Luận văn Sản phẩm an sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm nhân thọ

Tài liệu Luận văn Sản phẩm an sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm nhân thọ: Luận Văn Đề Tài: SẢN PHẨM “AN SINH GIÁO DỤC” TRONG HỆ THỐNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ SẢN PHẨM “AN SINH GIÁO DỤC” TRONG HỆ THỐNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ PHẦN I - KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ (Tr.4) I. Sự cần thiết bảo hiểm nhân thọ (Tr.4) II. Các loại hình BHNT và chương trình an sinh giáo dục trong BHNT(Tr.6) PHẦN II- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BHNT(Tr.9) I. Ý nghĩa (Tr.9) II. Nội dung cơ bản của "An sinh giáo dục " (Tr.10) PHẦNIII- TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM NHÂN THỌ "AN SINH GIÁO DỤC "CỦA BẢO VIỆT (Tr.21) I. Những thuận lợi và khó khăn (Tr.21) II. Tình hình triển khai nghiệp vụ An sinh giáo dục trong quý I năm 1999 của Công ty Bảo Việt nhân thọ (Tr.24) 1. Công tác khai thác (Tr.24)000000 2 Công tác đánh giá rủi ro (Tr.27) 3 Đánh giá chung về kết quả nghiệp vụ An sinh giáo dục(Tr.29) PHẦN IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤ...

pdf79 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1057 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Sản phẩm an sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm nhân thọ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn Đề Tài: SẢN PHẨM “AN SINH GIÁO DỤC” TRONG HỆ THỐNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ SẢN PHẨM “AN SINH GIÁO DỤC” TRONG HỆ THỐNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ PHẦN I - KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ (Tr.4) I. Sự cần thiết bảo hiểm nhân thọ (Tr.4) II. Các loại hình BHNT và chương trình an sinh giáo dục trong BHNT(Tr.6) PHẦN II- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BHNT(Tr.9) I. Ý nghĩa (Tr.9) II. Nội dung cơ bản của "An sinh giáo dục " (Tr.10) PHẦNIII- TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM NHÂN THỌ "AN SINH GIÁO DỤC "CỦA BẢO VIỆT (Tr.21) I. Những thuận lợi và khó khăn (Tr.21) II. Tình hình triển khai nghiệp vụ An sinh giáo dục trong quý I năm 1999 của Công ty Bảo Việt nhân thọ (Tr.24) 1. Công tác khai thác (Tr.24)000000 2 Công tác đánh giá rủi ro (Tr.27) 3 Đánh giá chung về kết quả nghiệp vụ An sinh giáo dục(Tr.29) PHẦN IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤC (Tr.32) 1. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác (Tr.33) 2. Đa dạng các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác(Tr.33) 3. Cần có phương pháp khai thác hợp với từng thị trường (Tr.35) 4. Công tác tuyển dụng, đào tạo và quản lý cán bộ khai thác(Tr.37) 5. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm (Tr.38) 6. Một số kiến nghị khác (Tr.39) KẾT LUẬN (Tr.41) Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp LỜI NÓI ĐẦU Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người, không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong nền kinh tế xã hội. Vì thế nền kinh tế nước ta đang dần khởi sắc và phát triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài, nền kinh tế có những bước tăng trưởng nhảy vọt qua các năm, điều kiện sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đất nước đang trong thời kỳ đổi mới nên cùng với sự biến chuyển không ngừng về mọi mặt từ KTXh đến chính trị ngoại giao nền kinh tế mở theo hướng “đa phương hoá - đa dạng hoá” đã và đang tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng nhiều cơ hội mới. Trong xu thế phát triển này, ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra đời, BHNT là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ BHNT mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ BHNT bao gồm nhiều loại hình khác nhau như: BHNT có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục... Sau một thời gian lựa chọn đề tài viết chuyên đề mặc dù đề tài còn nhiều khúc mắc và số liệu thực tế chưa nhiều nhưng cùng với sự động viên của cô giáo hướng dẫn và sự giúp đỡ nhiệt tình của Công ty BVNT Hà Nội em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài với nội dung: “An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội” Sở dĩ em chọn đề tài trên cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là vì những lý do sau: - 1 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp - Mặc dù BHNT ra đời rất sớm trên thế giới (năm 1583, ở Anh) và khônh ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn - Do nghiệp vụ “An sinh giáo dục“ mới được triển khai ở nước ta, nên khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty phải trả một khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng. Do vậy công ty BHNT cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty. - Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai“ thì chương trình “An sinh giáo dục“ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau. Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, thị trường khách hàng tiềm năng, tình hình dân số từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới. Xuất phát từ những nội dung trên em xin nêu ra bố cục của chuyên đề: Nội dung đề tài gồm ba phần: Phần I: .Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm An sinh giáo dục Phần II: Tình hình triển khai sản phẩm bảo hiểm “An sinh giáo dục” của Bảo Việt tại BVNT Hà Nội Phần III: Một số giải pháp đề nghị nhằm nâng cao công tác kinh doanh nghiệp vụ An sinh giáo dục Mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên trong chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận - 2 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo trong khoa nói chung và co giáo Nguyễn Thị Lệ Huyền nói riêng để chuyên đề hoàn chỉnh hơn về mặt lý luận và mang tính khả thi hơn trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn thị Lệ Huyền cùng sự giúp đỡ của phòng Quản lý hợp đồng BVNT Hà Nội, đặc biệt sự quan tâm, nhiệt tình giúp đỡ của chú Trưởng phòng Trương Khánh cùng các anh chị trong phòng QLHĐ đã tạo điều kiện cho em tìm hiểu tài liệu, báo chí giúp em hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp của mình. - 3 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ SẢN PHẨM AN SINH GIÁO DỤC I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT). Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT). Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như: - Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán... - Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động... - Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát... Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát - 4 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. + Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả. + Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm cảu các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người. Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Ở châu Á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm 2001 doanh thu phí BHNT đạt 2500 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP. BHNT giúp - 5 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh". Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển. BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước. 2. Vai trò và vị trí của BHNT 2.1. Vai trò của BHNT Để đánh giá được đầy đủ ý nghĩa và vai trò của BHNT, trước hết chúng ta cần hiểu rõ khái niệm về BHNT: Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham - 6 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiềm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định) còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người. BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc qia: Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc người thân, gia đình của bạn sẽ dược đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng cao của con người. Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và tăng thêm quyền lợi cho người lao động. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi ra một lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro dưới hình thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại không cố gắng vì đã có người khác chịu trách nhiệm giúp mình đối với cả cá nhân cũng như tổ chức. Ngày nay khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản - 7 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp tiết kiệm (không may rủi ro xảy ra, bên cạnh các chế độ bảo hiểm y tế, BHXH người lao động còn được hưởng quyền lợi từ BHNT nếu họ tham gia). Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tụ nguyện người lao động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tụ lo được cho bản thân giảm gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội. Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu. Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to lớn khi tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến BHNT, từ đó mà lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất nước để phục vụ cho sự phát triển kinh tế phảI có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của BHNT nên tuy mới ra đời được 5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có những chính sách để tạo điều kiện cho BHNTngày một phát triển mà bước tiến quan trọng là sự cho phép các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT Việt Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là một trong các biện pháp của Nhà nước nhằm tạo ra các nguồn vốn dồi dào cho đầu tư phát triển Đất nước với chủ trương là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông qua BHNT có thể trong thời gian tới dần dần sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vì lượng tiền này được dự kiến sẽ lên tới hơn 10 tỷ (được dự trữ dưới dạng ngoại tệ cũng như vàng). Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BH Việt Nam nguồn vốn do họ đầu tư vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài đây là đựoc coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn. Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động. Với dân số gần 80 triệu lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lượng sinh - 8 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp viên ra trường cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng khi mà lượng người không có việc làm ngày càng nhiều và trong đó ngoài những người không có trình độ thì cũng có rất nhiều người có trình độ không được sử dụng đúng mục đích. Hoạt động BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác bảo hiểm, đội ngũ nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy, phát triển BHNT đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số lượng người thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở công ty BHNT Hà Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên dưới 50 người, riêng nội thành đã có 16 phòng khai thác, đa số đấy đều là các cán bộ chuyên nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận huyện, ngoài ra BHNT còn có 60 công ty khác ở khắp các quận huyện trong cả nước. Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo nên một tập quán, một phong cách sống mới. Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng và phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan trong vá ngoài nước, cho sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia BH An sinh giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thường xuyên của gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu tư cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm của Xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình. Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc tạo cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của người thân, đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với người khác. Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi - 9 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp cho người thân đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con người là nhân tố quyết định sự phát triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lược, chính sách về con người là vô cùng quan trọng, thực hiện BHNT chính là thực hiện chiến lược phát triển toàn diện con người của Đảng và Nhà nước. Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội như giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động, người cao tuổi.... 2.2 Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm. 2.2.1 BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và một vài người trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời là một biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách quan. Tham gia bảo hiểm đang ngày càng trở thành một tác nghiệp không thể thiếu được đối với các chủ doanh nghiệp, một thói quen tốt trong dân chúng. Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thúc như bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm hàng hải.. Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với những loại hình bảo hiểm hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại hình bảo hiểm ra đời khá lâu là BHNT với lịch sử phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong thị trường bảo hiểm nói chung. 2.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trên thị trường BH. Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không ngừng tăng và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ BH. Tuy nhiên tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu như ở châu Mỹ Latinh phí BH từ hoạt động kinh doanh BHNT rất thấp, - 10 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp chỉ chiếm khoảng 21,4% thì ở châu Âu phí BHNT đạt tỉ lệ cân đối trong khoảng từ 41,8% - 49,3% còn tỉ lệ phí BHNT ở châu Đại đương chiếm 52,3% trong toàn bộ doanh thu phí nghiệp vụ BH. Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng phải thừa nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của mình trong thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế của các quốc gia, nền kinh tế thế giới nói chung. 3. Những đặc điểm cơ bản của BHNT. 3.1 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH cho người BH theo định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn (STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất định, hoặc cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được bảo hiểm. Số tiền này không thể bù đắp về mặt tình cảm nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính. Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo hiểm khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm không những tích luỹ về mặt tài chính mà còn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho bản thân thì vẫn được đảm bảo về mặt tại chính, dó chính là đặc điểm cơ bản của BHNT mà các loại hình tiết kiệm khác không có dược. Điều này giải thích tại sao nói bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ. 3.2 BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm. Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục - 11 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo hiểm. Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưỏng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm là có một khoản tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An gia thịnh vượng đáp ứng yêu cầu của người tham gia là có được một khoản tiền lớn sau một thời gian ấn định trước... Ngoài ra, hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những khó khăn về mặt tài chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không trả lại cho công ty BH (tất nhiên số tiền cho vay được giới hạn theo quy định trong hợp đồng bảo hiểm). Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có thị trường ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm. 3.3 Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người tham gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm của công ty thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau, cho nên bất cứ ai cũng có thể tham gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù hợp với mục đích của bản thân khi tham gia bảo hiểm. 3.4.Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp. Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí BHNT, còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào: + Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm + Tuổi thọ bình quân của con người - 12 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp + Số tiền bảo hiểm + Thời hạn tham gia bảo hiểm + Phương thức thanh toán + Lãi suất đầu tư + Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền ...... Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng vùng địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước khác nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của mỗi loại sản phẩm trên thị trường... 3.5 BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những quốc gia chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Nguyên nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là phải có những điều kiện kinh tế xã hội nhất định: - Những điều kiện về kinh tế + Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một mức độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước. + Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung bình trở lên. + Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để không những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được những nhu cầu cao hơn. + Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định + Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng mà đầu tư vào BHNT - 13 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp ....... - Những điều kiện xã hội bao gồm: Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một xã hội phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế hoạch trung và dài hạn. Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất nước ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới như bảo hiểm. 4. Lịch sử ra đời của BHNT. 4.1. Trên thế giới: Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là William Gybbon. Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng BHNT đầu tiên ra đời ở Philadenphia (Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được thành lập và bán BHNT cho mọi người dân. Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến nay. 4.2.Tại Việt Nam Ở nước ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây và Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp Bảo hiểm đầu tiên của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài chính Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công cuộc đổi - 14 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp mới về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa hợp tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thi trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố chấm dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, Hội bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh với nước ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Và có thể nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị trường Việt Nam. Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ Bảo hiểm. Với sự ra đời của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ BHNT hơn 5 năm, nhưng những gì BVNT Việt Nam đạt được trong thời gian đó rất đáng ghi nhận. Tạo nên cho người dân Việt Nam một phong tục sống mới, một hình thức tiết kiệm mới. Năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài thị trường BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú hơn. Giúp cho người dân có thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đó là: - Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong nước, đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất: vốn kinh doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời gian hoạt động là không kỳ hạn - Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương hoạt động 12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian hoạt động 50 năm. - 15 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp - Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là công ty BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu USD, khai trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian hoạt động là 50 năm. - Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và Công ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt động ngày 12/10/1999, vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động 30 năm. - AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương hoạt động 22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt động là 50 năm. Cho đến 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu lực tạo ra hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành kinh doanh bảo hiểm trong xã hội Việt Nam. II. CÁC LOẠI HÌNH BHNT Như trên đã nêu, BHNT là loại hình bảo hiểm mang ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc. Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những khoản phí trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản lí và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền như đã thoả thuận trong hợp đồng khi kết thúc thời hạn bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo hiểm. Do đó BHNT được hiểu như một sự đảm bảo, một hình thức tiết kiệm và mang tính chất tương hỗ. BHNT trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo hiểm xã hội (BHXH) khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) chưa đáp ứng hết được. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của con người tuỳ theo mục đích của người tham gia là gì. Trong thực tế để phân loại bảo hiểm người ta chia ra các hình thức cơ bản sau: 1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm Có 3 loại hình BHNT cơ bản, sản phẩm của các công ty bảo hiểm đều xuất phát từ 3 loại này. 1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong. Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia làm 2 nhóm: - 16 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 1.1.1Bảo hiểm tử kỳ Còn gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn. Đây là loại hình BH được kỳ kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được BH không nhận được bất kỳ một khoản tiền nào. Điều đó cũng có nghĩa là người BH không phải thanh toán số tiền BH cho người được BH. Ngựoc lại, nếu có cái chết xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, người BH có trách nhiệm thanh toán số tiền BH cho người thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ định. Loại hình BH này được đa dạng hoá thành các loại hình sau: +Bảo hiểm tử kỳ cố định + Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục + Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi + Bảo hiểm tử kỳ giảm dần + Bảo hiểm tử kỳ tăng dần + Bảo hiểm thu nhập gia đình + Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên + Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện Đặc điểm - Thời hạnh BH xác định - Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời - Mức phí BH thấp ví không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được BH. Mục đích - Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất - Bảo trợ cho gia đình và gnười thân trong một thời gian ngắn - Thanh toán các khoản nợ nần về nhứng khoản vay hoặc thế chấp của người được BH 1.1.2. Bảo hiểm trọn đời Hay còn gọi là Bảo hiểm trường sinh. - 17 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT mà thời gian bảo hiểm không xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo hiểm chết. Ngoài ra trong một số trường hợp, loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay khi họ sống đến 99 tuổi (như Prudential). Loại hình này thương có các loại hợp đồng sau: + Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận + BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhận + BHNT trọn đời đóng phí liên tục + BHNT trọn đời đóng phí một lần + BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí Đặc điểm: - STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết - Thời hạn BH không xác định - Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm - Phí BH cao hơn so với sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn xảy ra nên STBH chắc chắn phải chi trả Mục đích: - Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình - 0iữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau 1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ) Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoản thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Đặc điểm: - Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho đến khi chết. - 18 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp - Phí bảo hiểm đóng một lần - Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định. Mục đích: - Đảm bảo thu nhập cố định khi về hưu hay khi tuổi cao sức yếu. - Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già. - Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời. 1.3 BHNT hỗn hợp. BHNT hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, số tiền bảo hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến đáo hạn hợp đồng và thời hạn bảo hiểm được xác định trước, trong đó bảo tức trả khi đáo hạn hợp đồng và phụ thuộc vào hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn. Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân, mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm BHNT sao cho phù hợp với mục đích của mình. Trong BHNT hỗn hợp này yếu tố rủi ro và tiết kiệm đan xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi hầu hết ở các nước trên thế giới. Đặc điểm: - STBH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hoặc người được BH bị tử vong trong thời hạn bảo hiểm. - Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm...) - Phí BH thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm. - Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. Mục đích: - Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân. - 19 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp - Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hóa loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế. 2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm 2.1 Bảo hiểm cá nhân Là loại bảo hiểm con người thực hiện dưới hình thức người tham gia bảo hiểm là cá nhân. Thông thường loại bảo hiểm tự nguyện đều do cá nhân tham gia bảo hiểm 2.2. Bảo hiểm nhóm Là loại bảo hiểm con người theo hình thức tập thể có kèm theo danh sách cá nhân được bảo hiểm. Thí dụ tập thể cán bộ, công nhân viên của một doanh nghiệp đều được mua bảo hiểm con người có kèm theo danh sách các cá nhân được bảo hiểm rủi ro chết hoặc bảo hiểm tai nạn bất ngờ nhằm đảm bảo an toàn sản xuất, lao động. 3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng. Trong bảo hiểm con người thì BHNT được sử dụng để chỉ loại hình bảo hiểm con người có tính chất dài hạn (trên 1 năm), trong BHNT có 3 loại hình cơ bản như đã nêu ở phần 1. Bên cạnh đó còn có những sản phẩm đi kèm cho sản phẩm chính đó là sản phẩm bổ xung, có những sản phẩm có thời hạn chỉ 1 năm, hết 1 năm lại tái tục hợp đồng ví dụ như: Trợ cấp nằm viện, chi phí phẫu thuật, bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn... III. CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC TRONG BHNT 1.Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới Trên thế giới bảo hiểm cho trẻ em xuất phát từ những nhu cầu thực tế là cha mẹ muốn đảm bảo cho con cái về mặt tài chính khi có rủi ro về thu nhập xảy ra với bản thân họ. Việc thanh toán học phí có thể thực hiện trong khi bố mẹ đang có thu nhập đủ để trả cho các chi phí này. Khó khăn phát sinh nếu - 20 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp khoản thu nhập chính bị đánh mất hoặc bị giảm do cha hoặc mẹ bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc chết. Có nhiều cách để cha mẹ có thể đảm bảo thanh toán học phí ngay cảc trong trường hợp họ chết sớm. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thể thu xếp được điều đó, số tiền bảo hiểm được thanh toán nhiều lần hoặc một lần. Đơn bảo hiểm dựa trên sinh mạng của cha mẹ chứ không được ký do khả năng tự bảo vệ của trẻ em là rất ít. Tuy được ký do cha mẹ nhưng cha mẹ không có quyền lợi bảo hiểm đối với sinh mạng con cái họ. Bất cứ bảo hiểm nhân thọ nào vì lợi ích trẻ em đều hoàn phí trong trường hợp chết sớm xảy ra. Đây được gọi là bảo hiểm trả chậm, bảo hiểm của trẻ em thường được ký kết đựa vào cuộc sống của bố mẹ chúng và cho phép đứa trẻ lựa chọn khi đứa trẻ đạt độ tuổi xác định trước (ví dụ ở tuổi 18). Nếu cha mẹ chết trước khi con cái đến tuổi trưởng thành, hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục mà không phải đóng thêm phí cho đến ngày hợp đồng đáo hạn. Vào ngày kỷ niệm hợp đồng trước ngày sinh nhật lần thứ 18 sẽ có nhiều sự lựa xhọn khác nhau cho đứa trẻ. Những dsự lựa xhọn này bao gồm việc thanh toán ngay toàn bộ số tiền hoặc đơn bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực trên cơ sở bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Không cần bằng chứng về sức khoẻ. Nếu đứa trẻ là nữ thì có quyền lựa chọn việc chuyển hợp đồng cho người chồng trước khi kết hôn. 2. Tại Việt Nam Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính, khi bước vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển khai hai loại hình BH đó là BHNT có thời hạn 5, 10 năm và chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành. Do mục đích của chuyên đề là bàn về sản phẩm An sinh giáo dục cho nên ở phần này em chỉ nêu rõ về sản phẩm “Chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành”, đây là tên ban đầu của sản phẩm An Sinh giáo dục khi - 21 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp mới đưa vào triển khai. Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm hỗn hợp, nghĩa là loại hình được bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau. Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng trẻ em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo hiểm này các bậc phụ huynh hoàn toàn không mong muốn rủi ro xảy ra đối với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản tiết kiệm dành cho những kế hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối tượng được bảo hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi ro. Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau: - Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành (năm 18 tuổi) Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng. - Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em tròn 18 tuổi. - Nếu trẻ em không may bị chết, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã nộp. - Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực. - Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng được gọi là bảo tức. -Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị giải ước. Từ lúc Bảo Việt nhân thọ bắt đầu triển khai sản phẩm thì một trong hai sản phẩm đầu tiên được Bảo Việt sử dụng có một sản phẩm dành riêng cho đối tượng trẻ em. Điều này cũng dựa trên phận nào phong tục tập quán của người dân Việt Nam là trẻ em bao giờ cũng là được ưu ái nhất trong gia đình cũng như trong xã hội, gia đình luôn giành cho con cái những gì quý giá nhất cũng như mong muốn con em mình có một nền tảng vững chắc sau này. Sản phẩm An sinh giáo dục ra đời đã đáp ứng được mong muốn đó, cha mẹ, ông bà vừa được thể hiện tình thương yêu đối với con cái vừa tạo cho con cái hành trang để vững bước vào đời. Bắt nguồn từ đức tính tốt đẹp này của người dân Việt Nam Bảo Việt - 22 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp nhân thọ đã đưa ra loại hình bảo hiểm An sinh giáo dục và đây cùng là thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với người dân. Như đã nói ở trên loại hình bảo hiểm này thuộc nhóm BHNT hỗn hợp nên thể hiện rất rõ nét tính kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm vì thế nên người tham gia lại càng thấy được tính tiện lợi khi tham gia Bảo hiểm. Hơn nữa, người ta nói Bảo hiểm mang tính xã hội và nhân văn rất lớn điều đó được thể hiện ở tính chất của sản phẩm An sinh giáo dục là khi chẳng may có rủi ro xảy ra đối với bậc cha mẹ chủ hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng sẽ được miễn phí cho đến khi đáo hạn và quyền lợi bảo hiểm dành cho em bé đó vẫn không hề thay đổi. Có lẽ vậy cho nên các bậc cha mẹ tham gia cho con cái của mình rất nhiều vừa thể hiện được tình thương yêu đối với con cái, vừa đảm bảo cho con một tương lai vững chắc về mặt tài chính khi có rủi ro xảy ra đối với bản thân, vừa mang tính tiết kiệm. Hội tụ đủ các yếu tố trên cho thấy quyền lợi của người tham gia bảo hiểm là rất lớn cả cho người chủ hợp đồng lẫn người được bảo hiểm. Vì thế sản phẩm An sinh giáo dục luôn là sản phẩm được bán nhiều nhất trong các công ty bảo hiểm. Cho đến nay, Qua 5 năm hoạt động bảo Việt đã triển khai thêm nhiều sản phẩm mới để đáp ứng được nhu cầu của mọi người dân trong xã hội, mỗi sản phẩm có một ưu thế riêng và có cái hay riêng, hệ thống sản phẩm của Bảo Việt rất đa dạng và phong phú cho nên giới hạn trong đề tài em chỉ nêu về sản phẩm An sinh giáo dục. 2. Nội dung cơ bản của sản phẩm An sinh giáo dục Một số khái niệm về hồ sơ yêu cầu bảo hiểm Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm: là mẫu đăng ký bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát hành, người yêu cầu bảo hiểm phải điền đầy đủ và chính xác những thông tin liệt kê sẵn trên mẫu. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm được xem là một phần của hợp đồng bảo hiểm. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản của hợp đồng bảo hiểm. Nội dung của hồ sơ yêu cầu: hồ sơ yêu cầu là một phần quan trọng của hợp đồng bảo hiểm. Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về bản thân: tên, tuổi, giới tính, chỗ ở, sở thích; về tình trạng sức khoẻ, về điều kiện bảo hiểm mà mình lựa chọn theo mẫu đã in sẵn. Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ đề nghị khám sức khoẻ và đưa ra quyết định có nhận bảo hiểm hay không. Nếu đồng ý chấp nhận bảo hiểm, công ty - 23 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp sẽ đưa ra một mức phí phù hợp. Sau khi nhận được số phí đầu tiên, công ty sẽ phát hành hợp đồng bao gồm điều khoản và các phụ lục. Một bản gửi lại cho khách hàng, một bản giữ lại ở công ty cùng với giấy yêu cầu bảo hiểm. Người chủ hợp đồng: Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 60, là người kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm, đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm. Người được bảo hiểm: Trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 (tính đến thời điểm gửi giấy yêu cầu bảo hiểm), là người mà công ty chấp nhận bảo hiểm sinh mạng theo hợp đồng bảo hiểm. Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm . Tai nạn: Trong BHNT quy ước “Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh, bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm, loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc bất kì trạng thái nào xảy ra tự nhiên hoặc quá trình thoái hoá”. Như vậy những thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn, cảm, trúng gió bất ngờ đối với người bảo hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm. Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: Là khi người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị mất hoàn toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của: - Hai tay hoặc hai chân hoặc . . . - Một tay, một chân hoặc hai mắt hoặc . . . - Một tay, một mắt hoặc . . . - Một chân, một mắt hoặc . . . Giá trị giải ước (hay giá trị hoàn lại): Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm trở lên. Giá trị giải ước ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày sinh nhật của hợp đồng bảo hiểm (là ngày kỉ niệm hàng năm của hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực trong thời hạn bảo hiểm). Giá trị giải ước luôn nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng góp với công ty bảo hiểm, nó chiếm khoảng 70 đến 80 % số phí bảo - 24 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp hiểm đã đóng, vì người tham gia bảo hiểm phải thanh toán cho công ty những khoản chi phí đã thực hiện hợp đồng như chi phí phát hành và quản lí hợp đồng, chi phí khai thác... Tỷ lệ giải ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút, hấp dẫn đối với khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia BHNT hay không. Số tiền bảo hiểm giảm: Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên. Người tham gia bảo hiểm có thể ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm này với số tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo hiểm bị giảm. Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia BHNT trong những lúc gặp khó khăn, đây là sự linh động của BHNT ứng với mỗi điều kiện khác nhau. Phạm vi bảo hiểm: Do đây là loại hình BHNT nên phạm vi bảo hiểm phải gắn liền với cuộc sống của con người do vậy ta phải phân ra: -Sự kiện được bảo hiểm + Người được bảo hiểm sống đến đáo hạn hợp đồng bảo hiểm. + Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: bị tai nạn và mất 2 trong 6 bộ phận quy định ở phần trên, + Rủi ro tử vong: đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân: chết do tai nạn hoặc chết cho bệnh tật. Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm, trong BHNT còn có quy định về rủi ro loại trừ. Việc đưa ra các rủi ro loại trừ nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của nhà bảo hiểm, mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật, tôn trọng pháp luật, có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro. - Rủi ro loại trừ xảy ra do một số nguyên nhân sau: + Hành động cố ý của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm hoặc người được thừa kế + Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm. + Người tham gia bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự . + Do động đất, núi lửa v .v . . . + Do chiến tranh, bạo động v.v . . . - 25 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 2.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm 2.2.1 Trách nhiệm của các bên. * Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm - Kí hợp đồng bảo hiểm: người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm, cùng công ty bảo hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng. - Trách nhiệm khai báo rủi ro: Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty bảo hiểm (kê khai tình trạng sức khoẻ). - Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm: đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty bảo hiểm, theo quy định nộp phí của công ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sở thời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng. Người tham gia baỏ hiểm phải đóng đầy đủ phí theo quy định và đúng hạn. - Trách nhiệm khai báo, thông báo tổn thất: khi có sự cố rủi ro xảy ra, người tham gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất, tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết. Bên cạnh đó phải cung cấp đầy đủ hồ sơ cho công ty một cách trung thực, chính xác để công ty căn cứ trả tiền bảo hiểm. Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ. * Trách nhiệm của công ty bảo hiểm: - Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm. - Đề phòng, hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực. - Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là thuế như đối với các doanh nghiệp khác. - Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật. 2.2.2 . Quyền lợi bảo hiểm 1) Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi, khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn, công ty BHNT sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã cam kết và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. 2) Trường hợp ngưòi được bảo hiểm bị chết trước ngày hợp đồng bảo hiểm hết hạn, công ty BHNT sẽ hoàn trả 100% số phí đã nộp vì khi người tham gia BHNT kí kết hợp đồng với mục đích là đảm bảo cho con em mình tới tuổi trưởng thành. Do vậy khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bị chết thì ý nghĩa của chương trình này không còn nữa, nên chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp. 3) Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết - 26 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 3.1. Do tai nạn xảy ra sau 01 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, công ty BHNT sẽ ngừng thu phí bảo hiểm từ kì thu phí bảo hiểm tiếp theo ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm. Trường hợp tai nạn xảy ra trước thời gian 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, công ty bảo hiểm sẽ hoàn trả 80% số phí bảo hiểm đã nộp cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm và hợp đồng này bị huỷ bỏ. 3.2.Do các nguyên nhân khác (trừ trường hợp tự tử và nhiễm virut HIV). Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chưa đủ 1 năm, công ty BHNT sẽ hoàn trả cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm 80% số phí bảo hiểm đã nộp và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị phá bỏ. Khi hợp đồng bảo hiểm này có hiệu lực từ một năm trở lên, công ty BHNT sẽ ngừng thu phí bảo hiểm tiếp sau ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm. 3.3.Do nguyên nhân tự tử hoặc do nhiễm virut HIV. Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên, công ty BHNT sẽ ngừng thu phí bảo hiểm kể từ ngày đến kì thu phí tiếp theo ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vãn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm. 4) Trong trường hợp người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn. Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn (tai nạn được bảo hiểm) thì sẽ được hưởng quyền lợi như phần 3.1 trên. Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn xảy ra sau 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, công ty BHNT trả cho người được bảo hiểm số tiền trợ cấp hàng năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cam kết cho đến ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn. Trường hợp tai nạn xảy ra trước một ngày nói trên, công ty BHNT hoàn trả 80% số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị huỷ bỏ. Ngoài các quyền lợi nói trên và khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên, công ty bảo hiểm còn có thể trả một khoản tiền lãi từ kết quả đầu tư phí BHNT của công ty cho người tham gia bảo hiểm vào ngày kỉ niệm của hợp đồng bảo hiểm hoặc khi thanh toán giá trị giải ước hoặc vào ngày thanh toán tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết và trả cho người được bảo hiểm vào ngày đáo hạn của hợp đồng. 2.3. Thủ tục bảo hiểm - 27 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 1. Khi yêu cầu bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm phải điền đầy đủ, trung thực vào giấy yêu cầu bảo hiểm, xuất trình giấy khai sinh của người được bảo hiểm và giấy khai sinh hoặc chứng minh thư hay hộ khẩu của người tham gia bảo hiểm cho công ty BHNT. 2. Khi hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người tham gia bảo hiểm không tiếp tục nộp phí bảo hiểm nhưng vẫn muốn duy trì hợp đồng thì phải thông báo bằng văn bản cho công ty BHNT trước kỳ nộp phí tiếp theo 15 ngày, và công ty BHNT sẽ thông báo bằng văn bản cho người tham gia bảo hiểm biết về số tiền bảo hiểm giảm tại thời điểm dừng đóng phí trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của người tham gia bảo hiểm. 3. Trong thời gian 14 ngày kể từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên, người tham gia BH có quyền từ chối không tiếp tực tham gia bảo hiểm. Trong trường hợp này người tham gia bảo hiểm được nhận 100% số phí đã nộp. 4. Huỷ bỏ và thay đổi hợp đồng bảo hiểm: a) Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực công ty BHNT không có quyền huỷ bỏ hay thay đổi các điều khoản, điều kiện của hợp đồng này trừ khi đã có thoả thuận khác nhau giữa công ty BHNT và người tham gia bảo hiểm. b) Trường hợp người tham gia bảo hiểm có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm - Khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ hai năm, công ty BHNT không hoàn trả lại số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm. - Khi hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên, công ty BHNT sẽ thanh toán cho người tham gia bảo hiểm giá trị giải ước tính đến thời điểm, nhận được yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng và khoản tiền lãi của hợp đồng này từ kết quả đầu tư phí BHNT của công ty. 2.4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. 2.4.1. Phí bảo hiểm và nguyên tắc tính phí Cũng như tất cả các loại hình bảo hiểm, phí bảo hiểm là cơ sở để xây dựng quĩ bảo hiểm để chi trả cho người được bảo hiểm và các khoản phụ phí. Phí bảo hiểm là số tiền cần phải thu của công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm đảm bảo trách nhiệm của mình khi có các sự kiện bảo hiểm được xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm như: chết, hết hạn hợp đồng, thương tật và đảm bảo cho việc hoạt động của công ty. Đây cũng là sự thể hiện trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm với công ty bảo hiểm nhằm nhận được sự bảo đảm trước những rủi ro đã được nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm. - 28 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Phí bảo hiểm có thể nộp một lần ngay sau khi ký hợp đồng hoặc có thể nộp định kỳ trong năm. Phí nộp một lần sẽ phải đóng góp ít hơn so với tổng số chi phí đóng góp hàng kỳ do hiệu quả đầu tư của việc đóng phí một lần cao hơn và chi phí quản lý thấp hơn. Nguyên tắc tính phí được dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách nhiệm của công ty bảo hiểm và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm tính theo giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trách nhiệm của người được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bằng trách nhiệm của công ty bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng Phí bảo hiểm gồm hai phần: phí thuần và phụ phí. + Phí thuần là những khoản phí dùng để chi trả cho người được bảo hiểm. + Phụ phí gồm: - Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại lý... - Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả chi phí thu phí BH ... - Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường. Cách xác định phí: a. Phí thuần: Có rất nhiều yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là: - Tuổi thọ của người được bảo hiểm cụ thể là bảng tỉ lệ tử vong. - Lãi suất kỹ thuật: lãi xuất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí. Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, cách thức nộp phí, tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn. Qua bảng tỉ lệ tử vong ta có thể đưa ra số lượng những người còn sống (lx+n) ở lứa tuổi x sau n năm. Từ đây có thể tính được xác suất sống và xác suất tử vong của một người ở độ tuổi x sau n năm. Tuổi (x) Số người sống (lx) Số người chết (dx) Tỷ lệ chết (1000.qx) - 29 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Lãi suất kỹ thuật: nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm đầu tư các khoản phí để đưa ra một phần lãi làm giảm mức phí đóng của người tham gia. Mức lãi này càng cao thì càng phải kích thích được số lượng người tham gia. Do vậy nhà bảo hiểm phải đưa vào lãi suất tiền gửi để tính phí. Trước khi tính phí ta cần hiểu một số khái niệm sau: x: tuổi của người được bảo hiểm khi bắt đầu được nhận bảo hiểm. lx: số người sống l(x+n): số ngưòi được bảo hiểm sống sau n năm hợp đồng. d(x+k): số người được bảo hiểm chết trong năm hợp đồng k. n: thời hạn hợp đồng. v: thừa số chiết khấu v=1/1+i. T(x+k): số người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong năm hợp đồng k. C: số tiền bảo hiểm. p: phí thuần. p”: phí toàn phần. Do BHNT gồm nhiều trường hợp được trả số tiền bảo hiểm. Do vậy phải xác định phí bảo hiểm cho từng trường hợp. + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hợp đồng: nv lx nlxCP +=1 + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp đồng: ∑− = ++= 1 0 2/1 2 n k kvvkP lx kdxP + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: ∑− = + += 1 0 3 )(4 n k kkx vkn lx TCP ( Theo điều qui định của nghiệp vụ thì khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn sẽ được công ty bảo hiểm trả định kỳ 1/4 số tiền bảo hiểm trong những năm còn lại của hợp đồng). Phí BHNT được xây dựng trên cơ sở P1 ,P2 ,P3. - 30 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp P = P1 + P2 + P3. b. Phí toàn phần: Trên cơ sở phí thuần, nhà bảo hiểm căn cứ vào các khoản phụ phí để tính ra khoản phí mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm. Phí toàn phần = Phí thuần + Phụ phí Thông thường thu phí chiếm khoảng 5% phụ phí, trong đó: + 3% chi phí quản lí + 2% chi phí khai thác hợp đồng Mức phí không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể nộp theo tháng, quý, năm hoặc theo 2 kì trong năm. công thức tính phí nộp mỗi kì (F) theo phí tháng như sau: Nếu nộp phí theo quý thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng Fquí = Ftháng * 3*0,98 (so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo quý giảm 2 %) Nếu nộp phí hai kỳ trong năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng F2 kì = Ftháng * 6 * 0,96 ( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo hai kỳ trong năm giảm 4 %) Nếu nộp phí theo năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng Fnăm = Ftháng * 12 * 0,92 ( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo năm giảm 8 %) Phí bảo hiểm cho các mức số trên bảo hiểm được tính theo tỉ lệ sau: + Với các mức số tiền bảo hiểm từ 5 triệu đến 30 triệuVNĐ- tính bằng 100% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm. + Với các mức số tiền bảo hiểm từ 31 triệu đến 40 triệuVNĐ- tính bằng 98% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm. + Với các mức số tiền bảo hiểm từ 41 triệu đến 50 triệuVNĐ- tính bằng 97% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm. 2.4.2. Số tiền bảo hiểm - 31 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Đây là hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với người bảo hiểm . Trong BHNT (cụ thể là bảo hiểm trẻ em) nhà bảo hiểm sẽ đưa ra nhiều mức số tiền khác nhau và người tham gia bảo hiểm sẽ dựa trên khả năng tài chính của mình để lựa chọn số tiền thích hợp nhất. Đây cũng là số tiền người tham gia đăng kí với công ty BHNT. Người tham gia BHNT có quyền lựa chọn một trong các mức số tiền bảo hiểm sau: 5 triệu, 10 triệu, 15 triệu, 20 triệu, 30 triệu, 40 triệu, 50 triệu. Phí bảo hiểm Số tiền bảo hiểm = Tỷ lệ phí 2.5. Chi trả bảo hiểm 2.5.1. Trường hợp sống đến hết hạn hợp đồng Với : Hợp đồng bảo hiểm gốc, công ty sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ký kết trong hợp đồng. 2.5.2. Trường hợp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm bị chết Với : - Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm - Hợp đồng bảo hiểm gốc - Giấy chứng từ Công ty bảo hiểm xem xét các giấy trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã cam kết trong hợp đồng. 2.5.3. Trường hợp ngưòi tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Với : - Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm - Hợp đồng bảo hiểm gốc - Biên bản tai nạn có xác nhận của công an hoặc cơ quan của người tham gia bảo hiểm làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn. - 32 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp - Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng thương tật của người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm. Công ty bảo hiểm xem xét các giấy tờ trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã cam kết trong hợp đồng. 2.5.4. Trường hợp huỷ bỏ hợp đồng đã có giá trị hoàn lại Với: - Giấy đề nghị huỷ bỏ hợp đồng - Hợp đồng bảo hiểm gốc. Trường hợp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm không trung thực, hoặc không chấp hành đúng các điều quy định trong hợp đồng, công ty bảo hiểm có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bảo hiểm tuỳ theo mức độ vi phạm. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm giải quyết và trả tiền bảo hiểm hoặc thanh toán giá trị hoàn lại, hoặc số phí đã nộp trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Nếu quá thời hạn trên thì khi thanh toán công ty bảo hiểm phải trả thêm lãi của số tiền này theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm thời hạn 3 tháng do Ngân hàng Nhà nước quy định trong hợp đồng. - 33 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp CHƯƠNG II NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BHNT I .GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ HÀ NỘI VÀ TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM HÀ NỘI. 1.Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội. Công ty bảo hiểm Việt Nam - Tiền thân của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ngày nay - được thành lập theo quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng chính phủ và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965. Ngày đầu hoạt động, Bảo Việt có trụ sở chính ở số 11 phố Lý Thường Kiệt - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội và một chi nhánh tại Hải Phòng. Công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và xét bồi thường cho các công ty bảo hiểm nước ngoài về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Năm 1975, sau ngày thống nhất đất nước, Bảo Việt tiếp quản cơ sở vật chất của một số công ty bảo hiểm thuộc chế độ cũ qua việc sáp nhập với công ty bảo hiểm và Tái bảo hiểm miền Nam Việt Nam, bắt đầu mở rộng hoạt động ở một số các tỉnh phía Nam. Năm 1980, Bảo Việt chính thức có mạng lưới cung cấp dịch vụ trên khắp cả nước. Đây cũng chính là thời kỳ Bảo Việt bắt đầu cung cấp dịch vụ - 34 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp bảo hiểm hành khách và bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới phục vụ cho việc đi lại của đông đảo quần chúng nhân dân. Năm 1982, Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm cây lúa lần 1, bước đầu mở rộng và phát triển bảo hiểm Nông nghiệp ở Việt Nam. Năm 1989, theo quyết định của Bộ Tài Chính công ty BHVN được chuyển đổi thành Tổng công ty BHVN. Từ đây, Bảo Việt triển khai hàng loạt cải tiến về hệ thống, tổ chức con người và liên tục đưa ra các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm mới. Năm 1992, thành lập công ty đại lý tại Anh quốc BAVINA (UK).LTD Từ năm 1993, Bảo Việt chú trọng cải tiến công tác đầu tư tài chính. Một loạt các biện pháp mang tính chiều sâu được thực hiện nhằm đảm bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Bảo Việt đã thu hút được nhiều thắng lợi quan trọng từ lĩnh vực đầu tư tài chính, dặc biệt là là những kết quả đạt được trong các năm 96, 97, 98, 99 (gần 100 tỷ đồng/ năm). Năm 1996, được sự uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ tìa chính ra quyết định thành lập lại Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Bảo Việt được Nhà nước xếp loại “Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt”, trở thành một trong 25 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, đánh dấu một mốc phát triển quan trọng của Bảo Việt. Ngoài ra cũng trong năm 1996 Bảo Việt còn một bước tiến nữa trong hoạt động kinh doanh với việc đưa ra thị trường dịch vụ Bảo hiểm Nhân thọ. Công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội trực thuộc Bảo Việt đã ra đời theo quyết định số 568/TC/QĐ/TCCB ngày 22/06/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính. Đây là đơn vị đầu tiên triển khai BHNT ở Việt Nam, là dịch vụ BHNT đáp ứng được nhu cầu của các tầng lớp dân cư. Đây là dịch vụ bảo hiểm thiết yếu liên quan đến mọi tầng lớp xã hội đồng thời tạo nguồn tài chính lớn đầu tư trở lại cho nền kinh tế đất nước. - 35 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Năm 1999, sự ra đời của công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt -Công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam đã thể hiện sự lớn mạnh trong hoạt động kinh doanh tài chính tổng hợp của Bảo Việt. Đây là một phần chính sách Bảo Việt luôn quan tâm đến phát triển quan hệ hợp tác kinh doanh, đầu tư tài chính với phương châm “Mọi cơ hội đầu tư Bảo Việt đều quan tâm”. Đầu năm 2000 trên cả nước đã có thêm 27 công ty BHNT được thành lập, thực hiện tổ chức hoạt động hai hệ thống kinh doanh bảo hiểm riêng biệt. Với 124 đơn vị thành viên, trong đó gồm 61 Công ty bảo hiểm nhân thọ, 61 Công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 1 trung tâm đào tạo, 1 công ty đại lý ở Anh quốc, 1 công ty cổ phần chứng khoán Bảo việt và gần 1000 phòng bảo hiểm khu vực, Bảo Việt có mạng lưới hoạt động ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Bảo Việt là công ty có số vốn mạnh nhất trong các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam. Công ty Bảo Việt nhân thọ Hà Nội là một trong 61 công ty BHNT được phân bố rộng rãi trong cả nước ra đời theo quyết định số 568/TC/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính. Là đơn vị đầu tiên triển khai bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam qua 6 năm hoạt động, với sự giúp đỡ và ủng hộ nhiệt tình của các cơ quan đơn vị và các tầng lớp nhân dân Thủ đô, Bảo Việt nhân thọ Hà Nội đã có những bước phát triển mạnh mẽ và toàn diện, gặt hái được nhiều thành công đáng kể. Bảo Việt nhân thọ Hà Nội có trụ sở chính tại toà nhà 94 Bà Triệu - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Cơ cấu tổ chức của công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội bao gồm Ban giám đốc và 7 phòng chức năng: Phát hành hợp đồng, Quản lý hợp đồng và dịch vụ khách hàng, Quản lý đại lý, Tài chính kế toán, Tổng hợp, Marketing, Phòng tin học. 2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng và các sản phẩm Bảo Việt nhân thọ hiện hành - 36 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 2.1 Chức năng nhiệm vụ của các phòng thuộc BVNT Hà Nội 2.1.1. Phòng tổng hợp - Công tác tổng hợp - Công tác tổ chức cán bộ, dào tạo cán bộ, lao động tiến lương - Công tác quản trị, hành chính - văn thư - Công tác pháp chế doanh nghiệp - Công tác thi đua chung 2.1.2. Phòng Tài chính - Kế toán - Công tác kế toán - Công tác thống kê - kế hoạch 2.1.3. Phòng quản lý đại lý - Nghiên cứu, thực hiện tổ chức hệ thống đại lý, cộng tác viên - Quản lý nhân sự đại lý - Phát triển đại lý - Đào tạo đại lý 2.1.4. Phòng phát hành hợp đồng - Tổ chức thực hiện đánh giá rủi ro để chấp nhận hay từ chối bảo hiểm - Phát hành hợp đồng bảo hiểm - Giám định bảo hiểm 2.1.5. Phòng quản lý hợp đồng - Quản lý tình trạng hiệu lực của hợp đồng - Giải quyết yêu cầu của khách hàng liên quan đến số tiền bảo hiểm - Công tác thăm hỏi tặng quà cho khách hàng 2.1.6. Phòng Marketing - Hỗ trợ đại lý - Công tác Marketing 2.1.7. Tổ tin học - Quản lý hệ thống tin học của công ty 2.2. Các Sản phẩm hiện hành của Bảo Việt nhân thọ. - 37 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 2.2.1. Bảo hiểm An khang thịnh vượng (BV – NA8/2001) Người được bảo hiểm: từ 14 đến 60 tuổi Người tham gia bảo hiểm: - Người từ 18 tuổi trở lên - Là cá nhân hay tổ chức - Người được bảo hiểm từ 14 – 17 tuổi: Người tham gia bảo hiểm có thể là Bố, mẹ, người đỡ đầu hoặc giám hộ hợp pháp của Người được bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm : 10 năm Phạm vi bảo hiểm: - Sống đến hết thời hạn bảo hiểm - Chết do mọi nguyên nhân - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn Quyền lợi bảo hiểm - Người được bảo hiểm sống đến hết thời hạn hợp đồng thì được trả số tiền bảo hiểm - Người được bảo hiểm chết trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng: nếu nguyên nhân chết nằm trong phạm vi bảo hiểm thì sẽ được chi trả số tiền bảo hiểm - Bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn: được trả số tiền bảo hiểm và miễn phí cho đến hết hạn hợp đồng mà vẫn được hưởng đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm 2.2.2. Bảo hiểm An gia Thịnh vượng BV - NA10/2001, BV - NA11/2001, BV - NA12/2001, BV - NA13/2001 Người được bảo hiểm: từ 1 đến 60 tuổi, không quá 70 khi thời hạn bảo hiểm kết thúc. Người tham gia bảo hiểm: - Người từ 18 tuổi trở lên - Là cá nhân hay tổ chức - 38 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp - Người được bảo hiểm từ 14 - 17 tuổi: Người tham gia bảo hiểm có thể là bố mẹ, người đỡ đầu hoặc bảo hộ hợp pháp của Người đước bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm: 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm Phạm vi bảo hiểm: - Sống đến hết thời hạn bảo hiểm - Chết do mọi nguyên nhân - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn Quyền lợi bảo hiểm: - Vào ngày đáo niên kể từ năm thứ hai trở đi cho đến trước ngày hợp đồng đáo hạn số tiền bảo hiểm được tính tăng 5% trên số tiền bảo hiểm gốc. - Người được bảo hiểm sống đến đáo hạn hợp đồng: trả số tiền bảo hiểm đã điều chỉnh - Người được bảo hiểm chết trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng: nếu nguyên nhân chết thuộc phạm vi bảo hiểm thì sẽ được chi trả toàn bộ số tiền bảo hiểm tại thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm. - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: được trả số tiền bảo hiểm đã điều chỉnh tại thời điểm xảy ra tai nạn và hợp đồng được duy trì miểm phí cho đến hết hạn hợp đồng mà vẫn duy trì đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm. 2.2.3. Bảo hiểm An sinh giáo dục BV- NA9/2001 Người được bảo hiểm: trẻ em từ 1 - 13 tuổi Người tham gia bảo hiểm: là người từ 18 đến 60 tuổi, là cha, mẹ, ông bà, anh chị, cô dì chú bác (Phải được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ bằng văn bản) người đỡ đầu hoặc giám hộ hợp pháp. Thời hạn bảo hiểm: phụ thuôc vào tuổi của người được bảo hiểm - 39 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Phạm vi bảo hiểm: - Đối với Người được bảo hiểm: Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, sống đến đáo hạn hợp đồng - Đối với Người tham gia bảo hiểm: Chết do mọi nguyên nhân, thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn Quyền lợi bảo hiểm: - Đối với người được bảo hiểm: trẻ em sống đến 18 tuổi trả toàn bộ số tiền bảo hiểm, trẻ em bị chết trước ngày đáo hạn hợp đồng trả 100% số phí đã nộp, tre em bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn trả trợ cấp mỗi năm 25% số tiền bảo hiểm cho đến hết hạn hợp đồng và dừng thu phí kỳ tiếp theo ngay sau khi xảy ra tai nạn. - Đối với người tham gia bảo hiểm: chết trong phạm vi được bảo hiểm hay thương tật toàn bộ vĩnh viễn thì hợp đồng sẽ được duy trì miễn phí với đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm. 2.2.4. Bảo hiểm An khang trường thọ BV- NC2/2001 Người được bảo hiểm: từ 18 đến 65 tuổi Người tham gia bảo hiểm: từ 18 đến 60 tuổi Thời hạn bảo hiểm: không xác định trước, chỉ chấm dứt hiệu lực khi NĐBH chêt hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Phạm vi bảo hiểm gồm các sự kiên xảy ra đối với NGBH: chết do mọi nguyên nhân và TTTBVV do tai nạn. Quyền lợi bảo hiểm: - Trường hợp NĐBH chết sẽ được chi trả theo những điều khoản đã quy định trong hợp đồng - Trường hợp NĐBH bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: được chi trả STBH và hợp đồng chấm dứt hiệu lực. 2.2.5. Bảo hiểm An hưởng hưu trí BV - ND2/2001 - 40 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Người được bảo hiểm: từ 18 đến 65 tuổi Người tham gia bảo hiểm: từ 18 đến 60 tuổi, có đầy đủ quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với NĐBH Thời hạn bảo hiểm: không xác định trước, hợp đồng chỉ chấm dứt khi NĐBH chết Phạm vi bảo hiểm: - Sống đến độ tuổi thoả thuận - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn - Chết do mọi nguyên nhân Quyền lợi bảo hiểm: - Trường hợp sống đến ngày bắt đầu nhận niên kim: trả niên kim hàng năm vào ngày đáo niên - Trường hợp NĐBH bị TTTBVV do tai nạn trước khi nhận niên kim: miễm phí hợp đồng và duy trì đầy đủ với các quyền lợi bảo hiểm khác - Trường hợp người được bảo hiểm chết: nếu trong phạm vi được bảo hiểm thì sẽ được chi trả quyền lợi theo như quy định trong điều khoản của hợp đồng 2.2.6. Bảo hiểm sinh kỳ thuần tuý BV - NR3/1999 Người được bảo hiểm: như trong hợp đồng chính Người tham gia bảo hiểm: như trong hợp đồng chính Thời điểm phát sinh hiệu lực: trùng khớp thời điểm phát sinh hiệu lực hợp đồng chính Thời hạn bảo hiểm: tuỳ độ tuổi của người tham gia dài nhất có thể là 48 năm (khi NĐBH 18 tuổi đến khi sống hết độ tuổi 65) và ngắn nhất là 1 năm (đối với điều khoản riêng đóng phí 1 lần) Phạm vi bảo hiểm: - Sống đến hết thời hạn bảo hiểm - 41 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn - Chết do mọi nguyên nhân trong thời hạn bảo hiểm Quyền lợi bảo hiểm: - Trường hợp người được bảo hiểm sống đến hết thời hạn bảo hiểm: trả STBH cho người được bảo hiểm - Trường hợp người được bảo hiểm TTTBVV do tai nạn: trả tiền trợ cấp thương tật theo quy định trong Phụ lục 4 cho NĐBH - Trường hợp NĐBH chết: nếu trong phạm vi được bảo hiểm thì sẽ được chi trả quyền lợi như trong điều khoản của hợp đồng 2.2.7. Bảo hiểm tử kỳ BV - NR4/1999 Người được bảo hiểm: như trong hợp đồng chính Người tham gia bảo hiểm: như trong hợp đồng chính Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm : như trong hợp đồng chính Thời điểm phát sinh hiệu lực: trùng khớp với thời điểm phát sinh hiệu lực hợp đồng chính Thời hạn được bảo hiểm: tuỳ thuộc độ tuổi NĐBH dài nhất có thể là 48 năm và ngắn nhất là 1 năm Phạm vi bảo hiểm: - Chết do mọi nguyên nhân trong thời hạn được bảo hiểm - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn Quyền lợi bảo hiểm: - Trường hợp người được bảo hiểm chết: nếu trong phạm vi được bảo hiểm thì sẽ được chi trả quyền lợi theo như điều khoản của hợp đồng - Trường hợp NĐBH thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: nếu xảy ra vào ngày đầu tiên khi điều khoản riêng có hiệu lực thì hoàn phí, xảy ra ngay sau ngày đầu tiên sẽ được chi trả STBH và chấm dứt hệu lực điều khoản riêng 2.2.8. Bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn - 42 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp BV - NR5/2001 Đối tượng được bảo hiểm: NĐBH trong các hợp đồng BHNT, NTGBH trong các hợp đồng An sinh giáo dục Phạm vi bảo hiểm: các trường hợp thương tật bộ phận vĩnh viễn quy định trong bảng “Tỷ lệ trả tiền bảo hiểm” của điều khoản này Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng: nếu tham gia trùng với hợp đồng chính thì phát sinh hiệu lực trùng với HĐ chính, còn tham gia khi hợp đồng chính đang có hiệu lực thì thời điểm phát sinh hiệu lực là ngày kỷ niệm hợp đồng liền sau ngày nộp phí cho điều khoản này Thời hạn bảo hiểm: 1 năm và tự động tái tục hàng năm Quyền lợi bảo hiểm: Trả tiền bảo hiểm theo quy định trong bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm khi NĐBH bị TTTBVV do tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm 2.2.9. Bảo hiểm chi phí phẫu thuật BV - NR6/2001 Đối tượng được bảo hiểm: - Người được bảo hiểm trong các hợp đồng BHNT - Người thạm gia trong các hợp đồng An sinh giáo dục Phạm vi bảo hiểm: các trường hợp NĐBH bị phẫu thuật do bệnh hoặc tai nạn được liệt kê trong bảng “Tỷ lệ trả tiền bảo hiểm” của điều khoản này Thời điểm phát sinh hiệu lực: nếu tham gia trùng với hợp đồng chính thì phát sinh hiệu lực trùng với HĐ chính, còn tham gia khi hợp đồng chính đang có hiệu lực thì thời điểm phát sinh hiệu lực là ngày kỷ niệm hợp đồng liền sau ngày nộp phí cho điều khoản này Thời hạn bảo hiểm: 1 năm, tự động tái tục hàng năm Quyền lợi bảo hiểm: - Trả tiền theo quy định trong “Bảng tỉ lệ trả tiền bảo hiểm” khi NĐBH phải điều trị ngoại khoa. - Trong bảng tỉ lệ trả tiền bảo hiểm có 199 tên phẫu thuật chính - 43 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 2.2.10. Bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn BV - NR7/2001 Đối tượng được bảo hiểm: - Người được bảo hiểm trong các hợp đồng BHNT - Người thạm gia trong các hợp đồng An sinh giáo dục Phạm vi bảo hiểm: các trường hợp TTTBVV do tai nạn và chết do tai nạn Thời hạn bảo hiểm: 1 năm, tự động tái tục hàng năm Quyền lợi bảo hiểm: Trả STBH trong trường hợp NĐBH chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn. 2.2.11. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn Người được bảo hiểm: - Sống ở Việt Nam - Tuổi từ 18 đến 60 nhưng khi kết thúc hợp đồng không quá 70 tuổi Người tham gia bảo hiểm: - Người được bảo hiểm - Vợ chồng, bố, mẹ, con của NĐBH - Người đỡ đầu hay giám hộ hợp pháp của NĐBH Thời hạn bảo hiểm: 1, 2, 3, 4, 5, 10, 15 năm Phạm vi bảo hiểm: bao gồm những rủi ro sau xảy ra với NĐBH - Chết do mọi nguyên nhân - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn Quyền lợi bảo hiểm: - Trường hợp NĐBH bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực sẽ được chi trả STBH theo như trong phụ lục của hợp đồng. - Trường hợp NĐBH bị chết: nếu trong phạm vi được bảo hiểm thì sẽ được chi trả STBH theo điều khoản của hợp đồng 3. Tình hình phát triển của thị trường BHNT Việt Nam - 44 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Phát triển từ một thị trường bảo hiểm độc quyền, thị trường BH Việt Nam ngày nay đã đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt với sự ra đời của BHNT, thuật ngữ bảo hiểm đang dần quen thuộc với mỗi người dân trong cuộc sống cũng như sinh hoạt hàng ngày. Điểm nổi bật của thị trường BHNT Việt Nam thời gian qua thể hiện ở sự hoạt động sôi nổi, cạnh tranh ngày càng gay gắt và toàn diện hơn. Từ năm 1996 đến giữa năm 1999 chỉ có Bảo Việt một mình một thị trường rộng lớn, đến nay trên thị trường đã có 5 doanh nghiệp: Bảo Việt; Công ty liên doanh Bảo hiểm Bảo Minh -CMG; Công ty bảo hiểm Prudential; Công ty Bảo hiểm Manulife; và công ty Bảo hiểm AIA. Nhìn vào tốc độ phát triển của doanh thu phí mỗi năm, chúng ta thấy thị trường BHNT Việt Nam đã phát triển một cách nhanh chóng. - 45 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Bảng 1: Tình hình doanh thu phí BHNT 96 - 2001 Qua đồ thị trên, chúng ta thấy: Năm 1996, 1997 là năm Bảo Việt bắt đầu triển khai BHNT, khái niệm BHNT mới bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam và được triển khai đầu tiên ở Hà Nội, do mới xuất hiện và thị trường còn nhỏ hẹp nên doanh thu phí bảo hiểm còn rất nhỏ Từ năm 1999, do có chính sách mở cửa của Nhà nước, thị trường BHNT Việt Nam đã trở nên thực sự sôi động với sự tham gia của các công ty BH nước ngoài. BHNT đã được trở nên quen thuộc hơn đối với người dân bằng công tác đại lý, bằng các tuyên truyền quảng cáo của các công ty bảo hiểm... sản phẩm bảo hiểm đã trở nên phổ biến hơn và được nhiều người quan tâm, khái niệm BHNT đã dần từng bước trở nên quen thuộc với người dân. Chính nhờ các chính sách cạnh tranh tích cực của các công ty bảo hiểm, doanh thu phí sản phẩm BHNT ngày càng tăng với tốc độ nhanh và như đã thấy, trong hai năm liên tiếp tổng doanh thu phí BHNT trên thị trường BH trong cả nước năm sau tăng gấp đôi năm trước (năm 1999 tăng 2,35 lần; năm 2000 tăng 2,32 lần). Đây là một dấu hiệu hết sức tốt đẹp hứa hẹn sự phát triển cho BHNT ở Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Mặc dù mới có tuổi đời hơn 5 năm nhưng thị trường BHNT Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng tự hào trên rất nhiều mặt. - 46 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Thứ nhất, đạt tốc độ tăng trưởng doanh thu phí và số hợp đồng rất cao. Nếu như năm 1996 Bảo Việt mới triển khai thí điểm BHNT ở một số tỉnh thành và đạt được kết quả khá khiêm tốn với trên 1.200 hợp đồng và doanh thu phí chưa đến 1 tỷ đồng thì năm 2000 doanh thu phí BHNT toàn thị phần đã đạt 1.280 tỷ đồng với gần một triệu hợp đồng có hiệu lực. Đặc biệt, năm 2001 là năm đáng ghi nhớ của thị trường BHNT Việt Nam với doanh thu phí đạt 2.775 tỷ đồng (tương đương với 0.55% GDP), số hợp đồng có hiệu lực đến cuối năm 2001 đạt khoảng 1.6 triệu hợp đồng (tương đương 2% dân số). So với năm 2000, tốc độ tăng doanh thu phí năm 2001 đạt trên 94%, trong đó tốc độ tăng doanh thu phí của các hợp đồng mới đạt trên 53%. Nếu tính từ khi mới triển khai, tốc độ tăng doanh thu phí BHNT bình quân trong những năm qua đạt 250%/năm; còn nếu tính từ năm 1999 - năm có sự gia nhập của các công ty BHNT nước ngoài vào thị trường Việt Nam, tốc độ doanh thu phí bình quân đạt trên 54%/năm (cao hơn tốc độ tăng GDP rất nhiều). Thêm vào đó là chất lượng khai thác cũng được nâng lên đáng kể, biểu hiện qua số tiền bảo hiểm trung bình/hợp đồng ngày càng cao, công tác đánh giá rủi ro được chú trọng hơn (thông qua việc áp dụng đánh giá rủi ro sức khoẻ, tài chính, xem xét mục đích tham gia bảo hiểm), tỷ lệ huỷ hợp đồng của toàn thị trường dưới 6%/năm (thấp hơn rất nhiều so với các thị trường khác). Thứ hai, xây dựng mạng lưới kinh doanh rộng khắp, đa dạng hoá kênh phân phối. Các doanh nghiệp BHNT, điển hình là Bảo Viẹt đã xây dựng được mạng lưới cung cấp dịch vụ khắp cả nước, đáp ứng nhu cầu BHNT của mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị tới nông thôn. Mô hình tổ chức và quản lý của các doanh nghiệp cũng ngày càng hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả, việc đào tạo cán bộ, đại lý ngày càng được chú trọng và được xác định là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng dịch vụ BHNT và thành công của doanh nghiệp bảo hiểm. Để đưa sản phẩm BHNT ra thị trường, đến nay các doanh nghiệp BHNT Việt Nam đều sử dụng kênh phân phối truyền thông- đội ngũ đại lý tư - 47 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp vấn BHNT. Đây là lực lượng bán hàng chủ chốt, đem lại phần lớn hợp đồng. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn sử dụng đại lý bán chuyên nghiệp và cộng tác viên. Gần đây, các doanh nghiệp BHNT đã bắt đầu hợp tác với ngân hàng trong khai thác và thu phí bảo hiểm, điển hình là sự hợp tác giữa Bảo Việt với Ngân hàng công thương, Ngân hàng á châu (ACB); giữa AIA với Ngân hàng Hồng Công & Thượng Hải (HSBC); giữa Prudential với ACB. Thứ ba, đưa ra được nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ phong phú. Khi Bảo Việt triển khai thí điểm BHNT, chỉ có ba sản phẩm được đưa ra thị trường là BHNT hỗn hợp thời hạn 5 năm, thời hạn 10 năm và An sinh giáo dục. Đến nay, trên thị trường đã có hiện diện của tất cả các chủng loại BHNT truyền thống như bảo hiểm hỗn hợp, sinh kỳ, tử kỳ, trọn đời, các sản phẩm BHNT cách tân (modi-fied life insurance), các sản phẩm BHNT hưu trí đồng thời có nhiều sản phẩm bổ trợ (rider) cũng đã có mặt làm tăng thêm rất nhiều quyền lợi cho khách hàng khi tham gia BHNT. Thời hạn bảo hiểm, phương thức đóng phí, sản phầm bảo hiểm cũng rất linh hoạt. Với sự đa dạng về chủng loại, các sản phẩm BHNT đã đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu đa dạng, phong phú và toàn diện của nhân dân. Số liệu triển khai cho thấy, các sản phẩm hỗn hợp (kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm) đặc biệt là bảo hiểm dành cho trẻ em là sản phẩm “bán chạy” nhất, các sản phẩm mang tính bảo vệ đơn thuần như bảo hiểm tử kỳ thì lại bán chậm hơn. Điều này cho thấy, thị trường Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn “ưa tiết kiêm” đồng thời cũng phản ánh truyền thống tiết kiệm, hiếu học, đức tính hy sinh vì con cháu của người Việt Nam. Mặt khác, các sản phẩm bảo hiểm ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn, phản ánh tâm lý lo ngại lạm phát, đấu tư dài hạn của công chúng. Ngoài BHNT, các doanh nghiệp còn cung cấp thêm các loại hình dịch vụ khác cho khách hàng tham gia BHNT như tư vấn du học, cho khách hàng vay tiền theo hợp đồng (cho vay giá trị giải ước), cung cấp thẻ giảm giá: Pru Card của Prudential, BaoViet Card của Bảo Việt... với những nỗ lực của các - 48 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp doanh nghiệp chất lượng dịch vụ BHNT ngày càng được nâng cao và mang tính toàn diện. Các dịch vụ đi kèm cũng là một nhân tố quan trọng làm tăng tính hấp dẫn cuat dịch vụ BHNT, thúc đẩy việc bán hàng. Kết quả triển khai cũng cho thấy, khách hàng tham gia BHNT rất đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp, nghề nghiệp khác nhau. Xét theo yếu tố thu nhập, có khách hàng có thu nhập cao, có người có thu nhập khá, có người có thu nhập trung bình, do vậy các công ty đưa ra nhiều loại hợp đồng từ những hợp đồng có số tiền bảo hiểm chỉ 5 triệu đồng nhưng cũng có hợp đồng có STBH lên tới vài tỷ đồng. Còn theo nghề nghiệp, những người làm công ăn lương, kinh doanh (có thu nhập ổn định) chiếm phần lớn khách hàng tham gia BHNT, khách hàng là nông dân còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Xuất hiện sau BH phi nhân thọ gần 30 năm, những bước đầu tiên BHNT gặp rất nhiều khó khăn là vì công ty đầu tiên kinh doanh loại hình BH này. Doanh thu phí BHNT trong những năm dầu tiên chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong doanh thu phí BH nói chung nhưng do sự phát triển không ngừng của thị trường BH cùng với các chính sách ưu đãi của nhà nước dành cho nghiệp vụ bảo hiểm mới phát triển này, BHNT ngày nay đã khẳng định được vị trí của mình bên cạnh BH phi nhân thọ và dự kiến trong thời gian tới, phí BHNT sẽ bằng thậm chí vượt phí mà BH phi nhân thọ thu được. Đây là một nhận định có cơ sở vì qua số liệu năm 99, 2000, 2001 thực tế đã chứng minh vị trí quan trọng của BHNT trong thị phần bảo hiểm. BHNT cũng chính là một trong các dấu hiệu nhận biết sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời nó cũng thể hiện trình độ nhận thức cũng như đời sống của người dân đang đạt dến một mức độ nhất định. Bảng 2: cơ cấu DT phí BHNT và PNT trên thị trường - 49 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 4. Những thuận lợi và khó khăn 4.1. Những thuận lợi Thứ nhất: Theo xu hướng phát triển chung của nền kinh tế nước ta những năm gần đây, Năm 2001, kinh tế thủ đô vẫn tiếp tục ổn định và tăng trưởng ở mức khá cao 10,3%, so với mức bình quân 6,8% của cả nước, nâng thu nhập bình quân của người dân thành phố lên một bước đồng thời tạo thêm công ăn việc làm mới cho người lao động thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế trong nước bắt đầu ổn định và phát triển. Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế ở con số dưới 10%, giá trị đồng tiền ổn định, đời sống nhân dân được nâng lên. Tương ứng với mức thu nhập tăng lên thì nhu cầu tiết kiệm để giành cho tương lai cũng tăng lên. Nhưng do đặc thù của khoản tiết kiệm nhỏ này của người dân mà các hình thức huy động gửi tiền tiết kiệm khác không phù hợp. Cho nên với những ưu điểm của nghiệp vụ BHNT chắc chắn sẽ phát triển ở Việt Nam. Thứ hai: Trong năm 2001 chỉ số giá cả tiêu dùng tiếp tục được duy trì ở mức thấp hơn dự kiến 0,8% so với 3,5%, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động tài chính ngân hàng. Hơn nữa, giá cả các mặt hàng lương thực tăng khá cao giúp cải thiện mức thu nhập của người nông dân vốn chiếm tới gần 50% dân số Hà Nội. Thêm vào đó lãi suất ngân hàng có xu hướng giảm trong năm 2001, với mức giảm trung bình từ 1 - 1,5% làm cho việc gửi tiền tiết - 50 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp kiệm ngân hàng trở nên kém hấp dẫn hơn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc triển khai các sản phẩm BHNT. Thứ ba: Để điều chỉnh và tạo môi trường hành lang pháp luật thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Bộ tài chính đã ban hành các văn bản pháp quy quan trọng đó là thông tư số 26/1998/TT-BTC về hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện để hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thông tư số 27/1998/TT-BTC về việc hướng dẫn hoạt động khai thác và quản lý bảo hiểm và thông tư số 28/1998 TT-BTC về việc hoạt động đại lý, cộng tác viên bảo hiểm. Thêm vào đó nữa là Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời và đi vào hoạt động ngày 1/4/2001 tạo hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành kinh doanh bảo hiểm trong xã hội. Thứ tư: Bảo Việt nhân thọ hưởng uy tín hơn 30 năm hoạt động của Bảo Việt đem lại. Đây là một thuận lợi mà không phải công ty nào cũng có được. Bảo Việt Nhân Thọ được sự quan tâm theo dõi chỉ đạo của Bộ tài chính. Hiện tại trong giai đoạn đầu, công ty Bảo Việt nhân thọ là công ty BHNT duy nhất được triển khai nghiệp vụ BHNT trên địa bàn cả nước, nên trước mắt nghiệp vụ của công ty chưa gặp phải sự cạnh tranh nào trên thị trường khi công ty mới bước vào hoạt động chưa đủ mạnh. Cũng trong giai đoạn này, Bộ tài chính tạm thời không tính thuế doanh thu với hoạt động kinh doanh nghiệp vụ BHNT. Đây cũng là yếu tố tích cực tạo điều kiện cho nghiệp vụ này phát triển. Bảo Việt có mạng lưới cộng tác viên là các công ty bảo hiểm địa phương ở các tỉnh trực thuộc hệ thống Bảo Việt, điều đó tạo điều kiện cho công ty có thể phát triển nghiệp vụ này rộng khắp trên cả nước. Mô hình tổ chức cũng như chất lượng cán bộ từ quản lý đến khai thác của công ty ngày càng được củng cố và hoàn thiện cả về chất lượng và số lượng. Năm 2001 cũng là năm Bảo Việt triển khai nhiều sản phẩm mới, được cải tiến trên cơ sở các sản phẩm cũ cho phù hợp hơn với nhu cầu về BHNT của người dân đảm bảo rằng mọi người dân đều có thể tham gia bảo hiểm dù có mức thu nhập thấp hay cao đều có thể mua sản phẩm phù hợp với điều kiện kinh tế. Mặt khác, Tổng công ty tăng cường hỗ trợ các công ty thành viên thông qua việc phát triển công tác tuyên truyền quảng cáo, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, giải quyết nhanh chóng thắc mắc, đề nghị của công ty, hoàn thiện cơ chế khuyến khích đối với đại lý... 4.2. Những khó khăn. - 51 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Thứ nhất: Mặc dù tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao, song do xuất phát điểm thấp, thu phận của đại bộ phận dân cư trên địa bàn thành phố chưa cao và còn có sự chênh lệch lớn. Mức thu nhập cao tập trung chủ yếu vào khoảng 30% dân cư ở khu vực thành thị trong khi thành thị cũng là thị trường được khai thác bảo hiểm khá nhiều trong suốt 4 năm qua, từ năm 1996. Tính trung bình, tỷ lệ tham gia bảo hiểm nhân thọ của dân cư khu vực các quận nội thành của Hà Nội hiện nay chiếm khoảng 10%. Thứ hai: Người dân chưa thực sự tin tưởng vào giá trị của đồng tiền sau một thời gian dài, và với đặc điểm của các sản phẩm BHNT là loại hình bảo hiểm mang tính chất dài hạn, do vậy họ nghĩ rằng số tiền nhận được trong tương lai sẽ có giá trị bị giảm đi rất nhiều (Họ lo sợ lạm phát xảy ra) Thứ 3: Sự tham gia thị trường của các công ty BHNT nước ngoài dã làm cho thị trường BHNT Việt Nam sôi động và phong phú lên rất nhiều nhưng lại gây khó khăn là sự cạnh tranh giữa các công ty nhằm chia sẻ thị trường BHNT cũng như nguồn tuyển viên. Mặt khác, sự có mặt ngày càng đông hơn của đội ngũ tư vấn bảo hiểm nhân thọ trên thị trường cũng làm cho khách hàng khó tính hơn, việc tiếp cận và thuyết phục trở nên khó khăn hơn. Thứ ba: Sản phẩm BHNT đã được Tổng công ty hoàn thiện, thay đổi nhưng người dân lại cảm thấy thiệt thòi vì chi phí bảo hiểm cao hơn khi so sánh các sản phẩm NA1,2,3 với NA 4,5,6. Một số điểm quy định trong điều khoản BHNT còn cứng nhắc, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng. Thứ tư: Chương trình phần mềm tin học quản lý nghiệp vụ BHNT còn nhiều bất cập, không ổn định và đầy đủ theo yêu cầu quản lý đã gây nhiều khó khăn cho công ty. Năm 2001 là năm chuyển đổi chương trình máy tính từ FOXPRO sang BVLIFE cho phép quản trị dữ liệu và thực hiện các dịch vụ tốt hơn nhưng hiện còn thiếu ổn định và đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý. Thêm vào đó là việc triển khai sản phẩm mới, những thay đổi về quy trình khai thác trong một thời gian ngắn,... cũng gây ra những khó khăn nhất dịnh cho hoạt động của Công ty. Nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội năm 2001 có những thuận lợi cơ bản nhưng cạnh tranh trong lĩnh vực BHNT ngày càng gay gắt hơn. Nhưng với sự nỗ lực, cố gắng phấn đấu của tập thể cán bộ công nhân viên, cán bộ khai thác và chuyên thu toàn công ty trong công tác kinh doanh công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. - 52 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp II. SẢN PHẨM AN SINH GIÁO DỤC Ở BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI 1.Ý nghĩa của sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục Chương trình An sinh giáo dục là bảo đảm cho trẻ em tới tuổi trưởng thành. Chương trình này là một loại hình thuộc BHNT hỗn hợp nên nó mang rất nhiều ý nghĩa: - An sinh giáo dục: một giải pháp đầu tư cho tương lai, giúp con nhà nghèo có thể học đại học. Hiện nay có nhiều sinh viên phải bỏ dở việc học đại học hay đỗ đại học mà không được đi học, một trong những nguyên nhân là do chi phí phải nộp cùng các khoản đóng góp quá cao. Chi phí cho học hành trở thành vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội cũng như các bậc phụ huynh mà phần lớn họ có mức thu nhập thấp. Nhà nước chủ trương không bao cấp mà thu học phí của sinh viên là thể hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong giáo dục. Nhiều gia đình ở nông thôn đã phải bán đất bán ruộng để đổi lấy một chỗ ngồi trên giảng đường cho con cái (đây là vấn đề đã được nêu ở trên một tờ báo). Làm sao để con em mình có tiền đi học đại học? Bạn có biết rằng chỉ với một vài ngàn đồng tiết kiệm mỗi ngày, con bạn có thể ngẩng cao đầu trong tương lai. Vậy giải pháp có tính khả thi và phù hợp với tất cả mọi người hiện nay là gì? Đó là An sinh giáo dục. An sinh giáo dục giúp cho mọi người thực hiện được mong ước cho tương lai và đảm bảo quyền lợi cho chính con cái và gia đình. - An sinh giáo dục mang ý nghĩa nhân văn, giáo dục sâu sắc Là một loại hình của BHNT hỗn hợp, nên người tham gia chương trình An sinh giáo dục chắc chắn sẽ nhận được số tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù rủi ro không xảy ra và nhận được một khoản lãi được gọi là bảo tức tích luỹ mà không phải chi ra một khoản tiền lớn cùng một lúc, chỉ tích luỹ dần dần. Hơn nữa sản phẩm này lại thể hiện tính nhân văn cao cả mà các loại hình bảo hiểm khác không thể hiện được. Có thể cùng nhận một khoản tiền như BHNT có thời hạn 5 năm, 10 năm nhưng nó mang một ý nghĩa to lớn hơn rât nhiều. Trong một xã hội nói chung và một gia đình nói riêng, các thế hệ đi trước thường có mối quan tâm đặc biệt đối với các thế hệ đi sau và chương trình An sinh giáo dục đã thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt đó. Nó thể hiện sự chăm lo sâu sắc của ông bà, cha mẹ đối với con cháu và ngược lại, nó làm cho thế hệ trẻ chúng ta biết sống vì - 53 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp người khác, hiểu rõ hơn sự quan tâm của ông bà, cha mẹ để phấn đấu hơn trong học tập và rèn luyện. - An sinh giáo dục còn góp phần tạo nên một phong cách, tập quán và lối sống mới. Người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm, tạo quyền lợi cho chính mình và con cháu mình. Điều đó thể hiện một nét sống đẹp là biết chăm lo cho con cái và biết tự lo cho chính bản thân. Cha mẹ tham gia chương trình An sinh giáo dục là một cách để giáo dục con cái mình và sống có trách nhiệm với người khác. - Tham gia chương trình An sinh giáo dục là góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Vì “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai“ nên đầu tư cho giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển, nó làm cho sự tiến bộ xã hội không ngừng được nâng cao. An sinh giáo dục là một trong những giải pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình. Đây là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội. Bảo đảm tương lai cho con em mình, cũng nên được coi là trách nhiệm của mỗi gia đình - tế bào của xã hội với chức năng cơ bản tạo ra thế hệ kế cận ưu tú hơn. - An sinh giáo dục là chưong trình bảo hiểm cho cả người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm. Đây là một đặc trưng của bảo hiểm trẻ em vì khi ông ba, cha mẹ tham gia chương trình An sinh giáo dục cho con em mình thì đồng thời cũng bảo hiểm cho bản thân bởi lẽ nếu có rủi ro xảy ra đối với chủ hợp đồng thì con em họ vẫn tiếp tục được bảo vệ mà không tiếp tục phải đóng phí, tất nhiên về mặt tình cảm là không thể bù đắp được nhưng trên phương diện tài chính thì có thể yên tâm rằng con em họ vẫn được bảo vệ. Đó là quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm. 2. So sánh An Sinh giáo dục của Bảo Việt với sản phẩm tương tự của công ty khác Một sản phẩm bảo hiểm dành riêng cho đối tượng trẻ em là sản phẩm mà mọi công ty đều phải có, bởi lẽ trẻ em luôn là đối tượng được gia đình và - 54 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp xã hội quan tâm ưu ái nhất, chính vì thế khi một công ty BHNT triển khai sản phẩm bảo hiểm của mình thì không thể bỏ qua một đối tượng bảo hiểm lớn như vậy được. Hơn nữa ở Việt Nam lại có cơ cấu dân số trẻ cho nên lượng khách hàng có nhu cầu bảo hiểm là trẻ em rất đông cho nên khi triển khai BHNT ở Việt Nam thì mọi công ty bảo hiểm đều đưa ra sản phẩm bảo hiểm dành riêng cho trẻ em. Tuy cùng là sản phẩm bảo hiểm dành riêng cho trẻ em nhưng mỗi công ty khác nhau thì lại có những đặc thù riêng trong sản phẩm của mình: về cách thức tính phí, về phí bảo hiểm cho sản phẩm chính và sản phẩm phụ, về lãi chia, về giá trị giải ước, về quyền lợi bảo hiểm... mỗi công ty đều có ưu điểm riêng và cánh thức tính khác nhau để có thể đưa ra nhiều quyền lợi cho khách hàng nhất để đảm bảo công việc cạnh tranh trên thị trường. Ở đây, tôi không đi sâu vào cách thức tính phí, lãi, giá trị giải ước bởi đây là bí mật riêng của mỗi công ty bảo hiểm, và để tính được các vấn đề trên họ có những đội ngũ chuyên gia tính phí được đào tạo rất công phu do vậy ở đây tôi chỉ xin đề cập đến một số vấn đề khác nhau cơ bản giữa các công ty bảo hiểm về sản phẩm An sinh giáo dục nói chung. 2.1. So sánh với công ty BHNT AIA Đầu tiên, về mục đích sản phẩm đều là giành cho đối tượng trẻ em nhưng mỗi công ty khác nhau thì quy định lại có một số vấn đề khác biệt nhau: Về độ tuổi tham gia của người được bảo hiểm: - Bảo Việt: Trẻ em từ 1 đến 13 tuổi - AIA: Trẻ em từ 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề tài SẢN PHẨM AN SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ.pdf
Tài liệu liên quan