Luận văn Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương

Tài liệu Luận văn Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương: LUẬN VĂN: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bình Dương Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm vừa qua, FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội như: các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam, hội nhập với nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao động,... Tuy nhiên trong thời gian gần đây, báo chí và một số phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta đã nêu nhiều mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số ý kiến cho rằng: nguồn vốn FDI trong những năm qua đã tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng, khác...

pdf98 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1036 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bình Dương Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm vừa qua, FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội như: các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam, hội nhập với nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao động,... Tuy nhiên trong thời gian gần đây, báo chí và một số phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta đã nêu nhiều mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số ý kiến cho rằng: nguồn vốn FDI trong những năm qua đã tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng, khách sạn, du lịch và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, chưa có tỷ lệ thích đáng cho các ngành công nghệ cao và nông nghiệp. FDI đưa vào Việt Nam nhiều máy móc, thiết bị lạc hậu đã qua sử dụng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã xảy ra một số tranh chấp lao động mà biểu hiện là tình trạng ngược đãi công nhân, vi phạm nhân phẩm người lao động, cường độ làm việc quá căng thẳng... đã dẫn đến các cuộc đình công, bãi công. Cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn ở vị trí thứ yếu. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng... Không thể phủ nhận thành tựu đã đạt của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua, song nó đã tạo ra một số vấn đề không lành mạnh và cần khắc phục. Nhận thức đúng mức về những vấn đề nảy sinh để có phương hướng chỉ đạo tiếp là cực kỳ quan trọng nếu chúng ta muốn Việt Nam trở thành nơi thu hút ngày càng nhiều hơn vốn FDI. Trong tình hình đó, Bình Dương là một trong số tỉnh thành thu hút vốn đầu tư FDI nhiều nhất cả nước cũng không tránh khỏi những tác động tích cực và hạn chế của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để có căn cứ xây dựng và điều chỉnh chính sách thì việc nghiên cứu, đánh giá được những tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trong giai đoạn vừa qua là một việc làm hết sức cần thiết. Vì vậy, vấn đề: " Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bỡnh Dương " được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn nhằm đóng góp một phần nhỏ trong việc xây dựng quê hương Bình Dương trong thế kỷ 21. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề FDI, trên từng khía cạnh khác nhau đã có nhiều tác giả và các công trình nghiên cứu. ở Việt Nam, đã có: Luận án tiến sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế ở Việt Nam" của Mai Văn Lộc (1994). Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển kinh tế ở Đồng Nai - phương hướng và giải pháp" của Đỗ Thị Ngân Giang (2000). Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: Thực trạng và giải pháp", của Nguyễn Thanh Tịnh (2003). Luận văn cử nhân chính trị: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp" của Trương Đăng Hùng (2004). Đề tài cấp bộ, cấp cơ sở: "Những giải pháp kinh tế chính trị nhằm thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", Chủ nhiệm đề tài PTS. Nguyễn Khắc Thân, cơ quan chủ trì: Khoa Kinh tế chính trị (5/1994 - 5/1995). Báo cáo nghiên cứu của Dự án: "Nâng cao năng lực nghiên cứu chính sách để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001-2010" của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) với tiêu đề: "Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam". Các công trình khoa học nghiên cứu về FDI ở trên đã nghiên cứu các vấn đề: thu hút và sử dụng hiệu quả FDI ở Việt Nam và các địa phương, nhưng chưa có luận văn, luận án thạc sĩ nào nghiên cứu đến tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trên góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn * Mục tiêu luận văn: Nghiên cứu tác động FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương và trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trong quá trình hội nhập kinh tế. * Nhiệm vụ của luận văn: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Bình Dương nói riêng. - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương chỉ ra những tác động tích cực cần phát huy và tác động không lành mạnh của FDI cần khắc phục và nên tránh. Nguyên nhân của những tác động đó. - Trình bày các phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế những ảnh hưởng không lành mạnh của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm nhiều phương diện, luận văn này không nghiên cứu FDI nói chung với tất cả các mặt của nó mà chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương vì đó là yếu tố quyết định đến việc xây dựng, điều chỉnh chính sách thu hút FDI và tối đa hoá lợi ích mà FDI mang lại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài. - Sử dụng phương pháp biện chứng mác xít, kết hợp với các phương pháp: phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Trên cơ sở những luận cứ khoa học được xác lập, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương, từ đó làm nổi rõ sự cần thiết phải phát triển mạnh mẽ những tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội và phòng tránh những tác động tiêu cực. Sao cho nền kinh tế của Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung tăng trưởng nhanh và bền vững. Kiến giải có căn cứ lý luận và thực tiễn những phương hướng, giải pháp cơ bản phát triển những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tham mưu của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bình Dương và các cơ quan hữu trách, dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường học, cơ sở đào tạo có liên quan đến FDI trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội 1.1. FDI với phát triển kinh tế - xã hội 1.1.1. Khái niệm FDI và phát triển kinh tế - xã hội 1.1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) FDI (Foreign Direct Invertment) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp là: các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tuỳ thuộc theo quy định chung của Luật đầu tư từng nước. Ví dụ, Luật đầu tư của Việt Nam quy định "số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án", hay Luật đầu tư của nước Nam Tư trước đây quy định "phần của bên đối tác nước ngoài không dưới 5% tổng số vốn đầu tư" [51, tr.32-33]. Trong khi đó ở Hàn Quốc luật quy định tối đa bên phía nước ngoài góp 40% vốn pháp định. Quyền điều hành doanh nghiệp phụ thuộc độ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Nếu góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện dưới hình thức: đóng góp vốn để xây dựng xí nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang hoạt động, mua cổ phần để thôn tính hoặc sáp nhập. Đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước châu á để khai thác đồn điền và cùng với ngành khai thác đồn điền là những ngành khai thác khoáng sản nhằm cung cấp các nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có quy mô to lớn hơn. Trong thế kỷ 19, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Theo nhận định của Lênin, trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" thì việc xuất khẩu tư bản đã trở thành đặc trưng cơ bản của sự phát triển mới nhất về kinh tế trong thời kỳ "đế quốc chủ nghĩa". Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là: tư bản thừa xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Thông thường khi nền kinh tế ở các nước công nghiệp đã phát triển, việc đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản, vì lợi thế so sánh ở trong nước không như trước nữa. Để tăng cường lợi nhuận, các nhà tư bản ở các nước tiên tiến đã thực hiện xuất khẩu tư bản. Vì ở đó các chủ đầu tư nước ngoài khai thác những lợi thế của nước chủ nhà về: tài nguyên, lao động, thị trường... để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đối với các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia thì việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp thực hiện bành trướng, mở rộng thị phần và tối ưu hoá hạch toán doanh thu, chi phí lợi nhuận... thông qua hoạt động "chuyển giá". Giảm chi phí kinh doanh khi đặt trụ sở sản xuất, dịch vụ gần vùng nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ. Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi, vì xây dựng được cơ sở kinh doanh nằm "trong lòng" các nước thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch. Đầu tư trực tiếp cho phép các chủ đầu tư tham dự trực tiếp kiểm soát và điều hành doanh nghiệp mà họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho chủ đầu tư. Thông qua hoạt động trực tiếp đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài tham dự vào quá trình giám sát và đóng góp việc thực thi chính sách mở cửa kinh tế theo cam kết thương mại và đầu tư song phương và đa phương của các chủ nhà. Theo Lênin, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện việc bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin đưa ra chính sách "kinh tế mới" đã nói rằng: Những người cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản thông qua hình thức "chủ nghĩa tư bản nhà nước". Theo quan điểm này nhiều nước đã "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế như: khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. FDI giúp tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài. Nhờ đó FDI cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất, mặt nước... Sự cạnh tranh, ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước ngoài tạo động lực kích thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp và đâu là nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Các dự án FDI góp phần giải quyết việc làm và nâng cao mức sống của người lao động. Với những ưu điểm trên FDI giúp cho các nước tiếp nhận phát triển kinh tế nhanh hơn tự thân vận động hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển. Mặt khác, mức độ "bóc lột" của các nước tư bản còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế chính trị của các nước tiếp nhận đầu tư tư bản. Nếu như trước đây hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật của chính họ, thì ngày nay các nước nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập có chủ quyền, hoạt động đầu tư nước ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý của Chính phủ sở tại và thông lệ quốc tế, nếu các Chính phủ của nước chủ nhà không phạm phải những sai lầm của quản lý vĩ mô thì có thể hạn chế được những thiệt hại của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bảng 1.1: Lợi thế của doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp nước tiếp nhận đầu tư [58, tr.36] Lợi thế Mô tả Vốn Có vốn lớn và chi phí vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp trong nước Trình độ quản lý Có trình độ quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có khả năng dự báo và xác định rủi ro cũng như lợi nhuận tốt hơn Công nghệ Có công nghệ tiên tiến, có khả năng ứng dụng công nghệ vào sản xuất, có khả năng phát minh ra công nghệ mới và áp dụng trong sản xuất Marketting Có khả năng nghiên cứu thị trường, quảng cáo và phân phối sản phẩm Mua nguyên vật liệu Có những ưu đãi trong việc tìm kiếm và mua nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất Thoả thuận với Chính phủ Có khả năng đàm phán thoả thuận để được hưởng những ưu đãi từ phía Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư 1.1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội Phát triển là quá trình qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu đạt tới chỗ thoả mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa rộng, "xã hội" bao gồm cả các khía cạnh như "chính trị" và "phát triển con người". Nếu như trước đây nói đến thành quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, người ta chỉ tập trung vào tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế mà bỏ qua những yếu tố khác, thì ngày nay quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội được đề cập ở trên đã có những thay đổi căn bản. Bên cạnh yếu tố phát triển kinh tế nhanh và chất lượng, thì các vấn đề khác như phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đã trở thành những thành phần cơ bản của quá trình phát triển. Phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh bền vững và chất lượng cao đang dần trở thành một vấn đề có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược đối với tất cả các quốc gia. Công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ khi Đại hội VI của Đảng (12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước đến nay đã trải qua gần 20 năm. Một trong những nội dung đổi mới then chốt là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Kể từ sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu, đồng thời quan niệm về con đường phát triển của nước ta cũng từng bước được định hình ngày càng rõ nét. Đại hội VII của Đảng (6/1991) lần đầu tiên đã đưa ra công thức: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" [14]. Công thức này về sau được Đại hội VIII của Đảng (6/1996) điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN" [17]. Tiến lên một bước, Đại hội IX của Đảng (4/2001) đã điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN" và xem đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong mô hình này, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường với tư cách là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để năng động hoá và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Đồng thời, chúng ta đề cao vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [18]. Mô hình kinh tế tổng quát được xác định tạo cơ sở rất quan trọng cho sự hình thành những quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu liên hệ với ba trụ cột của phát triển bền vững là "tăng trưởng kinh tế nhanh", "xã hội ổn định, tiến bộ" và "môi trường trong sạch" thì có thể nhận thấy rằng những chủ trương được vạch ra trong các nghị quyết quan trọng của Đảng đều hướng tới phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội VI của Đảng khẳng định phải gắn kết chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem "trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế... Trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá và các sự nghiệp phúc lợi khác" [13, tr.86]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, chỉ rõ: "Phương hướng lớn nhất của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng bình đẳng về quyền lợi, về nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [14, tr.13]. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991 - 2000 được thông qua tại Đại hội VII của Đảng nêu rõ: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường" [15, tr.9]. Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1/1994) nhấn mạnh thêm: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển" [16, tr.47]. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định những nội dung cốt lõi có liên quan đến phát triển bền vững. Đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, được thông qua tại Đại hội IX, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên giữ gìn đa dạng sinh học" [18, tr.162]. Theo những chủ trương nêu trên, các cơ quan chức năng và các chủ thể có liên quan đã hoạch định và thực thi các thể chế, chính sách nhằm từng bước thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Ngày 17 tháng 8 năm 2004, Chính phủ đã ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở để các Bộ, các địa phương, các tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện. Cho đến nay, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào đời sống và dần dần trở thành xu thế phát triển tất yếu của đất nước. Điều này phần nào cho thấy quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững và chất lượng cao ở nước ta từng bước trở nên sáng rõ hơn. Công cuộc tổng kết thực tiễn của nước ta, phân tích kinh nghiệm trên thế giới và nghiên cứu lý luận bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống luận điểm và đường lối phát triển đất nước vừa có ý nghĩa cơ bản vừa có tính thời sự cấp bách. Cùng với những cố gắng của Hội đồng lý luận Trung ương, gần đây một số nhà nghiên cứu đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Bảng 1.2: Một số tiêu chí chủ yếu đánh giá tốc độ, tính chất bền vững và chất lượng của sự phát triển kinh tế - xã hội [1, tr.76-77] Tiêu chí ý nghĩa * Phát triển - Tốc độ tăng GDP (hay GNP)  Mức độ tăng về quy mô của nền kinh tế. - Cơ cấu ngành  Trình độ phát triển - GDP bình quân đầu người  Phản ánh chất lượng của tăng trưởng và phát triển. - Năng suất lao động (GDP/LĐ)  Phản ánh chất lượng của tăng trưởng và phát triển. - Xuất, nhập khẩu/ GDP Độ mở cửa nền kinh tế - Tỷ trọng GDP ngành phi nông nghiệp trong nền kinh tế Đánh giá mức độ công nghiệp hoá. - Tỷ lệ ngành dịch vụ/ sản xuất Đánh giá độ hài hoà của sự phát triển. - Tỷ lệ GDP ngành dịch vụ/ dân số Mức độ hưởng thụ các sản phẩm dịch vụ của dân cư. - Hệ số GINI Đo mức độ chênh lệch giữa các nhóm dân cư theo thu nhập - Tỷ lệ đầu tư cho chi phí sản xuất trong tổng đầu tư. Đánh giá mức độ đầu tư cho công nghiệp hoá. * An sinh xã hội - HDI Chỉ số phát triển con người liên quan đến ba mặt: thu nhập, kiến thức và tuổi thọ. - HPI Chỉ số đánh giá mức độ nghèo đói * Báo đảm môi trường - Chất lượng môi trường: - Tỷ lệ CO2, CO, SO2, chì trong không khí. - Hệ số mất đất, độ che phủ rừng. Tình hình ô nhiễm không khí, nước, đất, rừng và đa dạng sinh học. - Đầu tư cho BVMT/ tổng đầu tư. Mức độ tái tạo, bảo vệ môi trường. Những trình bày trên đây đã phần nào thể hiện sự tiến triển về quan niệm phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao ở Việt Nam trong thời kỳ 20 năm đổi mới vừa qua. 1.1.2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước về FDI trong phát triển kinh tế - xã hội Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của đầu tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng đã có nhiều thay đổi. Những thay đổi này xuất phát từ thực tiễn của nền kinh tế và do thay đổi về bối cảnh kinh tế trong khu vực và thế giới. Nếu như trước năm 2000, các doanh nghiệp FDI chưa được coi như một chủ thể độc lập trong nền kinh tế thì từ Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) trở lại đây, khu vực FDI đã được khẳng định là một trong các thành phần cùng tồn tại trong nền kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), tuy không tách riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một "thành phần kinh tế" trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, song đã ghi nhận sự hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài, khẳng định khu vực đầu tư nước ngoài: "có vai trò to lớn trong động viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý..." [17]. Với quan điểm như vậy, chính sách đối với khu vực có vốn FDI trong thời kỳ này chủ yếu hướng vào việc khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, trừ những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân và an ninh quốc phòng. Năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được công nhận là một thành phần kinh tế với vai trò "hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm..." [18]. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (khoá IX), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ "phải tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài" [19]. Theo đó, chính sách thu hút FDI trong thời gian tới sẽ tập trung vào nâng cao chất lượng FDI vào Việt Nam thông qua việc thu hút mạnh hơn nữa các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Thay đổi trong nhận thức và quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là cơ sở quan trọng để Chính phủ sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật về cơ chế chính sách thu hút vốn FDI đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong những năm gần đây. Đảng và Nhà nước có những quan điểm về nâng cao hiệu quả và tăng thu hút vốn FDI để phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới: Một là, phải biến những yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh. Khi nói về việc tranh thủ sự viện trợ quốc tế, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: "Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta, nhân dân và cán bộ ta chớ nên ỷ lại, mà phải tự lực tự cường" [43, tr.289]. Muốn vậy phải có các chủ trương chính sách sao cho việc thu hút vốn nước ngoài góp phần hình thành một nền kinh tế phát triển có hiệu quả. Việc nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và vốn đầu tư nước ngoài phải góp phần khơi dậy và phát huy nội lực. Trên cơ sở phát huy nội lực mà thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Hai là, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các đối tác nước ngoài và trong nước. Các nhà đầu tư đưa vốn vào nước ta tất nhiên phải thu nhiều lợi nhuận hoặc tìm nguyên liệu quý hiếm. Để khuyến khích họ yên tâm và hăng hái kinh doanh không những cần phải đảm bảo quyền lợi sở hữu hợp pháp của họ mà còn phải có những ưu đãi để họ thu được lợi nhuận thoả đáng thậm chí lợi nhuận cao, nhưng phải là lợi nhuận từ phát triển kinh doanh, nâng cao năng suất lao động và cạnh tranh lành mạnh chứ không phải từ việc lợi dụng thế yếu của các đối tác trong nước và kể cả sở hữu của luật pháp. Về phía chúng ta, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng phải đưa lại hiệu quả, thể hiện ở chỗ: - Góp phần khai thác các nguồn lực trong nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, tăng thu ngân sách nhà nước. - Tăng việc làm, tăng trình độ lành nghề và tăng thu nhập của công nhân. - Tiếp thu được những bí quyết về công nghệ, về kinh doanh, kinh nghiệm quản lý để trong tương lai cán bộ và công nhân ta có thể tự vận hành những doanh nghiệp mới. - Tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế, tạo ra việc làm, tăng thu nhập của công nhân, tăng thu ngân sách... Chưa hẳn đã có tiến bộ và công bằng xã hội. Cần nhận thức rằng sự ra đời của các khu công nghiệp gắn với quá trình hình thành các đô thị, các thị trấn. Việc quản lý đô thị khác với quản lý nông thôn, đòi hỏi cao hơn về kết cấu hạ tầng, về bảo vệ môi trường, an ninh, về các loại dịch vụ, nhất là dịch vụ công cộng... Không chỉ là tổ chức và quản lý những khu dân cư mới mà quan trọng hơn phải có chương trình xây dựng một đội ngũ công nhân mới mà đa số vừa xuất thân từ nông dân, từ học sinh hay những người lao động tự do, làm cho họ không chỉ nâng cao về tay nghề mà cả về ý thức chính trị, lập trường giai cấp công nhân, về lối sống nhân văn, hiện đại; phòng ngừa và ngăn chặn các tệ nạn xã hội; xây dựng quan hệ chủ thợ lành mạnh, đảm bảo lợi ích chính đáng của cả hai bên. 1.2. Mối quan hệ giữa FDI với phát triển kinh tế - xã hội 1.2.1. Những ảnh hưởng tích cực của FDI đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam Đầu tư quốc tế được thực hiện ở Việt Nam dưới hai hình thức cơ bản: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tín dụng quốc tế chủ yếu thực hiện qua thu hút vốn ODA. 18 năm qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời ở Việt Nam (12/1987 - 12/2005) hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội thể hiện qua các mặt: Thứ nhất, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế: Vốn FDI có bước chuyển tích cực, tổng mức vốn đăng ký đạt 20,9 tỷ USD. Vượt trên 39% so với kế hoạch; tổng vốn thực hiện 14,3 tỷ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Năm 2005, các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 50% nếu tính cả dầu khí), đóng góp gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước (tính cả dầu khí thì trên 36%), tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp [20, tr.152-153]. Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31%, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 15,5% trong tổng đầu tư toàn xã hội (xem sơ đồ 1.1). Tính đến ngày 20 tháng 3 năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép cho 5.400 dự án đầu tư nước ngoài. Trừ các dự án hết thời hạn hoạt động hoặc bị giải thể trước thời hạn, hiện còn 4.376 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 41 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư này, tạo ra lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế: Các dự án đầu tư nước ngoài hiện chiếm 35% giá trị sản lượng công nghiệp của Việt Nam, cụ thể: khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 100% các dự án khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ô tô; sản xuất máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ; thiết bị văn phòng máy tính. Các dự án đầu tư nước ngoài chiếm 60% sản lượng thép cán; 55% sản xuất sợi các loại phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may; 49% sản lượng sản xuất da và giày dép; 76% dụng cụ y tế chính xác; 35% sản xuất máy móc thiết bị điện; 28% tổng sản lượng xi măng; 29% về thực phẩm và đồ uống... Sơ đồ 1.1: FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP (giá hiện hành) [55] 1 7 2 3 2 6 3 1 3 0 .4 2 6 2 8 2 0 . 8 2 2 .6 1 6 .3 1 7 . 51 7 . 61 8 1 7 .3 1 5 .5 1 3 .8 1 3 . 3 1 2 . 2 1 0 9 .1 6 . 36 .46 .1 1 4 . 5 1 5 .2 7 . 4 0 5 1 0 1 5 2 0 2 5 3 0 3 5 1 9 9 1 1 9 9 2 1 9 9 3 1 9 9 4 1 9 9 5 1 9 9 6 1 9 9 7 1 9 9 8 1 9 9 9 2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3 2 0 0 4 % s o v í i t æn g ®Çu t ­ x · h é i % ®ã n g g ã p t r o n g G D P Đầu tư nước ngoài là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế: Thời kỳ 1991 - 1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư xã hội; thời kỳ 1996 - 2000 số vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,8 lần so với giai đoạn trước đó, chiếm 24% tổng vốn đầu tư xã hội. Riêng trong hai năm 2001, 2002 vốn đầu tư nước ngoài chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư xây dựng. Thứ hai, các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng thu ngân sách, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia: Với hàng ngàn dự án đang hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng GDP của Việt Nam. Năm 1993 chiếm 3,3%; năm 1995 chiếm 6,3%; năm 1998 chiếm 10,1%. Từ năm 2000 đến năm 2004 mỗi năm đều chiếm trên 13% của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì giai đoạn 1996 - 2000 thu từ khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 6-7% nguồn thu ngân sách quốc (nếu kể cả ngành dầu khí thì chiếm gần 20% thu ngân sách). Bảng 1.3: Đóng góp của các dự án FDI đối với phát triển kinh tế Việt Nam [51, tr.27] FDI 89- 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 200 0 200 1 200 2 200 3 200 4 Tỷ trọng trong GDP (%) 1,0 1,5 2,0 3,6 6,1 6,3 7,4 9,1 10, 0 11, 8 12, 7 13, 1 13, 9 14, 3 14, 5 Ngoài ra, với hoạt động xuất khẩu các dự án đầu tư FDI góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại của Việt Nam: không kể dầu khí thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài thời kỳ 1991 - 1995 đạt trên 1,12 tỷ USD; thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD; năm 2001 đạt 3,67 tỷ USD; năm 2002: 4,5 tỷ USD (xem bảng 1.4). Nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng do các dự án FDI thực hiện: xuất khẩu dầu thô 10%; giày dép 42%; hàng dệt may 25%; 84% hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện. Tỷ trọng trị giá hàng xuất khẩu so với doanh thu của các dự án FDI tăng nhanh 30% ở thời kỳ 1991 - 1995 lên 48% thời kỳ 196-2000 và đạt 50% vào năm 2002; trên 50% năm 2003 [51, tr.27]. Bảng 1.4: Tình hình xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) [51, tr.28] Đơn vị tính: triệu USD FDI 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 2004 Xuất khẩu 52 112 260 352 336 788 1.790 1.982 2.547 3.300 3.670 4.500 5.900 8.600 XK so với doanh thu (%) 34,4 49,1 533 34,3 16,3 28,7 46,9 50,7 55,4 53,5 48,1 50 79 132 Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng CNH, HĐH. ở những năm 1988-1995 đầu tư nước ngoài chủ yếu thực hiện trong các ngành bất động sản: Xây dựng khách sạn, khu nghỉ mát, khu chế xuất, văn phòng cho thuê... thì thời kỳ 1996-2003 đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện nhiều hơn vào các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ: chiếm 53% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện, các dự án đầu tư vào dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ kỹ thuật tăng 1,4 lần ở thời kỳ này [24]. Hiện đầu tư nước ngoài chiếm gần 38% sản lượng công nghiệp của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 20%. Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu chế xuất và khu công nghiệp ở Việt Nam. Thứ tư, các dự án đầu tư nước ngoài đóng góp quan trọng trong nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam. Thông qua các dự án đầu tư FDI nhiều công nghệ mới, hiện đại đã đưa vào sử dụng ở Việt Nam trong các ngành tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, ngành bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hoá chất, sản xuất ô tô, thiết kế phần mềm... Những dự án này đóng góp đáng kể để tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (xem bảng 1.5). Bảng 1.5: Mức độ hiện đại của máy móc thiết bị sử dụng trong các khu vực kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh so với tiêu chuẩn quốc tế (năm 1999) [51, tr.29] Khu vực Tỷ lệ những thiết bị hiện đại (modern) Mức độ hiện đại trung bình (so với thiết bị hiện đại nhất) Khoảng cách trung bình (so với những thiết bị hiện đại (Moderate) nhất) (obsolete) Công cộng 11,4 53,1 35,5 Các công ty Trung ương 10,6 60,6 28,8 Các công ty địa phương 11,9 48,6 39,5 Không phải công cộng 6,7 27 66 Công ty tư nhân 20 30 50 Kinh tế gia đình 3,6 22,8 73,6 Công ty đầu tư nước ngoài 44,4 55,6 0,0 Ngoài ra, sự sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại ở các dự án FDI, cũng tạo ra sự kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu tư đổi mới công nghệ để tạo được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Các mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới tư duy quản lý kinh doanh và công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh. Thứ năm, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới. Cho đến hết năm 2003 đã có 74 quốc gia và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có trên 80 công ty xuyên quốc gia nằm trong 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, chính những dự án này có tác động không nhỏ tới thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế chúng tác động đến xoá bỏ sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam gia nhập ASEAN, ký kết trên 100 hiệp định song phương và đa phương trong đó có hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Ngoài ra trên 50% trị giá sản phẩm của các dự án đầu tư nước ngoài được xuất khẩu ra thị trường thế giới góp phần nâng cao thị phần sản phẩm và uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thứ sáu, đầu tư nước ngoài góp phần giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao mức sống cho người lao động. Số lao động làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng (xem bảng 1.6). Một số lượng đáng kể các nhà quản lý kinh doanh và người lao động được đào tạo trong và ngoài nước góp phần làm cho chất lượng lao động tăng lên, đây là nhân tố quan trọng góp phần làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngoài ra, các dự án FDI thông qua lương mang lại thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện đời sống. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2003: lương bình quân của công nhân trong các dự án đầu tư nước ngoài là 76-80 USD/tháng; của kỹ sư: 220-250 USD/tháng, của cán bộ quản lý khoảng 490-510 USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động của các dự án FDI hàng năm trên 500 triệu USD, đây là nhân tố góp phần tăng sức mua cho thị trường xã hội. Bảng 1.6: Số lượng việc làm cho khu vực FDI tạo ra [51, tr.30] ĐVT: 1000 người FDI 91- 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 2004 Giải quyết việc làm 200 220 250 279 296 349 450 590 665 739 Tóm lại, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cho nên Chính phủ cần quan tâm đến hoàn thiện môi trường đầu tư để tăng tính hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư FDI. Đạt được những kết quả tích cực trong thu hút và sử dụng vốn FDI. Xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau: Nước ta duy trì ổn định chính trị, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, chủ động hội nhập, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Ngoài ra, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dung lượng thị trường trong nước lớn (khoảng 80 triệu dân) cũng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế. Môi trường đầu tư từng bước được cải thiện. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư nước ngoài dần được hoàn thiện đã tạo khuôn khổ pháp lý rõ ràng và thông thoáng cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài như: công tác điều hành của Chính phủ các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động trong việc thực hiện lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện cải cách hành chính và tháo gỡ các khó khăn cho việc triển khai dự án, công tác vận động xúc tiến đầu tư cũng được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp. Đặc biệt nhiều chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở nhiều quốc gia đã gắn với việc quảng bá hình ảnh Việt Nam và vận động xúc tiến đầu tư - thương mại. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những năm qua bộc lộ những mặt hạn chế cần khắc phục. 1.2.2. Những hạn chế của FDI trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam Qua 18 năm (1987 - 2005) thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, nước ta đã thu được những thành tựu quan trọng trong thu hút FDI phục vụ công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước. FDI đã góp phần xứng đáng vào việc tạo nên những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian qua. Mặc dù vậy, trong lĩnh vực này vẫn còn không ít vấn đề đặt ra. Những hạn chế, cản trở đang làm kém sự hấp dẫn và hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, đó là: 1.2.2.1. Về phía Việt Nam Thứ nhất, môi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đó là về các lĩnh vực như: luật pháp, cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng, buôn lậu, hàng giả, hàng nhái, hệ thống công nghiệp hỗ trợ... Về pháp luật, cơ chế chính sách, mặc dù trong những năm qua luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã được sửa đổi nhiều theo hướng ngày thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư nước ngoài nhưng không ít nhà đầu tư vẫn còn băn khoăn, than phiền về tình trạng thiếu tính hệ thống, ổn định, minh bạch và khả thi của luật pháp. Bộ máy hành chính - tổ chức quản lý của ta còn rườm rà, nhiều khi chồng chéo nhau. Trong khi đó, sự hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương còn kém hiệu quả, thủ tục đầu tư, đặc biệt là thủ tục triển khai dự án vẫn còn phức tạp. Nhiều chuyên gia về đầu tư nước ngoài vẫn chưa hài lòng về môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Theo điều tra của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản năm 2003 thì 42% doanh nghiệp Nhật Bản được hỏi đều trả lời rằng, khó khăn nhất của họ tại Việt Nam là thủ tục hành chính, trong khi đó con số này ở Thái Lan là 12%, Inđônêxia là 22% [25]. Cơ sở hạ tầng (đường sá, cầu cống...) còn yếu kém, ô nhiễm môi trường (do bụi, khói xe, nước thải, rác công nghiệp...). Tình trạng tắc đường giao thông; nhà ở cho công nhân còn thiếu thốn và trở thành vấn đề bức xúc hiện nay, nhất là ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương - những nơi thu hút nhiều dự án đầu tư mà công nhân phần lớn từ tỉnh ngoài về làm việc, không có nhà ở... đang gây trở ngại trong việc thu hút và triển khai các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hệ thống công nghiệp hỗ trợ của ta còn yếu, làm cho chi phí kinh doanh cao. Đây là một trong những nguyên nhân làm kém sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta. Nạn buôn lậu, hàng hoá, hàng nhái ở nước ta còn phổ biến trong khi chúng ta chưa có những biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Hàng lậu, hàng giả, hàng nhái với giá rẻ tràn ngập thị trường không những có hại đến sức khoẻ nhân dân, đến tâm lý nhà sản xuất và người tiêu dùng, đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội mà còn làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài khi họ có ý định đầu tư vào sản xuất một sản phẩm nào đó. Hơn nữa, cho đến nay, Việt Nam chưa tham gia vào WTO nên không được hưởng những quy chế ưu đãi của tổ chức này về đầu tư và thương mại sẽ góp phần làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Thứ hai, về nguồn nhân lực. Có thể nói hiện nay nước ta đang thiếu một đội ngũ lao động có trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đầu tư nước ngoài cũng như để cạnh tranh với các nước trong khu vực. Điều đó đã hạn chế việc tiếp thu kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Đây là yếu tố bảo đảm sự bền vững lâu dài trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng và sự nghiệp CNH, HĐH của nước ta nói chung. Thêm vào đó, trình độ của một bộ phận cán bộ ta tham gia quản lý liên doanh còn nhiều yếu kém, chưa có nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực này, lại mắc tệ tham ô, hối lộ đã phần nào làm nản lòng các nhà đầu tư cũng như góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Thứ ba, thiếu một quy hoạch dài hạn về tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Thiếu quy hoạch sẽ khó tránh khỏi đầu tư dàn trải, trùng lắp và để lại những hậu quả khó khắc phục về sau. Hiện nay, có thể nói, có một phong trào là các tỉnh, địa phương đang "trải thảm đỏ" kêu gọi đầu tư nước ngoài. Để thu hút đầu tư nước ngoài, một số địa phương đã vượt quá thẩm quyền của mình, ưu đãi quá mức nhà đầu tư, làm tổn hại tới quyền lợi của địa phương và đất nước, làm rối môi trường đầu tư chung của cả nước đưa đến tình trạng chồng chéo nhau, dàn trải trong việc tiếp nhận các dự án và các địa phương không bổ sung được cho nhau. Thứ tư, cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Việt Nam với các nước trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nhiều nước nhất là những nước gần nước ta như: Trung Quốc, các nước thành viên ASEAN khác đang là đối thủ cạnh tranh với Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt này, Trung Quốc, nhiều nước thành viên ASEAN một mặt có những thế mạnh tương tự như nước ta (lao động dồi dào với giá nhân công rẻ, tài nguyên phong phú...), mặt khác, có ưu thế hơn hẳn ta (về cơ sở hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ, kinh nghiệm trong việc quảng bá, kêu gọi đầu tư). Thứ năm, tình trạng mất đất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng cùng với quá trình đẩy mạnh xây dựng các dự án đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Để thu hút đầu tư, nhiều vùng đất nông nghiệp trồng lúa tốt, thuận tiện giao thông được phép san lấp để xây dựng các nhà máy, xí nghiệp. Hậu quả của điều này là đất nông nghiệp bị giảm nghiêm trọng, nhất là những vùng đất màu mỡ, có nguy cơ đe doạ đến an ninh lương thực của đất nước và một bộ phận lớn nông dân bị mất việc làm, phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực xã hội. Thứ sáu, việc quảng bá, giới thiệu về môi trường, tiềm năng đầu tư của Việt Nam với nước ngoài. Đây là một công việc rất cần thiết để các doanh nghiệp nước ngoài hiểu về tiềm năng, môi trường đầu tư của nước ta từ đó có thể thu hút đầu tư từ họ nhưng vấn đề này trong thời gian qua chưa được chúng ta chú ý đúng mức làm giảm đi phần nào sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ông Oliver Schnakenberg - Tham tán Đại sứ quán Đức tại Việt Nam nói: Với sự thiếu hụt này, Việt Nam đã đánh mất cơ hội tự giới thiệu mình với các nhà đầu tư. 1.2.2.2. Về phía các nhà đầu tư vào Việt Nam Thứ nhất, hiệu quả của hoạt động đầu tư chưa cao. Thể hiện trước hết của điều này là vẫn còn khá phổ biến hiện tượng rút giấy phép, huỷ bỏ hợp đồng đầu tư, kinh doanh thua lỗ. Tình trạng rút giấy phép còn khá phổ biến. Trong ba năm 1988-1990, số dự án FDI bị rút giấy phép bình quân 2 dự án/ năm; giai đoạn 1991-1995, con số này tăng lên bình quân 47 dự án/ năm; giai đoạn 1996-2000 là 80 dự án/năm; giai đoạn 2001-2002 tăng lên đến 95 dự án/ năm. Đi liền với sự tăng lên của số dự án bị rút giấy phép, số vốn đầu tư bị rút xuống cũng tăng lên qua từng giai đoạn. Tổng số vốn bị rút giấy phép trong giai đoạn 1988 - 2002 là 10 tỷ USD. Năm 2003, tại thành phố Hồ Chí Minh, có khoảng 80% số dự án đăng ký bị giải thể hoặc rút giấy phép, con số này ở Hà Nội là khoảng 30%. Nguyên nhân chính của tình hình này có thể do môi trường đầu tư của Việt Nam còn những hạn chế như đã nêu ở trên. Về kinh doanh thua lỗ: Từ năm 1988 đến năm 2003, có 888 dự án bị giải thể trước thời hạn, trong đó, hầu hết là các dự án kinh doanh thua lỗ. Còn nữa, tính đến hết năm 2002, trong số 2.250 dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã kết thúc giai đoạn xây dựng cơ bản đang đi vào sản xuất kinh doanh thì có 536 dự án có lãi (chiếm 29%) với tổng số lãi khoảng 8.500 triệu USD, còn lại là dự án thua lỗ (1.714 dự án, chiếm 76% dự án) với tổng số tiền lỗ là 6.426 triệu USD. Thiết nghĩ đây là một câu hỏi đặt ra và phải có câu trả lời cùng biện pháp khắc phục đối với các nhà quản lý, nghiên cứu Việt Nam [25]. Thứ hai, vấn đề chuyển giao công nghệ thông qua dự án đầu tư thông qua các dự án đầu tư chuyển giao công nghệ nước ta có thể hiện đại hoá nền công nghệ - kỹ thuật nước mình. Tuy nhiên, trong những năm qua, vẫn còn những hiện tượng nhập, chuyển giao vào nước ta những công nghệ đã mất tính cạnh tranh không những gây ô nhiễm môi trường, nguy cơ biến nước ta thành "bãi rác thải công nghiệp". Thứ ba, về vấn đề chuyển mục đích đầu tư, trong thời gian qua, có hiện tượng nước ngoài trong công ty liên doanh đã cố tình hoạt động thua lỗ làm cho phía Việt Nam do đóng góp ít vốn, không theo được buộc phải để cho công ty liên doanh biến thành công ty có 100% vốn nước ngoài vào Việt Nam mà chúng ta phải có những biện pháp để hạn chế tình trạng này nếu không lần lượt sẽ có nhiều công ty liên doanh biến thành công ty có 100% vốn nước ngoài. Thứ tư, vẫn thường xảy ra những xung đột giữa chủ và thợ trong một số xí nghiệp, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, như công ty của Hàn Quốc, Đài Loan... Nguyên nhân của tình hình này có thể do hai bên chưa hiểu về phong tục tập quán, ngôn ngữ... của nhau hoặc do một số chủ đầu tư chưa giải quyết tốt chế độ cho người lao động Việt Nam [25]. 1.2.2.3. Về an ninh kinh tế Đứng trên góc độ an ninh kinh tế, chúng ta thấy xuất hiện những vấn đề cần được quan tâm khi tiếp nhận FDI vào Việt Nam. Thứ nhất, về công nghệ thiết bị và giá thành. Mặc dù công nghệ nhập không còn là bí quyết nhưng nhiều chủ đầu tư nước ngoài khi đàm phán vẫn ép buộc bên Việt Nam phải chấp nhận hợp đồng chuyển giao công nghệ và đi kèm theo đó là phí chuyển giao công nghệ (chiếm 2-5% doanh thu dự án trong thời gian 5-7 năm), có dự án bên nước ngoài đòi hưởng tới 8% tiền bán sản phẩm trong thời hạn 20 - 30 năm. Khoảng 10% dự án đầu tư (qua kiểm tra) có công nghệ lạc hậu hoặc quá lạc hậu. Nguy hiểm hơn là có dự án sản xuất thuốc trừ sâu cực kỳ độc hại, nhiều nước đã có luật cấm sản xuất ta lại nhập về và triển khai ở nhiều địa phương như công nghệ tạo bột ABS từ Alkysbenzen là chất dễ gây bệnh ung thư, ở nước ta đã có quy định cấm từ lâu song họ vẫn nhập vào. Điểm quan trọng là do khâu giám định thiết bị và công nghệ nhập khẩu của ta còn yếu kém nên đã để xảy ra tình trạng đối tác nước ngoài nâng giá thiết bị, nhập vào thiết bị cũ do các nước phát triển thải loại. Kết quả giám định thí điểm 14 dự án liên doanh do công ty giám định quốc tế SGS (Thuỵ Sĩ) cho biết: có tới 8 liên doanh, chủ đầu tư đã báo cáo giá thiết bị nhập khẩu cao hơn 10-20% so với giá giám định. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho nhà nước Việt Nam cũng như cho đối tác Việt Nam tham gia liên doanh [57]. Thứ hai, về tình trạng lừa đảo và trốn lậu thuế. Theo thống kê trong 3 năm 1993- 1995 đã có 66 vụ tội phạm kinh tế trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài làm thiệt hại 8.616 triệu USD và 11,636 tỷ VNĐ trong đó tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công ty liên doanh. xảy ra phổ biến và nghiêm trọng nhất (chiếm 86% số vụ và 75% số tài sản thiệt hại). Loại tội phạm thứ hai thường xảy ra ở các công ty liên doanh là kinh doanh trái phép và trốn lậu thuế. Trong số 61 vụ được phát hiện cho thấy các chủ đầu tư nước ngoài trốn thuế 93,9 tỷ đồng. Về buôn lậu hàng hoá, phát hiện 38 vụ trị giá 8,9 triệu USD và 22 tỷ VNĐ. Ngoài ra ở các công ty liên doanh còn xảy ra một số vụ tội phạm khác như cố ý làm trái pháp luật, tham ô, trộm cắp, làm hàng giả. Một số chủ đầu tư lợi dụng danh nghĩa các tổ chức, công ty nước ngoài đến Việt Nam tìm kiếm đối tác, hứa hẹn đầu tư nhưng thực chất chỉ là những đối tượng môi giới lừa đảo, nếu ký được dự án đầu tư thì họ cũng đem bán giấy phép để hưởng hoa hồng. Một số khác khi kiếm được giấy phép đã chủ động đóng góp trước một số ngoại tệ, máy móc cũ, lạc hậu để lấy lòng tin, sau đó đi lừa đảo đối tác Việt Nam. Trong số 57 vụ lừa đảo thì có 49 vụ phía nước ngoài lừa người Việt Nam [57]. Thứ ba, về môi trường đa số các dự án chưa quán triệt việc thực thi luật bảo vệ môi trường. Nhiều dự án tiến hành xây dựng mà không thông qua thẩm định, đánh giá, tác động môi trường; thậm chí nhà máy đã xây dựng xong, đi vào hoạt động vẫn không có công trình xử lý chất thải. Đặc biệt, một số nơi tình trạng gây ô nhiễm môi trường đã tới mức báo động như một số xí nghiệp công ty có vốn FDI xả nước thải ra sông, kênh rạch gây chết cá, cây trồng làm thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhân dân vùng ven các xí nghiệp, công ty đó, khiến cho chính quyền địa phương phải can thiệp. Thứ tư, về quan hệ lao động, thời gian qua, xu hướng phản ứng của tập thể lao động ngày càng tăng cả về số vụ và quy mô. Từ năm 1994 đến nay có nhiều vụ thu hút cả tập thể lao động của doanh nghiệp cùng tham gia. Số người tham gia từ vài chục đã lên đến hàng nghìn người. Cần phải xác định rằng mâu thuẫn chính trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay là mâu thuẫn giữa hai đối tượng làm thuê là người lao động Việt Nam và cán bộ quản lý người nước ngoài. Mục tiêu của các vụ phản ứng chủ yếu xoay quanh vấn đề tiền lương, tiền thưởng. Một số ít vụ phản ứng xảy ra do nguyên nhân người lao động bị đối xử thô bạo, bị xúc phạm nhân phẩm, danh dự... Nhìn chung, trong các xí nghiệp có vốn đầu tư FDI mới có khoảng 30% xí nghiệp ký hợp đồng với người lao động nhưng phần lớn nội dung còn sơ sài hoặc chưa phù hợp với quy chế ban hành. Hoạt động của các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên chưa được chú trọng đúng mức. Tình trạng khá phổ biến là chủ đầu tư nước ngoài thực hiện không nghiêm túc quy định về "mức lương tối thiểu" cố tình vận dụng sai để làm giảm tiền lương công nhân. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây ra tranh chấp lao động ở những năm gần đây. Bản chất của nhà tư bản là tìm kiếm lợi nhuận "càng nhiều càng tốt". Sự bóc lột sức lao động của người làm thuê ngày nay không trắng trợn như những thập kỷ đầu thế kỷ XX mà nó tinh vi hơn, khôn khéo hơn bởi vì "nhân quyền" ngày nay là một vấn đề quốc tế. 1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong việc khai thác FDI để phát triển kinh tế - xã hội 1.3.1. Kinh nghiệm khai thác FDI của Thành phố Hồ Chí Minh Năm 1988 đến năm 2003 hoạt động FDI ở Thành phố Hồ Chí Minh đã trải qua 4 trạng thái khác nhau: Từ năm 1988 đến 1990 là 3 năm khởi đầu FDI chưa có tác dụng rõ rệt đến tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Cả ba năm cộng lại chỉ có 0,67 tỷ USD vốn đăng ký còn vốn thực hiện gần 0,5 tỷ USD. Từ năm 1991 đến 1997 là thời kỳ tăng trưởng nhanh và góp phần ngày càng quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn này đã thu hút gần 10 tỷ USD vốn đăng ký và trên 4 tỷ USD vốn thực hiện. Từ năm 1998 đến năm 2000 là thời kỳ suy thoái của FDI, vốn đăng ký bắt đầu giảm từ 1998 và giảm mạnh trong hai năm tiếp theo. Năm 1998 vốn đăng ký là 0,7 tỷ USD, thì năm 1999 chỉ bằng 71% còn 0,5 tỷ USD, năm 2000 hạ 0,2 tỷ USD. Sau khi đạt kỷ lục về vốn thực hiện vào năm 1997 với 0,5 tỷ USD thì 3 năm tiếp theo đã giảm rõ rệt, năm 1998 là 0,3 tỷ USD, năm 1999 là 0,2 tỷ USD và năm 2000 là 0,1 tỷ USD [9]. Từ năm 2001 đến nay là thời kỳ phục hồi hoạt động của FDI ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vốn đăng ký năm 2001 là 0,6 tỷ USD tăng gần gấp 3 lần so với năm trước. Năm 2002 vốn đăng ký gần 0,4 tỷ USD và vốn thực hiện 0,13 tỷ USD. Trong năm 2003 vốn đăng ký 0,5 tỷ USD và vốn thực hiện 0,23 tỷ USD. FDI tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Theo số liệu thống kê năm 2002 của Tổng cục thống kê thành phố và số liệu năm 2003 của Sở Kế hoạch - Đầu tư, các doanh nghiệp FDI đã đóng góp trên 20% cơ cấu GDP, chiếm tỷ trọng 30% tổng sản lượng công nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 20% kim ngạch xuất khẩu, đóng góp cho ngân sách khoảng 7%. Thêm vào đó trong quá trình hoạt động các dự án FDI ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đã góp phần giải quyết một số vấn đề mà xã hội rất quan tâm đó là việc làm cho người lao động. Cùng với sự mở rộng hoạt động của mình các doanh nghiệp có vốn FDI cũng góp phần giải quyết việc làm cho xã hội. Theo thống kê của Sở Lao động Thương binh - Xã hội thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang là khu vực có mức lương cao nhất và thu hút nhiều chất xám có chất lượng cao từ các trường đại học và cao đẳng đã tạo việc làm cho gần 200.000 lao động trực tiếp và vài trăm ngàn lao động gián tiếp [9]. Tác động quan trọng nhất của FDI tại Thành phố Hồ Chí Minh là góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế - xã hội, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, hình thành các định chế tiền tệ tín dụng lẫn đáp ứng các chuẩn mực quốc tế đóng góp ngày càng nhiều vào thu ngân sách và góp phần cải thiện môi trường sống xã hội. Cũng như các hoạt động kinh tế khác, FDI ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có tác động tiêu cực đến một số mặt kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh như sau: - Một là, hiệu quả kinh tế thu được từ FDI còn thấp. Tuy có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh, nhưng trên thực tế 19 năm qua cho thấy mức lợi nhuận thu được từ khu vực FDI còn thấp, thậm chí một số doanh nghiệp còn bị thua lỗ, nhất là các doanh nghiệp liên doanh. Theo số liệu của Cục Thống kê và Sở Kế hoạch Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh tính đến 31/12/2002 có 195 số dự án đầu tư theo hình thức liên doanh, rút giấy phép đầu tư trên tổng số 291 dự án đầu tư có giấy phép, chiếm tỷ lệ 67%. Cũng như phân tích ở phần trên hình thức liên doanh là hình thức đầu tư phổ biến nhất vì nó giúp cho các bên đối tác đạt được mục tiêu của mình đặc biệt đối với phía nước ngoài, vì họ muốn tranh thủ các mối quan hệ ở Việt Nam trong thời gian đầu để làm quen với môi trường đầu tư, đồng thời chia sẻ rủi ro với các đối tác đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh, để tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường nội địa, với hình thức này họ dễ thích nghi với phong tục tập quán của môi trường đầu tư mới thông qua đối tác tại địa phương. Hình thức này cũng đáp ứng nhu cầu của địa phương nhằm sử dụng hiệu quả hơn thiết bị, máy móc, nhà xưởng, tiếp thu trình độ kỹ thuật quản lý tiên tiến, giao thương với thị trường thế giới. Nói cách khác, đây là hình thức giúp tạo ra nhân tố để thực hiện sự hoà nhập tốt nhất cho các bên đối tác. Thế nhưng, sau một thời gian hoạt động các dự án bị lỗ ngày càng tăng. Đặc biệt trong những năm 96, 97 sự thua lỗ của các liên doanh mà các đối tác là các công ty xuyên quốc gia hùng mạnh như liên doanh Côcacôla thực sự trở thành vấn đề cần giải quyết. Mục tiêu hướng về xuất khẩu khi thu hút vốn FDI trong những năm gần đây mặc dù kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI ở Thành phố Hồ Chí Minh gia tăng về số tuyệt đối, nhưng nếu xét tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của Thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ trọng này gia tăng không nhiều trong nhiều năm qua. Mặt khác, xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở Thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm 40% doanh thu, còn 60% là tiêu thụ ở thị trường nội địa. Vì thế nhiều mặt hàng tiêu dùng sản xuất trong nước đã đáp ứng được như: nước giải khát, bột giặt... nay thêm các liên doanh thì phải chia sẻ thị trường mà xu thế lại thuộc về các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí Minh đã góp phần tích cực vào việc đổi mới, nâng cấp thiết bị, công nghệ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, các dự án có vốn đầu tư lớn đa số sử dụng thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến (như bia, ô tô...) vì đó là yêu cầu tất yếu để duy trì hoạt động của chi nhánh trong bối cảnh kinh tế thế giới cạnh tranh gay gắt. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại một bộ phận công nghệ chuyển giao dưới hình thức thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả (thiết bị hiện đại chỉ chiếm 10%, trung bình 30% và 60% cũ kỹ lạc hậu).Tuy nhiên, nếu nói về mức độ hiện đại thì đều không phải là hiện đại bậc nhất, có nghĩa hầu hết công nghệ chuyển giao đều lạc hậu một cách tương đối. Tương tự như sự hạn chế về mức độ hiện đại, công nghệ chuyển giao có xu hướng là thiếu đồng bộ. Chẳng hạn các liên doanh ô tô, xe máy, điện tử đều được phân công chuyên môn hoá theo từng công đoạn. Trong đó những bộ phận quan trọng nhất chứa hàm lượng vốn và kỹ thuật cao như máy của xe máy, xe ô tô đều được thực hiện ở công ty mẹ. Thực tế hiện nay, công nghệ chuyển giao ở những ngành này chủ yếu vẫn là lắp ráp. Tình trạng đối tác nước ngoài khai tăng giá thiết bị để tăng tỷ lệ vốn góp vào liên doanh là khá phổ biến. Một công bố của công ty kiểm toán quốc tế SGS (Societe General de Surveillance) Thuỵ Sĩ đã giám định giá thiết bị góp vốn của phía nước ngoài trong 12 liên doanh thì có 6.112 công ty đã khai khống giá trị thiết bị với tỷ lệ chênh lệch giá đến 28,4%. Những hạn chế trên trong thực tiễn thu hút FDI tại thành phố Hồ Chí Minh là do những nguyên nhân sau: Thứ nhất, về chính sách và môi trường đầu tư. Mặc dù đã có những cải tiến tích cực, song nhìn chung chính sách điều hành vĩ mô của nhà nước vẫn chưa đồng bộ và hay thay đổi chưa ổn định. Nhiều lĩnh vực quan trọng và rất nhạy cảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài như: vấn đề thanh toán ngoại tệ, vấn đề chính sách về đất đai... chưa được giải quyết nhanh chóng. Chẳng hạn, việc xử lý cán cân thanh toán đảm bảo ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI thu hồi vốn là chuyển lợi nhuận ra ngoài là vấn đề các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hàng đầu, nhưng chính sách Nhà nước giải quyết là chưa thoả đáng. Hay về chính sách đất đai, quy định hiện hành chỉ cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho phần đất ở, nếu người sử dụng đất ở chuyển mục đích sử dụng sang sản xuất kinh doanh thì Nhà nước sẽ thu hồi và người được sử dụng đất trở thành người thuê đất tình hình đó dẫn đến tình trạng người có đất không muốn đưa đất vào các dự án FDI trong khi đất là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất trong nước. Mặt khác, về thủ tục hành chính tuy đã có nhiều cải thiện, nhưng những quy định của Nhà nước trong những lĩnh vực như: Hải quan, thuế, xuất nhập cảng còn rườm rà, dễ nảy sinh tiêu cực và gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Thứ hai, về công tác xúc tiến và chuẩn bị đầu tư. Từ ngày Chính phủ ban hành Luật đầu tư nước ngoài công tác xúc tiến đầu tư đã triển khai liên tục nhưng hiệu quả còn thấp, nhiều đoàn tổ chức đi nước ngoài vận động đầu tư nhưng không có kết quả, tuy đã có định hướng đầu tư nước ngoài nhưng quy hoạch dài hạn, cụ thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn chậm, kinh phí để tổ chức mạng lưới đại diện và tổ chức vận động đầu tư quốc tế còn hạn chế. Mạng lưới các công ty tư vấn đầu tư nước ngoài còn quá ít, trình độ chuyên môn chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ, nên công tác xúc tiến đầu tư và chuẩn bị đầu tư còn rất chậm. Thứ ba, về thẩm định và cấp giấy phép đầu tư. Thủ tục thẩm định dự án đầu tư nước ngoài và cấp giấy phép đầu tư còn qua nhiều tầng nấc trung gian, gây phiền hà, mất rất nhiều thời gian. Tuy gần đây có sự phân cấp một số lĩnh vực cho các địa phương nhưng quản lý chưa chặt chẽ và cụ thể, một số địa phương còn lúng túng, một số dự án đầu tư do trình độ năng lực của các cán bộ thẩm định kém đã làm thiệt hại cho phía đối tác hoặc một số dự án không có tính khả thi. Thứ tư, về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc triển khai thực hiện giấy phép của doanh nghiệp FDI vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc nhất là thủ tục giao nhận đất, nhập vật tư thiết bị để hình thành tài sản cố định vẫn còn nhiều phức tạp, gây phiền hà cho nhà đầu tư. Khi doanh nghiệp đi vào hoạt động thì lại có rất nhiều ngành, nhiều cấp có thẩm quyền quản lý, kiểm tra doanh nghiệp nhưng gần như không có cơ quan nào nắm chắc tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp, đa số đều ít nhiều vi phạm nội dung cấp giấy phép, thậm chí một số doanh nghiệp còn có biểu hiện gian lận trong kinh doanh hoặc cam kết xuất khẩu để dễ dàng xin giấy phép và sau đó thì tiêu thụ nội địa, nhưng luật pháp, chính sách của Nhà nước chưa quy định chặt chẽ, đầy đủ các biện pháp xử lý, chế tài có hiệu quả. Thứ năm, lực lượng lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh làm việc trong khu vực FDI ngày càng lớn, bên cạnh việc có điều kiện tiếp cận công nghệ mới, phương pháp quản lý tiên tiến, thu nhập khá cao thì cũng nảy sinh vấn đề mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ thợ, nhiều doanh nghiệp đã trở nên gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu là do cường độ lao động, có thời điểm quá cao nhưng tiền lương và đãi ngộ chưa thoả đáng. Việc xử lý mâu thuẫn này rất phức tạp, cần phải tuân thủ đúng và đầy đủ pháp luật hiện hành. Nếu chỉ xuất phát từ lợi ích của người lao động thì nguy cơ người lao động mất việc hàng loạt ở các doanh nghiệp thực sự khó khăn vì nguyên nhân khách quan chung hiện nay, nếu ngược lại sẽ đối lập với người lao động, giúp nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện sử dụng lao động với cường độ cao hơn, điều này sẽ trái với bản chất của chế độ XHCN của chúng ta. 1.3.2. Kinh nghiệm khai thác FDI của Thành phố Hà Nội Hà Nội đã đổi mới công tác vận động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng cách chuyển phương thức vận động đầu tư nước ngoài từ bị động (đợi các chủ đầu tư đến) sang chủ động hướng các nhà đầu tư nước ngoài tập trung đầu tư theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội, tạo nên một nền kinh tế phát triển bền vững, nâng cao chất lượng các tài liệu vận động đầu tư, xây dựng trang web để giới thiệu danh mục các dự án kêu gọi đầu tư và chính sách ưu đãi đầu tư của Hà Nội, thành phố chủ động hoặc phối hợp với các tổ chức quốc tế để tổ chức diễn đàn kêu gọi xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong nước hoặc tại các nước, khu vực có tiềm năng tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn, các công ty, các tổ chức tài chính quốc tế mở văn phòng đại diện tại Hà Nội. Các chế độ ưu đãi FDI vào Thành phố Hà Nội như sau: Thứ nhất, danh mục các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư như: sản xuất, chế biến xuất khẩu 80% sản phẩm trở lên; chế biến nông sản, lâm sản (trừ gỗ), thuỷ sản từ nguồn nguyên liệu trong nước xuất khẩu 50% sản phẩm trở lên; sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại màu, kim loại đặc biệt, phôi thép, sắt xốp; luyện gang; sản xuất máy móc thiết bị. Cụm chi tiết trong các lĩnh vực: khai thác dầu khí, mỏ, năng lượng; sản xuất thiết bị nâng hạ cỡ lớn; sản xuất máy công cụ gia công kim loại, thiết bị luyện kim; sản xuất thiết bị y tế trong công nghệ phân tích và công nghệ chiết xuất trong y học; sản xuất thiết bị kiểm nghiệm độc chất trong thực phẩm; sản xuất vật liệu mới, vật liệu quý hiếm, ứng dụng công nghệ mới về sinh học; công nghệ mới để sản xuất thiết bị thông tin; công nghiệp kỹ thuật cao; đầu tư vào nghiên cứu và triển khai (R&D) chiếm 25% doanh thu; sản xuất thiết bị xử lý chất thải; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường, xử lý chất thải, sản xuất nguyên liệu thuốc kháng sinh: đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT. Thứ hai, Hà Nội đang xây dựng một số cơ chế ưu đãi đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: - Đối với các dự án khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu tư, có quy mô vốn lớn (từ 50 triệu USD trở lên) và sử dụng nhiều diện tích đất (từ 5 ha trở lên), miễn tiền thuê đất từ 07 năm đầu (không tính thời gian xây dựng cơ bản) và giảm 50% trong 03 năm tiếp theo. - Miễn tiền thuê đất trong thời gian dài đối với dự án khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực Hà Nội đang cần để tạo nên những bước đột phá làm động lực phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. - Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài ứng tiền đền bù, giải phóng mặt bằng để xây dựng công trình dự án, thành phố cho phép trừ số tiền chi phí ứng trước đó vào tiền thuê đất, tương ứng giữa tổng số tiền chi phí với thời gian thuê đất (trên cơ sở giá thuê đất cơ bản). - Hệ thống hạ tầng ngoài hàng rào được chính quyền Hà Nội hỗ trợ đầu tư. - Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo công nhân, cán bộ ở các ngành nghề trình độ cao, công nghệ hiện đại, các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư (nếu nhà đầu tư yêu cầu). Thứ ba, quy trình về xét duyệt thẩm định cấp giấy phép đầu tư: - Về thời hạn: rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư (đối với dự án đăng ký cấp giấy phép đầu tư: 10 ngày; đối với dự án thẩm định cấp giấy phép đầu tư: 20 ngày). Rút ngắn thủ tục xúc tiến, phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư từ 26 đầu mối xuống còn 5 đầu mối chính đối với các dự án có quy mô vốn lớn, sử dụng đất rộng gồm: cung cấp thông tin, tiếp nhận dự án, thẩm định cấp giấy phép đầu tư (Sở Kế hoạch và Đầu tư); giới thiệu đất, hướng dẫn về quy hoạch (kiến trúc sư trưởng); ký hợp đồng thuê đất (Sở Địa chính - nhà đất); đền bù và giải phóng mặt bằng (Ban giải phóng mặt bằng thành phố); thẩm định thiết kế và cấp giấy phép xây dựng (Sở Xây dựng). Rút ngắn thủ tục xúc tiến, phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư từ 26 đầu mối xuống còn một đầu mối đối với các dự án có quy mô vốn nhỏ, sử dụng đất hẹp (chủ đầu tư nước ngoài nộp hồ sơ dự án đến Sở Kế hoạch - Đầu tư và được xem xét phê duyệt cấp giấy phép đầu tư, sau khi đã xin ý kiến các Bộ chuyên ngành và trình UBND thành phố phê duyệt). Về nội dung thẩm định: Rút ngắn quy trình thẩm định dự án đầu tư nước ngoài từ 22 nội dung xem xét đánh giá xuống còn 5 nội dung cơ bản: tư cách pháp lý, năng lực tài chính của chủ đầu tư; mức độ phù hợp của dự án với quy hoạch; lợi thế kinh tế - xã hội, trình độ khoa học và công nghệ; tính hợp lý của việc sử dụng đất. Về một số chi phí đầu tư ở Hà Nội: Tiền thuê đất: vùng đô thị (1-12 USD/m2/năm); ngoại ô (0,35 - 0,72 USD/m2/năm); xa trung tâm thị trấn, thị xã (0,03 - 1,08 USD/m2/năm). Giá điện: sản xuất công nghiệp (0,075 - 0,092 USD/Kwh); dịch vụ (0,098 - 0,15 USD/Kwh). Tiền nước: sản xuất công nghiệp (0,2 USD/m3); dịch vụ (0,43 USD/m3). Thuê nhà xưởng (trong khu công nghiệp: 5 - 8 USD/m2/tháng; ngoài KCN: 1,6 - 2,5 USD/m2/tháng). Chi phí lao động (lao động phổ thông: 50-80 USD/tháng; lao động lành nghề: 85-170 USD/tháng; quản lý 150-250 USD/tháng) [54, tr.338-353]. 1.3.3. Kinh nghiệm khai thác FDI của tỉnh Đồng Nai Đồng Nai là một trong những tỉnh thu hút được FDI nhiều nhất trong cả nước. Trong thời gian qua, trong quá trình thực hiện chính sách thu hút FDI ở Đồng Nai đã cho chúng ta thấy rằng: Về số lượng các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng liên doanh với nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai còn rất ít vì các doanh nghiệp có khả năng liên doanh đã có dự án liên doanh. Chính vì vậy, việc thành lập thêm các doanh nghiệp liên doanh rất hạn chế trong thời gian qua. Hơn nữa vai trò bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh ở tỉnh Đồng Nai thường rất khó khăn do hạn chế về tài chính, năng lực, kinh nghiệm. Sự hạn chế này là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ một số doanh nghiệp liên doanh ở tỉnh Đồng Nai, từ đó tạo ra tâm lý ngần ngại không ít cho các nhà đầu tư chọn hình thức liên doanh. Chủ đầu tư FDI do đặc trưng về các hình thức tổ chức của nó bao gồm các chủ đầu tư phía Việt Nam và phía nước ngoài: - Về phía Việt Nam, tham gia liên doanh chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, trong đó doanh nghiệp nhà nước ở Trung ương chiếm tỷ trọng lớn. Các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất, phần còn lại góp bằng một số tài sản hiện hữu và một ít tiền mặt. Tỷ trọng góp vốn của các nhà đầu tư Việt Nam trong liên doanh phổ biến khoảng 30% và đây là một trong những yếu tố làm hạn chế khả năng quản lý điều hành phía Việt Nam. Do vậy vấn đề trình độ, kinh nghiệm, bản lĩnh quản lý các thành viên Việt Nam trong Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám đốc liên doanh là rất quan trọng đối với sự tồn tại phát triển các đơn vị liên doanh. Thực tế ở Đồng Nai cho thấy có một số liên doanh thất bại do bất đồng trong quản lý về phía nước ngoài, trong những năm đầu, chủ đầu tư nước ngoài hầu hết thuộc các nước NICs và ASEAN với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những năm tiếp theo, dự án đầu tư các nước NICs, ASEAN vẫn tiếp tục phát triển đồng thời xuất hiện các doanh nghiệp lớn từ Nhật, Mỹ, EU... Hầu hết các dự án đầu tư công nghiệp đều tập trung vào các khu công nghiệp đã và đang quy hoạch, tạo sự thuận lợi trong quản lý, xử lý chất thải và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng điều này tạo khả năng để Đồng Nai chủ động hơn trong việc điều tiết các dự án đầu tư theo yêu cầu cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ. Về khoa học - công nghệ và môi trường, Đồng Nai là tỉnh thu hút nhiều dự án công nghiệp, nên việc quản lý môi trường được tỉnh rất chú trọng để thuận lợi trong việc giám sát môi trường, tỉnh có định hướng các dự án công nghiệp chủ yếu bố trí vào các KCN đã và đang quy hoạch, chỉ bố trí bên ngoài KCN các loại dự án công nghiệp sạch nhằm giải quyết lao động tại chỗ, công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, các dự án công nghiệp mang tính chất dịch vụ (kho tàng, bến bãi) và các dự án có tính chất đặc thù cao. Ngoài ra, từng KCN đều có xác định các loại hình công nghiệp có thể bố trí phù hợp với tính chất loại chất thải để thuận lợi trong việc đầu tư xử lý. Về phía doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều lập các báo cáo đánh giá tác động môi trường trình duyệt theo quy định. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, tình hình ô nhiễm đã rải rác xảy ra ở một số đơn vị vì các lý do chính như: Một là, nhà đầu tư có xu hướng không đầu tư công trình xử lý chất thải để giảm chi phí đầu tư vì phí đầu tư xử lý chất thải rất tốn kém. Hai là, khai thác tối đa phần diện tích đã thuê, nên không đảm bảo tối thiểu 15% diện tích cây xanh. Ba là , các KCN của tỉnh Đồng Nai chưa triển khai kịp thời công trình nhà máy xử lý nước thải chung và bãi thải chất rắn. Trong thời gian chưa có hệ thống xử lý chung, các doanh nghiệp phải tự đầu tư hệ thống xử lý cục bộ, có nơi hệ thoát nước bên ngoài nhà máy chưa có, gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Về tình trạng thiết bị và công nghệ, các doanh nghiệp FDI tuy số thiết bị và công nghệ các dự án FDI tại Đồng Nai ở mức độ trung bình so với các nước trong khu vực, nhưng nhiều loại thiết bị công nghệ vẫn rất mới mẻ và hữu dụng đối với nước ta. Hơn nữa, giai đoạn đầu thu hút đầu tư, mục tiêu được quan tâm là giải quyết việc làm cho người lao động, nên một số loại hình doanh nghiệp như (dệt, giày da, may mặc) không bắt buộc phải cần công nghệ tiên tiến. Công nghệ sử dụng chỉ cần đảm bảo mục tiêu hợp lý, hiệu quả đối với những yêu cầu, điều kiện của Đồng Nai. Về tình hình lao động trong các doanh nghiệp FDI. So sánh với số lượng lao động ở các thành phần kinh tế khác trên địa bàn tỉnh cho thấy các doanh nghiệp FDI có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Hầu hết các doanh nghiệp FDI đã thực hiện tốt các quy định về tuyển dụng lao động, có chính sách đối với người lao động phù hợp với bộ luật lao động. Lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI đều xuất thân từ học sinh, từ lao động nông nghiệp hoặc lao động phổ thông, nên vẫn còn hạn chế về tác phong công nghiệp, kỹ thuật lao động hoặc hiểu biết về pháp luật... Do vậy, ngoài việc tập huấn, hướng dẫn cho nhà đầu tư về bộ luật lao động, các trung tâm dịch vụ việc làm Đồng Nai đã tổ chức cho người lao động học tập luật lao động trước khi giới thiệu cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, thời gian qua một số doanh nghiệp FDI cũng vi phạm một số quy định lao động như: Một là, tự ý tuyển dụng lao động không thông qua các cơ quan giới thiệu việc làm. Hai là, kéo dài thời gian thử việc hoặc dùng mức lương tối thiểu để trả lương cho lao động có tay nghề trong thời gian dài. Ba là, thời gian và cường độ làm việc căng thẳng, tổ chức làm thêm giờ quá quy định khi chưa có sự thoả thuận của người lao động. Bốn là, chưa quan tâm đúng mức công tác huấn luyện an toàn lao động và trang bị bảo hộ lao động. Năm là, còn tuỳ tiện cho người lao động nghỉ việc hoặc sa thải người lao động, chấm dứt hợp đồng lao động sai pháp luật. Sáu là, ít quan tâm đến việc ký kết bản thoả thuận lao động tập thể và thành lập Hội đồng hoà giải tranh chấp lao động. Sự phát triển nhanh các dự án đầu tư và số lượng lao động đã xảy ra nhiều vụ tranh chấp lao động và đình công chủ yếu là các doanh nghiệp Hàn Quốc, Đài Loan... Các vụ tranh chấp lao động và đình công xảy ra ở tỉnh Đồng Nai chủ yếu với mục đích là kinh tế. Ngoài ra còn có một số vụ phản đối thái độ đối xử của giám đốc, nhân viên quản lý, kỹ thuật là người nước ngoài đối với công dân Việt Nam trong quá trình quản lý điều hành sản xuất. Tất cả các việc làm đình công đều xảy ra tự phát, tiến hành không đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật lao động. Hầu hết nội dung kiến nghị của người lao động đưa ra trong quá trình tranh chấp lao động và đình công là phù hợp với quyền lợi của người lao động theo Bộ luật lao động quy định. Khi đình công xảy ra các ngành của tỉnh Đồng Nai đã nhanh chóng phối hợp xử lý trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người lao động và tôn trọng lợi ích của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, do đó chỉ có một vụ tranh chấp kéo dài 5 ngày, số còn lại đều không quá 24 giờ. FDI tác động trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai: Quá trình đầu tư FDI tại Đồng Nai trong thời gian qua đã tạo những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Thứ nhất, ảnh hưởng tích cực: Đầu tư FDI đã bổ sung nguồn vốn và công nghệ quan trọng cho phát triển. Trong ngân sách, kinh phí nhà nước dành đầu tư xây dựng cơ bản cho tỉnh hàng năm không quá 100 tỷ VNĐ, mức kinh phí đầu tư như vậy không thể đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển mặc dù tỉnh đã bổ sung nhiều nguồn vốn khác huy động trong xã hội với khả năng cao nhất. Do vậy mức vốn đầu tư FDI thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong các năm qua, là rất lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động đầu tư cho phát triển ở Đồng Nai bởi nó chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn đầu tư. Tỷ trọng vốn FDI đã làm giá trị tài sản cố định mới tăng hàng năm của khu vực kinh tế nước ngoài lớn hơn khu vực kinh tế trong nước rất nhiều. Số tài sản tăng thêm từ khu vực kinh tế nước ngoài đã làm thay đổi trình độ và tiềm lực công nghệ tỉnh Đồng Nai. Điều này được phản ánh rõ nét ở sự phát triển nhiều khu công nghiệp mới có tầm mức vượt qua khu công nghiệp Biên Hoà I, niềm tự hào về tiềm lực công nghệ của Đồng Nai trước đây. FDI đã thúc đẩy công nghiệp Đồng Nai phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đồng Nai theo hướng tích cực, hiện đại. Do lĩnh vực FDI tại Đồng Nai trong thời gian qua chủ yếu là công nghiệp nên công nghiệp Đồng Nai đạt mức tăng trưởng nhanh cả về quy mô sản lượng và tốc độ phát triển. Sự phát triển của công nghiệp đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy rất nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Đồng Nai sang cơ cấu hiện đại. FDI đã làm tăng nhanh khối lượng, giá trị sản phẩm xuất khẩu, từng bước tạo điều kiện để tiếp cận, hội nhập với thị trường, với kinh tế thế giới. FDI đã tạo công ăn việc làm số lượng lớn lao động Việt Nam, tác động tích cực đến việc thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn. FDI đã góp phần vào hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Thứ hai, những ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh những thành quả lớn đã đạt được từ FDI cũng đã phát sinh một số vấn đề trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. - Môi trường sinh thái bị ảnh hưởng do việc chuyển dịch công nghiệp có chất thải độc hại từ các nước phát triển sang các nước có nền kinh tế đang phát triển là một xu hướng đáng ngại và trở thành hiện thực ở Đồng Nai. Đầu tư xử lý chất thải khá tốn kém, nên một số nhà đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận đã đầu tư xử lý chưa đồng bộ, chưa triệt để. Công nghiệp tăng nhanh trong khi các KCN chưa có nhà máy xử lý chất thải chung, nên từng lúc từng nơi môi trường bị ảnh hưởng. Hơn nữa, dù hệ thống xử lý chất thải rất hoàn thiện, ảnh hưởng của chất thải công nghiệp đối với môi trường vẫn có những tác động nhất định. - FDI gây ra các khó khăn do tăng dân số cơ học, do tốc độ tăng trưởng cao, Đồng Nai đã thu hút một số lượng lớn lao động từ các địa phương khác đến làm việc. Điều đó đã và đang gây ra áp lực rất lớn về an ninh, nhà cửa, bệnh viện, trường học, các công trình cơ sở hạ tầng... Tình trạng lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến gây khó khăn lớn trong việc quy hoạch sử dụng đất. - Một số doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, do hạn chế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường doanh nghiệp trong nước đã gặp khó khăn do: thị phần sản phẩm bị chia sẻ, yếu thế cạnh tranh bởi sức mạnh độc quyền của các tập đoàn đa quốc gia, bị chèn ép trong các liên doanh, dẫn đến doanh nghiệp bị phá sản hoặc chuyển nhượng vốn lại cho bên nước ngoài. - Chưa nắm bắt được thực chất kết quả tài chính của các nhà đầu tư nước ngoài, do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện sự lỏng lẻo trong quản lý vì thiếu thông tin, các cơ quan quản lý chưa kiểm soát đầy đủ thực chất hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, có tình trạng lãi giả lỗ thật, nhưng đối với doanh nghiệp FDI, bên nước ngoài thường nâng giá đầu vào, ép giá đầu ra, nhập nhằng giữa thiết bị cũ và mới, độc quyền về thị trường nước ngoài, độc quyền cung cấp vật tư nguyên liệu... nên việc lãi thật lỗ giả đối với một số doanh nghiệp FDI là cơ sở, nhưng chúng ta thiếu thông tin để kiểm chứng. Tóm lại, qua kinh nghiệm khai thác FDI để phát triển kinh tế - xã hội ở ba địa phương đã cho chúng ta những bài học kinh nghiệm vận dụng vào khai thác FDI phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương: Qua kinh nghiệm khai thác FDI để phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh cho chúng ta những bài học kinh nghiệm về chính sách đầu tư, công tác xúc tiến, chuẩn bị đầu tư, thẩm định cấp giấy phép đầu tư; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI thấy được những mặt hạn chế, nguyên nhân và những giải pháp khắc phục nhằm khai thác FDI một cách hiệu quả hơn. ở Thành phố Hà Nội cho chúng ta bài học kinh nghiệm về cách kêu gọi đầu tư FDI, những phương thức tiếp thị đầu tư ở Hà Nội, từ bị động chờ doanh nghiệp FDI đến đầu tư chuyển sang chủ động mời gọi với những chế độ ưu đãi và cách thực hiện quy trình về xét duyệt, thẩm định cấp giấy phép được đổi mới thông thoáng, hấp dẫn nhằm thu hút được FDI vào Thủ đô Hà Nội. Qua những kinh nghiệm thực tế về khai thác FDI ở tỉnh Đồng Nai cho chúng ta thấy các mặt tác động tích cực và hạn chế của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn tỉnh Đồng Nai và cách giải quyết tháo gỡ của chính quyền địa phương tỉnh Đồng Nai. Và là một tỉnh giáp với tỉnh Bình Dương có những nét tương đồng trong thu hút FDI nên những bài học kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai cũng là những bài học kinh nghiệm để khai thác FDI ở Bình Dương được hiệu quả hơn. Chương 2 thực trạng của tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh bình dương trong những năm qua 2.1. Tình hình FDI trong những năm qua ở Bình Dương 2.1.1. Những lợi thế so sánh và ưu đãi trong thu hút FDI ở Bình Dương Bình Dương với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, lực lượng lao động dồi dào, kết cấu hạ tầng kỹ thuật chất lượng cao, nhiều khu công nghiệp mới đang triển khai xây dựng cùng với chính sách "trải chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư" Bình Dương đã và đang tạo ra những cơ hội mới cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển sản xuất. Về lợi thế so sánh, Bình Dương có nhiều thế mạnh về nông sản, khoáng sản, vật liệu xây dựng đáp ứng nhu cầu sản xuất công nghiệp, xuất khẩu. Tỉnh nằm trên các trục đường giao thông quan trọng của quốc gia là đầu mối giao lưu của các tỉnh miền trung, Tây Nguyên, theo quốc lộ 13, 14 về thành phố Hồ Chí Minh nên có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Bình Dương có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, đặc biệt là nền đất chắc rất phù hợp để xây dựng các KCN và cơ sở hạ tầng. Với lực lượng lao động dồi dào, kết cấu hạ tầng kỹ thuật chất lượng cao cộng với chính sách "trải chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư" cởi mở và năng động, Bình Dương đang tạo ra những cơ hội mới và những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển sản xuất. Tỉnh đã quy hoạch được 13 KCN tập trung với diện tích trên 6.000 ha, hiện có 9 chủ dự án đầu tư xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng được cấp phép. Hơn 500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và hàng nghìn doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế đã và đang hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Điều đó chứng minh tính đúng đắn và nhất quán của chủ trương khuyến khích đầu tư theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, tạo ra những tiền đề quan trọng để Bình Dương đẩy nhanh hơn nữa sự nghiệp CNH, HĐH phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới. Về chế độ ưu đãi, Bình Dương đã và đang thực hiện chính sách "trải chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư" nhằm thu hút vốn cho các dự án, KCN trên địa bàn. Nhờ vậy, các mặt kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương không ngừng phát triển và luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao. Các chế độ ưu đãi cụ thể là: Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp FDI đầu tư ở ngoài KCN, về thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền thuê đất. Với dự án sản xuất, chế biến có tỷ lệ xuất khẩu dưới 50% và thuộc địa bàn thị xã Thủ Dầu I, huyện Dĩ An và huyện Thuận An: thuế suất thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 20% thu nhập chịu thuế được áp dụng trong 10 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh và bằng 25% trong các năm tiếp theo. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 03 năm tiếp theo. Với dự án sản xuất, chế biến có một trong các điều kiện sau: thuộc danh mục dự án khuyến khích đầu tư của Chính phủ, đầu tư vào địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn (huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng, Bến Cát), chuyển giao không bồi hoàn tài sản cho Nhà nước Việt Nam sau khi hết thời hạn hoạt động: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế được áp dụng trong 15 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh và bằng 15% trong các năm tiếp theo. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 04 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 04 năm tiếp theo. Với dự án sản xuất thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế trong suốt thời gian hoạt động của dự án. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 04 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong các năm tiếp theo. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn được miễn trên thuế đất trong thời gian dự án xây dựng cơ bản. Đối với các dự án trồng rừng, trong thời gian kinh doanh còn được giảm 90% số tiền thuê đất phải nộp. Các dự án thuộc Khoản 2, 3, 4 còn được miễn tiền thuê đất trong 07 năm kể từ ngày xây dựng cơ bản hoàn thành và đưa dự án vào hoạt động. Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với: người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định hoặc vấn đề thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ 10 triệu USD trở lên. Thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 5% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ 5 triệu USD đến dưới 10 triệu USD và đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học. Thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 7% đối với các trường hợp còn lại. Thứ hai, đối với các dự án đầu tư FDI vào các KCN: về thuế thu nhập doanh nghiệp, với dự án hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm bằng 20% thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 5% trong 03 năm tiếp theo. Với dự án xuất khẩu trên 50% sản phẩm, thuộc danh mục dự án khuyến khích đầu tư: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 15% thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 03 năm tiếp theo. Với dự án thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, dự án thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học, doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN, KCX, khu công nghệ cao, doanh nghiệp chế xuất: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 04 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 04 năm tiếp theo. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài [54, tr.926-957]. 2.1.2. Đánh giá chung về thu hút FDI ở tỉnh Bình Dương Thu hút FDI ở Bình Dương được đẩy mạnh và tăng đột biến chủ yếu trong giai đoạn 1996-2000. Còn giai đoạn 1995 trở về trước, sức hút của Bình Dương (lúc đó thuộc tỉnh Sông Bé cũ) không đáng kể, chỉ ngang mức các tỉnh ở miền Tây Nam Bộ như Long An, Kiên Giang, và kém xa Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, càng không thể so được với các "đầu tàu" lớn như thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội. Nhưng từ năm 1995 trở lại đây, Bình Dương với chủ trương "trải chiếu hoa mời gọi đầu tư", Bình Dương tập trung mọi lực lượng xây dựng và phát triển các KCN. Trong 03 năm 1995- 1997, trên vùng đất nông nghiệp này đã mọc lên 7 KCN. Đồng thời, tỉnh cũng quan tâm chỉ đạo công tác cải cách thủ tục hành chính, chu đáo nhiệt tình khi đón tiếp các nhà đầu tư đến với Bình Dương để biến họ từ vị trí thượng khách trở thành đối tác làm ăn tại đây. Kết quả mà chính quyền địa phương mong đợi quả thực hơn cả dự kiến. Vốn FDI tại Bình Dương đã có tăng trưởng đột biến, từ 382 triệu USD giai đoạn 1991- 1995 (chiếm 2,4% tổng vốn FDI cả nước) lên 1,6 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000 (chiếm 7,9% tổng vốn FDI cả nước). Thành tích này đưa Bình Dương trở thành địa phương duy nhất có mức tăng khoảng FDI gấp 4 lần chỉ trong vòng 05 năm. Riêng năm 2000, trong khi các địa phương khác còn khó khăn về thu hút FDI, do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, Bình Dương vẫn vươn lên dẫn đầu cả nước về thu hút FDI. Phát huy thành tích này từ năm 2001 đến nay, Bình Dương vẫn giữ được nhịp độ thu hút đầu tư và tiếp tục là một trong 5 địa phương đứng đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài. Bảng 2.1: Đầu tư nước ngoài được cấp phép năm 2004 vùng kinh tế trọng điểm phía Nam [10] Tên địa phương Số dự án Tổng vốn đầu tư (triệu USD) Bình Dương 147 398,2 Đồng Nai 95 680,00 Bà Rịa - Vũng Tàu 16 40,40 TP Hồ Chí Minh 294 490,60 Tổng số 492 1.549,20 Năm 2005, Bình Dương thu hút thêm 205 dự án đầu tư mới và 152 dự án bổ sung vốn, với tổng thu hút là 893 triệu 679 ngàn USD. Tính đến tháng 4/2005, Bình Dương có 1.159 dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh với tổng số vốn đầu tư là 5 tỷ 377 triệu 455 nghìn USD. Trong đó các KCN thu hút 488 dự án, tổng vốn đầu tư khoảng 2.497 triệu USD, 671 dự án nằm ngoài khu công nghiệp có tổng vốn đầu tư 2 tỷ 880 triệu 455 nghìn USD. Xét về cơ cấu ngành, FDI ở Bình Dương phân bố hợp lý và hiệu quả. Hầu hết các dự án này đều nhằm vào lĩnh công nghiệp (bao gồm cả xây dựng) với khoảng 92,9% vốn đầu tư. Trong đó, ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến chiếm 70,5%, phần lớn sản xuất các mặt hàng hướng về xuất khẩu. Ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 1,92% và dịch vụ 4,9% tổng vốn (trong khi đó, tỷ lệ chung của cả nước đến năm 2004 như sau: công nghiệp và xây dựng 82%; công nghiệp nhẹ và chế biến chỉ chiếm 23,1%, nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 6%, dịch vụ 12%) [58, tr. 211]. Xét về quy mô, các dự án tại Bình Dương chủ yếu thuộc loại vừa và nhỏ với mức vốn trung bình khoảng 5,1 triệu USD/dự án (tỷ lệ chung cả nước là 20,7 triệu USD/ dự án). Quy mô dự án tại các KCN Bình Dương là 3,78 triệu USD/dự án (KCN cả nước là 10 triệu USD/dự án, Đồng Nai là 15,9 triệu USD/dự án). Với quy mô như vậy là phù hợp với hiệu quả trong giai đoạn đầu. Xét về hình thức đầu tư, đa phần là 100% vốn nước ngoài chiếm 70% tổng vốn đầu tư, dự án liên doanh chiếm 30% tổng vốn đầu tư (tỷ lệ chung cả nước là 59%). Về đối tác nước ngoài, các đầu tư vào Bình Dương chủ yếu đến từ các nước châu á, chiếm khoảng 70% (bằng tỷ lệ chung của cả nước) trong đó dẫn đầu là Đài Loan (27%), Hồng Kông (13%), Nhật Bản (11%), tiếp đó là các nước Tây Âu, Mỹ, v.v.. [6, tr.284-285]. Tính đến tháng 12 năm 2004 cho thấy, Bình Dương là địa phương có tỷ lệ dự án triển khai thành công cao nhất. Trong đó, dự án loại 1 (hoạt động tốt) chiếm 61%, loại 2 (đang triển khai) chiếm 13,5%, tỷ lệ dự án đã rút vốn giải thể chiếm khoảng 5,2%. Tỷ lệ án đang trong giai đoạn làm thủ tục đầu tư xây dựng là 20,3%. Trong khi đó, tỷ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai lên đến 29%, còn Bà Rịa - Vũng Tàu cũng ở mức 15%. Bảng 2.2: Tình hình triển khai dự án FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương, theo mức độ thực hiện (đến 2004) [47] Đơn vị tính: triệu USD Mức độ thực hiện Số dự án Tổng vốn đăng ký Vốn pháp định Hoàn thành giai đoạn đầu tư xây dựng, đã hoạt động 641 3.133,16 1.350,52 Đang đầu tư xây dựng 68 206,28 80,41 Đang trong giai đoạn làm thủ tục dầu tư xây dựng 183 661,65 269,63 Đã rút vốn giải thể 70 208,8 102,64 Tổng số 962 4.209,89 1.803,20 Tổng số vốn đã thực hiện là 1755,2 triệu USD (chỉ tính các dự án còn hiệu lực), chiếm khoảng 40% vốn đã đăng ký. So với cả nước, tỷ lệ này là 49,5% (không kể dự án đầu tư vào ngành dầu khí). Điều này cho thấy, quy mô dự án ở Bình Dương chủ yếu là vừa và nhỏ. Theo số liệu thống kê cho thấy, những năm đầu mở cửa, vốn đăng ký bình quân mỗi dự án là 4,3 triệu USD, sau đó quy mô vốn tăng dần, đến năm 1996 bình quân 11 triệu USD/dự án. Nhưng giai đoạn 1997 đến nay, quy mô giảm dần chỉ còn 1,96 triệu/dự án năm 2003, năm 2005 bình quân là 2,4 triệu USD/dự án. Các doanh nghiệp FDI đóng góp phần nâng cao năng lực sản xuất cho ngành công nghiệp Bình Dương. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không ngừng chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh. Trong đó tỷ trọng giá trị sản xuất tăng từ 43,91% (1997) lên 55,93% (năm 2001) [6, tr.288] và tăng 39,8% (năm 2005) [63, tr.2]. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI còn góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế Bình Dương với việc du nhập nhiều công nghệ mới như lắp ráp, sản xuất xe ô tô, sản xuất tổng đài kỹ thuật số, sản xuất cáp quang, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử. Phần lớn trang thiết bị này có trình độ bằng hoặc cao hơn trình độ thiết bị tiên tiến đã có trong nước, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới chất lượng đạt chuẩn quốc gia và quốc tế. Ngoài nguồn vốn ngân sách, trong thời gian tới Bình Dương cần thêm một lượng vốn đầu tư lớn cho kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, xử lý môi trường và các công trình phúc lợi xã hội khác. Đây cũng là những lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư mạnh mẽ hơn nữa. Danh sách những lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư nước ngoài đã dài thêm, đặc biệt là các ngành sản xuất, chế biến có tỷ lệ xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên, chế biến nông sản, lâm sản (trừ gỗ), chế biến thuỷ sản từ nguồn nguyên liệu trong nước với tỷ lệ xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên; và sản xuất thuốc kháng sinh v.v.. Trong giai đoạn 2003-2010 tỉnh Bình Dương sẽ tập trung mời gọi các nhà đầu tư vào một số lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ theo quy hoạch. Cụ thể, đối với các vùng công nghiệp tập trung, đặc biệt là khu vực phía Nam, tỉnh sẽ khuyến khích phát triển các ngành sản xuất sử dụng công nghệ kỹ thuật cao, thiết bị hiện đại như cơ khí chế tạo máy, điện, điện tử, công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, Bình Dương cũng sẽ ưu tiên phát triển ngành công nghệ chế biến nông sản thực phẩm gắn với vùng nguyên liệu; có chính sách hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên các vùng phía Bắc của tỉnh. Bình Dương cũng khuyến khích đầu tư sản xuất các sản phẩm dệt, da giày, may mặc, v.v.. góp phần tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp và giá trị xuất khẩu, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của người lao động. 2.2. tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trong thời gian qua 2.2.1. Tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương, nguyên nhân dẫn đến những tác động đó 2.2.1.1. Những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Bình Dương Hiện tại khu vực lao động có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 32% GDP toàn tỉnh thu hút khoảng 200 ngàn lao động. Cơ cấu, quy mô và hình thức đầu tư của các dự án khá thích hợp, đã và đang đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, FDI tác động đến phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương. - FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, nguồn vốn đầu tư trong nước hạn chế thì mức vốn thực hiện khoảng 2 tỷ USD có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện cho tỉnh từng bước xây dựng cơ sở ban đầu trong phát triển kinh tế - xã hội. FDI thời kỳ 1997-2005 chiếm gần 70% tổng vốn đầu tư phát triển thực sự đã trở thành một trong những động lực quan trọng góp phần phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở Bình Dương. Việc tăng vốn FDI đã tác động tích cực vào tăng trưởng GDP, cụ thể như: tốc độ GDP đã tăng từ 14,57% năm 1999 lên 15,5% năm 2000. Năm 2003, mục tiêu tăng trưởng GDP của Bình Dương là 14,5-15% nhưng đã thực hiện vượt kế hoạch, đạt 15,3% do tăng 17,3% vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2002 [52, tr.20]. Năm 2005, mục tiêu tăng trưởng GDP của tỉnh Bình Dương là 15%, nhưng đã thực hiện vượt kế hoạch đạt 15,4% do tăng 43% vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2004 [63]. Như vậy, rõ ràng đầu tư nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ, tác động đến sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 32% GDP toàn tỉnh. - FDI đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển lực lượng sản xuất. Các dự án hoạt động tập trung ở 3 ngành trong đó nhiều nhất là lĩnh vực công nghiệp, chiếm 97,17% tổng số dự án và 91,16% số vốn, phân bố trên 24 ngành công nghiệp chế biến và 2 ngành sản xuất và phân phối điện, ga, khí đốt, nước. Kế đến là lĩnh vực dịch vụ chiếm 1,6% tổng số dự án, 5,4% tổng số vốn đầu tư, chủ yếu là dịch vụ văn phòng cho thuê, kho lạnh, vận chuyển hàng hoá... Còn nông nghiệp, lâm nghiệp mặc dù là khu vực tập trung hơn 70% dân số của tỉnh nhưng chỉ thu hút 0,83% số dự án và chiếm 2,2% trên tổng vốn đầu tư. Cuối cùng là khu vực xây dựng chiếm tỷ trọng thấp nhất 0,4% tổng vốn đầu tư [52, tr.18]. Trong những năm đầu, nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu đầu tư vào công nghiệp chế biến nông, lâm sản dựa trên nguồn nguyên liệu có sẵn của địa phương như chế biến gỗ, đũa tre, sản phẩm cao su v.v.. còn những năm trở lại đây FDI đã tập trung nhiều vào ngành công nghiệp kỹ thuật cao như: sản xuất linh kiện điện tử, phụ tùng ô tô, xe máy, nhựa PVC, kính cao cấp, ti vi, tủ lạnh, v.v.. Nhờ đó, nhiều công nghệ mới kỹ thuật số, cáp quang, hàng điện tử kỹ thuật số v.v.. góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế được minh chứng bằng tố độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp. Tổng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt bình quân 334 triệu USD/năm [52, tr.20]. Bảng 2.3: Số dự án FDI được cấp giấy phép đến năm 2004, phân theo ngành kinh tế ở Bình Dương [47] STT Các ngành kinh tế Số dự án Tổng vốn đầu tư (triệu USD) Vốn pháp định (triệu USD) 1 Nông, lâm nghiệp 8 81,25 64,25 2 Công nghiệp, xây dựng 943 3.922,57 1.656,71 3 Dịch vụ - GTVT, Bưu điện 2 7,00 3,9 - Hoạt động VH, TT 1 28,23 8,47 - Dịch vụ khác 8 170,84 69,87 Tổng số 962 4.209,89 1.803,20 - Tác động trong lĩnh vực nông nghiệp, thực trạng sản xuất nông nghiệp của địa phương những năm trước đây luôn gặp nhiều khó khăn do người dân sản xuất không theo một định hướng cụ thể nào cả. Việc trồng loại cây nào, nuôi con gì chủ yếu là theo phong trào. Quy mô chăn nuôi theo kiểu hộ gia đình nên số lượng ít, chất lượng không đồng đều. Tuy vậy, đến nay tình trạng này đã được khắc phục do ngành nông nghiệp Bình Dương đã thu hút được rất nhiều doanh nghiệp FDI tham gia sản xuất kinh doanh, tạo nên nhân tố mới, hướng sản xuất theo nhu cầu của thị trường dưới sự định hướng của các doanh nghiệp. Tính đến năm 2001, ngành nông nghiệp Bình Dương thu hút được 297 doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vốn đầu tư 9.220 tỷ đồng, trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư 574 triệu USD. Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu tư lớn nhất vào nguồn nông nghiệp, cụ thể là trong ngành chăn nuôi phải kể đến Công ty Nông lâm Đài Loan (vốn đầu tư 52 triệu USD). Không chỉ bỏ vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp, nhiều doanh nghiệp, nhà máy chế biến nông sản cũng góp phần không nhỏ thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển. Sự phát triển của các doanh ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương.pdf
Tài liệu liên quan