Luận văn Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Luận văn Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN: Sự biến đổi của các loại hỡnh quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc nhận thức và vận dụng các quy luật, trong đó có quy luật xã hội là rất quan trọng, vì nó góp phần đẩy nhanh sự phát triển của xã hội. Trong các quy luật xã hội thì quy luật: "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất’’ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì đây là quy luật cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội loài người, và làm cho lịch sử nhân loại được hiện ra như quá trình lịch sử tự nhiên Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu những năm vừa qua, có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân các nước này đã vận dụng không đúng quy luật "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất”. Đối với nước ta, trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đã nôn nóng muốn có ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta đã dù...

pdf102 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Sự biến đổi của các loại hỡnh quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc nhận thức và vận dụng các quy luật, trong đó có quy luật xã hội là rất quan trọng, vì nó góp phần đẩy nhanh sự phát triển của xã hội. Trong các quy luật xã hội thì quy luật: "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất’’ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì đây là quy luật cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội loài người, và làm cho lịch sử nhân loại được hiện ra như quá trình lịch sử tự nhiên Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu những năm vừa qua, có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân các nước này đã vận dụng không đúng quy luật "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất”. Đối với nước ta, trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đã nôn nóng muốn có ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta đã dùng sức mạnh của Nhà nước để xoá bỏ các loại hình quan hệ sản xuất khác; trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, do đó, đã dẫn tới quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, đẩy đất nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội. Sau những năm đổi mới, chúng ta đã nhận thức lại, vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật: "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất” và các quy luật khác. Chúng ta đã từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, bằng cách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, từ đó đã tạo ra bước ngoặt căn bản của đời sống xã hội trên đất nước ta.Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn có những yếu kém, bất cập, quan hệ sản xuất còn có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, việc tiếp tục xây dựng, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất là hết sức cần thiết để giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy sản suất phát triển. Mặt khác, sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất luôn luôn bị quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, sau một thời kỳ xây dựng, lực lượng sản xuất của ta đã có sự phát triển đáng kể (so với thời kỳ trước) cùng với xu thế của thế giới là toàn cầu hoá, hợp tác hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ đã tác động mạnh vào nước ta, làm bộc lộ nhiều mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển làm cho nước ta hoà nhập với xu thế của thời đại là hết sức cần thiết và cấp bách. Đất nước ta đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước vốn là thuộc địa, nghèo nàn, lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Việc chúng ta xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết song cũng rất khó khăn, phức tạp, vì con đường ta đi là chưa có tiền lệ, chúng ta phải vừa xây dựng vừa khai phá. Do đó, qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, chúng ta lại phải điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy lưc lượng sản xuất phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Bưởi vậy, việc nghiên cứu sự biến đổi quan hệ sản xuất ở nước ta là rất quan trọng nó góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Chính vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Sự biến đổi của các loại hỡnh quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên, cứu vận dụng quy luật: "Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là rất quan trọng. Do đó, trong thời gian vừa qua ở nước ta đã có nhiều các công trình, luận án, luận văn, tạp chí đề cập tới vấn đề này ở các khía cạnh khác nhau. Các công trình nghiên cứu Đào Duy Tùng: “Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1994) đã khái quát các giai đoạn tiến hành cách mạng ở nước ta. GS Trần Xuân Trường: “Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam một số vấn đề lý luận cấp bách" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996 ) đề cập tới một số vấn đề lý luận trong tình hình mới. PGS-TS Nguyễn Đức Bách: “Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (Nxb Lao động, Hà Nội năm 1998) đã xem xét về con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. GS.TS Lương Xuân Quỳ: “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến công bằng xã hội” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002) đã đưa ra một số giải pháp để xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ. Các luận án tiến sĩ. Những năm qua đã có một số luận án đề cập tới mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, vận dụng vào một địa phương cụ thể như: Bùi Chí Kiên: “Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng" (Luận án tiến sĩ Triết học năm 1996). Trung Giang Vin: “Sự vận dụng qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên" (Luận án tiến sĩ Triết học năm 1998). Nông Thị Mồng: “Xây đựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn" (Luận án tiến sĩ Triết học năm 2002). Một số luận án đề cập tới sự biến đổi của các yếu tố trong quan hệ sản xuất. Lê Thị Minh Hà: “Sự biến đổi các quan hệ sở hữu trong nông nghiệp dưới tác động của lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết học năm 2002). Nguyễn Văn Ngọc: “Quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết học năm 2002). Luận văn thạc sĩ. Đã có nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như: Hoàng Xuân Bổng: “Suy nghĩ về sự tác động biện chứng của các yếu tố trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta” (Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995). Nguyễn Công Quyết: “Một số vấn đề nhận thức vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”(Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995). Trần Văn Dực: “Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay” (Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995). Vũ Xuân Kính: “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" (Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995). Một số luận văn nghiên cứu về sự biến đổi của lực lượng sản xuất: Hoàng Trọng Khuê: “Một số vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn Thái Bình hiện nay” (Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995). Nguyễn Thị Quế: “ Yếu tố con người trong lực lượng sản xuất” (luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995). Các tạp chí: Những năm qua, đã có nhiều bài báo của các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các nhà nghiên cứu đề cập tới mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản suất ở các khía cạnh khác nhau: Tô Huy Rứa: “Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Tạp chí Cộng sản số 6 năm 2004). Lê Hữu Nghĩa: “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” (Tạp chí Triết học số 6 năm 2004). Đào Duy Quát: “Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa” (Tạp chí Cộng sản số 6 năm 2003). Đức Vượng: “Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường” (Tạp chí Cộng sản số 34 năm 2004). Nguyễn Trọng Chuẩn: “Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến lược của sự đổi mới đó đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay” (Tạp chí Triết học số 12 năm 2004). Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở nước ta dưới sự tác động của lực lượng sản xuất. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu sự biến đổi quan hệ sản xuất ở nước ta, luận văn góp phần làm rõ về lý luận xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhiệm vụ: - Nghiên cứu sự biến đổi quan hệ sản xuất ở nước ta qua các thời kỳ dưới sự tác động của lực lượng sản xuất. - Nghiên cứu sự tác động của quan hệ sản xuất đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. - Đưa ra những phương hướng, giải pháp để xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ đề cập tới vấn đề quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở nước ta trong thời kỳ từ 1954 trở lại đây, để từ đó xác định con đường phát triển các loại hình quan hệ sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn. Luận văn vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải các nội dung đặt ra, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp...v v. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn. - Luận văn góp phần tìm ra những vấn đề còn tồn tại của quan hệ sản xuất trong việc giải phóng lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. - Luận văn cũng góp phần vào việc xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. - Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về lý luận hình thái kinh tế- xã hội và vai trò của quan hệ sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các trường Đại học, Cao đẳng, các trường Chính trị và những người quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương và 4 tiết. Chương 1 Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất ở Việt Nam trong những năm qua 1.1. Quan hệ sản xuất và sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta thời kỳ trước đổi mới 1.1.1. Quan hệ sản xuất và những yếu tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất * Khái niệm quan hệ sản xuất: C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, Người cho rằng: tiền đề đầu tiên của sự tồn tại của con người và cũng là tiền đề của lịch sử là: "sản xuất vật chất". Thông qua việc nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất của xã hội qua các giai đoạn lịch sử của nó, C.Mác đã phát hiện ra quy luật nội tại chi phối sự vận động, phát triển của xã hội. Trong những quy luật xã hội thì quy luật: " Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất" là quy luật cơ bản, chung nhất, chi phối sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội - xã hội cũng như sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Để tiến hành sản xuất vật chất thì con người phải tiến hành quan hệ song trùng; một mặt con người phải quan hệ với giới tự nhiên, biểu hiện của mối quan hệ này là lực lượng sản xuất, mặt khác con người phải quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất, đó là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất là hai mặt của một quá trình sản xuất, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó lực lượng sản xuất qui định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất cũng có sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không thể tiến hành một cách đơn lẻ, riêng rẽ mà phải liên kết với nhau, nương tựa vào nhau, hợp sức với nhau để có sức mạnh lớn hơn thì mới chinh phục được giới tự nhiên. Đó chính là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người được hình thành một cách tất yếu, khách quan trong sản xuất vật chất. Nó được biểu hiện trên ba mặt đó là: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định, vì nó quy định bản chất của quan hệ sản xuất, quyết định mục đích, hình thức tổ chức, phương thức quản lý và quyết định cả việc phân phối sản phẩm làm ra. Do vậy, quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất. Trong mối quan hệ giữa quan hệ sở hữu với lợi ích kinh tế thì quan hệ sở hữu là cái bên trong, được biểu hiện ra ngoài thông qua lợi ích. Lợi ích kinh tế là biểu hiện gần gũi nhất của quan hệ sở hữu. Bởi vì, lợi ích kinh tế của mỗi người, mỗi tập đoàn người, mỗi giai cấp cũng như vai trò của họ trong một hệ thống sản xuất vật chất được quy định trước hết do mối quan hệ của họ đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Trong xã hội, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, thì giai cấp đó nắm quyền chi phối xã hội đồng thời nắm quyền thống trị xã hội. Quan hệ sở hữu quyết định hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh, thông qua đó, nó quyết định hệ thống lợi ích kinh tế của các giai cấp khác nhau trong xã hội. Trong xã hội tư bản giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu nên có quyền chi phối hệ thống quản lý sản xuất, do đó quyết định lợi ích của tất cả các giai cấp khác trong xã hội. Lịch sử xã hội loài người đã có hai hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của phân công lao động thì các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ngày càng trở lên đa dạng. Trong các chế độ xã hội dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất thì mọi thành viên đều bình đẳng trong tổ chức lao động và phân phối sản phẩm. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất tồn tại ở xã hội công xã nguyên thuỷ và xã hội công sản chủ nghĩa. Việc thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là tiền đề cho việc tổ chức quản lý và các hoạt động khác được thực hiện bình đẳng. Xã hội loài người đã có ba loại hình sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân trong xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể là hai hình thức sở hữu cơ bản giữ vai trò định hướng sự phát triển của các hình thức sở hữu khác trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, thích ứng với một kiểu quan hệ sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất định. Trong các xã hội mà nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì người sở hữu tư liệu sản xuất cũng là người quản lý sản xuất, là kẻ bóc lột, còn người lao động không có tư liệu sản xuất là người bị quản lý và bị bóc lột. Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về liệu sản xuất, nhưng quan hệ tổ chức quản lý cũng có vai trò rất quan trọng và tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi nhưng nếu có một phương thức quản lý thích hợp thì sản xuất vẫn có bước phát triển. Trong nhiều trường hợp nó là yếu tố quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ và hiệu quả kinh tế. Khi lợi ích người lao động mâu thuẫn với chủ sở hữu và quản lý thì quan hệ tổ chức, quản lý mang nặng tính chất thống trị chuyên chế, cưỡng ép. Nếu quan hệ tổ chức quản lý được điều chỉnh, mâu thuẫn được tháo gỡ thì quan hệ giữa chủ sở hữu, nhà quản lý và công nhân mang tính hợp tác dân chủ hơn. Do vậy, có thể khai thác tính chủ động sáng tạo của người lao động, khi không có một hệ thống quản lý phù hợp thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại quan hệ sở hữu. Thực tế cho thấy, các công ty bị vỡ nợ, phá sản nhiều khi không phải do công nghệ bị tụt hậu mà do chưa thiết lập được một quan hệ quản lý phù hợp, cũng có những công ty chỉ được trang bị công nghệ trung bình nhưng làm ăn phát đạt là nhờ có một hệ thống quản lý thích hợp. Vì thế, trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, vấn đề đặt ra là không những cần phải xây dựng được một cơ cấu sở hữu hợp lý mà còn phải thiết lập được một hệ thống tổ chức quản lý hữu hiệu. Quan hệ phân phối là một mặt cấu thành của quan hệ sản xuất. Trong quá trình sản xuất, quan hệ phân phối là cách thức phân chia kết quả sản xuất cho những người tham gia vào quá trình đó, việc phân phối sản phẩm phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất. Do hình thức sở hữu rất đa dạng nên phương thức phân phối cũng rất phức tạp. Trong các chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì quan hệ phân phối là bất bình đẳng. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến khác nhau, Adam Smit chỉ ra ở xã hội tư bản, người nông dân hưởng tiền công của họ do sở hữu sức lao động. Địa chủ hưởng địa tô, do sở hữu ruộng đất, tư bản hưởng lợi nhuận, do sở hữu tư liệu sản xuất. Điều đó có nghĩa là việc phân phối được tính theo các yếu tố của chi phí sản xuất và xác định qua giá cả thị trường. Trong khi đó, Mác chỉ ra cách phân phối mà ở đó tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do bóc lột sức lao động của công nhân. Quan hệ phân phối không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu mà còn có sự tác động trở lại quan hệ sở hữu. Lịch sử loài người từ khi có sự phân chia giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp vì cách thức phân phối bất bình đẳng. Các cuộc đấu tranh đó xét đến cùng là để giải quyết mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất. Trong ba nội dung cơ bản trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định, nó chi phối các mặt khác của quan hệ sản xuất. Khi chế độ sở hữu thay đổi thì hình thức quản lý và phương thức phân phối cũng thay đổi theo. Mặt khác, quan hệ tổ chức quản lý đưa đối tượng sở hữu vào quá trình vận động và qua đó nó giải quyết các quan hệ lợi ích đảm bảo quyền sở hữu trên thực tế. Ngược lại, việc phân phối sản phẩm là động lực cho sự vận hành của quản lý và là động lực của các chủ sở hữu. Những vấn đề trên đây là cơ sở lý luận để chúng ta điều chỉnh và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển theo quy luật khách quan. Tuy nhiên, trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất thường tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau như: quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo, chi phối, quy định bản chất của mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong mỗi giai đoạn của lịch sử. Các quan hệ sản xuất mang tính tất yếu nhưng không đóng vai trò chi phối mà chỉ bổ sung làm cho nền kinh tế phát triển đa dạng phong phú. Quan hệ sản xuất tàn dư, nó sẽ mất dần cùng với sự hình thành phát triển của nền kinh tế mới. Quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai thể hiện xu hướng phát triển của nền kinh tế sang giai đoạn cao hơn. Điều này đã được lịch sử chứng minh, chẳng hạn: trong xã hội phong kiến, thì quan hệ sản xuất phong kiến biểu hiện thành quan hệ địa chủ - nông nô. Đây là quan hệ sản xuất chủ đạo, bên cạnh đó còn có quan hệ sản xuất tàn dư của chế độ thị tộc, bộ lạc mà cơ sở của nó là chế độ sở hữu đất công làng xã, hay còn tồn tại các nô tỳ vừa phục vụ trong các gia đình quý tộc phong kiến, vừa tham gia sản xuất như những người nô lệ. Cùng với sự phát triển của sản xuất phong kiến, mầm mống của sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đã dần dần xuất hiện, làm cơ sở cho sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong thực tế, các loại hình quan hệ sản xuất không tồn tại biệt lập mà có sự tác động lẫn nhau, liên kết với nhau dưới nhiều hình thức muôn vẻ, để tạo thành cơ sở hạ tầng của một hình thái kinh tế - xã hội nào đó. ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất khách nhau, nó do trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta quy định. Do bản chất khác nhau của các loại hình quan hệ sản xuất, chúng vừa thống nhất, tương hợp lẫn nhau, vừa mâu thuẫn, xung đột với nhau. Điều đó tác động đến xu hướng vận động của cả hình thái kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ. Do vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta muốn trở thành hiện thực phải xây dựng, củng cố được vai trò chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở sở hữu toàn dân và tập thể. Tóm lại: Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Nó bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm. Trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định các quan hệ khác, hai quan hệ kia cũng có sự tác động trở lại, chúng có thể củng cố, phát triển quan hệ sở hữu, cũng có thể làm xói mòn, biến dạng quan hệ sở hữu, do đó không được tuyệt đối hoá một quan hệ nào, mà phải thấy được quan hệ biện chứng giữa chúng. Khuynh hướng của sản xuất vật chất là luôn luôn vận động và phát triển, do đó quan hệ sản xuất cũng luôn có sự vận động và phát triển. Sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất không chỉ diễn ra trong một hình thái kinh tế - xã hội mà còn diễn ra trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Quan hệ sản xuất là quan hệ vật chất, nó mang tính khách quan và tương đối ổn định, sự hình thành phát triển của nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà do sự quy định của nhiều yếu tố khác nhau. * Những yếu tố quy định sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Trong lịch sử nhân loại, quan hệ sản xuất luôn luôn biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội, sự thay đổi của phương thức sản xuất. Sự biển đổi của quan hệ sản xuất được quy định bởi nhiều nhân tố khác nhau, ở đây chúng ta chỉ đi vào những nhân tố chủ yếu. - Lực lượng sản xuất: Điểm xuất phát nghiên cứu của C.Mác là sản xuất vật chất, bởi vì lao động sản xuất là đặc trưng riêng của con người. Vượt qua tất cả các nhà triết học trước đó, Mác đã phát hiện ra những quy luật của lịch sử từ một sự thật đơn giản đó là: "con người trước hết phải ăn, uống, ở và mặc đã, rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo" [54, tr.500]. Để tiến hành sản xuất con người phải quan hệ với giới tự nhiên. Mối quan hệ đó được biểu hiện dưới dạng lực lượng sản xuất. Nhưng con người chỉ có thể tiến hành sản xuất có hiệu quả khi liên kết với nhau, hợp sức với nhau lại thì mới chinh phục được giới tự nhiên. Quan hệ giữa những con người với nhau trong quá trình sản xuất biểu hiện thành quan hệ sản xuất, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều là kết quả hoạt động của con người, song bản thân mối quan hệ đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà tuân theo những quy luật khách quan. Đó là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này đã chi phối sự phát triển xã hội loài người và góp phần làm cho quá trình phát triển ấy trở thành một quá trình lịch sử - tự nhiên. Sản xuất vật chất của xã hội không ngừng biến đổi và phát triển. Sự phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu từ lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất do con người sáng tạo ra nhưng nó tồn tại một cách khách quan ngoài ý muốn của con người, bởi vì: Thứ nhất, lực lượng sản xuất không phải chỉ do một cá nhân sáng tạo ra nó là sản phẩm tổng hợp của sự hợp tác và phân công lao động của cả cộng đồng tạo ra. Sự hợp tác và phân công ấy không lệ thuộc vào ý muốn của ai mà là yêu cầu khách quan của sự phát triển. Mác viết: Lực lượng xã hội, lực lượng sản xuất được nhân lên gấp bội và ra đời từ sự hợp tác và sự phân công lao động quy định cho những cá nhân khác nhau - xuất hiện trước những cá nhân ấy, không phải như một lực lượng kết hợp của bản thân họ, vì bản thân sự kết hợp đó không phải là tự nguyện, mà là tự nhiên và xuất hiện như một lực lượng xa lạ, ở bên ngoài họ, lực lượng mà bản thân họ cũng chẳng biết từ đâu đến và sẽ đi đâu, lực lượng mà do đó họ không thể chế ngự được và trái lại, lực lượng ấy hiện đang trải qua một chuỗi đặc biệt những giai đoạn và nhiều trình độ phát triển chẳng những độc lập với ý chí và hành động của loài người mà còn điều khiển ý chí và hành động ấy [50, tr.49]. Thứ hai, mỗi người mỗi thế hệ không thể tự lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình mà kế thừa một cách tự nhiên những lực lượng sản xuất do thế hệ trước để lại dù anh ta có thích hay không: "con người không được tự do trong việc lựa chọ lực lượng sản xuất của mình... bưởi vì mọi lực lượng sản xuất đều là lực lượng được tạo ra, đều là sản phẩm của hoạt động trước đó" [57, tr.657]. Lực lượng sản xuất phát triển trong một dòng chảy liên tục, sự biến đổi của lực lượng sản xuất bao giờ cũng bắt nguồn từ người lao động. Người lao động vừa là người không ngừng sáng tạo ra các công cụ lao động mới, vừa là người sử dụng công cụ lao động để đạt lợi ích của mình, do đó người lao động là lực lượng sản xuất hàng đầu. Bên cạnh đó, yếu tố quyết định trong tư liệu sản xuất là công cụ lao động, công cụ lao động là yếu tố nối dài khí quan của con người trong quá trình cải tạo giới tự nhiên. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất quyết định sự phát triển của tư liệu sản xuất. Sự phát triển về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất. Nguyên nhân sâu xa là do con người không bao giờ thoả mãn với những cái đã có, luôn luôn nẩy sinh nhu cầu mới cao hơn, để thoả mãn nhu cầu mới, con người đã sáng tạo ra nhiều công cụ mới để chinh phục tự nhiên, tích luỹ kinh nghiệm, sáng kiến, nâng cao trình độ của người lao động. Do đó lực lượng sản xuất không ngừng phát triển trước hết là công cụ lao động. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó lại làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là một yêu cầu khách quan. Nghiên cứu sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất ta cần lưu ý: - Sự phù hợp này do yêu cầu của lực lượng sản xuất đặt ra, phải lấy lực lượng sản xuất làm tiêu chuẩn và nhằm đáp ứng các yêu cầu của lực lượng sản xuất. - Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là sự phù hợp xác định. Mác khẳng định mỗi giai đoạn mới của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, căn cứ vào quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động. - Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất có nghĩa là quan hệ sản xuất tạo điều kiện, địa bàn rộng rãi thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là sự phù hợp của những mặt đối lập có sự mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn phát triển do con người của mỗi thế hệ được kế thừa lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại và không ngừng hoàn thiện, sáng tạo thêm nhiều lực lượng sản xuất mới, trong khi đó quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó, nội dung thường xuyên biến đổi còn hình thức lại có tính ổn định tương đối. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó thì quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, mâu thuẫn giữa chúng trở nên gay gắt, lúc đó. Mác viết "từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất - những quan hệ sản xuất ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu một thời đại mới của một cuộc cách mạng xã hội" [53, tr.607]. Khi mâu thuẫn đến cực điểm, tất yếu dẫn tới đòi hỏi phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất mới lại thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và giữa chúng lại nảy sinh mâu thuẫn, để rồi đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất mới lại bị thay thế bằng một quan hệ sản xuất khác. Cứ như vậy, tình trạng phù hợp - không phù hợp - rồi lại phù hợp đan xen nhau, chuyển hoá lẫn nhau diễn ra trong suốt quá trình vận động, biến đổi, tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự phù hợp, thống nhất của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là tạm thời, mâu thuẫn giữa chúng là liên tục và xuyên suốt quá trình sản xuất vật chất chất. Quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa chúng là động lực khách quan thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển không ngừng để thiết lập một sự phù hợp mới cao hơn, hoàn bị hơn. Phát hiện ra quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một cống hiến khoa học vĩ đại của C. Mác. Phát hiện này cho chúng ta thấy tính quy luật của sự hình thành, phát triển quan hệ sản xuất bao giờ cũng do trình độ của lực lượng sản xuất qui định, nhưng đến lượt nó quan hệ sản xuất lại có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là cơ sở lý luận quan trọng, để chúng ta đổi mới, cải tiến các hình thức sở hữu, hình thức tổ chức quản lý và phương thức phân phối ở nước ta hiện nay. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất mà còn do nhiều yếu tố tác động làm biến đổi quan hệ sản xuất như: điều kiện chính trị, lịch sử, truyền thống điều kiện quốc tế và điều kiện tự nhiên. - Sự tác động của các nhân tố:chính trị, truyền thống, quốc tế, điều kiện địa lý tự nhiên đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Nhân tố chính trị Trong thời đại hiện nay, nhân tố làm biến đổi quan hệ sản xuất còn là nhân tố chính trị nó bao gồm thể chế chính trị và vai trò của người lãnh đạo. Theo quy luật thì quan hệ kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với chính trị, nhưng chính trị cũng có sự tác động trở lại đối với kinh tế. Trong nhiều trường hợp thể chế chính trị có sự tác động to lớn đối với quan hệ sản xuất. Chẳng hạn, công cuộc cải tổ, cải cách đã diễn ra ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa như: Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác. Điều kiện để cải tổ, cải cách thành công một mức độ rất lớn tuỳ thuộc bởi nhân tố chính trị và tính năng động của người lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở mỗi quốc gia đó. Vấn đề là phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp một cách sáng tạo với thực tế sinh động của nước mình. Công cuộc cải tổ, cải cách đã đưa lại nhiều biến đổi trong quan hệ sản xuất. Do tác động của thể chế chính trị, cơ cấu sở hữu ở các nước khác nhau đều có nhiều biến đổi khác nhau. Ngay cả ở các nước tư bản tỷ lệ % các hình thức sở hữu cũng khác nhau, phụ thuộc vào chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ, do đó tạo ra những nét khác nhau của các nước tư bản. yếu tố truyền thống ở mọi thời điểm lịch sử nhất định, di sản truyền thống do lịch sử để lại bao giờ cũng bao hàm những yếu tố tích cực và hạn chế. Mâu thuẫn đó tồn tại đan xen, tác động đến sự biến đổi của thể chế kinh tế của bất cứ quốc gia nào. Truyền thống có ảnh hưởng nhiều đến sự lựa chọn chiến lược và các giải pháp phát triển quan hệ sản xuất, nhất là đối với những nước đang trong giai đoạn chuyển đổi mô hình sang kinh tế thị trường, trong đó có nước ta. Xây dựng bất kỳ một thể chế kinh tế - xã hội đều phải dựa trên mảnh đất văn hoá truyền thống làm nền tảng. Sự phát triển của quan hệ sản xuất suy cho cùng là phụ thuộc vào lực lượng sản xuất và sự biến đổi của các giá trị văn hoá, chỉ có dựa trên những yếu tố vật chất và tinh thần làm cơ sở thì thể chế kinh tế mới được đặt trên mảnh đất hiện thực. Quá trình biến đổi của văn hoá, truyền thống văn hoá đã sản sinh ra hệ thống giá trị và các thang giá trị đạo đức quy định hành vi ứng xử và tư duy của con người, từ đó trở thành cơ sở của sự phát triển các tư duy kinh tế. Vì thế, tác động của truyền thống tạo nên những biến đổi làm cho quan hệ sản xuất ở những nước này khác nước kia, nền kinh tế của nước này khác nước khác. Như vậy, yếu tố truyền thống là một tác nhân quan trọng góp phần vào sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở mỗi quốc gia, tạo nên nét đặc thù trong sự phát triển của nền kinh tế, là cơ sở góp phần vào sự phát triển phong phú, đa dạng của các quốc gia. Nhân tố quốc tế Trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới, quan hệ giữa nhân loại - dân tộc là quan hệ giữa phổ biến và đặc thù. Chính dưới ảnh hưởng của các chỉnh thể - lịch sử mà có sự khác biệt trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất ở các quốc gia. Điều này xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong quá trình tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng. Chỉ dựa trên cơ sở phân tích lý giải so sánh chúng ta mới có thể lý giải được sự khác biệt trong quá trình phát triển của quan hệ sản xuất ở các quốc gia chẳng hạn: nước Mỹ bỏ qua quan hệ sản xuất phong kiến là do ảnh hưởng của điều kiện quốc tế quy định. Việt Nam trước đây chỉ tồn tại hai loại hình sở hữu là sở hữu toàn dân và tập thể. Một mặt là do nhận thức sai lầm của chúng ta, mặt khác là sự tác động của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, Việt Nam phát triển đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là do ảnh hưởng lực lượng sản xuất của thế giới phát triển mạnh mẽ mang tính chất quốc tế hoá, tạo điều kiện cho ta có thể hội nhập, đi tắt đón đầu. Nhân tố quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự biến đổi của quan hệ sản xuất, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá hiện nay. Điều kiện tự nhiên Điều kiện địa lý tự nhiên tuy không phải là nhân tố quyết định nhưng nó có vai trò quan trọng góp phần vào sự biến đổi của quan hệ sản xuất trong quá trình phát triển của các quốc gia. Nhiều hiện tượng sẽ không thể cắt nghĩa được nếu không căn cứ vào điều kiện địa lý tự nhiên. Chẳng hạn, ngày nay vẫn còn có bộ lạc sinh sống theo lối nguyên thuỷ như người La Hủ ở miền núi phía Bắc Việt Nam hoặc những bộ tộc ở thượng lưu sông Amadôn, tất cả điều đó chỉ có thể lý giải là do tác động của điều kiện địa lý tự nhiên. Hoàn cảnh địa lý khó khăn đã ngăn trở sự giao lưu của những bộ lạc này với cuộc sống hiện đại, những dãy núi cao, những cánh rừng bạt ngàn đã cô lập họ với xã hội hiện đại và bảo vệ cho lối sống nguyên thuỷ hầu như còn nguyên vẹn. Sự vận động của quan hệ sản xuất chịu sự chi phối của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, ở mỗi quốc gia thì sự vận động có sự tương đồng khác biệt. Sự khác biệt do nhiều yếu tố khác nhau: điều kiện tự nhiên, điều kiện quốc tế, nhân tố chính trị truyền thống. Những nhân tố này là nguyên nhân tạo nên nét đặc thù trong sự phát triển đa dạng của các quốc gia. Tuy nhiên, yếu tố quyết định cho sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất là do trình độ của lực lượng sản xuất quy định. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận thực tiễn hết sự to lớn đối với việc đổi mới quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay. 1.1.2. Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản ở nước ta thời kỳ trước đổi mới (1954 -1986) Năm 1954, sau hiệp định Giơ - ne - vơ, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc. Từ đó, hai miền thực hiện hai nhiệm vụ khác nhau: miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Từ 1954 - 1957, nhiệm vụ chủ yếu của miền Bắc là tập trung khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật để đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ này đất nước ta duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Chính sự đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất như vậy, đã làm cho quan hệ sản xuất ở nước ta phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nhờ vậy đã huy động được tiềm năng của dân tộc, chỉ trong một thời gian ngắn nền kinh tế đã được khôi phục vượt mức trước chiến tranh: "năm 1957 giá trị sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tăng 299,9% so với năm 1939. Giá trị sản lượng nông nghiệp bình quân trong 3 năm (1955 - 1971) tăng 10%, năng suất đạt 18 tạ/ha, bình quân lương thực/ đầu người năm1957 đạt 329kg” [74, tr.12]. Chính sách đúng đắn của Đảng - Nhà nước về xây dựng quan hệ sản xuất thời kỳ đó đã thực sự tôn trọng quy luật kinh tế khách quan, thực chất là phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, từ đó thúc đẩy sản xuất ở nước ta phát triển. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chiến tranh, của mô hình kế hoạch hóa tập trung ở các nước xã hội chủ nghĩa và do nhận thức thời kỳ đó cho rằng sản xuất nhỏ hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản, nên các thành phần kinh tế đã không được khuyến khích phát triển. Năm 1960 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng đã xác định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó, chúng ta đã tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất với mục tiêu là xóa bỏ các loại hình quan hệ sản xuất khác chỉ cho phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa " đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh hòa bình thống nhất đất nước, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa" [14, tr.79]. Đó là biểu hiện của tư tưởng nóng vội, chủ quan duy ý chí trong khi đất nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu sản xuất nhỏ là phổ biến, lực lượng sản xuất hết sức thấp kém: Miền Bắc nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chủ yếu dựa trên sản xuất cá thể, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hết sức kém cỏi và non yếu, công nghiệp mới phôi thai, nông nghiệp và thủ công nghiệp có tính chất phân tán chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế quốc dân. Diện tích ruộng đất bình quân tính theo đầu người chỉ có ba sào Bắc bộ, số người thừa sức lao động ở nông thôn miền đồng bằng bắc bộ quá đông. Trình độ văn hóa của nhân dân còn thấp lực lượng kỹ thuật do xã hội cũ để lại hầu như không có gì nhất là về cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề [14, tr.52]. Với trình độ lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém như vậy, thì kinh tế nhiều thành phần là phù hợp và sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng do mắc phải tư tưởng chủ quan, nóng vội nên ta đã mắc sai lầm khi vận dụng quy luật. Thời kỳ đó, chúng ta đã có quan niệm hết sức sai lầm rằng cần phải tạo ra quan hệ sản xuất mới, đi trước mở đường để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng triệt để nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử loài người. Nó xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ giai cấp bóc lột thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mở đường cho sản xuất từ trình độ lạc hậu tiến lên trình độ hiện đại, do đó mà sản xuất phát triển cao làm cho nhân dân lao động thoát khỏi cảnh nghèo đói [14, tr.5]. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Mác có nói xoá bỏ chế độ tư hữu về liệu sản xuất nhưng đó là quá trình hết sức lâu dài, nó không do ý muốn chủ quan của con người mà do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Quan hệ sản xuất chỉ có tác dụng mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi quan hệ sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khi đó phá bỏ quan hệ sản xuất cũ xác lập quan hệ sản xuất mới cho nó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng quan hệ sản xuất luôn bị quy định bưởi trình độ của lực lượng sản xuất chứ không phải do ý muốn chủ quan của con người. Chúng ta đã mắc phải sai lầm cho rằng xây dựng quan hệ sản xuất mới thì tự động lực lượng sản xuất sẽ phát triển không cần tính đến trình độ của lực lượng sản xuất. Do vậy, sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở nước ta thời kỳ đó không phải do yêu cầu của lực lượng sản xuất mà do sự tác động của nhân tố chính trị. Điều này được chỉ rõ: "Muốn cải tạo xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi hoàn toàn phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực, ra sức phát huy quyền lực chính trị và kinh tế của nhà nước để đè bẹp âm mưu phá hoại của bọn phản cách mạng” [14, tr. 64- 65]. Với thắng lợi của giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh, hội nghị trung ương Đảng lần 14 khóa II đã đề ra ba năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) với nội dung chủ yếu là: "Đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh đồng thời ra sức phát triển kinh tế quốc doanh" [23, tr.12]. Mục tiêu của công cuộc cải tạo khi đó là: xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, xác lập công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể nhằm xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tức là xóa bỏ đi loại hình quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, xây dựng, phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chúng ta muốn nhanh chóng có ngay một loại hình quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa thuần nhất. ở miền Bắc lúc đó 90% dân số là nông dân nên Đảng đã chủ trương: hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính trong toàn bộ dây chuyền cải tạo xã hội chủ nghĩa, với sự tin tưởng của nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc đã diễn ra một cách thuận lợi, với tốc độ nhanh. Đến cuối năm 1960, 85,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã với 73% tổng diện tích canh tác. Đối với thợ thủ công và những người sản xuất cá thể khác đều được cải tạo theo con đường hợp tác xã. Đến cuối năm 1960 đã có 87,9% thợ thủ công tham gia hợp tác hoặc tổ sản xuất. Toàn miền Bắc có 2760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Những người buôn bán nhỏ cũng được cải tạo với hình thức phổ biến là đưa họ vào hợp tác xã mua bán hoặc chuyển sang sản xuất. Thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản dân tộc được coi là đối tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa cần phải được xóa bỏ. Đảng đã chủ trương cải tạo hòa bình, bằng cách chuộc lại trả dần và thông qua gia công đặt hàng, đại lý, xí nghiệp công tư hợp doanh. Đối với các xí nghiệp tư bản lớn hình thức cải tạo là công tư hợp doanh, với các xí nghiệp nhỏ chủ yếu là xí nghiệp hợp tác. Đến 1960, 100% hộ tư sản công nghiệp, 99,4% hộ tư sản thương nghiệp và 99% hộ kinh doanh trong ngành giao thông vận tải đã được cải tạo [74, tr.40]. Thành phần kinh tế quốc doanh được mở rộng theo hai con đường là cải tạo các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa và xây dựng hàng loạt các cơ sở mới thuộc khu vực nhà nước. Nhờ sự nỗ lực của toàn dân và sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, chỉ trong một thời gian ngắn, một loạt các cơ sở công nghiệp đã được xây dựng như: khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy nhiệt điện Uông Bí. Đến năm 1960 công nghiệp quốc doanh chiếm 55,3% giá trị tổng sản lượng, thương nghiệp quốc doanh chiếm 93,6% tổng mức buôn bán và 51% tổng mức bán lẻ. Các hoạt động tài chính, ngân hàng, ngoại thương Nhà nước giữ vai trò độc quyền. Thành phần kinh tế cá thể bị thu hẹp, nhưng vẫn giữ một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của nhân dân, 1960 kinh tế cá thể chiếm 33,4% trong tổng sản phẩm xã hội, 21% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 14% giá trị sản lượng nông nghiệp [74, tr.41]. Sau ba năm cải tạo, xây dựng quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiền tư bản chủ nghĩa bị thu hẹp, ở ta chỉ còn tồn tại chủ yếu loại hình quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đó là do tác động của nhân tố chính trị. Từ 1960-1986, trong giai đoạn này, quần chúng nhân dân rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, khắp nơi diễn ra phong trào thi đua sôi nổi như: phong trào "Sóng duyên hải", "gió đại phong, cờ ba nhất”... trong điều kiện đó mô hình kế hoạch hóa tập trung có vai trò to lớn trong việc huy động sức người, sức của cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, bộ mặt thành phố và nông thôn miền Bắc thay đổi nhanh chóng. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) công nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể: hàng năm nhà nước đầu tư vào công nghiệp 343 triệu đồng, xây dựng thêm 120 xí nghiệp, đưa tổng xí nghiệp 1960 là 1132 xí nghiệp, trong đó công nghiệp trung ương là 209, công nghiệp địa phương 927, hình thành một số khu công nghiệp như: Hà Nội, Đông Anh, Việt Trì, Thái Nguyên, Hải Phòng... Trong nông nghiệp, từ 1961 - 1965 bình quân nhà nước đầu tư cho nông nghiệp được 651triệu đồng, tốc độ tăng bình quân 10% năm, riêng thủy lợi tăng 32%, điện tăng 9 lần, máy kéo tiêu chuẩn tăng 11,5 lần [74, tr.72]. Tuy nhiên, giai đoạn này đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế và những dấu hiệu tiêu cực, năng lực quản lý của cán bộ thấp kém, hiện tượng tham ô lãng phí xuất hiện... Trong lúc miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội thì năm 1964 đế quốc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, khi đó chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, khẩu hiệu lúc đó "tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Miền Bắc vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến" 'vừa sản xuất, vừa chiến dấu". Trong điều kiện đó việc quản lý kế hoạch tập trung càng phát huy vai trò trong chiến đấu và sản xuất, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Việt Nam được phát huy cao độ trong điều kiện chiến tranh, khắp nơi diễn ra phong trào thi đua sôi nổi trong sản xuất và trong chiến đấu như: phong trào 5 tấn thóc trong nông nghiệp, phong trào thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, phong trào thanh niên 3 sẵn sàng, phụ nữ 3 đảm đang. Nhà nước thực hiện chế độ phân phối chặt chẽ theo tem phiếu, theo định suất đó là một trong những điều kiện, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ. Tuy nhiên, điều kiện chiến tranh cũng làm này sinh nhiều mặt tiêu cực, do sản xuất không ổn định phải phân tán khắp nơi, vừa sản xuất vừa chiến đấu nên không thực hiện được chế độ hạch toán kinh tế, phải tiến hành sản xuất với bất cứ giá nào, lỗ thì nhà nước chịu, từ đó quản lý kinh tế bị buông lỏng, tham ô lãng phí phát triển, bao cấp tràn lan. Trải qua quá trình đấu tranh gian khổ, đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất, đi vào thực hiện cùng một nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ đó, chúng ta đã tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, với mục tiêu là xoá bỏ sự tồn tại của các loại hình quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thuần nhất. Đối với nông nghiệp, sau ngày miền Nam giải phóng, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh lại ruộng đất, vận động nông dân đi vào làm ăn tập thể với các hình thức: tổ đoàn kết, tổ đổi công... Đến năm 1979 đại bộ phận nông dân đã đi vào hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất. Đối với công thương nghiệp tư bản tư nhân, đã áp dụng linh hoạt các hình thức cải tạo như: Quốc hữu hoá các xí nghiệp tư sản mại bản. Cải tạo một cách hoà bình tư sản dân tộc dưới hình thức công tư hợp doanh. Xoá bỏ tư sản thương nghiệp. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư nhân được tiến hành môt cách mạnh mẽ, đến năm 1978 đã căn bản hoàn thành về hình thức. Nhưng trong thực tế, hầu hết tài sản của giai cấp tư sản đã được cất dấu hoặc các nhà tư sản đã thay đổi hình thức hoạt động dưới dạng công tư hợp doanh. Việc chúng ta áp dụng mô hình cải tạo ở miền Bắc vào miền Nam đã không mang lại kết quả mong muốn. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại nhưng dưới vỏ bọc của quốc doanh. Mặt khác sự thống nhất đất nước đã tạo điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế giữa hai miền, làm cho kinh tế hai miền thâm nhập vào nhau. Trong quá trình giao lưu đó, thành phần kinh tế cá thể dần dần phát triển, kinh tế tư bản tư nhân xuất hiện trở lại: “năm 1976 kinh tế quốc doanh chiếm 27,74%, kinh tế tập thể chiếm 25,05%, kinh tế tư nhân ,cá thể chiếm 47,21%” [64, tr.66]. Những yếu tố đó đã tác động, làm xói mòn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hiện tượng “chân trong, chân ngoài” ngày càng trở lên phổ biến, sản xuất không phát triển, thậm chí còn suy giảm. Nông nghiệp cả nước giảm, “năm 1976 đạt 240 kg/ người, đến năm 1980 chỉ còn 214 kg/ người” [74, tr.105]. Mặt khác, năng xuất của tập thể thấp hơn cá thể do đó nhiều nơi xuất hiện khoán chui như Hải Phòng, Vĩnh Phú v v... Sản xuất công nghiệp phát triển chậm "từ 1976 đến 1980 tốc độ tăng bình quân hàng năm chỉ có 0,6%. Nhiều xí nghiệp phải thu hẹp hoặc chuyển hướng sản xuất, hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị chỉ đạt trên dưới 50%, năng xuất lao động thấp, thu nhập của cán bộ, công nhân viên giảm sút, đời sống gặp nhiều khó khăn” [74, tr.84]. Đứng trước đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, vấn đề cải tiến quản lý được đặt ra một cách cấp thiết. Tháng 8 năm 1979 Hội nghị Trung ương Đảng lần 6 khoá IV đề ra chủ trương cho phép sản xuất "bung ra” nhằm khắc phục một bước cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đối với nông nghiệp, tháng 1 năm 1981 Ban bí thư trung ương đã ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Chỉ thị đã có tác dụng tích cực thúc đẩy người lao động tận dụng đất đai, vốn, kỹ thuật... vào thâm canh. Nhờ đó năng xuất lao động đã tăng lên “năng xuất bình quân một vụ từ1976 đến 1980 là 20,2 tạ/ha, thì từ 1981 đến 1985 là 25,8 tạ/ha” [41, tr. 57 ]. Để tiếp tục cải tiến quản lý kinh tế, Hội nghị lần 8 (6/1985) của trung ương Đảng đã đề ra chủ trương cải cách giá, lương, tiền. Đây là một nghị quyết nhằm xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong giá, lương, tiền để chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Song sau khi triển khai thực hiện, nhất là sau khi đổi tiền, tình hình kinh tế có nhiều diễn biến phức tạp: giá cả leo thang, đời sống mhân dân gặp nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trước đổi mới từ 1954 - 1985, sự vận động, biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta không tuân theo quy luật kinh tế khách quan. Chúng ta đã tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực quan hệ sản xuất với mục tiêu là: xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể, xoá bỏ sự tồn tại của các loại hình quan hệ sản xuất khác. Cho đến năm 1985, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bị xoá bỏ, quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa chỉ còn lại rất ít. Điều này, là do ảnh hưởng của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta. Mặt khác, do tư tưởng chủ quan, duy ý chí chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò của chính trị, coi chính trị là nhân tố quyết định tất cả, kinh tế phải thay đổi theo cho phù hợp với chính trị. Chúng ta đã tạo lập quan hệ sản xuất theo yêu cầu của chính trị và đòi hỏi lực lượng sản xuất phải phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất chứ không phải ngược lại. Đây là sự vi phạm quy luật kinh tế khách quan, trái với lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Sự phát triển của quan hệ sản xuất không tuân theo yêu cầu của lực lượng sản xuất là nguyên nhân đẩy nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng về kinh tế- xã hội. Vì vậy, việc điều chỉnh lại quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là một đòi hỏi tất yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. 1.2. Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất từ khi đổi mới đến nay (từ 1986 - nay ) 1.2.1. Tính tất yếu của sự phát triển đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất của nước ta Đất nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến sản xuất nhỏ là phổ biến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này đã được Đảng khẳng định rõ ngay từ cương lĩnh đầu tiên 1930 là "làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản". Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập Đảng cho tới nay, Đảng ta đã luôn kiên trì lựa chọn con đường đó. Do xuất phát điểm của nước ta còn thấp, lại bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, sự phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất là một đòi hỏi khách quan. Về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội không chỉ có một loại hình quan hệ sản xuất thuần nhất mà thường có sự tồn tại đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, bao gồm: - Quan hệ sản xuất thống trị - Quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước. - Quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo chi phối các quan hệ sản xuất khác và tạo nên đặc trưng của cơ sở hạ tầng của xã hội đó. Vận dụng tư tưởng của Mác- Ăng ghen khi nghiên cứu hình thái kinh tế -xã hội, Lênin đã có sự phát triển sáng tạo về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và đóng góp rất lớn trong việc xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn độc quyền, trên cơ sở quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã đưa ra quan niệm mới của mình về thời kỳ quá độ. Người khẳng định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế không thuần nhất, tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ. Tính chất quá độ đó được Lênin viết: Danh từ quá độ có nghĩa là gì?.Vận dụng vào kinh tế có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có song không phải mỗi người thừa nhận điều ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó [47, tr.248]. Từ tư tưởng của Lênin, cho phép chúng ta nhận thức rằng thành phần kinh tế là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ được dựa trên quan hệ sản xuất tương ứng với trình độ của lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế khác nhau về tính chất, quy mô sở hữu và trình độ của lực lượng sản xuất. Lênin là người đầu tiên đề ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội và kế hoạch này được áp dụng đầu tiên ở nước Nga. Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng 10 Nga thành công 1917 nước Nga rơi vào cuộc nội chiến 1918 - 1920. Trong bối cảnh đó, Lênin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến. Khi cuộc nội chiến kết thúc, hoà bình lập lại, cả nước bước vào một giai đoạn mới, kiến thiết, xây dựng lại đất nước. Thực tế nước Nga lúc đó đã chỉ ra: Việc tiếp tục thực hiện chính sách đó là sai lầm, là nguyên nhân đưa nước Nga lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Để khắc phục sai lầm ấy Lênin đã đề xuất áp dụng chính sách kinh tế mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước Nga lúc đó. Lênin cho rằng một trong những nội dung biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới là phát triển kinh tế hàng hoá trên cơ sở sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần. Người chủ trương: ''Không đập tan các cơ cấu kinh tế - xã hội cũ, thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp nhỏ của chủ nghĩa tư bản mà là chấn hưng thương nghiệp, công nghiệp nhỏ tư bản chủ nghĩa bằng cách cố gắng nắm vững những cái đó một cách thận trọng, từng bước, bằng cách nhà nước điều tiết những cái đó, nhưng chỉ trong chừng mực làm cho chúng sẽ được phục hồi lại" [48, tr.275]. Tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước mà các tiền đề kinh tế - xã hội (như Mác đã nêu ra) chưa đầy đủ, chưa chín muồi như ở nước Nga ( một nước tư bản trung bình còn lạc hậu kém phát triển ) nhưng có chính quyền trong tay vẫn có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu Đảng, Nhà nước có những chủ trương giải pháp đúng đắn giải phóng lực lượng sản xuất. Căn cứ vào thực tế kinh tế - xã hội lúc đó Lênin đã xác định ở nước Nga có 5 thành phần kinh tế trong một cơ cấu thống nhất biện chứng đó là: + Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một bộ phận lớn có tính chất tự nhiên. + Sản xuất hàng hoá nhỏ trong đó bao gồm đại bộ phận nông dân bán lúa mì. + Chủ nghĩa tư bản tư nhân. + Chủ nghĩa tư bản nhà nước. + Chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn nước Nga lúc đó cũng đã chỉ ra rằng thông qua cơ chế, chính sách và công cụ quản lý kinh tế phù hợp mềm dẻo, Nhà nước Xô viết đã huy động và sử dụng khá hiệu quả các nguồn lực ở trong và ngoài nước, của mọi thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư vào việc phát triển kinh tế. Kết quả là công nghiệp nhẹ đã phát triển mạnh, công nghiệp nặng đã có sự cải thiện đáng kể (đã tạo được một số vốn nhất định để tạo đà cho sự phát triển) chế độ tài chính và đồng rúp được ổn định, nạn đói được giải quyết người lao động phấn khởi vì đã được khuyến khích, quan tâm. Từ quan điểm của Lênin về năm thành phần kinh tế ở nước Nga, chúng ta có thể rút ra kết luận: tiêu thức cơ bản để phân định các thành phần kinh tế và việc xác định ở nước Nga có năm thành phần kinh tế là dựa trên trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế được sắp xếp gắn liền với 5 nấc thang của xã hội từ thấp đến cao. Tư tưởng của Lênin muốn nhấn mạnh: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải chấp nhận nền kinh tế có nhiều mảng, nhiều bộ phận. Từ nhiều mảng, nhiều bộ phận ấy tất yếu có nhiều nấc thang đi lên chủ nghĩa xã hội. Các nấc thang này vừa mang tính tuần tự, vừa mang tính nhảy vọt. Tuy nhiên, không nên "đốt cháy" giai đoạn khi điều kiện không cho phép, không nên dùng chính trị để áp đặt cho kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng, tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao và mang tính thời đại sâu sắc.Vì vậy, tuỳ thuộc vào mối quan hệ và khả năng hợp tác quốc tế, các quốc gia cần linh hoạt mềm dẻo trong vận dụng để rút ngắn thời kỳ phát triển, tránh tụt hậu so với các quốc gia trên thế giới. Lênin cũng đã chỉ ra tính phổ biến của số lượng các thành phần kinh tế ở các nước khác nhau đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù các nước có sự khác nhau về điều kiện lịch sử, điều kiện khách quan và chủ quan, nhưng nhìn chung ở các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phổ biến có ba thành phần kinh tế đó là: - Kinh tế xã hội chủ nghĩa - Kinh tế tư bản chủ nghĩa - Kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ Lênin cũng cho rằng cơ cấu thành phần kinh tế không phải là cơ cấu đóng, bất biến mà là cơ cấu mở, cơ cấu động. Số lượng các thành phần kinh tế không phải là cố định cứng nhắc. Vì vậy, tuỳ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, tuỳ thuộc vào từng quốc gia mà số lượng các thành phần kinh tế là khác nhau. Đây là một trong những căn cứ lý luận quan trọng đối với các quốc gia trong việc định hướng phát triển nền kinh tế và cơ cấu các hành phần kinh tế nhằm phát huy tối đa các nguồn lực hiện có, khai thác được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, thu hút được các nguồn lực bên ngoài vào sự phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Lênin cho rằng muốn thu hút sử dụng được mọi nguồn lực trong và ngoài nước một cách có hiệu quả vào việc phát triển kinh tế đất nước, cần phải tôn trọng vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế trong cơ cấu đa thành phần, đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất. Trong cơ cấu này, chúng vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn nhưng thống nhất là cơ bản vì đều theo một định hướng phát triển chung. Về mặt thực tiễn, ở nước ta trong một thời kỳ dài (trước đổi mới) những điều chỉ dẫn đúng đắn có căn cứ khoa học nói trên của chủ nghĩa Mác-Lênin đã không được chúng ta tìm hiểu cặn kẽ, nghiêm túc. Do vậy, chủ trương, chính sách cải tạo quan hệ sản xuất và quản lý kinh tế chúng ta đề ra không phù hợp với tình hình thực tế. Khuynh hướng chủ đạo là muốn xoá bỏ nhanh các loại hình quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa bằng cách cải tạo chúng thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đai hội VI của Đảng đã chỉ ra nguồn gốc lý luận của những sai lầm này là: ''chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất" [17, tr.23]. Chúng ta biết rằng, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của một phương thức sản xuất, chúng có sự tác động qua lại biện chứng với nhau. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất có một quan hệ sản xuất nhất định. Đồng thời quan hệ sản xuất cũng có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng thúc đẩy hoạc kìm hãm. Quan sản xuất không bao giờ ở trạng thái tĩnh, nó luôn vận động và phát triển gắn liền với sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng củng cố quan hệ sản xuất mới, chúng ta đã vi phạm mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Sai lầm phổ biến nhất không phải ở chỗ chúng ta duy trì quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất mà chủ yếu là có những mặt của quan hệ sản xuất bị chúng ta đẩy lên quá cao, tách rời trạng thái thấp kém của lực lượng sản xuất. Tình hình đó cũng biểu hiện sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Đại hội lần VI của Đảng đã nêu lên một luận điểm mới làm phong phú thêm lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là: "lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất [17, tr. 57]. Việc đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc biệt là các nước chậm phát triển đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan duy ý chí muốn có nhanh quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thuần nhất bất chấp quy luật khách quan, về mặt nhận thức đó chính là biểu hiện của phương pháp siêu hình. Sự vi phạm quy luật khách quan bao giờ và ở đâu cũng đều phải trả giá. Việc chúng ta xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong khi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa đủ sức thay thế đã gây tổn thất cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã mất một nguồn sáng tạo thêm sản phẩm cho xã hội, khả năng sử dụng kỹ thuật tiền vốn của nhà tư bản. Trong lĩnh vực thương nghiệp chúng ta đã sớm xoá bỏ tiểu thương trong khi đó thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán chưa đủ sức thay thế đã gây ra nhiều trở ngại cho lưu thông " Lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren''. Mặt khác, trong lĩnh vục nào mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa đủ sức thay thế thì quan hệ sản xuất khác sẽ suất hiện bất chấp ý muốn chủ quan của chúng ta. Trong sản xuất nông nghiệp, khi tư liệu sản xuất còn thiếu, công cụ lao động thủ công còn chiếm đại bộ phận thì chúng ta đã vội đưa hợp tác xã lên quy mô lớn đã dẫn đến thất bại. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là một quy luật phổ biến cho mọi thời đại kinh tế. Do đó, không thể xóa bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào đó khi lực lượng sản xuất tương ứng với nó đang còn là sức sống, đang còn là tất yếu đối với xã hội. Sở dĩ có hình thức quan hệ sản xuất tư bản là bởi vì, ở nước ta đang tồn tại lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sở dĩ có hình thức quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa là bởi vì ở nước ta đang tồn tại lực lượng sản xuất của những người thợ thủ công, nông dân cá thể và tiểu thương. Nếu vội vàng xoá bỏ những hình thức kinh tế này khi chúng đang còn là tất yếu kinh tế, trong khi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa đủ sức thay thế thì như Lênin nói đó là điều “dại dột” và “tự sát, “dại dột" bởi vì điều đó chống lại quy luật khách quan, "tự sát" vì nó sẽ dẫn đến kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ ra rằng: khi nền kinh tế tồn tại đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất thì chúng ta phải vừa sử dụng vừa cải tạo các loại hình quan hệ sản xuất khác. Sử dụng, cải tạo các loại hình quan hệ sản xuất là nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt thời kỳ quá độ. Ngày nay, các văn kiện Đại hội của Đảng đều xác định: "Sử dụng nhất quán lâu dài chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Việc phát triển các loại hình quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiền tư bản chủ nghĩa cho phép chúng ta tạo thêm công ăn việc làm cho nhân dân. Sự lãng phí lớn nhất ở nước ta là lãng phí về sức lao động, nhiều người có sức lao động mà không có việc làm và không đủ việc làm, trong khi đó kinh tế nhà nước và tập thể (quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa), không đủ sức thu hút những người thất nghiệp. Vì vậy, biện pháp tối ưu là Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho các loại hình quan hệ sản xuất phát triển. Chính sách sử dụng, phát triển các loại hình quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa không những tạo công ăn việc làm, mà còn huy động được nguồn vốn to lớn nằm rải rác trong nhân nhân vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích ích nước, lợi nhà. Trước đây, nguồn vốn đó bị tiêu xài hoang phí, không sinh lợi, hoặc nằm yên dưới dạng “tích trữ” như là "vật chết", khi có sự đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất, nó được dùng làm phương tiện để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn eo hẹp, việc phát triển các loại hình quan hệ sản xuất đã cho phép nhân dân tự huy động vốn của mình vào mục đích sản xuất kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển. Lợi ích to lớn của việc sử dụng đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất còn là việc tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhân dân. Nếu chỉ có thuần nhất một loại hình quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thì không thể tạo ra được sản phẩm hàng hoá thoả mãn tất cả nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của các tầng lớp dân cư. Kinh tế Nhà nước chỉ tập trung phát triển những ngành then chốt, mũi nhọn, lĩnh vực liên quan tới quốc phòng an ninh, các lĩnh vực khác phải để các loại hình kinh tế khác tham gia, cạnh tranh bình đẳng có như vậy mới kích thích sự phát triển của sản xuất, mới tạo ra được sự đa dạng phong phú các sản phẩm hàng hoá. Nước ta có nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, trình độ của lực lượng sản xuất vừa thấp, vừa không đồng đều giữa các vùng trong nước: ở miền núi, sự phát triển sản xuất có sự chênh lệch giữa các vùng, các dân tộc, nhưng nhìn chung kinh tế nông nghiệp miền núi còn mang nặng tính chất tự nhiên. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là làm nương rẫy kết hợp trồng lúa nước ở các thung lũng, có nơi tồn tại hình thức du canh du cư. Các tỉnh đồng bằng miền Bắc có một số trung tâm công nghiệp, nhưng về cơ bản nền kinh tế vẫn là sản xuất nông nghiệp, công cụ lao động phổ biến là thủ công, phân công lao động chưa phát triển, thủ công nghiệp chưa thực sự tách khỏi nông nghiệp. ở miền Nam, ngoài một số trung tâm công nghiệp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nông nghiệp miền Nam được cơ giới hoá ở trình độ khá cao. Nông dân đã sử dụng các công cụ cơ khí như: máy làm đất, máy bơm nước... nhiều vùng nông thôn đã có sự phân công lao động chẳng hạn làm dịch vụ cho sản xuất, lưu thông, công nghiệp chế biến, công nghiệp sửa chữa phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hoá. Một số thành phố và các khu công nghiệp tập trung đã có nhiều nhà máy và xí nghiệp sản xuất với những thiết bị hiện đại như: các khu công nghiệp ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai... lực lượng sản xuất ở các trung tâm này ngang với các nước trong khu vực và đạt trình độ trung bình của thế giới. Lực lượng sản xuất ở nước ta còn có sự phát triển không đồng đều giữa các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế. Sau ngày miền Nam giải phóng cơ cấu kinh tế của nước ta là: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Đối với ngành nông nghiệp, đây là ngành có số lao động đông đảo nhất trong nền kinh tế, chiếm trên 70% tổng số lao động của cả nước. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất lại rất thấp kém, công cụ lao động thủ công là chủ yếu, năng xuất lao động thấp, trình độ phân công lao động chưa phát triển; chăn nuôi chưa tách khỏi trồng trọt, thủ công nghiệp chưa tách khỏi nông nghiệp, ở miền Nam người nông dân đã sử dụng máy móc vào sản xuất như: máy tưới tiêu, máy làm đất nhưng chưa phổ biến, phần lớn vẫn là lao động thủ công. Đối với ngành công nghiệp, do xã hội cũ để lại cùng với sự đầu tư của nhà nước và của tư bản nước ngoài, ở nước ta đã hình thành các ngành công nghiệp như: cơ khí, điện lực, hoá chất v v... và các khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, Hải Phòng, Thành Phố Hồ Chí Minh v v... Ngành công nghiệp ở nước ta có trình độ của lực lượng sản xuất cao hơn nhiều ngành nông nghiệp. Các nhà máy xí nghiệp đều sử dụng máy móc thay cho lao động thủ công, nhiều nhà máy, xí nghiệp có máy móc, công nghệ hiện đại đạt trình độ trung bình của thế giới. Đối với ngành dịch vụ, sau khi đất nước thống nhất và đặc biệt là từ khi đổi mới, ở nước ta đã có ngành dịch vụ với trình độ lực lượng sản xuất phát triển khá cao như: ngân hàng, bưu điện, hệ thống truyền thông v v...những ngành này đều có máy móc, công nghệ hiện đại sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, giữa các ngành trong nền kinh tế ở nước ta có trình độ lực lượng sản xuất là rất khác nhau. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất còn thấp so với các nước trên thế giới, chúng ta chưa có nền đại công nghiệp bảo đảm cho sự tồn tại của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đích thực. Quá trình xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, do đó chúng ta cần phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Đây là một đòi hỏi tất yếu, khách quan. Tóm lại, cả về mặt lý luận và thực tiễn, việc chúng ta phát triển đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất là một đòi hỏi tất yếu khách quan, nó phù hợp với quy luật kinh tế khách quan và có tác dụng to lớn để thúc đẩy sản xuất phát triển. 1.2.2. Thực trạng của các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta từ khi đổi mới đến nay Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng với quan điểm phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, đã làm cho quan hệ sản xuất ở nước ta thích ứng được với trình độ lực lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ khi đổi mới đến nay, các loại hình sản xuất ở nước ta đã có sự biến đổi to lớn, trong đó có nhiều thành tựu đã đạt được và có cả những mặt hạn chế, cụ thể là: Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa: Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao gồm hai thành phần kinh tế là: Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ khi đổi mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở ta đã có sự thay đổi to lớn, và từng bước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Đối với kinh tế Nhà nước mà trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ đã triển khai đổi mới toàn diện đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước thời kỳ đổi mới, với quan điểm xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thuần nhất, tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước ở nước ta là sản phẩm của quá trình quố doanh hoá tràn lan. Thời kỳ đó kinh tế nhà nước phát triển với quy mô rộng khắp cả nước, số lượng doanh nghiệp nhà nước lên tới 12000 doanh nghiệp ở khắp các tỉnh thành trong cả nước. Trong những năm đổi mới, một trong những nội dung quan trọng của việc đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước là tiến hành tổ chức, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Để hệ thống này hoạt động có hiệu quả hơn chính phủ đã ban hành các nghị định, chỉ thị để lãnh đạo chỉ đạo việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước như: Quyết định 315/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 1/9/1990, theo quyết định này doanh nghiệp phải được rà soát toàn diện các mặt có liên quan tơi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu tình hình bất lợi có thể chuyển hướng kinh doanh, thay đổi mặt hàng, đầu tư trang thiết bị lại....nếu vẫn không khắc phục được thì có thể bị tuyên bố giải thể. Tiếp theo Quyết định 315/HĐBT là Nghị định 388/HĐBT ngày 30/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng đề cập đến việc thành lập, đăng ký, giải thể doanh nghiệp nhà nước. Sau gần 4 năm thực hiện việc đăng ký lại doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định 388/HĐBT, Thủ tướng Chính phủ lại Ban hành Chỉ thị 500/TTG ngày 25 - 8 - 1995 trực tiếp yêu cầu " Khẩn trương tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước". Trong suốt những năm 90 dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính phủ đã tập trung mọi cố gắng để tăng cường hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước nhưng có phần nghiêng nhiều về tổ chức quản lý. Mặc dù vậy, thành tựu của việc sắp xếp doanh nghiệp nhà nước cũng đạt được thành tựu đáng kể. Tuy số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm đi hơn một nửa nhưng hệ thống doanh nghiệp nhà nước vẫn hoạt động khá. Trong suốt giai đoạn 1991 - 1999 tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp nhà nước đều cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tỷ trọng đóng góp vào GDP của doanh nghiệp nhà nước tăng từ 36,5% năm 1991 lên 40,07% năm 1998, 40,2% năm 1999 [65, tr.109]. Những năm gần đây, kinh tế nhà nước đóng góp vào GDP tuy có giảm đi nhưng vẫn chiếm phần lớn GPD của đất nước cụ thể là: "năm 2000 chiếm 38,53%, năm 2002 chiếm 38,31% và năm 2004 chiếm 39,22%" [73, tr.6]. Việc sắp xếp những doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo hướng giảm về số lượng nhưng đã làm tăng về hiệu quả hoạt động của doạnh nghiệp. Hơn nữa, quá trình sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước đã góp phần vào quá trình tích tụ và tập trung vốn tại doanh nghiệp. Để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời xoá bỏ dần chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản. Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 91/TTG việc thành lập các tập đoàn kinh doanh mà trước hết là thành lập các Tổng công ty nhà nước. Quyết định này đã góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Đây là một xu hướng phát triển tất yếu đối với các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay. Đến nay, ở nước ta đã có 17 Tổng công ty 91 và 76 Tổng công ty 90. Nhờ quá trình sắp xếp các doanh nghiệp nhà nuớc này mà số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng liên tục giảm "từ 50% năm 94 xuống còn 33% năm 1996 và 26% năm 1998, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tăng tương ứng từ 10% lên 15% và 20%, do đó mức vốn bình quân của doanh nghiệp cũng tăng từ 3,3 tỷ đồng lên hơn 18 tỷ đồng " [64, tr.110]. Chính thông qua việc sắp xếp đó, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã tăng lên rõ rệt. Nhìn chung hệ thống tổng công ty đã thể hiện được vai trò nòng cốt của nền kinh tế, kinh doanh có hiệu quả, duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Qua sự đổi mới đó các Tổng công ty đã huy động đuợc nguồn vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, khai thác thị trường trong và ngoài nước. Một trong những nội dung quan trọng trong việc đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước, đó chính là chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Nếu như chính sách tổ chức, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, thành lập các tổng công ty nghiêng về tổ chức quản lý thì chính sách cổ phần hoá lại nghiêng về mặt sở hữu trong các doanh nghiệp. Điều này đã được khẳng định trong nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khoá VII (11-1991) là: “Chuyển một bộ phận doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”. Tiếp đó, thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 về việc xúc tiến thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt là nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở những văn bản mang tính pháp lý từ khi thực hiện cổ phần hoá đến 2003 đã có 1372 doanh nghiệp nhà nước được cổ phân hoá. Qua cổ phần hoá, vốn của Nhà nước không những được bảo toàn mà còn tăng thêm. Bên cạnh đó, cổ phần hoá còn góp phần huy động ngày càng nhiều vốn trong xã hội để đầu tư phát triển doanh nghiệp đã được cổ phần hoá. Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá đều hoạt động tốt:” xem xét 500 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá, cho thấy có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể vốn điều lệ tăng từ 5 - 100%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 137%, nộp ngân sách tăng 63%. Số lao động làm trong các doanh nghiệp tăng 13% [71, tr.13]. Cho đến nay hệ thống doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế ở nước ta, vẫn là công cụ chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Điều này được thể hiện: - Doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước - Doanh nghiệp nhà nước hiện đang chiếm tỷ lệ cao về giá trị kim ngạch xuất khẩu, là đầu mối xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực của nước ta như: dầu thô, gạo, dệt may....vì vậy nó có vai trò chính yếu trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta. - Doanh nghiệp nhà nước hiện đang nắm giữ những ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế như: ngân hàng, bưu điện, than, vận tải, điện lực..... Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ những mặt yếu kém sau: Một là, những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao: Tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp nhà nước sau thời gian liên tục đạt 13%/năm đến năm 1998 và 1999 giảm xuống còn 9%, Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995 một đồng vốn tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Đến năm 1998 một đồng vốn chỉ làm ra được 2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Mặt khác, năm 1998 số doanh nghiệp thực sự có hiệu quả chiếm 40%, số doanh nghiệp không có hiệu quả, bị lỗ liên tục chiếm 20%, còn 40% doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa có hiệu quả nằm trong tình trạng khi lỗ khi lãi. [65, tr.19]. Hơn nữa, các doanh ngiệp làm ăn có lãi, thì tỉ lệ lãi thấp, những doanh nghiệp có lãi cao chủ yếu dựa vào độc quyền : Năm 2003 trong 77% số doanh nghiệp làm ăn có lãi thì chỉ chưa đầy 40% số doanh nghiệp đạt mức lãi cao hơn hoặc bằng lãi xuất vay của ngân hành thương mại. Nhiều doanh nghiệp lãi và hoà vốn là nhờ chính sách hỗ trợ tài chính của chính phủ như: xoá nợ, vay ưu đãi, cho hoàn lại thuế...những doanh nghiệp lãi cao phần lớn nằm trong lĩnh vực độc quyền [36, tr.19]. Hai là, trong quản lý kinh tế, khu vực kinh tế nhà nước chưa thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các loại thị trường, vẫn còn cơ chế "xin - cho" trong quan hệ với ngân sách và tín dụng. Từ đó kéo theo bất công trong phân phối và nạn tham nhũng. Cơ chế giao, cấp bất động sản của Nhà nước đã gây tổn thất lớn, tham nhũng lớn và chặn đường ra đời của thị trường vốn. Cùng với cơ chế xin - cho về tài chính, cơ cấu xử lý tổ chức và nhân sự, tiền lương hầu như là cơ chế cũ: tổ chức, cán bộ kinh doanh do trên xếp đặt, đánh giá xét xử. Nhìn chung trong khu vực kinh tế nhà nước chưa có thị trường giám đốc, chưa có giám đốc nhà nghề. Ba là, doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ về quy mô, dàn trải chồng chéo theo cơ quan quản lý và ngành nghề. Quy mô doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ lại tập trung vào một số các tổng công ty lớn “đến năm 2004 chúng ta có khoảng 4296 doanh nghiệp, trong khi đó vốn của doanh nghiệp lại quá nhỏ. Nhưng điều đáng nói là phần lớn vốn tập trung vào một số ít các tổng công ty như: dầu khí, xi măng, xăng dầu, hàng không... còn tới 487% doanh nghiệp nhà nước có vốn chưa đầy 5 tỉ đồng” [36, tr.19]. Nhìn chung, quy mô doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ, số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng gần 50%, điều này gây khó khăn trong quá trình hợp tác cạnh tranh với nước ngoài là những đối tác có tiềm lực kinh tế mạnh. Nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong khu vực kinh tế nhà nước. Chẳng hạn, trên địa bàn Hà Nội ngành sản xuất máy móc thiết bị có 35 đơn vị, trong đó 27 đơn vị do Trung ương quản lý thuộc 7 đầu mối khác nhau. Ngành xây dựng có 158 đơn vị, chiếm 8,8% tổng số doanh nghiệp trên địa bàn trong đó Trung ương 113 đơn vị, địa phương 45. Ngành thương mại có 212 doanh nghiệp, Trung ương có 132, địa phương 80 [65, tr.124]. Thành phần kinh tế thứ hai của loại hình quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã. Tư tưởng đổi mới được bắt nguồn từ Đại hội Đảng lần thứ VI với sự phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, đã tác động sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã đã có đổi mới mang tính cách mạng trên lĩnh vực quan hệ sản xuất. Trước thời kỳ đổi mới, với quan điểm xoá bỏ các loại hình quan hệ sản xuất khác, kinh tế tập thể phát triển nhanh chóng với số lượng lớn. Trong nông nghiệp ta tiến hành xây dựng các hợp tác xã bậc thấp và bậc cao, đưa người nông dân cá thể vào làm ăn hợp tác, trong thương nghiệp xoá bỏ tư thương xây dựng hệ thống thương nghiệp, các hợp tác xã mua bán, điều này đã tạo ra sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất tiên tiến với trình độ thấp của lực lượng sản xuất, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân, dẫn tới hiện tượng khoán chui trong nông nghiệp. Kể từ khi đổi mới đến nay, với Chỉ thị khoán 10 đã tác động mạnh mẽ tới quan hệ sản xuất trong nông nghiệp. Những tư tưởng đổi mới hợp tác xã đã đưa lại những thành công lớn. Do việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền quyết định đối với các loại tư liệu sản xuất cơ bản, từ tập thể chung chung sang hộ gia đình - xã viên hợp tác xã đã tạo ra quyền tự chủ của người lao động trong sản xuất. Khuyến khích động cơ làm giàu chính đáng của họ, nhờ vậy khuyến khích sức sáng tạo của từng hộ gia đình xã viên, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Xoá bỏ sự phân phối bình quân không gắn với sự đóng góp kết quả lao động của xã viên. Việc xoá bỏ phân phối bình quân đã góp phần đáng kể vào việc xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra nạn "tham ô, tham nhũng" trong kinh tế hợp tác xã. Trong những năm vừa qua, kinh tế hợp tác và hợp tác xã đã hình thành hai chủ thể kinh doanh độc lập tương đối đó là: kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ xã viên, ranh giới giữa hai chủ thể kinh doanh này ngày càng trở lên rõ ràng và do đó cũng góp phần làm giảm sự can thiệp vào sự bao cấp của Nhà nước đối với hợp tác xã. Biến đổi trên đã góp phần làm tinh giảm bộ máy gián tiếp trong các hợp tác xã, làm giảm chi phí gián tiếp và tăng hiệu quả cho các gia đình xã viên. Trong quá trình đổi mới, từ các hợp tác xã cũ với sự phát triển của sản xuất hàng hoá đã xuất hiện nhiều hình thức hợp tác mới sinh động, đa dạng do bản thân người lao động tự nguyện và thoả thuận lập ra, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn kinh doanh của họ. Những mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã được hình thành theo nguyên tắc này đã phát huy tác dụng tích cực với kinh tế hộ, đặc biệt trong việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Sự đổi mới của kinh tế hợp tác và hợp tác xã cũng đã tạo điều kiện tiền đề làm rõ vai trò xã hội của kinh tế tập thể và hợp tác xã. Hợp tác xã bây giờ không còn phải ôm đồm các chức năng xã hội mà chức năng đó thuộc về chính quyền xã. Sự tách bạch trên đã góp phần làm cho hợp tác xã tập trung vào làm tốt các dịch vụ cho các hộ gia đình xã viên, gắn kinh tế hộ với kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh những thành công, mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã giai đoạn 1986 - 1996 còn bộc lộ một số nhược điểm. Do chậm tổng kết thực tiễn để hướng dẫn chỉ đạo, kết quả là thả nổi, phó mặc cho hợp tác xã và người lao động tự bươn trải. Trong thời gian dài, Nhà nước thiếu quan tâm đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý kinh doanh cho cán bộ hợp tác xã. Vì vậy, cán bộ quản lý trong các hợp tác xã đều yếu kém về trình độ quản lý, kiến thức chuyên môn, khả năng tổ chức điều hành cũng như nhận thức về luật pháp. Số cán bộ có năng lực, chuyên môn, dám nghĩ, dám làm ít, một số cán bộ hợp tác xã thoái hoá biến chất. Bản thân người lao động trong hợp tác xã hầu hết là người nghèo, trình độ mọi mặt còn non yếu, nhất là xã viên hợp tác xã nông nghiệp. Họ lại thường xuyên được tuyên truyền về sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước một cách thái quá dẫn đến họ ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ mà kém chủ động, sáng tạo trong việc quyết định những vấn đề có liên quan tới sản xuất kinh doanh. Để tiếp tục thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả, Nhà nước đã ban hành luật hợp tác xã năm 1997, việc luật hợp tác xã ra đời đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy hoàn thiện hơn về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Qua một số năm thực hiện luật hợp tác xã, kinh tế tập thể đã có sự chuyển biến tích cực như: Đã làm rõ các quan hệ tài chính của hợp tác xã , đặc biệt là các quan hệ nợ nần trong nhiều năm nay, xác định rõ điều kiện để trở thành xã viên hợp tác xã, nội dung hoạt động của hợp tác xã. Mối quan hệ giữa hợp tác xã với chính quyền và quan hệ giữa xã viên với hợp tác xã đã dân chủ công khai hơn. Nội dung hoạt động dịch vụ được lựa chọn phù hợp với khả năng quản lý của cán bộ hợp tác xã, nhu cầu của xã viên và đòi hỏi của cơ chế thị trường. Bộ máy quản lý hợp tác xã được tổ chức tinh gọn hơn, trình độ cán bộ quản lý từng bước được nâng cao hơn so với trước. Về loại hình quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Loại hình quan hệ sản xuất này dựa trên sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Theo chúng tôi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay bao gồm: - Kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa. -Một bộ phận của kinh tế vốn có đầu tư nước ngoài. Do đặc điểm của nước ta xuất phát từ một nền kinh tế ở trình độ thấp, lại bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đất nước trải qua nhiều năm chiến tranh kéo dài. Do đó, loại hình kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nước ta mặc dù còn rất non trẻ so với các nước trên thế giới, nhưng đã có lúc do tư tưởng chủ quan, duy ý chí, chúng ta đã hiểu, đánh giá không đúng về loại hình quan hệ sản xuất này, đã vội vàng xoá bỏ nó một cách nhanh chónh. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chịu nhiều thiệt thòi và bị đối xử không công bằng, do ta hiểu không đúng về thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ theo Lênin là thời kỳ chuyển tiếp từ hình thái kinh tế - xa hội nay sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Do vậy, nó phải có sự đan xen giữa những mảng, những bộ phận của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đặc trưng của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Trước thời kỳ đổi mới, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không có điều kiện tồn tại, bị coi là loại hình kinh tế xấu, vì nó là "tàn dư" của chế độ cũ, mang nặng tính chất “bóc lột”, “ăn bám”. Nhận thức cũ đã dẫn tới sự kỳ thị các doanh nhân hoạt động trong loại hình quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, họ được gọi bằng cái tên như: "bọn tư thương", "con buôn","bọn tư sản". Công cuộc đổi mới (từ năm 1986 đến nay) do Đảng khởi xướng với chủ trương: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất, thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được khôi phục và phát triển. Ngay từ những năm 80, đầu những năm 90 Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như: Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho loại hình quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Sự hồi sinh và phát triển của loại hình quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới đã góp phần đáng kể vào việc thực hiện đường lối mục tiêu, phát triển kinh tế xã hội do Đảng ta đề ra: "Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nâng cao kinh tế xã hội" nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ văn minh". Những năm qua, nhờ có các chính sách của Đảng và Nhà nước kinh tế tư bản tư nhân tăng lên nhanh chóng theo số liệu thống kê: “Năm 1999 ở nước ta có: 5782 doanh nghiệp, đến năm 2002 đã lên tới 21523 doanh nghiệp và đến năm 2004 đã lên tới 36993 doanh nghiệp” [70, tr.25]. Nhờ đó, kinh tế tư bản tư nhân đã đóng góp tích cựu vào công cuộc xây dựng đất nước. Những thành tưụ của kinh tế tư bản tư nhân. Thứ nhất, sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần tích cực vào việc tạo việc làm, tận dụng lao động xã hội. Năm 1996 cả nước có 336.146 người trực tiếp làm việc trong các Công ty tư nhân đến năm 1998 là 497.480 lao động làm việc trong cac doanh nghiệp tư nhân chiếm 1,3% lực lượng lao động xã hội [65, tr.141]. Đối với nước ta, vấn đề lao động và tạo ra việc làm là vấn đề cấp bách, trong khi các doanh nghiệp nhà nước đang tiến hành cải cách, giảm biên chế không tạo thêm được nhiều việc làm thì sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân đã thu hút và tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân đã sử dụng lao động ở nhiều trình độ khác nhau đã làm tăng thu nhập cho người lao động và góp phần xoá đói giảm nghèo ở nước ta. Chúng ta đã huy động được một nguồn lực quan trọng của xã hội vào sản xuất kinh doanh để thúc đẩy kinh tế phát triển. Thứ hai, kinh tế tư bản tư nhân đã đóng góp vào GDP của đất nước làm thay đổi cơ cấu GDP. Từ chỗ hầu như không có mặt trong chỉ tiêu thống kê quốc gia thì giờ đây đã có những thành tựu là : “năm 2000 là 7,31%GDP, năm 2002 là 8,3% GDP và năm 2004 là 8,39% GDP “so với kinh tế nhà nước: "năm 2000 là 38,53% GPD, năm 2002 là 38,31% GPD và năm 2004 là 39,22% GDP" [73, tr.6]. Như vậy, tỉ lệ đóng góp vào GDP của đất nước của kinh tế tư bản tư nhân liên tục tăng trong khi đó kinh tế nhà nước lại hầu như không tăng, hoặc giảm đi. Điều này đã làm thay đổi cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế ở nước ta. Qua đó, sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và từng bước tạo sự thay đổi về cơ cấu thu của ngân sách. Thứ ba, sự hình thành và phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân trong những năm đổi mới đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành cơ cấu cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế theo yêu cầu của cơ chế thị trường, xoá bỏ dần cơ chế độc quyền của doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp tương đối đông đảo về số lượng và có sự nhạy bén theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Đây thực sự là môi trường để phát huy nguồn lực con người cho đất nước trong thời kỳ mở cửa. Giờ đây ngoài 6.000 giám đốc doanh nghiệp nhà nước còn có 35.000 chủ doanh nghiệp tư nhân. Đó là tài sản lớn mà trước thời kỳ đổi mới ta không có được và là một trong những lực lượng nòng cốt thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được kinh tế tư bản tư nhân cũng bộc lộ những mặt hạn chế đó là: Một là, Phần lớn các cơ sở của doanh nghiệp tư nhân đều có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế. Theo số liệu thống kê "87,2% doanh nghiệp tư nhân có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, những doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 1%" [65, tr.144]. Như vậy, phần lớn kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta, có quy mô nhỏ bé, sản xuất còn phân tán, vốn bình quân ít, do đó sức cạnh tranh của hàng hoá còn thấp. Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kinh tế tư bản tư nhân phát triển. Mặt khác, lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân chủ yếu là lao động phổ thông ít được đào tạo, trình độ văn hoá, kỹ năng thấp. Trong khu vực này "chỉ có 5,13% lao động có trình độ đại học, khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp không có bằng cấp chuyên môn” [65, tr.145]. Theo chủ nghĩa Mác- Lênin lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người lao động. Trình độ người lao động ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Do trình độ của người lao động ở khu vực kinh tế tư bản tư nhân còn thấp cho nên sản phẩm làm ra chất lượng không cao, khả năng cạnh tranh thấp, đặc biệt trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay thì trình độ người lao động là rất quan trọng. Vì vậy, trong những năm tới Đảng, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp về đào tạo người lao động. Hai là, bên cạnh các Công ty, doanh nghiệp tư nhân dũng cảm đầu tư kinh doanh còn một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp tư nhân móc nối, cấu kết với một số doanh nghiệp nhà nước, cán bộ nhà nước thoái hoá, biến chất để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, trốn tránh pháp luật, kinh doanh trái phép gây ra những vụ đổ bể kinh tế lớn của ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước, đã làm mất lòng tin của doanh nghiệp đối với kinh tế tư bản tư nhân. Qua đổi mới, khu vực kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta được phục hồi và phát triển. Khu vực kinh tế này, đã phát huy tích cực đối với nhiều mặt kinh tế - xã hội ở nước ta, bên cạnh đó nó còn có mặt hạn chế. Để phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa khống chế tác động tiêu cực đòi hỏi cần phải có sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở nước ta còn biểu hiện ở một bộ phận của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phần kinh tế này mới được phân định lần đầu tiên tại Đại hội đại biểu lần IX của Đảng. Tuy nhiên, sự hiện diện của nó đã có từ lâu trong nền kinh tế. Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng với chính sách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, với việc Nhà nước ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã xuất hiện và luôn có tốc độ tăng trưởng cao. Trong những năm qua, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn kinh tế trong nước, tỷ trọng của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng tương ứng với sự giảm tương đối của khu vực kinh tế trong nước. Theo số liệu thống kê: "Tính theo giá so sánh năm 1994, tỷ trọng trong giá trị sản xuất toàn ngành kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài năm 1990 mới đạt 17,5%, thì đến năm 2000 đạt 35,5%" [65, tr. 134]. Nhớ đó, đóng góp vào GDP của đất nước của thành phần kinh tế này tăng liên tục “năm 2000 là 13,28% GDP, năm 2002 là 13,76% GDP và năm 2004 là 15,17% GDP” [73, tr.6]. ở nhiều địa phương, vai trò của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng đáng kể chẳng hạn ở tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 85,5% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp của tỉnh, ở Đồng Nai là 68,2%, ở Bình Dương là 53,9%. Mặt khác, nếu xét theo sản phẩm; thì giá trị sản phẩm do kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất ra đối với nhiều sản phẩm cũng chiếm tỷ lệ cao chẳng hạn: Những sản phẩm hoàn toàn do khu vực kinh tế có vốn nước ngoài tạo ra: "chiếm 100% gồm: dầu thô, bột ngọt, ôtô... kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 91,8% đối với xe máy, 80,8% đối với tivi, 62,2% với xà phòng, máy công cụ 56,4%, thép cán 53,3% [65, tr.134]. Sự phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào khai thác các nguồn nhân lực, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhờ vậy góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, với sự có mặt của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động đông đảo ở nước ta. Đặc biệt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần làm gia tăng chất lượng nguồn nhân lực, kể cả lao động quản lý và kỹ năng của người lao động sản xuất trực tiếp. Do các doanh nghiệp đầu tư vào nước ta phần lớn là các nước phát triển, có nền công nghiệp lâu đời. Do đó, khi họ đầu tư vào trong nước chúng ta sẽ học tập được hình thức tổ chức, quản lý của họ để nâng cao trình độ cho đội ngũ những người lao động ở nước ta, làm quen với môi trường công nghiệp. Chủ động thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những con đường chính yếu góp phần thu hẹp khoảng cách về kinh tế, chống nguy cơ tụ hậu giữa nước ta với các nước trong khu vực, đồng thời sẽ rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Tuy nhiên các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào nước ta còn gặp một số trở ngại: Cơ sở pháp lý cho việc thu hút khuyến khích đầu tư nước ngoài chưa đồng bộ, chưa đặt trong mối tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước khác. Những năm qua, chính phủ đã tập trung cải tiến thủ tục hành chính để tiến tới "một của một dấu" nhưng công việc này còn chưa đạt yêu cầu so với mong muốn. Thủ tục hành chính vẫn là một cản trở lớn trong thu hút đầu tư của nước ngoài. Bên cạnh đó, công tác quản lý vĩ mô của nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn thiếu quy hoạch tổng thể mang tính chiến lược lâu dài. Đây cũng là một lực cản gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư, không ít lĩnh vực mà Nhà nước chưa mạnh dạn thu hút đầu tư nước ngoài như: viễn thông, điện lực. * Loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa Đặc điểm của nước ta vốn là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, sản xuất nhỏ là phổ biến, lại bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa tồn tại là một tất yếu khách quan và chiếm một bộ phận không nhỏ trong nền sản xuất của xã hội. Những năm qua, kể từ khi có sự lãnh đạo của Đảng loại hình quan hệ sản xuất này ở nước ta có sự biến đổi. Thời kỳ trước đổi mới, loại hình quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa được coi là đối tượng của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Do tư tưởng chủ quan nóng vội, duy ý chí vi phạm quy luật khách quan, chúng ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất. Việc nhận thức quan hệ sản xuất đi trước mở đường đã dẫn chúng ta tới quan niệm rằng chỉ cần xây dựng quan hệ sả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan