9 đến câu 11 là câu hỏi liên quan
đến kỹ năng học tập môn tiếng Anh để thi kiểm tra của sinh viên đó là những
kiến thức được kiểm tra, những kiến thức ôn tập và thời điểm ôn tập để thi
kiểm tra .
2.4. Phương pháp chọn mẫu điều tra
2.4.1 Giảng viên
Số lượng giảng viên trong khoa tiếng Anh của trường CĐSP Bắc Giang
là 18 người. Họ là những người đã trực tiếp tham gia giảng dạy môn tiếng
19
Anh cho sinh viên không chuyên tiếng Anh trong các khoa trong trường và
chính họ cũng là những người đã từng giảng dạy theo CTĐT cũ và CTĐT
mới. Tất cả số giảng viên trên đều được chọn tham gia vào quá trình khảo sát.
2.4.2 Sinh viên
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi đã chọn toàn bộ 147 sinh viên
đang theo học tại các lớp Toán Tin, Sư phạm công nghệ, Giáo dục công dân -
công tác đội trong trường CĐSP Bắc Giang (những sinh viên đã được học
theo CTĐT mới) và 77 cựu sinh viên các khoa Tự nhiên, Xã hội, đã tốt nghiệp
các năm 2000, 2001, 2002 hiện đang công tác tại các trường THCS trong 5
huyện và thành phố (huyện Yên Thế, Tân Yên, Hiệp Hoà, Việt Yên và thành
phố Bắc Giang) trong tỉnh (những người đã được đào tạo theo CTĐT cũ -
chương trình khung năm 1996 của Bộ GD&ĐT)
2.5. Qui trình tiến hành điều tra khảo sát
2.5.1 Các bước tiến hành khảo sát đối với giảng viên
Bộ phiếu khảo sát đối với giảng viên được phát cho toàn bộ 18 giảng
viên trong khoa ngoại ngữ trường CĐSP Bắc Giang trong buổi họp tổng kết
năm học 2007 - 2008. Trước hết, tất cả các giảng viên trong khoa đều đọc qua
toàn bộ các câu hỏi trong bộ phiếu này để xem xét lại những vấn đề mà họ
còn chưa rõ trong phiếu điều tra. Sau đó, giảng viên mang phiếu về nhà để
hoàn thành và sau 2 ngày họ đem nộp lại bộ phiếu mà họ đã hoàn thành.
Sau khi phân tích kết quả của bộ phiếu khảo sát, chúng tôi còn thấy có
một số những vấn đề chưa được rõ ràng, vì vậy chúng tôi đã tiến hành phỏng
vấn một số giảng viên trong khoa để làm rõ những vấn đề cần thiết.
2.5.2 Qui trình khảo sát đối với sinh viên
2.5.2.1 Đối với sinh viên đang theo học tại trường.
Bộ phiếu điều tra đối với sinh viên được chúng tôi phát trực tiếp tới từng
lớp sinh viên. Chúng tôi cho sinh viên cùng đọc các câu hỏi trong phiếu và
20
giải thích cho sinh viên những chỗ mà sinh viên chưa hiểu rõ. Sau đó chúng
tôi yêu cầu sinh viên hoàn thành bộ phiếu điều tra trong 30 phút tại lớp.
Chúng tôi thu lại ngay bộ phiếu mà họ đã hoàn thành trên lớp.
Trên cơ sở những kết quả thu được của bộ phiếu khảo sát, chúng tôi
cũng muốn làm rõ hơn một số vấn đề, nên chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn
một số nhóm sinh viên trong các lớp.
2.5.2.2 Đối với những cựu sinh viên
Bộ phiếu này được chúng tôi phát trực tiếp cho các cựu sinh viên khi họ
tham gia vào các lớp tập huấn về thay sách giáo khoa của tỉnh được tổ chức
vào cuối tháng 7 tại 5 huyện và thành phố trong tỉnh (đó là các huyện: Yên
Thế, Tân Yên, Hiệp Hoà, Việt Yên và thành phố Bắc Giang). Chúng tôi đã
mang theo bộ sách giáo khoa tiếng Anh mà những cựu sinh viên đã được học
trong trường CĐSP Bắc Giang để giúp họ có thể nhớ lại những kiến thức họ
đã được học trước khi hướng dẫn họ cách thức trả lời các câu hỏi. Ở đây
chúng tôi đã làm việc với những nhóm nhỏ cựu sinh viên (từ 4 đến 6 người)
của từng phân môn. Sau khi cho các cựu sinh viên xem lại những nội dung
của cuốn sách tiếng Anh mà họ đã từng học, chúng tôi cho họ cùng đọc các
câu hỏi trong bộ phiếu để giải thích những gì mà họ chưa rõ, rồi sau đó chúng
tôi cho họ 30 phút để họ hoàn thành bộ phiếu. Chúng tôi trực tiếp thu lại bộ
phiếu ngay sau đó.
21
Ch−¬ng 3: kÕt qu¶ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả thu được đối với giảng viên
Sau khi thu thập số liệu, chúng tôi đã tiến hành chạy trên chương trình
QUEST và thu được kết quả như sau:
Summary of item Estimates
=========================
Mean .00
SD 1.30
SD (adjusted) 1.06
Reliability of estimate .66
Đối với bộ số liệu này ta có thể thấy rằng dữ liệu của các câu hỏi trong
bảng hỏi này là phù hơp với mô hình đánh giá và độ tin cậy của bộ số liệu
điều tra này là tương đối tốt (= 0.66).
Tuy nhiên trong bộ phiếu này vẫn còn một số phần trong một số câu hỏi
chất lượng câu hỏi chưa thực sự tốt đó là các phần 1,2 trong câu hỏi 1 và phần
5 trong câu hỏi 20 vì chúng nằm ngoài khoảng cho phép của mô hình.
Còn đây là kết quả tương quan của hai nhân tố (PPgiảng dạy và kiểm tra
đánh giá và Thái độ của giảng viên) mà chúng tôi thu được sau khi tính toán:
Bảng 3.1 Sự tương quan giữa các nhân tố của bộ số liệu của giảng viên
Nhân tố Độ tương quan
PP giảng dạy và
kiểm tra đánh giá
Thái độ của
giảng viên
Tương quan
Pearson
1.000 .766 PP giảng dạy và
kiểm tra đánh giá
Mức ý nghĩa .000 .000
Tương quan
Pearson
.766 1.000 Thái độ của giảng
viên
Mức ý nghĩa .000 .000
22
Kết quả trên cho thấy hai nhân tố PP giảng dạy và Thái độ của giảng
viên có tương quan rất lớn, điều này có nghĩa là PP giảng dạy và thái độ của
giảng viên có tác động lẫn nhau, và điều này cũng phù hợp với mô hình
nghiên cứu nêu ra. Dưới đây là những kết quả cụ thể:
Bảng 3.2 Những kiến thức giảng viên đã giảng dạy cho sinh viên
Kiến thức, kỹ năng CT cũ (có giảng dạy - %) CT mới (có giảng dạy - %)
Ngữ pháp 100 100
Từ vựng 100 100
Kỹ năng nghe 72.2 27.8
Kỹ năng nói 61.1 33.3
Kỹ năng đọc 83.3 100
Kỹ năng viết 83.3 100
Dịch anh - việt 50 72.2
Dịch việt - anh 38.9 55.6
Với số liệu thu được ở bảng 3.2 ta có thể thấy được rằng, 100% số giảng
viên được hỏi đều cho rằng kiến thức ngữ pháp và kiến thức từ vựng là những
kiến thức quan trọng đối với sinh viên nên họ đã tập trung vào dạy những kiến
thức này cho sinh viên kể cả khi áp dụng chương trình giảng dạy cũ và
chương trình giảng dạy mới. Tuy nhiên, khi áp dụng CT cũ giảng viên tập
trung vào giảng dạy đều các kỹ năng giao tiếp cho sinh viên hơn so với CT
mới, cụ thể là: đối với kỹ năng nói 61.1% giảng viên giảng dạy kỹ năng này
cho sinh viên trong khi đó chỉ có 33.3% giảng viên giảng dạy kỹ năng nói cho
sinh viên theo CT mới và kỹ năng nghe con số này còn cao hơn đó là 72.2%
và 27.8%; Khi được hỏi tại sao giáo viên không chú ý nhiều đến việc giảng
dạy kỹ năng nghe và nói cho sinh viên khi dạy theo CT mới, giảng viên cho
23
rằng các kỹ năng này không được thể hiện rõ ràng trong giáo trình môn học
như trong giáo trình của CT cũ, điều này có nghĩa là họ không bắt buộc phải
dạy và họ chỉ dạy khi họ có thời gian .
Bảng 3.3 Các nguồn sử dụng của giảng viên khi giảng dạy
Nguồn sử dụng CT cũ (có sử dụng - %) CT mới (có sử dụng - %)
Tài liệu tham khảo 100 100
Công nghệ thông tin 5.6 83.3
Giáo cụ trực quan 72.2 100
Kết quả thu đựơc trong bảng 3.3 cho ta thấy 100% giảng viên được hỏi
đồng ý rằng để giảng dạy được bộ môn tiếng Anh theo cả CT cũ và CT mới
họ đều cần đến tài liệu tham khảo. Nhưng chúng ta cũng có thể nhận thấy
được rằng để giảng dạy CT cũ giảng viên không nhất thiết phải sử dụng đến
CNTT vì chỉ có 5,6% giảng viên được hỏi nhận thấy sự cần thiết của CNTT
trong khi giảng dạy theo CT cũ, nhưng có đến 83,3% giảng viên cho rằng họ
cần đến CNTT khi giảng day theo CT mới.Vì theo họ việc sử dụng CNTT đã
giúp họ nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy và học tập, nhờ có công nghệ
mới mà SV có thể nhanh chóng chọn nhập và xử lý thông tin để biến thành tri
thức. Bên cạnh việc sử dụng tài liệu tham khảo và CNTT giảng viên còn cần
phải sử dụng giáo cụ trực quan trong giờ giảng của mình mặc dù số liệu thu
được là khác nhau, cụ thể là 100% giảng viên đồng ý với việc phải sử dụng
giáo cụ trực quan trong khi giảng dạy CT mới, nhưng chỉ 72,2% trong số họ
khi được hỏi đồng ý với việc phải sử dụng giáo cụ trực quan khi giảng dạy
theo CT cũ.
Khi giảng dạy CT mới giảng viên phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu và
giáo cụ trực quan khác nhau. Ngoài những nguồn trên giảng viên còn cần phải
24
nắm vững cách sử dụng CNTT để áp dụng chúng một cách hiệu quả trong giờ
dạy của mình.
Bảng 3.4 Lượng thời gian giảng dạy
CT cũ (%) CT mới (%)
Đủ thời gian 83.3 72.2
Thiếu thời gian 16.7 22.2
Ý kiến khác 5.6
Khi được hỏi về việc phân phối thời gian trên lớp đối với CT tiếng Anh,
83,3% giảng viên cho rằng lượng thời gian này là đủ đối với CT cũ, nhưng
chỉ có 72,2% giảng viên cho rằng lượng thời gian qui định là phù hợp với CT
mới. Mặt khác còn có ý kiến của giảng viên được hỏi cho rằng có bài thì đủ
thời gian, có bài thì thiếu thời gian. Những lý do mà giảng viên nêu ra đối với
những bài thiếu thời gian đó là: thứ nhất, do họ dành nhiều thời gian chữa bài
tập cho sinh viên; thứ hai, họ dành nhiều thời gian giảng giải những vấn đề
ngữ pháp trong bài nên không đủ thời gian thực hiện hết các hoạt động và các
yêu cầu trong bài. Tuy nhiên, giảng viên đã không bỏ qua những phần chưa
thực hiện mà họ đã hướng dẫn sinh viên cách làm những phần đó và yêu cầu
sinh viên về nhà làm tiếp, nếu có gì chưa rõ hay không làm được giảng viên
sẽ giải đáp cho sinh viên vào giờ lên lớp sau. Không có giảng viên nào cho
rằng họ có thừa thời gian giảng dạy trên lớp.
25
Bảng 3.5 Những phương pháp giảng viên sử dụng khi giảng dạy
CT cũ CT mới
Phương pháp
Luôn
luôn
(%)
Thường
xuyên
(%)
Thỉnh
thoảng
(%)
Ít khi
(%)
Không
bao
giờ
(%)
Luôn
luôn
(%)
Thường
xuyên
(%)
Thỉnh
thoảng
(%)
Ít khi
(%)
SV làm trung
tâm
5.6 44.4 44.4 5.6 0 50 50 0 0
GV làm trung
tâm
5.6 38.9 55.6 0 0 0 11.1 61.1 27.8
Kết hợp PP SV
và GV làm trung
tâm
22.2 61.1 16.7 0 0 0 66.7 33.3 0
PP ngữ pháp -
dịch
0 61.1 11.1 16.7 11.1 0 50 44.4 5.6
PP giao tiếp 5.6 11.1 33.3 50 0 5.6 83.3 5.6 5.6
PP nghe nói 0 11.1 27.8 33.3 27.8 5.6 33.3 5.6 55.6
PP thuyết trình 0 38.9 27.8 22.2 11.1 0 22.2 27.8 50
PP thảo luận 0 27.8 55.6 16.7 0 11.1 88.9 0 0
PP ngữ pháp 27.8 44.4 27.8 0 0 0 83.3 16.7 0
Số liệu thu được trong bảng 3.5 cho ta thấy có sự khác nhau trong việc
sử dụng PPGD khi giảng viên áp dụng để dạy theo CT cũ và CT mới. Khi
giảng dạy theo CT cũ, chỉ 5,6% giảng viên được hỏi luôn luôn sử dụng PP lấy
SV làm trung tâm và 44,4% trong số họ thường xuyên áp dụng PP này, trong
khi đó 50% giảng viên luôn luôn sử dụng và 50% giảng viên thường xuyên sử
dụng PP lấy SV làm trung tâm khi giảng dạy theo CT mới. Đối với PP lấy
giáo viên làm trung tâm mức độ giảng viên sử dụng trong giảng dạy của mình
khi dạy CT mới ít hơn so với CT cũ. Có 11,1% giảng viên thường xuyên sử
dụng, 61,1% giảng viên thỉnh thoảng sử dụng và 27,8% giảng viên ít khi sử
dụng PP lấy giáo viên làm trung tâm khi giảng dạy theo CT mới. Nhưng khi
dạy theo CT cũ thì có đến 5,6% giảng viên luôn luôn sử dụng, 38,9% thường
xuyên sử dụng và 55,6% thỉnh thoảng sử dụng PP này. Việc kết hợp sử dụng
hai PP trên được giảng viên sử dụng nhiều hơn trong khi giảng dạy CT cũ.
26
Với PP ngữ pháp - dịch cũng được giảng viên áp dụng nhiều hơn khi giảng
dạy CT cũ. Nhưng khi giảng dạy CT mới giảng viên tập trung nhiều hơn vào
PP giao tiếp với số liệu cụ thể là 5,6% luôn luôn sử dụng và 83,3% thường
xuyên sử dụng so với số liệu thu được của CT cũ lần lượt là 5,6% và 11,1%.
Số liệu bảng trên còn cho thấy có đến 50% giảng viên ít khi sử dụng PP giao
tiếp khi giảng dạy CT cũ. Còn đối với PP nghe - nói thì đa số giảng viên ít
quan tâm đến ngay cả khi dạy CT cũ và CT mới. PP thuyết trình được giảng
viên sử dụng thường xuyên hơn khi họ giảng dạy theo CT cũ. Một PP khác
mà giảng viên quan tâm và sử dụng nhiều trong giảng dạy CT mới đó là PP
thảo luận, cụ thể là 11,1% giảng viên luôn luôn áp dụng và 88,9% giảng viên
thường xuyên áp dụng nó, trong khi đó mức độ này giảm hơn đối với CT cũ
chỉ có 27,8% giảng viên thường xuyên sử dụng PP này. Ngoài ra, PP ngữ
pháp cũng được giảng viên sử dụng một cách thường xuyên trong khi dạy cả
CT cũ và CT mới.
Khi giảng dạy CT mới giảng viên đã có những thay đổi đáng kể về
PPGD. Họ tập trung nhiều vào những PP mới như PP lấy SV làm trung tâm,
PP giao tiếp và PP thảo luận và đã hạn chế việc sử dụng PP lấy giáo viên làm
trung tâm hay PP thuyết trình. Theo một số giảng viên khi được phỏng vấn,
họ cho rằng giáo viên không chỉ truyền thụ những kiến thức có sẵn cho sinh
viên, mà giáo viên phải định hướng, tổ chức cho SV tự khám phá ra kiến thức
mới cần học giúp cho SV không chỉ nắm bắt được nội dung kiến thức mới mà
còn nắm bắt được phương pháp đi tới kiến thức đó.
27
Bảng 3.6 Những thủ thuật sử dụng trong giảng dạy
CT cũ CT mới
Các thủ
thuật
luôn
luôn
(%)
thỉnh
thoảng
(%)
thường
xuyên
(%)
ít khi
(%)
không
bao giờ
(%)
luôn
luôn
(%)
thường
xuyên
(%)
thỉnh
thoảng
(%)
ít khi
(%)
không
bao giờ
(%)
cung cấp
từ mới
16.7 83.3 38.9 61.1
dạy ngữ
pháp
16.7 55.6 16.7 72.2 27.8
trả lời câu
hỏi của SV
11.1 50 38.9 88.9 11.1
giải thích
vấn đề
5.6 83.3 11.1 83.3 16.7
thuyết
trình
11.1 50 5.6 22.2 11.1 11.1 50 38.9
dịch bài
cho SV
5.6 66.7 27.8 44.4 50 5.6
đặt câu hỏi
cho SV
16.7 83.3 33.3 66.7
SV đưa ra
ý kiến
11.1 44.4 44.4 27.8 72.2
nâng cao
năng lực tự
học của
SV
11.1 11.1 77.8 16.7 83.3
năng lực
sáng tạo
27.8 72.2 16.7 66.7 16.7
tạo tình
huống sử
dụng tiếng
Anh
61.1 33.3 5.6 27.8 55.6 16.7
yêu cầu
SV dịch từ
Việt - Anh
11.1 44.4 33.3 11.1 11.1 33.3 38.9 16.7
SV đọc
trước tài
liệu
11.1 50 38.9 33.3 55.6 11.1
chữa bài
tập
5.6 66.7 27.8 66.7 33.3
giao bài
tập về nhà
33.3 67.8 22.2 77.8
SV báo
cáo những
gì đã
chuẩn bị
11.1 22.2 38.9 27.8 61.1 27.8 11.1
28
Bảng 3.6 là số liêu thu được về các thủ thuật mà giảng viên sử dụng khi
giảng dạy CT cũ và CT mới. Theo bảng trên ta thấy những thủ thuật mà hơn
60% giảng viên thường xuyên áp dụng khi giảng dạy CT cũ đó là: cung cấp từ
mới; giải thích các vấn đề cho SV; đặt câu hỏi cho SV trả lời; giao bài tập về
nhà cho SV; chữa bài tập cho SV và tạo tình huống cho SV sử dụng tiếng Anh
trên lớp. Tuy nhiên, khi giảng dạy theo CT mới, ngoài việc sử dụng những thủ
thuật nói trên, hơn 60% giảng viên còn thường xuyên sử dụng một số các thủ
thuật khác nữa như: dành thời gian giảng dạy ngữ pháp cho SV; trả lời các
câu hỏi mà SV nêu ra; tạo cơ hội cho SV đưa ra ý kiến của mình; nâng cao
năng lực tự học của SV; kích thích năng lực sáng tạo của SV; yêu cầu SV đọc
tài liệu trước khi đến lớp; yêu cầu SV báo cáo lại những gì đã chuẩn bị.
Đa số giảng viên đã thường xuyên kết hợp nhiều thủ thuật khác nhau khi
giảng dạy theo CT mới. Việc kết hợp áp dụng những thủ thuật này giúp cho
SV chủ động hơn, tích cực hơn trong việc học tập của họ.
Bảng 3.7 Các hình thức tổ chức hoạt động
Các hình thức tổ chức
CT cũ - có sử dụng
(%)
CT mới - có sử dụng
(%)
SV làm việc cá nhân 94.4 100
SV làm việc theo cặp 72.2 100
SV làm việc theo nhóm nhỏ 61.1 100
SV làm việc theo nhóm lớn 33.3 72.2
Làm việc cả lớp 100 72.2
Các hình thức tổ chức hoạt động được thể hiện trong bảng 3.7. Trong
khi giảng dạy cả CT cũ và CT mới, giảng viên đã áp dụng những hình thức tổ
chức các hoạt động trên lớp khác nhau. Những hình thức được giảng viên sử
dụng nhiều nhất trong khi giảng dạy CT cũ đó là làm việc cả lớp, làm việc cá
29
nhân và làm việc theo cặp. Tuy nhiên việc tổ chức hoạt động theo nhóm ít
được họ chú ý. Nhưng khi giảng dạy theo CT mới giáo viên đã thường xuyên
đa dạng các hình thức tổ chức hoạt động của sinh viên như: làm việc cá nhân,
làm việc theo cặp, làm việc theo nhóm nhỏ, làm việc theo nhóm lớn hay làm
việc cả lớp. Việc làm này được giảng viên giải thích rằng họ thay đổi các hình
thức tổ chức để đảm bảo rằng sinh viên được tham gia vào quá trình học tập;
cho phép sinh viên có điều kiện giúp đỡ, khuyến khích nhau để đạt được sự
tiến bộ và tất cả các thành viên đều phải chia sẻ trách nhiệm với nhau.
Khi giảng dạy CT mới giảng viên đã kết hợp các hình thức tổ chức hoạt
động khác nhau trong giờ giảng của mình để tạo mối quan hệ tích cực giữa
các sinh viên, tạo cơ hội để sinh viên được làm việc cùng nhau nhằm tối đa
hoá kết quả học tập của bản thân mình cũng như của người khác.
Bảng 3.8 Các kiến thức trong bài kiểm tra
Kiến thức, kỹ năng
CT cũ - có kiểm tra
(%)
CT mới - có kiểm tra
(%)
Kiến thức ngữ pháp 100 100
Kiến thức từ vựng 100 100
Kỹ năng đọc 94.4 100
Kỹ năng nghe 61.1 16.7
Kỹ năng nói 5.6 11.1
Kỹ năng viết 94.4 100
Dịch Anh-Việt 33.3 44.4
Dịch Việt-Anh 38.9 16.7
Bảng 3.8 là số liệu về những kiến thức, những kỹ năng được các giảng
viên sử dụng trong bài kiểm tra, thi cho sinh viên khi dạy CT cũ và CT mới.
Những kiến thức mà các giảng viên tập trung chủ yếu để kiểm tra sinh viên
30
khi dạy cả CT cũ và CT mới đó là: kiến thức ngữ pháp, kiến thức từ vựng, kỹ
năng đọc, kỹ năng viết và họ hầu như không chú ý đến việc kiếm tra kỹ năng
nói của sinh viên. Tuy nhiên có một sự khác biệt rõ ràng trong bài kiểm tra
theo CT cũ và CT mới đó là: trong bài kiểm tra của CT cũ có tới 61,1% giảng
viên kiểm tra kỹ năng nghe của sinh viên, trong khi đó toàn bộ 100% giảng
viên bỏ qua cả kỹ năng này trong bài thi của CT mới, họ không hề đưa kỹ
năng này vào bài thi cho sinh viên.
Những kỹ năng nói và nghe không hề được đưa vào bài thi của CT mới
mặc dù chúng vẫn được giảng viên thực hiện giảng dạy trong quá trình dạy
học trên lớp của mình.
Bảng 3.9 Kết quả thi, kiểm tra của sinh viên
CT cũ CT mới
Kết quả của SV đồng ý
(%)
đồng ý
một phần (%)
đồng ý (%) đồng ý
một phần (%)
SV đạt kết quả cao 50 50 72.2 27.8
Nếu nhìn vào kết quả thu được trong bảng 3.9 ta có thể thấy được rằng
nhiều giảng viên khi được hỏi đồng ý rằng với CT mới sinh viên dễ đạt điểm
cao hơn trong khi kiểm tra và thi so với CT cũ. Khi tiến hành phỏng vấn một
số giảng viên về lý do tại sao với CT cũ sinh viên không đạt điểm cao bằng
CT mới, chúng tôi đã nhận được một số lý do như sau: do phương pháp học
tập của sinh viên chưa thay đổi đa số sinh viên vẫn trông chờ vào sự giúp đỡ,
sự hướng dẫn của giảng viên; với một số sinh viên họ vẫn chưa có thói quen
ôn tập thường xuyên, chỉ trước kỳ thi họ mới bắt đầu ôn nên việc hệ thống
hoá lại toàn bộ kiến thức đối với họ là không đầy đủ, điều này cho thấy việc
khó đạt điểm cao trong kỳ thi đối với họ là điều hiển nhiên.
31
Bảng 3.10 Các hoạt động tạo ra khi giảng dạy trên lớp
Các hoạt động
CT cũ- có đạt được
(%)
CT mới- có đạt được
(%)
Lớp học sôi nổi 0 66.7
Không khí nhàm chán 38.9 0
Giáo viên làm việc nhiều 83.3 27.8
Sinh viên làm việc nhiều 27.8 88.9
Giáo viên chủ động 72.2 50
Giáo viên sáng tạo 33.3 88.9
Sinh viên thực hành nhiều 27.8 72.2
Sinh viên thụ động nghe giảng 83.3 11.1
Sinh viên đặt nhiều câu hỏi 0 88.9
Sinh viên chỉ trả lời câu hỏi 88.9 11.1
Sinh viên tham gia các hoạt
động trên lớp
11.1 100
Không khí căng thẳng trên lớp 38.9 11.1
Khi áp dụng CT cũ chúng ta có thể thấy được rằng lớp học kém sôi nổi
hơn khi áp dụng CT mới. Sau khi phỏng vấn một số giảng viên họ cho rằng
điều này phần nhiều do PP giảng dạy của giảng viên. Khi giảng dạy theo CT
cũ giảng viên tập trung vào giải thích, thuyết trình nhiều hơn so với việc tạo
điều kiện cho SV được làm việc nhiều, SV không được thực hành nhiều họ
thụ động nghe giảng, họ hầu như không có cơ hội để dặt câu hỏi cho giáo viên
mà chỉ trả lời các câu hỏi mà giáo viên nêu ra. Chính vì vậy giáo viên phải
32
làm việc nhiều và không khí lớp học nhàm chán và đôi khi còn căng thẳng.
Tuy nhiên, đa số giảng viên được hỏi (chiếm 72,2%) cho rằng họ có thể chủ
động trong mọi tình huống trên lớp học khi họ giảng dạy theo CT cũ và chỉ có
50% trong số họ có thể chủ động trên lớp khi dạy theo CT mới. Điều này
được họ lý giải rằng khi giảng dạy CT cũ giảng viên luôn là người chủ động
đặt câu hỏi cho sinh viên trả lời, nhưng khi dạy theo CT mới đôi khi SV có
những câu hỏi, đặc biệt là những câu hỏi liên quan đến chuyên ngành học của
sinh viên nên giảng viên không thể đáp ứng tốt những câu hỏi của SV ngay
lúc đó mà phải đến những tiết học sau thì giảng viên mới có thể giải đáp
những thắc mắc này một cách thoả đáng.
Mặt khác khi giảng dạy theo CT mới có đến 88,9% giảng viên khi được
hỏi (so với 33,3% đối với CT cũ) cho rằng họ sáng tạo hơn trong bài giảng
của mình. Khi hỏi một số giảng viên chúng tôi được biết rằng họ đã sáng tạo
ngay từ khâu chuẩn bị bài cho đến khâu lên lớp. Khi chuẩn bị bài, họ không
chỉ soạn bài để dạy những kiến thức của môn học mà họ còn luôn tìm những
PP giảng dạy thích hợp để dạy SV, thông qua những phương pháp đó họ đã
giúp cho SV tự tin hơn độc lập hơn trong việc tiếp thu và xây dựng kiến thức.
Như vậy khi áp dụng CT mới, giảng viên ít phải làm việc hơn thay vào
đó SV phải làm việc nhiều. SV là người quyết định hướng đi của bài học
thông qua mối quan hệ tương tác với giáo viên điều này cũng làm cho không
khí của lớp học sôi nổi hơn.
Số liệu bảng 3.11 cho thấy những ý kiến của giảng viên về những hoạt
động mà họ thực hiện khi giảng dạy cả CT cũ và CT mới.
33
Bảng 3.11 Các hoạt động thực hiện khi giảng dạy
CT cũ CT mới
Hoạt động
hoàn
toàn
đồng
ý(%)
đồng
ý (%)
đồng ý
một
phần
(%)
không
đồng
ý (%)
hoàn
toàn
không
đồng ý
(%)
hoàn
toàn
đồng
ý (%)
đồng ý
(%)
đồng
ý một
phần
(%)
Đầu tư nhiều
thời gian chuẩn
bị bài
61.1 27.8 11.1 77.8 22.2
Tìm thêm tài
liệu hỗ trợ
11.1 77.8 11.1 72.2 27.8
Tìm hiểu chuyên
môn chuyên
ngành của sv
11.1 55.6 16.7 16.7 66.7 33.3
Học hỏi đồng
nghiệp khoa
tiếng Anh
16.7 72.2 11.1 16.7 83.3
Học hỏi đồng
nghiệp khoa
chuyên ngành
5.6 33.3 22.2 27.8 11.1 27.8 66.7 5.6
Theo số liệu thu được ở các bảng trên chúng ta có thể thấy được rằng số
lượng giảng viên đồng ý với việc phải đầu tư thời gian để chuẩn bị bài khi dạy
34
CT mới nhiều hơn so với CT cũ. Điều này theo họ chủ yếu là họ cần đầu tư
nhiều thời gian cho việc chuẩn bị bài khi phải giảng dạy những vấn đề về
chuyên ngành mà SV của họ học. Nếu không chuẩn bị bài một cách cẩn thận,
thì giờ giảng của họ sẽ không đảm bảo chất lượng.
Về việc tìm thêm tài liệu hỗ trợ giảng dạy chỉ có 11,1% giảng viên hoàn
toàn đồng ý khi họ giảng dạy theo CT cũ vì họ cho rằng SGK , giáo trình là
tài liệu hướng dẫn nội dung những gì được dạy ở lớp và chỉ cần thế là đủ. Tuy
nhiên đối với CT mới thì con số này cao hơn nhiều. Có tới 72,2% giảng viên
hoàn toàn đồng ý với việc phải tìm thêm tài liệu hỗ trợ giảng dạy đối với CT
mới. Việc sử dụng nhiều loại tài liệu khác nhau cho phép SV sử dụng chúng
một cách độc lập hoặc họ có thể sử dụng theo nhóm. Khi giảng dạy theo CT
cũ theo những giảng viên được hỏi họ có những ý kiến rất khác nhau về việc
tìm hiểu về chuyên ngành của SV khoa mình giảng dạy. Cụ thể là có 11,1%
giảng viên hoàn toàn đồng ý , 55,6% đồng ý, 16,7% đồng ý một phần và
16,7% không đồng ý với việc này. Họ giải thích cho những ý kiến của mình là
khi giảng dạy theo CT cũ họ không nhất thiết, không bắt buộc phải giảng dạy
về chuyên ngành cho SV và nếu có thì họ chỉ giới thiệu một cách tóm tắt, một
cách sơ lược nhất về chuyên ngành ấy, nên họ không cần phải tìm hiểu nhiều.
Ngược lại, với CT mới 66,7% giảng viên hoàn toàn đồng ý và 33,3% đồng ý
với việc phải tìm hiểu về chuyên môn của SV khoa mình giảng dạy nếu không
việc giảng dạy học phần cuối của họ khó có thể được thực hiện một cách tốt
nhất. Điều này liên quan đến đến việc phải học hỏi đồng nghiệp trong khoa
tiếng Anh và các khoa chuyên ngành. Theo hầu hết các giảng viên được hỏi,
việc học hỏi các đồng nghiệp trong khoa tiếng Anh là việc làm cần thiết đối
với họ ngay cả khi giảng dạy theo CT cũ và CT mới. Nhưng việc học hỏi
những đồng nghiệp ở các khoa chuyên ngành chỉ cần thiết đối với họ khi họ
phải giảng dạy CT mới.
35
Theo những giảng viên được hỏi, để giảng dạy CT mới được tốt hơn,
ngoài việc phải đầu tư thời gian chuẩn bị bài, học hỏi đồng nghiệp trong khoa
tiếng Anh thì giảng viên còn cần phải tìm thêm những nguồn tài liệu khác nữa
và đặc biệt là phải tìm hiểu về chuyên ngành của SV khoa mình giảng dạy
thông qua các cách khác nhau nhưng trong đó có một cách đó là học hỏi
những đồng nghiệp trong các khoa chuyên ngành.
Bảng 3.12 Tác động của chương trình tiếng Anh
Tác động
CT cũ - có
đạt được
(%)
CT mới - có
đạt được
(%)
Giảng viên có ý thức bồi dưỡng chuyên môn 83.3 100
Giảng viên có ý thức tìm hiểu chuyên ngành 5.6 100
Giảng viên không dạy kỹ năng nghe 22.2 72.2
Giảng viên không dạy kỹ năng nói 22.2 61.1
Giảng viên thay đổi PP giảng dạy 33.3 94.4
Giảng viên không có đủ thời gian giảng dạy trên lớp 16.7 33.3
Giảng viên không có đủ thời gian chữa bài cho sv 66.7 44.4
Giảng viên tự sắp xếp thời gian dạy kỹ năng cho sv 11.1 61.1
SV bị hạn chế một số kỹ năng 33.3 61.1
SV chủ động trong học tập 11.1 77.8
SV có chuẩn bị bài trước khi đến lớp 77.8 88.9
SV không cần chuẩn bị bài trước khi đến lớp 33.3 11.1
SV đạt điểm cao hơn trong các kỳ thi 50 72.2
CT cũ và CT mới có những tác động khác nhau đến những giảng viên
được hỏi trong điều tra của chúng tôi. Với số liệu thu được ta có thể thấy cả
CT cũ và CT mới đều giúp giảng viên có ý thức tự bồi dưỡng về chuyên môn,
36
tuy nhiên con số giảng viên đồng ý với CT mới cao hơn so với CT cũ (lần
lượt là 100% và 83,3%). Việc tìm hiểu về chuyên ngành là việc làm cần thiết
đối với giảng viên khi giảng dạy theo CT mới (100% giảng viên đồng ý),
nhưng việc làm này lại không bắt buộc đối với họ khi giảng dạy theo CT cũ
(5,6% giảng viên đồng ý). Đối với việc giảng dạy hai kỹ năng giao tiếp nghe
và nói được chú trọng hơn khi giảng viên giảng dạy theo CT cũ. Cụ thể là có
đến 72,2% giảng viên không dạy kỹ năng nghe và 61,1% giảng viên không
dạy kỹ năng nói cho SV đối với CT mới, trong khi con số này đối với CT cũ
chỉ lần lượt là 22,2% và 55,6%. Nhưng về PP giảng dạy, 94,4% giảng viên
nhận thấy họ đã thay đổi PP giảng dạy của mình đối với CT mới, họ đã chú ý
đến việc lựa chọn những PP khác nhau trong bài giảng của mình bên cạnh
việc tập trung vào những kiến thức khoa học; còn đối với CT cũ chỉ 33,3%
giảng viên cho thấy họ thay đổi PP còn lại đa số họ chỉ tập trung chủ yếu vào
việc truyền tải kiến thức cho SV. Một khác biệt lớn ở đây đó là khi giảng dạy
CT mới giảng viên phải tự sắp xếp thời gian để phát triển các kỹ năng cho SV
mà việc làm này không cần thiết đối với CT cũ. Lý giải cho sự khác biệt này,
một số giảng viên được hỏi cho rằng trong giáo trình của CT cũ các kỹ năng
được thể hiện một cách rõ ràng theo từng phần nhất định mà điều này không
hề có trong giáo trình của CT mới . Vì vậy để giúp SV phát triển đầy đủ các
kỹ năng giao tiếp thì chỉ bằng cách giảng viên tự thu xếp thời gian của mỗi
buổi học để làm việc này cho SV. Tuy nhiên việc làm này không diễn ra một
cách thường xuyên được vì chỉ khi nào giảng viên cảm thấy họ có đủ thời
gian thì họ mới làm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đánh giá của giảng
viên về việc bị hạn chế một số kỹ năng giao tiếp của SV khi học CT mới hơn
là khi học CT cũ (với số liệu thu được lần lượt là 61,1% và 33,3%). Khác biệt
thứ hai đó là việc chủ động trong học tập của SV. Khi học CT mới SV chủ
động hơn nhiều so với khi học theo CT cũ. Theo giảng viên, SV chủ động
37
trong cả việc tiếp thu kiến thức và phát hiện giải quyết vấn đề với sự hướng
dẫn của giảng viên. Nhưng để học tập tốt cả CT cũ và CT mới thì theo các
giảng viên , SV nhất thiết cần phải chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Theo đánh giá của giảng viên, CT mới cũng có những tác động không nhỏ
đến cả giảng viên và SV. Cụ thể là CT mới ngoài việc giúp cho giảng viên có
ý thức bồi dưỡng về chuyên môn thì họ còn có ý thức bồi dưỡng về chuyên
ngành. CT mới giúp cho giảng viên thay đổi cơ bản về PP giảng dạy. Mặt
khác khi học CT mới SV chủ động hơn trong việc học của mình. Tuy nhiên,
CT mới lại không tập trung phát triển đầy đủ các kỹ năng giao tiếp cho SV do
đó họ vẫn còn bị hạn chế một số kỹ năng cơ bản trong giao tiếp đó là kỹ năng
nghe và kỹ năng nói.
3.2. Những kết quả thu được đối với sinh viên
Sau khi thu thập số liệu, chúng tôi đã tiến hành chạy bộ số liệu này trên
chương trình QUEST và thu được kết quả như sau:
Bộ số liệu của SV mới
Summary of item Estimates
=========================
Mean .00
SD 2.15
SD (adjusted) 2.12
Reliability of estimate .97
Số liệu SV cũ
Summary of item Estimates
=========================
Mean .00
SD 1.43
SD (adjusted) 1.38
Reliability of estimate .94
Với kết quả trên, ta có thể thấy được rằng kết quả của bộ số liệu của cả
SV mới và SV cũ đều có độ tin cậy tốt ( lần lượt là 0.97 và 0.94).
38
Tuy nhiên, trong bộ phiếu điều tra vẫn còn một số câu hỏi có chất lượng chưa
thực sự tốt, đó là toàn bộ câu 6 trong cả hai bộ số liệu đều nằm ngoài mô hình
đánh giá, nên chúng tôi quyết định loại câu hỏi này ra khỏi phần phân tích của
mình.
Sau khi tính toán, chúng tôi đã thu được kết quả tương quan giữa các
nhân tố (Thái độ học tập môn tiếng Anh, PP học tập và Kỹ năng học tập để
thi kiểm tra) của hai bộ số liệu như sau:
Bảng 3.13 Sự tương quan giữa các nhân tố của bộ số liệu của SV mới
Nhân tố Độ tương quan
Thái độ học
tập
PP học tập
Kỹ năng học
tập
Tương quan Pearson 1.000 .677 .231 Thái độ
học tập Mức ý nghĩa .000 .000 .005
Tương quan Pearson .677 1.000 .321 PP học tập
Mức ý nghĩa .000 .000 .000
Tương quan Pearson .231 .321 1.000 Kỹ năng
học tập Mức ý nghĩa .005 .000 .000
Bảng 3.14 Sự tương quan giữa các nhân tố của bộ số liệu của SV cũ.
Nhân tố Độ tương quan
Thái độ
học tập
PP học
tập
Kỹ năng học
tập
Tương quan Pearson 1.000 .608 .412 Thái độ
học tập Mức ý nghĩa .000 .000 .000
Tương quan Pearson .608 1.000 .375 PP học tập
Mức ý nghĩa .000 .000 .001
Tương quan Pearson .412 .375 1.000 Kỹ năng
học tập Mức ý nghĩa .000 .001 .000
39
Nhìn vào bảng 3.13 và 3.14 có thể thấy được các nhân tố đều có hệ số
tương quan ở mức chấp nhận trở lên, đặc biệt là cả bộ số liệu của SV cũ và
SV mới đều có sự tương quan rất lớn giữa hai nhân tố Thái độ học tập và
nhân tố PP học tập ( 0,677 và 0,608). Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với
mô hình nghiên cứu đề ra.
Dưới đây là những kết quả cụ thể mà chúng tôi đã thu được.
Bảng 3.15 Những lý do học tiếng Anh
Lý do học tiếng Anh
SV mới
(%)
SV cũ
(%)
Yêu thích môn tiếng Anh 59.9 53.2
Là môn học bắt buộc 70.1 77.9
Tiếng Anh cần thiết cho chuyên môn sau này 60.5 42.9
Phù hợp với thị hiếu xã hội 43.5 36.4
Nhu cầu giao tiếp cá nhân 44.2 45.5
Muốn hiểu biết nền văn hoá khác 61.9 55.8
Ý kiến khác 0.7 1.3
Trong bảng hỏi của mình, chúng tôi đã đưa ra những lý do cho việc học
tiếng Anh để SV lựa chọn. Với kết quả trên, chúng ta có thể thấy được rằng lý
do được cả SV cũ và SV mới lựa chọn nhiều nhất là do đây là môn học bắt
buộc trong chương trình học, kế tiếp đến là do nhu cầu muốn hiểu biết nền
văn hoá khác. Tuy nhiên có sự khác biệt trong việc lựa chọn lý do học tiếng
Anh giữa SV cũ và SV mới đó là trên 60% SV mới cho rằng tiếng Anh cần
thiết đối với công việc chuyên môn của họ sau này. Theo một số SV được hỏi
thì trong CT học họ đã được học 45 tiết tiếng Anh về chuyên ngành mà họ
được đào tạo. Đó là cơ hội để họ nắm bắt thêm về chuyên ngành và thông qua
40
đó cũng giúp cho SV nhận ra được tầm quan trọng của tiếng Anh trong công
việc chuyên môn sau này của mình. Ngoài những lý do của chúng tôi nêu ra,
SV cũng đã đưa ra những lý do khác mà họ muốn học tiếng Anh đó là họ học
tiếng Anh để sau này có thể chuyển nghề. Sau khi phỏng vấn một số SV
chúng tôi đã nhận được câu trả lời cụ thể của SV đó là sau này nếu không
được làm theo đúng chuyên môn được đào tạo thì họ có thể làm hướng dẫn
viên du lịch hay có thể giảng dạy môn tiếng Anh cho học sinh tiểu học hay
THCS ở địa phương mình.
Bảng 3.16 Các hoạt động chuẩn bị cho giờ học tiếng Anh
Các hoạt động
SV mới - có
thực hiện
(%)
SV cũ - có
thực hiện
(%)
Làm bài tập được giao 96.6 85.7
Đọc trước bài mới 78.9 68.8
Tra từ mới của bài 93.9 88.3
Đánh dấu chỗ không hiểu để hỏi giáo viên 55.1 58.4
Dịch bài sang tiếng Việt 69.2 68.8
Trả lời trước câu hỏi trong sách 41.5 35.1
Làm trước các bài tập trong sách 27.9 27.3
Nghe trước bài mới 6.9 13
Tìm thêm các sách tiếng Anh khác 31.3 41.6
Nghe lại bài đã học 12.9 28.6
Ý kiến khác 0.7 0
Thái độ học tập bộ môn còn được thể hiện qua những hoạt động mà SV
chuẩn bị cho giờ học. Cả SV cũ và SV mới đều có ý thức làm các bài tập
được giao và chuẩn bị bài mới bằng cách tra trước từ mới của bài. Hơn nữa cả
41
SV cũ và SV mới đều tích cực đọc trước bài và dịch bài sang tiếng Việt vì
theo họ việc làm này giúp họ có thể hiểu bài ngay trên lớp một cách dễ dàng
hơn.
Tuy nhiên hoạt động nghe ít được SV chú ý nhất. Rất ít SV nghe trước
bài hay thậm chí là nghe lại bài đã học. SV mới bỏ qua kỹ năng nghe nhiều
hơn so với SV cũ. Khi chúng tôi tiến hành hỏi một số SV lý do mà họ không
chú ý nhiều đến kỹ năng này , chúng tôi đã nhận được một số câu trả lời như
sau: thứ nhất kỹ năng nghe không được thể hiện rõ ràng trong giáo trình của
các em nên các em không nhận thấy kỹ năng này; thứ hai là trên lớp chỉ thỉnh
thoảng thày cô mới đưa kỹ năng nghe vào giảng dạy trên lớp; thứ ba là kỹ
năng này các thày cô hiếm khi đưa vào trong bài kiểm tra học phần và không
hề có trong bài thi cuối kỳ.
Ngoài các hoạt động nêu trên, một số SV còn học thuộc các cấu trúc ngữ
pháp bằng cách đặt câu với những cấu trúc đó hay học thuộc một số đoạn hội
thoại, đoạn văn mà các em cảm thấy thích.
Bảng 3.17 Các kiến thức sinh viên học trong trường
Kiến thức , kỹ năng SV mới - có học (%) SV cũ - có học (%)
Kiến thức ngữ pháp 93.9 84.4
Kiến thức từ vựng 83.7 85.7
Kỹ năng nghe 40.1 49.4
Kỹ năng nói 51.7 42.9
Kỹ năng đọc 74.1 64.9
Kỹ năng viết 72.8 62.3
Kỹ năng dịch Anh-Việt 62.6 77.9
Kỹ năng dịch Việt-Anh 32 36.4
Khi được hỏi về những kiến thức và những kỹ năng mà SV tập trung học
tập khi học tiếng Anh trong trường CĐSP Bắc Giang, thì hầu hết SV tập trung
vào học kiến thức ngữ pháp và kiến thức từ vựng vì theo họ đây là khối kiến
42
thức ngôn ngữ cần thiết mà họ phải nắm được khi học ngoại ngữ, hơn nữa các
thày cô cũng tập trung nhiều vào khối kiến thức này khi họ giảng dạy trên lớp.
Đối với cựu SV sau khối kiến thức ngôn ngữ thì họ tập trung và kỹ năng dịch
Anh - Việt, rồi đến các kỹ năng đọc và viết. Nhưng đối với sinh viên mới họ
tập trung vào kỹ năng đọc viết nhiều hơn các kỹ năng dịch. Kỹ năng nghe và
kỹ năng nói vẫn không được SV chú trọng trong khi học vì lý do chủ yếu là
cả hai kỹ năng này đều không hề được đưa vào trong bài thi học phần (mặc dù
việc kiểm tra kỹ năng nghe là có được tiến hành với SV cũ nhưng chỉ làm
trong học kỳ 1). Lúc đầu SV có ý thức học đầy đủ các kỹ năng nhưng sau đó
các em thấy các kỹ năng này bị bỏ qua trong các bài thi, nên dần dần các em
xao nhãng dần những kỹ năng này.
Bảng 3.18 Việc hiểu bài trên lớp
Có đủ thời gian hiểu
bài trên lớp
SV mới (%) SV cũ (%)
Hoàn toàn đồng ý 6.1 5.2
Đồng ý 14.3 20.8
Đồng ý một phần 66.7 64.9
Không đồng ý 10.9 9.1
Hoàn toàn không đồng ý 2.0 0
Bảng trên cho chúng ta thấy ý kiến của các nhóm SV về việc hiểu bài
trên lớp của họ. Số SV mới đồng ý với việc này ít hơn so với SV cũ. Khi hỏi
một số SV mới tại sao họ lại không có đủ thời gian hiểu bài ngay thì họ cho
rằng có những lý do như sau: thứ nhất do họ không chuẩn bị bài trước ở nhà
nên họ không chủ động với những câu hỏi mà giáo viên nêu ra và trong các
tình huống trên lớp; thứ hai là có những đơn vị bài học khối kiến thức còn
nhiều như từ vựng nhiều, cấu trúc ngữ pháp khó, bài đọc dài và chủ điểm xa
43
lạ đối với họ nên họ cảm thấy khó tiếp thu ngay tại lớp được. Nhưng họ đã
khắc phục bằng cách ghi chép đầy đủ trên lớp và về nhà xem lại bài hay đề
nghị bạn giúp đỡ.
Bảng 3.19 Khối lượng kiến thức, kỹ năng của các học kỳ.
Kiến thức các học kỳ SV mới (%) SV cũ (%)
Quá nhiều 0 1.3
nhiều 16.3 10.4
vừa đủ 57.1 59.7
ít 21.1 26
quá ít 5.4 2.6
SV mới không cảm thấy kiến thức của các học kỳ là quá nhiều. Một số
(16.35%) cho rằng kiến thức các kỳ là nhiều vì đôi khi họ thấy chính bản thân
giáo viên cũng không thể dạy hết bài trong một số tiết học. Hơn nữa có những
bài có nhiều kiến thức đối với họ cả kiến thức từ vựng, kiến thức ngữ pháp và
bài đọc; có những bài cũng có nhiều các hoạt động. Còn 5.4 % SV cho rằng
kiến thức của các kỳ còn thiếu một số kỹ năng giao tiếp như kỹ năng nghe hay
kỹ năng nói, những kiến thức này họ không được tiếp cận nhiều trên lớp.
44
Bảng 3.20 Các hoạt động thực hiện trong giờ tiếng Anh
Các hoạt động SV mới - đồng ý (%) SV cũ- đồng ý (%)
Trả lời câu hỏi của giáo
viên
97.3 93.5
Đưa ra câu hỏi của mình 65.3 51.9
Nêu ý kiến của mình 70.7 51.9
Sử dụng tiếng Anh trong
giờ học
74.1 67.5
Làm việc theo nhóm 83 71.4
Yêu cầu giáo viên giảng
lại những vấn đề chưa rõ
68.7 61
Không tham gia các
hoạt động trên lớp
2.7 26
Làm việc cá nhân 23.1 53.2
Ngồi nghe thụ động 15 33.8
Ghi chép bài 84.4 89.6
Làm việc theo cặp 76.9 77.9
Theo số liệu thu được trong bảng trên, cũng như những cựu SV thì
những SV mới đều thực hiện tốt việc ghi chép bài và trả lời các câu hỏi mà
giáo viên nêu ra. Nhưng khác biệt lớn nhất đối với hai nhóm SV này là nhóm
SV cũ không tham gia vào các hoạt động trên lớp nhiều hơn nhóm SV mới
với tỷ lệ lần lượt là 26% và 2.7%. Điểm khác biệt nữa đó là SV mới mạnh dạn
hơn trong việc nêu ra những ý kiến của mình và đưa ra những câu hỏi của
mình trong các giờ học, vì vậy việc ngồi nghe thụ động đối với SV mới là ít
hơn so với sinh viên cũ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc họ được luyện tập
sử dụng tiếng Anh trên lớp nhiều hơn so với nhóm SV cũ.
45
Khi chúng tôi tiến hành phỏng vấn một số SV mới về cảm giác của họ
khi đưa ra ý kiến hay câu hỏi của mình trên lớp, thì chúng tôi nhận được câu
trả lời từ hầu hết các em đó là một cảm giác thoải mái vì giáo viên luôn
khuyến khích họ trao đổi ý kiến trong giờ học tham gia vào các hoạt động
trong giờ học, giáo viên luôn lắng nghe hết những ý kiến mà họ nêu ra trên
lớp cho dù những ý kiến đó đúng hay sai và giáo viên không hề chỉ trích họ
khi họ nêu ra những ý kiến không đúng.
Bảng 3.21 Tài liệu giáo trình của môn học
Tài liệu giáo trình... SV mới - đồng ý (%) SV cũ -đồng ý (%)
Chú trọng phát triển kỹ năng nghe 14.3 64.9
Chú trọng phát triển kỹ năng nói 32.7 57.1
Chú trọng phát triển kỹ năng viết 54.4 58.4
Chú trọng phát triển kỹ năng đọc 55.8 71.4
Chú trọng cung cấp từ vựng 76.2 76.6
Chú trọng đến ngữ pháp 79.6 85.7
Cập nhật kiến thức chuyên ngành 77.6 6.5
Không phát triển kỹ năng nghe 49.7 20.8
Không phát triển kỹ năng nói 36.1 26
Phát triển kỹ năng dịch việt -anh 35.4 33.8
Phát triển kỹ năng dịch anh- việt 41.5 53.2
Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể được sự khác biệt lớn nhất về giáo
trình của hai chương trình học đó là CT mới cập nhật những kiến thức chuyên
ngành với 77.6% số ý kiến SV đồng ý, con số này đối với CT cũ chỉ là 6.5%.
Điều này được thể hiện rõ trong CT đào tạo mới SV được học 3 học trình cuối
cùng về chuyên ngành mình được đào tạo bằng tiếng Anh (trong tổng số 10
46
học trình của toàn khoá học). Điểm khác biệt nữa là hai kỹ năng nghe và nói ít
được thể hiện trong giáo trình của CT mới hơn so với giáo trình của CT cũ.
Nhưng điểm giống nhau của hai giáo trình này là cả hai loại giáo trình
đều chú trọng đến kiến thức ngữ pháp và việc cung cấp từ vựng cho SV, tuy
nhiên giáo trình của CT cũ tập trung đều hơn vào các kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết; còn giáo trình mới còn xem nhẹ kỹ năng nghe và nói .
Bảng 3.22 Các kiến thức , kỹ năng trong bài thi, kiểm tra
SV mới SV cũ
Kiến thức, kỹ
năng
học
phần
1
(%)
học
phần
2
(%)
học
phần
3
(%)
học
phần
1
(%)
học
phần
2
(%)
học
phần
3
(%)
học
phần
4
(%)
học
phần
5
(%)
Kiến thức ngữ
pháp
100 100 98.6 89.6 89.6 87 92.2 90.9
Từ vựng 81 88.4 87.1 71.4 79.2 81.8 75.3 81.8
Kỹ năng nghe 1.4 0.7 0 27.3 0 0 0 0
Kỹ năng nói 0.7 1.4 0.7 0 0 0 0 0
Kỹ năng đọc 82.3 83.7 89.8 62.3 64.9 64.9 84.4 81.8
Kỹ năng viết 60.5 61.9 63.3 74 72.7 74 66.2 83.1
Dịch Việt - Anh 21.9 11.6 19.7 27.3 20.8 22.1 19.5 18.2
Dịch Anh - Việt 29.9 36.1 71.4 42.9 46.8 51.9 53.2 62.3
Bảng 3.22 là những ý kiến của SV về nội dung của các bài thi học phần
tiếng Anh của họ. Trong hầu hết các bài thi của các học phần của cả CT cũ và
CT mới, các kiến thức ngữ pháp và kiến thức từ vựng đều được chú trọng hơn
cả. Tiếp sau đó là kỹ năng đọc và kỹ năng viết. Kỹ năng dịch Anh - Việt và
dịch Việt - Anh cũng được đề cập chút ít trong bài thi. Nhưng kỹ năng nghe
47
chỉ được đưa vào bài thi của học kỳ 1 của CT cũ, còn các học kỳ tiếp theo thì
không được đưa vào bài thi. Đối với kỹ năng nói thì hầu như chưa hề được
đưa vào thi học phần. Khi chúng tôi phỏng vấn một số SV mới để kiểm tra lại
xem những kỹ năng nghe, nói trong bài thi học phần của họ được thực hiện
như thế nào thì chúng tôi nhận được câu trả lời là những bài đó là những bài
kiểm tra 15 phút trên lớp vậy là bài kiểm tra học trình chứ không phải là bài
thi học phần. Điều này cho thấy là kỹ năng nghe và kỹ năng nói chưa hề được
đưa vào nội dung bài thi của CT mới.
Bảng 3.23 Các kiến thức ôn tập để thi kiểm tra
Các kiến thức, kỹ năng SV mới - có ôn tập (%) SV cũ - có ôn tập (%)
Kiến thức ngữ pháp 97.3 93.5
Từ vựng 87.1 79.2
Kỹ năng nghe 12.2 46.8
Kỹ năng nói 10.2 22.1
Kỹ năng đọc 65.3 61
Kỹ năng viết 68.7 63.6
Dịch Việt - Anh 69.4 50.6
Dịch Anh - Việt 70.7 72.7
Các kiến thức mà SV cả hai nhóm tập trung ôn nhiều nhất cho bài thi
kiểm tra đó là kiến thức ngữ pháp và kiến thức từ vựng rồi đến kỹ năng dịch
Anh - Việt, kỹ năng đọc và kỹ năng viết. Tuy nhiên SV cũ ôn tập kỹ năng
nghe nhiều hơn SV mới điều này như đã đề cập đến ở phần trước một lý do
cơ bản đó là kỹ năng nghe không hề có trong bất kỳ bài thi học phần nào ở
chương trình mới, còn trong chương trình cũ kỹ năng nghe chỉ được đưa vào
bài thi học phần một lần đó là học phần một, còn các học phần tiếp theo kỹ
năng này cũng bị bỏ qua. Kỹ năng ít được SV ở cả hai nhóm quan tâm ôn tập
48
nhất đó là kỹ năng nói. Thực ra kỹ năng này vẫn được các giảng viên tiến
hành giảng dạy trên lớp nhưng cũng giống như kỹ năng nghe, nó cũng không
được kiểm tra trong những bài thi học phần nên SV không chú ý nhiều đến
việc ôn kỹ năng này.
Bảng 3.24 Thời điểm ôn tập khi thi, kiểm tra.
Chỉ ôn tập khi thi, kiểm tra SV mới (%) SV cũ (%)
Hoàn toàn đúng 3.4 22.1
Đúng 10.9 20.8
Đúng một phần 36.1 31.2
Không đúng 32.7 18.2
Hoàn toàn không đúng 17 7.8
Nếu nhìn vào kết quả thu được trong bảng 3.21 ta có thể thấy được rằng
nhóm SV cũ chỉ ôn tập trước khi thi kiểm tra nhiều hơn số SV mới, SV mới
ôn tập thường xuyên hơn. Khi chúng tôi hỏi một số SV mới thì chúng tôi nhận
được câu trả lời là do giáo viên tiến hành kiểm tra bài cũ bất chợt và cho điểm
nên họ phải ôn tập hàng ngày; trong bài thi thường là những câu hỏi trắc
nghiệm nên kiến thức bao trùm hầu như toàn bộ nội dung trong giáo trình nên
không ôn tập không thể thi được; nếu chỉ ôn trước khi thi thì không thể ôn hết
tất cả chương trình đã học được nên phải ôn tập hàng ngày.
Trên đây là một số kết quả thu được và những phân tích của chúng tôi
sau khi tiến hành thu thập và xử lý thông tin từ bảng hỏi đối với giảng viên và
sinh viên về vấn đề mà chúng tôi nghiên cứu.
49
Ch−¬ng 4: kÕt luËn, ®Ò xuÊt gi¶i ph¸p, khuyÕn nghÞ
Trên cở sở những số liệu thu được sau khi đã được xử lý và phân tích
trong chương 3, chúng tôi đưa ra một số những kết luận trả lời cho các câu
hỏi nghiên cứu mà chúng tôi đã đề ra.
1. Kết luận
Theo như những phân tích trong chương ba, chúng tôi nhận thấy việc áp
dụng giảng dạy môn tiếng Anh theo CT mới đã có những tác động nhất định
đến cả giảng viên khoa tiếng Anh và những sinh viên các khoa không chuyên
tiếng Anh trường CĐSP Bắc Giang.
1.1 Đối với giảng viên
CT mới đã có những tác động cả tích cực, cả tiêu cực đến giảng viên.
Dưới đây là một số những tác động cụ thể:
Khi giảng dạy CT mới giảng viên phải sử dụng nhiều CNTT, việc làm
này trước đây họ ít dùng. CNTT được giảng viên xác định là một công cụ
quan trọng phục vụ việc dạy và học. Việc sử dụng CNTT đã giúp cho họ tăng
thêm hiệu quả của việc dạy và học. Với sự trợ giúp của CNTT giảng viên có
thể tối đa hoá thời gian cho việc học tập diễn ra. CNTT giúp cho SV có thể
chọn lựa và xử lý thông tin một cách nhanh chóng, giúp SV định hướng tư
duy và thái độ của mình trong quá trình học.
Khi giảng dạy CT mới giảng viên đã có những thay đổi đáng kể về
PPGD. Họ tập trung nhiều vào những PP mới như: PP lấy SV làm trung tâm,
PP giao tiếp và PP thảo luận và đã hạn chế việc sử dụng PP lấy giáo viên làm
trung tâm hay PP thuyết trình. Thông qua những PP này giáo viên đã giúp SV
chủ động và tích cực trong việc tiếp nhận tình huống học tập mới; giúp SV
chủ động thể hiện những quan điểm và những khó khăn của mình trước
những tình huống học tập mới; giúp SV chủ động tích cực trong việc thảo
luận trao đổi thông tin với bạn và với giáo viên để tìm ra những giải pháp để
50
giải quyết những tình huống học tập; giúp SV tự điều chỉnh lại kiến thức của
bản thân sau khi đã lĩnh hội những tri thức mới thông qua việc giải quyết các
tình huống trong học tập.
Hơn nữa khi giảng dạy CT mới giảng viên đã kết hợp đồng đều các hình
thức tổ chức hoạt động khác nhau trong giờ giảng của mình như: làm việc cá
nhân; làm việc theo cặp hay làm việc theo nhóm... để tạo mối quan hệ tích
cực giữa các sinh viên. Việc làm này giúp cho mọi SV đều phải nỗ lực nhiều;
tăng cường tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít của
các cá nhân, họ làm việc cùng nhau và khuyến khích, ủng hộ sự thành công
của người khác thông qua việc chia sẻ, trợ giúp và động viên lẫn nhau; tạo cơ
hội để sinh viên được làm việc cùng nhau nhằm tối đa hoá kết quả học tập của
bản thân mình cũng như của người khác.
Mặt khác, khi giảng dạy CT mới, ngoài việc phải đầu tư thời gian chuẩn
bị bài, học hỏi đồng nghiệp trong khoa tiếng Anh thì giảng viên phải tìm hiểu
một cách đầy đủ về những kiến thức chuyên ngành của SV khoa mình giảng
dạy, việc làm này không cần thiết khi họ giảng dạy theo CT cũ. Họ có thể tìm
hiểu những kiến thức này thông qua các tài liệu tham khảo, qua phương tiện
thông tin, qua các đồng nghiệp trong khoa và các đồng nghiệp các khoa
chuyên môn để chuẩn bị cho mình những kiến thức cần thiết phục vụ cho bài
giảng đạt hiệu quả tốt nhất. Khi đã có đầy đủ những kiến thức chuyên ngành
cần thiết giảng viên cảm thấy tự tin, chủ động hơn trong quá trình giảng dạy
của mình.
Một tác động tích cực nữa mà CT mới mang lại đó là không khí lớp học
trong các giờ học thường sôi nổi hơn khi áp dụng CT mới. Điều này có thể
thấy là do kết quả của việc thay đổi PPGD của giảng viên. Giáo viên chỉ là
người tổ chức và điều khiển quá trình dạy học, xây dựng những tình huống
học tập giúp SV phát hiện và giải quyết vấn đề, chủ động và độc lập hơn
51
trong việc tiếp thu và xây dựng tri thức. SV phải làm việc nhiều. SV là người
quyết định hướng đi của bài học thông qua mối quan hệ tương tác với giáo
viên điều này cũng làm cho không khí của lớp học sôi nổi hơn.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, CT mới cũng có những vấn
đề cần phải xem xét lại đó là: khi giảng dạy theo CT mới giảng viên không
tập trung nhiều vào việc phát triển đầy đủ các kỹ năng giao tiếp cho SV, họ
chỉ tập trung chủ yếu vào việc trau dồi những kiến thức ngôn ngữ đó là kiến
thức ngữ pháp và kiến thức từ vựng, kỹ năng đọc và kỹ năng viết . Điều này
thể hiện trong giáo trình đưa vào giảng dạy đã không đề cập đến kỹ năng nghe
và kỹ năng nói. Vì vậy giảng viên chỉ phát triển các kỹ năng này cho SV khi
họ cảm thấy họ thực sự có thời gian trên lớp.
Một số kỹ năng không được đưa vào trong các bài thi học phần như kỹ
năng nghe và kỹ năng nói, nên SV dần dần bỏ qua những kỹ năng này trong
quá trình học tập và ôn luyện của mình.
1.2 Đối với sinh viên
CT mới đã có những tác động đáng kể đến hoạt động học tập của SV
trong nhà trường CĐSP Bắc Giang.
Một trong những tác động lớn nhất đó là PP học tập của SV đã thay đổi.
SV là người chủ động tham gia vào quá trình hoạt động học tập. SV có nhu
cầu tiếp thu kiến thức, kỹ năng, chủ động lựa chọn kiến thức và thao tác tư
duy thích hợp để có những ứng xử ngôn ngữ cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh
giao tiếp; SV biết làm việc theo cặp, theo nhóm, hợp tác khi cần thiết để làm
cho các cá nhân có khả năng làm việc hiệu quả hơn từ đó thúc đẩy sự thành
công của nhau thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm, sự giúp đỡ, ủng hộ,
khuyến khích và tạo cho nhau hứng thú để học tập; SV chủ động trình bày
những ý kiến của mình.
52
Theo sự đánh giá của SV, giáo trình của môn học ngoài việc chú trọng
phát triển các kiến thức ngôn ngữ còn luôn cập nhật những kiến thức chuyên
ngành cho SV. Việc làm này là vô cùng cần thiết vì thông qua những bài học
chuyên ngành SV có thể nắm vững được nội dung môn học, kích thích sự say
mê tìm hiểu môn học thông qua những tài liệu bằng tiếng nước ngoài (tiếng
Anh) và quan trọng hơn nữa đó là giúp cho SV say mê hơn với môn tiếng
Anh từ đó có ý thức học tập môn tiếng Anh tốt hơn.
Nhưng bên cạnh đó, tài liệu, giáo trình vẫn còn thiếu một số kỹ năng
giao tiếp cơ bản như kỹ năng nghe và kỹ năng nói. Hai kỹ năng này không
được thể hiện trong giáo trình môn học. Vì vậy các kỹ năng này chỉ được
giảng viên giảng dạy kết hợp các kỹ năng đọc hay kỹ năng viết và chỉ diễn ra
trong một khoảng thời gian ngắn trên lớp, nên SV ít có cơ hội luyện tập.
SV vẫn còn bị hạn chế một số kỹ năng cơ bản trong giao tiếp đó là kỹ
năng nghe và kỹ năng nói. Điều này là hệ quả của việc bỏ qua một số kỹ năng
cơ bản của giao tiếp trong việc giảng dạy tiếng Anh theo CT mới tại trường
CĐSP Bắc Giang. SV ít được luyện các kỹ năng này nên khả năng diễn đạt
bằng ngoại ngữ (tiếng Anh) còn chậm và không lưu loát.
2. Đề xuất giải pháp
Trên cơ sở những vấn đề được tìm thấy nêu trên, chúng tôi muốn đưa ra
một số những giải pháp như sau:
Thứ nhất, mặc dù nội dung của giáo trình mới đã tập trung vào giảng dạy
cho sinh viên những kiến thức ngôn ngữ và một số những kỹ năng cần thiết
đối với việc học tập môn ngoại ngữ như kỹ năng đọc và kỹ năng viết, tuy
nhiên điều này vẫn còn chưa đủ. Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động
rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng: nghe, nói, đọc, viết.... Môn ngoại
ngữ nói chung và môn tiếng Anh nói riêng đòi hỏi phải giải quyết hợp lý mối
quan hệ giữa kiến thức ngôn ngữ và kiến thức kỹ năng. Chỉ có kiến thức mà
53
không có kỹ năng thì không có khả năng giao tiếp và ngược lại, chỉ có kỹ
năng mà không có kiến thức thì khả năng giao tiếp bị hạn chế và không phát
triển được. Vì vậy, trong giáo trình của chương trình mới nên bổ sung các kỹ
năng giao tiếp còn thiếu như kỹ năng nghe, kỹ năng nói thành từng phần rõ
ràng, cụ thể để giảng viên có cơ hội và có điều kiện để giúp cho sinh viên rèn
luyện và phát triển năng lực giao tiếp trong khi học ngoại ngữ tai trường
CĐSP Bắc Giang.
Thứ hai, để thực sự nâng cao hiệu quả của việc dạy - học tiếng Anh
trong trường, việc kiểm tra đánh giá cũng cần phải được tổ chức một cách qui
mô và chặt chẽ hơn, cụ thể là thiết kế các bài thi học phần bao gồm các dạng
bài sử dụng ngôn ngữ (bao gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) và phát triển kỹ
năng theo từng kỹ năng riêng biệt (nghe, nói, đọc, viết) để bài kiểm tra đảm
bảo đầy đủ cả hai mảng kiến thức, đó là: kiến thức ngôn ngữ và kỹ năng giao
tiếp.
Thứ ba, PPDH ngoại ngữ chọn giao tiếp là phương hướng chủ đạo, năng
lực giao tiếp là đơn vị dạy học cơ bản, coi giao tiếp vừa là mục đích, vừa là
phương tiện dạy học (dạy học trong giao tiếp, bằng giao tiếp và để giao tiếp).
Mục đích của việc dạy học ngoại ngữ không nhằm hướng SV vào việc nghiên
cứu hệ thống ngôn ngữ mà nhằm giúp các em sử dụng hệ thống ngôn ngữ đó
như một công cụ giao tiếp, nghĩa là nhằm rèn luyện cho SV năng lực giao
tiếp. Vì vậy, bên cạnh cung cấp những kiến thức ngôn ngữ và việc phát triển
kỹ năng đọc hiểu và kỹ năng viết cho SV, giảng viên cần từng bước rèn luyện
kỹ năng nghe cho SV thông qua các bài tập nghe khác nhau như nghe lấy ý
chính, nghe hiểu các thông tin chi tiết, nghe để đoán nghĩa qua ngữ cảnh...Và
với kỹ năng nói nên được dạy phối hợp với ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, chức
năng ngôn ngữ và các kỹ năng khác thông qua các nội dung chủ điểm của bài.
54
Việc làm này sẽ giúp cho SV rèn luyện năng lực giao tiếp sử dụng sáng tạo
những qui tắc ngôn ngữ để thực hiện giao tiếp.
Thứ tư, việc học ngoại ngữ đó là việc nắm những kiến thức ngôn ngữ và
rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng: nghe, nói, đọc và viết. Môn ngoại
ngữ đòi hỏi nhận thức và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa kiến thức ngôn
ngữ và kỹ năng ngôn ngữ, trong đó kỹ năng là trung tâm là mục đích cuối
cùng của việc dạy và học ngoại ngữ còn kiến thức là nền tảng , là điều kiện, là
phương tiện. Vì vậy, muốn học ngoại ngữ (tiếng Anh) một cách toàn diện thì
ngoài việc nắm chắc những kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp),
người học còn cần phải đạt được khả năng giao tiếp tức là phát triển được đầy
đủ bốn kỹ năng giao tiếp nghe, nói, đọc, viết và sử dụng được ngôn ngữ, sử
dụng tiếng Anh để giao tiếp và đương nhiên nếu thiếu một trong bốn kỹ năng
trên thì việc thực hiện giao tiếp một cách thực sự là khó có thể xảy ra. Cho
nên trong quá trình học môn tiếng Anh của mình tại trường CĐSP Bắc Giang,
SV cần tập trung rèn luyện cho mình kỹ năng giao tiếp hoàn chỉnh đặc biệt
coi việc hình thành và phát triển bốn kỹ năng giao tiếp là mục đích cuối cùng
của việc học ngoại ngữ và các kiến thức ngôn ngữ là phương tiện, điều kiện
hình thành và phát triển các kỹ năng giao tiếp đó.
55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo Dục và Đào Tạo. (2004). Chương trình khung giáo dục đại học,
trình độ cao đẳng khối ngành sư phạm, ban hành theo quyết định số
15/2005 QĐ ngày 10/06/2004
[2] Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần Bá Hoành, Nguyễn Bá
Kim, Lâm Quang Thiệp. (2007) Đổi mới nội dung và phương pháp đào
tạo giáo viên trung học cơ sở. Dự án đào tạo giáo viên trung học cơ sở.
[3] Nguyễn Hữu Châu (chủ biên), Vũ Quốc Chung, Vũ Thị Sơn. (2005).
Phương pháp, phương tiện kỹ thuật và hình thức tổ chức dạy học trong
nhà trường. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội.
[4] Trần Xuân Giáp. (1998). Phương tiện dạy học. Nhà xuất bản Giáo dục
[5] Nguyễn Công Khanh. (2004). Đánh giá và đo lường trong khoa học xã
hội. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
[6] Nguyễn Công Khanh. (2006). Đại cương về thống kê và ứng dụng phần
mềm SPSS (Tài liệu dùng cho học viên cao học). Trung tâm đảm bảo chất
lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục - Đại học Quốc gia Hà
Nội.
[7] Đào Ngọc Lộc, Nguyễn Hạnh Dung, Vũ Thị Lợi. (2008). Một số vấn đề
đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng Anh. Nhà xuất bản Giáo dục
56
[8] Lê Đức Ngọc. (2006). Nhập môn lý thuyết đo lường và xử lý số đo. Trung
tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục - Đại
học Quốc gia Hà Nội.
[9] Nhiều tác giả. (2005) Giáo dục đại học chất lượng và đánh giá. Hội đồng
biên tập PGS.TS Nguyễn Phương Nga, PGS.TS Lê Đức Ngọc, TS.
Nguyễn Công Khanh, TS. Nguyễn Quý Thanh. Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[10] Lâm Quang Thiệp - Việc dạy và học ở đại học và vai trò của nhà giáo
đại học trong thời đại thông tin, "Giáo dục đại học", ĐHQGHN, 2000.
[11] Dương Thiệu Tống. (2003). Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa
học giáo dục. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
[12] George Brown and Madeleine Atkins . (1988) Effective Teaching in
Higher Education. Methuen & Co. Ltd.
[13] George J. Posner .(2004) Analysing the Curriculum, 3rd edition. Cornell
University
[14] Gillham, B. (2000) Developing a Questionnaire. Continuum.
[15] John, L., & Winndeatts, S. (1989) The Second Language Curriculum.
Cambridge University Press.
[16] Johnson, R.K (ed). (1989) The Second Language Curriculum. Cambridge
University Press.
57
[17] Paul Ramsden. (1998). Learning to Lead in Higher Education. Routledge
[18] Paul Ramsden. ( 1992). Learning to Teach in Higher Education.
Routledge.
[19] www. Asian - efl - journal.com
[20] www.cpu.psp.ucl.ac.be
[21] www. niesac.edu.vn
58
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. PHIẾU KHẢO SÁT ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Để nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Anh trong trường Cao Đẳng
Sư Phạm Bắc Giang, xin quý thày/cô vui lòng cho biết ý kiến về những vấn
đề được nêu dưới đây. Các ý kiến của quý thày/ cô sẽ giúp chúng tôi rất nhiều
trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên không
chuyên ngữ. Thày/cô hãy đánh dấu (√) vào các phương án lựa chọn phù hợp
với ý kiến của mình.
THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Giới tính:
Nam
Nữ
2. Số năm công tác của thày/cô:
Dưới 5 năm
Từ 5 đến 9 năm
Trên 9 năm đến 15 năm
Trên 15 năm
3. Trình độ học vấn của thày/cô:
Cử nhân
Thạc sỹ
Tiến sỹ
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
I. Chương trình tiếng Anh cũ
Câu 1. Khi giảng dạy chương trình tiếng Anh cũ, thày/cô đã giảng dạy cho
sinh viên (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn phù hợp):
Kiến thức ngữ pháp
Từ vựng
Kỹ năng nghe
Kỹ năng nói
Kỹ năng đọc
59
Kỹ năng viết
Kỹ năng dịch Anh-Việt
Kỹ năng dịch Việt-Anh
Các kỹ năng khác (hãy liệt kê)........................
Câu 2. Trong khi giảng dạy theo chương trình tiếng Anh cũ, thày/cô đã (đánh
dấu vào tất cả những lựa chọn phù hợp):
sử dụng các nguồn tài liệu tham khảo
sử dụng công nghệ thông tin
sử dụng giáo cụ trực quan
các nguồn khác (hãy liệt kê)..........................................................................
Câu 3. Theo thày/cô, việc phân phối thời gian lên lớp đối với chương trình
tiếng Anh cũ là:
Đủ
Thiếu
Ý kiến khác
Câu 4. Khi giảng dạy chương trình cũ, thày/cô đã sử dụng phương pháp
giảng dạy nào sau đây?
Phương pháp luôn luôn
thường
xuyên
thỉnh
thoảng ít khi
không
bao giờ
sinh viên làm trung tâm
giáo viên làm trung tâm
kết hợp hai phương pháp trên
ngữ pháp - phiên dịch
giao tiếp
dạy nghe-nói (Audio - Lingual)
thuyết trình
thảo luận
ngữ pháp
các phương pháp khác (hãy liệt kê).........................................................................
Câu 5. Khi giảng dạy theo chương trình cũ, thày/cô đã áp dụng những thủ
thuật nào sau đây?
Thủ thuật luôn luôn
thường
xuyên
thỉnh
thoảng
ít
khi
không
bao
giờ
60
Cung cấp từ mới cho sinh viên
Dành nhiều thời gian dạy ngữ pháp
Trả lời các câu hỏi mà sinh viên nêu ra
Dành thời gian để giải thích các vấn đề cho sinh viên
Thuyết trình giảng giải nội dung bài học
Dịch bài từ tiếng Anh sang tiếng Việt cho sinh viên
Đặt câu hỏi cho sinh viên trả lời
Tạo cơ hội cho sinh viên đưa ra ý kiến
Chú ý nâng cao năng lực tự học của sinh viên
Kích thích năng lực sáng tạo của sinh viên
Tạo tình huống để sinh viên sử dụng tiếng Anh trên
lớp
Yêu cầu sinh viên dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh
Yêu cầu sinh viên đọc tài liệu trước khi đến lớp
Chữa bài tập cho sinh viên
Giao bài tập về nhà cho sinh viên
Yêu cầu sinh viên báo cáo lại những gì đã chuẩn bị
Các thủ thuật khác (hãy liệt kê)........................................................................................................
Câu 6. Các hình thức tổ chức hoạt động trên lớp mà thày/cô áp dụng trong
khi dạy chương trình tiếng Anh cũ là (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn
phù hợp):
sinh viên làm việc cá nhân
sinh viên làm việc theo cặp
sinh viên làm việc theo nhóm nhỏ
sinh viên làm việc theo nhóm lớn (> 10 người)
làm việc cả lớp
các hình thức tổ chức khác (hãy liệt kê)............................................................
Câu 7. Trong bài kiểm tra/thi học phần, thày/cô đã kiểm tra sinh viên những
kiến thức và kỹ năng gì dưới đây? (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn phù
hợp)
kiến thức ngữ pháp
từ vựng
kỹ năng đọc
kỹ năng nghe
kỹ năng nói
kỹ năng viết
dịch Anh - Việt
61
dịch Việt - Anh
Các kỹ năng khác (hãy liệt kê).................................................................
Câu 8. Đánh giá của thày/cô về những ưu điểm và những hạn chế của bài
kiểm tra/thi học phần của chương trình tiếng Anh cũ. (đánh dấu vào tất cả
những lựa chọn phù hợp)
Tập trung đo lường kiến thức ngữ pháp
Tập trung đo lường kiến thức từ vựng
Tập trung đo lường kỹ năng viết
Bỏ qua kỹ năng nghe
Bỏ qua kỹ năng nói
Tập trung đo lường kỹ năng đọc
Tập trung đo lường kỹ năng nghe
Tập trung đo lường kỹ năng dịch Việt - Anh
Tập trung đo lường kỹ năng dịch Anh - Việt
Các kỹ năng khác (hãy liệt kê)...........................................................................
Câu 9. Với chương trình tiếng Anh cũ, sinh viên dễ dàng đạt điểm cao trong
khi kiểm tra/thi.
a. Hoàn toàn đồng ý
b. Đồng ý
c. Đồng ý một phần
d. Không đồng ý
e. Hoàn toàn không đồng ý
II. Chương trình tiếng Anh mới
Câu 10. Khi giảng dạy chương trình tiếng Anh mới, thày/cô đã giảng dạy cho
sinh viên (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn phù hợp):
Kiến thức ngữ pháp
Từ vựng
Kỹ năng nghe
Kỹ năng nói
Kỹ năng đọc
Kỹ năng viết
Kỹ năng dịch Anh-Việt
62
Kỹ năng dịch Việt-Anh
Các kỹ năng khác (hãy liệt kê)...........................................................................................
Câu 11. Trong khi giảng dạy theo chương trình tiếng Anh mới, thày/cô đã
(đánh dấu vào tất cả những lựa chọn phù hợp):
sử dụng các nguồn tài liệu tham khảo
sử dụng công nghệ thông tin
sử dụng giáo cụ trực quan
Các nguồn khác (hãy liệt kê)................................................................................................
Câu 12. Theo thày/cô, phân phối thời gian lên lớp đối với chương trình tiếng
Anh mới là:
Đủ
Thiếu
Ý kiến khác
Câu 13. Khi giảng dạy chương trình tiếng Anh mới, thày/cô đã sử dụng
phương pháp giảng dạy nào sau đây?
Phương pháp
luôn
luôn
thường
xuyên
thỉnh
thoảng
ít khi
không
bao giờ
sinh viên làm trung tâm
giáo viên làm trung tâm
kết hợp hai phương pháp trên
ngữ pháp - phiên dịch
giao tiếp
dạy nghe-nói (Audio - Lingual)
thuyết trình
thảo luận
ngữ pháp
các phương pháp khác (hãy liệt kê).........................................................................
Câu 14. Khi giảng dạy theo chương trình tiếng Anh mới, thày/cô đã áp dụng
những thủ thuật nào sau đây?
63
Thủ thuật luôn luôn
thường
xuyên
thỉnh
thoảng
ít
khi
không
bao giờ
Cung cấp từ mới cho sinh viên
Dành nhiều thời gian dạy ngữ pháp
Trả lời các câu hỏi mà sinh viên nêu ra
Dành thời gian để giải thích các vấn đề cho sinh
viên
Thuyết trình giảng giải nội dung bài học
Dịch bài từ tiếng Anh sang tiếng Việt cho sinh
viên
Đặt câu hỏi cho sinh viên trả lời
Tạo cơ hội cho sinh viên đưa ra ý kiến
Chú ý nâng cao năng lực tự học của sinh viên
Kích thích năng lực sáng tạo của sinh viên
Tạo tình huống để sinh viên sử dụng tiếng Anh
trên lớp
Yêu cầu sinh viên dịch từ tiếng Việt sang tiếng
Anh
Yêu cầu sinh viên đọc tài liệu trước khi đến lớp
Chữa bài tập cho sinh viên
Giao bài tập về nhà cho sinh viên
Yêu cầu sinh viên báo cáo lại những gì đã chuẩn
bị
Các thủ thuật khác (hãy liệt kê).....................................................................................................
Câu 15. Các hình thức tổ chức hoạt động trên lớp mà thày/cô áp dụng trong
khi dạy chương trình tiếng Anh mới là (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn
phù hợp)
sinh viên làm việc cá nhân
sinh viên làm việc theo cặp
sinh viên làm việc theo nhóm nhỏ
sinh viên làm việc theo nhóm lớn (> 10 người)
làm việc cả lớp
các hình thức tổ chức khác (hãy liệt kê)..........................................................
Câu 16. Đánh giá của thày/cô về những ưu điểm và những hạn chế của bài
kiểm tra/thi học phần của chương trình tiếng Anh mới. (đánh dấu vào tất cả
những lựa chọn phù hợp)
Tập trung đo lường kiến thức ngữ pháp
64
Tập trung đo lường kiến thức từ vựng
Tập trung đo lường kỹ năng viết
Bỏ qua kỹ năng nghe
Bỏ qua kỹ năng nói
Tập trung đo lường kỹ năng đọc
Tập trung đo lường kỹ năng nghe
Tập trung đo lường kỹ năng dịch Việt - Anh
Tập trung đo lường kỹ năng dịch Anh - Việt
Các kỹ năng khác (hãy liệt kê)...........................................................................................
Câu 17. Trong bài kiểm tra/ thi học phần, thày/cô đã kiểm tra sinh viên những
kiến thức và kỹ năng gì dưới đây? (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn phù
hợp)
kiến thức ngữ pháp
từ vựng
kỹ năng đọc
kỹ năng nghe
kỹ năng nói
kỹ năng viết
dịch Anh - Việt
dịch Việt - Anh
Các kỹ năng khác (hãy liệt kê).................................................................
Câu 18. Với chương trình tiếng Anh mới, sinh viên dễ dàng đạt điểm cao
trong khi kiểm tra/thi.
a. Hoàn toàn đồng ý
b. Đồng ý
c. Đồng ý một phần
d. Không đồng ý
e. Hoàn toàn không đồng ý
THÁI ĐỘ CỦA GIÁO VIÊN
I. Chương trình tiếng Anh cũ
Câu 19. Việc dạy tiếng Anh trên lớp của thày/cô theo chương trình tiếng Anh
cũ đã tạo ra những hoạt động nào dưới đây? (đánh dấu vào tất cả những lựa
chọn phù hợp).
65
lớp học sôi nổi
không khí nhàm chán
giáo viên phải làm việc nhiều
sinh viên phải làm việc nhiều
giáo viên chủ động trong mọi tình huống
giáo viên sáng tạo trong bài giảng
không khí căng thẳng trên lớp
sinh viên được thực hành nhiều
sinh viên thụ động nghe giảng
sinh viên phải đặt nhiều câu hỏi
sinh viên chỉ trả lời câu hỏi của giáo viên
sinh viên tham gia vào các hoạt động trên lớp
các hoạt động khác (hãy liệt kê)....................................................................
Câu 20. Khi dạy chương trình tiếng Anh cũ, thày/cô đã thực hiện những hoạt
động nào dưới đây?
Hoạt động
hoàn
toàn
đồng ý
đồng
ý
đồng ý
một
phần
không
đồng
ý
hoàn
toàn
không
đồng ý
Đầu tư nhiều thời gian để chuẩn bị bài
Tìm thêm tài liệu hỗ trợ giảng dạy
Tìm hiểu về chuyên môn (chuyên ngành) của
sinh viên khoa mình giảng dạy
Học hỏi đồng nghiệp trong khoa tiếng Anh
Học hỏi đồng nghiệp các khoa chuyên ngành
Câu 21. Thày/cô hãy cho biết những tác động mà chương trình tiếng Anh cũ
đã mang lại là gì? (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn phù hợp)
Giảng viên có ý thức tự bồi dưỡng về chuyên môn
Giảng viên có ý thức tìm hiểu về chuyên ngành
Giảng viên không dạy kỹ năng nghe
Giảng viên không dạy kỹ năng nói
Giảng viên đã thay đổi phương pháp giảng dạy
Giảng viên không có đủ thời gian giảng dạy trên lớp
Giảng viên không có đủ thời gian chữa bài cho sinh viên
Giảng viên tự sắp xếp thời gian để phát triển các kỹ năng cho sinh viên
66
Sinh viên bị hạn chế một số kỹ năng giao tiếp
Sinh viên chủ động trong học tập
Sinh viên có chuẩn bị bài trước khi đến lớp
Sinh viên không cần chuẩn bị bài trước khi đến lớp
Sinh viên đạt điểm cao hơn trong các kỳ thi
Các ý kiến khác (hãy liệt kê).....................................................................................................
II. Chương trình tiếng Anh mới
Câu 22. Việc dạy tiếng Anh trên lớp của thày/cô theo chương trình tiếng Anh
mới đã tạo ra những hoạt động nào dưới đây? (đánh dấu vào tất cả những
lựa chọn phù hợp).
lớp học sôi nổi
không khí nhàm chán
giáo viên phải làm việc nhiều
sinh viên phải làm việc nhiều
giáo viên chủ động trong mọi tình huống
giáo viên sáng tạo trong bài giảng
không khí căng thẳng trên lớp
sinh viên được thực hành nhiều
sinh viên thụ động nghe giảng
sinh viên phải đặt nhiều câu hỏi
sinh viên chỉ trả lời câu hỏi của giáo viên
sinh viên tham gia vào các hoạt động trên lớp
các hoạt động khác (hãy liệt kê)....................................................................
Câu 23. Khi dạy chương trình tiếng Anh mới, thày/cô đã thực hiện những
hoạt động nào dưới đây?
Hoạt động
hoàn
toàn
đồng ý
đồng
ý
đồng ý
một
phần
không
đồng
ý
hoàn toàn
không
đồng ý
Đầu tư nhiều thời gian để chuẩn bị bài
Tìm thêm tài liệu hỗ trợ giảng dạy
Tìm hiểu về chuyên môn (chuyên ngành) của
sinh viên khoa mình giảng dạy
Học hỏi đồng nghiệp trong khoa tiếng Anh
Học hỏi đồng nghiệp các khoa chuyên ngành
67
Câu 24. Thày/cô hãy cho biết những tác động mà chương trình tiếng Anh mới
đã mang lại là gì? (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn phù hợp)
Giảng viên có ý thức tự bồi dưỡng về chuyên môn
Giảng viên có ý thức tìm hiểu về chuyên ngành
Giảng viên không dạy kỹ năng nghe
Giảng viên không dạy kỹ năng nói
Giảng viên đã thay đổi phương pháp giảng dạy
Giảng viên không có đủ thời gian giảng dạy trên lớp
Giảng viên không có đủ thời gian chữa bài cho sinh viên
Giảng viên tự sắp xếp thời gian để phát triển các kỹ năng cho sinh viên
Sinh viên bị hạn chế một số kỹ năng giao tiếp
Sinh viên chủ động trong học tập
Sinh viên có chuẩn bị bài trước khi đến lớp
Sinh viên không cần chuẩn bị bài trước khi đến lớp
Sinh viên đạt điểm cao hơn trong các kỳ thi
Các ý kiến khác (hãy liệt kê).....................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của thày/cô!
68
PHỤ LỤC 2. PHIẾU KHẢO SÁT ĐỐI VỚI SINH VIÊN
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Anh trong trường Cao
Đẳng Sư Phạm Bắc Giang, chúng tôi muốn trưng cầu ý kiến của bạn vÒ việc
học tập môn tiếng Anh ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Giang. Các câu hỏi
này nhằm tìm hiểu ý kiến của bạn về việc học tiếng Anh trong trường Cao
Đẳng Sư Phạm Bắc Giang. Những ý kiến đóng góp của bạn sẽ giúp chúng tôi
rất nhiều trong việc đưa ra các giải pháp để dạy tốt và học tốt.
Rất mong sự hợp tác của bạn.
Xin bạn hãy đánh dấu (3) vào ô trống của mỗi phương án trả lời mà bạn cho
là phù hợp với ý kiến của mình.
A. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1- Giới tính :
Nam
Nữ
2- Sinh viên lớp:
Toán Tin
Sư phạm công nghệ
Giáo dục công dân - Công tác đội
3- Năm tốt nghiệp
2001
2002
2003
4- Đã học tiếng Anh trước khi vào trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Giang
Có
Không
- Nếu có, số năm học tiếng Anh.
3 năm
5 năm
7 năm
B. NỘI DUNG
THÁI ĐỘ HỌC TẬP MÔN TIẾNG ANH
Câu 1. Bạn học tiếng Anh vì (đánh dấu vào tất cả những lựa chọn phù hợp):
yêu thích môn tiếng Anh.
nó là môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo.
69
tiếng Anh cần thiết cho công việc chuyên môn sau này.
để phù hợp với thị hiếu của xã hội.
nhu cầu giao tiếp của cá nhân.
muốn hiểu biết về các nền văn hoá khác.
cỏc ý kiến khác(hãy liệt kê).............................................................................................
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van TN Ngo Thi Thu Huong DLDG2005.pdf