Luận văn Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh

Tài liệu Luận văn Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh: LUẬN VĂN: Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trung Quốc là nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông" với Việt Nam, có nền kinh tế quy mô, tăng trưởng mạnh, đang thực thi chiến lược nhất thể hóa kinh tế khu vực mà Việt Nam được coi là "cầu nối" giữa các nước phương Nam với Trung Quốc, là "cầu nối" Đông Nam á với Đông Bắc á. Do vậy, củng cố, phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc, phát huy vai trò "cầu nối" trước hết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc, tích cực khai thác thị trường Trung Quốc, đặc biệt là thị trường Tây Nam Trung Quốc, sẽ là hướng chiến lược kinh tế đối ngoại quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế nhanh, ổn định lâu dài của Việt Nam. Trong đó đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam với Vân Nam cũng như với Quảng Tây có vai trò then chốt. Từ thời Hán Tần, miền Tây Nam Trung Quố...

pdf129 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trung Quốc là nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông" với Việt Nam, có nền kinh tế quy mô, tăng trưởng mạnh, đang thực thi chiến lược nhất thể hóa kinh tế khu vực mà Việt Nam được coi là "cầu nối" giữa các nước phương Nam với Trung Quốc, là "cầu nối" Đông Nam á với Đông Bắc á. Do vậy, củng cố, phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc, phát huy vai trò "cầu nối" trước hết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc, tích cực khai thác thị trường Trung Quốc, đặc biệt là thị trường Tây Nam Trung Quốc, sẽ là hướng chiến lược kinh tế đối ngoại quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế nhanh, ổn định lâu dài của Việt Nam. Trong đó đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam với Vân Nam cũng như với Quảng Tây có vai trò then chốt. Từ thời Hán Tần, miền Tây Nam Trung Quốc đã có con đường giao thông quốc tế qua Côn Minh để đi đến các nước phía Nam được gọi là "Trục thân độc đạo"- con đường tơ lụa ngày xưa. Còn ngày nay, khi hai nước Việt - Trung bước vào thế kỷ XXI cùng nỗ lực cải cách mở cửa nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu thì cơ hội phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc vô cùng rộng lớn nhờ những nhân tố khách quan và chủ quan sau đây: Bước vào thế kỷ XXI mặc dù vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, khó lường, song hòa bình và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong sự phát triển thế giới và khu vực; hơn nữa đây còn là thời kỳ mở đầu thời đại tri thức hóa kinh tế toàn cầu; toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Đây là xu thế phát triển khách quan đang cuốn hút mọi quốc gia vào quĩ đạo kinh tế toàn cầu, mở ra cơ hội lớn cùng những thách thức lớn đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Trung Quốc. Là cơ hội lớn nếu quốc gia đang phát triển đó có năng lực cải cách, mở cửa, tận dụng mọi lợi thế của nước đi sau, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiệu quả, sẽ có nhiều khả năng tiến nhanh, đuổi kịp các nước tiên tiến. Là thách thức lớn nếu quốc gia đang phát triển đó không có năng lực cải cách, mở cửa, không tận dụng mọi lợi thế của nước đi sau trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, sẽ bị tụt hậu, thậm chí bị đào thải khỏi quĩ đạo phát triển của thế giới. Xu thế phát triển khách quan trên đã được chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc đón bắt kịp thời, thông minh và sáng tạo. Cả hai nước đều nỗ lực cải cách mở cửa với cách đi thích hợp, từng bước hoàn thiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) phù hợp với thông lệ quốc tế, nên đã tạo nên sự phát triển ngoạn mục: dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm, đạt được những thành tựu tuyệt vời trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cuối năm 2001 Trung Quốc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập kinh tế toàn cầu của Trung Quốc, tạo ra thế và lực của Trung Quốc trên trường quốc tế. Rất có thể cuối năm 2005 Việt Nam cũng sẽ gia nhập WTO, thể hiện tinh thần chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu, tạo cơ sở thuận lợi hơn cho sự phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc. Sự kiện ảnh hưởng mạnh và trực tiếp hơn đến quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc là tháng 11/2002 Hiệp định thương mại hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc đã được ký kết, mở đường cho việc xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) mà Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc có vị trí vai trò "cửa ngõ" của ACFTA. Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam Trung Quốc, có nhiều tiềm năng về kinh tế, với nhiều tuyến đường sắt, đường bộ, đường thủy và khả năng phát triển đường hàng không, có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai được nối thông với Côn Minh - Trung Quốc. Lào Cai còn có ưu thề về tiềm năng khoáng sản (35 loại khoáng sản), 150 điểm mỏ và nổi tiếng là nơi nhiều tiềm năng phát triển du lịch với những danh lam thắng cảnh như Sa Pa, Bắc Hà. Tuy nhiên, Lào Cai vẫn là một tỉnh nghèo, cơ cấu kinh tế là nông, lâm - công nghiệp, xây dựng - thương mại, du lịch. Đến nay sau gần 10 năm thực hiện Quyết định 100/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm một số cơ chế, chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu (KTCK) đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ qua hệ kinh tế - thương mại của Lào Cai với Vân Nam Trung Quốc, cơ sở hạ tầng của khu KTCK đã được nâng cấp với nhiều dự án. Việc hình thành và phát triển khu KTCK Lào Cai đã đẩy mạnh hơn nữa giao lưu kinh tế qua cửa khẩu giữa hai nước, qua đó đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa trong nước. Chúng ta cần nhìn nhận những tác động này không chỉ trong thời gian trước mắt mà về lâu dài, khu KTCK Lào Cai sẽ có mức phát triển nhanh hơn, trở thành vùng động lực kinh tế để kéo các vùng nghèo hơn cùng đi lên, cùng phát triển. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò quan trọng của việc phát triển khu KTCK Lào Cai trong công cuộc đổi mới, cần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc phát triển kinh tế của cửa khẩu Lào Cai, qua đó chỉ rõ sự tác động của khu KTCK Lào Cai đối với đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời đề ra những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển khu KTCK ở Lào Cai là vấn đề cấp thiết hiện nay. Do vậy, tác giả luận văn chọn vấn đề "Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh" làm đề tài luận văn thạc sĩ, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sau 14 năm mở cửa chính thức (1991) và 17 năm kể từ khi nhân dân hai bên biên giới tự phát mở đường thăm nhau (1988), mỗi nước đều thấy được tác động kinh tế - xã hội to lớn của sự kiện này. Hệ quả trực tiếp mà mở cửa đem lại là sự phát triển thương mại qua biên giới hai nước với tốc độ cao, đã thu hút sự chú ý của báo giới, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thậm chí có lúc người ta gọi là "vùng biên nóng bỏng". Những năm gần đây, có nhiều tác giả nghiên cứu và viết bài xung quanh vấn đề này, tiêu biểu như: "Tác động kinh tế - xã hội của mở cửa biên giới" của TS. Trịnh Tất Đạt, TS Vũ Tuấn Anh, TS Hoàng Công Hoàn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; "Phát triển thương mại trên hành lang kinh tế Côn Minh, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng" của TS. Nguyễn Văn Lịch, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005; "Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt - Trung và tác động của nó tới sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam" của TS. Phạm Văn Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; "Quá trình mở cửa đối ngoại của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" của Nguyễn Thế Tăng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; "Chính sách ngoại giao hòa bình độc lập tự chủ coi trọng phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước Đông Nam á" của GS. Cổ Tiểu Tùng, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 2(48), 2003; "Buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc và một số nhận xét về những điều kiện để phát triển buôn bán qua biên giới giữa hai nước" của ThS. Lê Tuấn Thanh, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (56), 2004… Song chưa có một đề tài nghiên cứu nào trình bày một cách có hệ thống về sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai dưới dạng một luận văn thạc sĩ khoa học để đánh giá thực trạng, đề ra những giải pháp phát triển khu KTCK ở Lào Cai. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu - Mục đích của đề tài Phân tích thực trạng sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK ở Lào Cai, từ đó đề xuất và kiến nghị những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển KTCK ở tỉnh Lào Cai. - Nhiệm vụ của đề tài + Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về KTCK: khái niệm và các mô hình khu KTCK, sự cần thiết, vai trò của khu KTCK, các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển khu KTCK… + Phân tích, đánh giá thực trạng sự phát triển, tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai. + Phân tích rõ triển vọng, phương hướng và giải pháp nhằm phát triển khu KTCK ở Lào Cai. - Phạm vi nghiên cứu Thực trạng phát triển khu KTCK Lào Cai từ 2001 - 2005; tác động của khu KTCK Lào Cai đến kinh tế - xã hội của tỉnh. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quan hệ kinh tế đối ngoại, những chủ trương, chính sách, pháp luật về khu KTCK. Luận văn còn kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, các bài viết đã được công bố có liên quan đến đề tài. - Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; phương pháp logic kết hợp với lịch sử để phân tích, đánh giá sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như thống kê, khảo sát, tổng hợp, so sánh. 5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài - Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về khu KTCK. - Đưa ra những đặc thù của khu KTCK Lào Cai. - Đánh giá đúng thực trạng sự phát triển khu KTCK Lào Cai, sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai. - Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh tham khảo trong việc hoạch định các chính sách phát triển khu KTCK của tỉnh. Đồng thời, luận văn còn là tư liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy bộ môn Mác - Lênin. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: cơ sở khoa học hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu lào cai 7 1.1. Những nhận thức chung về khu kinh tế cửa khẩu 7 1.2. Sự cần thiết và những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 23 1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc, một số địa phương ở nước ta trong việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 34 Chương 2: Thực trạng phát triển và tác động kinh tế - xã hội của khu kinh tế cửa khẩu lào cai 45 2.1. Thực trạng phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 45 2.2. Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh 56 Chương 3: phương hướng và một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu lào cai tác động đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới 91 3.1. Các quan điểm cơ bản và phương hướng phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 91 3.2. Một số giải pháp chủ yếu 98 Kết luận 121 những công trình liên quan đến luận văn đã được công bố 123 Danh mục tài liệu tham khảo 124 Chương 1 Cơ sở khoa học hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 1.1. Những nhận thức chung về khu kinh tế cửa khẩu 1.1.1. Khái niệm khu kinh tế cửa khẩu và các phạm trù liên quan Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một số năm gần đây, khi quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc đã có bước phát triển mới đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông qua cửa khẩu biên giới. Trong lịch sử, việc trao đổi hoạt động kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia có chung đường biên giới đã diễn ra từ rất lâu, song chủ yếu là các dạng thông thường như: xuất nhập khẩu (XNK) chính ngạch, tiểu ngạch, trao đổi, mua bán thông qua các chợ biên giới. Nhưng, mô hình kinh tế trong đó chúng ta chủ động áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả trao đổi kinh tế - thương mại giữa hai quốc gia thông qua cửa khẩu biên giới còn rất hạn chế. Nước ta là một quốc gia có đường biên giới trên bộ tiếp giáp với ba nước: Trung Quốc, Lào, Campuchia. Trong ba nước này thì Trung Quốc là đất nước rộng lớn, có nét tương đồng với nước ta về quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Trung Quốc lại là một thị trường với hơn 1,3 tỉ dân, tốc độ phát triển cao từ nhiều năm nay. Lào và Campuchia tuy là các quốc gia nhỏ có nhiều khó khăn về kinh tế nhưng cũng có vị trí hết sức quan trọng, nằm trong tiểu vùng Mê Kông (gồm Việt Nam, Lào, Campuchia và Thai Lan - cửa ngõ thông ra các nước trong khối ASEAN). Hiện nay, giữa các quốc gia tiểu vùng sông Mê Kông đang có nhiều dự án xây dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành lang Đông - Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mê Kông. Tất cả các điều kiện thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt khi có mô hình kinh tế thích hợp, đặc biệt phải kể đến khu KTCK. Khái niệm khu KTCK được hình thành trên cơ sở hàng loạt các khái niệm có liên quan. Trước hết là khái niệm: "Giao lưu kinh tế qua biên giới". Theo nghĩa hẹp, khái niệm này bao gồm các hoạt động trao đổi thương mại, trao dổi hàng hóa giữa các cư dân, các doanh nghiệp nhỏ đóng tại địa bàn biên giới xác định, thường là những nơi có các cửa khẩu biên giới. Trên thực tế, những hình thức này có thể được thực hiện ở các dạng chợ biên giới, thậm chí ở các đường mòn biên giới với một khối lượng hàng hóa và giá trị theo quy định của Nhà nước hoặc chính quyền địa phương. Với nhiều mức độ khác nhau, giao lưu kinh tế biên giới theo nghĩa hẹp là hình thức diễn ra phổ biến ở tất cả các quốc gia có đường biên giới chung trong điều kiện hòa bình. Tuy nhiên, có một điều dễ thấy là quy mô, mức độ hoạt động kinh tế - thương mại diễn ra khác nhau giữa các vùng, miền, khu vực biên giới cả nước vì nó phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau: trình độ phát triển kinh tế; điều kiện tự nhiên; vị trí địa lý; chính sách biên mậu; các tiềm năng, thế mạnh tại chỗ; sự ổn định về an ninh chính trị... Vì vậy, xuất hiện một nội dung rộng hơn, bao quát hơn trước tức giao lưu kinh tế qua biên giới là tất cả các hoạt động kinh tế - thương mại, đầu tư khoa học và công nghệ qua các cửa khẩu biên giới, giữa các quốc gia có đường biên giới chung. Nội dung của giao lưu kinh tế qua biên giới theo nghĩa rộng không chỉ đơn thuần là buôn bán, trao đổi hàng hóa thông thường, mà còn bao hàm cả các hoạt động về hợp tác khoa học - công nghệ, đầu tư lẫn nhau, hoạt động XNK, liên doanh phát triển kết cấu hạ tầng, du lịch qua biên giới... Chúng ta thấy rõ rằng, giao lưu kinh tế qua biên giới được phát triển từ hình thức trao đổi hàng hóa đơn giản trở thành các hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng. Kinh nghiệm của các nước Trung Quốc, Thái Lan cho thấy, đây chính là một hướng phát triển quan trọng để thành lập các khu mậu dịch tự do biên giới, khu hợp tác kinh tế tiểu vùng, khu KTCK. Đây là những điều kiện chuẩn bị cho sự hội nhập, mở cửa với kinh tế khu vực và thế giới. Trong lịch sử, các hình thức kinh tế song phương hoặc đa phương giữa các quốc gia có đường biên giới chung, hoặc giữa các quốc gia trong khu vực đã có nhiều hình thức liên kết thông thường, với những cấp độ khác nhau như: Khu vực thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị trường chung; liên minh kinh tế; liên minh tiền tệ. Bên cạnh đó, ở những vùng, địa phương có những điều kiện khác nhau đã xuất hiện nhiều hình thức, mô hình kinh tế cụ thể, bao gồm: + Các vùng tăng trưởng kinh tế, là hình thức hợp tác kinh tế giữa các vùng nằm kề nhau về địa lý của các nước láng giềng. thậm chí ở một số địa phương trong cùng một quốc gia, cho phép khai thác những thế mạnh và hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi phí. Hơn nữa, chúng còn cho phép tận dụng những ưu điểm, bổ sung lẫn nhau trong mỗi thành viên để đạt hiệu quả kinh tế với quy mô lớn. + Các thỏa thuận về thương mại miễn thuế giữa các quốc gia, thực hiện các quy định miễn trừ thuế quan cho một số loại hàng hóa được trao đổi giữa các nước thành viên, là cơ sở để phát triển tới hình thức liên kết kinh tế cao hơn, đó là liên minh thuế quan. Hình thức này đã được phát triển ở một số nước như Trung Quốc, ấn Độ, Nê Pan... + Các đặc khu kinh tế như khu công nghiệp, khu chế xuất... được áp dụng ở một số nước: Trung Quốc, các nước ASEAN trong vài thập kỷ gần đây. Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định cho sự lựa chọn một mô hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện cần và đủ để quyết định những loại hình phù hợp, có hiệu quả. Thông qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của liên kết kinh tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình KTCK cho phép áp dụng những chính sách riêng trong một phạm vi không gian, thời gian xác định mà ở đó đã có giao lưu kinh tế biên giới phát triển sẽ hình thành khu KTCK. Qua những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: Khu kinh tế cửa khẩu là một không gian kinh tế xác định gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc không có dân cư sinh sống và được thực hiện những cơ chế, chính sách phát triển riêng phù hợp với đặc điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Khái niệm về khu KTCK cho thấy có những điểm giống và khác so với các mô hình kinh tế: Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao... Để rõ hơn về khu KTCK, chúng ta xem xét nó trong sự so sánh với các mô hình kinh tế khác: - Khu công nghiệp, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên của Chính phủ hay địa phương, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Khu chế xuất, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu với hoạt động xuất khẩu, có ranh giới xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, do Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Khu công nghệ cao, là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm nghiên cứu, triển khai khoa học - công nghệ, đào tạo các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác định, được hưởng chế độ ưu tiên nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là ba loại hình của đặc khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ mục đích, đối tượng tham gia, mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Khu công nghiệp thường được thành lập ở những vùng đình trệ về kinh tế, nơi có nhiều người thất nghiệp, nhưng lại có sẵn ưu thế phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thuận lợi. Được nhận sự ưu tiên nhất định từ phía chính quyền địa phương và Chính phủ, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Khu công nghiệp bao gồm những doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài. So với khu công nghiệp, khu chế xuất cũng được xác định là khu công nghiệp nhưng tập trung những doanh nghiệp chuyên sản xuất, chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở. Còn khu công nghệ cao, điểm khác biệt chính là ở mục đích phát triển công nghệ kỹ thuật cao, thu hút công nghệ nước ngoài, tiếp thu và chuyển giao công nghệ cao, nâng cao năng lực công nghệ trong nước [34, tr. 15]. Những đặc điểm cơ bản của các loại hình kinh tế trên cho thấy, khu KTCK có điểm giống và khác cơ bản như sau: Những điểm giống nhau: Về tư cách pháp nhân, các mô hình kinh tế này đều được thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ; được hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ và chính quyền địa phương; có một không gian kinh tế xác định. Các hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình này đối với vùng hay kinh tế cả nước. Những điểm khác nhau: Điểm khác nhau dễ thấy giữa khu KTCK với các hình thức kinh tế nói trên là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập được khu KTCK, điều kiện tiên quyết là phải gắn với vị trí cửa khẩu, là khu vực có hoặc không có dân cư sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài. Mục đích thành lập khu KTCK nhằm ưu tiên phát triển thương mại, XNK, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, quan trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ gồm có: Hoạt động XNK, tạm nhập, tái xuất, vận chuyển hàng hóa quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu và các chi nhánh đại diện các công ty trong nước, nước ngoài, chợ cửa khẩu. Khác với khu chế xuất và khu công nghiệp, nguồn hàng hóa để trao đổi ở khu KTCK có thể là tại chỗ, có thể là từ nơi khác đưa đến. Các chính sách ưu tiên cũng khác nhau phù hợp với đặc thù của từng loại hình và địa phương nơi chúng được thành lập. Một vấn đề cần lưu ý là do đặc điểm riêng có, khu KTCK đặt lên hàng đầu là các hoạt động về thương mại, dịch vụ, gắn với cửa khẩu chịu tác động mạnh mẽ của khu vực kinh tế, chính sách biên mậu của các nước láng giềng có đường biên giới chung. Do vậy, nguồn hàng hóa tại chỗ và từ nơi khác (các vùng kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất) là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả hoạt động của nó. Mặt khác, hoạt động của khu KTCK còn liên quan nhiều đến thông lệ quốc tế, vấn đề chủ quyền, an ninh biên giới, các chính sách chung của hai nước thông qua cặp cửa khẩu và hệ thống các đường giao thông. Từ đó, một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra những mô hình cụ thể về khu KTCK, trên cơ sở đó tùy điều kiện từng vùng (địa phương) có thể áp dụng cho phù hợp. * Mô hình không gian: Là mô hình đòi hỏi được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản như tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, thềm lục địa, các hiệp định và hiệp ước quốc tế; đảm bảo sự phối hợp tốt tất cả các yếu tố để các quốc gia có đường biên giới chung đều có lợi, đảm bảo về môi trường, sự phối hợp các nguồn lực khi triển khai; tìm kiếm các yếu tố tương đồng, các vị trí tạo ra khả năng phát triển đối xứng, Mặt khác, có mối liên hệ tốt trong nội địa dể bù đắp sự thiếu hụt về nguồn lực và trao đổi hàng hóa, cũng như tránh các vị trí bất lợi xảy ra tranh chấp, lấn chiếm, nơi chứa chấp các hoạt động tội phạm. Trong mô hình không gian có một số loại hình cụ thể sau: - Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình có ưu điểm là một mặt giảm sự tập trung cao về biên giới, một mặt có thể sử dụng kênh hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở đường giao thông. Vì thế nó phải có các tuyến đường sắt, đường bộ hoặc đường sông, kèm theo đó là các khu công nghiệp, đô thị, cảng biển ở mỗi bên với một cự ly hợp lý. Thông thường, mô hình này được lựa chọn ở những nơi có lối mòn dân cư hai bên qua lại, do nhu cầu trao đổi tăng, giao thông phát triển trở thành cửa khẩu. Đây là mô hình cơ sở cho các mô hình khác (hình 1.1.a). - Mô hình có quạt giao nhau ở cán: Là mô hình dựa trên cơ sở hai bên đã có hàng loạt các đô thị, khu công nghiệp, các vùng sản xuất nông nghiệp có khoảng cách thích hợp với đường biên giới, khoảng cách này được hình thành tự nhiên hoặc do quy ước giữa hai bên, việc trao đổi hàng hóa tập trung về khu kinh tế theo đường giao thông gần nhất. Mô hình này có tính tập trung cao về thương mại, còn gọi là khu thương mại tự do (hình 1.1.b). - Mô hình quạt giao nhau ở cánh: Là mô hình được xây dựng dựa trên việc các khu đô thị, khu công nghiệp tập trung, hàng hóa ở hai bên trao đổi phân tán ở nhiều cặp chợ biên giới, thích hợp cho những nơi có địa hình bằng phẳng, đông dân cư (hình 1.1.c). - Mô hình lan tỏa: Mô hình lan tỏa được sử dụng thích hợp dựa trên cơ sở tập quán sinh hoạt của dân cư, phù hợp với các cặp chợ, thị trấn ven đường biên giới. Sử dụng mô hình này sẽ tận dụng được các yếu tố tự nhiên, các công trình kết cấu hạ tầng sẵn có hoặc do hai bên cùng hợp tác xây dựng (hình 1.1.d). Hình 1.1: Một số mô hình khu kinh tế cửa khẩu * Mô hình một khu kinh tế cửa khẩu: Mô hình này phải đảm bảo một số nguyên tắc cơ bản như thuận lợi cho việc kiểm soát các phương tiện, người, hàng hóa qua lại, được thiết kế chi tiết cho hai khu đô thị giáp nhau, đồng thời được phối hợp, hỗ trợ các công trình công cộng gồm điện, nước, chiếu sáng, cây xanh, môi trường đảm bảo dịch vụ tốt cho người lưu trú, hàng hóa, phương tiện quá cảnh. Có hai mô hình cụ thể: - Mô hình đối xứng, được xây dựng trên sự thỏa thuận của địa phương hai nước có đường biên giới chung và cặp cửa khẩu đối diện nhau. Mỗi bên xây dựng khu KTCK Hình 1.1.a: Mô hình đường thẳng Hình 1.1.c: Mô hình quạt giao ở cánh Hình 1.1.b: Mô hình quạt giao nhau ở cán Hình 1.1.d: Mô hình lan tỏa Chú thích: Khu kinh tế cửa khẩu: Đường biên giới: Đường giao thông đô thị Khu công nghiệp: độc lập, cạnh tranh cùng phát triển. Do đó chúng có những điểm bố trí tương đồng nhau về kết cấu, bao gồm: Khu dân cư; khu thương mại và dịch vụ; khu vui chơi giải trí; khu sản xuất và khu hành chính. Khu sản xuất Các cửa kiểm soát Khu hành chính Khu thương mại và dịch vụ Dải phân cách Khu sản xuất Các cửa kiểm soát Khu hành chính Khu thương mại và dịch vụ Sơ đồ 1.1: Mô hình khu KTCK đối xứng - Mô hình đặc biệt, là mô hình liên kết giữa hai quốc gia, tạo ra vùng lãnh thổ đặc biệt. Sự liên kết này dựa trên hiệp ước, theo đó chỉ ra vùng lãnh thổ hợp lý, có hàng rào, không có dân cư sinh sống. Mô hình này có nhiều điểm tích cực khi hai bên cùng phối hợp tốt, có khả năng thu hút đầu tư quốc tế, tuy nhiên cơ chế quy định trách nhiệm và lợi ích mỗi bên cần rõ ràng để tránh mâu thuẫn. Khu sản xuất (công ty liên doanh đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng thuê đất) Các cửa kiểm soát Khu hành chính Khu thương mại và dịch vụ Đường phân cách Khu sản xuất (công ty liên Các cửa kiểm soát Khu hành chính Khu thương mại và dịch vụ doanh đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng thuê đất) Sơ đồ 1.2: Sơ đồ khu KTCK đặc biệt * Mô hình thể chế: Đây là phương thức để Nhà nước soạn thảo chính sách phù hợp với thực tế hoạt động của khu KTCK ở các quốc gia có đường biên giới chung. Việc xây dựng thể chế, chính sách phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, các hiệp định, thỏa thuận song phương hoặc đa phương, truyền thống và tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia. Đảm bảo giữ gìn hòa bình, cùng có lợi, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Chủ động cùng trao đổi với nhau những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, cư dân mỗi nước tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Những thông tin về tình hình xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khu KTCK mỗi nước cần được trao đổi thường xuyên, cùng phối hợp điều chỉnh, thực hiện cho phù hợp. Các nhóm thông tin cần thường xuyên trao đổi bao gồm: - Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực hai bên cùng quy ước: Điều kiện tự nhiên; kinh tế, xã hội, văn hóa; dân tộc, tập quán, các thế mạnh và những hạn chế được bổ sung. - Những vấn đề về cơ chế, chính sách chung như đường lối, chủ trương, chính sách của Nhà nước Trung ương và địa phương, những văn bản pháp lý gắn với việc xây dựng, phát triển khu KTCK, cũng như những hiệp định, thỏa ước có liên quan. - Các thông tin về chính sách thực hiện cụ thể trong hoạt động XNK, các biểu thuế và thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập cảnh đối với người, phương tiện; những văn bản quy định về đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu vực KTCK, cũng như tất cả các biện pháp bảo vệ an ninh, môi trường cho sự phát triển khu KTCK. - Những văn kiện dự kiến đưa ra trao đổi, thỏa thuận và phân cấp hợp tác giữa hai bên, các dự án phối hợp tiến hành cùng với những đối tác trực tiếp tham gia. Do đặc điểm của khu KTCK, Nhà nước khoanh vùng một số khu dân dư, cho phép thí điểm cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện để có một khu vực phát triển hơn, được Trung ương phân cấp quản lý, trực tiếp chịu tác động của cơ chế, chính sách kinh tế biên mậu quốc gia có đường biên giới chung. Do vậy, ở đây có sự giao thoa về cơ chế, chính sách giữa Trung ương, địa phương và nước bạn. cũng vì lẽ đó, các cơ chế, chính sách cần được xác định rõ ràng, công khai, tránh mâu thuẫn và triệt tiêu lợi ích của nhau. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, đầu tư của Nhà nước còn ít mà yêu cầu về sự phát triển kinh tế ở đây đòi hỏi phải được đẩy mạnh hơn, vì vậy, trong một số năm đầu, những nguồn thu từ lệ phí, thuế và các nguồn thu khác cần được dành lại một phần thích đáng để đầu tư phát triển tại chỗ. Sau này khi điều kiện, khả năng cho phép sẽ tăng dần sự đóng góp của khu KTCK cho ngân sách nhà nước [34, tr. 18-26]. Sự giao thoa thể chế, chính sách tại khu KTCK được biểu diễn dưới dạng mô hình như sau: Sơ đồ 1.3: Mô hình thể chế 1.1.2. Vai trò của khu kinh tế cửa khẩu đến sự phát triển kinh tế - xã hội 1.1.2.1. Cơ sở lý luận về sự tác động của khu KTCK đến sự phát triển kinh tế - xã hội Xét về mặt lý thuyết, các khu KTCK được hình thành nhằm mục đích phát huy lợi thế về quan hệ kinh tế - thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hóa, đầu tư, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước, từ nước ngoài vào nội địa thông qua Trong đó: 1 - Chính sách quốc gia. 2 - Quy định của địa phương. 3 - Chính sách của nước láng giềng có đường biên giới chung. 4 - Thể chế kinh tế cửa các cơ chế, chính sách ưu đãi tại khu KTCK. Chính sự thu hút này đã làm cho các ngành, các địa phương trong cả nước, tùy theo quy mô, sự hấp dẫn của cơ chế, chính sách ưu đãi mà thực hiện sự chuyển dịch sản xuất, lưu thông hàng hóa cho phù hợp. Trong điều kiện của Việt Nam, nông nghiệp hàng hóa đang cần mở rộng thị trường đầu ra, cần sự đầu tư và trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến. Những nhu cầu này sẽ được đáp ứng tốt nếu chúng ta biết sử dụng, khai thác có hiệu quả mô hình KTCK. Đối với các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và du lịch cũng có yêu cầu như vậy, thậm chí còn cao hơn, vì thế phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực, trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa chậm phát triển, thị trường nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh còn yếu như nước ta. Khu KTCK là nơi tiếp giáp, cửa ngõ của mỗi quốc gia với bên ngoài. Trong điều kiện hòa bình, hữu nghị đây thường là nơi qua lại thăm thân nhân và diễn ra trao đổi, buôn bán giữa dân cư biên giới hai nước, bên cạnh đó khi môi trường kinh tế phát triển thuận lợi, khu KTCK cũng là nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách kinh tế đối ngoại của các quốc gia có đường biên giới chung. Cho nên, những nhu cầu về kinh tế cả cho sản xuất, tiêu dùng ở phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tại chỗ của địa phương, vùng lân cận. ở phạm vi rộng, nó sẽ trực tiếp đáp ứng nhu cầu của địa phương các vùng trong cả nước thông qua sự luân chuyển các kênh hàng hóa từ khu KTCK đến các nơi và ngược lại theo sự vận động của quan hệ cung cầu, sự mách bảo của giá cả trên thị trường đối với các chủng loại hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó, nếu phạm vi ảnh hưởng lớn khu KTCK càng phát triển sẽ trực tiếp tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động, làm cho thị trường được thông suốt trong cả nước, khai thác tối đa những tiềm năng, thế mạnh của từng vùng thông qua lợi thế về vị trí, cơ chế, chính sách ưu đãi nhờ đó thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trong những giai đoạn đầu, đối với một số tỉnh miền núi biên giới phía Bắc - nơi có khu KTCK, còn góp phần đẩy nhanh xu hướng đô thị hóa, hình thành những thị trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ... Các ưu thế đảm bảo cho khả năng tác động của khu KTCK đối với kinh tế - xã hội của một địa phương nói riêng, đất nước nói chung trước hết là ở chức năng riêng có của nó. Khu KTCK bao giờ cũng được hình thành gắn với cửa khẩu. Tuy nhiên, không phải cửa khẩu nào cũng có thể thành lập được khu KTCK, mà đó phải là những cửa khẩu thuận tiện về đường giao thông, nằm ở nơi kinh tế phát triển, có kết cấu hạ tầng tốt hơn các nơi khác. Ngoài ra, đây cũng là khu vực mà phía bạn cũng có những điều kiện thuận lợi, môi trường thích hợp để phát triển giao lưu kinh tế, xã hội, văn hóa. Bởi vậy, các cơ chế, chính sách ưu tiên ở khu KTCK phải hướng vào thúc đẩy trao đổi thương mại, dịch vụ, du lịch. Nhiều nơi còn có những ưu đãi để phát triển thêm cả công nghiệp và nông nghiệp. Thực tế cho thấy đây là mô hình kinh tế mới được hình thành ở Việt Nam, cho nên để nâng cao khả năng tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải phát triển bản thân mô hình này, làm cho nó phát huy đầy đủ chức năng, hiệu quả của các cơ chế, chính sách ưu đãi. Mà yêu cầu phải là định hình rõ mô hình kinh tế mới với các chức năng nhiệm vụ cụ thể. Đầu tiên là xác định các cơ chế chính sách thí điểm, tiếp đó là khẳng định trên thực tế hiệu quả và tính đúng đắn của nó để thực hiện lâu dài, trên cơ sở đó thúc đẩy mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội với khu KTCK. Khu KTCK phát triển sẽ trực tiếp tạo ra nhu cầu, khơi thông và đưa ra các tín hiệu để thông tin giúp cho các kênh hàng hóa, dịch vụ, du lịch trong cả nước phát triển, nhờ đó kinh tế - xã hội của vùng (địa phương) cũng ngày càng phát triển. Ngược lại, kinh tế - xã hội càng tiến bộ sẽ có điều kiện tạo ra nhiều loại hàng hóa phong phú, giá thành rẻ, khả năng cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu giao lưu kinh tế - thương mại cửa khẩu, từ đó quy mô, vị trí và tỷ trọng thương mại KTCK cũng tăng lên là nền tảng thúc đẩy khu KTCK phát triển. Mối quan hệ này gắn bó chặt chẽ hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển nếu trong quá trình thực hiện biết xác định đúng mục tiêu, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế và đảm bảo sự hỗ trợ kịp thời về mặt pháp lý của Nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương 1.1.2.2. Vai trò của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu * Thúc đẩy mở rộng thị trường và lưu thông hàng hóa Khu KTCK phát triển tạo điều kiện để tỉnh Lào Cai và các địa phương khác trong nước mở rộng thị trường XNK, giảm chi phí trung gian do đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trao đổi. Khu KTCK Lào Cai thúc đẩy quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền sản xuất hàng hóa, tạo ra sự phát triển ở các vùng để hình thành nên một khu vực thị trường rộng lớn có khả năng thu hút và thâm nhập với các khu vực thị trường khác. Sự phát triển của thị trường do khu KTCK tạo ra còn có tác động thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, tạo thêm những ngành nghề mới, góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn người lao động không chỉ ở khu vực cửa khẩu mà ở nhiều vùng lân cận. Trao đổi thương mại thông qua khu KTCK đã góp phần tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế của khu, vùng và cả nước, đặc biệt là các tỉnh thuộc hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng từ tình trạng sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa. * Thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội vùng cửa khẩu - Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn: Khu KTCK nói chung, Lào Cai nói riêng góp phần hiện đại hóa nông thôn và thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Thông qua hoạt động của khu KTCK, các sản phẩm nông nghiệp có được thị trường tiêu thụ, hạ giá thành, nâng cao chất lượng. Mặt khác, chúng ta sẽ có điều kiện nhập từ nước khác nhiều thiết bị, vật tư, giống cây trồng, vật nuôi cần thiết, học hỏi được nhiều kinh nghiệm của họ để phát triển nông nghiệp. Sự phát triển khu KTCK nói chung, Lào Cai nói riêng còn tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn, tạo thêm nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ thu hút lao động nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh, của vùng và cả nước. - Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp: Khu KTCK sẽ tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên và nhân lực để phát triển các ngành công nghiệp địa phương cũng như khả năng hợp tác để phát triển các ngành công nghiệp mới như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, các ngành chế tạo, công nghiệp chế biến. - Quá trình phát triển khu KTCK sẽ tạo điều kiện cải thiện đáng kể hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh. Hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông, thông tin liên lạc... sẽ từng bước được hiện đại hóa. Điều kiện kết cấu hạ tầng được cải thiện sẽ góp phần làm cho thương mại phát triển, tăng sức đầu tư, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. - Mở rộng hoạt động du lịch: Phát triển khu KTCK sẽ tạo điều kiện để khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch. Khách du lịch nước ngoài sẽ có điều kiện tiếp cận với các trung tâm du lịch của nhau, thông qua đó đến các khu du lịch khác trong tỉnh và cả nước. - Góp phần tăng trưởng kinh tế: Trao đổi kinh tế thương mại ở khu KTCK góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, vùng theo hướng phát triển công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ, khơi dậy tiềm năng thế mạnh của tỉnh, vùng, từ đó giảm bớt những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, giúp địa phương và vùng phụ cận cải thiện cơ bản tình hình kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự ra đời trong tương lai một số trung tâm thương mại quan trọng. Hoạt động của khu KTCK còn tạo điều kiện để địa phương thu hút đầu tư phát triển các ngành kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, phát triển các ngành dịch vụ. Kết quả những thay đổi nói trên bắt nguồn từ việc khai thác có hiệu quả khu KTCK. - Góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống vật chất, tinh thần, tạo thêm công ăn, việc làm cho nhân dân địa phương. Việc hình thành và phát triển khu KTCK thúc đẩy trao đổi thương mại, phát triển ngành nghề sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế do đó kích thích tăng trưởng kinh tế và thu nhập dân cư. Buôn bán tại khu KTCK cũng làm giảm bớt tỉ lệ đói nghèo, đời sống nhân dân được nâng cao từng bước. Sự phát triển khu KTCK còn tạo điều kiện hình thành các khu dân cư tập trung dọc biên giới, phát triển kết cấu hạ tầng, các tuyến đường giao thông, hệ thống bưu chính viễn thông, hệ thống chợ, mạng lưới cung cấp điện... góp phần cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của dân cư, đẩy mạnh giao lưu kinh tế văn hóa, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng khu vực biên giới, thắt chặt tình hữu nghị giữa hai nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. - Thúc đẩy quan hệ hợp tác về khoa học, đào tạo và các lĩnh vực khác: Phát triển khu KTCK sẽ là cơ sở để thúc đẩy quan hệ hợp tác về khoa học, đào tạo. Cùng với việc thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế hai bên sẽ có điều kiện trao đổi nghiên cứu khoa học, phối hợp đào tạo. Trong quá trình phát triển khu KTCK Lào Cai một vài năm gần đây, việc hợp tác khoa học giữa Vân Nam và Việt Nam đã được đẩy mạnh một bước trong các lĩnh vực kỹ thuật nông nghiệp, kỹ thuật chế biến sản phẩm, công nghiệp khai thác tài nguyên và hương liệu thiên nhiên. Hợp tác kinh tế tại khu KTCK Lào Cai cũng tạo điều kiện để hai nước Việt Nam - Trung Quốc tăng cường hợp tác văn hóa như tôn tạo, bảo tồn các khu di tích, thắng cảnh, phát triển kết cấu hạ tầng du lịch như đường sá, khách sạn, dịch vụ y tế, khu vui chơi giải trí. Ngoài ra, hai nước còn hợp tác trong việc bảo vệ môi trường, xã hội: sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng, nước; ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường qua biên giới; hợp tác chống ma túy, buôn lậu, gian lận thương mại; bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ngăn ngừa các dịch bệnh lây lan qua biên giới. Tuy nhiên, đi kèm với những vai trò tích cực do khu KTCK đem lại là nhiều vấn đề xã hội nhức nhối như buôn lậu, ma túy, mại dâm, khoảng cách giàu nghèo... ngày càng gia tăng 1.2. Sự cần thiết và những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 1.2.1. Sự cần thiết hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai Trong vài thập niên đây gần qua, khu vực Châu á - Thái Bình Dương được đánh giá là khu vực phát triển kinh tế thương mại năng động nhất với sự cất cánh kinh tế của nhiều quốc gia. Khu vực này tập hợp nhiều cường quốc kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Liên bang Nga và nhiều nước khác đang trong thời kỳ phát triển nhanh như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Newzeland...Tại đây đã hình thành nhiều tổ chức liên kết kinh tế khu vực: Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC); Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN); Khu vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Khu vực Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc. Những hình thức liên kết nói trên sẽ tạo thêm điều kiện để các quốc gia trong khu vực tận dụng những cơ hội toàn cầu hóa đẩy mạnh kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời tạo ra sức mạnh của khu vực trong việc cạnh tranh với các khu vực khác. Nhiều dự báo cho rằng, thế kỷ 21, trung tâm kinh tế - thương mại của thế giới sẽ chuyển sang châu á- Thái Bình Dương. ở khu vực Đông Nam á, quá trình hợp tác kinh tế cũng diễn ra hết sức mạnh mẽ với việc thành lập khu vực Mậu dịch tự do các nước ASEAN (AFTA), Hợp tác các nước tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS)... Bối cảnh quốc tế thuận lợi nói trên là một trong những điều kiện để Việt Nam và Trung Quốc tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại. Vì vậy, việc xây dựng khu KTCK Lào Cai sẽ tạo điều kiện để hai nước mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc xây dựng khu KTCK Lào Cai là hết sức cấp thiết, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về hội nhập kinh tế quốc tế của hai nước, đặc biệt là yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, địa phương cả nước. Sự cần thiết phát triển khu KTCK Lào Cai bao gồm các nội dung: Thứ nhất, khu KTCK Lào Cai được hình thành và đóng vai trò quan trọng trong quan hệ giao thương giữa Việt Nam với vùng Tây Nam Trung Quốc đã từ bao đời nay bởi cửa khẩu Lào Cai có vị trí rất đặc biệt. - Cửa khẩu Lào Cai là lối mở ngắn nhất, thuận tiện nhất cho tỉnh Vân Nam nói riêng, vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc nói chung để ra các cảng biển, nối với vùng Đông Nam á và cả thế giới. Nếu đi bằng đường sắt từ thành phố Côn Minh (thủ phủ tỉnh Vân Nam) qua Lào Cai về cảng biển Hải Phòng dài 854 km, trong khi đó tuyến đường sắt nội địa ngắn nhất đi từ Côn Minh ra cảng Phòng Thành tỉnh Quảng Tây Trung Quốc dài hơn 1.800 km. Tuyến đường bộ hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng cũng là tuyến đường ngắn nhất, thuận tiện nhất trong vận chuyển hàng hóa XNK quá cảnh từ Vân Nam đi Việt Nam, ra các nước thứ ba và ngược lại. - Cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu là cửa khẩu duy nhất giữa Việt Nam - Trung Quốc hội đủ tất cả các loại hình vận tải: Đường sắt, đường bộ, đường sông và trong tương lai sẽ có cả đường hàng không. Tuyến đường sắt Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng dài 854 km được Pháp xây dựng trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 20 là tuyến vận tải ngắn nhất, hiệu quả nhất. Hiện nay được xác định là tuyến đường xuyên á: Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh. Tuyến đường bộ hành lang Côn Minh - Hải Phòng đi qua cửa khẩu Quốc tế Lào Cai đã và đang là tuyến đường huyết mạch vận chuyển hàng hóa giữa hai nước Việt - Trung. Tuyến đường sông Hồng - con sông cái của vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam được bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc, qua Lào Cai, về Hà Nội cũng là tuyến giao thông quan trọng. Nếu được khai thông, nạo vét, tuyến giao thông này sẽ đem lại hiệu quả to lớn trong việc vận chuyển hàng hóa, phục vụ du lịch cho cả hai bên. - Cửa khẩu Lào Cai là cửa khẩu duy nhất ở phía Bắc Việt Nam nằm trong lòng một thành phố trực thuộc tỉnh, nên có cả hệ thống dịch vụ của một thành phố phục vụ cho nhu cầu giao lưu thương mại, XNK, quá cảnh và du lịch giữa hai nước. Đây là lợi thế rất quan trọng của cửa khẩu Lào Cai. Song song với những thuận lợi trên, đối diện với cửa khẩu Lào Cai là cửa khẩu Hà Khẩu của cả vùng Tây Nam Trung Quốc rộng lớn, bao gồm 12 tỉnh, thành phố với diện tích hơn 5 triệu km2, chiếm 60 % diện tích toàn Trung Quốc, dân số hơn 300 triệu người. Đây là vùng miền núi, nhiều dân tộc, trình độ sản xuất và mức sống của nhân dân chưa phát triển bằng vùng duyên hải Trung Quốc như: Quảng Đông, Phúc Kiến, Thượng Hải. Nhằm cải thiện đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa miền Đông và miền Tây, những năm gần đây, Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành triển khai chính sách "Đại khai phá miền Tây", với nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi, tập trung nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế thương mại cho vùng này. Nhu cầu về hàng hóa ở đây rất đa dạng, yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa không cao lắm, phù hợp với trình độ sản xuất hàng hóa hiện có của Việt Nam. Như vậy, Tây Nam là một trong những thị trường giàu tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam và việc phát triển khu KTCK Lào Cai là tất yếu khách quan. Thứ hai, xây dựng Khu KTCK Lào Cai là đòi hỏi của sự phát triển sâu rộng hợp tác toàn diện kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng đang xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có mối quan hệ kinh tế, văn hóa từ lâu đời. Những năm gần đây, quan hệ giữa hai nước đã bước vào giai đoạn phát triển mới với phương châm đẩy mạnh hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó hoạt động mậu dịch được tăng cường đáng kể, nhất là sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Trung được ký kết (1996). Quan hệ trao đổi hàng hóa giữa hai nước đã có bề dày truyền thống lịch sử lâu đời mà chủ yếu xuất phát từ con đường biên mậu thông qua các cửa khẩu trên cơ sở lợi thế của từng khu vực. Từ chỗ trao đổi tự nhiên các sản vật sẵn có, buôn bán biên giới Việt - Trung qua các thời kỳ đã trở thành hoạt động thương mại ở nhiều quy mô. Sự hợp tác biên mậu đã đạt được nhiều kết quả khả quan, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai phía. Tuy nhiên, với điều kiện hiện nay, quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung cần được nâng lên ở trình độ mới. Chính phủ hai nước đã có những chính sách, cam kết, thỏa thuận mới thể hiện sự quyết tâm đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, trao đổi kinh tế, mậu dịch biên giới cho tương xứng với tầm quan hệ hai nước. Trong mối quan hệ này thì tỉnh Vân Nam và các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông qua các cửa khẩu tiếp giáp với khu vực này là một thị trường rộng lớn đang phát triển của hai nước: Phía Trung Quốc là khu vực Tây Nam, còn phía Việt Nam là khu kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, toàn bộ vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hợp tác kinh tế thương mại của tỉnh Vân Nam với Việt Nam có tính bổ trợ cho nhau rất lớn, năm 2000 trong số 95 nước và khu vực có quan hệ thương mại với tỉnh Vân Nam, tổng kim ngạch XNK giữa Vân Nam, Việt Nam đứng hàng thứ 6, đạt 100 triệu USD. trong đó kim ngạch XNK biên mậu của hai bên đạt gần 60 triệu USD, chiếm 60% tổng kim ngạch thương mại của tỉnh Vân Nam và Việt Nam [32, tr. 35]. Chính vì vậy, việc hình thành, phát triển khu KTCK Lào Cai là hết sức cần thiết để hai nước tăng cường hơn nữa hợp tác về thương mại, đồng thời tìm hướng mở rộng thị trường ra các khu vực khác. Thứ ba, phát triển khu KTCK Lào Cai phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực hiện đường lối đổi mới của Việt Nam và đường lối cải cách, mở cửa của Trung Quốc. Những năm gần đây, Chính phủ hai nước đều tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với các nước láng giềng thông qua việc mở cửa biên giới. Để thúc đẩy hoạt động biên mậu, cả phía Việt Nam và phía Trung Quốc đã tiến hành ký kết nhiều hiệp định biên mậu với các nước có chung đường biên giới. Ngoài việc thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế với khu vực, mở cửa biên giới còn là chiến lược lâu dài của hai nước nhằm phát triển kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa tạo điều kiện để những vùng này theo kịp nhịp độ phát triển của cả nước và khu vực. Chiến lược mở cửa vùng Tây Nam nằm trong chiến lược phát triển kinh tế tổng thể của Trung Quốc. Liên tục từ năm 1984 - 1992, Trung Quốc đã có một loạt các chính sách mở cửa và ưu đãi đặc biệt với các vùng phía Tây Nam, Nam Hoa Nam Trung Quốc có chung đường biên giới với Việt Nam bao gồm các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Trong chiến lược đẩy nhanh phát triển kinh tế của Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đưa ra tháng 2 năm 1992, một hướng quan trọng là xây dựng, phát triển các khu kinh tế mở đối với các nước láng giềng. Cũng vào năm 1992, tại Hội nghị hiệp thương kinh tế của vùng Tây Nam, Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Bằng đã khuyến khích "các tỉnh, khu tự trị vùng Tây Nam liên hợp lại, tăng nhanh nhịp độ cải cách, mở rộng cửa ngõ để bước vào Đông Nam á" [32, tr 36]. Về cơ bản, chiến lược mở cửa của Trung Quốc được thực hiện với phương châm phát triển: "Mở cửa liên kết với bên ngoài, có chính sách ưu đãi, trao quyền tự chủ cho các địa phương ven biên giới, lấy mở cửa hướng về Đông Nam á làm trọng điểm nhằm mở rộng thị trường sang các nước láng giềng, trước hết là các nước Đông Dương, Mianma" [32, tr. 36]. Một điểm cần được nhấn mạnh trong chiến lược khai phá miền Tây Nam, Trung Quốc hết sức coi trọng tuyến huyết mạch của vùng này qua cửa khẩu Lào Cai và cảng Hải Phòng. Đây là cửa ngõ gần nhất để miền Tây Trung Quốc mở rộng trao đổi thương mại với khu vực và các nước khác. Chính sách phát triển các vùng núi phía Bắc cũng là một trong những chủ trương lớn của Chính phủ Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010. Nhà nước ta xác định, vùng núi phía Bắc có vai trò quan trọng trong quan hệ thương mại với Trung Quốc - một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng và có kim ngạch trao đổi thương mại ngày càng tăng với Việt Nam. Đây cũng chính là cửa ngõ trên bộ thông thương với Trung Quốc. Hợp tác kinh tế giữa vùng núi phía Bắc Việt Nam và Trung Quốc đã có lịch sử từ lâu đời và ngày nay được Chính phủ Việt Nam xác định là hướng chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực này, tạo điều kiện để thâm nhập sâu hơn vào thị trường Trung Quốc. Với chủ trương thúc đẩy hoạt động biên mậu phát triển, tăng cường giao lưu kinh tế thương mại qua các cửa khẩu trên đất liền, nâng cao đời sống của các dân tộc vùng núi phía Bắc, Chính phủ Việt Nam đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của chính sách mở cửa, dành ưu tiên đặc biệt cho vùng núi phía Bắc. Một mặt nhằm rút ngắn sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng núi phía Bắc với các vùng khác trên cả nước. Mặt khác, tận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên, vị thế địa lý mà Tây Nam Trung Quốc không có nhằm khai thác các nguồn lợi, đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Như vậy, với định hướng chiến lược hai nước đã đưa ra thì việc hình thành và phát triển khu KTCK Lào Cai sẽ thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại của hai nước, đồng thời tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở những vùng miền núi khó khăn. Thứ tư, phát triển khu KTCK Lào Cai góp phần phát triển Hành Lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. ý tưởng về xây dựng hành lang kinh tế trong sự hợp tác tiểu vùng được nêu ra trong bản kỷ yếu và bản tuyên bố chung phát biểu tại Hội nghị cấp Bộ trưởng tiểu vùng sông Mê Kông tổ chức vào năm 1998 (Manila). Khái niệm "Hành lang kinh tế" đã được các bên hợp tác ở tiểu vùng tiếp nhận, đang thực hiện với nhiều hình thức khác nhau. Hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng là tuyến hành lang phía Đông - một hành lang có cự ly ngắn nhất, có nhiều thành phố lớn nhất, điều kiện giao thông tương đối tốt, nền kinh tế khá sôi động nên có đủ thuận lợi để dẫn đầu trong việc xây dựng hành lang kinh tế. Việc xây dựng kinh tế là một trong những định hướng hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mê Kông nhằm thúc đẩy sự phát triển khu vực Đông Nam á được nhiều tổ chức quốc tế quan tâm tài trợ. Ngoài việc phát triển mạnh kinh tế - xã hội vùng miền núi của cả hai nước, kết nối với các vùng đồng bằng phát triển, tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng còn là dự định tương lai của quan hệ hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN cũng như giữa các nước trong khu vực. Trong khi đó Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, giáp với Tây Nam Trung Quốc và thuộc hành lang kinh tế này nên có thể thấy rằng việc phát triển khu KTCK Lào Cai là hết sức cần thiết, mang lại nhiều lợi ích to lớn cho tỉnh Lào Cai, cho đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay. 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 1.2.2.1. Nhân tố tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển kinh tế Cho đến nay, Chính phủ đã phê duyệt, cho phép xây dựng, phát triển bốn khu KTCK biên giới phía Bắc Việt Nam, gồm: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Lào Cai. Khu KTCK được hình thành đầu tiên là ở Móng Cái (Quảng Ninh). Bảng 1.1: Các vùng địa lý biên giới phía Bắc Việt Nam được phát triển khu KTCK TT Khu vực cửa khẩu Phạm vi hành chính các địa phương thuộc khu KTCK của Việt Nam Cửa khẩu phía Trung Quốc 1 Móng Cái (Quảng Ninh) - Thị xã Móng Cái - Các xã: Hải Xuân, Hải Hòa, Bình Ngọc, Trà Cổ, Ninh Dương, Vạn Ninh, Hải Yến, Hải Đông, Hải Tiến, Vĩnh Trung, Vĩnh Thực - Đông Hưng-Quảng Tây 2 Lạng Sơn - Cửa khẩu Đồng Đăng (Đường sắt). - Cửa khẩu Hữu Nghị (đường bộ, gồm thị trấn Đồng Đăng, Bảo Lâm - huyện Cao Lộc). - Cửa Khẩu Tân Thanh, gồm: xã Tân Thanh, Tân Mỹ- huyện Văn Lãng - Hữu Nghị Quan tỉnh Quảng Tây - Pò Chài 3 Cao Bằng - Cửa khẩu quốc gia Tà Lùng, xã Tà Lùng, huyện Quảng Hà. - Cửa khẩu Hùng Quốc, xã Hùng Quốc, huyện Trà Lĩnh. - Cửa khẩu Sóc Giang, xã Sóc Giang, huyện Quảng Hà. - Thủy Khẩu - Long Bảng-Quảng Tây - Bình Mãng 4 Lào Cai - Cửa khẩu quốc tế Lào Cai gồm: phường Lào Cai, Phố Mới, Cốc Lếu, Duyên Hải; xã Vạn Hòa, thôn Lục Cẩu, xã Đồng Tuyển (thành phố Lào Cai), thôn Na Mo xã Bản Phiệt - huyện Bảo Thắng. - Cửa khẩu Mường Khương gồm toàn bộ xã Mường Khương. - Hà Khẩu - Vân Nam - Kiều Dâu - Vân Nam Nguồn: [34]. Việc lựa chọn xây dựng các khu KTCK trước hết căn cứ vào điều kiện tự nhiên - xã hội, đó phải là nơi có những thuận lợi về vị trí địa lý, phù hợp với giao lưu kinh tế - thương mại biên giới. Là cầu nối giữa kinh tế trong nước với bên ngoài. Về vị trí địa lý, hầu hết sáu tỉnh biên giới phía Bắc đều có địa hình núi non hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn nhưng các cửa khẩu lại ở những nơi có địa hình tương đối thuận lợi. Các khu KTCK thường nằm ở các thị trấn, thị tứ và các đầu mối giao thông như quốc lộ 1A dài 168 km từ Hà Nội đến Hữu Nghị, đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng dài 163 km., đường sắt Côn Minh - Lào Cai... Đây được coi là những yếu tố quan trọng cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của khu KTCK. Bởi vì, do đặc điểm của nó, hoạt động thương mại - dịch vụ là một trong những nội dung cơ bản của sự phát triển khu KTCK. Muốn vậy, phải có nguồn hàng hóa, dịch vụ từ nội địa được vận chuyển đến để trao đổi qua cửa khẩu biên giới, đồng thời phải có hệ thống giao thông thuận lợi để đưa hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài vào trong nước. Vì thế, yếu tố địa lý là rất quan trọng. Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt, 345 km theo đường bộ. Tỉnh Lào Cai được tái lập vào tháng 10 năm 1991 (tách ra từ tỉnh Hoàng Liên Sơn), có diện tích là 6.357,08 km2. Đặc biệt, Lào Cai có 203,5 km đường biên giới giáp với tỉnh Vân Nam Trung Quốc trong đó, 144,3 km là đường sông suối và 59,2 km là đất liền. Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu. Địa hình Lào Cai đặc trưng là núi cao xen kẽ đồi núi thấp, độ cao thay đổi từ 80 m tới trên 3.000 m so với mực nước biển, điển hình là đỉnh Phanxipăng cao 3.143 m (cao nhất Đông Dương). Điều kiện đặc trưng tự nhiên đã tạo cho Lào Cai một môi trường thiên nhiên phong phú, đa dạng, khí hậu ôn đới, cận ôn đới rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và du lịch. Lào Cai còn có tiềm năng to lớn cho phát triển ngành du lịch, thiên nhiên ban tặng cho Lào Cai nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng gắn với các địa danh: Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát, Mường Khương... Trong đó Sa Pa là khu du lịch nổi tiếng trong nước và quốc tế. Hơn thế nữa, tiếp giáp với Lào Cai là tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, một trong bốn tỉnh, thành phố có kinh tế du lịch phát triển nhất Trung Quốc sau Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Đông, hàng năm có tới 2,5 triệu lượt khách quốc tế. Đa số khách đến Vân Nam đều muốn sang du lịch Việt Nam qua cửa khẩu Lào Cai và ngược lại. Tất cả những điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý của Lào Cai cho thấy rất thích hợp cho việc xây dựng và phát triển mô hình khu KTCK. Bên cạnh đó, các vấn đề về xã hội, trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển khu KTCK. tính đến năm 2004, Lào Cai có dân số là 600.000 người, thành thị 19%, nông thôn 81%. Toàn tỉnh có 25 dân tộc: dân tộc kinh chiếm 35,91%; dân tộc thiểu số chiếm 64,09%. Về đơn vị hành chính, Lào Cai có một thành phố (thành phố Lào Cai), 8 huyện (Sa Pa, Bát Xát, Mường Khương, Bắc Hà, Simacai, Văn Bàn, Bảo Yên, Bảo Thắng) và 164 xã, phường, thị trấn, trong đó 125 xã vùng cao, 26 xã biên giới. Nhìn tổng thể, Lào Cai vẫn là khu vực khó khăn, dân cư sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, trình độ lao động giản đơn, không qua đào tạo nên năng suất lao động thấp. Tuy cơ cấu kinh tế tiến bộ hơn so với nhiều tỉnh miền núi phía Bắc khác nhưng vẫn còn lạc hậu và mất cân đối: năm 1995, nông - lâm nghiệp 51%; công nghiệp - xây dựng cơ bản 27%; dịch vụ 22%. Do đời sống thấp kém nên nhiều xã, huyện chưa kiểm soát được bệnh tật: năm 1995, bướu cổ là 30,7%; sốt rét 3,53 %... Đây chính là những khó khăn cho việc giao lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới, trong đó có việc hình thành và phát triển khu KTCK Lào Cai. 1.2.2.2. Tình hình chính trị của các nước trong khu vực và trực tiếp là quan hệ hữu nghị thân thiện giữa Việt Nam - Trung Quốc Đây là nhân tố có tính khách quan quy định sự hình thành và phát triển khu KTCK nói chung, khu KTCK Lào Cai nói riêng, không chỉ hiện nay mà cả tương lai. Một Đông Nam á hòa bình, hữu nghị và hợp tác sẽ là môi trường tốt để đẩy mạnh việc giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước. Đặc biệt, Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có truyền thống hữu nghị lâu đời, đều lựa chọn con đường phát triển theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhân dân hai nước sinh sống ở khu vực biên giới từ lâu đã có quan hệ tốt đẹp, qua lại thăm thân, trao đổi hàng hóa tiểu ngạch thông qua cửa khẩu, đường mòn biên giới. Do đặc điểm của mô hình khu KTCK nên sự hình thành, phát triển của nó phụ thuộc rất chặt chẽ vào sự ổn định chính trị, an ninh biên giới từng nước có đường biên giới chung và các nước trong khu vực. Đó cũng là một thực tế giải thích vì sao mô hình khu KTCK ở một số nước đã thực hiện rất thành công, còn ở Việt Nam mãi đến năm 1996 mới tiến hành thí điểm. Thực tiễn lịch sử Việt Nam cũng chứng minh cho ta thấy, khi quan hệ giữa hai nước lắng xuống, khu vực biên giới trở thành điểm nóng về chính trị, an ninh, an toàn xã hội thì phải đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới. Vì vậy, vấn đề chính trị không chỉ có vai trò quan trọng sống còn, có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành và phát triển khu KTCK, mà sau này khi quy mô của loại hình này mở rộng, các hoạt động thương mại, tạm nhập tái xuất, hoạt động dịch vụ du lịch, trao đổi thông tin, hội chợ triển lãm phát triển... thì sự liên kết không chỉ trực tiếp giữa hai quốc gia mà mang tính khu vực, tính toàn cầu. Khu KTCK sẽ thực sự là cầu nối, là kênh quan trọng hỗ trợ cho nền kinh tế hội nhập, mở cửa trong xu thế toàn cầu hóa [34, tr. 35]. 1.2.2.3. Tác động của chính sách kinh tế đối ngoại và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc Sự phát triển khu KTCK phụ thuộc trực tiếp vào chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới năm 1986 đến nay, đường lối đối ngoại của chúng ta là: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước", trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Với những định hướng cơ bản đó, chúng ta chủ trương giữ vững thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng thị trường ra các nước, khu vực khác. Trong đó, Trung Quốc được coi là thị trường truyền thống, có nhiều tiềm năng và có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam. Việc thực thi một chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại cho phép Việt Nam tìm kiếm nhiều mô hình, hình thức kinh tế đa dạng, năng động. Bên cạnh các hoạt động XNK, hợp tác, đầu tư nước ngoài, dịch vụ, du lịch nhiều mô hình kinh tế mới ra đời cùng kết hợp, đan xen vào nhau như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu KTCK đã mang lại nhiều kết quả, tận dụng được mọi ưu điểm của các hình thức kinh tế đối ngoại trên. Điều quan trọng hơn, với chính sách đối ngoại rộng mở đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta chuyển động theo xu hướng hội nhập, mở cửa nhiều hơn với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay được coi là tiền đề tốt hỗ trợ cho việc hình thành và phát triển các khu KTCK nói chung, khu KTCK Lào Cai nói riêng. Mặt khác, sự phát triển khu KTCK còn phụ thuộc vào quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc. Đến giữa năm 2000, hai nước đã ký kết trên 20 văn bản thỏa thuận: Hiệp định thương mại, Hiệp định biên mậu, Hiệp định về hợp tác kinh tế... Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành các văn bản chỉ đạo hoạt động buôn bán qua biên giới với Trung Quốc như: Quy chế tạm thời về tổ chức và quản lý chợ biên giới Việt - Trung; các văn bản pháp lý cho phép bốn tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng thực hiện một số chính sách thí điểm tại khu KTCK. Nhờ những nỗ lực của hai Nhà nước, quan hệ kinh tế Việt - Trung không ngừng phát triển, tập trung ở ba lĩnh vực thương mại, đầu tư, và hợp tác phát triển: năm 2004, tổng buôn bán hai chiều Việt - Trung lên tới trên 7 tỉ USD; mục tiêu đến 2010 là 10 tỉ USD. Rõ ràng, đây vừa là cơ sở pháp lý, vừa là điều kiện thực tế để việc hình thành và phát triển khu KTCK có những điều kiện mở rộng, từng bước đi lên trong tương lai. 1.2.2.4. Mức độ mở rộng thị trường và áp lực cạnh tranh quốc tế Đây cũng là nhân tố tác động không nhỏ tới sự phát triển của khu KTCK. Thực tế việc thực hiện thí điểm một số chính sách tại các khu KTCK từ năm 1996 cũng đã phản ánh rõ điều này. Trên tuyến biên giới phía Bắc, trong bốn khu KTCK được phép xây dựng thì Móng Cái (Quảng Ninh) và Lạng Sơn có quy mô và tốc độ phát triển nhanh hơn so với Cao Bằng, Lào Cai, vì ở Quảng Ninh, Lạng Sơn có trình độ phát triển kinh tế, quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển hơn ở những nơi khác. Hơn nữa, các sản phẩm hàng hóa trao đổi tại hai cửa khẩu này cũng phong phú và có khả năng cạnh tranh cao hơn so với khu vực còn lại. Mặt khác, việc hình thành và phát triển khu KTCK có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế hàng hóa cho nên, mức độ, quy mô mở rộng các quan hệ thị trường cũng là môi trường quan trọng để khu KTCK tồn tại và phát triển. Đồng thời, do tác động của các quan hệ thị trường có điều tiết của Nhà nước đòi hỏi người sản xuất phải quan tâm nhiều hơn tới chất lượng sản phẩm, cũng như tính cạnh tranh, nhu cầu của thị trường. Nhờ đó kênh hàng hóa cung cấp cho trao đổi thương mại qua khu KTCK đa dạng hơn, thay dần việc xuất hàng thô và nhập những mặt hàng không có lợi cho nền kinh tế. Một thực tế khác là, nhiều năm áp lực cạnh tranh gay gắt của hàng hóa Trung Quốc đối với hàng Việt Nam rất lớn, còn khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nội địa kém, hạn chế về mặt quản lý, chống buôn lậu, gian lận thương mại đã gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, trong đó có trao đổi hàng hóa qua các khu KTCK. 1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc, một số địa phương ở nước ta trong việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu. Quan điểm, Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu Trung Quốc là một đất nước rộng lớn, có đường biên giới trên bộ tiếp giáp với 12 nước, có chiều dài 2,2 vạn km đường biên giới nên Trung Quốc rất chú trọng việc phát triển kinh tế biên mậu. Chính phủ Trung ương đã khảo sát tổng hợp tình hình biên giới với các nước và nhận thấy sự khác nhau rất lớn về tài nguyên, vị trí địa lý, trình độ phát triển tại các khu vực có đường biên giới chung. Trên cơ sở đó, thông qua việc phát triển kinh tế - thương mại biên giới để rút ngắn sự chênh lệch về tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các vùng trong nước, giúp cho nền kinh tế Trung Quốc hội nhập quốc tế nhanh chóng hơn, đồng thời khai thác được các lợi thế về tự nhiên, nguồn nhân lực trong cạnh tranh quốc tế. Điều 42 Luật Mậu dịch và đối ngoại của Trung Quốc năm 1994 quy định: "Đối với mậu dịch giữa các thành phố và thị trấn biên giới với các thị trấn và thành phố tiếp giáp biên giới quốc gia, và mậu dịch của chợ biên giới, Nhà nước áp dụng các biện pháp linh hoạt, tạo điều kiện ưu tiên thuận lợi, phương pháp cụ thể của Điều luật này do Chính phủ quy định" [34, tr. 55]. Một số điều khoản khung của Luật Mậu dịch và đối ngoại đã tạo khung pháp lý cho việc đẩy mạnh sự ra đời các hình thức kinh tế biên mậu. Tư tưởng chung của Nhà nước Trung Quốc về vấn đề này được thể hiện ở các chính sách: "Duyên biên khai phóng"; "Hỗ thị dân biên"; "Thắp sáng đường biên"... Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường của Trung Quốc do Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa xuất bản 1998, thì duyên biên khai phóng chính là muốn phát huy đầy đủ những ưu thế của vị trí địa lý, nguồn thiên nhiên phong phú và con người của các khu, tỉnh biên cương nội địa, lấy những thành thị có công nghiệp phát đạt làm chỗ dựa, lấy sự phát triển mậu dịch biên cương làm khởi điểm, lợi dụng triệt để nhiều hình thức mậu dịch kinh tế đối ngoại, cải thiện kết cấu kinh tế, sáng tạo hoàn cảnh đầu tư, thúc đẩy giao lưu hai chiều, về cơ bản cải biến bộ mặt nghèo nàn, lạc hậu của vùng này... Mở cửa biên giới sẽ phá tan tình trạng kinh tế đóng cửa của các tỉnh vùng biên cương nội địa, đẩy mạnh sự phát triển và chấn hưng kinh tế của khu vực biên giới, các vùng phụ cận [34, tr. 55]. Trên cơ sở đó, các cửa khẩu biên giới trên bộ của Trung Quốc được khuyến khích phát triển quan hệ kinh tế - thương mại, lấy đa dạng hóa thương mại làm khởi điểm để tích lũy phát triển hạ tầng đô thị biên giới. Xây dựng và mở rộng phạm vi hoạt động của một số xí nghiệp công nghiệp địa phương một cách năng động, linh hoạt hướng mạnh về lắp giáp, sơ chế, bảo quản... tạo ra nhiều chủng loại hàng hóa phù hợp với trao đổi chính ngạch và tiểu ngạch qua biên giới nhằm thực hiện "Tam khứ nhất bổ", tức là xuất khẩu ba thứ: hàng hóa, lao động và thiết bị kỹ thuật để lấy về một thứ là hàng thiếu, khan hiếm. Với chính sách này, Trung Quốc đã thực hiện tương đối thành công việc phát triển kinh tế biên mậu. ở các thành phố, tỉnh biên giới có cửa khẩu, chợ, đường mòn biên giới với các nước láng giềng, hàng hóa do những xí nghiệp địa phương Trung Quốc sản xuất ra đã xâm nhập mạnh mẽ sang thị trường các nước với giá rẻ, cạnh tranh gay gắt hàng hóa nội địa của các quốc gia này, trong nhiều trường hợp còn áp đảo, chiếm lĩnh thị trường, gây đình đốn sản xuất, đặc biệt là một số mặt hàng tiêu dùng như xe đạp, xe máy, vải, quần áo, phích nước, máy móc, công cụ phục vụ nông nghiệp... Tuy nhiên, Trung Quốc cũng nhập nhiều hàng hóa, nguyên liệu mà nhu cầu trong nước cần. Những thành công trong việc đẩy mạnh trao đổi hàng hóa biên mậu đã góp phần làm tăng trưởng nhanh chóng kinh tế - xã hội ở nhiều địa phương có đường biên giới chung với các nước láng giềng, điển hình là thành phố Tuy Phần Hòa, chỉ có 30.000 dân, trong hai tháng năm 1992 đã thu hút các nhà đầu tư đổ vốn về với kim ngạch đã ký, thể hiện trên hiệp định là 500 triệu NDT. Thành phố Mãn Châu Lý trước năm 1987, phải nhận trợ cấp của Nhà nước bình quân 6 triệu NDT/ năm, nhưng từ năm 1989 trở đi nhờ đẩy mạnh trao đổi kinh tế biên giới thành phố không phải xin trợ cấp từ Trung ương, thu nhập thông qua hoạt động kinh tế - thương mại cửa khẩu đã đạt tới 15 triệu NDT. Đối với khu vực biên giới Trung Quốc - Liên bang Nga tình hình cũng như vậy, chợ sáng, chợ chiều ở thành phố Hắc Hà diễn ra thường xuyên, hàng hóa trao đổi sầm uất, mức bán lẻ tăng từ 1,67 triệu NDT năm 1987 lên 150 triệu NDT năm 1990. Như vậy, những năm vừa qua, Trung Quốc đã biết khai thác lợi thế của kinh tế biên mậu, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu lao động, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa miền núi, vùng sâu, xa với đồng bằng, duyên hải và đô thị. Qua những kết quả trên, chúng ta có thể thấy, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các chính sách ưu đãi hợp lý, biết khai thác lợi thế về địa lý, điều kiện tự nhiên, lao động, kỹ thuật, từ đó những vùng lạc hậu trở thành những vùng phát triển, những vùng động lực tăng trưởng kinh tế có mức tăng bình quân cao hơn mức trung bình của cả nước. 1.3.2. Kinh nghiệm của một số địa phương ở nước ta trong việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu - Khu KTCK Móng Cái - Quảng Ninh được thành lập theo Quyết định 675/TTg, ngày 18-9-1996 của Thủ tướng Chính phủ trên một diện tích đất bao gồm thị trấn Móng Cái và 11 xã thuộc tỉnh Quảng Ninh, với mục đích hình thành một khu vực thí điểm áp dụng một số chính sách ưu tiên phát triển thương mại, xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ, du lịch và công nghiệp theo luật pháp Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế. Chủ trương xây dựng khu KTCK ở đây được sự chuẩn bị rất đồng bộ từ định hướng chung của tỉnh Quảng Ninh cũng như những nội dung cụ thể của các chính sách ưu tiên thí điểm. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của tỉnh rất chú trọng đến phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch, đưa ra kế hoạch cụ thể để khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý của địa phương trong tam giác tăng trưởng kinh tế phía Bắc và trong quan hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc. Quy hoạch xác định rõ: Sớm hình thành hai trung tâm thương mại lớn ở Hạ Long, Móng Cái; khu vực Móng Cái phải được phát triển thành khu KTCK quan trọng... Phấn đấu đến năm 2010, tỉnh có thể thu hút từ 1,2 đến 1,3 triệu khách du lịch quốc tế. Quá trình hình thành và phát triển khu KTCK Móng Cái đã thúc đẩy mạnh việc đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng cho thị trấn. Theo báo cáo tổng kết hai năm của ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Quảng Ninh về thực hiện Quyết định 675/TTg, đã có 56 dự án phát triển khu KTCK Móng Cái với tổng số vốn trên 201 tỉ đồng, chủ yếu đầu tư vào các ngành giao thông vận tải, điện, cấp thoát nước, và các công trình phúc lợi khác. Những thay đổi về kết cấu hạ tầng, cơ chế chính sách đã đưa Móng Cái trở thành khu vực phát triển mạnh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ nét. Năm 1998, thương mại - dịch vụ chiếm 78% GDP của huyện so với năm 1989 là 48%. Tỉ lệ nghèo đói giảm từ 17% xuống còn 14% vào năm 1998. Chỉ tính sau hai năm thực hiện chính sách thí điểm từ 1996 đến 1998, GDP bình quân đầu người tăng từ 360 USD lên 420 USD. - Khu KTCK Lạng Sơn được thành lập theo Quyết định 748/TTg, ngày 11-9- 1997 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm các cửa khẩu Đồng Đăng (đường sắt), Hữu Nghị (đường bộ), Tân Thanh và một số khu vực địa lý khác (xem bảng 1.1). Mặc dù thời gian quyết định xây dựng khu KTCK ở Lạng Sơn đúng vào thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhưng các hoạt động kinh tế - thương mại vẫn phát triển. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được coi trọng, đến năm 2000 đã có 54 dự án được phê duyệt với tổng số vốn đầu tư là 292.201 triệu đồng. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã chú trọng đầu tư một số dự án đảm bảo an ninh - quốc phòng khu vực, dự án kết hợp kinh tế với quốc phòng... nhằm phát triển toàn diện kinh tế với an ninh quốc phòng biên giới. Những thay đổi nhanh chóng về kết cấu hạ tầng cho khu vực KTCK nói riêng và thị xã Lạng Sơn nói chung là do có chủ trương đúng đắn của Chính phủ trong việc đầu tư hàng năm từ năm 1997 - 2000), không dưới 50% tổng thu ngân sách trên một năm của khu vực Đồng Đăng, Hữu Nghị, Tân Thanh. Theo Báo cáo số 11 BCĐ/BC của Ban chỉ đạo thực hiện Quyết định 748 Lạng Sơn, ngày 9-1-2000, kế hoạch vốn đầu tư cho các dự án là 84 tỉ đồng nhằm xây dựng cơ bản các công trình chuyển tiếp 24 dự án, khởi công mới 11 dự án. Đồng thời, đề nghị với Trung ương cho phép để lại ngân sách địa phương (theo Quyết định 748/TTg) 70% gồm cả thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu; cửa khẩu có số thu dưới 20 tỉ đồng/ năm thì để lại 100%. Do vậy, quy mô và tốc độ xây dựng tăng dần qua các năm, các hoạt động kinh tế - thương mại cũng được phát triển, mở rộng. Tính đến tháng 12 năm 1998, số khách xuất nhập cảnh qua khu vực là 622.160 lượt người, tăng 13,7% so với năm 1997. Với những nỗ lực đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng, năm 1998 kim ngạch XNK qua khu KTCK Lạng Sơn đạt trên 3500 tỉ đồng, chiếm 97,2 % kim ngạch XNK toàn tỉnh, đem về cho ngân sách nguồn thu hơn 154 tỉ đồng, bằng 108% so với số dự toán. Những kết quả bước đầu sau một thời gian thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù tại khu KTCK Lạng Sơn, đã cho thấy triển vọng tốt đẹp của mô hình kinh tế này trong thời gian tới. Nhìn chung, qua nghiên cứu những kinh nghiệm phát triển khu KTCK của Trung Quốc và hai tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn ở nước ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với khu KTCK Lào Cai như sau: Sự thành công trước hết bắt nguồn từ sự nhạy cảm, đón trước xu thế phát triển kinh tế, xu hướng hội nhập với khu vực và quốc tế để từ đó có những bước đi phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương; quá trình hình thành, phát triển khu KTCK cần phải đặt lợi ích lâu dài, tổng thể lên lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ tránh tình trạng manh mún, phân tán hay chắp vá có lợi cho địa phương nhưng thiệt hại cho nền kinh tế; các cơ chế, chính sách thí điểm cho khu KTCK phải đảm bảo tính linh hoạt, nhất quán, thông thoáng, đặc biệt là các chính sách về thương mại, đầu tư, đất đai, thuế quan; đồng thời cơ chế, chính sách thí điểm vừa phải đảm bảo khai thác có khoa học những lợi thế về địa lý, lao động, kỹ thuật, thu hút đầu tư để tạo ra nhiều hàng hóa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, giải quyết khó khăn trước mắt về kinh tế, vừa phải tạo ra khung pháp lý để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh theo hướng văn minh, hiện đại của nền kinh tế tri thức; quan tâm đúng mức cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm phục vụ tốt hơn hoạt động kinh tế - thương mại giữa hai bên... 1.3.3. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai Theo quan điểm của Đảng ta, việc thành lập khu KTCK Lào Cai bao gồm bốn mục tiêu cơ bản: Một là, phát triển kinh tế tại địa bàn khu vực cửa khẩu trên cơ sở khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp cả nước đầu tư kinh doanh tại tỉnh. Qua đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp. Hai là, nâng cao đời sống nhân dân tại khu vực cửa khẩu và các khu vực lân cận, góp phần nâng cao dân trí của đồng bào biên giới thông qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển giao lưu kinh tế qua khu KTCK Lào Cai. Ba là, thực hiện chiến lược gắn việc giữ vững chính trị, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, chủ quyền quốc gia với việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và trình độ dân trí của nhân dân tạo thêm thế vững mạnh về quốc phòng, an ninh trên tuyến biên giới nói chung, địa bàn tỉnh Lào Cai nói riêng. Bốn là, thực hiện tốt hơn việc điều hòa, phối hợp quản lý nhà nước đối với khu KTCK Lào Cai, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước tại tỉnh. Trên cơ sở những mục tiêu đó, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra Quyết định số 100/TTg ngày 26-5-1998 về việc áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu biên giới tỉnh Lào Cai (gọi là khu KTCK Lào Cai) với nội dung như sau [63, tr. 401-405]: - Theo phạm vi hành chính: Cửa khẩu quốc tế Lào Cai gồm phường Cốc Lếu, phường Duyên Hải, phường Lào Cai, phường Phố Mới, xã Vạn Hòa, thôn Lục Cẩu xã Đồng tuyển thuộc thành phố Lào Cai, thôn Na Mo xã Bản Phiệt thuộc huyện Bảo Thắng. Cửa khẩu Mường Khương gồm toàn bộ xã Mường Khương. Khu KTCK Lào Cai được ưu tiên phát triển thương mại, xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ, du lịch và công nghiệp theo pháp luật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư Việt Nam và nước ngoài tại khu KTCK Lào Cai phù hợp với pháp luật, chính sách hiện hành của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN đã ký kết hoặc tham gia. - Hoạt động thương mại và dịch vụ thương mại tại khu KTCK Lào Cai thực hiện theo quy định hiện hành, bao gồm: hoạt động xuất - nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, dịch vụ quá cảnh hàng hóa, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, các chi nhánh đại diện, các công ty trong nước và nước ngoài, chợ cửa khẩu. - Các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được khuyến khích đầu tư phát triển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu KTCK Lào Cai phù hợp với Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài quyền được hưởng các ưu đãi theo pháp luật hiện hành còn được hưởng: + Chủ đầu tư được giảm 50% tiền thuê đất so với khung giá hiện hành của Nhà nước đang áp dụng tại khu KTCK Lào Cai. + Các chủ đầu tư không phân biệt trong nước hay nước ngoài, nếu đầu tư vào lĩnh vực, ngành, nghề ưu tiên theo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của khu vực KTCK Lào Cai thì được miễn, giảm thuế lợi tức, thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định hiện hành tại Nghị định số 30/1998 NĐ-CP ngày 13-5-98 của Chính phủ. - Chủ đầu tư nước ngoài được xét giảm nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể (Bộ Tài chính đã có văn bản hướng dẫn). - Chủ đầu tư tại khu KTCK Lào Cai được huy động nguồn vốn trong nước và nước ngoài bằng các hình thức thích hợp để xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai, đảm bảo an ninh, quốc phòng. - Các tổ chức, cá nhân (không bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước) có công gọi vốn đầu tư không hoàn lại (vốn ngoài nguồn ngân sách nhà nước) để đầu tư vào các công trình kinh tế - xã hội tại khu KTCK Lào Cai được hưởng một khoản tiền thưởng nhất định. - Để thức đẩy quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu KTCK Lào Cai, cho phép: + UBND tỉnh Lào Cai được thành lập Công ty Phát triển hạ tầng, công ty này là doanh nghiệp nhà nước. + Trong thời gian từ năm 1998 đến năm 2001 mỗi năm Nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh cho khu KTCK Lào Cai không dưới 50% tổng số thu ngân sách trong năm trên địa bàn khu KTCK Lào Cai, mức vốn đầu tư và danh mục các công trình hạ tầng được đầu tư riêng vốn từ ngân sách do UBND tỉnh Lào Cai đề nghị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định sau khi có ý kiến thỏa thuận của Bộ Tài chính. - Về quản lý xuất nhập cảnh: + Công dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cư trú tại các huyện giáp giới với khu KTCK Lào Cai được qua lại vào khu KTCK Lào Cai bằng chứng minh thư hoặc giấy thông hành, nhập cảnh qua biên giới do cơ quan có thẩm quyền Trung Quốc cấp. Thời hạn được phép tạm trú tại khu vực KTCK Lào Cai không quá 7 ngày, nếu muốn vào các địa điểm khác thuộc tỉnh Lào Cai do các cơ quan, tổ chức của Việt Nam ở tỉnh Lào Cai mời đón thì phải có văn bản đề nghị, công an tỉnh cấp giấy phép đi lại. Giấy phép đi lại có giá trị một lần và không được gia hạn. + Công dân Trung Quốc và những người nước ngoài khác có hộ chiếu phổ thông vào khu KTCK Lào Cai được miễn thị thực xuất nhập cảnh. thời gian tạm trú trong khu vực KTCK Lào Cai không quá 15 ngày. Nếu muốn đi các nơi khác trong tỉnh hoặc các tỉnh khác của Việt Nam thì do cơ quan quản lý xuất - nhập cảnh tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai. Ngoài ra, với phương châm "Doanh nghiệp phát tài, Lào Cai phát triển", Lào Cai cũng đã ban hành một số chính sách ưu đãi chung đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào 4 khu kinh tế trọng điểm thuộc khu KTCK Lào Cai (khu cửa khẩu quốc tế Lào Cai, khu thương mại Kim Thành, cụm công nghiệp Bắc Duyên Hải, cụm công nghiệp Đông Phố Mới), cụ thể [54, tr. 29-30]: - Về tiền thuê đất, miễn 100% tiền thuê đất trong suốt thời gian thực hiện dự án đầu tư vào 4 khu kinh tế trọng điểm. - Về chính sách thuế, được hưởng chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng theo quy định hiện hành của Nhà nước với mức cao nhất. Sau thời gian được miễn, giảm thuế như trên, trong 5 năm tiếp theo các doanh nghiệp còn được giảm thuế theo hình thức tỉnh Lào Cai cấp lại 100% thuế thu nhập doanh nghiệp và 50% thuế giá trị gia tăng (trừ thuế giá trị gia tăng của hàng nhập khẩu) thực nộp vào ngân sách tỉnh Lào Cai để tái đầu tư mở rộng sản xuất theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Hỗ trợ đào tạo, đối với các dự án nếu có sử dụng ổn định 20 lao động bình quân trong năm trở lên, đào tạo tay nghề tương đương bậc 3 trở lên cho lao động tại địa phương được tỉnh Lào Cai hỗ trợ kinh phí đào tạo với mức 1 triệu đồng/ 1 lao động đã đào tạo. - Về kinh phí hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tỉnh sẽ hỗ trợ 100% kinh phí giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư vào khu cửa khẩu quốc tế Lào Cai và khu thương mại Kim Thành, hỗ trợ 50% kinh phí giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư vào cụm công nghiệp Duyên Hải, Đông Phố Mới... Kết luận chương 1 Qua nghiên cứu cơ sở khoa học hình thành và phát triển khu KTCK Lào Cai, có thể nói rằng, việc phát triển khu KTCK Lào Cai là một yêu cầu tất yếu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Đây là mô hình kinh tế mới hứa hẹn khả năng phát triển mạnh trong thời gian tới, đòi hỏi các nhà quản lý từ Trung ương đến địa phương phải tổng kết, rút kinh nghiệm, đặc biệt là những cơ chế, chính sách phù hợp để triển khai thực hiện có hiệu quả, mang lại những lợi ích thiết thực như: - Việc phát triển khu KTCK Lào Cai sẽ khắc phục những hạn chế làm tụt hậu giao thông trong việc hợp tác kinh tế. - Phát triển khu kinh tế sẽ mở rộng hơn nữa hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc, thông qua sự hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực bù đắp cho nhau về lợi thế và cùng nhau phát triển. - Phát triển khu KTCK Lào Cai tạo điều kiện cho tỉnh khai thác tốt lợi thế so sánh, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. - Khu KTCK Lào Cai phát triển sẽ tạo điều kiền cho hành lanh kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng phát huy vai trò quan trọng - cầu lục địa nối liền miền Tây Nam Trung Quốc với Đông Nam á và Nam á trong qúa trình giao lưu hợp tác kinh tế. Chương 2 Thực trạng phát triển và tác động kinh tế - xã hội của khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai Nằm trong chính sách mở cửa biên giới giữa các quốc gia, sự hình thành và phát triển khu KTCK Lào Cai cũng là một hiện tượng chính trị, ngoại giao, xã hội, đồng thời là hiện tượng kinh tế quan trọng. Thực tiễn kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai sau 8 năm thực hiện một số chính sách thí điểm tại khu KTCK Lào Cai cho thấy, phát triển khu KTCK Lào Cai đã có tác động rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh. Bên cạnh các tác động tích cực như: gia tăng thương mại qua cửa khẩu, thúc đẩy hợp tác đầu tư, kinh tế, kỹ thuật; nâng cao mức sống của người dân, giảm đói nghèo... Phát triển khu KTCK Lào Cai cũng đưa đến nhiều vấn đề xã hội phức tạp khác như buôn lậu, tội phạm gia tăng, phân hóa giàu nghèo... 2.1. Thực trạng phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai Chương trình phát triển KTCK là một trong 29 đề án, kế hoạch, nghị quyết thuộc 7 chương trình công tác trọng tâm của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa VII. Thực hiện kế hoạch 03/KH-TU ngày 30-05-2001 của Tỉnh ủy Lào Cai, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 50/QĐ-UB ngày 18-02-2002 về việc phê duyệt chương trình phát triển khu KTCK Lào Cai giai đoạn 2001 - 2005, 2005 - 2010. Mục tiêu của chương trình là nhằm khai thác có hiệu quả những lợi thế của khu vực KTCK, đưa KTCK thực sự là mũi nhọn, là động lực để phát triển kinh tế địa phương. Xây dựng cơ sở vật chất khu KTCK đảm bảo sức hấp dẫn các nhà đầu tư, kinh doanh trong và ngoài nước, đảm bảo ổn định an ninh, trật tự biên giới. Phấn đấu mỗi năm số thu từ khu vực KTCK tăng 15 - 20%, năm 2005 đạt số thu từ KTCK 230 - 250 tỷ đồng. Mặc dù những năm qua có nhiều yếu tố tác động không thuận lợi cho việc thực hiện chương trình như: thiên tai, dịch bệnh; kết cấu hạ tầng đang đầu tư chưa hoàn thiện; Chính phủ thay đổi một số chính sách xuất - nhập khẩu; đến hết năm 2003 không còn cơ chế để lại nguồn thu từ khu KTCK cho đầu tư phát triển... Song, được sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, sự điều hành năng động của UBND tỉnh, hoạt động hiệu quả của Ban chỉ đạo cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, khu KTCK Lào Cai đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ và đạt được nhiều kết quả quan trọng, từng bước khẳng định vị trí, vai trò của khu KTCK trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 2.1.1. Công tác quy hoạch, đầu tư và đầu tư cơ sở hạ tầng - Thực hiện quy hoạch: Theo Quyết định 100/1998/QĐ-TTg ngày 26-5-1998 của Thủ tướng Chính phủ, khu KTCK Lào Cai gồm các phường Lào Cai, Cốc Lếu, Duyên Hải, Phố Mới, các xã Vạn Hòa, thôn Lục Cẩu xã Đồng tuyển thuộc thành phố Lào Cai; xã Mường Khương huyện Mường Khương; thôn Na Mo xã Bản Phiệt huyện Bảo Thắng. Ngày 1-01-2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 9/2003/QĐ-TTg phê duyệt mở rộng phạm vi khu KTCK Lào Cai thêm phường Kim Tân và hết xã Đồng Tuyển đưa diện tích khu KTCK Lào Cai từ 6.513,8 ha lên 7.971,8 ha [61, tr. 5-12]. Đến nay, công tác quy hoạch theo nội dung chương trình đã cơ bản hoàn thành, hình thành các khu chức năng: + Khu cửa khẩu quốc tế Lào Cai là khu vực hoạt động XNK, du lịch và dịch vụ. + Khu Phố Mới, Vạn Hòa để xây dựng nhà ga, bến xe, bãi hàng, khu công nghiệp... + Khu Cốc Lếu là Trung tâm thương mại và các văn phòng đại diện. + Khu Duyên Hải, Đồng Tuyển xây dựng khu thương mại Kim Thành, cụm công nghiệp Bắc Duyên Hải. + Khu Kim Tân là trung tâm văn hóa, thể thao, hội thảo và du lịch của khu KTCK. + Khu KTCK quốc gia Mường Khương được quy hoạch điều chỉnh trung tâm huyện lỵ theo hướng chuyển dịch các cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động cửa khẩu về gần trung tâm xã Mường Khương và đang triển khai dự án xây dựng trạm kiểm soát liên ngành, khu kiểm hóa. + Khu vực lối mở Na Mo được gắn kết với việc đầu tư nâng cấp quốc lộ 70. Đây sẽ trở thành khu vực tập kết hàng hóa và là điểm nối hệ thống đường bộ xuyên á từ Vân Nam - Trung Quốc qua Lào Cai đi Hà Nội. Đặc biệt, đề nghị của Lào Cai về xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khu KTCK và xây dựng tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng đã được Chính phủ phê duyệt, đó là: Nâng cấp tuyến đường bộ Lào Cai - Hà Nội (quốc lộ 70); xây dựng mới đường cao tốc Hữu Ngạn sông Hồng với bốn làn xe tiêu chuẩn, nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng cầu qua sông Hồng nối liền khu thương mại Kim Thành (Việt Nam) với khu thương mại Hà Khẩu (Trung Quốc), nghiên cứu xây dựng sân bay Lào Cai. Ngoài ra, tỉnh còn hợp tác với Tổng công ty đường sắt Việt Nam, Cảng Hải Phòng mở rộng Ga quốc tế Lào Cai ... - Về đầu tư: + Đầu tư trong nước: số đơn vị đăng ký thành lập và hoạt động tại khu KTCK Lào Cai ngày càng tăng. Đến hết năm 2004 có 486 đơn vị đăng ký kinh doanh, chiếm 64,5 % tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động toàn tỉnh, với tổng số vốn đăng ký trên 897 tỷ đồng. Tham gia XNK qua cửa khẩu Lào Cai có 435 doanh nghiệp (trong đó là 116 doanh nghiệp nhà nước, 56 doanh nghiệp cổ phần, 21 doanh nghiệp tư nhân, 3 doanh nghiệp đoàn thể, 6 công ty liên doanh, 216 công ty trách nhiệm hữu hạn, 4 hợp tác xã, 10 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và 3 doanh nghiệp hợp tác kinh doanh). Doanh nghiệp của tỉnh có 34 đơn vị, chiếm 8,1% tổng số doanh nghiệp hoạt động tại khu KTCK [56]. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): trong 4 năm từ năm 2001 - 2004, tỉnh đã cấp phép bổ sung cho 16 dự án với tổng số vốn đăng ký 15 triệu USD. Dự kiến hết năm 2005 đạt 21 dự án với tổng vốn ước đạt 21,5 triệu USD, tăng 35% so với năm 2000, trung bình tăng 17,8 %/ năm. Hiện nay, mới có 9 dự án, bằng 56,25% tổng số triển khai thực hiện song đã đóng góp cho ngân sách bình quân 4,3 tỷ đồng/ năm, tạo việc làm thường xuyên cho 520 lao động Việt Nam (416 lao động địa phương), với mức thu nhập bình quân 1 triệu đồng/tháng/lao động. - Về đầu tư cơ sở hạ tầng: Cơ bản đã hoàn thành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình thiết yếu, trọng điểm phục vụ phát triển khu KTCK. Theo đề án được phê duyệt thì tổng vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng khu KTCK Lào Cai là 4.500 tỷ đồng và phân ra làm hai giai đoạn: giai đoạn 2001 - 2005 là 550 tỷ đồng; giai đoạn 2006 - 2010 là 3.950 tỷ đồng. Trong đó phần vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho hạ tầng thiết yếu khu KTCK Lào Cai 900 tỷ đồng, chiếm 20% tổng số mức đầu tư được duyệt [47, tr. 64-65]. Đến hết năm 2004, tỉnh đã triển khai thực hiện 464 danh mục công trình với tổng vốn đầu tư trên 326 tỷ đồng. các công trình trọng điểm của khu KTCK Lào Cai đã được cấp vốn 217,6 tỷ đồng, đạt 77% dự toán được duyệt. Các hạng mục chính đã hoàn thành, gồm: Đền bù giải phóng mặt bằng khu thương mại Kim Thành, hai cụm công nghiệp Đông Phố Mới và Bắc Duyên Hải; hoàn thành, đưa vào sử dụng trạm kiểm soát liên ngành, bãi kiểm hóa giai đoạn I, ngoại thất Trung tâm quản lý cửa khẩu quốc tế Lào Cai; đã san tạo mặt bằng công nghiệp 174,7 ha; xây dựng 22,7 km đường giao thông nội bộ; đầu tư xây dựng kè sông biên giới với chiều dài 8.258 m... Dự kiến năm 2005, đầu tư 100 tỷ đồng cho 55 công trình (trong đó, 38,1 tỷ đồng cho 17 công trình quyết toán và hoàn thành năm 2004 chưa quyết toán, 28,5 tỷ đồng cho 29 công trình chuyển tiếp, 28,4 tỷ đồng cho 10 công trình khởi công mới, 5 tỷ đồng cho danh mục chuẩn bị đầu tư, thiết kế quy hoạch và đền bù giải phóng mặt bằng). 2.1.2. Hoạt động đối ngoại và xúc tiến thương mại Những năm qua, tỉnh Lào Cai hết sức chú trọng xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị với các địa phương của Trung Quốc, đặc biệt là đối với tỉnh Vân Nam. Nhờ đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế thương mại qua cửa khẩu Lào Cai, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động hợp tác giữa các lực lượng quản lý cửa khẩu, biên giới của hai bên. Tỉnh còn thường xuyên cử các đoàn đại biểu sang thăm, hội đàm với Vân Nam về các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội, xây dựng biên giới hòa bình, ổn định; cho phép các huyện, thị biên giới, các ngành cấp tỉnh chủ động quan hệ hợp tác các vấn đề hai tỉnh đã thỏa thuận (hợp tác tư pháp, hợp tác khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo, phát triển sản xuất lâm nghiệp, hợp tác quản lý cửa khẩu...). Các lực lượng quản lý cửa khẩu Lào Cai đã thực hiện chế độ giao ban định kỳ tháng, quý, liên lạc kịp thời với các lực lượng quản lý cửa khẩu Hà Khẩu - Trung Quốc để cùng trao đổi, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và thực hiện đúng quy định của mỗi nước, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động XNK qua khu KTCK. - Ngày 01/07/2004, tỉnh đã chính thức thực hiện kéo dài thời gian mở cửa khẩu tất cả các ngày trong tuần đối với cửa khẩu đường bộ từ 7h đến 22h, đối với cửa khẩu đường sắt: 24h/24h. - Hai tỉnh Lào Cai và Vân Nam thỏa thuận từ tháng 4/2003, xe chở khách bốn chỗ ngồi trở lên được phép vào thành phố Lào Cai, huyện Sa Pa, huyện Mường Khương của Lào Cai và huyện Hà Khẩu, huyện Bình Biên của Trung Quốc. Bắt đầu từ tháng 12- 2004, xê ô tô chở hàng hóa Việt Nam được vào các địa điểm thuộc địa phận hành chính châu Hồng Hà, còn xe của Trung Quốc được vào các địa phận hành chính của tỉnh Lào Cai để giao nhận hàng, giấy phép vận tải quốc tế được đi lại nhiều lần có giá trị tối đa 15 ngày. Hoạt động tuyên truyền, quảng bá về Lào Cai, xúc tiến thương mại của Lào Cai trong thời gian này cũng diễn ra hết sức sôi động, có chiều sâu và hiệu quả. Ngày 30-10- 2002 tại Hà Nội, tỉnh Lào Cai tổ chức hội nghị "Lào Cai cầu nối thị trường Tây Nam - Trung Quốc" đã thu hút được sự quan tâm của bạn bè, các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tỉnh tiến hành phối hợp với Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam xây dựng ngân hàng dữ liệu về thị trường Tây Nam - Trung Quốc đăng tải trên Website Lào Cai (WWW.Laocai.gov.vn) phục vụ xúc tiến thương mại, đầu tư. Phát hành đĩa CD về chính sách khuyến khích đầu tư kinh doanh vào Lào Cai bằng ba thứ tiếng Việt - Anh - Trung. Hàng năm tỉnh còn tổ chức hội chợ thương mại biên giới Việt - Trung nhằm giới thiệu, quảng bá sản phẩm hàng hóa, tạo cơ hội cho đối tác các bên gặp gỡ trao đổi, hợp tác và ký kết hợp đồng kinh tế. 2.1.3. Tổ chức quản lý, cải cách thủ tục hành chính và xây dựng cơ chế chính sách Tổ chức bộ máy được thành lập, kiện toàn và củng cố đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất tại khu KTCK. UBND tỉnh thành lập Ban quản lý khu KTCK thị xã Lào Cai theo Quyết định số 141/2001/QĐ-UB ngày 12-05-2001, do đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban, Giám đốc các Sở, Ban, Ngành, Chủ tịch UBND các huyện thị có liên quan là thành viên. Đến nay đã được kiện toàn thành Ban quản lý khu KTCK thành phố Lào Cai (Quyết định số 2/2004/QĐ-UB ngày 2-1-2004) với chức năng giúp đỡ phối hợp các tổ chức liên quan hoạt động, thống nhất quản lý hành chính nhà nước và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các chính sách ưu đãi áp dụng cho khu KTCK. Cũng trong năm 2004, tỉnh đã thành lập Ban quản lý Khu KTCK huyện Mường Khương, Ban quản lý Khu thương mại Kim Thành, Ban quản lý các cụm công nghiệp tỉnh Lào Cai để thuận tiện cho việc quản lý hoạt động, thu hút đầu tư. Tỉnh đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tiến hành rà soát để bổ sung, thay thế hàng loạt các quy định tạm thời tại khu vực KTCK như: Quy định quản lý xuất nhập cảnh; Quy định quản lý du lịch; Quy định về thu phí, lệ phí; Quy định về quản lý các hoạt động trong khu vực cửa khẩu quốc tế Lào Cai. Xây dựng cơ chế một cửa đối với các thủ tục cấp phép đầu tư, thành lập doanh nghiệp. Mọi thủ tục do Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện. Hàng năm UBND tỉnh, ngành Thuế, Hải quan mở các hội nghị đối thoại với các doanh nghiệp để trực tiếp tháo gỡ các vướng mắc trong công tác quản lý mà doanh nghiệp đưa ra. UBND tỉnh Lào Cai còn ban hành hàng loạt các cơ chế, chính sách ưu đãi thu hút đầu tư vào khu KTCK và kinh doanh XNK qua cửa khẩu Lào Cai: Chính sách về đấu giá quyền sử dụng đất; chính sách khuyến khích nhập hộ khẩu; chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp; cơ chế quản lý xuất nhập cảnh, du lịch được mở rộng. Đặc biệt, chính sách ưu đãi đầu tư vào bốn khu kinh tế trọng điểm ban hành kèm theo Quyết định 496/2002/QĐ-UB ngày 25/10/2002 của UBND tỉnh là cơ sở pháp lý quan trọng thu hút đầu tư, tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư. 2.1.4. Hoạt động xuất nhập khẩu và xuất nhập cảnh, du lịch - Về xuất nhập khẩu: Hoạt động XNK có bước phát triển vượt bậc, ngày càng đa dạng, phong phú và có tốc độ tăng trưởng cao. Khối lượng hàng hóa XNK mậu dịch tăng theo các năm: Năm 2004, khối lượng XNK mậu dịch đạt 1,8 triệu tấn (xuất khẩu 761 nghìn tấn, nhập khẩu 1,04 triệu tấn). Dự kiến năm 2005 khối lượng XNK mậu dịch đạt khoảng 2 triệu tấn (xuất khẩu 820 nghìn tấn, nhập khẩu 1,18 triệu tấn), tăng 383,3% so với năm 2000, tăng bình quân giai đoạn 2001 - 2005 là 31%/năm. Hàng hóa XNK qua các cửa khẩu Lào Cai đa dạng về chủng loại. Hàng hóa của Việt Nam xuất sang Trung Quốc đã hình thành một số mặt hàng chính gồm: Nhóm hàng nguyên liệu (quặng các loại, cao su nguyên liệu); Nhóm hàng nông sản (lạc nhân, sắn khô, hoa quả tươi); nhóm hàng thủy sản (cá mực, cá khô các loại, thủy sản đông lạnh); nhóm hàng tiêu dùng (dép các loại, bàn ghế nhựa, bột giặt, hàng thủ công mỹ nghệ...). Hàng nhập khẩu gồm: Phân bón và hóa chất các loại, kim loại thường, thạch cao, than cốc, giống cây trồng, rau quả tươi, nguyên phụ liệu sản xuất thuốc lá, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước... Từ khi triển khai thực hiện đề án phát triển khu KTCK, kim ngạch XNK và các loại hình XNK khác tăng lên nhanh chóng. Kim ngạch XNK năm 2004 đạt 320 triệu USD, dự kiến năm 2005 đạt 350 triệu USD, tăng 164,7 % so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 - 2005 là 21,5%/năm, tăng 8,7% so với mục tiêu đề án. Giá trị XNK do các doanh nghiệp trong tỉnh cũng đạt được mức tăng trưởng cao. Năm 2001, tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu là 20%, nhập khẩu là 185% so với năm 2000, năm 2002, con số tương ứng là 84% và 192%. Loại hình XNK qua cửa khẩu Lào Cai ngày càng đa dạng, phong phú. Ngoài XNK kinh doanh, các loại hình khác như quá cảnh, tạm nhập tái xuất, nhập đầu tư, nhập sản xuất hàng xuất khẩu... cũng phát triển mạnh. Năm 2001 chỉ có 49 triệu USD, đến năm 2004 là 111 triệu USD, tăng 126%. Điều này cho thấy, Khu KTCK Lào Cai ngày càng phát huy vai trò cầu nối trong giao lưu thương mại giữa hai tỉnh, hai nước. Bảng 2.1: Kim ngạch XNK khu KTCK Lào Cai giai đoạn năm 2001-2005 Chỉ tiêu đánh Đơn vị Năm giá tính 2000 2001 2002 2003 2004 Dự kiến 2005 Xuất nhập khẩu Tr.USD 132,2 209,9 254,6 290 320 350 Xuất khẩu Tr.USD 34,4 81,6 55,8 73,6 78 100 Nhập khẩu Tr.USD 97,8 128,3 198,8 216,4 242 250 Kim ngạch XNK địa phương Tr.USD 19,2 38,9 26,4 24,1 34 35 Khối lượng XNK Triệu tấn 0,42 0,51 0,76 1,2 1,8 2,03 Nguồn: [57]. - Về xuất nhập cảnh, du lịch: Người xuất nhập cảnh qua các cửa khẩu Lào Cai chủ yếu là dân cư biên giới qua lại buôn bán và khách du lịch. Năm 2004, số người xuất nhập cảnh qua biên giới là 1,3 triệu lượt người (khách du lịch: 416.000 người). Dự kiến năm 2005 là 1,6 triệu người, tăng 149,5% năm 2000, tăng bình quân giai đoạn 15,5%. Phương tiện xuất nhập cảnh hàng năm tăng, đặc biệt tăng nhanh trong năm 2004 và năm 2005, sau khi hai tỉnh Lào Cai và Vân Nam thống nhất thực hiện việc cho phép phương tiện ô tô của hai nước vận chuyển khách, hàng hóa đi sâu vào nội địa. Năm 2004 là 108.714 lượt chuyến, dự kiến năm 2005 là 154.200 lượt chuyến, tăng 997% so với năm 2000, bình quân tăng 60,05%/năm. Lào Cai có điểm du lịch Sa Pa, lại tiếp giáp với tỉnh Vân Nam - một trong những tỉnh có nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng của Trung Quốc cho nên lượng khách du lịch đến Lào Cai và du lịch Trung Quốc qua cửa khẩu quốc tế Lào Cai tăng lên nhanh chóng qua các năm: Năm 2004, tỉnh đón 380.000 lượt người, doanh thu 88 tỷ đồng. Dự kiến năm 2005 sẽ đón 480.000 lượt người, tăng 43,15% năm 2000, doanh thu là 105 tỷ đồng... Bảng 2.2: Chỉ tiêu XNC - Du l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh (2).pdf
Tài liệu liên quan