Tài liệu Luận văn So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Ruinoxke Akutagawa (Nhật Bản): ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
========
PHẠM THỊ THU
SO SÁNH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO (VIỆT NAM)
VÀ RUINÔXKÊ AKUTAGAWA (NHẬT BẢN)
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐỨC NINH
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa đề tài
1.1. Nam Cao (1915 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri là nhà văn tiêu
biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam 1930 – 1945. Ông là ngƣời góp phần
đƣa trào lƣu văn học hiện thực phê phán Việt Nam đầu thế kỉ XX phát triển
đến đỉnh cao với những tác phẩm xuất sắc của ông. Do đó, hiện thực đƣợc nói
đến trong các tác phẩm của Nam Cao đã đƣợc giới phê bình nghiên cứu tôn
vinh và khái quát thành “chủ nghĩa hiện thực Nam Cao”.
Tuy chỉ có 15 năm cầm bút nhƣng Nam Cao đã dành tặng cho đời một
sự nghiệp sáng tác hết sức phong phú mà chủ yếu đƣợc gói gọn trong thể lo...
132 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Ruinoxke Akutagawa (Nhật Bản), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
========
PHẠM THỊ THU
SO SÁNH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO (VIỆT NAM)
VÀ RUINÔXKÊ AKUTAGAWA (NHẬT BẢN)
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐỨC NINH
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa đề tài
1.1. Nam Cao (1915 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri là nhà văn tiêu
biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam 1930 – 1945. Ông là ngƣời góp phần
đƣa trào lƣu văn học hiện thực phê phán Việt Nam đầu thế kỉ XX phát triển
đến đỉnh cao với những tác phẩm xuất sắc của ông. Do đó, hiện thực đƣợc nói
đến trong các tác phẩm của Nam Cao đã đƣợc giới phê bình nghiên cứu tôn
vinh và khái quát thành “chủ nghĩa hiện thực Nam Cao”.
Tuy chỉ có 15 năm cầm bút nhƣng Nam Cao đã dành tặng cho đời một
sự nghiệp sáng tác hết sức phong phú mà chủ yếu đƣợc gói gọn trong thể loại
truyện ngắn. Bên cạnh tiểu thuyết Sống mòn, truyện ngắn của Nam Cao giàu
về tƣ tƣởng, xuất sắc về nghệ thuật và luôn nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt
của công chúng hâm mộ. Vì vậy, nó là một di sản vô cùng quý báu cần đƣợc
nghiên cứu thấu đáo hơn.
1.2 Ruinôxkê Akutagawa (1892 - 1927) là cây bút kiệt xuất, đồng thời
là một hiện tƣợng văn học phức tạp nhƣng lại hết sức hấp dẫn của văn học
Nhật Bản đầu thế kỉ XX. Ông là thủ lãnh của trƣờng phái sáng tác văn học
theo “chủ nghĩa tân hiện thực”. Tên của ông đƣợc lấy làm tên giải thƣởng
văn học dành cho các nhà văn trẻ xuất sắc ở Nhật Bản.
Mặc dù mất ở tuổi 35 nhƣng Akutagawa đã để lại một di sản quý giá với
trên 140 tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn và các bài phê bình. Truyện
ngắn của Akutagawa đƣợc đánh giá là những trang viết phong phú về nội
dung, đa dạng về hình thức và mang tính tƣ tƣởng bậc nhất ở Nhật so với
trƣớc đó. Do vậy, ông đƣợc coi là “một bậc thầy ưu tú” của thể loại truyện
ngắn và là một trong những ngƣời khởi đầu của nền văn học hiện đại Nhật
Bản, ngƣời góp phần đƣa nền văn học ấy hoà chung với nền văn học thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
Tuy nhiên, cho đến nay, ở Việt Nam chƣa có một công trình nào chính thức
nghiên cứu về Akutagawa và truyện ngắn của ông.
1.3. Để bạn đọc Việt Nam có thể hiểu biết thêm về văn học Nhật Bản
với một phong cách sáng tác mới lạ của một nhà văn cụ thể, chúng tôi chọn đề
tài nghiên cứu: So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao
(Việt Nam) và Ruinôxkê Akutagawa (Nhật Bản) để thấy rõ những khác biệt
của hai nền văn học có thể gọi là “đồng văn” trong vùng ảnh hƣởng của
văn hoá Trung Quốc. Mặt khác, đề tài này còn góp phần vào công việc
giảng dạy và học tập văn học Nhật Bản ở Việt Nam . Từ đó , tăng cƣờng
tình hữu nghị giữa hai nƣớc Việt – Nhật trong bối cảnh giao lƣu, hợp tác,
cùng phát triển hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
của nhà văn Nam Cao M (Việt Nam) trong so sánh với nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn của văn hào Nhật Bản – Akutagawa. Qua đó, tác giả luận văn
muốn làm rõ những nét tƣơng đồng và dị biệt cũng nhƣ sự đóng góp về mặt
nghệ thuật của hai nhà văn trong thể loại truyện ngắn ở hai quốc gia châu Á.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Với mục đích trên, luận văn sẽ phân tích các khía cạnh, các bình diện cụ
thể của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao và Akutagawa để từ đó
tiến hành so sánh.
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu văn bản
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nhƣ trên, luận văn sử dụng văn
bản tác phẩm: Nam Cao – Truyện ngắn chọn lọc của nhà xuất bản Văn học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
(2005) và Akutagawa - Tuyển tập truyện ngắn của dịch giả Phong Vũ do nhà
xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2000.
3.2. Giới hạn đề tài
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao cũng nhƣ của
Akutagawa đặt ra nhiều phƣơng diện cần tìm hiểu nhƣ: Nghệ thuật xây dựng
nhân vật, nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật xây dựng kết cấu, nghệ thuật tổ
chức không gian – thời gian… Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích so sánh
những nét tƣơng đồng và dị biệt về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của hai
nhà văn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nghệ thuật tự sự trên hai phƣơng
diện là: Nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật.
4. Lịch sử vấn đề
4.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao và so sánh Nam Cao với các tác giả
văn học nước ngoài
4.1.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao
Nam Cao là một tài năng lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam đầu thế
kỷ XX. Vậy nên, những tài liệu nghiên cứu về Nam Cao (theo thống kê của
các nhà nghiên cứu) đã lên đến hơn 200 tài liệu. Trƣớc Cách mạng tháng 8-
1945, việc nghiên cứu sáng tác của Nam Cao vẫn chƣa đƣợc chú ý, ngoài lời
“tựa” Đôi lứa xứng đôi của Lê Văn Trƣơng [163] thì chƣa có công trình nào
chính thức nghiên cứu về Nam Cao.
Sau Cách mạng tháng 8-1945, Nam Cao bắt đầu trở thành một “hiện
tƣợng” của nghiên cứu, phê bình văn học đƣơng thời. Ngƣời đầu tiên quan
tâm đến tính sắc sảo trong sáng tác của Nam Cao là Nguyễn Đình Thi trong
bài Nam Cao [149] viết vào những năm 50.
Bƣớc sang những năm 60, nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao của
các nhà nghiên cứu đã ra đời. Mở đầu là hai bài viết Đọc truyện ngắn Nam
Cao, soi lại bước đường đi lên của một nhà văn hiện thực [20] và Con người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
và cuộc sống trong tác phẩm Nam Cao [21] của Huệ Chi – Phong Lê. ở đó,
hai nhà nghiên cứu đã đƣa ra nhiều nhận định và đánh giá khái quát về sự
nghiệp sáng tác của Nam Cao.
Năm 1961, hai nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức cũng đƣa
ra hai công trình nghiên cứu về Nam Cao. Trong đó, Phan Cự Đệ với cuốn
Văn học Việt Nam 1936-1945 [39] đã dành riêng một bài viết công phu tìm
hiểu cuộc đời và sáng tác của tác giả “Nam Cao”. Còn Hà Minh Đức trong
cuốn Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc [42] thì nhìn nhận sáng tác của
Nam Cao ở một góc độ sâu hơn – góc độ điển hình hoá. Nhà nghiên cứu cho
rằng: Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc bởi sáng tác của ông đã đạt
đến trình độ điển hình hoá cao trên nhiều phƣơng diện nghệ thuật, đặc biệt là
nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
Vào những năm 70, các công trình nghiên cứu về Nam Cao vẫn tiếp tục
ra đời, tiêu biểu trong đó phải kể đến giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam
1930-1945 [82] của Nguyễn Hoành Khung. Trong chƣơng Nam Cao, nhấn
mạnh đến tài năng của Nam Cao trong việc nhào nặn những chất liệu hiện
thực rất đỗi thời thƣờng và biến nó thành những vấn đề xã hội có ý nghĩa to
lớn.
Năm 1974, trong cuốn sánh Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại [40], Phan Cự
Đệ một lần nữa lại nhắc đến Nam Cao và đƣa ra nhiều phát hiện mới, độc đáo
về sáng tác của nhà văn. Theo ông, điểm đặc sắc trong tác phẩm của Nam Cao
chính là ở nghệ thuật “miêu tả tâm lý, kết cấu theo quy luật tâm lý, độc thoại
nội tâm”. Ông cho rằng cách thức xây dựng nhân vật của Nam Cao rất gần
với nghệ thuật xậy dựng nhận vật tự ý thức trong sáng tác của Dostôievski và
nhất là Sekhov.
Năm 1976, Hà Minh Đức trong cuốn Nam Cao – tác phẩm [44] đã chỉ ra
sự sâu sắc và tinh tƣờng trong cách xây dựng nhân vật của Nam Cao. Ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
viết: “Nam Cao là nhà văn có nhiều đóng góp về miêu tả tâm lý và khả năng
phản ánh hiện thực qua tâm trạng” [44, 43].
Tháng 7 năm 1977, Nguyễn Đăng Mạnh hoàn thành bài viết “Nhớ Nam
Cao và những bài học của ông” in trong cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn [108]. Trong bài viết, tác giả nhận xét: “Sức hấp dẫn của
Nam Cao còn ở những trang phân tích tâm lý sắc sảo của ông. Nam Cao chú ý
nhiều đến nội tâm hơn ngoại hình nhân vật” [108,183]. Đặc biệt khi đi sâu
vào nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao, Nguyễn Đăng Mạnh còn khẳng định:
“Nam Cao có một lối kể chuyện rất biến hoá, cứ nhập thẳng vào đời sống bên
trong của nhân vật mà dắt dẫn mạch tự sự theo dòng độc thoại nội tâm. Lối kể
chuyện theo quan điểm nhân vật nhƣ thế tạo ra ở nhiều tác phẩm của Nam
Cao, một thứ kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tuỳ tiện mà thực ra thì hết
sức chặt chẽ nhƣ không thể nào phá vỡ nổi” [108,183].
Năm 1982, trong bài viết Nam Cao và đôi nét nghệ thuật sáng tạo tâm lý
[43], giáo sƣ Hà Minh Đức nhận định: “Dòng tâm lý trong tác phẩm của Nam
Cao vận động qua nhiều cảnh ngộ nhƣng vẫn quẩn quanh, tù túng không tìm
đƣợc hƣớng thoát. Nó không đƣợc giao lƣu với hành động nên có những phát
triển ở bên trong, ngày càng đi sâu vào nội tâm. ở đây có những trạng thái tâm
lý gần gũi với miêu tả tâm lý của Dostôievski và đặc biệt là Sekhov” [43,73].
Nhƣ vậy, Hà Minh Đức đã chỉ ra một đặc điểm rất quan trọng trong sáng tác
của Nam Cao là sự ảnh hƣởng của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn
học “dòng ý thức” ở phƣơng Tây thế kỷ XIX. Và đặc điểm này đã chi phối
toàn bộ thế giới nhân vật của Nam Cao.
Năm 1983, Nguyễn Đăng Mạnh trong “Khải luận” - Tổng tập văn học
Việt Nam (tập 30A) [105] đã nhấn mạnh đến tính “đặc sắc tân kỳ” của ngòi
bút Nam Cao. Ông viết: “Truyện Nam Cao đạt tới trình độ điêu luyện trong
nghệ thuật phân tích tâm lý. Nam Cao có khả năng đi vào những trạng thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
tâm lý không rõ ràng. Ông cũng hay đi vào những tính cách phức tạp trong
quá trình diễn biến” [105, 51]. Mặt khác, khi bàn về nghệ thuật trần thuật, nhà
nghiên cứu còn cho rằng “văn kể chuyện Nam Cao biến hoá linh hoạt” rất phù
hợp với cách miêu tả tâm lý nhân vật của ông.
Năm 1992, dựa vào kết quả hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 50 năm
ngày mất của Nam Cao (tổ chức vào tháng 11 năm 1991), Viện văn học cùng
hội văn học nghệ thuật Hà Nam tiến hành biên soạn cuốn Nghĩ tiếp về Nam
Cao [95] do giáo sƣ Phong Lê chủ biên. Cuốn sách là một công trình chung
của nhiều tác giả, tập hợp nhiều ý kiến, đánh giá và tìm tòi, khám phá mới về
Nam Cao. Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đặc biệt
quan tâm đến những bài viết về nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao.
Trƣớc hết, trong bài viết Bi kịch tự ý thức – nét độc đáo trong cảm hứng
nhân đạo của Nam Cao [35], tác giả Đinh Trí Dũng đã chỉ ra “một trong
những điểm độc đáo của bút pháp hiện thực đồng thời cũng là cơ sở cho cảm
hứng nhân đạo của Nam Cao là việc đi sâu tìm hiểu thế giới bên trong đầy
phong phú, phức tạp của tâm hồn con ngƣời” [35,33]. Vì vậy, “các nhân vật
của Nam Cao không có gì khác hơn là vũ khí tinh thần – sự tự ý thức để
chống lại sự tha hoá để bảo vệ bản chất nhân đạo của con ngƣời” [35,34].
Theo tác giả, trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam (1930 – 1945),
không chỉ có các nhân vật của Nam Cao mới có vấn đề tự ý thức nhƣng chƣa
nhà văn nào đƣa đƣợc vấn đề tự ý thức của nhân vật lên đến mức sâu sắc,
“thƣờng trực nhất quán” nhƣ ở ngòi bút Nam Cao.
Trong bài Nam Cao phê phán và tự phê phán [47] của giáo sƣ Hà Minh
Đức, một lần nữa Nam Cao lại đƣợc nhắc đến với trình độ miêu tả và phân
tích tâm lý nhân vật tài tình. Nhà nghiên cứu phát hiện: “Nam Cao đã để cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
dòng tâm lý nhân vật phát triển theo hình thức, và độc thoại nội tâm là
phƣơng thức biểu hiện quan trọng” [47,45].
Bài viết của Phạm Xuân Nguyên về Nam Cao và sự lựa chọn chủ nghĩa
hiện thực mới [121] cũng là một bài viết khai thác bút pháp hiện thực Nam
Cao trên nhiều phƣơng diện. Tác giả nhấn mạnh: “Nam Cao đã lấy sự phân
tích tâm lý làm chính để dựng truyện, dựng nhân vật. Dù nhân vật là nông dân
hay trí thức, kẻ lƣu manh hay ngƣời lƣơng thiện, ngòi bút nhà văn đều khơi
gợi đến các phần cảm, phần nghĩ của chúng, bắt chúng phải tự bộc lộ”
[121,76]. Và trên hết, “cách viết tâm lý tạo cho Nam Cao một khả năng mới
trong mối quan hệ tác giả - nhân vật... Nam Cao đã đa thanh hoá giọng điệu tự
sự...” [121,77].
Lối văn kể chuyện của Nam Cao [132] của Phan Diễm Phƣơng là một
bài viết đƣa ra nhiều phát hiện mới mẻ về nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao.
Tác giả bài viết cho rằng: “Nhìn từ góc độ nào đó sẽ thấy trong ngôn ngữ kể
chuyện của Nam Cao có cái vẻ khách quan lạ lùng... Điều này đƣợc thể hiện
ra không phải bằng những từ ngữ cụ thể, bằng những phƣơng thức tu từ... mà
bằng cách kể, giọng kể của ông... Nam Cao không chỉ kể chuyện mà còn kể
về tâm trạng, và nhiều khi, đến một lúc nào đó truyện sẽ biến thành tâm
trạng...” [132,133].
Ngoài ra, cuốn sách còn tập hợp nhiều bài viết xuất sắc của các tác giả
khác nhƣ: Những biến hoá của chất nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao -
Vƣơng Trí Nhàn [123]; Về các nhân vật dị dạng trong sáng tác của Nam Cao
- Trần Thị Việt Trung [159]; Phong cách truyện ngắn Nam Cao - Vũ Tuấn
Anh [2]; Nghệ thuật văn xuôi truyện ngắn Lão Hạc - Chu Văn Sơn [139]...
Tiếp tục khuynh hƣớng mà hội thảo về Nam Cao năm 1991 đƣa ra, năm
1997-1998, chung quanh dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh Nam Cao, có hai sự
kiện đánh dấu một bƣớc tiến nữa trên con đƣờng tiếp cận sáng tác Nam Cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
Đó là hai công trình nghiên cứu chuyên biệt về Nam Cao của giáo sƣ Phong
Lê với Nam Cao phác thảo sự nghiệp và chân dung [97] và của giáo sƣ Hà
Minh Đức với Nam Cao - Đời văn và tác phẩm [45].
Năm 1998, Trần Đăng Suyền trong bài Nam Cao nhà văn hiện thực xuất
sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn [145] đã nhận định: Phần nhiều tác phẩm
của Nam Cao “đƣợc dệt nên bằng toàn những “cái hàng ngày” chủ yếu liên
quan đến cuộc sống riêng tƣ của các nhân vật” [145,156]. Nhƣng chính
những “cái vặt vãnh nhỏ nhoi, tủn mủn mà nhà văn gọi là “những chuyện
không muốn viết”... lại có sức mạnh ghê gớm” [145,156]. Về nghệ thuật, Trần
Đăng Suyền cho rằng: nghệ thuật miêu tả tâm lý nhận vật đã trở thành “linh
hồn”, “cốt tuỷ” trong sáng tác của Nam Cao.
Năm 2000, Nguyễn Hoa Bằng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Thi pháp
truyện ngắn Nam Cao [14]. Có thể coi đây là công trình nghiên cứu về thi
pháp truyện ngắn Nam Cao tƣơng đối đầy đủ, toàn diện và có hệ thống. Trên
cơ sở phân tích những phƣơng diện đa dạng của thi pháp nhƣ: Ngôn ngữ đa
thanh; nhân vật thời gian – không gian – ý thức; kết cấu đa quan hệ..., tác giả
khẳng định đặc trƣng cơ bản của thi pháp truyện ngắn Nam Cao là “thi pháp
đối thoại”.
Năm 2001, tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng trong luận án Thi pháp hoàn cảnh
trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao viết “thiên nhiên,
cảnh vật trong tác phẩm của Nam Cao không phải chỉ đơn thuần là những bức
tranh phong cảnh. Nhiều khi nó là yếu tố biểu hiện tâm lý” [76,136].
Cũng trong năm này, nhà nghiên cứu Vũ Thăng, với chuyện luận Một
vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao [148] đã khám phá nghệ thuật sáng tác
của Nam Cao ở góc độ thi pháp. Trong chƣơng “Nam Cao – sự khám phá thế
giới nội tâm con ngƣời”, nhà nghiên cứu đƣa ra nhận xét: “Tính chất đa thanh,
phức điệu của tác phẩm Nam Cao có nguồn gốc sâu xa từ cái nhìn hiện thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
mới mẻ rất đỗi đời thƣờng của ông... Đặc điểm của tính phức điệu trong tác
phẩm Nam Cao là khả năng đối thoại, độc thoại đa dạng, nhiều tầng, nhiều
lớp...” [148,60].
Trong cuốn Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao [146], khi tìm hiểu vấn đề
loại hình và thi pháp trong sáng tác của nhà văn, Trần Đăng Suyền viết: “Nam
Cao ít khi lựa chọn một kiểu cốt truyện đƣợc xây dựng trên cơ sở miêu tả
những hành động bên ngoài của nhân vật” [146,39], mà “thƣờng đƣợc xây
dựng trên cơ sở miêu tả những cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật” [146,44].
Và gần đây nhất năm 2007, Bích Thu đã tái bản lần thứ năm cuốn Nam
Cao về tác giả và tác phẩm [151]. Đây là công trình tập hợp tƣ liệu và chọn
lọc những bài viết tiêu biểu về Nam Cao của nhiều tác giả trong gần nửa thế
kỷ qua. Bàn về nghệ thuật miêu tả tâm lý trong truyện ngắn Nam Cao, nhà
nghiên cứu viết: “Nam Cao tỏ ra có sở trƣờng trong miêu tả tâm trạng, quá
trình diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật làm nổi bật bi kịch đời thƣờng, bi
kịch nhân cách, bi kịch tinh thần của con ngƣời” [151,23].
4.1.2. Vấn đề so sánh Nam Cao với các tác giả văn học nước ngoài
Nam Cao là một nhà văn có tầm vóc nổi bật. Điều này đã đƣợc minh
chứng bằng việc nhà nghiên cứu Liên Xô - N.I.Niculin trong ba cuốn từ điển
đồ sộ là Từ điển bách khoa văn học giản yếu [118]; Đại từ điển bách khoa
Liên Xô [119]; Từ điển bách khoa văn học [120] đã dành riêng một mục để
viết về ông. Bên cạnh đó, các tác phẩm của Nam Cao còn đƣợc dịch và giới
thiệu ở một số nƣớc trên thế giới.
ở Việt Nam, hƣớng tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh với các tác giả
văn học nƣớc ngoài đã manh nha từ những năm 60, 70 và 80. Hai nhà nghiên
cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức là những ngƣời đầu tiên đặt Nam Cao bên
cạnh các nhà văn lớn của thế giới nhƣ Sekhov, Dostôievski để thấy đƣợc tầm
vóc nổi bật của ông. Phan Cự Đệ cho rằng “Nam Cao gần Sekhov,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
Dostôievski, nhất là Sekhov” [40,121]. Đồng tình với ý kiến này, Hà Minh
Đức cũng khẳng định cách miêu tả trạng thái tâm lý ở nhân vật Nam Cao
“gần gũi với miêu tả tâm lý của Dostôievski và đặc biệt là Sekhov” [43,73].
Năm 1987, giáo sƣ Phong Lê trong bài viết Nam Cao – nhìn từ cuối thế
kỷ [99] đã khẳng định “Nam Cao có một vị trí tựa A. Sekhov”. Trên cơ sở đó
nhà nghiên cứu cho rằng: “Cả hai, Nam Cao và T.A.Sekhov đều tìm về một
chủ nghĩa hiện thực của đời thƣờng, soi chiếu các giá trị phổ quát của đời
sống...” [99,114].
Bƣớc sang thập niên 90, phƣơng pháp tiếp cận Nam Cao từ góc độ so
sánh đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm và nghiên cứu chuyên sâu hơn. Trong
cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao [3] do giáo sƣ Phong Lê chủ biên đã tập hợp và
giới thiệu với bạn đọc một chùm ba bài viết về Nam Cao từ góc độ so sánh
của ba nhà nghiên cứu là Đào Tuấn ảnh với Tsêkhov và Nam Cao – một sáng
tác hiện thực kiểu mới [3]; Trần Ngọc Dung với Gặp gỡ giữa M.Gorki và
Nam Cao [33]; Và Phạm Tú Châu với Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ
[19]. Trong đó, nhà nghiên cứu Đào Tuấn ảnh đã chỉ ra điểm nổi bật khi đặt
Nam Cao bên cạnh Sekhov là Nam Cao và Sekhov “đều viết về những điều
vặt vãnh của đời sống hàng ngày” [3,203]. Họ đều “khƣớc từ kiểu cốt truyện
truyền thống” và toàn bộ sáng tác của họ “đƣợc xây dựng trên chất trữ tình –
trên tiếng cƣời và nỗi buồn” [3.208].
Còn Trần Ngọc Dung thì cho rằng sự “gặp gỡ giữa M.Gorki và Nam
Cao” là sự gặp gỡ ngẫu nhiên giữa hai nhà tƣ tƣởng lớn, cả hai đều là “hai nhà
nhân đạo chủ nghĩa lớn...” [33,214].
Phạm Tú Châu cũng có nhiều phát hiện độc đáo về cách thức xây dựng
hai nhân vật Chí Phèo cũng nhƣ AQ của hai nhà văn hiện thực xuất sắc Nam
Cao và Lỗ Tấn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
Năm 2004, Viện văn học tổ chức cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100 năm
ngày mất của A.Sekhov. Tại đây, có rất nhiều bài viết tham luận về cuộc đời
sự nghiệp của nhà văn Nga vĩ đại này. Trong đó, có bài viết sâu sắc so sánh
A.Sekhov và Nam Cao của giáo sƣ Phong Lê: A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ
hai nền văn học [98]. Với bài viết này, tác giả đã tìm đến những nét giống và
khác nhau giữa Nam Cao và A.Sekhov . Từ đó, nhà nghiên cứu khẳng định sự
tƣơng đồng giữa Nam Cao và A.Sekhov thể hiện ở “vai trò và sứ mệnh của
mỗi ngƣời đối với lịch sử văn học dân tộc’’ [98,189] và “ở một lối tƣ duy
nghệ thuật độc đáo - đào sâu vào đời sống tâm lý và hƣớng vào cuộc sống nhỏ
nhặt thƣờng ngày’’ [ 98,203].
Năm 2005, dựa trên những thành tựu nghiên cứu đã có, nhà nghiên cứu
Đào Tuấn ảnh lại tiếp tục cho ra đời bài viết: A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ
góc độ thi pháp [4]. Trong bài viết này, nhà nghiên cứu chỉ ra sự tƣơng đồng
và khác biệt giữa Nam Cao và Sekhov trên hai phƣơng diện cụ thể là: Cốt
truyện và kết cấu văn bản trong truyện ngắn của hai nhà văn.
Ngoài ra, hai luận văn thạc sĩ (trƣờng đại học sƣ phạm Thái Nguyênt):
Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Nam Cao (so sánh với thi pháp truyện
ngắn A.Sekhov) của Lƣơng Thị Lan [91] và Sự gặp gỡ giữa Nam Cao và
A.Sekhov trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Cầm Thị Bích Thu
[150] cũng là những khám phá và phát hiện mới mẻ về sáng tác của Nam Cao
trong so sánh với văn hào Nga Sekhov. Tác giả các luận văn đã làm rõ những
đặc điểm cách tân của Nam Cao ở lĩnh vực thi pháp truyện ngắn và đặt chúng
trong cái nhìn đối chiếu với sáng tác của Sekhov dựa trên những phƣơng diện
thi pháp tƣơng đồng.
Nhìn chung, những công trình chuyên biệt nghiên cứu về Nam Cao rất
phong phú và đa dạng với hàng trăm tài liệu. Các bài nghiên cứu đã nhìn nhận
nghệ thuật tự sự của Nam Cao ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
khuôn khổ của đề tài, tác giả luận văn mới chỉ tập trung khai thác các tài liệu
liên quan đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật trong sáng
tác Nam Cao và so sánh Nam Cao với các tác giả văn học nƣớc ngoài. Trên
cơ sở đó, tác giả luận văn hi vọng sẽ tiếp tục khám phá những “hạt ngọc”còn
ẩn giấu trong truyện ngắn Nam Cao, đồng thời đối chiếu nó với nghệ thuật
trong truyện ngắn của một văn hào Nhật Bản có nhiều nét tƣơng đồng với ông
– văn hào Akutagawa.
4.2. Vấn đề nghiên cứu văn học Nhật Bản và Akutagawa
4.2.1. Về văn học Nhật Bản
Văn học Nhật Bản là một nền văn học lớn và độc đáo của Châu Á. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu văn học Nhật Bản ở nƣớc ta còn rất hạn chế. Qua khảo
sát tƣ liệu, tác giả luận văn nhận thấy vấn đề nghiên cứu văn học Nhật Bản ở
Việt Nam tập trung vào hai mảng chính: Nghiên cứu của tác giả Việt Nam và
những công trình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài đã đƣợc dịch sang
tiếng Việt.
4.2.1.1. So với thế giới, việc nghiên cứu văn học Nhật Bản ở nƣớc ta
diễn ra còn chậm và chƣa đồng bộ. Tuy vậy, các công trình và bài viết của các
tác giả Việt Nam đã phần nào cung cấp cho bạn đọc những vấn đề cơ bản
trong việc tiếp nhận văn học Nhật Bản nhƣ: Những vấn đề chung của văn học
Nhật Bản; Vấn đề nghiên cứu một tác giả, tác phẩm; Vấn đề thể loại và vấn
đề so sánh văn học...
Từ những năm 60,70, những bài viết đầu tiên về văn học Nhật Bản đã
đƣợc đăng trên Tạp chí văn học (Miền Nam). Đó là Tiểu thuyết Nhật Bản của
Mai Chƣơng Đức số 90, tháng 6 – 1969 [48]; Vài nét về thơ Nhật Bản,
I.Takuboku của Vĩnh Sính số 90, tháng 6 – 1969 [110]; Kawabata – nhà văn
Nhật Bản đầu tiên được giải Nobel của văn học của Mai Chƣơng Đức số 114,
tháng 3 – 1972 [49]...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
Đến những năm 80, đặc biệt những năm về sau, những bài viết và sách
nghiên cứu về văn học Nhật Bản xuất hiện nhiều và phong phú hơn. Về sách,
có thể nói Nhật Chiêu là nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp nhất trong việc
nghiên cứu văn học Nhật Bản với các cuốn sách có giá trị của ông. Từ năm
1994 đến 2000, Nhật Chiêu đã xuất bản bốn đầu sách về văn học Nhật Bản:
Basho và thơ Haiku (1994) [25]; Nhật Bản trong chiếc gương soi (1997) [28];
Thơ ca Nhật Bản (1998) [26] và Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến năm
1868 (2000) [31] cùng nhiều bài nghiên cứu đặc sắc khác. Ngoài Nhật Chiêu,
còn có hai nhà nghiên cứu Hữu Ngọc và Lƣu Đức Trung. Trong đó, Hữu
Ngọc đã đƣa bạn đọc đến với văn học Nhật Bản qua cuốn Dạo chơi vườn văn
Nhật Bản (1992) [125]. Còn Lƣu Đức Trung thì giới thiệu một tác giả tiêu
biểu với cuốn Y.Kawabata – Cuộc đời và tác phẩm (1997) [160].
Từ những năm 80 đến nay, nhiều bài nghiên cứu sâu sắc về văn học Nhật
Bản đã đƣợc đăng tải trên các tạp chí lớn nhƣ: Tạp chí nghiên cứu văn học,
Tạp chí văn học nước ngoài, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, Tạp chí văn Sài
Gòn... Bàn về những vấn đề chung của văn học Nhật Bản, tác giả các bài viết
đã phác hoạ diện mạo của văn học Nhật Bản qua các thời kỳ với một cái nhìn
khái lƣợc. Trong đó, có thể kể đến những bài nhƣ: Văn học Nhật Bản hiện đại
từ thời Minh Trị đến nay của Nguyễn Tuấn Khanh (Viện thông tin khoa học
xã hội, 1998) [80]; Một số nét đặc trưng của văn học Nhật Bản – Trần Hải
Yến (Nghiên cứu Nhật Bản số 4, 1999) [168]; Các khuynh hướng phản tự
nhiên chủ nghĩa trong văn học Nhật Bản đầu thế kỷ XX – Khƣơng Việt Hà
(Nghiên cứu văn học số 8, 2005) [57].
Vấn đề nghiên cứu một tác giả, tác phẩm cụ thể cũng thu hút sự quan
tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Trong đó, Yasunari Kawabata là nhà
văn đƣợc bàn đến nhiều nhất qua các bài viết: Yasunari Kawabata Người cứu
rỗi cái đẹp–Nhật Chiêu N (Tạp chí văn số 16, 1991) [22]; Truyện ngắn trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
lòng bàn tay hay hồn thơ Kawabata Yasunari – Nhật Chiêu (Tạp chí văn số
xuân, 1996) [24]; Thế giới Kawabata Yasunari (hay là cái đẹp: hình và bóng)
– Nhật Chiêu (Tạp chí văn học số 11, 2000) [29]; Kawabata Yasunari – Lữ
khách muôn đời đi tìm cái đẹp–Nguyễn Thị Mai Liên N (Nghiên cứu văn học)
[93]; Kawabata Yasunari giữa dòng chảy Đông - Tây - Đào Thị Thu Hằng
(Tạp chí văn học số 7, 2005) [62]... Ngoài ra, còn có các bài viết về Oe
Kenzaburo, Matsuo Basho...
Các bài nghiên cứu từ góc độ thể loại cũng chiếm một số lƣợng không
nhỏ trên các tạp chí. Cụ thể là: Đôi điều về thơ Nhật Bản - Nguyễn Xuân Sanh
(Tác phẩm mới số 4, 1992) [135]; Cảm nhận về thơ Haiku – Nhật Chiêu (Tác
phẩm mới số 4, 1992) [136], Một số đặc điểm của thơ Haiku Nhật Bản – Hà
Văn Lƣỡng (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 3, 2002)...
Bên cạnh những vấn đề trên còn có vấn đề so sánh loại hình văn học
(những nét tƣơng đồng và dị biệt) giữa văn học Việt Nam và văn học Nhật
Bản, tiêu biểu là bài viết: So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ Việt
Nam và Nhật Bản của Đoàn Lê Giang (1997) [52]. Trên cơ sở đó, Đoàn Lê
Giang còn đi sâu nghiên cứu các tác giả cụ thể qua bài Basho – Nguyễn Trãi –
Nguyễn Du những hồn thơ đồng điệu (1997) [53]...
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu văn học Nhật Bản của các tác giả Việt
Nam đã có những thành tựu đáng kể với những bài viết chất lƣợng. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn chƣa có cuốn giáo trình nào hoàn chỉnh về văn học Nhật
Bản. Đó là một hạn chế cần đƣợc khắc phục để đáp ứng nhu cầu học tập và
giảng dạy văn học Nhật Bản ở nƣớc ta.
4.2.1.2 Do hạn chế về tình hình nghiên cứu văn học Nhật Bản ở trong
nƣớc nên các bài viết của các tác giả nƣớc ngoài đã đƣợc dịch sang tiếng Việt
cũng đƣợc quan tâm nhiều hơn. Các bài nghiên cứu và sách của các tác giả
nƣớc ngoài viết về văn học Nhật Bản đƣợc dịch chủ yếu từ tiếng Nga và tiếng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
Nhật. Tiêu biểu trong số này là toàn tập Lịch sử văn học Nhật Bản của tác giả
Shuichi Kato [79] do Trần Hải Yến dịch. Cuốn Văn học Nhật Bản từ cổ đại
đến cận đại của tác giả N.I.Konrat [87] cũng là một cuốn sách trình bày hệ
thống tiến trình văn học Nhật Bản qua các thời kỳ và dừng lại ở thời kỳ cận
đại. Ngoài ra là những bài nghiên cứu của các tác giả Kiwao Nomura, Makoto
Ueda và Saeki Shoichi, Keito Matsui Gibson, Peter Metevelis, Tadao Sato,
Oe Kenzaburo... in trong chuyên đề “Văn học Nhật Bản” của Viện thông tin
khoa học xã hội [112].
4.2.2. Về Akutagawa
Với độc giả Việt Nam, cái tên Akutagawa còn khá mới mẻ bởi văn học
Nhật Bản ở nƣớc ta chƣa đƣợc nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu. Vả lại,
ngƣời ta chỉ chú ý đến những nhà văn Nhật đã đoạt giải Nobel văn học. Trong
khi đó, ở Nhật Bản, Akutagawa là một trong những văn hào đƣợc quan tâm và
đánh giá cao nhất. Có thể nói, nếu không có sự tiên phong của Akutagawa,
nền văn học “xứ phù tang” sẽ không có sự toả sáng với hai giải Nobel dành
cho Yasunari Kawabata (1968) và Oe Kenzaburo (1994). Bởi vậy, toàn tập
tác phẩm của ông đã đƣợc tái bản tới ba lần vào những năm 40, 50. Bên cạnh
đó là nhiều công trình nghiên cứu dành cho ông. Nhiều truyện của ông đã
đƣợc dịch ra các thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Tây Ba Nha, Italia...
Trong số những tài liệu tham khảo về Akutagawa, tác giả luận văn đặc
biệt chú ý đến những bài nghiên cứu về truyện ngắn của ông. Trƣớc hết là bài
viết Một đôi nét về Akutagawa và truyện ngắn của ông đƣợc in thay cho lời
kết của cuốn Akutagawa – Tuyển tập truyện ngắn của dịch giả Phong Vũ [1].
ở đó, Phong Vũ nhấn mạnh: “Akutagawa đƣợc coi là một bậc thầy ƣu tú của
truyện ngắn... Trong cuộc đời văn học ngắn ngủi của mình, ông đã tìm tòi
không mệt mỏi, đã vật lộn khá gay go quyết liệt để tự vƣợt lên chính mình,
tìm cho mình một tiếng nói nghệ thuật chân chính, độc đáo” [1,345]. Và điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
nổi bật trong sáng tác của Akutagawa là “mối quan tâm của ông tới thế giới
nội tâm, đến tâm lý con ngƣời: Nó nhƣ một đối tƣợng của nhận thức chứ
không chỉ là sự giải thích hành động của con ngƣời... Hơn nữa, ông chỉ ra thế
giới nội tâm không phải tự thân mà trong sự va chạm với thế giới xung
quanh” [1,345]. Trong bài viết này, Phong Vũ đã điểm lại những truyện ngắn
tạo bƣớc ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của Akutagawa cùng giá trị nội dung,
nghệ thuật của những truyện ngắn đó.
Trong tƣ liệu dịch Lịch sử văn học Nhật Bản của Shuichi Kato (Trần Hải
Yến dịch) [79], Akutagawa đƣợc nhắc đến nhƣ một trong những đại biểu xuất
sắc mở đầu cho nền văn học hiện đại Nhật Bản. Shuichi Kato khẳng định
Akutagawa là “nhà văn sáng tạo tiêu biểu nhất của thời đại... sự đa dạng về
hình thức và nội dung trong truyện ngắn của ông lớn hơn nhiều bất kỳ tác
phẩm của nhà văn đồng thời nào với ông” [79,41]. Bàn về nội dung tƣ tƣởng
của Akutagawa, Shuichi Kato cho rằng Akutagawa “không ngừng nhận thức
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Marx” [79,41] và ông giác ngộ giai cấp hơn là
dân tộc. Cho nên “tinh thần chống chủ nghĩa quân phiệt, chống chủ nghĩa
quốc gia và tự do chủ nghĩa thấm đƣợm từ đầu đến cuối trƣớc tác của
Akutagawa” [79,42]. Trong mỗi tác phẩm của mình, Akutagawa luôn thể hiện
một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông không những cảm thông với những kiếp
ngƣời đau khổ mà còn phản ánh thời đại với sự thay đổi chóng vánh và những
thói tật của nó. Shuichi Kato kết luận: “Các truyện ngắn của Akutagawa
thƣờng kết hợp hai yếu tố: Chân lý nhân đạo muôn thuở và đặc tính của một
thời kỳ đặc biệt” [79,44]. Về hình thức nghệ thuật, tác phẩm của Akutagawa
là một điển hình cho sự ảnh hƣởng của nghệ thuật văn xuôi phƣơng Tây hiện
đại. Shuichi Kato nhận định: Akutagawa hiểu sâu sắc “từ kịch của
Shakespeare đến kịch Irish, từ Villon đến Paul Valery” [79,43]. Ông “thƣờng
trích dẫn Strind berg, Nietzsche, Gogol, Dostoievski, Flaubert và Baudelaire”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
[79,43]. Tác phẩm của Akutagawa còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn nghệ thuật
tự sự hiện đại trong tác phẩm của Swift và Sammuel Butler thế nhƣng
Akutagawa lại không bao giờ từ bỏ văn hoá truyền thống. Ông luôn có ý thức
kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa Đông và Tây một cách hài hoà.
Bài viết Các khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa trong văn học Nhật
Bản đầu thế kỷ XX của Khƣơng Việt Hà [57] cũng nói đến Akutagawa trong
vai trò là ngƣời đứng đầu của khuynh hƣớng sáng tác theo “chủ nghĩa tân
hiện thực” - “một khuynh hƣớng dung hoà đƣợc những tinh hoa lý trí của chủ
nghĩa tự nhiên và sắc màu lãng mạn phóng túng của chủ nghĩa duy mỹ, thể
hiện một phong cách riêng biệt hoà trộn giữa hiện thực và huyền ảo”
[57,126]. Khi bàn về giá trị của sáng tác Akutagawa, tác giả Khƣơng Việt Hà
đã ca ngợi tác phẩm của Akutagawa là “những sáng tác hiện thực mà sự đa
dạng về nội dung và hình thức của chúng lớn hơn bất cứ tác phẩm của nhà
văn nào cùng thời với ông, phản ánh sự nhạy cảm nội tâm và chiều sâu trí
thức của một ngƣời am hiểu văn chƣơng Nhật Bản truyền thống, văn học
Trung Hoa cổ điển và tƣ tƣởng phƣơng Tây hiện đại” [57,126].
Để độc giả Việt Nam hiểu rõ về văn học Nhật Bản, năm 1998, Viện
thông tin khoa học xã hội đã xuất bản cuốn sách tập hợp các chuyên đề
nghiên cứu về Văn học Nhật Bản. Trong số các bài viết của các tác giả Việt
Nam và nƣớc ngoài, tác giả luận văn lƣu ý đến bài viết của tác giả Nguyễn
Tuấn Khanh về Văn học Nhật Bản hiện đại từ thời Minh Trị đến nay [80]. ở
đó, Nguyễn Tuấn Khanh đã dành gần một trang để nói về Akutagawa. Ông
nhấn mạnh: “Akutagawa là nhà viết truyện nổi tiếng... Ông cố gắng kết hợp
văn hoá Châu Âu và văn hoá Nhật Bản” [80,97]. Tuy thấm nhuần văn hoá
phƣơng Tây nhƣng Akutagawa lại lấy đề tài trong văn học cổ Nhật Bản và
Trung Quốc, “ông không chạy theo đề tài phƣơng Tây và những khuynh
hƣớng tự nhiên chủ nghĩa” [80,97]. Và tác phẩm của ông “mang lại một tiếng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
chuông độc đáo: trở về gốc truyền thống nhƣng phân tích tâm lý hiện đại...
pha trộn hiện thực và huyền ảo, văn chƣơng hoa mỹ nhƣng súc tích, bố cục
chặt chẽ” [80,97].
Nhƣ vậy, so với những tài liệu nghiên cứu về Nam Cao thì tài liệu về văn
học Nhật Bản và Akutagawa còn khá ít ỏi. Đó là một khó khăn cho tác giả
luận văn trong quá trình nghiên cứu và so sánh. Tuy vậy, các bài nghiên cứu
trên là nguồn tƣ liệu tham khảo quý giá giúp chúng tôi xem xét nghệ thuật tự
sự trong các truyện ngắn của nhà văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề đặt ra, luận văn sử dụng các phƣơng pháp cơ bản
sau:
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp phân tích
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và thƣ mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chƣơng:
Chương 1: Thời đại của Nam Cao và Akutagawa– Những nét tƣơng
đồng và khác biệt
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật của truyện ngắn Nam Cao và
Akutagawa
Chương 3: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Nam Cao và
Akutagawa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
Chƣơng 1
THỜI ĐẠI CỦA NAM CAO VÀ AKUTAGAWA - NHỮNG
NÉT TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
1. Bối cảnh lịch sử, tình hình văn hoá và văn học Việt Nam và Nhật
Bản cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX.
1.1.1. Những nét khác biệt
Có thể khẳng định rằng điểm khác biệt nổi bật và xuyên suốt lịch sử Việt
Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là sự khác biệt về thể chế.
Tuy là hai quốc gia châu C nhƣng do sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau
nên trong cùng một thời điểm lịch sử, hai nƣớc đã đi theo hai con đƣờng, hai
chế độ hoàn toàn khác nhau.
Ở Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng vào cửa bể Đà
Nẵng chính thức xâm lƣợc nƣớc ta. Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông rồi ba
tỉnh miền Tây Nam Kì, chúng đánh ra Bắc Kì và Trung Kì. Trƣớc sự xâm
lƣợc của thực dân Pháp, dân tộc ta đã tiến hành một cuộc chiến đấu quyết liệt
chống kẻ thù. Tuy nhiên, giai cấp phong kiến dần dần đã thoả hiệp và đầu
hàng thực dân Pháp nên các cuộc đấu tranh của nhân dân đều bị thất bại. Sau
hai hiệp ƣớc năm 1883 và 1884, triều đình nhà Nguyễn đã phải công nhận nền
đô hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Bƣớc sang đầu thế kỉ XX,
sau khi đã bình định nƣớc ta thành công, thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay
vào công việc khai thác thuộc địa. Chúng tăng cƣờng bóc lột nhân công rẻ
mạt và vơ vét tài nguyên. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
tập trung ở ba mặt cơ bản: Bán hàng hoá, khai thác nguyên liệu và cho vay
lãi. Công nghiệp chỉ đƣợc phát triển trong giới hạn không hại đến công
nghiệp chính quốc, đóng khung trong phạm vi cung cấp cho chính quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
những nguyên liệu hay những sản vật mà Pháp thiếu. Cụ thể nhƣ là: độc
chiếm thị trƣờng, mua rẻ nông phẩm (chủ yếu là gạo, tơ tằm) và bán đắt công
nghiệp phẩm cho nhân dân, độc quyền ngoại thƣơng; Độc quyền các ngành
kinh doanh quan trọng từ khai thác mỏ, giao thông đến làm muối, nấu rƣợu,
độc quyền ngân hàng đầu tƣ vào các ngành lợi cho việc vơ vét tài nguyên,
hàng hoá để xuất khẩu; Lợi dụng quyền thống trị về chính trị, thực dân duy trì
bộ máy quan liêu, cƣờng hào và những luật lệ, chính sách sƣu thuế phong
kiến để ra sức chiếm đoạt ruộng đất, tạo ra các vùng sản xuất xuất khẩu (cao
su, cà phê, gạo...), tăng cƣờng bóc lột tô thuế, sƣu dịch, làm phá sản nông dân
và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ mạt phục vụ cho các công trình
xây dựng, khai thác của chúng. Kết quả của công việc đó là nuớc ta bị kéo
vào quỹ đạo chủ nghĩa tƣ bản nhƣng không đƣợc công nghiệp hoá mà lại biến
thành thị trƣờng tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu hàng xuất khẩu cho thƣơng
nghiệp Pháp. Lợi nhuận rơi vào túi Pháp còn nhân dân ta thì bị bần cùng hoá,
bị phá sản, trở thành nguồn nhân công đông đảo và rẻ mạt cho các hãng buôn,
các chủ thầu đồn điền của Pháp. Trong khi đó, thực dân Pháp vẫn tiếp tục duy
trì mô hình kinh tế phong kiến trên cơ sở phân phối ruộng đất và phân phối
sản xuất mới. Vì thế, vào những năm đầu thế kỉ XX, nƣớc ta đã chính thức trở
thành nƣớc thuộc địa nửa phong kiến chịu sự bảo hộ toàn quyền của thực dân
Pháp.
Nếu nhƣ ở Việt NamN, năm 1858 là thời điểm đánh dấu sự chuyển biến
quan trọng về lịch sử xã hội thì ở Nhật Bản, năm 1868 cũng là một thời điểm
nhƣ thế. Vào giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Mạc Phủ ở Nhật Bản bƣớc
vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Đó là nguyên nhân dẫn đến cuộc cách
mạng năm 1868 nhằm xoá bỏ chế độ Tôkƣgaoa và thiết lập chính phủ mới
của Thiên hoàng Mâygi. Cuộc cách mạng này đƣợc đánh giá là cuộc cách
mạng tƣ sản vì nó mở đƣờng cho quan hệ tƣ bản chủ nghĩa phát triển và thắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
lợi ở Nhật Bản. Nhƣng nó lại không đem chính quyền về tay giai cấp tƣ sản.
Sau khi giành đƣợc chính quyền, Thiên hoàng Mâygi (Minh Trị) đã tiến hành
duy tân đất nƣớc theo mô hình của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây với khẩu
hiệu: “theo phƣơng Tây, học phƣơng Tây, đuổi kịp và vƣợt phƣơng Tây” trên
tất cả các phƣơng diện: hành chính, xã hội, quân đội, giáo dục, kinh tế - tài
chính và đối ngoại. Vì vậy, sau cách mạng năm 1868, nền công nghiệp và
kinh tế Nhật Bản đã phát triển vƣợt bậc. Tuy nhiên, vào đầu thế kỉ XX, các
nƣớc phƣơng Tây đã chuyển giai đoạn từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Bởi thế, thời kì này, các công ty và các hãng độc quyền đã
xuất hiện ở Nhật Bản, đánh dấu sự chuyển biến của Nhật Bản sang giai đoạn
chủ nghĩa đế quốc, tham gia tranh giành thuộc địa với các cƣờng quốc đế
quốc khác. Sự kiện nổi bật đánh dấu sự thay đổi của xã hội Nhật Bản là chiến
tranh Nga – Nhật (1904-1905). Sau cuộc chiến tranh này, Nhật Bản đã đạt
đƣợc mục tiêu đề ra từ buổi đầu lên ngôi của thiên hoàng Mâygi là bình đẳng
với các nƣớc phƣơng Tây đồng thời tiến hành xâm chiếm thuộc địa. Nhiều
nƣớc trong khu vực đã trở thành thuộc địa của Nhật nhƣ: Đài Loan, Mãn
Châu, Triều Tiên... Sau chiến tranh Nga – Nhật, từ năm 1914 đến năm 1919,
Nhật Bản tham gia vào chiến tranh thế giới thứ nhất với tƣ cách là một nƣớc
đế quốc trong liên minh với Anh, Nga và Pháp. Nhƣng trên thực tế, Nhật đã
lợi dụng cuộc xung đột giữa hai nhóm đế quốc (Anh, Nga, Pháp và Đức, Áo,
Hung, Italia) để hoàn thành việc chiếm lãnh thổ Trung Quốc. Do đó, kết thúc
chiến tranh, Nhật là ngƣời thắng trận và nghiễm nhiên ngồi vào ghế những
nƣớc chiến thắng ở hội nghị Vecxai (1919) và hội nghị Oasintơn (1921) để
giành nhiều quyền lợi về kinh tế và tài chính.
Nhƣ vậyN, cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Việt Nam và Nhật Bản đã đi
theo hai chế độ khác nhau. Nếu nhƣ Việt Nam bị xâm lƣợc và trở thành nƣớc
thuộc địa nửa phong kiến chịu sự thống trị của thực dân Pháp thì Nhật Bản lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
tiến hành cải cách đất nƣớc theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa và nhanh chóng
phát triển thành nƣớc đế quốc chủ nghĩa đi xâm lƣợc và bóc lột các nƣớc
khác.
1.1.2. Những nét tương đồng
Tuy có sự khác biệt về thể chế nhƣng giữa Việt Nam và Nhật Bản vẫn có
những điểm tƣơng đồng về lịch sử xã hội. Điểm tƣơng đồng dễ nhận thấy
nhất là sự tƣơng đồng về cuộc sống của nhân dân hai nƣớc.T
Mặc dù Nhật Bản đã cơ bản trở thành một nƣớc tƣ bản vào đầu thế kỉ
XX nhƣng điều đó không làm cho cuộc sống của nhân dân Nhật Bản tốt đẹp
hơn. Công nhân có đồng lƣơng thấp, điều kiện làm việc rất thiếu thốn, không
có bảo hộ lao động, không có bảo trợ xã hội. Còn với nông dân, chính sách
cải cách địa tô đã không giúp đƣợc ngƣời nông dân thoát khỏi nghèo túng mà
còn làm cho nhiều ngƣời bị mất đất phải rời bỏ quê hƣơng hoặc làm tá điền
cho bọn địa chủ. Do vậy, vào thời điểm lịch sử này, các phong trào đấu tranh
của các tầng lớp nhân dân và các trào lƣu tự do dân chủ diễn ra sôi nổi ở Nhật
Bản. Cùng với các phong trào đòi tự do và dân quyền của giai cấp tƣ sản,
cuộc đấu tranh của nông dân chống cƣỡng bức lao động và sƣu thuế cao đã
diễn ra khắp nơi. Các cuộc đấu tranh đều bị chính quyền đàn áp đẫm máu.
Song phong trào vẫn không bị dập tắt. Nhân dân không chỉ đòi quyền lợi cho
cuộc sống riêng mình mà còn mong muốn củng cố nền độc lập của tổ quốc,
đòi xoá bỏ hoàn toàn các hiệp ƣớc bất bình đẳng đã kí.
Tƣơng tự nhƣ vậyT, đời sống của nhân dân Việt Nam duới chế độ thực
dân nửa phong kiến cũng vô cùng cực khổ. Muốn nắm chặt thuộc địa, thực
dân Pháp cần nắm chính quyền các cấp và kiểm soát chặt chẽ nhân dân, chúng
cần có một bộ máy cai trị trung thành và đắc lực, cần tạo đƣợc một cơ sở xã
hội thích hợp với chế độ của chúng. Tuyệt đại đa số nông dân ở nông thôn
xƣa nay vẫn chịu ảnh hƣởng tinh thần của thân sĩ, nho sĩ, đã từng là lực lƣợng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
chống đối lại sự xâm lƣợc của thực dân Pháp một cách ngoan cƣờng trong
nhiều năm. Bởi thế, họ không những bị thực dân Pháp đàn áp, chém giết để
khuất phục, chiếm đoạt mà còn bị tăng cƣờng bóc lột để giảm nhẹ chi phí cho
chính quốc, tăng thu nhập cho ngân sách thuộc địa. Kết quả đã dẫn đến nhiều
nông dân bị bần cùng hoá và buộc phải ly khai khỏi ảnh hƣởng của thân sĩ,
nho sĩ. Chính sách bóc lột hà khắc của thực dân Pháp đã làm cho nhiều nông
dân bị phá sản, mất hết ruộng đất, kéo theo đó là sự xác xơ của xóm làng và
sự phá sản của nông nghiệp. Trong khi đó, các đô thị xuất hiện ngày càng
nhiều, thu hút những ngƣời nông dân chạy loạn, những ngƣời nông dân bị phá
sản và cả những ngƣời bỏ nông thôn ra thành thị mong kiếm ăn đƣợc dễ dàng
hơn. Nhƣng ở thành thị đông đúc, ngƣời khôn của khó, có nhiều nghề cũng
không dễ kiếm ăn. Những ngƣời nông dân, thợ thủ công bị phá sản một phần
trở thành công nhân nhà máy, hầm mỏ, hoặc đi phu làm đƣờng, làm đồn
điền; phần lớn còn lại biến thành những anh bồi, anh xe, những vú em con
sen, những ngƣời buôn thúng bán mẹt và không ít trở thành gái điếm, lƣu
manh. Một tầng lớp tiểu tƣ sản dân nghèo thì sống bấp bênh, cực khổ ở
thành thị.
Điểm tƣơng đồng thứ hai là việc tiếp xúc với văn minh phƣơng Tây
trong bối cảnh riêng của hai nƣớc.§
Có thể nói việc đón nhận thành tựu của văn minh phƣơng Tây là một sự
kiện to lớn đối với đất nƣớc mặt trời mọc. Trong thời kì MâygiC, để đạt đƣợc
mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, Nhật Bản chủ trƣơng học
tập phƣơng Tây trên mọi phƣơng diện. Về xã hội, phong trào Âu hoá phát
triển rầm rộ, đô thị đƣợc xây dựng theo kiểu phƣơng Tây. Ngƣời Nhật từ ăn
mặc đến đầu tóc đều làm giống hệt phƣơng Tây, lịch dƣơng còn đƣợc thay thế
cho lịch âm truyền thống. Về quân đội, hải quân Nhật đƣợc mô phỏng theo
Anh, còn lục quân thì theo kiểu Pháp. Đặc biệt về giáo dục, hệ thống giáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
dục của Nhật đƣợc phỏng theo mô hình của Pháp. Chính phủ Nhật Bản rất coi
trọng việc mời các chuyên gia ngƣời Mỹ, Đức, Anh, Pháp và cả Nga về làm
cố vấn và giảng dạy. Nhật Bản đã chi rất nhiều tiền để mua kĩ thuật hiện đại
của châu Âu, tranh thủ mọi cơ hội học hỏi các chuyên gia để nắm vững các kĩ
thuật hiện đại. Nhờ tinh thần học hỏi phƣơng Tây nên chỉ trong một thời gian
ngắn, Nhật Bản đã làm nên điều “thần kì”, hoàn thành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nƣớc và trở thành một nƣớc tƣ bản chủ nghĩa sánh ngang với các
nƣớc tƣ bản phƣơng Tây.
Cũng tiếp xúc với văn minh phƣơng Tây, nhƣng con đƣờng để ánh sáng
phƣơng Tây vào Việt Nam lại khác Nhật Bản. Theo chân thực dân Pháp, văn
minh Âu châu tràn vào Việt Nam theo tinh thần bắt buộc chứ không tự
nguyện nhƣ Nhật Bản. Để phục vụ cho mục đích cai trị nƣớc ta, thực dân
Pháp đã mở các trƣờng hậu bổ, trƣờng Pháp - Việt, trƣờng cao đẳng đào tạo
những ngƣời Tây học. Mặt khác, chúng còn đƣa hàng hóa châu Âu và lối
sống phƣơng Tây vào nƣớc ta để “ru ngủ’ thanh niên khiến họ quên đi nỗi
nhục mất nƣớc. Vì vậy, văn minh phƣơng Tây có mặt ở khắp nơi. ở thành thị,
ngƣời ta đua nhau đi học tiếng Tây, việc ăn bơ sữa, mặc ngắn gọn, bắt tay
chào hỏi nhau trở nên bình thƣờng trong cuộc sống. Ngƣời ta bắt đầu tìm cách
sống thế nào cho thanh lịch với việc xây dựng những nhà hát lộng lẫy, quán
trà lôi cuốn lịch sự. Báo chí cũng trở thành “món ăn’ tinh thần với những tin
tức “thời thƣợng”. Cuộc sống trở nên bon chen, phức tạp, gấp gáp hơn. Đặc
biệt, văn hoá và văn học phƣơng Tây đƣợc truyền bá vào nƣớc ta bằng nhiều
con đƣờng đã thu hút sự quan tâm của tầng lớp trí thức Tây học. Tất cả thực
tế ấy đã làm cho bộ mặt xã hội của nƣớc ta cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX có
nhiều thay đổi. Ban đầu, nhiều ngƣời không chấp nhận cái mới, muốn bài trừ
nó đặc biệt là thế hệ những ông đồ Nho. Nhƣng dần dần cái mới chinh phục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
đƣợc cả những ngƣời khó tính nệ cổ và trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống xã hội mới.
Những thay đổi về đời sống xã hội tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi về văn
hoá và tình hình văn học. Tuy nhiên, do đời sống xã hội ở một nƣớc thuộc địa
khác xa nhiều so với một nƣớc tƣ bản nên dấu ấn để lại trong văn hoá và văn
học có nhiều khác biệt.
1.2. Những nét tương đồng và khác biệt về tình hình văn hoá và văn học
1.2.1. Về văn hoá
Ngay từ buổi đầu hình thành và chƣa có chữ viết, ngƣời Việt và ngƣời
Nhật cổ đã phải mƣợn văn tự của Trung Quốc. Do đó, nhìn tổng quan, văn
hoá cổ trung đại Việt Nam và Nhật Bản chịu sự chi phối không nhỏ của văn
hoá Trung Hoa. Tuy nhiên, mức độ của sự chi phối đó khác nhau. Nhật Bản là
một quần đảo tách biệt với phần lục địa châu Á, bởi vậy, tuy văn hóa Trung
Quốc có ảnh hƣởng đến Nhật Bản nhƣng ngƣời Nhật lại không lệ thuộc và mô
phỏng theo nền văn hoá “mẹ” ấy mà đã khéo léo kết hợp văn hoá Trung Hoa
với văn hoá bản địa để tạo nên một nền văn hoá Nhật Bản riêng biệt, độc đáo.
Ngƣợc lại với Nhật Bản, Việt Nam là một đất nƣớc nhỏ bé nằm bên cạnh
Trung Quốc, hơn nữa còn bị Trung Quốc đô hộ hơn một nghìn năm. Vì vậy,
văn hoá Việt là sự mô phỏng của văn hoá từ chƣơng Trung Hoa, chịu ảnh
hƣởng của triết học Trung Hoa cổ đại một cách rõ nét.
Đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX§, một lần nữa Việt Nam và Nhật Bản
lại có sự tƣơng đồng về văn hoá khi cả hai nƣớc cùng tiếp xúc với văn minh,
văn hoá phƣơng Tây. Và sự kiện văn hóa nổi bật của thời kì này là quá trình
Âu hoá với sự phát triển của phong trào Khai sáng. ở Nhật, phong trào Khai
sáng là một hoạt động quan trọng đi liền với giai cấp tƣ sản trong buổi đầu
thiết lập chế độ tƣ bản. Khái niệm Khai sáng gắn với khái niệm phƣơng Tây
mà trƣớc hết là hình ảnh của các nƣớc Anh, Pháp, Mỹ, Nga. Trong đó, chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
nghĩa tƣ bản Anh và Mỹ là khuôn mẫu đối với Nhật Bản trong suốt một thời
kì dài. Bởi thế, hai nƣớc tƣ bản này đã để lại dấu ấn đậm nét trong toàn bộ quá
trình Âu hoá và phong trào Khai sáng ở Nhật. Nhiệm vụ của phong trào này là
đấu tranh với trật tự cũ và thiết lập chế độ mới - chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Và
ngƣòi đặt nền móng về tƣ tƣởng cho chủ nghĩa tƣ bản công nghiệp Nhật Bản
là Phƣkƣjava Yakichi. Lúc đầu, Phƣkƣjava nghiên cứu “khoa học Phần Lan”,
ông lợi dụng cái “lỗ thông hơi” của Nhật Bản là Nagasaki (thƣơng cảng có
nhiều ngƣời phƣơng Tây sinh sống) để thâm nhập văn hoá Âu châu vào nƣớc
Nhật đang đóng kín mọi phía. Sau khi tri thức châu Âu ào ạt đổ vào Nhật
Bản, Phƣkƣjava liên tiếp xuất bản các cuốn sách kêu gọi nhân dân, đặc biệt là
thế hệ trẻ của Nhật nghiên cứu khoa học, học tập châu Âu để cách tân đất
nƣớc. Trong đó phải kể đến các công trình nhƣ: Các tri thức về phương Tây,
Khoa học vẫy gọi...[86, 197-198]. Tuy nhiên, trong các công trình này,
Phƣkƣjava cũng nhấn mạnh một vấn đề hết sức quan trọng trong việc học hỏi
phƣơng Tây là: Để xây dựng thể chế tƣ bản, bên cạnh việc nhanh chóng nắm
bắt khoa học hiện đại châu Âu thì vấn đề độc lập cũng có ý nghĩa không nhỏ.
Học tập phƣơng Tây không có nghĩa là chịu sự đe doạ và trở thành nô lệ của
nó. Phong trào Khai sáng do Phƣkƣjava khởi xƣớng, chính là dấu hiệu của
nền văn hoá mới. Nó đặt ra nhiệm vụ đƣa vào Nhật Bản những tri thức châu
Âu, cổ động cho những hình thức kinh tế mới và một chế độ chính trị mới.
Sau Phƣkƣjava, Nakamƣra Kênƣ, Katô Hirayƣki... là những ngƣời đã tiếp tục
các hoạt động phong trào Khai sáng của ông. Nhờ những “nhân vật” này, mọi
tƣ tƣởng tiến bộ nhất của phƣơng Tây đã đƣợc đƣa vào Nhật Bản, đƣợc hấp
thụ và nhanh chóng biến nƣớc Nhật thành một đế quốc hùng mạnh vào những
năm đầu thế kỉ XX.
Cũng nhƣ ở Nhật BảnC, phong trào Khai sáng ở Việt Nam đƣợc khởi
xƣớng vào những năm cuối thế kỉ XIX. Sự kiện đáng chú ý trong đời sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
văn hoá tƣ tƣởng của nƣớc ta vào lúc này là những chủ trƣơng cải cách xã hội
của một số sĩ phu cấp tiến có dịp ra nƣớc ngoài, tiếp xúc trực tiếp với văn hoá
phƣơng Tây hoặc đọc sách của phƣơng Tây. Tiêu biểu trong số này là những
đề nghị cải cách của Nguyễn Trƣờng Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. Nguyễn
Trƣờng Tộ là một giáo dân yêu nƣớc, ngƣời Nghệ An. Ông là ngƣời học cao,
biết rộng và đi nƣớc ngoài nhiều năm, đặc biệt là Pháp. Đề nghị cải cách của
Nguyễn Trƣờng Tộ bao gồm nhiều mặt về nông nghiệp, thƣơng nghiệp, tài
chính, quân sự, nội trị, ngoại giao, giáo dục, văn hoá, xã hội. Tinh thần chung
trong cải cách của ông là phản đối thái độ phục cổ, chú trọng thực tiễn và
khoa học kĩ thuật. Riêng những chủ trƣơng về văn hoá, giáo dục của ông có ý
nghĩa tiến bộ đặc biệt. Tuy nhiên, những đề nghị của ông đều không đƣợc
triều đình nhà Nguyễn chấp nhận. Nối gót Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch cũng gửi nhiều đề nghị cải cách. Ông chủ trƣơng mở rộng giao lƣu với
nƣớc ngoài trong việc học kỹ nghệ. Nhƣng rồi cũng nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ,
những đề nghị của Nguyễn Lộ Trạch cũng bị triều đình quên lãng. Không
những thế, triều đình nhà Nguyễn còn tiếp tay cho Pháp ngăn cản việc phát
triển văn hoá mới của nhân dân ta. Bƣớc sang đầu thế kỉ XX, kế thừa tinh
thần cải cách của Nguyễn Trƣờng Tộ và Nguyễn Lộ Trạch, nhiều phong trào
yêu nƣớc đã bùng lên mạnh mẽ, kết hợp cứu nƣớc với duy tân đất nƣớc.
Trong đó, cuộc đấu tranh giữa cái mới với cái cũ đã thu hút sự quan tâm của
toàn xã hội. Bên cạnh những phong trào cải cách văn hoá, xã hội của những sĩ
phu yêu nƣớc còn phải kể đến chính sách văn hoá nô dịch của thực dân Pháp
nhằm làm cho nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt với văn hoá truyền thống.
Trƣớc hết, chúng muốn cách ly hai nền văn hoá Việt Nam và Trung Quốc, cắt
đứt mối quan hệ giữa văn học yêu nƣớc cách mạng Việt Nam và Trung Quốc.
Chúng khuyến khích việc truyền bá văn chƣơng uỷ mị của nƣớc Trung Hoa
nửa thuộc địa nửa phong kiến, đƣa văn hoá phƣơng Tây, trƣớc hết là văn hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
Pháp vào Việt Nam nhằm gây sự khiếp phục. Không những thế, thực dân
Pháp còn đàn áp những nhà chí sĩ, mua chuộc và sử dụng các nhà Nho bằng
các “trƣờng hậu bổ”, “ban tƣ thƣ” để đánh tan khối cố kết lâu đời của lớp trí
thức Nho học. Cùng với việc hạn chế rồi đi đến thủ tiêu việc học hành và thi
chữ Hán, thực dân Pháp còn đào tạo những ngƣời Tây học, thoạt đầu chỉ để
làm phiên dịch, sau đó chủ yếu làm công chức trung thành của nhà nƣớc bảo
hộ. Chúng cho những công chức này hô hào đổi mới văn hoá, văn học Việt
Nam nhƣng thực chất là để đồng hoá, tiêu diệt văn hoá nƣớc ta. Ban đầu, có
những nhà văn, nhà văn hoá của ta bị cuốn vào quỹ đạo của chính sách văn
hoá thực dân. Tuy vậy, vẫn còn nhiều nhà trí thức lúc này có tinh thần yêu
nƣớc và tinh thần dân tộc, họ tiếp thu những thành tựu của văn hoá phƣơng
Tây nhƣng họ không quên nỗi nhục mất nƣớc và những giá trị của văn hoá
dân tộc. Vì vậy, họ đã tìm lối thoát bằng cách tham gia phong trào cách
mạng của nhân dân. Nam Cao là nhà văn tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn
này. Đó chính là điểm khác biệt cơ bản về văn hoá của một nƣớc thuộc địa
nửa phong kiến với một nƣớc tƣ bản trẻ trong buổi đầu đƣợc Khai sáng và
Âu hoá.
Văn hoá là nhân tố tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học. Nhờ
có phong trào Khai sáng trong văn hoá cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XX mà nền
văn học của hai nƣớc Việt Nam và Nhật Bản đã đƣợc hiện đại hoá và đạt
đƣợc nhiều thành tựu rực rỡ.V
1.2.2. Về văn học
Điểm chung về văn học của Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX là đều đƣợc hiện đại hoá. Ở Nhật, quá trình ấy bắt đầu từ thời Minh
Trị khi mà “luồng gió” phƣơng Tây đƣợc thổi vào Nhật Bản. Khoảng 20 năm
đầu thời kỳ Minh Trị, văn đàn Nhật Bản bƣớc vào giai đoạn chuyển mình. Đó
là giai đoạn văn học làm quen, học hỏi, bắt chƣớc và thể nghiệm những phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29
cách phƣơng Tây để chuẩn bị cho một nền văn học mới ra đời. Những sách
chính trị, khoa học, triết học, văn học của Âu châu đƣợc dịch ồ ạt ở Nhật Bản.
Về văn học, một số phóng tác theo các nhà văn Pháp: Huygô, Dôla, Giuylơ đã
kích thích óc tƣởng tƣợng của độc giả. Những bậc thầy lớn khác nhƣ
Sêchxpia, L.Tônxtôi, Gơt, Đôtxtôiepxki... cũng đƣợc dịch và giới thiệu. Năm
1885, cuốn sách Thần cốt (tinh tuý của tiểu thuyết) của Kubuchi Soyo – nhà
phê bình chuyên nghiên cứu văn học Anh là một mốc quan trọng của nền văn
học mới Nhật Bản. Tác giả cuốn sách phê phán tính chất tầm thƣờng của
truyện Nhật Bản lúc đó chỉ nặng về miêu tả tình dục (với đề tài gái giang hồ,
võ sĩ...). Ông chủ trƣơng tiểu thuyết phải khơi sâu tình cảm đằng sau hành
động, theo mẫu văn học Anh. Trên tinh thần đó, nền văn học Nhật Bản lúc
này đã tiếp thu nhiều trào lƣu tƣ tƣởng và thành tựu của văn học phƣơng Tây
đƣợc thể hiện trong các sáng tác của: Futabalei Shimei (1864-1909), Mori
Ogai (1862-1892), Natsume Soseki (1867-1916), Shimazaki Toson (1872-
1943).... Các nhà văn này đều chịu ảnh hƣởng lớn của bốn nền văn học: Nga,
Đức, Anh, Pháp. Đây là bƣớc ngoặt lớn của nền văn học Nhật mới. Vào cuối
thời Minh Trị tức là từ khoảng những năm 20, nhịp sống tƣ bản chủ nghĩa
hiện đại, sự cạnh tranh tƣ bản, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, … đã có tác động mạnh mẽ đến văn học. Nét chung của
văn học Nhật Bản lúc này là văn học phƣơng Tây vẫn không ngừng hấp dẫn
các nhà văn trong khi truyền thống lại trở thành đề tài mới khơi nguồn cảm
hứng. Biểu hiện cao nhất của quá trình hiện đại hoá nền văn học lúc này là sự
phân hoá nền văn học thành nhiều trào lƣu sáng tác nh ƣ: Chủ nghĩa tự do,
chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa
tự nhiên … Trong mỗi trào lƣu này lại chia ra làm nhiều xu hƣớng, trƣờng
phái nhỏ, chẳng hạn: Dư dụ phái, chủ nghĩa duy mỹ, bạch hoa phái, chủ
nghĩa tân hiện thực, … Đây đƣợc gọi chung là những khuynh hướng phản tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
nhiên trong văn học và mỗi khuynh hƣớng này đều quy tụ nhiều cây bút lỗi
lạc của văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX. Trong đó, Akutagawa là cây bút
xuất sắc nhất đồng thời là thủ lĩnh của xu hƣớng sáng tác theo chủ nghĩa tân
hiện thực.
Ở Việt Nam, quá trình hiện đại hoá văn học cũng đƣợc diễn ra từ đầu thế
kỉ XX khi mà bối cảnh lịch sử xã hội cũng nhƣ văn hoá ở nƣớc ta đang có
thay đổi lớn lao và sâu sắc. Quá trình này đƣợc đánh dấu bằng các thành tố cụ
thể là: chữ viết, thể loại, diện mạo của văn học và đội ngũ sáng tác, công
chúng văn học. Văn chƣơng Việt đã sử dụng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán
và chữ Nôm. Nhờ có chữ Quốc ngữ mà chỉ trong một thời gian ngắn nền văn
học đã đạt thành tựu rực rỡ chƣa từng có. Về thể loại, những thể loại mới,
hiện đại đƣợc du nhập từ phƣơng Tây đã chiếm ƣu thế và mang lại thành tựu
đáng kể. Các thể loại phát triển nhiều nhất là: thơ mới, tiểu thuyết (bằng văn
xuôi), truyện ngắn, ký, phóng sự, … Về đội ngũ sáng tác, một đội ngũ sáng
tác mới đƣợc hình thành và mang tính chuyên nghiệp. Văn chƣơng lúc này đã
trở thành một thứ hàng hoá và viết văn cũng trở thành một nghề mà nhà văn
có thể dựa vào đó để kiếm sống. Các nhà văn phần lớn đều xuất thân từ các
trƣờng Tây học. Về công chúng văn học thì đã có sự xuất hiện của lớp công
chúng văn học mới thuộc nhiều tầng lớp khác nhau (đặc biệt là tầng lớp thị
dân trung lƣu). Về diện mạo văn học, quá trình hiện đại hoá nền văn học đƣợc
diễn ra qua 3 bƣớc. Và mỗi bƣớc phát triển này, nền văn học có một diện mạo
riêng. Bƣớc một là từ đầu thế kỉ đến năm 1920, bƣớc hai là từ những năm 20
đến những năm 30 và bƣớc ba là từ những năm 30 đến 1945. Văn học đạt
thành tựu rực rỡ và hiện đại hoá là bƣớc ba từ 1930-1945. Lực lƣợng sáng tác
của giai đoạn này là tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản Tây học đƣợc thức tỉnh về ý
thức cá nhân, có lòng yêu nƣớc và yêu tiếng nói dân tộc. Tuy nhiên, do tình
hình chính trị, xã hội diễn ra phức tạp nên nền văn học giai đoạn này có sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31
phân hoá thành nhiều trào lƣu (xu hƣớng) và bộ phận văn học trong quá trình
phát triển. Về bộ phận văn học, văn học chia làm hai bộ phận: hợp pháp và
bất hợp pháp. Còn về xu hƣớng (trào lƣu) văn học, văn học phân ra làm ba
trào lƣu: văn học lãng mạn, văn học hiện thực và văn học cách mạng. Và cũng
nhƣ văn học Nhật Bản, các trào lƣu (xu hƣớng) này đều hội tụ những nhà văn
xuất sắc và tiêu biểu nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam nửa đầu thế kỉ
XX. ở đó, Nam Cao là nhà văn tiêu biểu cho trào lƣu hiện thực phê phán.
Tuy nhiên, nói đến hiện đại hoá cũng có nghĩa là nói đến mô hình
phƣơng Tây trong văn học. Hầu hết các nhà văn của chủ nghĩa hiện đại và hậu
hiện đại đều đƣợc dịch, giới thiệu trong giai đoạn văn học này nhƣ:
L.Tônxtôi, Đôtxtôiepxki, Sekhov, Franz Kafka, Albert Camus, André
Breton... Văn học Pháp cũng có ảnh hƣởng không nhỏ đến các nhà văn đƣơng
thời của ta. Đó là những ảnh hƣởng của văn học hiện thực phê phán cổ điển
kiểu Balzac, Stendhal; chủ nghĩa tự nhiên của Zola; chủ nghĩa lãng mạn kiểu
Chateau briand, Huygô, Lamartime và chủ nghĩa tƣợng trƣng ở Baudelaire...
Đặc biệt, André Gide là ngƣời để lại dấu ấn đậm nét trong suốt một thời gian
dài đối với các sáng tác của các nhà văn Nhất Linh, Khái Hƣng, Nguyễn
Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng...
Nhƣ vậyN, nền văn học đƣợc hiện đại hoá do sự ảnh hƣởng của phƣơng
Tây và sự phân hoá nền văn học thành nhiều trào lƣu (xu hƣớng) là điểm
tƣơng đồng giữa văn học Việt Nam và văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX. Tuy
vậy, bản thân hai nền văn học vẫn có nhiều điểm khác biệt do sự tác động của
hoàn cảnh xã hội và văn hoá ở hai nƣớc. Những nét tƣơng đồng và khác biệt
đó là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu sự tƣơng đồng và khác biệt về cuộc đời và
văn nghiệp của Nam Cao và Akutagawa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32
2. Những tác động của hoàn cảnh xã hội đối với cuộc đời, sự nghiệp
văn học của Nam Cao và Akutagawa.
2.1. Cuộc đời
Nhƣ đã biết, Nam Cao và Akutagawa là hai nhà văn lớn của Việt Nam và
Nhật Bản. Đó là nét tƣơng đồng lớn nhất giữa hai nhà văn này. Nhƣng nếu
nhìn nhận và đối sánh cuộc đời của hai nhà văn ở phƣơng diện lịch sử xã hội
thì sẽ thấy sự khác biệt rất lớn về cuộc đời của họ.
Akutagawa sinh năm 1892 nhƣng sau đó ông đã mất mẹ khi chƣa đầy
một tuổi và cả tuổi thơ của mình, ông đã sống mà không có tình thƣơng của
mẹ. Ông đã phải làm con nuôi trong một gia đình ngƣời già sống nhiều đời ở
khu phố Shitamachi của Tokyo và lấy họ của bà ta là Akutagawa. May thay
dòng họ này có văn hoá lại đặc biệt hâm mộ nền văn học cổ điển Nhật Bản,
Trung Quốc. Trong gia đình này, ngƣời bác nuôi chính là ngƣời luôn luôn
khơi gợi và động viên đứa cháu côi cút lòng say mê văn học cổ điển. Năm
1898, Agutagawa vào tiểu học. Và ngay chính thời gian này, Akutagawa đã
bộc lộ rõ khả năng văn học đặc biệt của ông khi ông đọc đƣợc tác phẩm của
Tôkutômi Rôca - một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của Nhật Bản thời
đó. Suốt những năm trung học, rồi đại học, Agutagawa là một học sinh xuất
sắc và niềm ham mê lớn nhất của ông là sách. Chính những năm ở trên ghế
nhà trƣờng là thời kỳ hình thành đời sống tinh thần của nhà văn lớn tƣơng lai
của Nhật Bản. Akutagawa quan tâm đến tác phẩm của nhiều nhà văn hào lớn
của thế giới, trong đó không ít ngƣời có ảnh hƣởng đến đời văn của ông.
Nhƣ vậyN, tuy có một tuổi thơ côi cút và đáng thƣơng nhƣng Akutagawa
lại đƣợc nuôi dƣỡng và sinh thành trong một gia đình có truyền thống văn
học. Hơn nữa, thời đại mà Akutugawa sống là một thời đại hết sức thuận lợi
cho sự nghiệp văn học của ông. Akutagawa đã đƣợc với tiếp xúc với văn
minh phƣơng Tây một cách toàn diện và dễ dàng vì xã hội Nhật Bản lúc này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33
đang tiến nhanh và mạnh theo các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây. Điều này giải
thích vì sao ông có hiểu biết sâu sắc về tác phẩm của các nhà văn bậc thầy
trên thế giới nhƣ: Môpátxăng, Ipxen, Xtrinberg, Becna Sô, Tônxtôi, anh em
Gôngcua, Nisơ, Véclen, Đôtxtôiepxki, Phlôbe, Bôđơle, Phrăngxơ, Sêkhôv,
Gôgôn, Tuốcghênhép …
Ngƣợc lại với Akutagawa, Nam Cao lại sinh ra và lớn lên ở một đất nƣớc
thuộc địa nửa phong kiến tăm tối và ngột ngạt. Làng Đại Hoàng - nơi ông sinh
ra là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội ấy. Làng Đại Hoàng của Nam Cao ở
một vùng xa phủ, huyện nên bọn cƣờng hào chức dịch trong làng đƣợc dịp
hoành hành. Nơi đây, hàng năm, thƣờng xảy ra những vụ kiện tụng lẫn nhau
giữa những bọn giàu có, nhiều thế lực, dẫn đến cảnh không ít những ngƣời
nông dân phải rời bỏ làng quê đi tha phƣơng cầu thực. Những sự việc có thực
diễn ra ở đây đã đƣợc ghi lại trên trang sách của Nam Cao với dấu ấn nặng nề
về một vùng quê đói nghèo và tăm tối.
Nam Cao sinh trƣởng trong một gia đình nghèo, đời sống khá chật vật,
trong các anh em, chỉ có mình Nam Cao đƣợc đi học. Đói nghèo, bệnh tật
theo đuổi Nam Cao ngay từ khi còn nhỏ. Thi trƣợt Thành chung, Nam Cao
theo một ngƣời cậu làm thợ may vào Sài Gòn kiếm sống. Rời bỏ cái làng quê
nghèo đói và tù túng, Nam Cao mang theo nhiều mơ ƣớc và dự định lớn lao.
Nam Cao ấp ủ giấc mơ một ngày nào đó sẽ đƣợc sang Pháp để đƣợc nhìn
rộng, biết nhiều, học cao hơn. Những tƣởng những miền xa quê hƣơng sẽ mở
ra một chân trời mới lạ, nhƣng rốt cuộc bệnh tật lại trả Nam Cao về với nơi
chôn rau cắt rốn.
Cũng là một ngƣời trí thứcC, Nam Cao ham hiểu biết và mơ ƣớc đƣợc đi
xa, tiếp xúc và học hỏi phƣơng Tây. Nhƣng xã hội mà Nam Cao sống đã bóp
nghẹt mơ ƣớc của ngƣời tri thức tiểu tƣ sản ấy và đẩy ông ta trở lại với cuộc
sống quẩn quanh nơi làng quê đói nghèo, tù túng. Đây là lý do lý giải tại sao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34
các tác phẩm của Nam Cao lại đi vào những chuyện vặt vãnh đời thƣờng,
những chuyện tƣởng chừng nhƣ không muốn viết với những con ngƣời cũng
hết sức đời thƣờng hiện hữu xung quanh cuộc sống của nhà văn. Tuy vậy, tác
phẩm của Nam Cao vẫn chịu ảnh hƣởng sâu sắc của các văn hào lớn nhƣ:
Sekhov, Đốtxtôiepxki…
Bên cạnh nét khác biệt cơ bản này, giữa Nam Cao và Akutagawa còn
nhiều điểm tƣơng đồng thú vị về cuộc đời. Điểm nổi bật nhất là cả hai nhà
văn đều là nhà giáo trƣớc khi trở thành một nhà báo, một nhà văn. Sau khi tốt
nghiệp khoa văn học Anh và ngôn ngữ văn học Đại học Hoàng gia Tôkyô,
Akutagawa làm giáo viên dạy tiếng Anh tại trƣờng Cơ khí Hàng hải ở
Camacura. Ba năm sau, ông trở về Tôkyô làm việc trong toà soạn báo Ôxaca
Mainiti và từ đó ông dành trọn trí tuệ và tâm hồn cho nghề văn.
Còn Nam Cao, sau khi trở về từ Sài Gòn, ông thi đậu Thành chung. Nam
Cao định xin đi làm công chức, nhƣng vì bệnh tật nên không đƣợc chấp nhận.
Một ngƣời trong họ hàng của Nam Cao mở trƣờng tƣ ở Hà Nội (trƣờng tƣ
thục Công Thanh, Thụy Khuê, Hà Nội) cần một giáo viên có bằng trung học,
Nam Cao đƣợc mời lên dạy học. Cuộc sống của một thầy giáo khổ trƣờng tƣ
đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc thân phận của ngƣời tiểu tƣ sản trí thức nghèo
trong một xã hội ngột ngạt, bế tắc. Khi phát xít Nhật xâm lƣợc Đông Dƣơng,
trƣờng bị đóng cửa, Nam Cao sống chật vật bằng nghề viết văn, làm gia sƣ,
có khi thất nghiệp phải về quê ăn bám vợ. Năm 1943, Nam Cao bí mật gia
nhập nhóm Văn hóa cứu quốc cùng một số nhà văn nhƣ Tô Hoài, Nguyên
Hồng, Nguyễn Huy Tƣởng, Nguyễn Đình Thi… Khi cơ sở Văn hoá cứu quốc
và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về quê và
tham gia phong trào Việt Minh ở địa phƣơng. Thời kỳ Cách mạng tháng Tám,
Nam Cao tham gia cƣớp chính quyền ở Phủ Lý Nhân và đƣợc bầu làm chủ
tịch xã. Sau đó ít lâu, Nam Cao đƣợc điều lên Hà Nội và công tác ở Hội Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35
hoá cứu quốc. Có thời kỳ, Nam Cao đƣợc làm ở toà soạn tạp chí Tiên phong -
cơ quan của Hội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân
tiến vào Nam Trung Bộ. Năm 1946, ông lên Việt Bắc. Những năm kháng
chiến chống thực dân Pháp, Nam Cao vừa làm biên tập cho các báo Cứu quốc
Việt Bắc, Cứu quốc trung ương, vừa làm mọi công việc của một cán bộ thông
tin tuyên truyền với việc: viết tin, viết tài liệu giải thích các chính sách, làm ca
dao tuyên truyền, viết truyền đơn địch vận…
Đặc biệt, Nam Cao và Akutagawa đều mất khi tuổi đời còn rất trẻ. Nam
Cao mất khi 36 tuổi còn Akutagawa thì vừa tròn 35 tuổi và cùng để lại vợ và
các con. Cái chết của cả hai nhà văn này đều do tác động sâu sắc từ phía hoàn
cảnh xã hội. Tuy nhiên, nếu cái chết của Nam Cao là do tác động tích cực thì
của Akutagawa lại do tác động tiêu cực. Nam Cao hy sinh tháng 11 năm
1950, khi đang làm nhiệm vụ của một ngƣời chiến sỹ cách mạng bảo vệ quê
hƣơng. Ông bị địch phục kích và bắn chết gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình)
khi trên đƣờng vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu Ba. Trong khi đó,
Akutagawa thì chọn cái chết bằng cách tự vẫn (1927) vì cuối đời, ông luôn bị
ám ảnh bởi cuộc khủng hoảng của giới trí thức tƣ sản trƣớc thế đi lên của chủ
nghĩa quân phiệt phát xít. Cái chết của ông là lời tố cáo đanh thép xã hội Nhật
Bản đƣơng thời.
2.2. Sự nghiệp văn học
Nam Cao và Akutagawa đều là những cây bút trƣởng thành trong một
giai đoạn lịch sử có nhiều biến động và thay đổi ở hai dân tộc, hai quốc gia
châu Á. Bởi vậy, lẽ tất nhiên hoàn cảnh lịch sử đã có tác động không nhỏ đến
sự nghiệp văn học của hai nhà văn. Nam Cao cũng nhƣ Akutagawa đều có sự
nghiệp sáng tác chia hai giai đoạn. Nếu ở Nam Cao, cái mốc để phân chia hai
giai đoạn ấy là năm 1945 thì ở Akutagawa là năm 1920.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36
2.2.1. Giai đoạn sáng tác thứ nhất
Ở giai đoạn thứ nhất, Nam Cao có sáng tác đăng báo từ năm 1936, nhƣng
sự nghiệp văn học của ông chỉ thực sự bắt đầu từ truyện ngắn Chí Phèo
(1941). Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống ngƣời
trí thức tiểu tƣ sản nghèo và cuộc sống ngƣời nông dân ở quê hƣơng.
Ở đề tài ngƣời trí thức tiểu tƣ sản, Nam Cao có các truyện ngắn: Những
chuyện không muốn viết, Giăng sáng, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ,
Cười, Nước mắt, Đời thừa và tiểu thuyết Sống mòn (1944). Trong những sáng
tác này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống
dở chết của những nhà văn nghèo, những giáo khổ trƣờng tƣ, học sinh thất
nghiệp. Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó, đặt
ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn, vƣợt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là
tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của ngƣời trí thức, có ý nghĩa sâu
sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh
thần, nhƣng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công, vô
lý làm cho bị chết mòn về tinh thần. Những tác phẩm đó đã phê phán xã hội
phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống và tàn phá con ngƣời. Đồng thời, chúng thể
hiện sự vật lộn bên trong của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong thực tế cố vƣơn
tới một cuộc sống có ý nghĩa.
Ở đề tài nông dân, nhà văn quan tâm trƣớc hết đến những kẻ cố cùng, bị
ức hiếp nhiều nhất, những thân phận hẩm hiu, thiệt thòi nhất. Những con
ngƣời ấy càng hiền lành nhịn nhục thì càng bị chà đạp phũ phàng, và ông
càng đặc biệt quan tâm đến những trƣờng hợp ngƣời nông dân bị lăng nhục
một cách độc ác, bất công mà chẳng qua vì họ nghèo đói, khốn cùng. Bởi vậy,
Nam Cao luôn bênh vực quyền sống và nhân phẩm những con ngƣời bất
hạnh, bị xã hội đẩy vào tình cảnh nhục nhã đó (Chí Phèo, Một bữa no, Tư
cách mõ, Lang rận…). Viết về những ngƣời nông dân bị lƣu manh hoá, nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37
văn đã kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và linh hồn ngƣời
nông dân lao động. Đồng thời, ông còn phát hiện và khẳng định bản chất
lƣơng thiện đẹp đẽ của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập đến mất cả hình
ngƣời, tính ngƣời. Chiều sâu mới mẻ của ngòi bút hiện thực và nhân đạo Nam
Cao chính là ở chỗ đó. Tác phẩm của Nam Cao không những đã vạch ra nỗi
khổ cùng cực của ngƣời nông dân mà còn thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ,
cao quý trong tâm hồn của họ (Lão Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo).
Ở giai đoạn sáng tác này, Nam Cao chƣa tham gia phong trào cách mạng
vì vậy các sáng tác của ông chủ yếu là cách hiểu, cách cảm riêng của nhà văn
về thân phận con ngƣời trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Giai đoạn này,
Nam Cao đƣợc đánh giá là một nhà văn hiện thực phê phán, một nhà nhân
đạo chủ nghĩa.
Trong thời kì sáng tác thứ nhất, tác phẩm của Akutagawa chủ yếu mang
màu sắc hoang đƣờng kỳ ảo. Tác phẩm đầu tiên của ông là truyện ngắn Cổng
thành Raxiômôn. Truyện đƣợc xây dựng dựa trên một câu chuyện lịch sử của
thế kỷ X - XII. Và đại đa số các truyện ngắn của Akutagawa đƣợc sáng tác
trong giai đoạn này đều là những truyện mang tính chất lịch sử của Trung
Quốc, Nhật Bản và phƣơng Tây (Cổng thành Raxiômôn, Những nỗi thống khổ
của địa ngục, Sợi tơ nhện). Nhƣng thực ra, trong những truyện ngắn này, lịch
sử chỉ là cái cớ để ông phản ánh hiện tại vì chúng hoàn toàn không có mục
đích tái hiện cổ đại. Những con ngƣời trong các truyện đƣợc gọi là truyện lịch
sử lại hoàn toàn không phải là lịch sử mà hầu nhƣ là con ngƣời hiện đại.
Akutagawa đặt chúng vào những hoàn cảnh khác thƣờng và tạo nên một màu
sắc hoang đƣờng nào đó để nghiên cứu tính cách con ngƣời và để đặt ra
những vấn đề đạo đức, thẩm mỹ hiện đại. Ngoài các truyện mƣợn truyện lịch
sử, truyện ngắn của Akutagawa còn trải rộng trên nhiều đề tài. Tiệc khiêu vũ
và Con nộm nói về sự tiếp thu của văn minh Âu tây thời Meiji; Cái chết của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38
một con chiên và Truyện Thánh Christopher viết về thời ngƣời ngoại quốc
đến truyền giáo; Hứng sáng tác và Cánh đồng phố tái hoạ lại đời sống sáng
tạo của các nghệ sĩ và những truyện viết cho thiếu nhi. Qua những truyện
ngắn này, ông nhấn mạnh đến thói tật của con ngƣời, về sự không hoàn hảo
của con ngƣời và xã hội. Và xét ở mặt nào đó, ông lên án sâu sắc xã hội hiện
đại mà ông đang sống . Các nhà phê bình ngợi ca những truyện ngắn của
Akutagawa trong giai đoạn này là những sáng tác “tân hiện thực”.
2.2.2. Giai đoạn sáng tác thứ hai
Vào đầu những năm 20, khi phong trào cách mạng, trong đó có phong
trào của giới trí thức tiến bộ Nhật Bản phát triển, Akutagawa đặc biệt quan
tâm theo dõi. Các hiện tƣợng của cao trào cách mạng là những sự kiện quan
trọng tác động đến đời sống tinh thần của nhà văn. Năm 1921, ông đi Trung
Quốc với tƣ cách là phóng viên tờ báo Ôxaca Mainiti. Tại đó, ông tận mắt
chứng kiến cuộc đấu tranh chính trị nảy lửa ở Trung Quốc. Sau chuyến đi
này, Akutagawa đã tỉnh táo hơn để đánh giá những sự kiện chính trị, xã hội
diễn ra tại Nhật Bản. Sau chuyến đi năm 1921, lập trƣờng, tƣ tƣởng và quan
niệm văn chƣơng của Akutagawa đã có nhiều thay đổi. Từ năm 1921 đến
1927, những tác phẩm của ông đã hƣớng tới những đề tài có tính chất hiện đại
và rộng lớn hơn, chuyển từ việc phê phán sự không hoàn thiện của cá nhân tới
sự không hoàn thiện của hệ thống xã hội nói chung. Đất nước của các thuỷ
dân là một trong những tác phẩm cuối cùng đồng thời là tác phẩm thành công
nhất của Akutagawa đã làm nổi bật tƣ tƣởng này.
Tất cả những sáng tác của Akutagawa đều thể hiện một phong cách riêng
biệt hoà trộn giữa hiện thực và huyền ảo với bút pháp hoa mỹ mà súc tích.
Chúng cho thấy khả năng trực giác nhạy bén và phạm vi quan tâm rộng lớn
của Akutagawa. Phần lớn các sáng tác này đều mang văn phong mỉa mai và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39
gợi tả sâu sắc theo khuynh hƣớng tân hiện thực, phản ánh tinh thần chống chủ
nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa quốc gia và tự do chủ nghĩa của tác giả.
Trở lại với nhà văn Nam Cao. Năm 1945 ở Việt Nam là thời điểm lịch sử
quan trọng đánh dấu sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà độc lập sau 87 năm chịu sự thống trị và đô
hộ của thực dân Pháp. Nam Cao là một nhà văn chiến sĩ. Vì thếT, sự kiện này
đã ảnh hƣởng rất lớn đến tƣ tƣởng cũng nhƣ lập trƣờng sáng tác của nhà văn.
Từ năm 1943, Nam Cao đã tham gia vào phong trào Văn hoá cứu quốc cùng
với một số nhà văn khác nên sau Cách mạng tháng Tám, ông lao mình vào
mọi công tác cánh mạng và kháng chiến. Năm 1948, Nam Cao viết trên báo
Cứu quốc: “Cuộc kháng chiến đã biến đổi hẳn cuộc sống của chúng ta, cuộc
sống ở quanh ta, biến đổi từ y phục, ngôn ngữ, cử chỉ của từng ngƣời, biến
đổi cả đến sự sinh hoạt tình cảm và tƣ tƣởng” (Vài ý nghĩ về văn nghệ). Trong
nhiều bài bút kí (Chuyện biên giới, Vài nét ghi qua vùng giải phóng, Trên
những con đường Việt Bắc,...), nhật ký (ở rừng), truyện ngắn (Đôi mắt),
chúng ta đã thấy rõ những đổi mới lớn lao trong con ngƣời Nam Cao, khác
với tâm trạng u tối, nặng nề của nhà văn trƣớc Cách mạng. Chúng ta có thể
bắt gặp trên từng trang giấy tâm trạng vui tƣơi, phấn khởi của một con ngƣời
lạc quan và tin tƣởng. Nếu nhƣ trƣớc Cách mạng, Nam Cao dùng ngòi bút của
mình để tố cáo những mặt đen tối của xã hội thực dân nửa phong kiến thì sau
Cách mạng, trải qua thực tế đấu tranh, Nam Cao đã đi đến một quan niệm
thực sự đúng đắn về nghệ thuật. Ông chỉ ra mối liên hệ khăng khít giữa nghệ
thuật với quần chúng. Những tƣ tƣởng Nam Cao trình bày trong các sáng tác
thời kỳ này đƣợc đánh giá là “kim chỉ nam” về lập trƣờng tƣ tƣởng cho các
nhà văn đƣơng thời. Trên cơ sở những chuyển biến về thế giới quan và quan
điểm nghệ thuật, con đƣờng sáng tác của Nam Cao đã chuyển sang một bƣớc
phát triển mới. Từ một nhà văn hiện thực phê phán dần dần Nam Cao đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40
chuyển sang một nhà cách mạng. Ông tự nguyện làm ngƣời cán bộ tuyên
truyền vô danh của cách mạng, có ý thức rèn luyện lập trƣờng, tƣ tƣởng tình
cảm, khắc phục những sai lầm, hạn chế của thế giới quan cũ. Sau Cách mạng,
Nam Cao vẫn tiếp tục viết về đề tài tiểu tƣ sản và tri thức. Đôi mắt là tác
phẩm có giá trị trong giai đoạn sáng tác này. Thái độ của nhà văn trong Đôi
mắt là thái độ phê phán kịch liệt những phần tử trí thức không chịu chuyển
mình theo thời đại. Với Đôi mắt, Nam Cao đã đứng trên quan điểm của một
ngƣời cách mạng để nhìn nhận và phê phán cái cũ trong con ngƣời trí thức.
Bên cạnh Đôi mắt, nhật kí ở rừng cũng là một tác phẩm có giá trị trong giai
đoạn sáng tác sau Cách mạng của Nam Cao. Tác phẩm đề cao hình ảnh một
ngƣời thanh niên tiểu tƣ sản sôi nổi nhiệt tình cách mạng. Ngƣời thanh niên
ấy đã không ngừng phấn đấu và rèn luyện với một tinh thần lạc quan, tin
tƣởng để vƣơn lên theo kịp thời đại.
* Tiểu kết
Nhìn chung, thời đại sống của hai nhà văn Nam Cao (Việt Nam) và
Akutagawa (Nhật Bản) là thời đại mà thế giới nói chung, Châu Á nói riêng
diễn ra nhiều sự kiện trọng đại. Đó là sự xâm lƣợc và tranh giành thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất tàn
khốc và sau đó là sự lớn mạnh và bành trƣớng của chủ nghĩa phát xít. Bởi thế,
dù hai dân tộc Việt Nam và Nhật Bản đi theo hai con đƣờng, hai số phận khác
nhau nhƣng bối cảnh lịch sử xã hội cũng nhƣ bối cảnh văn hoá và văn học của
hai quốc gia vẫn có những điểm tƣơng đồng. Về xã hội là sự tƣơng đồng về
cuộc sống của nhân dân hai dân tộc, sự thâm nhập của văn minh và lối sống
phƣơng Tây. Về văn hóa là sự hình thành và phát triển của quá trình Âu hoá
và phong trào Khai sáng. Từ đó dẫn đến hai nền văn học đƣợc hiện đại hoá.
Những điểm tƣơng đồng ấy là cơ sở để tìm hiểu và so sánh sự nghiệp sáng tác
của Nam Cao và Akutagawa. Mặc dù, hai nhà văn sinh ra và trƣởng thành ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41
hai quốc gia khác biệt và mỗi ngƣời cũng có một số phận riêng nhƣng trong
cuộc đời và sự nghiệp văn học của họ, ta vẫn thấy có điểm tƣơng đồng thú vị.
Trong những chƣơng tiếp theo, chúng ta sẽ làm rõ sự giống và khác nhau của
hai nhà văn qua việc so sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ng?n c?a h?.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42
CHƢƠNG 2
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT CỦA TRUYỆN
NGẮN NAM CAO VÀ AKUTAGAWA
1. Khái niệm nhân vật nhƣ một phƣơng thức tự sự
Nhân vật hay nhân vật văn học là một phạm trù quen thuộc trong nghiên
cứu văn học. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi, nhân vật là “con ngƣời cụ thể đƣợc miêu tả trong tác
phẩm văn học... là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ƣớc lệ, không thể đồng nhất
nó với con ngƣời có thật trong đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn
học là khái quát tính cách của con ngƣời... Nên nhân vật văn học là ngƣời dẫn
dắt độc giả vào các môi trƣờng khác nhau trong đời sống. Nhân vật văn học
còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tƣởng thẩm mỹ của nhà văn về con
ngƣời...” [59,235-236].
Lại Nguyên Ân trong “150 thuật ngữ văn học” định nghĩa: “Nhân vật
văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ƣớc lệ, không thể bị đồng
nhất với con ngƣời có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những
nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan
niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời; nó có thể đƣợc xây dựng chỉ dựa
trên cơ sở quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhận vật văn học chỉ có thể đƣợc trong
hệ thống một tác phẩm cụ thể. Vai trò và đặc trƣng của nhân vật văn học bộc
lộ rõ nhất trong phạm vi vấn đề “nhân vật và tác giả” [6,250]. Đặc biệt, Lại
Nguyên Ân còn nhấn mạnh: nhân vật văn học là “phƣơng thức nghệ thuật
nhằm khai thác những nét thuộc đặc tính của con ngƣời” nên nó “có ý nghĩa
trƣớc hết ở các thể loại văn học tự sự, kịch” [6,250]. ở thể loại tự sự, ngƣời ta
quan tâm đến loại “nhân vật tự sự” để phân biệt với “nhân vật trữ tình” và
“nhân vật kịch”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43
Trong tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò vừa là chủ thể vừa là đối
tƣợng của nghệ thuật kể chuyện. Khi có chức năng là một chủ thể, nhân vật
đóng vai trò là ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba kể về mình
hoặc ngƣời khác. Còn khi có chức năng là đối tƣợng, nhân vật ngƣợc lại
không phải là ngƣời kể mà là ngƣời đƣợc kể từ một ngƣời khác cũng ở ngôi
thứ nhất hoặc ngôi thứ ba nào đó. Từ phƣơng diện này, các nhà nghiên cứu
cho rằng: “Nhân vật là phƣơng thức thể hiện tƣ tƣởng nghệ thuật cũng nhƣ
quá trình tƣ duy tự sự của tác giả” [63,89]. Vì vậy, nghiên cứu nhân vật chính
là nghiên cứu một phạm trù cơ bản trong nghệ thuật tự sự của nhà văn.
Các nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao và Akutagawa là những nhân
vật đƣợc xuất hiện với cả hai vai trò chủ thể và đối tƣợng của sự kể. Những
nhân vật nhƣ thế đƣợc các tác giả khai thác sâu ở thế giới nội tâm và dòng tƣ
duy bên trong. Mỗi nhân vật của Nam Cao và Akutagawa luôn đƣợc đặt trong
một quá trình tự ý thức sâu sắc về mình và thế giới xung quanh cho dù nhân
vật ấy xuất hiện với vai trò nhƣ thế nào. Từ đặc điểm này, chúng tôi sẽ khai
thác nhân vật tự ý thức của Nam Cao và Akutagawa để làm nổi bật những nét
tƣơng đồng và khác biệt về phƣơng diện nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
truyện ngắn của hai nhà văn.
2. Kiểu nhân vật tự ý thức của Nam Cao và Akutagawa
Nhƣ đã biết, vào thời đại mà Nam Cao và Akutagawa sống, văn minh và
văn hoá phƣơng Tây bắt đầu tràn vào các nƣớc Châu Á, trong đó có Việt Nam
và Nhật Bản. Nếu nhƣ ở Nhật Bản, hoàng đế Mâygi chủ trƣơng học tập
phƣơng Tây để duy tân đất nƣớc thì ở Việt Nam, thực dân Pháp lại đƣa văn
hoá phƣơng Tây vào để đồng hoá văn hoá nƣớc ta. Trƣớc bối cảnh đó, tình
hình văn học của hai nƣớc đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Các thành tựu của
văn học phƣơng Tây đƣợc du nhập vào hai quốc gia và đƣợc các nhà văn
đƣơng thời “hấp thu” một cách nhanh chóng. Các kĩ thuật và phƣơng pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44
sáng tác của văn học châu Âu thế kỉ XIX đã trở thành “một luồng gió mới”
thổi vào các sáng tác đƣơng thời, làm cho chúng mang màu sắc mới mẻ và
hiện đại. Nhƣ một sự gặp gỡ tình cờ, Nam Cao và Akutagawa cùng chịu ảnh
hƣởng của một trào lƣu, một phƣơng pháp sáng tác điển hình của phƣơng Tây
thế kỉ XIX là “chủ nghĩa hiện thực phê phán”. Chính điều này đã chi phối
đến tƣ duy sáng tác của hai nhà văn. ở Việt Nam, Nam Cao đƣợc đánh giá là
ngƣời đƣa trào lƣu hiện thực phê phán phát triển đến đỉnh cao. Còn ở Nhật
Bản, Akutagawa cũng đƣợc tôn vinh là thủ lãnh của trƣờng phái sáng tác văn
học theo “chủ nghĩa hiện thực kiểu mới”. Do điều kiện lịch sử khác nhau nên
có rất ít khả năng hai nhà văn chịu ảnh hƣởng của nhau nhƣng qua tác phẩm
của họ, ta có thể khẳng định rằng họ là những “tín đồ” của văn học “dòng ý
thức” – một dòng văn học đƣợc khởi xƣớng ở châu Âu thế kỉ XIX. Vậy văn
học “dòng ý thức” là gì và nó có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến nghệ thuật xây
dựng nhân vật tự ý thức của Nam Cao và Akutagawa?
Văn học “dòng ý thức” là dòng văn học đƣợc khơi nguồn từ chủ nghĩa
trực giác. Ngƣời đầu tiên nói đến hiện tƣợng “dòng ý thức” trong văn học là
nhà tâm lý học William James. Trong công trình “Nguyên lý tâm lý học”, ông
cho rằng: “Ý thức của con ngƣời là do hàng trăm phƣơng thức luân lƣu chiếm
lĩnh. Bất cứ lúc nào cảm giác của con ngƣời cũng là một thể phức hợp. Ý thức
của con ngƣời luôn luôn chất chứa những mối liên hệ muôn màu muôn vẻ.
Bản thân tƣ duy là liên tục không hề gián đoạn. Cho nên, nói cho thật chính
xác, hoạt động tƣ duy là “dòng tƣ tƣởng”, “dòng ý thức”, “dòng đời sống chủ
quan”...” [103,151]. Vì thế, nhân vật đƣợc lựa chọn trong sáng tác “dòng ý
thức” là loại nhân vật mà sự ý thức và tự ý thức đã trở thành một nhu cầu tự
thân.
Ý thức là sản phẩm đặc trƣng của con ngƣời, là cơ sở để khu biệt con
ngƣời với thế giới loài vật. Còn tự ý thức là giai đoạn phát triển cao nhất của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45
ý thức, là quá trình con ngƣời tự nghiền ngẫm về mình và thế giới xung
quanh. Tuy nhiên, quá trình này không chỉ dừng lại ở mức độ suy ngẫm thông
thƣờng mà nhiều khi nó còn phát triển đến mức giằng xé, đau đớn trong nội
tâm con ngƣời. Nói đến nhân vật tự ý thức, ngƣời ta thƣờng nhắc đến nhân
vật tiểu thuyết của Đôtxtôiepxki. Theo M.Bakhtin, Đôtxtôiepki là ngƣời đầu
tiên đƣa ra thái độ hoàn toàn mới cho các nhân vật tự ý thức của mình. Ông
cho rằng: Không nên biến con ngƣời thành một khách thể câm lặng cho sự
nhận thức thể hiện sau lƣng nó. Con ngƣời có một đời sống tâm lý phức tạp
bên trong. Nó là cơ sở để con ngƣời có thể bộc lộ hành vi tự ý thức một cách
tự do. Do vậy, con ngƣời có khả năng phá vỡ mọi quy luật ràng buộc.
Đôtxtôiepki đƣa vào tầm nhìn của nhân vật toàn bộ thế giới khách quan và
làm cho nó trở thành đối tƣợng của sự tự ý thức đầy đau khổ của nhân vật
[9,45-46-47].
Nhƣ vậy, nhân vật tự ý thức trƣớc hết là loại nhân vật có đời sống nội
tâm phong phú, phức tạp tuy nhiên sự phát triển của nội tâm nhân vật không
phải do tác giả quy định mà do chính nó quyết định. Tức là tác giả chỉ là
ngƣời đứng ở ngoài trƣờng nhìn về nhân vật. Bất cứ một dấu hiệu, một đặc
điểm nào cuả nhân vật đƣợc bộc lộ ra đều là kết quả của quá trình tự ý thức,
tự nghiền ngẫm của nhân vật về nó và thế giới xung quanh.
Nhân vật tự ý thức luôn luôn có xu hƣớng đấu tranh với hoàn cảnh và
chính mình để hoàn thiện nhân cách. Việc lựa chọn nhân vật tự ý thức sẽ chi
phối sâu sắc đến mạch tự sự của tác phẩm. Bởi lúc này, tình huống, chi tiết
của tác phẩm không còn quan trọng nữa mà quan trọng là sự tự ý thức của
nhân vật phát triển nhƣ thế nào.
Điểm đặc biệt dễ nhận thấy ở các nhân vật tự ý thức trong truyện ngắn
Nam Cao và Akutagawa là các nhân vật này luôn đƣợc đặt trong tình trạng bị
tha hoá hoặc có nguy cơ tha hoá, biến chất. Nhƣng chính sự tha hoá là nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46
nhân thôi thúc sự tự ý thức ở các nhân vật. Nhân vật có nguy cơ tha hoá hoặc
bị tha hoá càng lớn thì tự ý thức càng cao. Nhân vật của Nam Cao và
Akutagawa dù hiện thân trong hình hài một nông dân, một kẻ đầy tớ, một tên
cƣớp hay trong tƣ cách một ngƣời trí thức đều đƣợc đặt trong hai trạng thái
đối lập là tha hoá và tự ý thức về sự tha hoá.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao và Akutagawa rất
phong phú bao gồm nhiều tầng lớp. Để thuận lợi cho quá trình nghiên cứu,
chúng tôi chia nhân vật của hai nhà văn thành hai loại: Nhân vật thuộc tầng
lớp dƣới đáy xã hội và nhân vật trí thức. Với mỗi loại nhân vật này, chúng tôi
sẽ tiến hành khảo sát, thống kê, phân loại và so sánh song song các tác phẩm
trong hai tuyển tập truyện ngắn của hai nhà văn. Các nhân vật đƣợc liệt kê là
những nhân vật ít nhiều đều có sự tự ý thức vì vậy các nhân vật không thuộc
kiểu nhân vật này, chúng tôi sẽ không tính đến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47
Truyện ngắn Nam Cao Truyện ngắn Akutagawa
STT Tên tác phẩm
Năm
sáng
tác
Số lƣợng nhân
vật thuộc tầng
lớp dƣới đáy
Số lƣợng
nhân vật trí
thức
Tên tác phẩm
Năm
sáng
tác
Số lƣợng nhân
vật thuộc tầng
lớp dƣới đáy
Số lƣợng
nhân vật trí
thức
1 Nghèo 1937 1 (Anh Đĩ Chuột) 0 Cổng thành Raxiômôn 1915
2 (Mụ già, tên
đầy tớ)
0
2
Cái chết của con
mực
1940 0 1 (Du) Kêxa và Môritô 1918 0
2 (Kêxa,
Môritô)
3 Chí phèo 1941 1 (Chí phèo) 0
Những nỗi thống khổ
của địa ngục
1918 0
1 (Hoạ sĩ
Iôxikhiđê)
4 Giăng sáng 1942 0 1 (Điền)
Vụ án mạng
thế kỉ ánh sáng
1919 0
1 (Bác sĩ
Kitabatakê)
5 Đôi móng giò 1942
1 (Trạch Văn
Đoành)
0 Đức chúa ở Nam Kinh 1920 1 (Thanh Hoa) 0
6
Những chuyện
không muốn viết
1942 0 1 (Tôi) Mùa thu 1920 0
2 (Nôkubô,
Têrukô)
7 Lão Hạc 1943 1 (Lão Hạc) 1 (Tôi) Trong rừng trúc 1921 1 (tên cƣớp)
2 (ngƣời vợ,
ngƣời chồng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48
8 Từ ngày mẹ chết 1943 1 (ngƣời cha) 0 Cúi chào 1923 0 1 (Iaxukiti)
9 ở hiền 1943 1 (Nhu) 0
Cuốn tiểu thuyết ái
tình
1924 0 1(Iaxukiti)
10 Đời thừa 1943 0 1 (Hộ)
Đất nước của
các thuỷ dân
1927 0
1 (Thi sĩ
Tôcc)
11 Mua nhà 1943 0 1 (Tôi)
Những lời của
người Pichmên
1927 0
1 (ngƣời
Pichmê)
12 Quên điều độ 1943 0 1 (Hài)
Cuộc đối thoại trong
bóng tối
1927 0
2 (Giọng nói,
Tôi)
13 Nước mắt 1943 0 1 (Điền)
14 Dì Hảo 1944 1 (Dì Hảo) 0
15 Lang rận 1944
2 (Lang rận,
Mụ Lợi M)
0
16 Một đám cưới 1944 2 (Dần, bố Dần) 0
17 Nửa đêm 1944 1 (Đức) 0
Bảng 2.1.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49
Nhƣ vậy, tổng số tác phẩm xuất hiện nhân vật tự ý thức trong tuyển tập
truyện ngắn của Nam Cao nhiều hơn trong tuyển tập của Akutagawa (Nam
Cao là 17 tác phẩm, Akutagawa là 12 tác phẩm). Ở Nam Cao, loại nhân vật tự
ý thức thuộc tầng lớp dƣới đáy chiếm một số lƣợng lớn (12/20 nhân vật chiếm
60%). Trong khi đó, loại nhân vật trí thức lại chỉ chiếm 40% với 8/20 nhân
vật. Ngƣợc lại ở Akutagawa nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp dƣới đáy là
4/18 nhân vật chiếm 22% còn nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp trí thức là
14/18 nhân vật chiếm 78%. Những thông số trên đã cho thấy loại nhân vật trí
thức của Akutagawa xuất hiện nhiều và đông đảo hơn của Nam Cao. Nhƣng
ngƣợc lại nhân vật thuộc tầng lớp dƣới đáy của Nam Cao lại chiếm số lƣợng
ƣu việt. Điều này đƣợc lý giải bởi hoàn cảnh sống và cách lựa chọn chất liệu
hiện thực của hai nhà văn.
2.1. Nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp dưới đáy
Quá trình tự ý thức ở các nhân vật Nam Cao và Akutagawa đƣợc thể
hiện song song với quá trình tha hoá. Tha hoá là quá trình con ngƣời bị mất đi
bản chất vốn có của mình làm cho nó trở nên xa lạ với chính nó và những
ngƣời xung quanh. Quá trình tha hoá diễn ra do những tác động nhiều chiều
từ hoàn cảnh xã hội.
Trong truyện ngắn của Nam Cao, hoàn cảnh xã hội đƣợc nói đến là xã
hội thực dân phong kiến. Xã hội ấy với chính sách bóc lột hà khắc của chế độ
thực dân và sự thống trị tàn bạo của bọn phong kiến tay sai đã bóp nghẹt mọi
đƣờng sống, bóp méo nhân cách, nhân phẩm của con ngƣời làm cho nó biến
dạng không còn là ngƣời nữa. Thế nhƣng, nhân vật của Nam Cao không chỉ
tha hoá nhƣ các nhân vật của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... mà cao hơn
nó còn có ý thức về sự tha hoá, chống lại sự tha hoá. Đọc truyện ngắn của
Nam Cao không ai có thể quên hình ảnh một anh Chí Phèo hiền lành trở thành
một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Là một ngƣời nông dân đích thực, Chí Phèo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50
cũng giống nhƣ bao ngƣời nông dân khác mong muốn có một mái ấm gia
đình, vợ chồng yêu thƣơng nhau. Vậy mà cái xã hội ô trọc, thối nát với những
kẻ gian hùng nhƣ Bá Kiến đã tƣớc mất của Chí Phèo niềm hạnh phúc nhỏ
nhoi và đẩy hắn vào cảnh tù tội. Và nhà tù thực dân – phong kiến giống nhƣ
một “cỗ máy” sản xuất hàng loạt đã biến những Chí Phèo, Binh Chức, Năm
Thọ từ những ngƣời nông dân hiền lành trở thành kẻ sát nhân mất nhân tính,
sát hại chính đồng loại của mình. Nhƣng không ai ngờ tình yêu với Thị Nở đã
đánh thức phần ngƣời lƣơng thiện của Chí Phèo. Câu nói của Chí Phèo đã
gieo vào lòng ngƣời đọc bao nhiêu băn khoăn, trăn trở: “Ai cho tao lƣơng
thiện. Làm thế nào cho mất đƣợc những mảnh chai trên mặt này? Tao không
thể là ngƣời lƣơng thiện đƣợc nữa” [18,50]. Bản thân Chí Phèo cũng ý thức
sâu sắc về hoàn cảnh và thực tại của hắn trong một xã hội đầy rẫy bất công.
Hành động Chí Phèo rút dao đâm chết Bá Kiến và đâm chính mình là một
minh chứng cho sự tự ý thức của nhân vật về quyền sống, quyền đƣợc làm
ngƣời. Nhân vật Chí Phèo là điển hình cho kiểu ngƣời nông dân bị tha hoá
nhƣng đã tự ý thức để chống lại sự tha hoá. ở nhân vật này, Nam Cao đã để
cho nhân vật tự lựa chọn con đƣờng giải thoát cho chính mình. Đó là cách
thức tự sự rất mới của Nam Cao trong kiệt tác Chí Phèo.
Bên cạnh Chí Phèo, Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một điển
hình cho hình ảnh ngƣời nông dân nghèo, đáng thƣơng nhƣng luôn có ý thức
giữ lấy bản chất trong sáng của con ngƣời. Lão Hạc thà chết đói chứ nhất định
không bán mảnh vƣờn của thằng con trai, không chịu nhận sự thƣơng hại của
ngƣời khác. Lúc khó khăn nhất, Lão mới đành tâm bán đi một con chó nhƣng
rồi lại ân hận, đau đớn, xót xa nhƣ để mất một ngƣời thân. ở Lão Hạc, sự tự ý
thức để giữ cho tâm hồn không bị vẩn đục trƣớc nghèo khổ là một phần quan
trọng trong nhân cách của lão. Còn trong Ở hiền, Nhu là cô gái hiền lành,
“hiền nhƣ một ngụm nƣớc mƣa”. Nhu không bao giờ hại ai hoặc giả dối ai, cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51
làm việc chỉ vì thƣơng mẹ, quí anh em. Nhƣng chính sự hiền lành của Nhu lại
đảy cô đến một cuộc đời bất hạnh. Nhu hi sinh bản thân cho mọi ngƣời, Nhu
làm lụng vất vả gây dựng cơ nghiệp cho chồng bằng tiền của mẹ mình nhƣng
hắn lại phụ bạc Nhu, lấy vợ bé, cƣớp tài sản của Nhu và cuối cùng biến Nhu
trở thành một con vú nuôi trong nhà. Cũng nhƣ vậy, Dì Hảo là một con ngƣời
hiền lành, biết yêu thƣơng mọi ngƣời. Ƣớc mơ của Dì Hảo chỉ đơn giản là có
đƣợc một tấm chồng và dì đã có đƣợc. Dì làm việc chăm chỉ để nuôi chồng và
chờ đợi đứa con ra đời. Nhƣng số phận nghiệt ngã đã cƣớp mất đứa con của
dì, dì ốm liệt giƣờng, ngƣời chồng phụ bạc. Dì Hảo chỉ còn biết khóc, “khóc
nức nở, khóc nhƣ ngƣời thổ ra nƣớc mắt”. Dì Hảo cũng nhƣ Lão Hạc và Nhu
là những ngƣời thuộc tầng lớp dƣới đáy bị bần cùng hoá trong xã hội. Họ có
tâm hồn trong sáng và cao thƣợng nhƣng họ lại có một cuộc đời đau đớn, bất
hạnh. Nhu khổ nhƣng cô không phải không biết nguyên nhân sự khổ của
mình. Nhu ý thức đƣợc rằng: “Những kẻ hay nhịn, hay nhƣờng thì thƣờng
thƣờng lại chẳng đƣợc ai nhịn, nhƣờng mình, còn những kẻ thành công thì
hầu hết lại là những ngƣời rất tham lam, chẳng biết nhịn nhƣờng ai, nhiều khi
lại xảo trá, lừa lọc và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn...” [18,212]. Nhu, Lão Hạc
hay Dì Hảo hoàn toàn có thể cũng tham lam, xảo trá, lừa lọc và tàn nhẫn để
thay đổi số phận nhƣng họ không làm nhƣ vậy. Trong thâm tâm họ, cuộc sống
dù khó khăn thậm chí cay đắng nhƣng vẫn cần phải giữ lấy những điều tốt
đẹp. Có thể nói, các nhân vật ngƣời nông dân của Nam Cao là những ngƣời
luôn có nguy cơ bị hoàn cảnh làm cho bần cùng hoá dẫn đến tha hoá, biến
chất nhƣng rất nhiều ngƣời trong số họ vẫn tự ý thức để chống lại sự tha hoá,
bảo vệ phẩm chất tốt đẹp của con ngƣời. Với các nhân vật này, Nam Cao luôn
giữ một giọng kể tính táo đến lạnh lùng nhƣng chính giọng kể ấy đã gây cho
ngƣời đọc nhiều nỗi thƣơng cảm và xót xa cho số phận bi thảm của những
ngƣời nghèo khổ, bần cùng bị đẩy xuống đáy xã hội. Ngƣời đọc có thể rơi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52
nƣớc mắt thƣơng cảm cho những con ngƣời ấy nhƣng cũng có thể mỉm cƣời
vì Nam Cao còn phát hiện ra trong con ngƣời đau khổ, u tối của họ vẫn còn
một tâm hồn trong sáng, lƣơng thiện, luôn có ý thức bảo vệ “bản chất nhân
đạo” của con ngƣời.
Cũng nhấn mạnh đến vấn đề tự ý thức và sự tha hoá của con ngƣời
nhƣng nhân vật của Akutagawa so với nhân vật của Nam Cao có nhiều khác
biệt. Các nhân vật của Akutagawa là những con ngƣời hiện đại nhƣng lại
đƣợc phác hoạ ở nhiều thời điểm khác nhau và trong những hoàn cảnh khác
nhau. Sở dĩ nhƣ vậy vì đa số các truyện ngắn của Akutagawa đều đƣợc xây
dựng dựa trên các câu chuyện lịch sử hoặc những câu chuyện giả tƣởng mang
màu sắc hoang đƣờng, kỳ ảo. Trong khi đó, các truyện ngắn của Nam Cao lại
đi vào những chuyện vặt vãnh đời thƣờng, những chuyện tƣởng chừng nhƣ
không muốn viết với những con ngƣời cũng hết sức đời thƣờng hiện hữu xung
quanh cuộc sống của nhà văn, thậm chí là chính nhà văn.
Nếu nhƣ Chí Phèo là truyện ngắn mở đầu và là đỉnh cao của đời văn
Nam Cao thì truyện ngắn Cổng thành Raxiômôn cũng là cái mốc đầu tiên
đánh dấu sự nghiệp văn học của Akutagawa. Cả hai truyện ngắn đều thành
công khi khắc hoạ hình ảnh những con ngƣời dƣới đáy bị tha hoá do tác động
của hoàn cảnh xã hội. Cổng thành Raxiômôn lấy cốt truyện từ một câu chuyện
cổ. Câu chuyện kể về một tên đầy tớ mới bị chủ sa thải trong cái đêm trú mƣa
ở cổng thành Raxiômôn và gặp một mụ già nhổ trộm tóc của ngƣời chết. Hắn
bắt ngay mụ già vì cho rằng mụ đang làm một điều ác không thể tha thứ đƣợc,
nhƣng rồi ngay sau đó, hắn lại tƣớc đoạt bộ Kimônô duy nhất trên thân thể già
yếu của mụ với lý do nếu không làm thế thì hắn sẽ chết đói. Bằng cách kể
chuyện lạnh lùng nhƣng châm biếm, hài hƣơc, Akutagawa đã cho thấy một
thực tế đau đớn là cái đói và cuộc sống không lối thoát đã biến con ngƣời
thành những kẻ cƣớp, kẻ trộm. ở đây, Akutagawa và Nam Cao gặp nhau ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53
một điểm là cả hai nhà văn đều dùng cái đói để làm phƣơng tiện biểu đạt cho
sự tha hoá của con ngƣời. Nhân vật ngƣời cha trong Trẻ con không được ăn
thịt chó vì miếng ăn mà nhẫn tâm hành hạ vợ con; hay ngƣời bà trong Một
bữa no vì đói quá mà phải “ăn chực” nhà bà Phó Thụ để rồi chết nhục nhã vì
“một bữa no”… Còn tên đầy tớ trong Cổng thành Raxiômôn cũng nhƣ mụ già
nhổ trộm tóc ngƣời chết cũng vì cái đói mà “vạn bất đắc dĩ” phải làm kẻ
cƣớp, kẻ trộm. Bản thân mỗi nhân vật đều ý thức và có cách cắt nghĩa riêng
về việc làm của mình. Mụ già nhổ trộm tóc thì cho rằng mụ nhổ trộm của
ngƣời chết vì trong xã hội cũng có rất nhiều ngƣời làm công việc nhƣ mụ,
thậm chí còn tàn nhẫn hơn mụ. Hơn nữa, những ngƣời chết mà mụ đã nhổ tóc
đều là những kẻ đã từng làm một hoặc một số điều ác vì vậy họ “xứng đáng”
bị nhổ trộm tóc. Còn tên đầy tớ, trƣớc khi gặp mụ già cũng đã “đắn đo xem
nên chịu chết đói hay là làm kẻ trộm” thì đến lúc này khi nghe “triết lý” của
mụ, hắn không cần phải phân vân nữa, hắn hiểu rằng lấy bộ kimônô trên
ngƣời mụ vì mụ cũng “xứng đáng” bị nhƣ thế và nếu không thì hắn chết đói.
Tội ác có “biện chứng” của tên đầy tớ và mụ già là bản tố cáo xã hội Nhật
Bản đƣơng thời, xã hội ấy đã “đào thải” con ngƣời, biến họ từ những ngƣời
lao động chân chính thành những tên cƣớp, kẻ trộm bất nhân. Nhƣng họ
không phải không biết điều đó mà ngƣợc lại họ tự ý thức rất rõ về sự tha hoá
của mình, chỉ có điều họ không tự ý thức chống lại nó mà tự ý thức để chấp
nhận nó. Đó là điểm khác biệt nổi bật giữa nhân vật thuộc tầng lớp dƣới đáy
của Nam Cao và Akutagawa.
2.2. Nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp trí thức
Nói đến sự tự ý thức của nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao và
Akutagawa ta cần nhấn mạnh đến các nhân vật trí thức. Bởi nhân vật trí thức
thƣờng hay cả nghĩ, suy tƣ về cuộc sống, thậm chí còn tự mổ xẻ, dằn vặt nội
tâm để hoàn thiện mình. Trong truyện ngắn của Nam Cao, các nhân vật ấy là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54
Điền trong Giăng sáng, Hộ trong Đời thừa, Hài trong Quên điều độ, Điền
trong Nước mắt hay nhân vật “Tôi” trong Những chuyện không muốn viết,
Mua nhà, Lão Hạc... Hầu hết các nhân vật này đều là những nhân vật cả nghĩ,
có đời sống tƣ tƣởng và tình cảm phong phú, nhiều sắc thái. Họ luôn sống
trong trạng thái suy tƣ, trăn trở, có khi nổi giận vô cớ với vợ con nhƣng rồi lại
ân hận, xót xa. Họ xuất thân là những nhà văn, nhà giáo luôn ấp ủ những giấc
mơ, hoài bão chính đáng nhƣng lại bị nỗi lo cơm áo “ghì sát đất”. Bởi vậy, họ
lâm vào bi kịch tinh thần và luôn tự ý thức để tìm cách thoát khỏi thực tại
nghiệt ngã, nhiều khi họ còn giằng xé nội tâm để vƣơn lên cuộc sống cơm áo
tầm thƣờng.
Trong Giăng sáng, Điền là một nhân vật có quá trình tự ý thức nhiều đau
khổ. Nam Cao đã để cho nhân vật tự phân tích, tự mổ xẻ bản thân để tìm cho
mình một lối đi trong lao động nghệ thuật cũng nhƣ trong hiện thực cuộc
sống. Ban đầu khi còn trẻ, Điền cũng nhƣ Nam Cao tìm đến thứ văn chƣơng
lãng mạn để làm thi vị hoá hiện thực đói nghèo và lam lũ nơi làng quê. Điền
“nguyện cam chịu tất cả những thiếu thốn đọa đày” miễn là đƣợc thoả “cái
mộng văn chƣơng”. Với Điền, “nghệ thuật chính là ánh trăng xanh huyền ảo,
nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thƣờng xấu xa” [18,231]. Điền
hƣớng lòng mình đến cái đẹp đầy ảo tƣởng. Nhƣng khi đã trở thành một
ngƣời có gia đình, có vợ và có con, Điền hàng ngày phải lo kiếm miếng cơm,
manh áo để vun đắp cho cái gia đình nhỏ bé và nheo nhóc của mình thì Điền ý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- SO SÁNH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO (VIỆT NAM) VÀ RUINÔXKÊ AKUTAGAWA (NHẬT BẢN).pdf