Tài liệu Luận văn Rửa tiền và chống rửa tiền hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam: 1
Luận văn
Rửa tiền và chống rửa tiền -
hiện tượng, giải pháp ở các
nước trên thế giới và Việt Nam
2
LờI mở đầu
Rửa tiền là một khâu quan trọng quá trình hoạt động tội phạm nhằm
che đậy, xoá nhoà nguồn gốc bất hợp pháp của những thu nhập có được từ
hoạt động phạm tội. Thuật ngữ "rửa tiền " đã trở nên quen thuộc ở nhiều nước
trên thế giới.
Với vụ rửa tiền đầu tiên xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1920, cho tới
nay nó đã xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới với các mức độ khác
nhau nhưng ngày càng có xu hướng gia tăng. Hoạt động rửa tiền cũng ngày
một tinh vi hơn, khó bị phát hiện hơn.
Chúng ta biết rằng hoạt động rửa tiền thường gắn liền với một hoặc
nhiều hoạt động tội phạm nước đó. Do vậy hậu quả của nạn rửa tiền là vô
cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội, nó có thể phá huỷ nền kinh tế,
an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội, đồng thời nó khuyến khích
hoạt động mua bán ma tuý, khủng bố, các quan chức Nhà nước tham nhũng
và ké...
82 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Rửa tiền và chống rửa tiền hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Rửa tiền và chống rửa tiền -
hiện tượng, giải pháp ở các
nước trên thế giới và Việt Nam
2
LờI mở đầu
Rửa tiền là một khâu quan trọng quá trình hoạt động tội phạm nhằm
che đậy, xoá nhoà nguồn gốc bất hợp pháp của những thu nhập có được từ
hoạt động phạm tội. Thuật ngữ "rửa tiền " đã trở nên quen thuộc ở nhiều nước
trên thế giới.
Với vụ rửa tiền đầu tiên xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1920, cho tới
nay nó đã xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới với các mức độ khác
nhau nhưng ngày càng có xu hướng gia tăng. Hoạt động rửa tiền cũng ngày
một tinh vi hơn, khó bị phát hiện hơn.
Chúng ta biết rằng hoạt động rửa tiền thường gắn liền với một hoặc
nhiều hoạt động tội phạm nước đó. Do vậy hậu quả của nạn rửa tiền là vô
cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội, nó có thể phá huỷ nền kinh tế,
an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội, đồng thời nó khuyến khích
hoạt động mua bán ma tuý, khủng bố, các quan chức Nhà nước tham nhũng
và kéo theo những hoạt động phạm tội khác; nó tác động rất lớn đến hiệu quả
hoạt động và làm sai lệch quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, làm
tăng nguy cơ phá sản của các ngân hàng và làm mất đi vai trò kiểm soát các
chính sách của Chính phủ... Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn
mòn tình hình tài chính của một nước do gây ra những ảnh hưởng bất lợi tới
tỷ giá, lãi suất và tác động đến hệ thống tài chính toàn cầu. Có thể nói nạn
"rửa tiền" không chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật mà nó còn là
mối đe doạ nghiêm trọng nền an ninh của một quốc gia và cộng đồng quốc
tế...
Vì những lý do này mà chống rửa tiền đang là một yêu cầu cấp bách
đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
3
Với mong muốn góp ý kiến vào cuộc đấu tranh chống "rửa tiền " đầy
khó khăn này, nhằm từng bước làm trong sạch hệ thống tài chính, ổn định
kinh tế xã hội, tác giả mạnh dạn đưa ra đề tài: "Rửa tiền và chống rửa tiền -
hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam".
Đề tài làm rõ những nội dung cơ bản về phương diện lý luận cũng như
thực tiễn về nạn rửa tiền, về cuộc đấu tranh chống rửa tiền ở một số quốc gia
trên thế giới. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để cuộc đấu tranh
chống rửa tiền thành công.
4
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN ....................................... 6
I. KHÁI NIỆM VÀ QUI TRÈNH RỬA TIỀN ............................................. 6
1. Khái niệm. ........................................................................................ 6
1.1. Định nghĩa: ............................................................................... 6
1.2. Lịch sử nạn rửa tiền ................................................................... 9
2. Qui trình rửa tiền ............................................................................. 12
2.1. Chu trình rửa tiền ................................................................... 12
2.2. Các hình thức rửa tiền ............................................................ 15
II. HẬU QUẢ NẠN RỬA TIỀN .............................................................. 18
1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn thương ..................................... 19
2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân .............................................. 19
3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính ......................................... 20
4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh tế ......................................... 20
5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh tế ............................................... 21
6. Gây tổn hại Ngân khố quốc gia: ....................................................... 22
7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hoá .................................. 22
8. Nguy cơ tổn hại danh tiếng .............................................................. 22
9. Những cái giá phải trả về mặt xã hội................................................ 25
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG ...................................................................................................... 24
IV. CÁC VĂN BẢN PHÁP LÍ SỬ DỤNG TRONG CHỐNG
“RỬA TIỀN” ............................................................................................ 30
Kết luận chương I:................................................................................ 33
5
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA
TIỀN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRấN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM ......... 34
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA TIỀN
MỘT SỐ NƯỚC TRấN THẾ GIỚI............................................................ 34
1. Rửa tiền - chống rửa tiền tại Hoa Kỳ ............................................... 35
1.1. Khái quát chung: ...................................................................... 35
1.2. Chống rửa tiền của Hoa Kỳ: ...................................................... 38
1.2.1. Những cơ sở pháp lý then chốt của Hoa Kỳ. ..................... 38
1.2.2 Dấu vết hồ sơ: ................................................................... 40
1.2.3. Vòng quay toàn cầu .......................................................... 43
1.2.4. Những định hướng trong tương lai: ................................. 44
1.3. Những thành tựu đạt được trong cuộc chiến chống rửa tiền của
Hoa Kỳ ................................................................................................. 45
1.3.1. Chiến dịch "thuần hoá chú lừa" ...................................... 45
1.3.2. Chiến dịch “công việc mạo hiểm”................................... 46
1.3.3. Những vụ việc liên quan đến hệ thống chuyển đổi đồng
tiền peso chợ đen. ................................................................................. 48
1.3.4. Những khó khăn trong các vụ chống rửa tiền quốc tế:
Chiến dịch Casablanca ......................................................................... 49
2. Rửa tiền - chống rửa tiền ở Thái Lan ............................................... 52
3. Rửa tiền- chống rửa tiền tại Hồng Kông ......................................... 55
II. RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM ........................... 58
1. Khái quát chung: ............................................................................. 58
2. Thực trạng cụ thể .............................................................................. 60
Kết luận chương II. ............................................................................... 61
6
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GểP PHẦN CHỐNG NẠN RỬA TIỀN VÀ
NHỮNG KIẾN NGHỊ ........................................................................ 63
I. SỰ CẦN THIẾT CHỐNG RỬA TIỀN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ........ 63
1. Sự cần thiết phải chống “rửa tiền” .................................................... 63
2. Định hướng chống “rửa tiền” ............................................................ 60
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG RỬA TIỀN......................................... 65
1. Các biện pháp kĩ thuật và đào tạo ................................................... 65
1.1. Đào tạo các đối tác. .................................................................. 67
1.2. Các sáng tạo hỗ trợ đa phương : ............................................. 72
2. Biện pháp của ngành ngân hàng. ...................................................... 73
2.1. Mục tiêu của chính sách “nhận biết khách hàng”-KYC ............ 73
2.2. Nội dung của chính sách “nhận biết khách hàng” .................... 74
2.3. Nguyên tắc cơ bản của Chính sách “nhận biết khách hàng” .... 75
3. Hợp tác quốc tế chống “rửa tiền”. .................................................... 76
III. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI VIỆT NAM ............................................. 78
Kết luận chương III. ............................................................................. 78
TÀI LIệU THAM KHảO .................................................................... 81
7
Chương I
Những vấn đề chung về rửa tiền
I. Khái niệm và quy trình rửa tiền
1. Khái niệm.
1.1. Định nghĩa:
Một cách chung nhất có thể hiểu rửa tiền là hành động hợp thức hoá số
tiền kiếm được một cách bất hợp pháp và tránh sự kiểm soát các hoạt động
phi pháp của các cơ quan hành pháp.
Vậy đối tượng tham gia hành vi rửa tiền là ai? Câu trả lời đơn giản là
bọn tội phạm. Nhưng câu trả lời này không hoàn toàn phản ánh sự thực. Bởi
trong thực tế, người ta có thể tìm thấy bọn rửa tiền ở mọi ngóc ngách của
cuộc sống, trong đó có những tên hoạt động hết sức đơn giản, có những tên
hoạt động hết sức tinh vi: từ việc đặt cược đua ngựa, buôn lậu, trốn thuế, gửi
tiền vào ngân hàng... đến rửa tiền thông qua các công cụ tài chính hiện đại.
Tuy nhiên tội phạm rửa tiền không phải chỉ là những tên chủ mưu rửa tiền mà
cả những đối tượng giúp để một tên tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền.
Điều này có nghĩa là, nếu các chủ ngân hàng, các luật sư, các kế toán, những
người buôn bán xe hơi và những người khác cho phép ai đó rửa tiền thông
qua các hoạt động kinh doanh của mình thì họ cũng là những tên rửa tiền. Nói
chung điều duy nhất có thể biện hộ cho một người là anh ta đã không biết gì
về việc đang xảy ra; lý do như vậy có vẻ không mấy thuyết phục. Tuy nhiên
trong các phiên toà, dù có được ghi trong các điều khoản luật hay do những
phỏng đoán từ các chứng cứ thì nhiệm vụ chứng minh sự vô tội của anh ta
chuyển sang cho bị cáo.
8
Trong nhiều trường hợp, những người không phải là doanh nhân hay
không phải là những tên tội phạm cũng đều có nguy cơ trở thành tội phạm rửa
tiền nếu như họ chứa chấp, nắm giữ hộ tiền hay tài sản thu được từ các vụ rửa
tiền. Một ví dụ rõ nhất trong tình huống này là vợ hay bạn gái của một tên tội
phạm biết hoặc nghi ngờ chồng hay bạn trai của mình sử dụng nguồn lợi bất
chính để mua nhà, mua xe hay mua đồ trang sức đắt tiền.v.v... cũng trở thành
hoặc bị coi là tội phạm rửa tiền.
Đối tượng sau cùng bị coi là tội phạm rửa tiền phải kể đến là những
người giúp bọn tội phạm vạch ra kế hoạch rửa tiền cho dù họ không thực sự
tham gia vào kế hoạch đó. Như vậy một kế toán gợi ý cho bọn rửa tiền một kế
hoạch trốn thuế thì chính viên kế toán này cũng trở thành tội phạm rửa tiền.
Một vấn đề đặt ra là tại sao bọn tội phạm lại rửa tiền?
Hiện nay, người ta biết tới ba loại tội phạm cơ bản là: tội phạm vì tình
hay vì danh dự, tội phá hoại mang tính bạo lực và tội phạm kinh tế. Nếu bỏ
qua số ít tội phạm phá hoại thì phần đông là tội phạm kinh tế - phạm tội vì
tiền. Nhưng đối tượng này phạm tội vì hai lý do: một là, do bị kích động, tức
là chúng muốn chứng tỏ rằng chúng có thể làm được việc đó và bỏ trốn sau
khi phạm tội; hai là, vì chúng cho rằng nếu phạm tội thì chúng sẽ có nhiều
tiền hơn là bằng cách nỗ lực kiếm tiền theo đúng luật.
Sau khi kiếm được tiền bằng cách phạm tội, bọn chúng sẽ sử dụng tiền
đó cho một trong ba mục đích: đưa trực tiếp vào một vụ phạm tội khác; dấu
tiền để sử dụng sau này; hoặc trực tiếp vào một vụ phạm tội .
Trong những phương pháp điều tra chuẩn mực và đạt được những
thành công nhất là điều tra "theo dấu đồng tiền". Vì vậy, bọn tội phạm muốn
chuyển đi xa một cách nhanh chóng để "xoá dấu đồng tiền" trước khi các điều
tra viên có thể phát hiện ra. Từ xưa tới nay, chúng đều muốn dấu tiền vào một
chỗ kín đáo để những điều tra viên không làm được gì. Thêm vào đó, nếu các
9
điều tra viên cho rằng ai đó có liên quan tới tội phạm thì họ sẽ tiến hành điều
tra trước tiên nguồn tài chính và các công việc trước đây của đối tượng này.
Vì thế, bọn tội phạm cần phải lôi tiền ra khỏi chỗ kín bằng cách nào đó mà
anh ta có thể giải thích là anh ta đã lấy nó từ đâu.
Tuy nhiên, khi thấy một người tiêu xài nhiều hơn số tiền họ có, ví dụ
một người thợ làm đầu không có người khách nào mà lại có một chiếc xe mui
trần, thì chúng ta có quyền nghi ngờ họ có dính líu đến hành vi "rửa tiền".
Những người muốn trốn thuế rửa tiền để che dấu về nguồn gốc của tiền
và tài sản hoặc họ có thể dấu tiền trong các tài khoản mở tại Ngân hàng,
thường dưới tên của con cái hay người thân của họ, miễn sao để những người
quản lý thu nhập sẽ không phát hiện ra. Đôi khi, chỉ đơn giản là họ tiến hành
các hoạt động bên ngoài mà chỉ một phần hoạt động đó bị ghi chép lại.
Nhìn chung, hành vi rửa tiền là rất đa dạng, nó có thể tồn tại dưới dạng
này hoặc dạng khác. Khi khoa học công nghệ này phát triển, hành vi này càng
trở nên tinh vi hơn. Muốn hạn chế được hành vi này phải tìm ra nguồn gốc
sâu xa của nó, tức trả lời câu hỏi: "Tại sao xảy ra nạn rửa tiền".
Theo ước tính thì 80% các vụ phạm tội về tài sản, ví như hành động ăn
trộm là để thoả mãn thói quen nghiện hút; nếu không có ai muốn mua những
hàng hoá là đồ ăn cắp thì bọn tội phạm sẽ không có cơ sở để ăn trộm vì chúng
sẽ không thể bán lấy tiền được.
ở hầu hết các nước, nếu một người buôn bán đồ ăn cắp (điều này có
nghĩa là anh ta mua chúng từ một bên ăn trộm rồi bán lấy tiền lời) thì tội của
anh ta còn nghiêm trọng hơn là tội của tên tội phạm đã ăn trộm hàng hoá đó.
Vì vậy, người ta tin tưởng rằng có thể giảm các vụ ăn trộm chỉ bằng cách làm
cho chúng không thể đem lại lợi nhuận cho bọn tội phạm.
Tuy nhiên, hiện nay loại tội phạm tài chính ngày càng gia tăng với cách
phạm tội ngày càng tinh vi thì tiền không còn tồn tại dưới dạng vật chất. ở
10
đây, tiền chẳng khác nào những thông tin trên màn hình máy tính hay chính
xác hơn là những kí tự lưu trữ trong bộ nhớ của máy vi tính. Vì thế khó có thể
thấy người ta mua bán đồ ăn trộm vì thực tế chẳng có gì cả. Kết quả là, khung
luật hình sự có đưa ra cách xác định một vật chất của những đồ ăn trộm, ăn
cắp là không thể áp dụng được (hoặc các toà án cho rằng nó không thích ứng)
đối với những loại tiền hoặc tài sản khác phi vật chất.
Các nhà lập pháp và hành pháp có một câu thành ngữ cho rằng để giảm
bớt tội phạm phải "triệt tiêu lợi nhuận của bọn tội phạm", nghĩa là xác minh
các tài sản bắt nguồn từ lợi nhuận từ các vụ phạm tội và tịch thu chúng theo
lệnh của toà án hoặc dựa vào sức mạnh của quyền lực hành chính.
Tóm lại rửa tiền là một hoạt động phi pháp. Chúng ta có thấy thấy hành
vi rửa tiền thường đi kèm với các hành vi tội phạm. Để chống rửa tiền hiệu
quả trước hết chúng ta hãy xem diễn biến của nó trong lịch sử và những tác
động của nó.
1.2. Lịch sử nạn rửa tiền
Rửa tiền xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1920 và đến năm 1999
thì nhu cầu rửa tiền ngày càng lớn và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới.
Theo báo cáo năm 2000 của Cơ quan chống các chất gây nghiện quốc tế (gọi
tắt là INCSR) cho tới thời điểm này số các nước có tình trạng rửa tiền ở mức
độ đáng lo ngại đã lên tới mức hai con số. Cụ thể tổ chức này chia mức độ
hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành 3 mức chủ yếu: Nhóm mức độ lo ngại
cao; Nhóm mức độ lo ngại trung bình và nhóm được theo dõi. Sự phân chia
này dựa trên các tiêu chí: (1) có hay không có những cơ quan tài chính của
quốc gia tiến hành các giao dịch có liên quan trực tiếp đến lượng tiền thu
được từ những tội phạm nghiêm trọng; (2) phạm vi của hoạt động xét xử hay
bất cập ảnh hưởng đến rửa tiền; (3) bản chất và qui mô của tình trạng rửa tiền
ở nước ta (ví dụ: ở đó có hay không có dính dáng đến ma tuý hay những hoạt
động buôn lậu); (4) những cách thức mà mỗi quốc gia quan tâm đến tình hình
11
cụ thể khi có chi nhánh quốc tế; (5) Những tác động hiện tại mà mỗi quốc gia
quan tâm; (6) Có hay không việc giới hạn các hành vi bảo vệ pháp luật được
phép chỉ ra những vấn đề cụ thể; (7) Có hay không có việc thiếu thủ tục cho
phép hoạt động và bỏ sót các Trung tâm buôn bán và tài chính nước ngoài; (8)
Có hay không giới hạn của pháp luật đang thực thi ngày càng có hiệu quả; và
sự hợp tác quốc tế trong việc chống rửa tiền ở các quốc gia.
Bảng 1: Danh sách các quốc gia/nhóm mức độ lo ngại về rửa tiền
Quốc gia /nhóm mức độ lo
ngại lớn
quốc gia /nhóm mức độ lo
ngại trung bình
quốc gia /nhóm theo dõi
Antigua Indonexia Albania Chila Afghanmistan Croatia
Barbuda Isle of man Argentira Cook llands Algeria Cuba
Australia Israel Aruba Korea, North Angola Denmark
Austria Italy Bahrain Costa Rica Anguilla Eritrea
Bahamas Japan Belize Czech Tepublic Armenia Estonia
Brazil Tersey Boliavia Ecuador Azerbaijan Ethiopla
Burma Lebanon British Ycrgin Sammoa Bangladesh Fiji
Canada Liechtesntein . Islands Seychelles Belarus Finland
Cayman Island Mexico Barbados Slovakia Benin Georgia
China Nauru Belgium South Africa Benmuda Ghana
Colombia Holland Egypt St.Lucia Bosnia and Guyana
Cyprus Nigeria El Salvador Turks and Bots wwana Iran
Dominica Pakistan Gibnaltar Ukraine Brunei Tordan
France Panama Haiti Vanuatu Cameroon Ka zakhstan
Germany Paraguay Honduras Vietnam Cote d'Ivoire Trenya
Greece Phillipine Inreland Yugoslavia Kyrgyzstan Laos
Grenada Russia Jamaica Bulgaria Montsserrat Saudi Arabia
Guensey Singapore Korea Cambodia Moro cco Swnegal
Hongkong Spain Korea, North Malaysia Mozambique Slovenia
Hungary St-Kitts and
Nevis
Latvia Marshall
Islands
Nami bia Solomon
Islands
India St.Vicent Macau Monaco Nepal Sri lanka
United Arab Switzerland Palau Natherlands
ntillwa
New zealand Suriname
Emirates Taiwan Peru icaragua Niger Swaziland
United
Kingdom
Thailand Poland Niue Noi wuay Sweden
Uruguay Turkey Portugal Romania Oman Tajikistan
12
United States Venezuela Papua New
uinea
Tanzamia
Việc rửa tiền lan nhanh như vậy không phải là điều khó hiểu bởi có rất
nhiều đối tượng có nhu cầu rửa tiền: buôn bán ma tuý, trốn lậu thuế, tội phạm
có tổ chức, cướp ngân hàng, khủng bố... Hàng năm ước tính riêng tiền buôn
bán ma tuý có tới 110 tỷ USD được rửa qua hệ thống ngân hàng Mỹ.
Ngày nay, có rất nhiều kỹ thuật rửa tiền khác nhau. Sự lựa chọn kỹ
thuật rửa tiền khác nhau tuỳ thuộc vào các tiêu thức:
- Môi trường kinh doanh trực tiếp: về nguyên tắc, không có giới hạn
cho những khuôn mẫu của việc rửa tiền, nhưng trên thực tế, những người rửa
tiền cố gắng lựa chọn cách làm cho lợi nhuận của họ giống với lợi nhuận của
việc kinh doanh thông thường và thuộc thẩm quyền quyết định của họ.
- Mức độ nghiêm trọng: khối lượng tiền ít được rửa định kỳ sẽ đòi hỏi
kỹ nghệ rửa tiền khác xa so với số tiền lớn.
- Yêu cầu của luật pháp: những người rửa tiền sẽ cố gắng chuyển thu
nhập bất hợp pháp đến rửa tiền tại những vùng không có quy định về chống
rửa tiền.
Trường đua ngựa là một ví dụ điển hình về công nghệ rửa tiền sơ khai.
Những người rửa tiền dùng đồng tiền bất hợp pháp của mình để mua vé thắng
cược, có thể đặt thêm tiền cho người thắng cuộc và sau đó trình vé lấy tiền.
Những đồng tiền đó có thể coi là nguồn thu nhập bất hợp pháp từ đánh bạc.
Công nghệ này được kéo dài trong lịch sử và đến nay vẫn sử dụng.
Trong trò chơi xổ số có cả những nhóm người mua vé trúng thưởng và
bán chúng cho những người có tiền phải rửa.
Những Công ty hoạt động bất hợp pháp phải nhờ cậy đến công nghệ
rửa tiền bất kỳ lúc nào. Bởi những đồng tiền "bẩn" sẽ mang lại cho họ nhiều
13
rủi ro. Nó có thể là một mắt xích liên kết đồng tiền đó với hoạt động tội phạm
cơ sở. Nó càng có thể cung cấp một dấu hiệu, một bằng chứng của tội phạm
hoặc có thể bị tịch thu. Vì vậy đối với tội phạm thì rửa tiền là một việc làm
cần thiết để tách rời đồng tiền khỏi hoạt động phạm tội cơ sở hoặc tìm kiếm
một giải thích hợp pháp về nó. Hoạt động tội phạm cơ sở thường là: buôn lậu,
buôn ma tuý, buôn bán phụ nữ, tham nhũng.v.v...
Rửa tiền bằng kỹ thuật hiện đại, tinh vi hơn có quan hệ mật thiết đến
hoạt động tài chính ngân hàng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể vô
tình trở thành người trung gian cho việc chuyển tiền hoặc gửi tiền thu được
thu được từ các hoạt động phạm tội. Tội phạm và đồng bọn của chúng sử
dụng hệ thống tài chính - ngân hàng để thực hiện việc thanh toán và chuyển
tiền, vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác, che dấu nguồn gốc và chủ sở
hữu của đồng tiền. Đồng thời, các ngân hàng còn cung ứng cho chúng dịch vụ
bảo quản tiền một cách thuận lợi và an toàn. Tất cả những hoạt động đó hầu
hết đều liên quan đến việc rửa tiền.
Như vậy, cho dù ở mức thô sơ hay tinh vi thì hoạt động rửa tiền đã lan
rộng ra hầu hết các nước trên thế giới. Để nhận biết được một hoạt động nào
đó - có là hoạt động rửa tiền hay không, chúng ta hãy xem xét tiến trình
chuyển tiền từ đồng tiền bất hợp pháp sang đồng tiền hợp pháp diễn ra như
thế nào.
2. Qui trình rửa tiền
2.1. Chu trình rửa tiền:
Việc rửa tiền gồm 3 bước và đôi khi cũng chồng chéo nhau: sắp xếp,
chia nhỏ và pha trộn.
Trong khâu sắp xếp, số tiền phải được chuyển đổi để che dấu nguồn
gốc bất hợp pháp. Ví dụ tiền buôn bán ma tuý bất hợp pháp hầu hết là các tờ
14
giấy bạc nhỏ và số lượng thậm chí còn... nặng nề và cồng kềnh hơn lượng ma
tuý bán ra.
Chuyển đổi những tờ giấy bạc này sang một đơn vị tiền tệ lớn hơn, séc,
tiền mặt hoặc những cách thức thanh toán khác, thường là sự trao đổi tiền mặt
(như nhà hàng, khách sạn, các công ty kinh doanh máy bán hàng tự động,
sòng bạc và rửa xe).
Trong khâu chia nhỏ, bọn rửa tiền thường cố gắng che dấu những đầu
mối của số tiền qua các hoạt động tội phạm bằng cách chia nhỏ số tiền qua
các vụ kiếm chác khổng lồ. Ví dụ, bọn tội phạm nếu muốn rửa số tiền lớn thì
sẽ thành lập các công ty buôn bán ở những nước mà chúng biết rằng không có
những quy định bảo mật ngân hàng tinh vi, khắt khe hoặc những quy định về
chống rửa tiền lỏng lẻo. Số tiền "bẩn" này sau đó sẽ luân chuyển dưới những
vỏ bọc này cho tới khi chúng hoàn toàn trở nên "sạch sẽ".
Những vụ giao dịch như thế này thường được nguỵ trang và trà trộn với
hàng tỉ tỷ đô la giao dịch hợp pháp mỗi ngày. Hình thức "đòi nợ" và "hoá đơn
đúp" thường là những mánh khoé hay dùng. Trong hình thức "đòi nợ", bọn tội
phạm thường gửi tiền ở nước ngoài để bí mật kiểm soát và sau đó ném tiền
vào các công ty "đòi nợ" trở lại. Thủ tục này được sử dụng vì rất khó có thể
xác định được coi thực sự quản lý tài sản ở một số nước. Trong hình thức
"Hoá đơn đúp", việc chuyển tiền ra hoặc vào một nước - một ngân hàng nước
ngoài thường quy ước giữ hai quyển sổ hoá đơn. Để chuyển số tiền "sạch"
này sang Mỹ đánh phí rất cao đối với hàng hoá, dịch vụ. Để chuyển đi số tiền
này (để tránh đánh thuế) các công ty Mỹ lại bị đánh phí.
Các hình thức rửa tiền khác như mua các mặt hàng có giá trị lớn -
chứng khoán, ô tô, máy bay, séc du lịch - thường được đăng kí dưới tên một
người khác để tránh gây chú ý. Các sòng bạc cũng là nơi đôi khi được sử
15
dụng vì họ sẵn sàng lấy tiền mặt. Khi được chuyển tiền thành đồng séc, số
tiền này sẽ thành tiền được bạc và có thể rút séc tại ngân hàng của sòng bạc.
Khâu cuối cùng là đồng hoá số tiền, là kỳ thâu tiền của bọn tội phạm. ở
khâu này, bọn tội phạm sẽ chuyển số tiền để đầu tư các hoạt động kinh tế lớn
- thường là các hình thức đầu tư điển hình như bất động sản, mua bán các
hàng hoá xa xỉ.
Ngoài ra, người ta còn quan tâm việc rửa tiền dưới góc độ là các giao
dịch nhằm che đậy nguồn tài sản chính để những tài sản này được sử dụng
không cần phải thoả thuận với giới tội phạm - những kẻ đang cố gắng sử
dụng chúng.
Với quan điểm như vậy thì các giao dịch rửa tiền được chia làm 3 giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn sắp đặt: quá trình sắp đặt các nguồn tiền bất
hợp pháp vào các tổ chức tài chính thông qua việc đặt cọc, ký quỹ, chuyển
tiền hoặc các phương tiện khác.
Giai đoạn 2: Giai đoạn phân loại: Quá trình chia tách nguồn tiền bất
hợp pháp khỏi nguồn gốc của nó bằng cách sử dụng một loạt các giao dịch tài
chính để làm "trong sạch" đồng tiền một cách hợp pháp.
Giai đoạn 3: Giai đoạn gộp lại: Tập trung thu hồi tiền về từ các tài
khoản nhưng không làm cho các cấp chính quyền nghi ngờ hay chính là việc
sử dụng các giao dịch có vẻ hợp pháp để che đậy nguồn tiền bất hợp pháp.
Bằng những quá trình này, tội phạm chuyển nguồn tiền có được từ
những hoạt động bất hợp pháp thành tiền với nguồn gốc có vẻ hợp pháp.
Quan niệm này có vẻ chưa phản ảnh đầy đủ khái niệm "rửa tiền " bởi
mới chỉ để cập chủ yếu tới "rửa tiền " liên quan tới hệ thống tài chính. Tuy
nhên, cũng giống như quan niệm ban đầu, nó cũng phản ánh được bản chất
16
của "rửa tiền" là biến các nguồn tiền thu nhập bất hợp pháp thành nguồn thu
có vẻ hợp pháp .
Một mô hình khái quát về chu trình rửa tiền được mô tả tại trang sau.
Hình 1: Mô tả khái quát chu trình rửa tiền thông thường
2.2. Các hình thức rửa tiền:
Việc thực hiện các chu trình rửa tiền thường thông qua một số hình
thức nhất định. ở đây xin đề cập một số hình thức rửa tiền mà các tổ chức
phạm tội trên thế giới thường sử dụng. Đó là:
17
a. Cơ cấu lại: Đây là hình thức tẩy rửa tiền thông dụng nhất. Nó liên
quan đến nhiều cá nhân, mỗi người giữ với một lượng tiền nhỏ hoặc mua hối
phiếu ngân hàng dưới 10.000 USD. Phương pháp này thông dụng ở Mỹ và
Canada.
b. Đổi tiền: Đổi tiền cung cấp một dịch vụ cho phép các cá nhân mua
ngoại tệ, và sau đó số ngoại tệ này được chuyển ra nước ngoài. Tiền cũng có
thể được gửi qua đường điện tín - tới các ngân hàng nước ngoài ở mọi nơi
trên thế giới.
c. Mua tài sản: Bọn chuyên rửa tiền thường mua những đồ vật đắt tiền
như ô tô, tàu thuyền, máy bay hoặc bất động sản. Trong nhiều trường hợp bọn
tội phạm có thể sử dụng bất động sản trên, nhưng thường đăng ký bất động
sản này dưới tên người khác.
d. Qua người môi giới cổ phiếu: Là hình thức mà bọn rửa tiền thông
qua người môi giới cổ phiếu dùng tiền mặt để mua một số lượng cổ phiếu lớn
và sau đó chúng trở thành cổ đông của các công ty cổ phần - chủ sở hữu hợp
pháp.
e. Chuyển tiền bằng điện tín hoặc thư chuyển tiền: Phương thức này
cho phép chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác hoặc sang quốc gia khác mà
không phải mang tiền đi.
f. Rửa tiền trong các sòng bạc: Thông qua hình thức cá cược, đánh bạc,
tiền thắng bạc có thể được coi như có nguồn gốc hợp pháp.
g. Làm sạch (Refining): Thông qua các cá nhân để đổi đồng tiền mệnh
giá như lấy tiền có mệnh giá lớn. Đây là một cách làm phổ thông, có thể đổi ở
nhiều ngân hàng mà không gây sự nghi ngờ.
h. Kinh doanh hợp pháp: Bọn tội phạm tiến hành kinh doanh hoặc đầu
tư kinh doanh nhằm mục đích trộn lẫn số tiền thu được từ hoạt động phi pháp
và hoạt động kinh doanh hợp pháp. Dưới hình thức này, bọn tội phạm mua
18
những nhà hàng, quán bar, hộp đêm, khách sạn, quầy thu đổi tiền, các hãng
máy móc, điểm rửa xe...
Ngoài ra bọn rửa tiền có thể thoả thuận với người bán tài sản ghi trên
hoá đơn giá trị thấp hơn giá trị thực tế và hối lộ khoản chênh lệch cho người
bán. Bằng cách này bọn tội phạm rửa tiền có thể mua một tài sản có giá trị lớn
với giá thấp. Sau khi giữ tài sản trên một thời gian thì bọn rửa tiền bán ra với
giá trị thực của tài sản đó hoặc cao hơn.
Đặc biệt trong xu thế phát triển thị trường tài chính mới (các công cụ
phát sinh) được củng cố và nâng cao thì các hình thức rửa tiền mới sẽ phát
sinh và ngày càng khó nhận diện. Điều này xảy ra là vì:
- Một khối lượng lớn "tiền bẩn" được dấu kín nguồn gốc ;
- Chứng khoán tính lỏng cao có thể mua bán nhanh trong một thời gian
ngắn (có thể một vài lần trong một ngày làm việc);
- Mục đích của việc chuyển tiền khó đánh giá;
- Rất ít và không có thời gian để điều tra sự nghi ngờ.
Theo số liệu của Ngân hàng thanh toán quốc tế thì khối lượng giao dịch
cuối năm 1999 của các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường OTC
(over –the- counter market) là 88,201 tỷ USD (các số liệu cụ thể trình bày
trong biểu đồ 1 dưới đây).
Biểu 1: Số liệu về lượng tiền “bẩn” được rửa qua thị trường OTC tromg năm 1999
19
43.936
9.38
2.444 2.3
30.134
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Ho¸n ®æi l∙i
suÊt
Lùa chän l∙i
suÊt
Ho¸n ®æi
tiÒn tÖ
Lùa chän
tiÒn tÖ
Kh¸c
Tû USD
Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ được sử dụng lần đầu tiên trên vào năm
1976, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1981.
Tuy nhiên, cho đến nay, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất đã chiếm một tỷ trọng lớn
trong các giao dịch công cụ tài chính mới.
Tóm lại, cho dù hình thức rửa tiền có tinh vi đến đâu cũng có kẽ hở.
Vấn đề là các quốc gia phải tận dụng được những kẽ hở này để nâng cao hiệu
quả cuộc đấu tranh "chống rửa tiền".
II. Hậu quả nạn rửa tiền
Nếu nạn "rửa tiền " không được phát hiện và ngăn chặn sẽ dẫn đến
những hậu quả gì? Qua nghiên cứu và đánh giá cho thấy: Nạn rửa tiền có thể
phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây những hậu quả xấu cho xã hội. Nó
khuyến khích, mua bán ma tuý, khủng bố, buôn bán vũ khí trái phép, quan
chức Nhà nước tham nhũng và những hoạt động tội phạm khác. Tội phạm
ngày càng tăng ở phạm vi quốc tế và những khía cạnh tài chính của tội phạm
đã trở nên ngày càng phức tạp do sự tiến bộ nhanh chóng của toàn cầu hoá và
công nghệ của ngành dịch vụ tài chính.
20
Cùng với việc tạo điều kiện tài liệu cho thương mại hợp pháp, những hệ
thống tài chính hiện đại cũng cho phép tội phạm luân chuyển hàng triệu USD
bằng cách sử dụng những máy tính cá nhân và những đĩa vệ tinh. Bởi vì nạn
rửa tiền đã có cơ sở là qui mô của hệ thống và hoạt động tài chính hiện có,
việc lựa chọn các phương tiện rửa tiền của bọn tội phạm chỉ còn phụ thuộc
vào khả năng sáng tạo của chúng. Tiền được chuyển qua các điểm đổi tiền,
các Trung tâm môi giới chứng khoán, những kẻ buôn bán vàng, các sòng bạc,
những kẻ buôn bán ô tô, các công ty bảo hiểm và các công ty thương mại. Sự
dễ dãi của hệ thống ngân hàng tư nhân; ngân hàng hải ngoại, các công ty bảo
bọc; những khu vực mậu dịch tự do, hệ thống hữu tuyến và tài chính thương
mại, tất cả đều có thể che đậy những hoạt động bất hợp pháp. Bằng những
cách đó, tội phạm rửa tiền thao túng tài chính của các nước trên thế giới.
Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn mòn toàn bộ tổ chức
tài chính của một nước. Do sự liên kết của thị trường tư bản, nạn rửa tiền gây
ra những ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá của đồng tiền và tỷ lệ lãi suất. Và cuối
cùng, những khoản tiền được rửa thâm nhập vào hệ thống tài chính toàn cầu,
nơi chúng có thể làm suy yếu nền kinh tế và đồng tiền của một quốc gia. Như
vậy, nạn rửa tiền không phải chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật
mà còn đe doạ nghiêm trọng nền an ninh quốc gia và quốc tế.
Những hậu quả của nạn "rửa tiền" phải kể đến là:
1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn thương
Nạn "rửa tiền" không chỉ là một vấn đề của các thị trường tài chính lớn
và Trung tâm tài chính của thế giới mà còn là một vấn đề đối với những thị
trường mới nổi. Quả vậy, bất kỳ quốc gia nào trong hệ thống tài chính quốc tế
đều bị nguy hiểm. Vì các thị trường mới nổi của các khu vực tài chính và kinh
tế, nên chúng ngày càng trở thành cái đích để ngắm đối với các hoạt động rửa
tiền.
21
Những nỗ lực ngày càng tăng của các Chính phủ ở những thị trường tài
chính lớn và những Trung tâm tài chính quốc tế nhằm chống lại hoạt động rửa
tiền lại khuyến khích những kẻ rửa tiền chuyển các hoạt động của chúng sang
những thị trường mới nổi. Như bằng chứng cho điều này là sự luân chuyển
tiền mặt ngày càng tăng qua biên giới để tới những thị trường quản lý lỏng lẻo
trong việc phát hiện việc rửa tiền vào hệ thống tài chính và sự đầu tư đang gia
tăng của những nhóm tội phạm có tổ chức vào bất động sản và kinh doanh
trong những thị trường đang nổi. Việc xem xét kỹ một số ảnh hưởng tiêu cực
này trong cả nền kinh tế vi mô và vĩ mô lý giải tại sao nạn rửa tiền lại là một
mối đe doạ nghiêm trọng, đặc biệt là ở những thị trường đang nổi.
2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân
Một trong những tác động kinh tế vi mô nghiêm trọng nhất của nạn rửa
tiền là ở khu vực tư nhân. Những kẻ rửa tiền dùng những công ty nguỵ trang
để trộn lẫn khoản tiền từ những hoạt động bất chính với những khoản tiền hợp
pháp để che dấu khoản tiền bất hợp pháp. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, tội phạm có tổ
chức đã dùng những cửa hàng bán pizza để che đậy những khoản tiền bất
chính từ buôn bán heroin. Những công ty ngụy trang này có thể tiếp cận với
những nguồn tiền bất chính và những nguồn tiền này bao cấp toàn bộ sản
phẩm và dịch vụ của công ty ở mức độ thấp hơn tỷ giá thị trường.
Trong một số trường hợp các công ty ngụy trang này có thể đưa ra
những sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản phẩm. Do vậy, những công ty
ngụy trang có lợi thế cạnh tranh hơn so với những công ty hợp pháp trong thu
hút vốn từ các thị trường tài chính. Điều này làm cho các doanh nghiệp hợp
pháp rất khó khăn nếu không muốn nói là không thể cạnh tranh lại được với
những công ty ngụy trang với nguồn vốn được bao cấp, một tình huống mà
các tổ chức tội phạm có thể gây hại cho đa số các doanh nghiệp tư nhân.
22
Rõ ràng là sự quản lý của các công ty tội phạm này không phù hợp với
những nguyên tắc của các doanh nghiệp trong thị trường tự do truyền thống,
điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế vĩ mô.
3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính
Tổ chức tài chính dựa vào các nguồn tiền bất chính gặp nhiều thử thách
trong việc quản lý một cách thích đáng tài sản, tiền nợ và sự hoạt động của
nó. Ví dụ như một số lượng tiền lớn được rửa có thể được chuyển đến một tổ
chức tài chính nhưng sau đó lại biến mất một cách đột ngột, không thông báo
qua sự chuyển giao hữu tuyến để đối phó với những nhân tố phi thị trường
như những hoạt động nhằm thực thi luật pháp. Điều này có thể gây ra những
vấn đề cho khả năng thanh toán tiền mặt và hoạt động của các ngân hàng.
Thực tế, các hoạt động phạm tội đã liên kết với một số ngân hàng thua
lỗ trên toàn cầu, bao gồm cả ngân hàng Internet đầu tiên- Ngân hàng của khối
cộng đồng chung châu Âu. Hơn nữa, một số cuộc khủng hoảng tài chính trong
những năm 90 như sự lừa đảo, nạn rửa tiền, những vụ ăn trộm ở BCCI và sự
sụp đổ năm 1995 của Ngân hàng Barings như là một kế hoạch bắt nguồn từ sự
liều lĩnh do những nhà kinh doanh ở các công ty được bao cấp thực hiện- Có
những yếu tố lừa đảo hoặc tội phạm nghiêm trọng.
4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh tế
Micheal Camdesus, cựu giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
đã dự tính rằng qui mô to lớn của nạn rửa tiền đã chiếm từ 2 đến 5% tổng sản
lượng quốc nội của thế giới, hay ít nhất 600.000 triệu đô la. Tại một số nước
có những thị trường mới nổi, những khoản tiền bất hợp pháp này làm cho
ngân khố của Chính phủ nhỏ lại, kết quả là Chính phủ mất quyền kiểm soát
chính sách kinh tế. Thực vậy, trong một số trường hợp, số lượng khổng lồ của
những tài sản có được do rửa tiền có thể được sử dụng làm lũng đoạn thị
trường trong khu vực và thậm chí cả những nền kinh tế nhỏ.
23
Nạn rửa tiền có thể tác động bất lợi đến đồng tiền và tỷ lệ lãi suất vì
những kẻ rửa tiền tái đầu tư vào những tổ chức mà âm mưu của chúng ít có
khả năng bị phát hiện hơn là đầu tư vào những nơi mà tỷ lệ lợi nhuận cao.
Chính điều này làm cho chúng ta không xác định được những thay đổi về nhu
cầu tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của các nguồn vốn ... dẫn tới mục tiêu chính
sách tiền tệ quốc gia không được thực hiện.
Nạn rửa tiền có thể làm tăng mối đe doạ về sự bất ổn của đồng tiền do
không xác định được nguồn gốc của những sai lệch trong giá cả tài sản và
hàng hoá.
Tóm lại, nạn rửa tiền và tội phạm tài chính có thể gây ra những thay đổi
khôn lường trong nhu cầu về tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của luồng vốn
quốc tế, tỷ lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái. Bản chất không lường trước được của
nạn rửa tiền, cùng với sự mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế, đi kèm theo
nó khó có thể có được một chính sách kinh tế lành mạnh.
5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh tế
Những kẻ rửa tiền không quan tâm đến việc tạo ra lợi nhuận từ những
khoản đầu tư bằng việc bảo vệ những khoản tiền của chúng. Vì thế, chúng
"đầu tư " vốn vào các hoạt động không cần thiết phải mang lại lợi ích về kinh
tế ở những nước lưu giữ các khoản tiền của chúng. Hơn thế, sự tăng trưởng
kinh tế phải bị tổn hại, vì tội phạm rửa tiền và tài chính chuyển vốn từ những
dự án đầu tư lành mạnh sang những dự án đầu tư chất lượng thấp miễn sao
chúng che dấu được các khoản tiền bất chính. Ví dụ: như tại một số nước, các
ngành công nghiệp như xây dựng và khách sạn được cung cấp tài chính không
phải do những đòi hỏi thực tế mà do những lợi ích trước mắt của những kẻ
rửa tiền. Khi những ngành này không còn phù hợp với những kẻ rửa tiền thì
chúng bị loại bỏ, gây ra những sụp đổ và những thiệt hại khổng lồ cho những
nền kinh tế không thể chịu được những tổn thất như vậy.
24
6. Gây tổn hại Ngân khố quốc gia
Nạn rửa tiền làm giảm nguồn thu từ thuế của Chính phủ, bởi vậy nó
trực tiếp làm phương hại đến những người đóng thuế chân chính. Nó cũng
làm cho việc thu thuế của Chính phủ trở nên khó khăn hơn. Nhìn chung, việc
tổn hại đến ngân khố quốc gia có nghĩa là tỷ lệ thuế cao hơn so với thông
thường nếu những khoản tiền phạm tội không phải nộp thuế là hợp pháp.
7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hoá:
Hoạt động "rửa tiền” sẽ đe doạ đối với các quốc gia muốn thực hiện cải
cách nền kinh tế của mình bằng việc thực hiện tư nhân hoá nền kinh tế. Thông
qua "rửa tiền”, các tổ chức tội phạm có nhiều tiền để trả quá cao hơn những
người mua bằng tiền hợp pháp để mua lại Doanh nghiệp Nhà nước. Kết quả là
trong việc khởi đầu của tư nhân hoá cùng với việc mang lại những lợi ích kinh
tế thì chính nó là phương tiện "rửa tiền” của bọn tội phạm.
Trước đây, những kẻ rửa tiền thường mua những bến cảng, du thuyền,
khách sạn, sòng bài và ngân hàng để che đậy những khoản tiền bất chính và
để đẩy mạnh những hoạt động tội phạm của chúng.
8. Nguy cơ tổn hại danh tiếng
Các quốc gia không thể chấp nhận được việc tiếng tăm và những công
ty tài chính của họ bị một tổ chức rửa tiền làm ô uế, đặc biệt là trong nền kinh
tế toàn cầu ngày nay. Niềm tin vào thị trường và vào vai trò của lợi nhuận bị
xói mòn do nạn rửa tiền và những tội phạm tài chính như rửa những khoản
tiền bất hợp pháp, gian lận tài chính lan rộng, buôn bán những thông tin mật
là tham ô. Tiếng xấu từ những hoạt động như vậy đã làm giảm những cơ hội
hợp pháp và sự tăng trưởng bền vững, trong khi đó lại thu hút những tổ chức
tội phạm quốc tế với tiếng xấu và những mục tiêu ngắn hạn. Điều này có thể
làm suy yếu sự phát triển và tăng trưởng về kinh tế. Hơn thế nữa, một khi đất
25
nước đã bị tiếng xấu về tài chính, thì việc gây dựng lại tiếng tăm là rất khó
khăn và cần nguồn lực đáng kể của Chính phủ để giải quyết vấn đề mà lẽ ra
đã có thể ngăn ngừa với sự kiểm soát chống lại nạn rửa tiền.
9. Những cái giá phải trả về mặt xã hội
Có những nguy cơ và cái giá rất đắt phải trả về mặt xã hội có liên quan
đến nạn rửa tiền. Nạn rửa tiền là một quá trình quan trọng đối với những kẻ
phạm tội. Nó cho phép những kẻ buôn bán ma tuý, những tên buôn lậu và
những kẻ phạm tội khác mở rộng hoạt động của mình. Nó làm cho chi phí của
Chính phủ tăng lên để chống lại những hậu quả nghiêm trọng do việc rửa tiền
gây ra, đó là các yêu cầu về việc thực thi pháp luật gia tăng và những chi phí
cho việc chăm sóc sức khoẻ (ví dụ như điều trị những người nghiện ma tuý...).
Trong số những tác động tiêu cực khác đến nền kinh tế xã hội, việc rửa
tiền còn chuyển quyền lực kinh tế từ thị trường, Chính phủ và từ mọi người
dân sang những tên tội phạm. Tóm lại, chúng quay lại câu ngạn ngữ cổ rằng
tội ác không trả giá cho những gì chúng gây ra.
Hơn nữa, toàn bộ quyền lực đổ dồn vào những tên tội phạm, bằng việc
rửa tiền lại gây ra nạn tham nhũng của mọi bộ phận xã hội. Trong trường hợp
nghiêm trọng thì nó có thể dẫn đến việc nắm giữ Chính phủ hợp pháp.
Nhìn chung nạn rửa tiền đặt ra cho cộng đồng chung thế giới những thử
thách khó khăn và phức tạp. Thật vậy, tính chất toàn cầu của nạn rửa tiền đòi
hỏi phải có sự hợp tác và những chuẩn mực quốc tế nếu chúng ta muốn giảm
khả năng "rửa tiền” của những tên tội phạm và việc thực hiện những hành vi
tội phạm của chúng.
III. thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng
Trong các cách thức mà tội phạm tài chính sử dụng để rửa tiền thì rửa
tiền qua hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt trong điều kiện hiện
26
nay- khi mà các ứng dụng khoa học – kỹ thuật tiên tiến được áp dụng rộng rãi
trong các giao dịch ngân hàng, cộng với những món lời khổng lồ thu được sau
khi rửa tiền qua ngân hàng, thì ngân hàng được xem như một “cỗ máy rửa
tiền” (money-laundering machine) thuận lợi nhất. Vì thế, ngành Ngân hàng
cần và luôn phải ý thức đầy đủ về vai trò của mình trong việc chống nạn "rửa
tiền”.
Các ngân hàng cũng cần thấy rằng, các hoạt động mà họ tiến hành
nhằm ngăn chặn việc rửa tiền không chỉ là những nguyên tắc có tính chất bắt
buộc mà còn là lợi ích thiết thân. Tất cả các tổ chức tài chính, các ngân hàng
và phi ngân hàng đều dễ bị dính líu đến những hoạt động rửa tiền. Ngân hàng
cần luôn đi đầu trong việc phát triển các chương trình nhằm phát hiện và ngăn
chặn việc rửa tiền, điều tra các cơ quan phi ngân hàng tương ứng với họ thực
hiện rất tốt để cạnh tranh. Rửa tiền cũng như các hoạt động phạm tội ngầm
khác - lừa đảo, in tiền giả, buôn lậu ma tuý và hối hộ - làm suy yếu thanh
danh và vị thế của một số tổ chức tài chính, trong đó có ngân hàng. Một ngân
hàng có vết nhơ do việc rửa tiền sẽ bị các cơ quan ban hành văn bản quy định
buộc tội, bị các cơ quan chấp hành pháp luật trừng trị hay bị giới báo chí lên
án mạnh mẽ vì những tai tiếng đó.
Để thực hiện một cách hiệu quả chương trình chống rửa tiền, các ngân
hàng tiến hành tìm hiểu và phân chia qui trình rửa tiền gồm ba giai đoạn, mỗi
giai đoạn đều có mối liên hệ với một đơn vị tài chính.
Đổi chỗ: Giai đoạn trực tiếp phân bổ lượng tiền mặt thu được từ
những hoạt động phi pháp.
Tạo vỏ bọc: Giai đoạn tách những khoản tiền bất hợp pháp khỏi
nguồn của chúng bằng cách tạo nên một loạt những vỏ bọc phức
tạp dưới hình thức các giao dịch tài chính để cản trở việc kiểm
27
toán dấu vết, che đậy nguồn gốc của những khoản tiền đó và làm
mai danh ẩn tích chủ thực sự của nó.
Hợp thức hoá: Giai đoạn đưa các khoản tiền đã được rửa trở lại
hệ thống lưu thông trong nền kinh tế theo cách thức giống như
các khoản tiền này là kết quả của các hoạt động kinh tế hợp
pháp.
Mặc dù các giai đoạn trong quy trình rửa tiền có khác đôi chút so với
cách nhìn nhận ở phần trước nhưng vẫn phản ánh được bản chất nạn "rửa
tiền”. Tuỳ từng giai đoạn, các ngân hàng cần có các biện pháp thích hợp để
phát hiện để ngăn chặn hoạt động rửa tiền, tránh những hậu quả đáng tiếc có
thể xảy ra.
Trong các ngân hàng thì hệ thống ngân hàng vãng lai - được coi là một
kênh lớn nhất, phổ biến nhất để bọn tội phạm rửa tiền. Hoạt động Ngân hàng
vãng lai bao hàm một ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho ngân hàng khác
nhằm luân chuyển tiền tệ, chuyển đổi ngoại tệ hoặc tiến hành những giao dịch
tài chính khác. Một khi hoạt động ngân hàng vãng lai không được kiểm soát
chặt chẽ thì chắc chắn sẽ bị bọn tội phạm lợi dụng để tiến hành rửa tiền.
Bọn tội phạm lợi dụng hệ thống ngân hàng vãng lai như thế nào?
Trước hết chúng sử dụng các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao để
tiến hành mở tài khoản vãng lai tại các ngân hàng mà chúng định dùng để rửa
tiền. Những ngân hàng nước ngoài này có thể là: (1) Ngân hàng vỏ bọc
(shellbank) không hề hiện diện trực tiếp ở nước khác để giao dịch làm ăn với
khách hàng của họ; (2) Ngân hàng hải ngoại (offshore bank) được phéo giao
dịch làm ăn với những người nước ngoài bằng ngoại tệ; hoặc (3) những ngân
hàng ở những nước được điều tiết bởi những luật lệ kiểm soát lỏng lẻo hoặc
thiếu sự kiểm soát chống rửa tiền đã tạo điều kiện cho việc lợi dụng ngân
hàng và những hành vi phạm pháp.
28
Những ngân hàng có độ rủi ro cao này thường chỉ có nguồn vốn và
nhân lực hạn hẹp, họ sử dụng các tài khoản ngân hàng vãng lai của họ để giao
dịch, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, luân chuyển tiền tệ. Sự thẩm tra của
các tổ chức có thẩm quyền cho thấy nhiều ngân hàng đã kí thác toàn bộ quỹ
của họ và tiến hành mọi giao dịch tài khoản vãng lai, nhập hoạt động vãng lai
vào những hoạt động khác của họ.
Sau khi đã thành công trong việc nấp bóng các ngân hàng nước ngoài
có độ rủi ro cao nói trên, bọn tội phạm sẽ tiến hành hàng loạt các giao dịch
trên tài khoản vãng lai để rửa tiền.
Một số ví dụ về các giao dịch rửa tiền thông qua tài khoản vãng lai:
* Hợp thức hoá các khoản thu nhập bất chính thông qua ký quỹ hoặc
tiến hành chuyển những khoản tiền mà ngân hàng có độ rủi ro cao biết hoặc
phải biết là có dính líu dến buôn bán ma tuý, gian lận tài chính hoặc hoạt động
bất chính khác.
* Đầu tư lợi nhuận cao bằng cách ve vãn các nhà đầu tư chuyển tiền
vào các tài khoản vãng lai nhằm nhận lãi suất cao, nhưng sau đó chối bỏ
không trả lại tiền cho các nhà đầu tư bị lừa dối.
* Âm mưu chiếm đoạt tiền ký nợ trả trước bằng cách đòi khách hàng
phải nộp một khoản tiền trả trước cho một khoản phí lớn để chuyển tiền vào
tài khoản vãng lai, thu phí xong nhưng không trả lại khoản tiền ứng trước.
* Tạo thuận lợi cho việc trốn thuế thông qua việc nhập các khoản ký
quỹ của khách hàng với những khoản tiền khác trong tài khoản vãng lai,
khuyến khích khách hàng dựa vào các luật lệ về bí mật ngân hàng và bí mật
công ty của nước sở tại của ngân hàng nước ngoài để trốn tránh các nhà chức
trách thuế.
* Tạo thuận lợi cho hoạt động cá cược qua Internet qua việc sử dụng tài
khoản vãng lai để nhận và luân chuyển các khoản thu nhập cá cược.
29
Những ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao nói trên và khách hàng
liên quan đến tội phạm của họ thâm nhập vào các tài khoản vãng lai, tạo thuận
lợi cho tội phạm phát triển, làm suy yếu hệ thống tài chính của một quốc gia,
là một gánh nặng cho người dân đóng thuế và người tiêu dùng, lấp đầy các
hồ sơ toà án với những vụ truy tố hình sự hoặc tranh chấp dân sự.
Những khoảng trống trong các giao dịch vãng lai:
- Nhiều ngân hàng khi cho phép các ngân hàng đối tác nước ngoài mở tài
khoản vãng lai tại ngân hàng mình đã không có sự thẩm tra đầy đủ và
xác đáng về sự quản lý của ngân hàng, các nguồn tài chính, danh tiếng,
môi trường điều tiết và biện pháp chống rửa tiền. Một nguyên tắc khá
phổ biến đối với nhiều ngân hàng là: bất kỳ ngân hàng nào có giấy phép
đang hiệu lực do cơ quan nước ngoài có thẩm quyền cấp đều có đủ điều
kiện để mở tài khoản vãng lai, bởi lẽ các ngân hàng tin tưởng vào giấy
phép đó như chứng cứ về danh tiếng tốt đẹp của ngân hàng đối tác nước
ngoài.
- Nhiều ngân hàng chỉ dựa vào sự kiểm tra qua sổ sách hoạt động mở tài
khoản và giám sát một cách có hạn sự chuyển tiền, mặc dù phần lớn các
giao dịch vãng lai bao gồm cả tiền đến lẫn tiền đi.
Những bất cập này biến hệ thống ngân hàng vãng lai thành kênh rửa tiền
bẩn đang ồ ạt chảy vào hệ thống tài chính của nhiều quốc gia.
Nếu các ngân hàng vãng lai chịu đóng cửa đối với các ngân hàng nước
ngoài đáng ngờ và kiểm tra chặt chẽ các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro
cao, chắc chắn sẽ triệt tiêu được bộ máy rửa tiền khổng lồ, vô hiệu hoá hoạt
động bất hợp pháp, hạn chế hoạt động ngân hàng hải ngoại bất chính và trói
tay các phần tử tội phạm trong việc gửi tiền bất chính vào các ngân hàng
trong nước.
30
Tóm lại, qua thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng vãng lai,
chúng ta thấy ngành ngân hàng là một trong những cơ quan có vai trò đặc biệt
"quan trọng", là kênh chủ yếu để bọn tội phạm tài chính thực hiện "rửa tiền”.
Vì thế, làm lành mạnh hệ thống ngân hàng và làm trong sạch các giao dịch tài
chính là một trong những biện pháp quan trọng để chống rửa tiền.
IV. Các văn bản pháp lý sử dụng trong chống "rửa tiền”
"Rửa tiền” không còn là hiện tượng xảy ra trong phạm vi một quốc gia
mà là hiện tượng ngày càng mang tính chất quốc tế. Vì thế, để "rửa tiền” phải
có sự phối hợp không phải chỉ có các tổ chức trong nước mà cần phải có sự
hợp tác quốc tế. Điều này thể hiện trước hết ở các văn bản pháp quy chống
"rửa tiền”.
Đứng trên phương diện quốc gia , mỗi quốc gia cần có văn bản pháp
quy chuyên về lĩnh vực chống rửa tiền như các Nghị định về chống "rửa tiền”,
các đạo luật, bộ luật về chống "rửa tiền”. Do thu nhập của bọn tội phạm "làm
sạch" là các thu nhập từ các hoạt động bất chính: cá cược, buôn bán ma tuý,
tham nhũng... Những hoạt động tội phạm nên các văn bản pháp quy về chống
rửa tiền cần có sự thống nhất với các văn bản đã có về chống các loại hình tội
phạm như bộ luật hình sự, luật dân sự.
Đứng trên phương diện quốc tế, văn bản pháp quy mang tính chất phổ
biến được nhiều quốc gia biết đến là Khuyến nghị về chống “rửa tiền” của
FATF - tổ chức hay lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền và tội phạm
tài chính. Những khuyến nghị này được xem là các phương pháp cơ bản cho
việc thiết lập các khuôn khổ pháp lý chống lại việc rửa tiền với các nội dung
cơ bản sau:
31
* Từ khuyến nghị 1 đến khuyến nghị 3 là các quy định chung, khuyến
nghị các quốc gia nên từng bước và tiến tới thực hiện đầy đủ 40 khuyến nghị
này. Yêu cầu đặt ra là: các quy định trong luật bảo vệ khách hàng của các tổ
chức tài chính tín dụng không cản trở việc thực hiện các quy định về phòng,
chống rửa tiền. Để chương trình phòng chống rửa tiền đạt kết quả cao cần có
sự nỗ lực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng chống xét xử, dẫn độ tội phạm
nói chung.
* Từ khuyến nghị 4 đến khuyến nghị 6 là các quy định nêu lên phạm vi
hoạt động phạm tội rửa tiền, khuyến nghị các quốc gia tạo lập các cơ sở pháp
lý cho việc chống rửa tiền và bổ sung hoàn thiện các cơ sở pháp luật này
nhằm đảm bảo các quy định luôn phù hợp với tình hình thực tiễn và sự phát
triển của xã hội. Danh mục các loại tội phạm dẫn đến hành vi rửa tiền cần
được xác định và bổ sung theo mức độ hành vi phức tạp của hoạt động phạm
tội của từng thời kỳ.
* Khuyến nghị 7 nêu lên chính sách pháp lý cho việc xử lý, tước đoạt
xung công các tài sản và thu nhập bất hợp pháp trong các vụ rửa tiền và các
văn bản hợp tác quốc tế. Mặt khác, khuyến nghị cũng nêu lên việc thực hiện
tốt các văn bản pháp quy quy định về việc thực hiện các hợp đồng kinh tế.
Việc áp dụng tốt các chế tài áp dụng đối với các vi phạm hợp đồng kinh tế có
tác dụng tích cực , thúc đẩy việc thực hiện các quy định về chống rửa tiền.
* Khuyến nghị 8 và khuyến nghị 9 là quy định về các đối tượng phải
thực hiện các quy chế giám sát tài chính và thực hiện nhận dạng khách hàng,
lưu giữ hồ sơ về các giao dịch đáng ngờ. Theo khuyến nghị, việc thực hiện cơ
chế giám sát tài chính nên được áp dụng đối với tất cả các ngân hàng và các tổ
chức tài chính phi ngân hàng. Việc thực hiện cơ chế giám sát tài chính, phát
hiện và tố giác các khách hàng và các giao dịch đáng ngờ không có tính chất
bắt buộc nhưng được khuyến khích thực hiện ở các doanh nghiệp và ở các tổ
chức tài chính chuyên ngành khác. Danh mục các hoạt động tài chính bắt
32
buộc phải thực hiện nhận dạng khách hàng gửi báo cáo đến các nhà chức
trách chống rửa tiền và lưu giữ hồ sơ, các giao dịch đáng ngờ được Chính phủ
các nước xác định và bổ sung phù hợp với bối cảnh cụ thể.
* Từ khuyến nghị 10 đến khuyến nghị 13 nêu lên cách thu thập thông
tin nhận dạng khách hàng (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) và quy định thời
hạn lưu giữ hồ sơ, thông tin về khách hàng và các lần giao dịch (ít nhất là 5
năm) mà các tổ chức hoạt động tài chính phải thực hiện. Nguyên tắc chung là
không cho mở tài khoản thực hiện uỷ thác và cho thuê két sắt an toàn dưới các
tên giả hoặc khuyết danh, các thông tin cơ bản của khách hàng bao gồm: tên
địa chỉ.v.v..., căn cứ vào các giấy tờ tài liệu chính thức như: đối với cá nhân
có thể là giấy chứng minh thư, hộ chiếu, giấy phép lái xe; đối với các tổ chức
có thể là các giấy phép thành lập công ty, ngành nghề kinh doanh, nơi đóng
trụ sở chính... Đối với những khách hàng có những thông tin chưa rõ ràng, tổ
chức tài chính cần tiến hành thẩm tra nhằm có được những thông tin trung
thực nhất về khách hàng, việc lưu giữ thông tin phải đáp ứng được việc tái
hiện lại từng phần giao dịch (thời gian, số lượng và tiền tệ trong các lần giao
dịch đó) của khách hàng phục vụ tốt nhất cho việc điều tra khi có yêu cầu của
nhà chức trách.
* Từ khuyến nghị 14 đến khuyến nghị 19 nêu lên các hình thức động
viên, khen thưởng các tổ chức - tài chính thực hiện tốt các quy định chống rửa
tiền và các quy định pháp lý bảo vệ các tổ chức và cá nhân thực hiện các quy
định chống rửa tiền. Các quy định về kiểm soát nội bộ để tăng cường hiệu quả
hoạt động của hệ thống, quy định cấm tổ chức và cá nhân cảnh báo với khách
hàng về các thông tin đáng ngờ đã báo cáo.
* Từ khuyến nghị 20 đến khuyến nghị 21 nêu lên việc thực hiện các quy
định chống rửa tiền đối với các tổ chức có Chi nhánh hoạt động tại các nước
không có hoặc chưa có đủ các quy định về chống rửa tiền.
33
* Từ khuyến nghị 22 đến khuyến nghị 25 nêu một số biện pháp phòng
ngừa khác.
* Từ khuyến nghị 26 đến khuyến nghị 29 nêu mối quan hệ qua lại giữa
việc thực hiện các quy định chống rửa tiền với các quy định khác về xử phạt
hành chính hoặc xử lý các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế...
* Từ khuyến nghị 30 đến khuyến nghị 40 nêu lên các quy định về tăng
cường hợp tác quốc tế, như các quy định về trao đổi thông tin, quy định về
điều tra, định giá, thu hồi tài sản và thu nhập bất chính hợp pháp tham gia vào
các vụ rửa tiền, các quy định về nguyên tắc xét xử, địa điểm xét xử và tỷ lệ
phân chia tài sản tịch thu khi có các vụ phạm tội xuyên quốc gia và các quy
định về dẫn độ tội phạm.
Các khuyến nghị này được coi như là cẩm nang cho các quốc gia trong
việc chống nạn "rửa tiền”.
Kết luận chương I:
Qua chương này chúng ta đã phần nào hình dung được thế nào là rửa
tiền, nó được thực hiện như thế nào và hậu quả to lớn do nạn rửa tiền gây ra.
Bên cạnh đó, chương cũng khái quát vè cái nhìn của ngành ngân hàng về rửa
tiền và các văn bản pháp quy cần có và hiện có liên quan tới "rửa tiền” và
chống rửa tiền.
Để đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm phòng chống nạn rửa tiền,
trước hết chúng ta hãy xem xét hiện tượng rửa tiền ở một số quốc gia trên thế
giới và Việt Nam.
34
Chương II
Thực trạng hoạt động rửa tiền - chống rửa tiền ở một số nước
trên thế giới và Việt Nam
I. Thực trạng hoạt động rửa tiền và chống "rửa tiền” trên thế giới
Cho tới thời điểm hiện nay, hoạt động rửa tiền đã diễn ra ở khá nhiều
nước trên thế giới. Lượng tiền rửa chiếm một tỷ trọng lớn trong khối lượng
tiền lưu chuyển trên toàn cầu. Theo ước tính của FATF - lực lượng đặc nhiệm
hành động tài chính, tiền "bẩn" đã được rửa có thể lên tới 1500 tỷ USD mỗi
năm. Năm 2001, thế giới có khoảng 70 "thiên đường trốn thuế", cũng thường
được gọi là Trung tâm tiền tệ hải ngoại, tụ tập khoảng 40.000 ngân hàng, 44%
tập trung ở vùng Caribean và Mỹ La tinh, 28% ở châu Âu, 18% ở châu á,
10% ở Châu Phi - Trung Đông, kiểm soát khoảng 5000 tỷ USD. Phần lớn các
Trung tâm này đóng vai trò "Trung tâm đặt hàng" chủ yếu phục vụ các Trung
tâm tiền tệ lớn hơn như New York, London, Tokyo. Hàng năm lượng tiền
nằm lại hoặc chuyển qua các "thiên đường trốn thuế" này, ước tính bằng một
nửa tổng số tiền trên toàn thế giới, biến các Trung tâm này cũng trở thành
những Trung tâm rửa tiền quốc tế quan trọng.
Một cái nhìn sơ lược như vậy đã cho chúng ta thấy "rửa tiền” ngày
càng trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu và hiệu quả của nó đối với nền
kinh tế xã hội là vô cùng nghiêm trọng. Tiến hành chống nạn rửa tiền là một
yêu cầu hết sức bức thiết. Vậy cụ thể tình trạng rửa tiền và chống rửa tiền ở
các quốc gia ở mức độ nào và nguy cơ "tiềm ẩn" là gì, chúng ta hãy cùng
xem xét.
35
1. Rửa tiền - chống rửa tiền tại Hoa Kỳ
1.1. Khái quát chung:
Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên xuất hiện nạn rửa tiền vào năm 1920.
Nhiều vụ rửa tiền đã trôi qua kể từ vụ hình sự đầu tiên dính dáng đến lợi
nhuận, nhưng tại Mỹ chỉ mãi đến năm 1986 đây, "rửa tiền” mới chính thức
được coi là bất hợp pháp với mốc là vụ xì-căng-đan Watergate.
Trong khi không bị chính thức cấm cho đến năm 1986, rửa tiền đã xuất
hiện trong nhiều vụ án hình sự. Hai vụ án hình sự khét tiếng nhất của Mỹ
trong thế kỷ 20 đã bị bỏ dở do không tìm được các dấu vết về tài chính. Tên
trùm găngtơ Al Capone cuối cùng đã bị kết án vì tội trốn thuế. Tên Bruno
Richard Haupdman, người đã bắt cọc con trai của viên phi công nổi tiếng
Chartes Lindbeng năm 1932 đã bị bắt vì không rửa được số tiền đòi chuộc
một cách kín đáo. Như chúng ta đã biết năm 1989 dư luận nổi cộm về số tiền
bị chiếm đoạt một cách bất hợp pháp ở Nga có thể được gửi trong hệ thống
ngân hàng Mỹ, vấn đề "tiền bẩn" vẫn chưa được giải quyết.
Do giới tội phạm thường che dấu các hoạt động của mình nên những số
tiền được thay tên đổi họ này không được biết một cách chính xác nhưng Quỹ
tiền tệ quốc tế IMF đã ước tính hàng năm số tiền này có thể lên đến từ 3 đến
5% tổng doanh thu toàn thế giới.
Lực lượng tài chính đặc nhiệm của nhóm Giao thông đã đưa ra con số
khác từ 300.000 triệu đến 500.000 triệu đô la Mỹ. Theo tạp chí Business
Week, chỉ riêng trong nền kinh tế Mỹ, hàng ngày có khoảng 2 triệu đô la Mỹ
được thay tên đổi họ. Như vậy, thực thi pháp luật chỉ là một nỗ lực mò kim
đáy bể mà thôi.
Đứng trước tình trạng này, một yêu cầu cấp thiết đặt ra với Chính phủ
Hoa Kỳ là phải có những quy định cụ thể phù hợp về những biện pháp hữu
hiệu chống rửa tiền. Trong đó, những điểm đầu trên cần chú ý là: kết hợp hoạt
36
động trong nước với các hoạt động của tổ chức quốc tế bởi theo ý kiến của
một số quan chức Hoa Kỳ thì thường việc thực thi pháp luật Hoa Kỳ bị thất
bại do sự phức tạp của những điều luật của nước ngoài cũng như sự thiếu hợp
tác của Chính phủ nước ngoài. Do vậy việc phối hợp trong hành động chống
"rửa tiền” là hết sức cần thiết.
Trở lại vụ Watergate, kể từ khi quyết sách nổi tiếng của vụ tai tiếng này
có tên "những người đàn ông của Tổng thống" được viết ra "theo dấu đồng
tiền" đã trở thành một câu cửa miệng khi muốn nói đến việc đối phó với giới
tội phạm câu cửa miệng này do cơ quan thực thi pháp luật của Hoa Kỳ tạo ra
từ những năm 70, Chính phủ Hoa Kỳ đã nhấn mạnh cách tiếp cận ba chiều để
chống lại tội phạm: truy tố những tội phạm nguy hiểm; theo dấu vết đồng tiền
qua những cuộc điểu tra về rửa tiền; bắt giữ tiền và công cụ hành nghề của
giới tội phạm. Chỉ có cách theo dấu đồng tiền chúng ta mới có thể phát hiện ra
toàn bộ qui mô của tội phạm và tổ chức phạm pháp mới có thể bị tiêu diệt.
Khi Chính phủ Hoa Kỳ ban hành luật chống rửa tiền đầu tiên vào năm
1986 thì họ cũng đã xác định được cơ bản đâu là vấn đề trong nước. Từ năm
1986, nạn rửa tiền trở thành một vấn đề toàn cầu, bao gồm cả giao dịch tài
chính quốc tế, buôn lậu tiền bị pháp luật và cưỡng chế quy định thì khi đó vấn
đề sẽ thế nào.
Cơ sở pháp lý chống rửa tiền của Mỹ là Luật bảo mật ngân hàng (BSA)
năm 1970, theo đó không hình sự hoá các hoạt động rửa tiền nhưng yêu cầu
các tổ chức tài chính xây dựng và đảm bảo "dấu vết trên giấy tờ" liên quan
đến một số giao dịch. Luật BSA liên tục bị phản đối. Một số người chì trích
những chi phí áp dụng. Một số người khác lại cho rằng nó trái lại điều sửa đổi
lần 4 của Hiến pháp Mỹ về chống lại việc khám xét và bắt giữ vô cớ và Điều
sửa đổi lần 5 về tự buộc tội. Mặc dù luật này vẫn được ủng hộ nhưng cho đến
nay một số phần vẫn còn gây tranh cãi. Thẩm phán Douglas đã nói rằng "Tôi
cũng chưa thể đồng ý rằng nước Mỹ đã bị những tệ nạn lũng đoạn đến nỗi mà
37
chúng ta cần phải bớt đi những rào cản về mặt Hiến pháp để tạo ra cho các
chính quyền dân sự có những phương tiện để bắt bọn tội phạm”.
Do việc buôn bán ma tuý phát triển, Quốc hội Mỹ ngày càng quan tâm
hơn đến vấn đề rửa tiền và đã đặt ra nó ngoài vòng pháp luật vào năm 1984
bằng việc đưa ra những điều khoản quy định cụ thể về hành vi vi phạm Luật
Bảo mật ngân hàng (BSA) qua đạo luật về các tổ chức tống tiền và tham
nhũng. Cuối cùng đạo luật rửa tiền (1986) quy định rửa tiền là tội phạm liên
bang. Nó bổ sung ba tội mới trong luật hình sự: cố ý dụ dỗ một hoạt động
giao dịch lớn hơn mức 10000 đô la có được từ các hoạt động phạm pháp và
cố ý tiến hành những giao dịch nhằm tránh những quy định của Luật Bảo mật
ngân hàng (BSA). Quy định cuối cùng có những chỗ "hổng" vì tội phạm rửa
tiền sẽ thuê người mở hàng hoạt khoản ký quĩ hay những séc tiền mặt với số
tiền dưới mức 10.000 đô la.
Luật này đã được bổ sung một vài lần. Đạo luật phòng chống ma tuý
(1998) đã làm tăng đáng kể mức hình phạt và đỏi hỏi sự nghiêm ngặt, chính
xác trong điều tra phát hiện ra tài liệu ghi chép về lượng tiền mặt từ những
hoạt động làm tiền cụ thể. (Đa số những yêu cầu có liên quan tới tài liệu ghi
chép từ các hoạt động làm tiền kể cả đã huỷ bỏ) thêm vào đó, các quy định
này cho phép Bộ tài chính Hoa Kỳ được bắt buộc các tổ chức tài chính ở
những khu vực cụ thể phải cung cấp những báo cáo về những giao dịch tiền tệ
ở mức dưới 10.000 đô la. Đạo luật này cũng quy định Bộ Tài chính đàm phán
các hiệp định quốc tế song phương để ghi nhận những giao dịch tiền tệ Hoa
Kỳ lớn và chia sẻ những thông tin này qua biên giới mà tội phạm ở một nước
nhưng rửa tiền ở nước khác. Tiền tệ các công cụ tiền tệ, các luồng vốn giao
dịch qua phương tiện điện tử có thể vượt qua biên giới của các quốc gia, cho
phép tội phạm ở các nước khác giấu tiền ở Hoa Kỳ và cho phép những tên tội
phạm Hoa Kỳ giấu những khoản tiền bất chính của chúng ở hàng trăm nước
38
trên thế giới mà không phải lo lắng rằng những hoạt động của chúng sẽ bị
pháp luật phát hiện.
Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi mà chúng ta chứng kiến trong thế
giới tài chính, thì vấn đề cơ bản đối với những kẻ rửa tiền, đặc biệt là những
khoản tiền từ buôn bán ma tuý bất hợp pháp vẫn còn tồn tại và cất dấu và
chuyển những khoản tiền mặt bất chính khổng lồ. Vì lý do này, thậm chí trên
phạm vi quốc tế, điều quan trọng mà Chính phủ Hoa Kỳ nhấn mạnh là trong
công đoạn đầu tiên của việc rửa tiền, những kẻ rửa tiền sẽ tìm cách đưa
những khoản tiền bất hợp pháp vào hệ thống tài chính.
Kết quả của việc tập trung nỗ lực vào công đoạn này là những ngân
hàng và công ty tài chính Hoa Kỳ đã và đang giữ đầu mối chống lại việc đưa
các khoản tiền mặt bất hợp pháp vào hệ thống tài chính. Cho dù có một số
trường hợp ngoại lệ xảy ra nhưng chúng ta cũng rất thành công trong việc
ngăn chặn những kẻ rửa tiền tiếp cận với những ngân hàng Hoa Kỳ. Và kết
quả là những thể chế tài chính phi truyền thống dể rửa những khoản tiền bất
hợp pháp của chúng. Một số phương pháp rửa tiền thường xuyên được sử
dụng bao gồm việc lưu hành một lượng tiền buôn lậu lớn, rửa tiền bằng cách
giao dịch thương mại qua hệ thống đổi đồng peso ở thị trường chợ đen
Côlombia, và sử dụng dịch vụ kinh doanh tiền như gửi tiền diện tử, dịch vụ
casas de cambio, dịch vụ tiền gửi qua các công tin cậy, séc du lịch và séc
chuyển khoản.
1.2. Chống rửa tiền của Hoa Kỳ:
1.2.1. Những cơ sở pháp lý then chốt của Hoa Kỳ.
Tại Hoa Kỳ, các cơ quan thực thi pháp luật rất quan tâm đến các cơ sở
pháp lý chống lại hoạt động rửa tiền vì nó sẽ có hiệu quả hơn là tấn công trực
tiếp vào các loại tội phạm. Ví dụ, trong các vụ buôn bán ma tuý, mức lợi
39
nhuận thu được có thể lên tới 1000 phần trăm hấp dẫn đủ để đảm bảo cung
cấp cho các tội phạm trong trường hợp chúng bị tống vào tù .
Đạo luật chống rửa tiền Annuntio – Wylie (1992) đã mở rộng những
quy định của luật bảo mật Ngân hàng về “Giao dịch tài chính”, bổ sung thêm
điều khoản đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và đặt ra ngoài vòng pháp
luật những “Giao dịch chuyển đổi tiền bất hợp pháp”. Đạo luật Annuntio –
Wylie được biết đến với việc chỉ ra rõ hành vi nào sẽ bị áp dụng “hình phạt
khai tử”, nó quy định nếu ngân hàng bị buộc tội rửa tiền, cơ quan thanh tra
hữu quan của ngân hàng liên bang phải bắt đầu một quá trình gồm chấm dứt
đặc quyền của nó hay thu hồi huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm của nó, phụ thuộc
vào kết quả thanh tra sơ bộ của ngân hàng. Đạo luật Annuntio – Wylie cũng
thiết lập nên nhóm tư vấn luật bảo mật ngân hàng (mà Cục dự trữ liên bang là
một thành viên sáng lập) nhằm đề xuất những cách thức để tăng cường hiệu
quả trong việc áp dụng những chương trình chống rửa tiền của Bộ Tài chính
Đạo luật ngăn chặn rửa tiền (1994) đã lấp chỗ trống cho những quy
định của luật về âm mưu và tội phạm có tổ chức trong khi đạo luật chống
khủng bố (1996) bổ sung thêm những loại tội phạm khủng bố cũng như
khẳng định những hành vi về tội rửa tiền và Đạo luật Kiểm soát Bảo hiểm y
tế (1996) quy định rõ những hành vi “xâm hại sức khoẻ Liên bang”.
Hình phạt cho các loại tội phạm bao gồm từ có thời hạn tới 20 năm và
mức phạt tiền lên tới 500.000 đôla hay gấp hai lần số tiền vi phạm, tuỳ thuộc
vào mức phạt nào lớn hơn sẽ áp dụng ở mức đó. ở mức cao nhất của hình
phạt, những kẻ vi phạm có thể bị bổ sang những hình phạt về dân sự ngang
với giá thị tài sản sở hữu, tiền của hay các tiền lãi liên quan đến các hoạt
động kinh doanh. Quốc hội Mỹ có ý định làm cho các hình phạt này trở nên
khắt khe hơn. Trước đạo luật về rửa tiền năm 1986, bị đơn bị truy tố theo qui
chế có sự ưu đãi đối với những hoạt động bất chính trong đó có tội phạm rửa
tiền, cũng như tội phạm trốn thuế, tội đồng loã, tội vi phạm bảo mật ngân
40
hàng, tội hối lộ và tội lừa đảo. Nhìn chung những qui chế đó đều có hình phạt
ít khắt khe hơn nhiều.
Nhưng từ góc độ tiền tệ , cuộc sống của nhứng kẻ vi phạm thực sự trở
nên tồi tệ khi đạo luật về bắt giữ tài sản vào cuộc. Những đạo luật này tách
chung khỏi những nguồn nuôi dưỡng tội phạm hoặc những công cụ được
chúng sử dụng. Theo qui luật của đạo luật sửa đổi về việc Bắt giữ tài sản dân
sự năm 2000, chính phủ Hoa kỳ hiện nay phải tiến một bước cao hơn nữa
nhằm bắt giữ tịch thu tài sản. Để tịch thu tài sản phải đưa ra những lý do xác
đáng về nguồn gốc có được nhứng tài sản đó là do hoạt động phạm pháp. Để
tịch thu dân sự thành công, phải chứng minh được những trường hợp đó có
chứng cứ rõ ràng và để thành công bắt giữ tội phạm phải chứng minh được
nhứng trường hợp đó thực sự có những bằng chứng không thể chối cãi được.
Tài sản bị phạt có thể được chia tới tất cả những cơ quan thi hành pháp luật
có tham gia, một cách giải quyết chi tiết rất có hiệu quả để thu hút sự hợp tác
từ các cơ quan thi hành pháp luật ở nước ngoài.
Về phương diện pháp lý, rửa tiền là khái niệm tương tự một số tội xâm
phạm có chủ ý trong giao dịch tiền tệ đó là tài sản có được từ nguồn gốc phi
pháp. Để kết án, người khởi tố phải đưa ra âm mưu của các bị cáo trong các
giao dịch tiền tệ hay hoạt động chuyển giao quốc tế có liên quan tới những
khoản tiền có được từ một “ hoạt động bất hợp pháp”. Danh sách của những
loại hoạt động đó vô cùng dài và bao gồm cả việc nhận đưa hối lộ làm hàng
giả buôn bán ma tuý, hoạt động tình báo, tống tiền, lừa đảo, giết người, bắt
cóc, in tiền giả và dĩ nhiên cả gian lận nghiệp vụ ngân hàng.
1.2.2 Dấu vết hồ sơ:
Các cơ quan khởi tố xem xét hồ sơ khi có được lệnh theo đạo luật bảo
mật ngân hàng và những điểm bổ sung của nó sẽ là công cụ chủ yếu trong
41
việc điều tra nghiên cứu và khởi tố tội sửa tiền. Các cơ quan đó sử dụng 5
dạng báo cáo về dấu vết trong giao dịch tài chính.
* Báo cáo giao dịch tiền tệ tài liệu được thiết lập khi một tổ chức tài
chính nhận hay cấp số tiênf hơn 10.000 USD. Báo cáo bao gồm tên và địa chỉ
của người thực hiện giao dịch, nhận dạng cá nhân số tài khoản và số thẻ bảo
hiểm xã hội của bất kỳ người nào đã tiến hành hoạt động giao dịch (Báo cáo
lượng tiền giao dịch không nhất thiết phải lập được trong mọi giao dịch tiền
mặt lớn. Các ngân hàng có thể miễn đối với các khách hàng quen, đáng tin
cậy, nhờ đó có thể giảm số lượng thực hiện các báo cáo giao dịch tiền tệ.
* Báo cáo về hoạt động nghi vấn: lập hồ sơ khi bất kỳ nhân viên ngân
hàng thấy có căn cứ để nghi ngờ một người sửa tiền, bất kể qui mô giao dịch
đó như thế nào.
* Mẫu biểu IRS - 8300. Lập hồ sơ khi người nào đó trong một thương
vụ nhận những khoản tiền mặt được trả trong trao đổi hàng hoá hay dịch vụ
vượt quá mức 10.000 USD trong giao dịch đơn lẻ hay một loạt những giao
dịch liên quan.
* Báo cáo tiền tệ và phương tiện thanh toán khác: lập hồ sơ khi một
người đến hay ra khỏi Hoa kỳ với lượng tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán
khác có giá trị quá 10.000 USD. Mang theo nhiều hơn số lượng này thì hoàn
toàn hợp pháp nếu có đủ giấy tờ, nếu không có giấy tờ thì có thể dẫn đến
những hình phạt những 5 năm tù hoặc tịch biên tài sản.
* Mẫu tài khoản ngân hàng nước ngoài: lập hồ sơ khi một người nào
đó trong năm kiểm soát tài khoản nước ngoài trị giá hơn 10.000 USD.
Tất cả những báo cáo đó giúp cho cơ quan điều tra “lần theo dấu
đồng tiền”. Mạng lưới chống tội phạm tài chính (FINCEN), được Bộ Tài
Chính Hoa kỳ thành lập năm 1990 đã hậu thuẫn cho các cơ quan thi hành
pháp luật trong việc phân tích , có trách nhiệm duy trì tốt báo cáo đó. Khi có
42
cơ hội, những báo cáo cần có sự chỉnh lý những thông tin hữu dụng sẽ được
thu nhập và loại bỏ những báo cáo không cần thiết.
Bằng việc áp dụng các hình thức trên, các tổ chức tài chính hỗ trợ cho
các cơ quan thi hành pháp luật có thẩm quyền trong cuộc chiến chống lại rửa
tiền. Các hình thức đó cũng chỉ ra giá trị đích thực của các cơ quan đó cũng
như của các khách hàng hợp pháp.
Mạng lưới chống tội phạm Tài Chính (FINCEN) dự toán chi phí của
việc thiết lập và lưu trữ hồ sơ với BAS hoàn thành năm 1999 lên tới 109 triệu
USD, trong đó không kể đến chi phí đào tạo và kiểm tra nhân sự, thay đổi các
chương trình máy tính cho phù hợp và sự bất tiện đối với những khách hàng
hợp pháp. Cũng có những lo ngại rằng những tổ chức tài chính nhỏ thường
phải gánh chịu sự phân bổ không công bằng những chi phí trên đây.
Thêm vào đó hiệu quả của các hình thức này cũng là một vấn đề được
đặt ra. Cựu cục trưởng Cục dự trữ Liên Bang Larry Lindsey theo dõi từ năm
1996, các ngân hàng đã lập 77 triệu hồ sơ báo cáo về giao dịch tiền tệ nhưng
chỉ phát hiện được 7300 bị cáo đã buộc tội nhưng chỉ có 580 người bị tuyên
bố là có tội. Xét một cách công bằng, ngoài 580 người bị buộc tội, Bộ Tư
pháp Hoa kỳ cũng đã kết tội được 2295 vụ, chiếm tỷ lệ 40% các bản án đã
tuyên . Những người quản lý ngân hàng và đại diện cho các cơ quan thực thi
pháp luật bảo vệ việc áp dụng Luật bảo mật ngân hàng (BSA), cho rằng các
giao dịch tiền tệ chưa bao giờ là căn cứ để khởi tố và cục dự trữ Liên Bang
tiếp tục ủng hộ họ.
Vai trò của cục dự trữ Liên Bang trong cuộc đấu tranh chống rửa
tiền: Mặc dù không phải là cơ quan thi hành pháp luật, Cục dự trữ Liên bang
vẫn tích cực tiến hành các hoạt động ngăn chặn việc sử dụng các tổ chức tài
chính để rửa tiền. Các hoạt động của cục dự trữ Liên Bang bao gồm chỉ đạo
các nghiên cứu BSA, triển khai hướng dẫn chống rửa tiền và chuẩn bị ý kiến
43
chuyên môn cho lãnh đạo các cơ quan thi hành pháp luật của Hoa kỳ, các
ngân hàng nước ngoài chuyên biệt và các tổ chức Chính phủ. Các tổ chức tài
chính và các nhân viên của họ được coi là yếu tố nhanh nhất chống lại rửa
tiền và cục Dự trữ Liên bang nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngân hàng
trong việc củng cố kiểm soát để bảo vệ bản thân khách hàng của ngân hàng
và bản thân khách hàng trước những hoạt động bất hợp pháp. Trong tất cả
hướng dẫn các nhân viên giám sát của FBI, nó kiểm tra việc tuân thủ bảo mật
ngân hàng. Bất kỳ sự phát hiện nào về những điều chưa làm được như hệ
thống kiểm tra nội bộ hay sự tập huấn kém cỏi đều dẫn đến cuộc thẩm tra giai
đoạn hai còn nghiêm ngặt hơn.
Cục dự trữ liên bang hoàn thành việc phát triển quan điểm một “qui
trình hoàn thiện thích đáng”. Theo chính sách này, các ngân hàng có những
vấn đề còn tồn đọng sẽ được yêu cầu phải thoả thuận để đảm bảo việc tuân
thủ các qui trình cho tương lai. Những thoả thuận này được thiết kế với mục
đích đảm bảo sự nhận biết và sự báo cáo đúng lúc, chính xác hoạt động tội
phạm được biết rõ hay còn nghi vấn chống lại hay làm cho ngân hàng dính
líu tới hoạt động chống lại các cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan
thanh tra hữu quan.
1.2.3. Vòng quay toàn cầu
Trong hệ thống tài chính toàn cầu, các quỹ có thể được di chuyển ngay
lập tức từ quốc gia này tới quốc gia khác, làm cho sự hợp tác quốc tế càng
quan trọng hơn trong cuộc chiến chống rửa tiền. Trong năm 1989, các nước
G7 đã thiết lập lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính (gọi tắt là FATF)
để phát triển chiến lược chống rửa tiền. Năm tiếp theo, lực lượng này đã phác
thảo “40 điều khuyến nghị” trong đó đòi hỏi các quốc gia thành viên giúp đỡ
lẫn nhau trong việc phát hiệnh rửa tiền, ngăn ngừa việc ban hành các đạo luật
làm cản trở những hoạt động điều tra rửa tiền, tội phạm và báo cáo những
giao dịch có nghi vấn. Mặc dù lực lượng đặc nhiệm bao gồm các trung tâm
44
tài chính lớn ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu á nhưng một số quốc gia vẫn chưa
phải là thành viên của FATF. Vào tháng 6 năm 2000, FATF đã phát hành
danh sách 15 quốc gia “ nhiễm những vấn đề nghiêm trọng”. Vào tháng 7, Bộ
trưởng tài chính các nước G7 đã bổ sung với kế hoạch nhằm thuyết phục
những nước này hợp tác bằng cách đe doạ sẽ cắt mối quan hệ với hệ thống
Ngân hàng Thế giới trừ phi họ tích cực hơn trong cuộc chiến chống rửa tiền.
Thêm vào đó các tổ chức tài chính độc lập tại các nước G7 cảnh báo bằng
những giao dịch với các quốc gia đó sẽ bị xem xét cực kỳ kỹ lưỡng.
1.2.4. Những định hướng trong tương lai:
Trước tình trạng rửa tiền ngày một tinh vi, Hoa kỳ quyết tâm thực hiện
một chính sách kiểm soát chặt chẽ hơn.
Thứ nhất, hệ thống thanh toán điện tử qua Internet đang phát triển làm
cho giao dịch điện tử trở lên dễ dàng. Một số hệ thống tạp chung vào việc
giúp cho người sử dụng ngày càng bí mật trong các hoạt động tiền tệ. Tốc độ
truyền điện tử được kết hợp với những khoản tiền mặt ẩn danh đã làm xuất
hiện ngày càng nhiều những kẻ tiến hành rửa tiền. Trong khi đây là một vấn
đề đối với các cơ quan thi hành pháp luật hữu quan, thì đồng tiền điện tử hiện
nay rất thiếu những thể chế cần thiết để điều chỉnh nhằm qui định kiểm soát
bọn tội phạm. Hơn thế nữa những kẻ rửa tiền không lo lắng tới hệ thống tổ
chức ngân hàng điện tử, trong giới hạn mối cân bằng thấp và các giao dịch tài
chính có thể kiểm tra.
Thứ hai, thể chế pháp lý được ban hành cho phép Bộ Tài chính có
thẩm quyền mạnh mẽ để chiến đấu với nạn rửa tiền, các cơ quan thấp hơn có
quyền cấm những giao dịch giữa trung tâm tài chính ở nước ngoài với các
ngân hàng Hoa kỳ hay các trung tâm môi giới. Bộ Tài chính hiện nay không
có quyền ngăn cản các công ty tài chính Hoa kỳ tiến hành các giao dịch làm
ăn ở các quốc gia dường như làm ngơ trước việc rửa tiền, trừ phi đề nghị
quốc hội ban hành các chế tài chống lại các quốc gia được coi là tiềm ẩn mối
45
đe doạ đối với nền an ninh của Mỹ. Các thanh tra viên của Bộ Tài chính luôn
cảnh báo các ngân hàng về các khoản tiền của tổ chức nước ngoài thường
xuyên vi phạm các chuẩn mực đã được công nhận, nhưng những viên thanh
tra này không có thẩm quyền như luật định.
Nói tóm lại vào 30 năm trở lại đây các nhà làm luật Hoa Kỳ đã ban
hành một loạt luật lệ nơi điều tra để cố gắng tạo nên những công cụ sắc bén
chống lại những thủ thuật lách luật tinh vi của bọn rửa tiền. Trên cơ sở là một
tổ chức quản lý Ngân hàng, Ngân hàng dự trữ liên bang có vai trò quan trọng
trong cuộc chiến chống rửa tiền có qui mô toàn cầu nên sự tăng cường hợp
tác quốc tế thơì gian gần đây là sự phát triển đầy hứa hẹn. Dĩ nhiên cùng với
lòng nhiệt huyết bắt giữ tội phạm, chúng ta cũng cần phải thấy được lợi ích
mà luật pháp và sự quản lý mang lại so với cái giá mà các tổ chức tài chính
mà người tiêu dùng phải chịu.
1.3. Những thành tựu đạt được trong cuộc chiến chống rửa tiền của Hoa
Kỳ
Bằng những đạo luật khắt khe trong những nỗ lực kiểm soát hoạt động
tài chính để chống rửa tiền, Hoa Kỳ đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong cuộc chiến đấu chống rửa tiền đầy khó khăn này. ở đây chỉ xin đề cập
đến một số chiến dịch chống rửa tiền có hiệu quả nổi bật.
1.3.1. Chiến dịch "thuần hoá chú lừa"
Ngày 01 tháng 07 năm 1998, Trưởng phòng tài chính, Chủ tịch và Phó
Chủ tịch của Công ty Supermail, Inc… một công ty séc chuyển khoản đã bị
bắt vì tham gia vào một vụ rửa tiền trong một vụ điều tra kéo dài trong vòng
2 năm do văn phòng chống rửa tiền ở Los Angeles của Cục điều tra Liên
bang và phòng cảnh sát Los Angeles tiến hành. Theo hồ sơ, công ty này là
46
một trong những công ty hàng đầu của Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ cho Mexico
và Châu Mỹ La tinh.
Ba thành viên quản trị cùng với 6 nhân viên đã bị bắt sau khi đại bồi
thẩm đoàn Liên bang đã đưa ra bản cáo trạng với 67 điểm kết tội 11 bị cáo
bao gồm cả Công ty Supermail có âm mưu rửa tiền, né tránh yêu cầu báo cáo
về lưu hành tiền tệ và chiếm đoạt tài sản một cách bất hợp pháp.
Mục tiêu đầu tiên của cuộc điều tra là quỹ của Công ty ở Reseda,
California. Những người điều tra dưới vỏ bọc bí mật đã tiếp cận với người
quản lý, người đã đồng ý rửa những đồng tiền "ma tuý" với khoản phí tiền
mặt. Đặc biệt người quản lý chuyển một số lượng tiền mặt lớn thành giấy
lệnh chuyển tiền của Công ty. Khi có một lượng tiền lớn cần được rửa, người
quản lý sẽ yêu cầu các cộng sự làm việc ở những khu vực khác giúp đỡ. Khi
một người quản lý mới điều hành những hoạt động ở chi nhánh Reseda vào
tháng 4 năm 1997 thì anh ta đưa tới công ty một số nhân viên. Những nhân
viên này được phép phát hành những phiếu gửi tiền và chuyển một lượng tiền
bất chính lớn tới một tài khoản bí mật ở Miami, trong khi số tiền để duy trì
hoạt động vẫn nằm trong quỹ của công ty.
Tổng cộng các bị cáo đã rửa tổng cộng trên 3 triệu USD tiền "ma tuý".
Người ta cho rằng đây là một trong những vụ điều tra chống lại nạn rửa tiền
nhằm vào giới kinh doanh séc chuyển khoản lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.
1.3.2. Chiến dịch “công việc mạo hiểm”
Từ khi hầu hết các đường dây rửa tiền với quy mô lớn bao gồm cả
những khoản tiền buôn bán ma tuý hình thành thì nạn rửa những khoản tiền
của tội phạm "cổ cồn" ngày càng trở thành một hiện tượng nghiêm trọng.
Chiến dịch “công việc mạo hiểm” do Cục hải quan Liên bang và FBI tiến
hành vào năm 1994 sau khi một bọn lừa đảo đăng quảng cáo trên một số tờ
47
báo và ấn phẩm kinh doanh lớn của Hoa Kỳ. Những tin quảng cáo này đưa ra
những đề nghị cho vay vốn đối với những chủ hãng kinh doanh với "khoản
phí trả trước". Các nạn nhân trên toàn thế giới bắt đầu trả những khoản tiền
lãi trả trước từ 50.000 đến 2,2 triệu USD để có thể được vay vốn. Sau khi trả
khoản tiền này, các nạn nhân được yêu cầu ký một bản hợp đồng yêu cầu họ
ngay lập tức mở thư tín dụng từ 2 -20 triệu USD làm tiền thế chấp cho khoản
vay. Nếu các nạn nhân không thể mở thư tín dụng với một khoản tiền lớn như
vậy, ngay lập tức bọn lừa đảo bảo rằng họ đã vi phạm điều khoản của hợp
đồng và giữ tiền lãi trả trước của họ. Trên thực tế những kẻ chủ mưu của kế
hoạch này biết rằng các nạn nhân sẽ không thể đáp ứng được các điều khoản
của hợp đồng và bằng cách đó chúng đã chiếm của các nạn nhân những
khoản tiền lãi trả trước.
Để che đậy số tiền chúng đã ăn cắp, những kẻ lừa đảo này mở ngân
hàng Caribean American Bank ở Antigua và Barbuda vào năm 1994. Cục Hải
quan Liên bang và FBI đã phát hiện ra rằng ngân hàng này chỉ hoạt động bề
ngoài, là một trong 18 ngân hàng hoạt động dưới sự kiểm soát của Ngân hàng
quốc tế Châu Mỹ (A.I.B - Ltd) ở Antigua. Cả hai ngân hàng này bị đóng cửa
do tội lừa đảo. Chính từ các ngân hàng này và vô số những Công ty bình
phong khác, bọn lừa đảo có thể mua máy bay, thuyền đua, xe cộ, bất động
sản và những tài sản khác bằng các khoản tiền lừa đảo. Một số bị cáo phát
hành những thẻ tín dụng lớn - dưới tên của những công ty bình phong - qua
hệ thống ngân hàng ở Antigua, vì vậy chúng có thể tiêu thụ những khoản tiền
ăn cắp thẻ tín dụng ở khắp nơi trên thế giới. ít nhất 400 người trên thế giới đã
bị mất tiền vì vụ lừa đảo này. Nhưng mục đích của chúng là còn lừa thêm
nhiều người hơn nữa. Tổng số tiền của vụ lừa đảo trên có thể không bao giờ
được tiết lộ, nhưng người ta ước tính khoảng 60 triệu USD. Kể từ đó, 19
người bị kết án trong chiến dịch “công việc mạo hiểm”. Hoa kỳ đang tìm
48
cách dẫn độ một bị cáo ở Antigua bị buộc tội thành lập ngân hàng Caribean
American Banh cho bọn lừa đảo cũng như dẫn độ bị cáo khác ở Thái Lan về.
1.3.3. Những vụ việc liên quan đến hệ thống chuyển đổi đồng tiền
peso chợ đen.
* Chiến dịch khinh công: Một trong những chiến dịch thành công gần
đây tấn công vào hệ thống thị trường chợ đen chuyển đổi đồng peso là chiến
dịch khinh công cuộc điều tra do Cục Hải quan liên bang tiến hành. Từ tháng
3/1997 đến tháng 5/1999, các nhân viên tham gia chiến dịch khinh công đã
chiếm được lòng tin của bọn môi giới buôn bán đồng peso Colombia làm
việc cho các trùm buôn ma tuý Colombia, chúng giao cho các nhân viên mật
những khoản tiền mặt khổng lồ thu được từ việc buôn bán ma tuý. Những
nhân viên này đưa những khoản tiền mặt đó vào các tài khoản cho chính phủ
kiểm soát.
Sau mỗi vụ, những kẻ đổi tiền peso lại chỉ thị cho các nhân viên mật
chuyển tiền vào các tài khoản ngân hàng đã được chỉ định. Thông qua hệ
thống thị trường chợ đen chuyển đổi đồng peso Colombia, bọn môi giới đổi
tiền peso đã lấy đồng peso thu được từ việc nhập khẩu hàng hoá Mỹ để đổi
đồng đô la ở các tài khoản bí mật. Bọn này sẽ gởi vào các tài khoản ngân
hàng của các nhà xuất khẩu Mỹ khoản tiền đô la như một khoản thanh toán
cho hàng hoá mà nhà nhập khẩu Colombia đã nhận được cũng như cho các
bên thứ ba liên quan đến hệ thống chuyển đổi này. Kết thúc chu kỳ rửa tiền
đó, các nhà nhập khẩu Colombia nhận được khi xác nhận là việc chuyển tiền
đô la đã hoàn tất chuyển cho bọn môi giới buôn bán đồng peso khoản tiền
tương đương bằng đồng peso. Sau đó, bọn này sẽ lập peso cho các trùm buôn
ma tuý Colombia.
Chiến dịch khinh công đạt được kết quả với 14 bản cáo trạng và 29 bị
cáo: 12 tên bị kết án vì tội rửa tiền và tham gia buôn bán ma tuý bị tống giam.
49
Ngoài ra các vụ việc dân sự cũng được khởi tố, xét xử các tài khoản ngân
hàng đã nhận những khoản thu được từ buôn bán ma tuý ở Mỹ cũng như ở
các nước khác.
* Chiến dịch Juno: Cũng như vậy, chiến dịch Juno kết hợp được năng
lực của Cục phòng chống ma tuý, Phòng điều tra hình sự hải quan nội địa và
Văn phòng chưởng lý liên bang ở Atlanta thành một lực lượng đặc nhiệm
điều tra chống rửa tiền. Vào 12/1999, tại bồi thẩm đoàn liên bang đặt ở
Atlanta kết án 5 bị cáo từ Colombia dính líu đến hệ thống rửa tiền và buôn
bán ma tuý với vòng quay hàng triệu đô la. Theo sự chỉ đạo của những kẻ
hiện nay là bị cáo, các nhân viên bí mật tham gia chiến dịch Juno đã từng giữ
những tài khoản lợi nhuận thu được từ ma tuý từ 100.000 đến 500.000 USD .
Các khoản thu được từ ma tuý cũng được rải ở những thành phố khác của Mỹ
như Dallas, Huston, New york , Newark, Providence, Chicago cũng như
Madrid và Rome
Những người tham gia chiến dịch Juno sau đó đã chuyển tiền từ những
thành phố nói trên đến tài khoản bí mật ở Atlanta. Theo chỉ thị của những kẻ
hiện nay đã bị kết án, tiền được chuyển đến hàng loạt các tài khoản ở Mỹ và
trên toàn thế giới. Cũng như trong chiến dịch khinh công, lợi nhuận thu được
từ ma tuý ở chiến dịch này được hợp pháp hoá qua hệ thống chuyển đổi đồng
peso chợ đen, khi bọn môi giới đổi tiền peso đã lấy đồng peso thu được từ
việc nhập khẩu hàng hoá Mỹ để đổi thành đồng đô la ở các tài khoản bí mật.
Và một lần nữa các vụ việc dân sự lại được khởi xướng để thu hồi những
khoản tiền đã chuyển vào tài khoản nội địa và nước ngoài.
1.3.4. Những khó khăn trong các vụ chống rửa tiền quốc tế: Chiến
dịch Casablanca
Chiến dịch khinh công và Juno thu được thắng lợi không chỉ trên
phương diện điều tra tội phạm, kết tội, kết án và tịch thu tài sản mà còn phát
50
hiện và tiêu diệt một phần của hệ thống chuyển đổi đồng peso chợ đen.
Những vụ việc trong hai chiến dịch điều tra này đã cho thấy những khó khăn,
phức tạp trong việc bắt giữ các khoản thu nhập bất chính khi chúng đã được
chuyển ra khỏi Hoa kỳ, đặc biệt khi thông qua các tài khoản vãng lai.
Thứ nhất, mỗi khi tiếp nhận các ngân hàng hải ngoại có văn phòng đại
diện ở nước ngoài, các nhà chức trách thực thi pháp luật Mỹ đề nghị các cơ
quan có thẩm quyền của các nước sở tại giúp đỡ, khả năng bắt giữ những
khoản tiền đó phụ thuộc vào sự lành mạnh của luật lệ ở nước đó mà nhiều lúc
mâu thuẫn với luật pháp Hoa kỳ và có thể nảy sinh những tranh cãi phức tạp,
tốn nhiều thời gian về thẩm quyền và địa điểm xét xử đối với một vụ việc bắt
giữ tiền. Trong nhiều trường hợp, các nhà thực thi pháp luật của Hoa kỳ
không biết được điểm đến cuối cùng và người nhận của những khoản tiền
được gửi qua tài khoản vãng lai và chỉ xác thực sự kiện như một vụ việc đã
rồi.
Các vấn đề phức tạp do tài khoản vãng lai gây ra không chỉ nảy sinh
trong các vụ việc bắt giữ tiền trong chiến dịch “Khinh công” và chiến dịch
Juno mà còn ở những vụ việc khác. Ví dụ như trong chiến dịch Casablanca
truy tố việc rửa tiền ở Los Angeles liên quan đến các ngân hàng nước ngoài
và tài khoản vãng lai của họ, các công tố viên của Washington D.C đã khởi tố
dân sự ở quận Colombia đối với những khoản tiền đã được chuyển khoản
vào các tài khoản nước ngoài. Những nỗ lực của nước Mỹ được các tài khoản
tiền đó đưa lại những kết quả khác nhau phụ thuộc vào nước mà chúng được
chuyển đến. Trong một số trường hợp, nước Mỹ nhận được sự hợp tác từ
phía các đồng sự nước ngoài, nhưng một số trường hợp khác lại không nhận
được sự hợp tác đó. Trong một số trường hợp khi có sự hơp tác thì rắc rối và
tranh cãi lại nảy sinh về địa điểm và thẩm quyền tố tụng cũng như về nguồn
gốc thực sự của khoản tiền.
51
Ví dụ, như trong một trường hợp tiền được chuyển vào tài khoản ngân
hàng ở nước ngoài. Sau khi đã khởi kiện dân sự, Bộ Tư pháp Mỹ đề nghị
Chính phủ nước sở tại trợ giúp phong toả các khoản tiền theo tinh thần của
công ước Viên 1998. Kết quả là các đồng sự nước ngoài đủ thẩm vấn nhân
viên của ngân hàng và phát hiện ra rằng ngân hàng có tài khoản mà các
khoản tiền đó được chuyển đến có trụ sở ở nơi khác .
Theo tinh thần Hiệp ước hỗ trợ tư pháp với nước thứ hai, Bộ Tư pháp
Mỹ thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền ở đó biết rằng họ có thông tin
về việc chuyển tiền thu được từ ma tuý vào các tài khoản ngân hàng, thuộc
thẩm quyền tài phán của họ. Do luật pháp của nước sở tại chỉ công nhận sự
hỗ trợ về mặt hình sự và không hỗ trợ về mặt dân sự, chính quyền ở nước đó
đã tự mở cuộc điều tra dựa trên thông tin mà nước Mỹ cung cấp và sau đó đã
phong toả các tài khoản. Nhân đây cũng xin lưu ý là trước khi toà phán quyết
thì không ai bị coi là tội phạm cả nên việc làm trên không công bằng cho dù
các khoản tiền đó có thể thu được bằng con đường bất chính, tội phạm. Hơn
nữa, ngân hàng không hề có một bất động sản hay một chi nhánh nào thuộc
thẩm quyền xét xử của toà án sở tại, và mọi tài sản đảm bảo cho các trái vụ
của ngân hàng đều nằm ở nước khác. Cuối cùng, sau khi lần hết vòng đã phát
hiện ra rằng tài sản đang bị theo dõi có thể nằm ở tài khoản vãng lai của ngân
hàng nước ngoài tại một ngân hàng Hoa kỳ ở thành phố NewYork.
Quả thật, ở đây có rất nhiều những cản trở cho triển vọng thành công
của việc tịch biên tài sản bằng những thủ tục dân sự, bởi lẽ tiềm ẩn sự tranh
cãi về thẩm quyền: những tài sản bị nghi ngờ thực sự "nằm" ở tài khoản vãng
lai của ngân hàng nước ngoài ở NewYork.
Mặc dù quận Colombia mới thực sự có thẩm quyền tài phán tương ứng
để tịch biên tài sản bằng thủ tục dân sự. Điều này cho thấy những khó khăn
mà chúng ta sẽ gặp phải khi tìm kiếm, phát hiện, bắt giữ và tịch biên những
khoản tiền ở các tài khoản vãng lai của các ngân hàng nước ngoài.
52
Điều đáng chú ý là những chiến dịch trên đây đã tái tạo lại những tình
huống khi các chính phủ nước ngoài hợp tác với những đề nghị của Hoa kỳ.
Trong nhiều trường hợp, không có được sự hợp tác như vậy và những khó
khăn càng tăng lên bội phần khi chúng ta gặp phải nền pháp luật về bí mật
ngân hàng không chịu hợp tác.
Tóm lại Mỹ là quốc gia mà hiện tượng "rửa tiền" xảy ra tương đối
nhiều và mang tính chất phức tạp. Tuy nhiên, được sự quan tâm của các cơ
quan hữu quan với bộ luật "chống rửa tiền" và các văn bản pháp lý liên quan,
đặc biệt là những nỗ lực trong nước và quốc tế, nạn rửa tiền ở quốc gia này
đang dần được kiểm soát.
2. Rửa tiền - chống rửa tiền ở Thái Lan
Tại Thái Lan, "tiền bẩn " đang được làm cho trở lên "sạch hơn”. Năm
1999, nước này đã thực thi Luật chống rửa tiền, một trong những đạo luật
tiến bộ nhất ở Châu á, không chỉ nhằm vào loại tội phạm "cổ cồn " mà cả vào
hoạt động phi pháp của nền kinh tế ngầm. Bốn năm trôi qua, luật này đã phát
huy tác dụng làm cho nạn rửa tiền ở Thái Lan không còn là thường ngày nữa.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với tờ Far Eastern Economic
Review, ông Peeraphan Prempooti - Tổng thư ký văn phòng chống nạn rửa
tiền (AMLO) khẳng định : luật này không loại trừ một ai cả, cho dù anh có
quyền cao, chức trọng đi nữa mà vi phạm luật thì cũng bị truy tố. Và đúng
như lời lẽ hùng hồn ấy, cho đến nay văn phòng này đã và đang xử lý rất
nhiều vụ nhưng mới chủ yếu là những vụ nhỏ.
Trong tháng 12 năm 2000 các nhà chức trách Thái Lan đã phát hiện
một vụ rửa tiền trị giá 7,7 tỷ Bath (tương đương 170 triệu USD) có liên quan
đến khoảng 37 công ty hàng đầu mà đã đánh lừa được cả những nhà ngân
hàng giàu kinh nghiệm và các nhà chính trị. Trong một vụ mang tính chất
53
quốc tế vào tháng 8 năm 2001, văn phòng chống nạn rửa tiền đã giúp chặn
đứng một vụ mua bán cổ phiếu bất hợp pháp bắt giữ 85 người nước ngoài bị
buộc tội có liên quan đến hoạt động rửa tiền xuyên quốc gia.
Trong khi đó trên khắp cả nước cảnh sát Thái Lan đã thu giữ tài sản và
đất đai của những kẻ bị tình nghi là buôn bán ma tuý, trong năm, họ đã thu
được tổng số tài sản trị gía hơn 250 triệu Bath. Nhằm hướng tới có qui định
chặt chẽ hơn đối với hoạt động của thị trường tài chính và thị trường bất động
sản, Thái Lan rất thận trọng đi từng bước nhỏ nhưng sự định hướng là rất rõ
ràng, bởi vì nguyên nhân của khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 là do
những quy định lỏng lẻo trong hệ thống ngân hàng và một cơ chế quản lý
kém.
Văn phòng chống nạn rửa tiền đã thiết lập được một cơ chế thanh tra
nhằm ngăn chặn sự tái diễn cuả những vụ tham nhũng lớn trong quá khứ và
nó cũng góp phần phát hiện ra những khoản chi không được minh bạch và
các khoản trốn thuế bấy lâu nay đã gây những tổn thất lớn cho quốc gia này.
Theo một viên chức cao cấp của văn phòng hành pháp Western có trụ
sở tại Bangkok thì Mỹ phải mất 15 năm mới có thể đưa ra đạo luật chống rửa
tiền và có hiệu lực trong khi Thái Lan đã thực hiện tốt được cả hai.
Không theo tiền lệ quốc tế, văn phòng chống nạn rửa tiền dự tính thực
thi luật chống rửa tiền mới có hiệu lực trở về trước. Điều này có thể dẫn tới
sự bùng nổ những tranh cãi về mặt chính trị. Cho tới bây giờ, chưa có vụ nào
trước năm 1997 được xem xét mặc dù có hàng tỷ Bath trong tài khoản tiền
gửi ngân hàng và vốn cổ đông trong nước đã biến mất, mà rất có thể, số tiền
này đã bị chảy ra các tài khoản ở ngân hàng nước ngoài. Ông Peeraphan nói
rằng, văn phòng chống nạn rửa tiền đang tích cực truy xét những vụ này, tìm
ra và thu hồi số tiền đã biến mất trước cuộc khủng hoảng năm 1997, đồng
54
thời ông cũng có trong tay một danh sách tên và tài khoản ngân hàng nước
ngoài đang được thẩm tra.
Về cơ sở vật chất, cho đến nay, Mỹ đã giúp văn phòng chống nạn rửa
tiền cả về vốn lẫn công nghệ, một phần mềm chuyên việt để phát hiện những
mối liên kết và làm thành các mô hình từ các báo cáo tài chính khác nhau.
Một phần cứng cũng đã được sẵn sàng tiếp nhận các báo cáo giao dịch từ
hàng trăm tổ chức tài chính. Về mặt nhân lực, các thanh tra của văn phòng
chống nạn rửa tiền được đào tạo tại một học viện hành pháp quốc tế do Mỹ
tài trợ ở Bangkok về các loại tội phạm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Điều quan trọng nhất đối với việc thực thi pháp luật này là có sự tham
gia của ngân hàng. Giờ đây, quy định về việc không hỏi (no questions) về tài
khoản tiền mặt của khách hàng đã được dần thay thế bởi quy định hiểu biết
về khách hàng với từng nhân viên ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải thông báo
tất cả các giao dịch có giá trị lớn hơn 2 triệu Baht cho văn phòng chống nạn
rửa tiền, đồng thời cũng phải thông báo các giao dịch đang nghi do bọn rửa
tiền thực hiện nhiều giao dịch có giá trị dưới mức quy định tối thiểu. Sở địa
chính Thái lan cũng phải thông báo tất cả các hợp đồng mua bán bất động
sản lớn hơn 5 triệu Baht.
Như đã đề cập ở trên, Văn phòng chống nạn rửa tiền Thailand đang nổi
lên như là một mô hình đáng học tập trong khu vực. Malaysia và Indonesia
cũng áp dụng mô hình này. Hàn quốc và Nhật Bản đã cử chuyên gia đến
tham khảo. Ông Peeraphan cho rằng một quốc gia không thể một mình chống
nạn rửa tiền vì nó là một loại tội phạm không biên giới, do đó, bộ máy hành
pháp của các quốc gia phải có sự tương đồng.
Tuy nhiên, không phải là không có sự cản trở, một số người vẫn phản
đối về quy định truy tố những vụ trước khi luật này ban hành. Theo một luật
sư hàng đầu của Thái Lan, Thawat Damsa - ard, mà thân chủ của ông đã bị
55
thu giữ tài sản thì: "Nguyên tắc có hiệu lực trở về từ trước không nên áp dụng
bởi luật quy định rằng tất cả tài sản thuộc sở hữu của một người là không
được xâm phạm. Thuật ngữ này là quá rộng". Một câu hỏi lớn hơn đặt ra đối
với văn phòng chống nạn rửa tiền là phạm vi thẩm quyền của nó là bao xa.
Với hơn 40% GDP của Thái Lan được coi là có nguồn gốc từ kinh tế ngầm
và luật mới này bao trùm cả từ loại tội phạm "cổ cồn" đến nạn mại dâm thì
Văn phòng chống nạn rửa tiền sẽ hoạt động thử nghiệm để chứng tỏ tính toàn
cầu của luật này. Cho đến nay, số vụ được đưa ra truy tố chủ yếu là những vụ
buôn lậu ma tuý nhỏ, quan chức cấp cao nhất bị truy tố chỉ là viên trung tá
cảnh sát.
Rất nhiều nhà chính trị của Chính phủ hiện thời bắt đầu nhận thức khi
cuộc khủng hoảng nổ ra năm 1997. Theo một số nhận định khá tin cậy thì
phải có một số quan chức sẽ phải có rời nhiệm sở một khi Văn phòng chống
nạn rửa tiền ra tay. Mặc dầu trên thực tế trụ sở tổ chức này là độc lập nhưng
nó vẫn cần sự hợp tác từ nhiều phía để có thể phát hiện thêm nhiều vụ phức
tạp hơn. Theo một số nhân viên của văn phòng hành pháp Westers thì các vụ
rửa tiền không dễ dàng giải quyết một cách nhanh chóng được, chúng mất rất
nhiều thời gian và nguồn lực. Nó cũng như việc thách đố đặt trước mặt bạn
100.000 ô nhớ toàn là mầu trắng mà bạn phải biết bạn đang làm cái gì.
Như vậy, sau Mỹ, Thái Lan là quốc gia có nhiều thành công trong công
cuộc chống "rửa tiền".
3. Rửa tiền- chống rửa tiền tại Hồng Kông
Mới đây, một quan chức của ngành cảnh sát Hồng Kông khẳng định
rằng, trong thời gian qua, nhiều tên khủng bố đã tiến hành nhiều đợt rửa tiền
thông qua các ngân hàng ở Hồng Kông. ông Dick Lee, Phó uỷ viên cảnh sát
Hồng Kông nhận định trong thời gian tới rất ít khả năng bọn khủng bố sẽ tiến
56
hành những hành động tấn công tại Hồng Kông nhưng bọn chúng sẽ tăng
cường rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng ở vùng lãnh thổ này.
Trong tháng 10 vừa qua, nhiều phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ
đã loan tin rằng, theo nhận định của nhiều chuyên gia Liên hợp quốc, mạng
lưới Al-Qaeda của Osama- Binladen đang có nhiều tài khoản ngân hàng ở
Hồng Kông. Một chuyên gia của Liên Hợp quốc nhận xét: "Chưa có dấu hiệu
nào cho thấy bọn khủng bố sẽ tiến hành các cuộc tấn công tại Hồng Kông.
Nhưng có nhiều khả năng những tên thuộc nhóm Al-Qaeda sẽ tăng cường lợi
dụng thành phố quốc tế có nhiều người qua lại và có hệ thống tài chính -
ngân hàng phức tạp này để tiếp tục thực hiện rửa tiền”.
Ông Dick - Lee cho biết, hiện có nhiều tài khoản ngân hàng ở Hồng
Kông có dấu hiệu liên quan đến nhóm khủng bố Al-Qaeda. Ngoài ra, ông
Dick - Lee còn khẳng định rằng việc cảnh sát Hồng Kông phát hiện và bắt
giữ 3 kẻ cung cấp vũ khí cho nhóm Al-Qaeda (Hai người có quốc tịch
Pakistan và một người có quốc tịch Mỹ) vào ngày 20/9 năm nay không phải
là lần đầu tiên cảnh sát của vùng lãnh thổ này phát hiện và xử lý những vụ
liên quan đến bọn khủng bố. Ba tên này bị bắt trong khi đang mua 4 tên lửa
Stinger để bắn máy bay. Trước đó, theo Cục điều tra trung ương Mỹ (FBI) 3
tên này đã dùng 5 tấn Hasit (chế bằng lá thuốc non và đọt gai dầu) và 600kg
Heroin để đổi lấy tên lửa cung cấp cho mạng Al-Qaeda.
Để trấn an nhân dân và khách quốc tế, các quan chức của ngành cảnh
sát Hồng Kông tuyên bố rằng, trong thời gian tới, chính quyền vùng lãnh thổ
này sẽ tăng cường các biện pháp truy lùng và bắt giữ những tên khủng bố đi
qua, đồng thời sẽ đẩy mạnh công tác kiểm tra để phong toả các tài khoản mà
bọn khủng bố mở tại các ngân hàng hoạt động trên thị trường này. Bên cạnh
đó cũng theo ngành cảnh sát Hồng Kông, chính quyền Hồng Kông sẽ tăng
cường hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế để phát hiện và bắt giữ
những tên khủng bố đi qua hoặc có những hành động rửa tiền qua Hồng
57
Kông. Ngoài ra chính quyền Hồng Kông sẽ tăng cường vai trò của ngành tình
báo để chống khủng bố và hoạt động rửa tiền.
Cho tới nay, cảnh sát Hồng Kông đã ghi nhận và điều tra được 6800
vụ rửa tiền. Tuy nhiên họ cũng cho biết đó chỉ là những vụ rửa tiền được biết
đến còn có bao nhiêu vụ rửa tiền thì họ không tổng kết được.
Từ năm 1989, luật trừng trị tội rửa tiền được ban hành tới nay, cảnh sát
đã truy tố 99 cá nhân, tịch thu được 39 triệu USD tang vật liên quan đến tội
phạm rửa tiền. Thời gian tới, công tác chống rửa tiền sẽ có những thành công
mới.
Ngoài ra ở các nước khác trên thế giới, công tác chống rửa tiền cũng
đạt được thành công nhất định. Mới đây (17/1/2003), Tây Ban Nha đã phá
đường dây rửa tiền lớn nhất Châu âu. Bộ Nội vụ nước này cho biết, cảnh sát
đã bắt giữ 101 nghi phạm người Tây ban nha, Colombia và Dominica sau
cuộc điều tra kéo dài suốt 2 năm qua. Họ còn thu được 542kg cocaine và 9,5
triệu Euro tiền mặt liên quan đến hoạt động buôn bán ma tuý.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Tây Ban Nha Angel Aceber khẳng định: "Đây là
chiến dịch điều tra tội phạm lớn nhất ở Tây Ban Nha và chắc chắn cũng là
một trong những chiến dịch quan trọng nhất từng được tiến hành ở Châu Âu”.
Theo ông Acebes, các nhà điều tra đã phát hiện việc các nghi phạm đã
tiến hành “rửa” tổng cộng 237,5 triệu EURO thu đợc từ hoạt động buôn bán
ma tuý. Thủ đoạn của chúng là mua đô la Mỹ từ cơ quan hối đoái Tây Ban
Nha, với sự tiếp tay của các nhân viên ở đây (những kẻ tòng phạm này cũng
bị bắt).
Chiến dịch triệt phá mạng lới rửa tiền nói trên đợc bắt đầu từ năm 2001.
Những nghi phạm đã bị bắt trong hàng loạt các vụ đột kích suốt 20 tháng qua.
Sự kiện này diễn ra trong bối cảnh Madrit đang phát động truy quét tội phạm
trên diện rộng.
58
Như vậy, “rửa tiền” là hoạt động quốc tế và rất khó kiểm soát ngay cả
khi đã có đạo luật chống rửa tiền. Một minh chứng rõ ràng là đạo luật chống
rửa tiền của Philipines được ra đời từ năm 2001, nhưng cho tới nay, cũng
giống như Nga, Nauru, Ukraine và Grenada, P
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Rửa tiền và chống rửa tiền hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam.pdf