Tài liệu Luận văn Quyền chọn chứng khoán: Điều kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam: 1
Luận văn
Đê tài “Quyền chọn chứng khoán: điều
kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng
quyền chọn chứng khoán vào TTCK
Việt Nam”
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ra đời vào tháng 07/2000 đánh
dấu một bước phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính (TTTC) trong nước, qua
mười năm hoạt động đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế Việt
Nam. Trong thời gian gần đây TTCK Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng
góp phần không nhỏ trong việc huy động vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy
nhiên quy mô TTCK còn nhỏ bé, chính sách quản lý, điều hành, giám sát còn nhiều
yếu kém đã và đang mang lại nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư (NĐT) khi tham gia
kinh doanh chứng khoán. Hơn nữa hàng hóa trên TTCK còn quá đơn điệu, ngoài cổ
phiếu và trái phiếu thì vẫn chưa có nhiều sản phẩm khác. Tại các nước có TTTC
phát triển thì việc giảm thiểu rủi ro thông qua các công cụ chứng khoán phái sinh
như: hợ...
118 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1027 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quyền chọn chứng khoán: Điều kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Đê tài “Quyền chọn chứng khoán: điều
kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng
quyền chọn chứng khoán vào TTCK
Việt Nam”
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ra đời vào tháng 07/2000 đánh
dấu một bước phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính (TTTC) trong nước, qua
mười năm hoạt động đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế Việt
Nam. Trong thời gian gần đây TTCK Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng
góp phần không nhỏ trong việc huy động vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy
nhiên quy mô TTCK còn nhỏ bé, chính sách quản lý, điều hành, giám sát còn nhiều
yếu kém đã và đang mang lại nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư (NĐT) khi tham gia
kinh doanh chứng khoán. Hơn nữa hàng hóa trên TTCK còn quá đơn điệu, ngoài cổ
phiếu và trái phiếu thì vẫn chưa có nhiều sản phẩm khác. Tại các nước có TTTC
phát triển thì việc giảm thiểu rủi ro thông qua các công cụ chứng khoán phái sinh
như: hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, bán khống……ngày càng được sử
dụng rộng rãi như là những công cụ chủ yếu và không thể thiếu được trong việc
quản lý rủi ro. Trong thời gian gần đây TTCK Việt Nam đã có những biến động bất
thường khó dự đoán, thị trường liên tục mất điểm khiến đa số các NĐT đều thua lỗ.
Khi TTCK trong giai đoạn suy thoái những NĐT nhỏ lẻ không thể trụ vững trên thị
trường, họ ồ ạt bán chứng khoán để bảo toàn vốn làm cho thị trường càng trở nên
trầm trọng hơn dễ dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ. Vì vậy việc áp dụng các công cụ
chứng khoán phái sinh đặc biệt là quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam
giúp các NĐT có thêm công cụ để hạn chế rủi ro cho các NĐT là vô cùng cần thiết.
Đó là lý do tôi chọn đê tài “Quyền chọn chứng khoán: điều kiện, khả năng và giải
pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề cơ bản về quyền chọn, thị trường quyền
chọn, nghiên cứu một số mô hình tổ chức giao dịch quyền chọn chứng khoán tiêu
biểu trên thế giới.
- Nghiên cứu các điều kiện để áp dụng quyền chọn trên TTCK.
3
- Nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển của TTCK Việt Nam, thực trạng
TTCK Việt Nam hiện nay từ đó đánh giá các điều kiện để phát triển giao dịch
quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp để áp dụng giao dịch quyền chọn vào TTCK Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các lý luận cơ bản về
quyền chọn chứng khoán, các điều kiện để áp dụng quyền chọn chứng khoán và khả
năng áp dụng quền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: các lý luận về quyền chọn chứng khoán, TTCK Việt
Nam, thị trường quyền chọn Mỹ, thị trường quyền chọn Châu Âu.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích-tổng hợp, thống
kê-mô tả, so sánh-đối chiếu, phương pháp quan sát thực tế để khái quát vấn đề cần
nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài với tên gọi: “Quyền chọn chứng khoán: điều kiện, khả năng và giải
pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam”,
được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền chọn và điều kiện để áp
dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK
Chương 2: Điều kiện để phát triển giao dịch quyền chọn chứng khoán:
thực trạng tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào
TTCK Việt Nam
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CHỌN VÀ
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN VÀO THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Giới thiệu về quyền chọn
1.1.1 Định nghĩa
1.1.1.1 Quyền chọn
Quyền chọn là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn
quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán xác định trước trong khoảng
thời gian nhất định với mức giá được xác định trước.
Như vậy việc yêu cầu thực hiện quyền chọn là quyền mà không phải nghĩa
vụ của người mua quyền chọn trong khi người bán phải thực hiện nghĩa vụ của
mình khi người mua yêu cầu. Do đó, người mua quyền chọn có thể yêu cầu thực
hiện quyền chọn, để quyền chọn hết hạn, hoặc bán lại quyền chọn trên thị trường.
Chính vì vậy người mua quyền chọn được xem là NĐT có vị thế dài hạn và người
bán ở vị thế ngắn hạn trên hợp đồng.
Một hợp đồng quyền chọn bao giờ cũng phải có đầy đủ ít nhất 5 nội dung
chính: chứng khoán cơ sở, quy mô hợp đồng, thời gian đáo hạn, giá thực hiện và giá
phí quyền chọn. Riêng giá phí quyền chọn là nội dung có thể thương lượng giữa các
bên tham gia. Giá phí quyền chọn chính là mức giá của quyền chọn mà bên mua
quyền chọn phải trả cho bên bán.
1.1.1.2 Quyền chọn mua:
Quyền chọn mua là một loại quyền chọn cho phép người sở hữu quyền chọn
được quyền mua một số lượng chứng khoán của một loại chứng khoán nhất định
với giá xác định trước trong một thời hạn ấn định.
Thời gian có hiệu lực của hợp đồng quyền chọn được xác định đến ngày đáo
hạn. Giá thực thi quyền chọn được gọi là giá thực hiện.
1.1.1.3 Quyền chọn bán:
5
Quyền chọn bán là một loại quyền chọn cho phép người sở hữu quyền chọn
được quyền bán một số lượng chứng khoán của một loại chứng khoán nhất định với
giá xác định trước trong một thời hạn ấn định.
1.1.2 Phân loại hợp đồng quyền chọn
1.1.2.1 Theo quyền của người mua
- Hợp đồng quyền chọn mua (Call options): Là một thỏa thuận giao dịch một
lượng tài sản cơ sở nhất định, trong đó người mua call options (A) sẽ trả cho người
bán call options (B) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn
(options premium) và A sẽ có quyền được mua nhưng không bắt buộc phải mua
một lượng tài sản cơ sở đó theo một mức giá đã được thoả thuận trước vào một
ngày hoặc một khoảng thời gian xác định trong tương lai. B nhận được tiền từ A
nên B có trách nhiệm phải bán lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện đã thỏa
thuận vào ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Châu Âu) hoặc bất kì ngày nào
trong khoảng thời gian từ ngày ký hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn
kiểu Mỹ), khi A muốn thực hiện quyền mua của mình. Vào ngày thực hiện quyền
(thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng), sau khi xem xét với mức giá giao ngay
của tài sản cơ sở ở ngày này, nếu thấy có lợi cho mình, tức giá tài sản cơ sở lớn hơn
giá thực hiện, A có thể thực hiện quyền của mình để được mua lượng tài sản cơ sở
đó ở mức giá thực hiện, rồi ra thị trường bán lại với giá cao hơn để thu một khoản
lợi nhuận. Nếu thấy giá của tài sản cơ sở dưới giá thực hiện, A có thể không cần
phải thực hiện quyền mua của mình, và chịu lỗ tiền phí quyền chọn.
- Hợp đồng quyền chọn bán (Put options): Là một thỏa thuận giao dịch một
lượng tài sản cơ sở nhất định, theo đó người mua Put options (C) sẽ trả cho người
bán Put options (D) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn bán hay phí Put
options và C sẽ có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ phải bán lượng tài sản cơ sở
đó theo một mức giá đã thỏa thuận trước (giá thực hiện) vào một ngày hoặc một
khoảng thời gian xác định trong tương lai. D nhận được tiền từ C, nên có nghĩa vụ
phải mua lượng tài sản cơ sở đó ở mức giá thực hiện vào ngày đáo hạn (nếu là
quyền chọn kiểu Châu Âu) hoặc bất kì ngày nào trong khoảng thời gian từ ngày ký
6
hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ), khi C muốn thực hiện
quyền được bán của mình. Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc
hợp đồng), sau khi xem xét giá giao ngay của tài sản cơ sở trên thị trường, nếu thấy
có lợi cho mình, tức mức giá này nhỏ hơn giá thực hiện, C có thể thực hiện quyền
của mình để được bán lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện sau khi đã mua được
ở ngoài thị trường với giá thấp hơn để thu một khoảng lợi nhuận. Nếu thấy giá giao
ngay cao hơn giá thực hiện, C có thể không cần phải thực hiện quyền chọn bán của
mình, và chịu lỗ tiền phí quyền chọn.
1.1.2.2 Theo thời gian thực hiện:
- Quyền chọn kiểu Mỹ (American style option) Là quyền chọn cho phép
người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào bất kỳ thời điểm nào
trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến hết ngày
đáo hạn của hợp đồng. Việc thanh toán sẽ thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm
việc sau khi việc thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận (trong thời
gian hiệu lực của hợp đồng).
- Quyền chọn kiểu châu Âu (European style option) là quyền chọn chỉ cho
phép người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào ngày đáo hạn của
hợp đồng. Việc thanh toán thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc
thực hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận vào ngày đáo hạn.
Sự phân biệt giữa hai loại quyền chọn kiểu châu Âu và quyền chọn kiểu Mỹ
không liên quan đến vị trí địa lý. Ða số hợp đồng quyền chọn được trao đổi chính
yếu trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, quyền chọn kiểu châu Âu có đặc điểm dễ phân
tích hơn quyền chọn kiểu Mỹ và một số thuộc tính trong quyền chọn kiểu Mỹ
thường được suy ra từ quyền chọn kiểu châu Âu.
1.1.2.3 Theo thị trường giao dịch:
- Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung: Là quyền chọn
được tiêu chuẩn hóa về quy mô, số lượng, giá thực hiện và ngày đáo hạn, được giao
dịch trên các thị trường tập trung như Chicago Board of Trade, TTCK New
York…Do đó, tính minh bạch của thị trường rất cao, thể hiện ở chỗ giá cả, số lượng
7
của hợp đồng giao dịch được công bố chi tiết vào cuối ngày giao dịch, làm dữ liệu
tham khảo cho các ngày giao dịch tiếp theo hoặc cho nhiều mục đích khác. Đặc
biệt, các hợp đồng quyền chọn này có thể được dễ dàng chuyển nhượng giữa các
NĐT, điều này cho thấy tính thanh khoản cao của các hợp đồng quyền chọn được
giao dịch trên các thị trường tập trung kiểu này. Trên thế giới, thị trường giao dịch
quyền chọn theo kiểu này chiếm tỉ trọng rất lớn, khoảng 98% tổng giá trị giao dịch
quyền chọn của thế giới.
- Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường phi tập trung : Là thỏa
thuận mua bán giữa hai bên, theo đó quyền chọn được người bán đưa ra theo thỏa
thuận với người mua nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một người mua, chúng
không được giao dịch trên các sở giao dịch tập trung. Hợp đồng thường được giao
dịch giữa các đối tác liên ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng là các cá
nhân, doanh nghiệp(DN). Do các hợp đồng quyền chọn không được chuẩn hóa, chi
tiết của hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên, nên tính linh hoạt đối với các hợp
đồng này là rất cao, đáp ứng được các nhu cầu cá biệt của các khách hàng. Dù vậy,
các giao dịch quyền chọn phi tập trung kiểu này chỉ chiếm khoảng 2% giá trị giao
dịch quyền chọn trên thế giới.
1.1.3 Các chủ thể tham gia thị trường quyền chọn
Các chủ thể tham gia thị trường giao dịch quyền chọn rất đa dạng, bao gồm
các DN, các cá nhân, các tổ chức hoạt động tài chính như ngân hàng thương mại
(NHTM), ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán (CTCK)…Dựa vào các mục đích
tham gia thị trường của mỗi đối tượng, ta có thể phân ra thành các nhóm sau:
Những người phòng ngừa rủi ro: Là những tổ chức tài chính và phi tài chính
hay những cá nhân, tham gia thị trường quyền chọn do có nhu cầu giao dịch các loại
tài sản cơ sở như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, lãi suất…và có những lo ngại về sự
biến động của giá cả hàng hóa, tỉ giá, lãi suất…làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt
động kinh doanh, lợi ích của họ. Thông thường, họ tham gia thị trường với tư cách
là những người mua các quyền chọn để bảo hiểm các rủi ro về sự biền động của giá
8
cả, tỉ giá, lãi suất…Họ sẵn sàng bỏ ra một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn để
đổi lấy một mức tỉ giá, giá cả, lãi suất cố định.
Các NĐT, đầu cơ: Là các cá nhân, các tổ chức tài chính và phi tài chính,
tham gia vào thị trường với mục đích đầu cơ vào sự chênh lệch tỉ giá, giá cả, lãi suất
… họ thường dựa vào các công cụ phân tích kỹ thuật để đưa ra các dự đoán về xu
hướng tỉ giá, giá cả, lãi suất …Từ đó, thực hiện mua bán các quyền chọn thích hợp
để thu lợi nhuận.
Các tổ chức tài chính trung gian: Bao gồm các NHTM, ngân hàng đầu tư,
CTCK…Ngoài mục đích tham gia vào thị trường cũng với tư cách là các NĐT hoặc
những người có nhu cầu về bảo hiểm rủi ro. Ở các nước phát triển, nơi mà các giao
dịch quyền chọn hầu như chỉ diễn ra trên các sàn giao dịch tập trung, với tư cách là
các thành viên của sở giao dịch quyền chọn, họ đóng vai trò như một nhà môi giới
các giao dịch quyền chọn trên thị trường, chỉ một số ít các tổ chức tài chính lớn như
các tập đoàn tài chính khổng lồ mới có khả năng tự đứng ra phát hành quyền chọn
cho thị trường.
1.1.4 Cơ chế hoạt động của quyền chọn
Đối với quyền chọn cổ phiếu được giao dịch trên Sở giao dịch, các chi tiết
của hợp đồng – thời gian đáo hạn, giá thực hiện, ảnh hưởng của việc thanh toán cổ
tức, quy mô nắm giữ của NĐT – sẽ do Sở giao dịch quy đinh.
Về thời gian đáo hạn: mỗi Sở giao dịch tại mỗi quốc gia có thể có quy định
riêng. Tại Hoa Kỳ, một khoản mục được xác định trong quyền chọn cổ phiếu là
tháng mà có ngày đáo hạn. Ngày đáo hạn chính xác là vào thứ 7 kế tiếp sau ngày
thứ sáu tuần thứ ba của tháng. Ngày cuối cùng giao dịch quyền chọn là ngày thứ 6
tuần thứ 3 của tháng. NĐT có vị thế mua quyền chọn chỉ dẫn nhà môi giới thực thi
quyền chọn với thời hạn cuối cùng là 4h 30 ngày thứ sáu. Nhà môi giới sẽ có cả
ngày hôm sau để hoàn tất thủ tục thực thi quyền chọn.
Quyền chọn có thể được xem xét một trong ba trạng thái: đang có lời (in the
money), hoà vốn (at the money), và đang lỗ (out of the money). Nếu K là giá thực
hiện , S là giá của chứng khoán cơ sở. Một quyền chọn mua trong trạng thái đang có
9
lời khi S>K, trong trạng thái hoà vốn khi S=K, trong trạng thái đang lỗ khi S<K.
Như vậy, rõ ràng rằng một quyền chọn được thực hiện chỉ khi trong trạng thái đang
có lãi.
Giá trị nội tại của quyền chọn (intrinsic value): được xác định là giá trị lớn
nào lớn hơn khi so sánh với 0 và giá trị của quyền chọn nếu nó được thực hiện
ngay. Chẳng hạn, với quyền chọn mua giá trị nội tại sẽ là max(S-K, 0). Đối với
quyền chọn bán, giá trị nội tại sẽ là max(K-S, 0).
Đối với quyền chọn giao dịch trên thị trường OTC, nếu một công ty công bố
chi trả cổ tức, giá thực hiện quyền chọn sẽ bị giảm trong ngày giao dịch không có
cổ tức đúng bằng giá trị cổ tức chi trả. Nếu quyền chọn giao dịch trên thị trường
giao dịch tập trung, việc thanh toán cổ tức thường chỉ bị điều chỉnh giá thực thi giá
trị chi trả cổ tức lớn.
Đối với việc chia tách cổ phiếu: sẽ có một số điều chỉnh trong giao dịch
quyền chọn. Khi cổ phiếu được chia tách n từ m sẽ làm giá cổ phiếu giảm xuống
m/n giá trị trước đó. Sau khi chia tách n từ m, giá thực hiện sẽ giảm xuống m/n giá
trị trước đó và số lượng cổ phiếu giao dịch trong một hợp đồng sẽ tăng n/m số
lượng trước đó.
Nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của một hoặc một nhóm NĐT tới thị trường,
các sở giao dịch quyền chọn thường có quy định giới hạn số lượng tối đa một NĐT
có thể nắm giữ và có thể thực thi quyền trong một đơn vị thời gian. Sở giao dịch
quyền chọn Chicago quy định mức giới hạn đối với một NĐT cho quyền chọn của
cổ phiếu lớn nhất có mức giao dịch nhiều nhất là 75.000 hợp đồng.
Một NĐT mua một quyền chọn có thể kết thúc vị thế của mình bằng một
lệnh bán một quyền chọn có nội dung tương tự. Một NĐT bán quyền chọn có thể
kết thúc vị thế của mình bằng việc mua một quyền chọn tương tự.
Trong giao dịch quyền chọn, NĐT mua quyền chọn có thể trả bằng tiền mặt
hoặc sử dụng tài khoản ký quỹ. Mức ký quỹ ban đầu thường là 50% giá trị của
chứng khoán và phải duy trì mức ký quỹ tối thiểu là 25% giá trị của chứng khoán.
10
Thông thường, quyền mua có thời gian đáo hạn dưới 9 tháng sẽ phải trả bằng tiền
mặt mà không được sử dụng tài khoản ký quỹ.
Đối với NĐT bán quyền chọn, yêu cầu phải duy trì một tài khoản ký quỹ để
đảm bảo thực hiện hợp đồng. Mức ký quỹ cụ thể có quy định trong từng trường
hợp.
Trường hợp quyền chọn không có đảm bảo (naked options): mức ký quỹ
thông thường của quyền chọn mua (theo quy định của Sở giao dịch quyền chọn
Chicago) sẽ là một trong 2 giá trị sau tuỳ theo giá trị nào cao hơn.
+ Một trăm phần trăm giá trị phí mua quyền chọn đã nhận được cộng với
20% giá trị thị trường của chứng khoán cơ sở trừ đi phần thua lỗ hiện có trong hợp
đồng (nếu có).
+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 10% giá trị thị trường
của chứng khoán cơ sở.
Mức ký quỹ thông thường của quyền chọn bán sẽ là giá trị nào lớn hơn trong
hai giá trị tính toán sau:
+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 20% giá trị thị trường
của chứng khoán cơ sở trừ đi phần thua lỗ (nếu có).
+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 10% giá trị thực hiện
quyền chọn.
Trường hợp quyền chọn có đảm bảo (covered options): đối với quyền chọn
mua đó là toàn bộ chứng khoán cơ sở của quyền chọn, biên bản thỏa thuận để bên
thứ ba nắm giữu chứng khoán cơ sở, hoặc chứng khoán có thể hoán đổi ra chứng
khoán cơ sở, hoặc một hợp đồng quyền chọn mua cùng loại chứng khoán cơ sở có
thời gian đáo hạn dài hơn, giá thực hiện thấp hơn, hoặc quyền mua cổ phiếu cơ sở
có giá thực hiện ngang bằng hoặc thấp hơn giá thực hiện quyền chọn.
Đối với quyền chọn bán, người bán quyền chọn phải đảm bảo: số tiền mặt
tương đương với giá trị thực thi hợp đồng hoặc thư đảm bảo của ngân hàng, hoặc số
bán khống chứng khoán cơ sở, hoặc đã mua quyền chọn bán khác cùng loại chứng
11
khoán có giá thực hiện cao hơn có cùng thời gian đáo hạn (hoặc thời gian đáo hạn
dài hơn).
Quyền chọn có thể sử dụng riêng biệt, độc lập hoặc có thể kết hợp theo nhiều
cách khác nhau để tạo ra các sách lược làm biến đổi tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận. Một
phương thức rất thông dụng là mua bán song hành cùng lúc các hợp đồng quyền
chọn của cùng một loại chứng khoán cơ sở. Có nhiều kiểu mua bán song hành
nhưng có 2 loại thông dụng là mua bán song hành chiều dọc và mua bán song hành
theo lịch. Mua bán song hành theo chiều dọc là hình thức mua và bán đồng thời các
quyền chọn có cùng chứng khoán cơ sở, cùng thời gian đáo hạn nhưng khác giá
thực hiện. Mua bán song hành theo lịch là hình thức mua và bán đồng thời các
quyền chọn có cùng giá thực hiện nhưng khác thời gian đáo hạn.
1.1.5 Ưu nhược điểm của quyền chọn
1.1.5.1 Ưu điểm:
- Thứ nhất, có nhiều thời gian hơn để quyết định: Thông qua quyền chọn,
mức giá mua hoặc bán đã được xác định. Tuy nhiên, từ thời điểm hiện tại đến thời
điểm thực hiện NĐT vẫn còn khoảng thời gian đáng kể để cân nhắc kỹ lưỡng việc
có mua hoặc có bán chứng khoán đó hay không. Việc đầu tư một khoản tiền khiêm
tốn ban đầu để có thời gian cân nhắc kỹ lưỡng cho một khoản mục đầu tư lớn trong
nhiều trường hợp cũng đánh giá là đáng giá.
- Thứ hai, Cho phép NĐT thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất.
Do NĐT chỉ bỏ ra chi phí nhỏ là giá quyền chọn và một số chi phí liên quan trong
quá trình giao dịch và thanh toán như chi phí môi giới, phí thanh toán... tuy nhiên
nếu giá tài sản cơ sở (cổ phiếu, trái phiếu....) biến động đúng như kỳ vọng của NĐT,
lúc này khoản lợi nhuận là rất lớn.
- Thứ ba, Linh hoạt phòng ngừa rủi ro: đây là một trong những đặc điểm nổi
bật của quyền chọn so với công cụ khác như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Dùng quyền
chọn, NĐT có thể hạn chế mức tổn thất tối đa trong phạm vi giá phí quyền chọn.
Đối với quyền chọn bán còn có thể dùng để tự bảo hiểm cho trường hợp giảm giá
chứng khoán mà NĐT đang nắm giữ. Quyền chọn cho phép NĐT xây dựng một
12
danh mục chứng khoán đa dạng với chi phí ban đầu thấp hơn việc mua thẳng chứng
khoán đó.
- Thứ tư, quyền chọn là công cụ để tìm kiếm lợi nhuận: Thông qua quyền
chọn NĐT có thể có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận gia tăng từ chi phí đầu tư khiêm tốn
ban đầu. Thông qua việc bán quyền chọn, một số nhầ đầu tư cũng sẽ được hưởng
giá phí quyền chọn từ một số NĐT khác.
- Thứ năm, tận dụng đòn bẩy tài chính: Thông qua công cụ quyền chọn NĐT
có thể tận dụng đòn bẩy tài chính để kiếm lợi nhuận. Giao dịch quyền chọn giúp
NĐT hưởng lợi từ sự biến động của giá chứng khoán mà không cần thanh toán toàn
bộ giá trị chứng khoán đó. Thông qua việc tận dụng phối hợp các quyền chọn khác
nhau, NĐT có thể thực hiện các chiến lược đầu tư phù hợp với mục tiêu và hoàn
cảnh cụ thể của mình.
1.1.5.2 Nhược điểm:
Bên cạnh các ưu điểm, quyền chọn cũng có những nhược điểm:
Giao dich quyền chọn phụ thuộc vào giá trị tài sản cơ sở, mức giá thực thi
quyền, thời gian, độ biến thiên của tài sản cơ sở.... Mặt trái cơ bản nhất của quyền
chọn là khi TTCK diễn biến không như kỳ vọng của NĐT, NĐT sẽ mất toàn bộ số
tiền bỏ ra để có được quyền chọn.
Quyền chọn là công cụ phái sinh khá phức tạp. Do đó, khi sử dụng giao dịch
quyền chọn, NĐT cần phải hiểu rõ và biết cách vận dụng các công cụ quyền chọn
một cách linh hoạt. Do đó, rủi ro lớn nhất của quyền chọn là khi chính NĐT không
hiểu rõ về quyền chọn và không biết cách kết hợp các vị thế để giới hạn tổn thất nếu
có và gia tăng lợi nhuận.
Mặt trái của giao dịch quyền chọn là hiện tượng đầu cơ. Các nhà đầu cơ có
thể đầu cơ giá lên hoặc giá xuống bằng các quyền chọn mua và quyền chọn bán.
Việc đầu cơ giá trên các hợp đồng quyền chọn có thể làm giá cả chứng khoán biến
động vượt ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các DN và các
NĐT.
1.1.6 Sự phát triển của thị trường quyền chọn
13
Những giao dịch quyền chọn bán và quyền chọn mua đầu tiên được ghi nhận
là ở các quốc gia châu Âu và Mỹ đầu thế kỷ XVIII. Vào đầu những năm 1900, hiệp
hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn ra đời. Mục đích của hiệp hội
này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và người bán lại với nhau.
NĐT muốn mua quyền chọn sẽ liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ
tìm nguời bán quyền chọn từ khách hàng của công ty hoặc của các công ty thành
viên khác. Nếu không có người bán, công ty đó sẽ tự phát hành quyền chọn với giá
cả thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường phi tập trung
OTC (Over-The-Counter), các nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch.
Tuy nhiên, thị trường quyền chọn phi tập trung này bộc lộ rõ nhiều khiếm
khuyết. Thứ nhất, do không có thị trường thứ cấp, thị trường này không cung cấp
cho người nắm giữ quyền chọn có hội bán quyền chọn cho một người khác trước
khi quyền chọn đáo hạn. Các quyền chọn được thiết kế để nắm giữ cho đến khi đáo
hạn, và rồi chúng sẽ được thực hiện hoặc để cho hết hiệu lực. Vì vậy, hợp đồng
quyền chọn có rất ít, thậm chí không có tính thanh khoản. Thứ hai, việc thực hiện
hợp đồng của người bán chỉ được đảm bảo bởi công ty môi giới kiêm kinh doanh.
Nếu người bán hoặc công ty thành viên của Hiệp hội các nhà kinh doanh quyền
chọn mua và quyền chọn bán bị phá sản, người nắm giữ quyền chọn coi như tổn
thất hoàn toàn. Thứ ba, phí giao dịch tương đối cao, một phần cũng do hai nguyên
nhân kể trên.
Năm 1973 đã có một sự thay đổi mang tính cách mạng trong thế giới quyền
chọn. Tháng 4 năm 1973, Ủy ban thương mại Chicago (Chicago Board of Trade –
CBO) thành lập Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (Chicago Board
Options Exchange – CBOE), đặc biệt dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu.
CBOE đã tạo ra một thị trường trung tâm cho các hợp đồng quyền chọn. Bằng cách
tiêu chuẩn hóa các kỳ hạn và điều kiện của hợp đồng quyền chọn, nó đã làm tăng
tính thanh khoản cho thị trường. Nói cách khác, một NĐT đã mua hoặc bán quyền
chọn trước đó có thể quay trở lại thị trường trước khi hợp đồng đáo hạn và bán hoặc
mua quyền chọn, và như vậy đã bù trừ vị thế ban đầu. Tuy nhiên, quan trọng nhất
14
CBOE đã bổ sung một trung tâm thanh toán đảm bảo cho người mua rằng người
bán sẽ thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng. Vì vậy, không giống như trên thị trường
phi tập trung, người mua quyền chọn không còn phải lo lắng về rủi ro tín dụng của
người bán. Ðiều này khiến quyền chọn trở nên hấp dẫn đối với công chúng. Từ đó
thị trường quyền chọn trở nên phổ biến với NĐT. TTCK Philadelphia (Philadelphia
Exchange – PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn vào năm 1975, TTCK
Pacific (Pacific Stock Exchange – PSE) thực hiện vào năm 1976 và TTCK New
York (New York Stock Exchange – NYSE) thực hiện vào năm 1985.
Năm 1982, quyền chọn bắt đầu giao dịch trên các hợp đồng giao sau với trái
phiếu chính phủ, và loại giao dịch này phát triển rất nhanh. Giao dịch trên thị trường
đấu giá mở, việc mua bán quyền chọn cung cấp rất nhiều công cụ để đầu cơ và
phòng hộ giá cho cộng đồng thương mại. Sự thành công của hợp đồng quyền chọn
đã mở lối cho việc ra đời quyền chọn trên vô số các hàng hoá tiêu dùng, như ngô,
đậu nành và các sản phẩm khác.
Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở nên phổ
biến hơn, lan rộng sang Anh, Brazil, Ðức, Pháp, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông
và Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã tạo ra nhu cầu liên kết điện tử
và thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách
tạo ra những sản phẩm giao dịch quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển khai một
sàn giao dịch diện tử.
Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển) và
Project A (được CBOT) phát triển. Ở Ðức, Deutsche Terminborse Exchange đã bỏ
kiểu giao dịch đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao dịch điện tử. Trên hệ
thống GLOBEX, các NĐT cá thể có thể giao dịch dựa trên chỉ số SP500, SP500
mini và NASDAQ 100 và các hợp đồng con. Các NĐT cá thể cũng có thể mua bán
ngoại hối trên GLOBEX.
Trên hệ thống Project A (hiện tại là hệ thống Eurex (Tháng 8/2000, CBOT
xây dựng Eurex, tất cả các giao dịch trên Project A đều được thực hiện tại Eurex)),
các NĐT cá thể có thể mua bán trái phiếu T-bonds và tín phiếu, quyền chọn, và tất
15
cả các sản phẩm ngũ cốc trên CBOT. Giao dịch điện tử được thiết kế để hỗ trợ việc
đấu giá mở ngoài giờ giao dịch chính thức.
Hiện nay, chủ yếu các hợp đồng quyền chọn được mua bán rộng rãi tại văn
phòng TTCK (Chicago board option Exchange–CBOE, Philadelphia Exchange–
PHLX, The American Stock Exchange–AMEX, The Pacific Stock Exchange–PSE,
The New York Stock Exchange–NYSE...). Việc mua bán dưới hình thức hợp đồng
chọn tại các văn phòng TTCK có nhiều khía cạnh giống như mua bán hợp đồng
tương lai. Văn phòng TTCK phải xác định rõ các điều kiện, mức độ, thời gian đáo
hạn và ấn định giá của hợp đồng quyền chọn được mua bán trên thị trường của
họ.Và để giảm rủi ro của việc thực hiện hợp đồng, lúc mua sản phẩm (cổ phiếu
chẳng hạn), người đầu tư mở tài khoản dự trữ bắt buộc với người môi giới của họ,
mức độ dự trữ tuỳ thuộc vào loại hàng hoá được giao dịch và tuỳ vào từng tình
huống cụ thể. Ðồng thời, cũng có những quy định để kiểm soát thị trường hợp đồng
quyền chọn, như những qui định kiểm soát ứng xử của thương nhân, của những
người tạo lập thị trường.
1.1.7 Công cụ phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn
Một trong những đặc tính hấp dẫn của quyền chọn là nó có thể tạo ra nhiều
công cụ đa dạng để tìm kiếm lợi nhuận cũng như phòng ngừa rủi ro. Các khả năng
có thể đạt được lợi nhuận đa dạng đến nỗi gần như bất kỳ một NĐT nào cũng có thể
tìm được một công cụ đáp ứng rủi ro ưa thích của mình và phù hợp với dự báo của
thị trường. Quyền chọn làm cho việc chuyển từ dự báo sang một kế hoạch hành
động đem lại lợi nhuận nếu dự đoán đúng, dĩ nhiên nếu dự báo sai thì sẽ bị thua lỗ.
Tuy nhiên với việc sử dụng quyền chọn một cách đúng đắn mức thua lỗ này sẽ khá
nhỏ và có thể hạn chế được.
1.7.1.1 Giao dịch quyền chọn mua
Có hai loại giao dịch quyền chọn mua:
a. Mua quyền chọn mua
Mua quyền chọn mua là một công cụ kinh doanh tăng giá có mức lỗ có giới
hạn (phí quyền chọn) và có mức lợi nhuận tiềm năng không giới hạn. Điều này có
16
nghĩa, mua một quyền chọn mua cho chúng ta cơ hội kiếm lợi do tăng giá không
giới hạn và hạn chế lỗ do giảm giá. Do đó, mua một quyền chọn mua là một công
cụ đặc biệt hấp dẫn đối với những người có nguồn vốn có hạn.
Hình 1.1: Mua quyền chọn mua
Với π: lợi nhuận; St: giá trị tài sản lúc đáo hạn; X: giá thực hiện; C: giá
quyền chọn mua.
Như vậy, qua hình trên cho thấy giá cổ phiếu hòa vốn khi đáo hạn bằng giá
thực hiện cộng với giá quyền chọn mua. Do đó, để hòa vốn, người mua quyền chọn
mua phải thực hiện quyền chọn ở một mức giá đủ cao để bù đắp chi phí quyền chọn.
b. Bán quyền chọn mua
Bán quyền chọn mua là công cụ kinh doanh giá xuống và mang lại lợi nhuận
có giới hạn chính là phí quyền chọn, nhưng mức lỗ thì vô hạn.
Vì lợi nhuận của người mua và người bán là các hình ảnh trái ngược nhau
nên đồ thị sẽ là:
Điểm hòa vốn
Vùng lãi
0
-C
π
X St
17
Hình 1.2: Bán quyền chọn mua
Một nhà kinh doanh quyền chọn thực hiện bán một quyền chọn mua mà
không đồng thời sở hữu cổ phiếu được gọi là bán một quyền chọn mua không được
phòng ngừa. Lý do là vì đây là một công cụ có rủi ro cao với khả năng lỗ không giới
hạn. Mặc dù vậy, công cụ này vẫn được áp dụng vì có có thể được kết hợp với công
cụ khác để tạo thành một công cụ với rủi ro thấp nhất.
1.7.1.2 Giao dịch quyền chọn bán
Giao dịch quyền chọn bán cũng có hai dạng giao dịch là mua quyền chọn bán
và bán quyền chọn bán.
a. Mua quyền chọn bán
Mua quyền chọn bán là một công cụ kinh doanh giảm giá có mức lỗ có giới
hạn (phí quyền chọn bán) và có mức lợi nhuận tiềm năng lớn nhưng có giới hạn.
Đây là một công cụ phù hợp dành cho thị trường giá xuống. Mức lỗ tiền năng được
giới hạn trong phí quyền chọn được chi trả. Lợi nhuận bị giới hạn nhưng vẫn có thể
rất lớn.
St
π
0
C
X
Điểm hòa vốn
Vùng lỗ
18
Hình 1.3: mua quyền chọn bán
Với: π: lợi nhuận; St: giá trị tài sản lúc đáo hạn; X: giá thực hiện; P: giá
quyền chọn bán
b. Bán quyền chọn bán
Bán quyền chọn bán là một công cụ kinh doanh giá lên và mức lợi nhuận có
giới hạn là phí quyền chọn và một mức lỗ tiềm năng lớn nhưng cũng có giới hạn.
Người bán quyền chọn bán có trách nhiệm mua cổ phiếu của người mua
quyền chọn bán ở mức giá thực hiện. Người bán quyền chọn bán có lợi nhuận nếu
giá cổ phiếu tăng và vì vậy quyền chọn bán không được thực hiện, trong trường hợp
đó người bán sẽ giữ hoàn toàn khoản phí. Nếu giá cổ phiếu giảm xuống đến mức
quyền chọn bán được thực hiện, người bán quyền chọn bán bắt buộc phải mua cổ
phiếu với giá cao hơn giá trị thị trường của nó.
π
0
-P
Vùng
lãi
Điểm hòa vốn
X
St
19
1.2 Điều kiện áp dụng quyền chọn trên TTCK.
1.2.1 Điều kiện về sự phát triển của TTCK
Một trong những điều kiện quan trọng để có thể áp dụng quyền chọn trên
TTCK là TTCK phải phát triển đến một mức độ nhất định thể hiện ở:
+ Số lượng công ty niêm yết nhiều và có nhiều công ty cổ phần đại chúng
lớn.
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại.
+ Chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán cao, cung cấp nhiều dịch
vụ tiện ích cho khách hàng.
+ Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán nhiều.
+ Tính thanh khoản trên TTCK cao.
+ Mức vốn hóa thị trường lớn.
Qua thời gian phát triển của TTCK các NĐT cũng sẽ trải qua nhiều rủi ro
trước những biến động khó lường của TTCK. Khi đó các NĐT sẽ phát sinh nhu cầu
bảo hiểm rủi ro và nhu cầu sử dụng quyền chọn chứng khoán để giảm thiểu rủi ro
trong kinh doanh là tất yếu. Hơn nữa khi TTCK đã phát triển thì nhu cầu về chứng
π
P
0
Vùng lỗ
Điểm hòa vốn
X
St
Hình 1.4: Bán quyền chọn bán
20
khoán phái sinh nói chung và quyền chọn chứng khoán nói riêng là cần thiết để
NĐT đa dạng hóa các kênh đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận.
Muốn có một TTCK sôi động thì điều quan trọng là phải làm sao đưa thật
nhiều hàng hóa đa dạng về chủng loại, đảm bảo về chất lượng vào thị trường nhằm
thu hút, kích thích các NĐT sử dụng năng lực của mình để kinh doanh kiếm lời dựa
trên các sản phẩm mà thị trường cung cấp.
Quyền chọn là công cụ chứng khoan phái sinh, sự tồn tại của quyền chọn phụ
thuộc tương đối vào các chứng khoán trên thị trường. Để ứng dụng giao dịch quyền
chọn, trước tiên phải có các chứng khoán trên thị trường, những loại chứng khoán
đó là cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số,… càng nhiều loại chứng khoán trên thị trường,
quyền chọn càng có cơ hội phát triển.
1.2.2 Điều kiện về pháp lý
Quyền chọn chứng khoán là một sản phẩm chứng khoán phái sinh khá phức
tạp. Vì vậy, để có thể áp dụng quyền chọn vào TTCK cần có một cơ sở pháp lý chặt
chẽ và hợp lý để có thể kiểm soát được tình hình trước khi đưa quyền chọn chứng
khoán ra thị trường.
Trên TTCK nhiều rủi ro, quyền chọn có phương thức giao dịch khá đặc biệt
đó là có sự tham gia của nhiều bên như: người mua, người bán, CTCK, công ty
niêm yết, công ty thanh toán, công ty lưu ký,… Do đó, luật pháp phải điều chỉnh
mọi hành vi của các đối tượng này để đảm bảo nghĩa vụ cũng như quyền lợi của các
bên tham gia. Cụ thể để triển khai quyền chọn chứng khoán cần có luật chứng
khoán hoàn chỉnh, bên cạnh đó cần có luật chứng khoán phái sinh và thị trường phái
sinh trong đó quy định rõ các khái niệm, qui định về quyền chọn và các giao dịch
quyền chọn; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, quyền lợi
và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia thị trường.
Do tính chất phức tạp của giao dịch quyền chọn, khiến hoạt động của công
cụ quyền chọn chứng khoán càng nhạy cảm với những hành vi gian lận, tiêu cực.
Trên thị trường này có nhiều đối tượng tham gia như: NĐT, nhà đầu cơ, nhà môi
giới…Mỗi người tham gia trên thị trường đều vì những mục đích, lợi ích và sự hiểu
21
biết khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng như khả năng
thu lợi trên hợp đồng quyền chọn là rất lớn. Đặc tính đó khiến cho thị trường phái
sinh dễ xảy ra các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động
gian lận, mua bán tay trong, gây thiệt hại các NĐT, thậm chí cho các nhà môi giới –
làm trung gian trong các hợp đồng quyền chọn. Bên cạnh đó, để thị trường quyền
chọn chứng khoán phát huy vai trò là một trong những công cụ phòng ngừa rủi ro,
tránh các hành vi tiêu cực từ mặt trái của sản phẩm phái sinh như lừa đảo, trốn thuế,
làm sai lệch thông tin, thao túng TTCK thì cần có các các quy định ràng buộc, các
yêu cầu về: Nội dung của Hợp đồng quyền chọn; Điều kiện đối với các chứng
khoán cơ sở; Quy định về giới hạn giá và số lượng hợp đồng quyền chọn giao dịch
để tránh tình trạng thao túng thị trường; Điều kiện về công bố thông tin, đảm bảo
tính chuẩn xác và minh bạch trên thị trường… Cũng cần phải có những chuẩn mực
kế toán phù hợp để điều chỉnh thực hiện những nghiệp vụ kế toán có liên quan và
thể hiện đúng trên báo cáo tài chính.
Ngoài ra cũng cần có những quy tắc, và điều lệ chuẩn mực của các Sàn Giao
dịch. Những quy tắc và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, việc bổ nhiệm các thành viên của sàn giao dịch. Từ đó,
các sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ có
các quy định cụ thể cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm các biểu mẫu,
các quy định trong hợp đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt
lệnh, ký quỹ, và thanh toán hợp đồng…. Có các quy định các điều kiện cụ thể cho
các loại cổ phiếu được phép giao dịch trên thị trường quyền chọn (như cổ phiếu của
các công ty có tỷ suất sinh lợi cao, khối lượng giao dịch đáng kể và đạt được tính
thanh khoản theo yêu cầu để duy trì việc niêm yết quyền chọn) để đảm bảo quyền
lợi cho NĐT. Cũng cần có các điều kiện, quy định những CTCK nào được phép
tham gia vào thị trường quyền chọn này dựa theo năng lực và uy tín của công ty đó.
Như vậy, để quyền chọn được ứng dụng có hiệu quả cần phải xây dựng được
khung pháp lý mang tính thực tiễn và thống nhất, hệ thống văn bản pháp luật phải
22
điều chỉnh hoạt động TTCK theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực
tiễn thị trường.
1.2.3 Điều kiện về thông tin trên thị trường
Đối với TTCK thì thông tin là một yếu tố rất nhạy cảm có tác động trực tiếp
đến giá chứng khoán. Muốn TTCK hoạt động hiệu quả thì việc cung cấp minh bạch,
đầy đủ và kịp thời các thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các thông tin này
bao gồm: thông tin vĩ mô, thông tin DN và thông tin thị trường.
Các thông tin không minh bạch có hậu quả khôn lường. Hậu quả xấu không
những chỉ có thể ảnh hưởng đến các NĐT (cả cá nhân và tổ chức) mà còn có thể
ảnh hưởng đến DN niêm yết nói riêng và TTCK nói chung. Sự thiếu minh bạch và
bình đẳng trong tiếp cận thông tin sẽ hỗ trợ cho các kiểu làm ăn chụp giật và như
thế có thể nhanh chóng hủy hoại lòng tin của NĐT và gây ảnh hưởng tiêu cực rất
lớn tới sự phát triển bền vững của thị trường.
Để đáp ứng được vấn đề minh bạch hóa thông tin thì cần phải có các quy
định cụ thể về việc công bố thông tin như: đối tượng được công bố thông tin, yêu
cầu về tính chính xác của nội dung thông tin được công bố, phương tiện và hình
thức công bố thông tin, quy định cụ thể về việc công bố thông tin định kỳ về báo
cáo tài chính của các công ty đại chúng (CTĐC) và tổ chức niêm yết, quy định cụ
thể về xử lý vi phạm trong vấn đề công bố thông tin.
Ngoài ra các thông tin cũng phải được cung cấp một các rộng rãi đưa trên
các phương tiện công bố thông tin đại chúng hoặc phương tiện công bố thông tin
của trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) hoặc SGDCK để các NĐT có thể
tiếp cận một cách đầy đủ và dễ dàng.
Các giao dịch quyền chọn đều dựa trên sự biến động giá chứng khoán cơ sở,
mà sự biến động giá chứng khoán cơ sở lại dựa vào phản ứng của NĐT trên thị
trường thông qua những thông tin nhận được. Do đó, thông tin minh bạch, đầy đủ
và kịp thời là một điều kiện để NĐT có cơ sở rõ ràng và chính xác để thực hiện các
quyết định đầu tư của mình và là điều kiện cần thiết để thị trường quyền chọn chứng
khoán phát triển.
23
1.2.4 Điều kiện về kỹ thuật
Hoạt động của TTCK phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào hệ thống máy tính.
Đặc điểm hoạt động của ngành chứng khoán là khối lượng giao dịch rất lớn với yêu
cầu thời gian đặc biệt cấp bách nên bắt buộc phải có sự hỗ trợ của máy tính, vì vậy
yêu cầu về mặt kỹ thuật là rất cao.
Điều kiện về mặt kỹ thuật cho hoạt động của TTCK nói chung và thị trường
quyền chọn nói riêng bao gồm một số yêu cầu cơ bản về kỹ thuật như: hệ thống cơ
sở hạ tầng công nghệ thông tin; kỹ thuật đặt, chuyển lệnh mua và lệnh bán; kỹ thuật
hạch toán và chuyển quyền sở hữu; kỹ thuật lưu ký chứng khoán; kỹ thuật lưu trữ
lệnh,…
Việc hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của thị trường quyền chọn.
1.2.5 Điều kiện về con người
Nhân tố con người đóng vai trò quyết định trong mọi hoat động và tất nhiên
nó quyết định sự thành công hay thất bại của việc ứng dụng quyền chọn chứng
khoán ở TTCK. Tất cả các điều kiện nói trên có thực hiện được hay không là đều do
con người. Con người để điều hành, quản lý, thực hiện nghiệp vụ, đầu tư,… Do đó,
để đáp ứng được giao dịch quyền chọn thì trước tiên phải có con người am hiểu về
TTCK cũng như các lĩnh vực liên quan đến kinh tế. Những con người am hiểu về
TTCK không chỉ là những nhà quản lý TTCK hay đội ngũ thực hiện các giao dịch
quyền chọn ở các CTCK mà cả đại đa số công chúng đầu tư. Chính công chúng đầu
tư mới là nhân tố tác động vào nguồn cầu làm cho thị trường này phát triển.
1.3. Một số kinh nghiệm của thế giới về tổ chức sàn giao dịch quyền chọn
Sự hình thành và phát triển giao dịch quyền chọn trên TTCK là một tất yếu
khách quan để phát triển TTCK. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội, luật pháp
của mỗi nước có những đặc thù riêng nên việc nghiên cứu tổ chức sàn giao dịch
quyền chọn chứng khoán trên thế giới là vấn đề cần thiết cho kinh nghiệm xây dựng
và phát triển giao dịch quền chọn chứng khoán ở Việt Nam.
1.3.1 Mô hình Mỹ
24
1.3.1.1 TTCK Mỹ
TTCK Mỹ hình thành từ năm 1790 có lịch sử phát triển hơn 200 năm. Nét
quan trọng trong cơ cấu thị trường tài chính Mỹ là việc tách rời hoạt động của
ngành ngân hàng và ngành chứng khoán. Rất ít nước trên thế giới theo mô hình của
Mỹ. Trên thực tế, việc tách rời hoạt động của hai ngành chứng khoán và ngân hàng
là sự khác biệt nổi bật trong các quy định về hoạt động của ngành chứng khoán tại
Mỹ và các nước khác. Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan
trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự
ảnh hưởng to lớn của nó đối với các TTCK khác. Điều đáng chú ý là 2/3 nghiệp vụ
giao dịch chứng khoán ở Mỹ được thực hiện trên thị trường phi tập trung, đặc biệt
là đối với các hàng hoá là trái phiếu chính phủ.
SGDCK NewYork (NYSE) là Sở giao dịch lớn nhất và lâu đời nhất nước
Mỹ. TTCK này của Mỹ còn được gọi là thị trường phố Wall - nơi phôi thai những
giao dịch đầu tiên của nước Mỹ kể từ năm 1864 và hiện là TTGDCK lớn nhất thế
giới, quản lý tới hơn 80% các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã
trở thành TTCK quốc gia.
SGDCK Mỹ (American Stock Exchange - AMEX) là TTCK tập trung lớn
thứ 2 ở Mỹ và hiện nay có khoảng 1/5 số chứng khoán của Mỹ được mua bán trên
thị trường này. Cũng tương tự như SGDCK NewYork, AMEX hoạt động theo hệ
thống đấu giá mở và các chuyên gia trên thị trường đóng vai trò quan trọng.
Bên cạnh các TTCK tập trung là các Sở giao dịch (hiện có khoảng 14 Sở
GDCK khác nhau), tại Mỹ còn có OTC rất phát triển đó là Nasdaq.
Các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Mỹ bao gồm
các ngân hàng đầu tư và các công ty môi giới:
- Các ngân hàng đầu tư: khi một công ty muốn vay vốn, công ty thường thuê
các dịch vụ của một ngân hàng đầu tư để giúp việc chào bán chứng khoán. Mặc dù
tên gọi là ngân hàng đầu tư, nhưng các ngân hàng đầu tư không phải là một ngân
hàng theo nghĩa thông thường, nó cũng không phải là một tổ chức tài chính trung
gian đứng ra nhận tiền gửi và cho vay. Những ngân hàng đầu tư nổi tiếng của Mỹ
25
gồm có Morgan Stanley, Merrill Lynch, Saiomon Brothes, First Boston Corporation
và Goldman Sachs đã rất thành công trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành không
những tại Mỹ mà cả ở các thị trường ngoài Mỹ
- Các công ty môi giới: ở Mỹ, các công ty môi giới có thể thành lập dưới bất
kỳ hình thức nào: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc hình thức
công ty hợp danh.
Có rất nhiều loại môi giới và tự doanh chứng khoán. Có rất nhiều nhà môi
giới và tự doanh nhỏ chuyên cung cấp một loại dịch vụ, cũng có những công ty môi
giới và nhà tự doanh lớn cung cấp nhiều loại dịch vụ tài chính đa dạng. Các công ty
này tham gia vào mọi hoạt động kinh doanh trên TTCK như môi giới chứng khoán,
cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán, cung cấp các dịch vụ liên quan tới bảo
lãnh phát hành, quản lý tiền cho khách hàng, nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ
liên quan tới chứng khoán.
Ủy Ban Chứng Khoán Mỹ (Securities Exchange Commission- SEC) là một
cơ quan chính phủ quản lý việc phát hành, mua bán chứng khoán. SEC là cơ quan
quản lý chính của thị trường quyền chọn Mỹ. Nhiệm vụ của SEC là nhằm bảo vệ
NĐT, duy trì thị trường bảo đảm công bằng, kỷ luật, và hiệu quả, tạo điều kiện huy
động vốn.
1.3.1.2 Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (CBOE)
a. Lịch sử hình thành và phát triển
CBOE là một trong những sàn giao dịch quyền chọn lớn nhất thế giới với
lịch sử hình thành và phát triển được tóm lược như sau:
Thời gian Sự kiện
1973 - CBOE được thành lập.
- Ngày giao dịch đầu tiên (26/04/1973) có 911 hợp đồng mua bán
được ký kết.
1975 - Hệ thống báo giá tự động được giới thiệu.
- Trung tâm thanh toán các giao dịch quyền chọn được thành lập.
- Mô hình Black-Scholes được áp dụng trong việc định giá quyền chọn.
26
1977 - Bắt đầu giao dịch quyền chọn bán.
- SEC đình chỉ việc mở rộng các giao dịch quyền chọn trong thời gian
cơ quan này xem xét lại việc phát triển quá nhanh của TTCK phái sinh.
1980 - CBOE củng cố lại công việc kinh doanh quyền chọn.
1981 - CBOE xây dựng trụ sở mới với tổng diện tích 350.000 m2 thay cho
quy mô trước đây là 45.000 m2.
1983 - CBOE tiến hành thực hiện cuộc cách mạng trong ngành giao dịch
quyền chọn bằng loại hình giao dịch chỉ số chứng khoán.
- CBOE đưa vào giao dịch quyền chọn chỉ số S&P 100 và giao dịch
quyền chọn chỉ số S&P 5.
1984 - Khối lượng giao dịch thường niên qua sàn lần đầu tiên đạt đến con số
100 triệu hợp đồng.
- CBOE khai trương hệ thống tự động thực hiện việc bán lẻ (Retail
Automatic Execution System (RAES)).
1985 - CBOE thành lập Viện nghiên cứu về Quyền chọn.
- Đưa vào giao dịch chỉ số NASDAQ.
- Quyền chọn được niêm yết trên NYSE.
1987 - TTCK rơi vào khủng hoảng kéo theo sự sụp đổ của TTCK phái sinh.
1989 - CBOE bắt đầu chuyển hướng phát triển loại hình giao dịch quyền
chọn lãi suất.
1992 - Hội đồng công nghệ quyền chọn (Options Industry Council) được
thành lập với nhiệm vụ mở rộng việc đào tạo cho những NĐT.
1993 - CBOE giới thiệu quyền chọn FLEX® - tạo ra những điều khoản cơ
bản trong hợp đồng quyền chọn.
- CBOE khai trương chỉ số VIX® - một chỉ số đo lường tính không ổn
định của thị trường
1997 - Đưa vào giao dịch chỉ số công nghiệp Down Jones.
- CBOE mua lại bộ phận kinh doanh quyền chọn của NYSE.
1998 - CBOE và ngành công nghiệp quyền chọn kỷ niệm 15 năm ngày
27
thành lập.
- Khối lượng hợp đồng quyền chọn thường niên qua CBOE vượt
ngưỡng 200 triệu hợp đồng.
2000 - SEC chấp thuận kế hoạch liên kết thị trường quyền chọn Mỹ của
CBOE.
- Số lượng các hợp đồng giao dịch lần đầu tiên vượt ngưỡng 1 triệu
hợp đồng/ngày.
- Khố lượng hợp đồng quyền chọn thường niên qua CBOE đạt 300
triệu hợp đồng.
2002 - CBOE tiếp tục mở rộng hệ thống giao dịch điện tử.
- CBOE bắt đầu phát triển hệ thống giao dịch kép, kết hợp giữa việc
mua bán thủ công trên sàn với giao dịch tự động hóa qua hệ thống điện tử.
2003 - CBOE và các sàn giao dịch khác thành công trong kế hoạch kết nối
liên thị trường.
- CBOE kỷ niệm 20 năm ngày giao dịch quyền chọn đầu tiên được
thực hiện
2005 - CBOE đạt khối lượng giao dịch mức 468.249.301 hợp đồng (tăng
30% so với năm 2004) với tổng giá trị ước tính lên đến 12.000 tỷ đô la Mỹ.
2007 - CBOE đạt khối lượng giao dịch mức 944.471.924 hợp đồng (tăng
40% so với năm 2006).
Nguồn
b. Tổ chức sàn giao dịch
− Cơ cấu tổ chức và quản lý của Sàn giao dịch chọn chứng khoán Chicago
bao gồm: Ủy ban giám sát, Ủy ban phân xử, Ủy ban kiểm tra, Ủy ban phụ trách
thành viên và Ủy ban phát triển sản phẩm. Các Ủy ban này chịu sự điều hành trực
tiếp của Chủ tịch Ủy ban phụ trách lĩnh vực mà mình quản lý. Các Ủy ban có trách
nhiệm đảm bảo việc tuân thủ các luật lệ và nguyên tắc của sàn giao dịch.
− Nhà tạo lập thị trường (Market Makers): là một cá nhân hay người được
ủy nhiệm của một tổ chức mua một seat – là vị trí giao dịch trên sàn. Nhà tạo lập thị
28
trường chịu trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của người giao dịch đối với quyền chọn.
Khi một nhà giao dịch nào đó muốn mua (bán) một quyền chọn và nếu không có
một nhà giao dịch khác muốn bán (mua) quyền chọn đó, nhà tạo lập thị trường sẽ
phải thực hiện vụ giao dịch đó. Để tồn tại, nhà tạo lập thị trường phải tạo ra lợi
nhuận bằng cách mua vào ở một mức giá và bán ra ở một mức giá cao hơn. Nếu
một cá nhân muốn trở thành nhà tạo lập thị trường, cá nhân đó phải tiến hành thủ
tục đăng ký, trải qua kỳ thi sát hạch và cuối cùng nếu vượt qua kỳ thi sát hạch người
này được Ủy ban phụ trách thành viên xác nhận là Nhà tạo lập thị trường.
− Môi giới trên sàn giao dịch (Floor Broker): Đây là một dạng kinh doanh
khác của sàn giao dịch. Nhà môi giới trên sàn thực hiện các giao dịch cho các nhà
giao dịch. Nhà môi giới trên sàn có trách nhiệm giao dịch các lệnh mà anh ta nhận
được ở các mức giá tốt nhất có thể. Để trở thành nhà môi giới trên sàn, một cá nhân
phải hoàn tất thủ tục đăng ký, trải qua kỳ thi sát hạch năng lực và nếu vượt qua kỳ
thi sát hạch người này được Ủy ban phụ trách thành viên xác nhận là Nhà môi giới.
CBOE cũng có một số nhà tạo lập thị trường chính được chỉ định, đó là những
người được phép vừa là nhà tạo lập thị trường vừa là nhà môi giới.
− Nhân viên giữ sổ lệnh (Order Book Officials): Đây là dạng kinh doanh thứ
ba của CBOE. Nhân viên giữ sổ lệnh là một nhân viên của sàn giao dịch, có chức
năng nhận và cập nhật các lệnh giới hạn (là lệnh quy định cụ thể mức giá tối đa có
thể trả để mua hoặc mức giá tối thiểu chấp nhận được để bán) của tất cả khách hàng.
Nếu các điều kiện thay đổi đến mức có ít các mức giá tốt nhất, lúc này, bằng lệnh
giới hạn, nhân viên giữ sổ lệnh sẽ thực hiện giao dịch thay cho các nhà môi giới, khi
tiếp thu các lệnh giới hạn, các nhân viên giữ sổ lệnh này sẽ thông báo giá mua thấp
nhất và giá bán cao nhất đến các nhà tạo lập thị trường. Lệnh sẽ được thực hiện khi
các điều kiện thay đổi đến mức có ít nhất một nhà tạo lập thị trường sẵn sàng chấp
nhận ở những mức giá đó.
− Nhân viên giao dịch (Floor Officials): là các thành viên hoạt động trực
thuộc các Ủy ban giám sát, có trách nhiệm giám sát, hướng dẫn các hoạt động giao
29
dịch đảm bảo đúng nguyên tắc và pháp luật, có quyền xác nhận tư cách thành viên,
kiểm tra và thông báo đến Ủy ban kiểm tra những giao dịch có dấu hiệu bất thường.
− Thư ký thành viên (Member Clerks): là những thư ký của nhà tạo lập thị
trường hay nhà môi giới trên sàn, họ có nhiệm vụ hỗ trợ và giúp đỡ việc nhận lệnh,
kiểm tra, chuyển lệnh giao dịch trên sàn.
c. Giao dịch và thanh toán
Mô hình của sàn giao dịch CBOE có thể khái quát như sau:
Hình 1.5: mô hình của sàn giao dịch CBOE
(1a) & (1b) – Người mua và Người bán chỉ thị cho người môi giới của riêng mình
tiến hành một giao dịch quyền chọn.
Người mua
Môi giới của
người mua
(1a) (6a) (7a)
Môi giới
trên sàn
của người
môi giới
của người
mua
Sàn giao
dịch
quyền
chọn
(3)
Môi giới
trên sàn
của người
môi giới
của người
bán
Môi giới của
người bán
Người bán
(1b) (6b) (7b)
2a
5a
2b
5b
Công ty
thanh toán
của người
môi giới của
người mua
Công ty
thanh toán
của người
môi giới
của người
bán
Trung tâm thanh toán
(8a) (4) (8b)
(9a) (9b)
30
(2a) & (2b) – Người môi giới của người mua và người bán yêu cầu nhà môi giới
trên sàn của công ty mình thực hiện giao dịch.
(3) – Các nhà môi giới trên sàn gặp gỡ trên sàn giao dịch quyền chọn và thống nhất
giá cả.
(4) – Thông tin về giao dịch được báo cáo cho trung tâm thanh toán bù trừ.
(5a) & (5b) – Nhà môi giới trên sàn thông báo giá cho người môi giới của người
mua và người bán.
(6a) & (6b) – Người môi giới của người bán và người mua thông báo giá về cho
người bán và người mua.
(7a) & (7b) – Người mua hoặc người bán ký gửi phí quyền chọn cho người môi
giới.
(8a) & (8b) – Người môi giới của người mua và người bán ký gửi phí quyền chọn
và tiền ký quỹ cho công ty thanh toán của mình.
(9a) & (9b) – Công ty thanh toán của người môi giới của bên mua và bên bán ký
gửi phí quyền chọn và tiền ký quỹ cho công ty thanh toán bù trừ.
Hàng ngày, các phiên giao dịch sẽ được thực hiện thông qua các hệ thống
sàn giao dịch điện tử tự động (Exchange’s Rapid Opening System) và sàn giao dịch
lai ghép (Exchange’ Hybrid Opening System). Thời hạn giao dịch phải được đảm
bảo song song với TTCK cơ sở. Trình tự giao dịch được sắp xếp thứ tự theo nguyên
tắc ưu tiên theo thời gian đáo hạn gần nhất của các hợp đồng quyền chọn. Nguyên
tắc khớp lệnh được ưu tiên cho giá tốt nhất, nếu các lệnh cùng giá thì ưu tiên cho
lệnh giới hạn được đăng ký trong sổ của nhân viên giữ sổ lệnh, sau đó là thời gian
đặt lệnh. Thời gian khớp lệnh trễ nhất là 3 giờ chiều đối với hợp đồng quyền chọn
chứng khoán và 3:15” chiều đối với các hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán.
Việc giao dịch và khớp lệnh luôn được sự giám sát và xác nhận của các nhân viên
điều hành sàn giao dịch.
Một cá nhân muốn giao dịch quyền chọn đầu tiên phải mở một tài khoản ở
công ty môi giới. Sau đó cá nhân này sẽ chỉ thị cho người môi giới mua hoặc bán
31
một quyền chọn cụ thể. Người môi giới gửi lệnh đến người môi giới sàn giao dịch
của công ty trên sàn giao dịch quyền chọn.
Một NĐT có thể đồng thời đặt nhiều dạng lệnh khác nhau nhằm ứng phó với
các tình huống khác nhau:
− Lệnh thị trường là dạng lệnh chỉ thị các nhà môi giới trên sàn giao dịch
nhận mức giá tốt nhất.
− Lệnh giới hạn là dạng lệnh quy định cụ thể mức giá cao nhất có thể trả để
mua hoặc mức giá thấp nhất chấp nhận bán. Các lệnh giới hạn có thể có giá trị cho
đến khi bị hủy hoặc có giá trị trong ngày.
− Lệnh có giá trị cho đến khi bị hủy (good-till canceled) là dạng lệnh có hiệu
lực cho đến khi bị hủy bỏ.
− Lệnh có giá trị trong ngày (day order) là dạng lệnh có hiệu lực cho đến hết
thời gian còn lại trong ngày.
− Lệnh dừng (stop order) là dạng lệnh cho phép NĐT nắm giữ một quyền
chọn riêng biệt ở mức giá thấp hơn mức giá hiện tại. Nếu giá thị trường giảm xuống
đến mức giá đã quy định, người môi giới được chỉ thị bán quyền chọn ở mức giá tốt
nhất hiện có.
− Lệnh tất cả hoặc không (all or none order) là dạng lệnh cho phép người
môi giới thực hiện một phần lệnh với giá này và phần còn lại với giá khác.
− Lệnh tất cả hoặc không, cùng giá (all or none, same price order) là dạng
lệnh yêu cầu người môi giới hoặc là thực hiện toàn bộ lệnh với cùng một mức giá
hoặc là không thực hiện lệnh. Các lệnh mua bán phải xác định nhà tạo lập thị
trường, nhà môi giới, mã chứng khoán cơ sở, loại hợp đồng quyền chọn, thời gian
đáo hạn, giá thực hiện, giá chuyển nhượng, khối lượng giao dịch, tên công ty thanh
toán thành viên và được cung cấp đến các thành viên giao dịch có liên quan trên
sàn.
Mọi giao dịch thành công trên sàn đều được thông báo đến Công ty thanh
toán bù trừ trên quyền chọn (Option Clearing Corporation - OCC). Các thông tin
bao gồm: xác nhận thành viên Công ty thanh toán có liên quan, loại hình hợp đồng,
32
loại hình chứng khoán cơ sở, giá thực hiện, thời gian đáo hạn, số lượng hợp đồng,
phí giao dịch, nhà môi giới, tài khoản giao dịch, thời gian mua bán và một số thông
tin khác.
Việc thanh toán và thực hiện hợp đồng quyền chọn cũng phải thông qua
Công ty thanh toán bù trừ trên các tài khoản giao dịch của khách hàng. Công tác
giao nhận chứng khoán cơ sở và thanh toán hợp đồng được điều chỉnh bởi các
nguyên tắc giao dịch của Công ty thanh toán bù trừ. Khi đến ngày đáo hạn hay
người sở hữu hợp đồng yêu cầu thực hiện, Công ty đề nghị khách hàng bên mua
nộp số tiền tương ứng giá trị hợp đồng đối với quyền chọn mua cổ phiếu, hoặc
chứng khoán cơ sở đối với hợp đồng quyền chọn bán, sau đó yêu cầu khách hàng
bán quyền chọn nộp cổ phiếu cơ sở hay tiền mặt tương ứng để tiến hành chuyển
giao. Nếu một bên vi phạm nghĩa vụ thực hiện chuyển giao hoặc thanh toán thì sẽ bị
Công ty xử lý theo Luật Chứng khoán và các quy định của Cục dự trữ liên bang.
c. Cơ chế giám sát
Ở Mỹ, ngành kinh doanh quyền chọn giao dịch trên sàn được quản lý theo
nhiều cấp độ. Mặc dù các quy định của liên bang và từng bang giữ vai trò lớn nhất,
ngành kinh doanh này cũng tự quản lý thông qua các quy tắc và chuẩn mực được
thiết lập bởi các sàn giao dịch và OCC. SEC là cơ quan quản lý chính của thị trường
quyền chọn ở Mỹ. SEC là một tổ chức quản lý liên bang được thiết lập và năm 1934
để giám sát lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, quyền
chọn và quỹ đầu tư. Mục tiêu chung của SEC là đảm bảo công khai, đầy đủ các
thông tin thích đáng về các khoản đầu tư được chào bán rộng rãi ra công chúng.
SEC có quyền thiết lập một số quy định, quy trình và điều tra các vụ vi phạm luật
chứng khoán liên bang. Nếu SEC tìm thấy các vi phạm, tổ chức này có thể tìm kiếm
sự hỗ trợ bắt buộc, đề nghị Bộ Tư pháp thụ lý vụ việc hoặc tự áp đặt một số hình
phạt.
Quyền quản lý của mỗi bang có thể mở rộng đến từng giao dịch chứng khoán
hoặc quyền chọn diễn ra trong phạm vi của bang đó. Các bang có giao dịch quyền
33
chọn quan trọng như Illinois và New York đã chủ động thực thi luật riêng của mình
về quy tắc của các giao dịch được tiến hành trong bang.
Với mục tiêu là bảo vệ các nhà giao dịch và đảm bảo việc tuân thủ các quy
định của luật pháp, Sàn giao dịch CBOE cũng thiết lập các bộ phận để giám sát hoạt
động trên sàn giao dịch bao gồm:
− Bộ phận giám sát thị trường: có chức năng đảm bảo tính tuân thủ luật pháp
và các nguyên tắc của việc giao dịch.
− Bộ phận kiểm tra: có chức năng kiểm tra, thanh tra, theo dõi các hiện
tượng vi phạm về tư cách hoạt động, các giao dịch bất thường của các thành viên
theo quy định của Ủy ban chứng khoán và Cục dự trữ liên bang. Các nhân viên
giám sát có thể mở các cuộc thanh tra những thành viên hoặc cá nhân vi phạm căn
cứ vào những nguồn thông tin đáng tin cậy. Kết luận của ban thanh tra sẽ được đệ
trình đến Ủy ban quản lý kinh doanh chứng khoán để cơ quan này ra quyết định xử
lý theo các hình thức: cảnh cáo, phạt, giới hạn chức năng hoạt động hoặc thậm chí
đình chỉ hoạt động của các thành viên trên sàn.
1.3.2 Mô hình Châu Âu.
1.3.2.1 Sàn giao dịch quyền chọn Châu Âu (“Euronext N.V.”)
a. Lịch sử hình thành và phát triển
Euronext là sàn giao dịch chứng khoán của nhiều nước Châu Âu, đặt trụ sở
ở Paris và có chi nhánh tại Bỉ, Pháp, Hà Lan, Bồ Ðào Nha và Anh.
Euronext được thành lập ngày 22/9/2000 sau vụ sáp nhập của Amsterdam
Stock Exchange, Brussels Stock Exchange, và Paris Bourse, để tận dụng lợi thế từ
sự nhất quán của TTTC Châu Âu. Tháng 12/2001 Euronext mua lại cổ phiếu của
Sàn giao dịch hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai London (LIFFE), sàn
giao dịch hiện nay vẫn hoạt động dưới sự điều hành của bản thân nó. Năm 2002 tập
đoàn này tiếp tục sáp nhập thêm sàn giao dịch chứng khoán Bồ Ðào Nha, Bolsa de
Valores de Lisboa e Porto (BVLP) sau đó đổi tên sàn này thành Euronext Lisbon.
Ngày 22/6/2006 Euronext đã ký hợp đồng sáp nhập vào NYSE với giá 10.2
tỷ USD. Và vào 28/3/2007 NYSE chính thức thâu tóm thành công Euronext để trở
34
thành sàn giao dịch chứng khoán toàn cầu đầu tiên trên thế giới dưới cái tên mới
NYSE Euronext, cho phép giao dịch các loại chứng khoán và công cụ phái sinh
trong suốt khoảng thời gian 21 giờ mỗi ngày.
Niêm yết trên Euronext có nhiều công ty thuộc vào nhóm những công ty
hàng đầu thế giới như Total, Royal Dutch Shell Amsterdam, France Telecom...
Hiện nay EURONEXT là TTCK xuyên quốc gia trên thế giới, cung cấp mọi
dịch vụ về giao dịch chứng khoán nhằm hỗ trợ đắc lực cho thị trường tiền mặt và
chứng khoán phái sinh ở Bỉ, Pháp, Anh, Hà Lan và Bồ Ðào Nha. EURONEXT luôn
hoạt động vì mục tiêu củng cố TTTC Châu Âu bằng cách hòa nhập các thị trường
quốc gia tạo thành một thị trường chung với tính thanh khoản và hiệu quả đạt mức
cao tối đa. Mô hình thống nhất của EURONEXT là sự kết hợp sức mạnh và tài
chính của mỗi thị trường địa phương và EURONEXT cũng minh chứng cho cách
thành công nhất để sáp nhập các TTCK đơn lẻ đó là tầm nhìn toàn cầu với các thị
trường địa phương. Mô hình này đòi hỏi phải có sự kết hợp về công nghệ, tái cơ cấu
các hoạt động trong phạm vi rộng lớn vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, hài hòa
hóa các quy tắc thị trường và kiện toàn khung pháp luật.
Trong suốt giai đoạn đầu củng cố thị trường và nâng cấp công nghệ,
EURONEXT đã không ngừng đa dạng hóa nguồn doanh thu, từ đó tạo một thế đứng
vững chắc cho Sàn châu Âu trước sự biến động mạnh mẽ của TTTC thế giới.
EURONEXT cung cấp một loạt các dịch vụ cao cấp cho khách hàng, bao gồm việc
phát hành chứng khoán ra công chúng, phương tiện giao dịch bằng tiền mặt, tài sản
phái sinh cho đến các thủ tục giao dịch như bù trừ chứng khoán thông qua
LCH.Clearnet và thanh toán chứng khoán tại các Trung tâm lưu ký địa phương.
Khách hàng của Sàn EURONEXT cũng rất đa dạng, gồm các thành viên và thể chế
tài chính trực tiếp tham gia giao dịch trên TTCK, các công ty phát hành chứng
khoán được niêm yết trên Sàn, các NĐT tổ chức và cá nhân tham gia mua bán trên
thị trường, các tổ chức khác có sử dụng công nghệ, dịch vụ và thông tin tài chính
của EURONEXT.
b. Hoạt động của Euronext N.V.
35
Euronext N.V. là sàn giao dịch xuyên quốc gia đầu tiên trên thế giới, nó cung
cấp dịch vụ liên quan đến thị trường các sản phẩm giao sau, thị trường quyền chọn
và thị trường tiền tệ tại Bỉ, Pháp, Anh, Hà Lan và Bồ Đào Nha.
Kể từ khi thành lập, Euronext N.V. đã củng cố TTTC bằng cách thống nhất
những thị trường trong từng nước trong Châu Âu. Bằng cách thực hiện việc kết hợp
này Sàn giao dịch chứng khoán Châu Âu đã phát huy được thế mạnh của từng thành
viên của nó. Điều này đã chứng minh được rằng: cách tốt nhất để hợp nhất Sàn giao
dịch chứng khoán Châu Âu là cách áp dụng tầm nhìn mang tính chất toàn cầu cho
cấp độ địa phương.
Euronext N.V. có thể đáp ứng cho khách hàng của nó những dịch vụ đa dạng
và rộng lớn. Những khách hàng của sàn giao dịch này bao gồm những tổ chức tài
chính, các công ty có chứng khoán niêm yết trên thị trường, các NĐT, các tổ chức
khác có sử dụng công nghệ, dịch vụ và thông tin của sàn giao dịch này.
Các dịch vụ của Euronext N.V. bao gồm từ môi giới chứng khoán và cung
cấp những tiện ích cho việc mua bán các chứng khoán phái sinh đến việc cung cấp
các dữ liệu trên thị trường. Sàn giao dịch này được lợi từ việc cung cấp dịch vụ
thông qua các thành viên của nó ở Châu Âu. Thêm vào đó, Sàn giao dịch này còn
cung cấp các phần mềm và các giải pháp về công nghệ thông tin cho khách hàng.
c. Tổ chức và quản lý
Cơ cấu tổ chức và quản lý của Euronext N.V. về cơ bản bao gồm Ủy ban
giám sát, Ủy ban quản lý và Ủy ban điều hành:
Ủy ban giám sát
Ủy ban giám sát đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức và quản
lý của Sàn giao dịch. Chức năng của Ủy ban giám sát là việc kiểm tra và giám sát
nhằm đảm bảo việc thực hiện những thủ tục theo đúng quy tắc, quản lý rủi ro, giải
trình cho những NĐT,... Ủy ban giám sát đảm bảo việc tuân thủ những luật lệ được
quy định bởi pháp luật Hà Lan và của những Chính phủ thành viên.
Theo luật Hà Lan, một công ty có hai cấp: Ủy ban giám sát và Ủy ban điều
hành. Ủy ban giám sát là một hội đồng độc lập bao gồm những thành viên độc lập.
36
Ủy ban giám sát kiểm tra việc thực hiện và đường lối hành động của Ủy ban điều
hành, tư vấn cho Ủy ban điều hành thực hiện nhiệm vụ của nó.
Ủy ban giám sát thông qua những quy tắc và điều lệ Sàn giao dịch. Những
quy tắc và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến nhiệm vụ, cơ cấu
tổ chức, việc bổ nhiệm, các ủy ban thành viên, tiền công và các cuộc họp.
Ủy ban giám sát ban hành bản giới thiệu sơ lược của Sàn giao dịch, bản giới
thiệu sơ lược này được thay đổi hằng năm nếu cần thiết. Theo bản giới thiệu sơ
lược, ít nhất một thành viên của Ủy ban giám sát phải thành thạo về tài chính và ít
nhất một thành viên phải có kiến thức chuyên môn về nhân sự.
Ủy ban quản lý
Ủy ban quản lý là một tập thể chịu trách nhiệm quản lý Sàn giao dịch và
được giám sát bởi Ủy ban giám sát. Ủy ban quản lý đáp ứng những chiến lược được
đề ra của Sàn giao dịch, đồng thời đặt ra những những tiêu chuẩn và thi hành những
quyết định liên quan đến quản lý. Chủ tịch Ủy ban quản lý báo cáo cho Chủ tịch Ủy
ban giám sát theo định kỳ.
Ủy ban điều hành
Ủy ban điều hành là một tập thể chịu trách nhiệm điều hành sàn giao dịch
chịu sự giám sát và quản lý bởi Ủy ban giám sát và Ủy ban quản lý. Ủy ban điều
hành bao gồm Chủ tịch Ủy ban điều hành, các thành viên của Ủy ban điều hành, các
phòng ban có liên quan đến tài chính, pháp luật, nhân sự và thông tin.
1.3.2.2 Sàn giao dịch giao sau và quyền chọn tài chính quốc tế London
(LIFFE)
a. Lịch sử hình thành và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của Sàn giao dịch giao sau và quyền chọn tài
chính quốc tế London được tóm lược như sau:
Thời gian Sự kiện
1982 Sàn giao dịch giao sau và quyền chọn tài chính quốc tế London
(London International Financial Futures and Options Exchange –
37
LIFFE) được thành lập. Ban đầu LIFFE được thành lập như là một
sàn giao dịch hợp đồng mua bán hàng hóa giao sau và quyền chọn
tài chính.
1992 LIFFE cung cấp những hợp đồng giao dịch về lãi suất đối với
những loại tiền tệ chính trên thế giới.
1993 LIFFE sát nhập với Sàn giao dịch quyền chọn London (Traded
Options Market – LTOM) để làm tăng thêm các giao dịch về quyền
chọn và phạm vi hoạt động.
1996 LIFFE sát nhập với Sàn giao dịch hàng hóa (London Commodity
Exchange – LCE) để trở thành sàn giao dịch với 3 chức năng: Giao
dịch hợp đồng mua bán hàng hóa giao sau, quyền chọn tài chính và
chứng khoán.
1998 LIFFE thiết lập một chương trình nhằm chuyển tất cả các giao
dịch của nó từ hình thức mua bán truyền thống sang sàn giao dịch
điện tử (LIFFE CONNECT®).
2000 LIFFE thông báo ý định trở thành Sàn giao dịch dẫn đầu trong
lĩnh vực kinh doanh phụ trợ.
2002 Euronext N.V. và LIFFE được kết hợp để tạo thành Sàn giao
dịch giao sau và quyền chọn tài chính quốc tế London trực thuộc
Sàn giao dịch quyền chọn Châu Âu (Euronext.liffe).
Ngày nay LIFFE trở thành một trong những sàn giao dịch các sản phẩm
chứng khoán phái sinh xuyên biên giới tinh vi nhất thế giới.
b. Nguyên tắc giao dịch:
Ngày giao dịch: LIFFE mở cửa giao dịch từ thứ 2 đến thứ 6, đóng cửa
vào thứ 7, Chủ nhật, các ngày nghỉ lễ của Vương quốc liên hiệp Anh và vào bất kỳ
ngày nào mà các giao dịch bị đình chỉ theo đạo luật năm 1971 về quan hệ tài chính
và ngân hàng. Tuy nhiên, Ủy ban giám sát có thể quyết định việc mở hay đóng cửa
Sàn giao dịch trong từng thời điểm và quyết định này phải được thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng.
38
Những hành vi bị cấm: Những người có liên quan đến bất kỳ một hoạt
động kinh doanh nào của LIFFE sẽ không được tham gia vào những giao dịch được
cho là có hại cho thị trường hoặc dẫn đến sự bất công cho các khách hàng hay
những người tham gia trên thị trường.
Tranh chấp: Nếu một hợp đồng đã được ký hay coi như đã được ký thì
nó có thể là đối tượng của việc tranh chấp. Nếu một bên bất đồng ý kiến thì bên đó
sẽ phải thông báo sự bất đồng ý kiến của mình đến nhân viên của Sàn giao dịch. Khi
đó nhân viên của Sàn giao dịch sẽ yêu cầu hai bên tham gia hợp đồng thực hiện
những công việc cần thiết để hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất.
Tư cách pháp lý để tạo nên 1 hợp đồng: Tất cả các hợp đồng phải
được thực hiện trên cở sở hợp đồng mẫu của Sàn giao dịch. Một hợp đồng sẽ không
có hiệu lực trong trường hợp một bên tham gia hợp đồng không có giấy phép giao
dịch hợp lệ.
Quyền hạn chế hay đình chỉ một giao dịch:
− Ủy ban giám sát bổ nhiệm một số thành viên có quyền hạn chế hay đình
chỉ các giao dịch. Phải có ít nhất hai thành viên được bổ nhiệm mới có quyền hạn
chế hay đình chỉ một giao dịch nhất định. Các thành viên hạn chế hay đình chỉ một
giao dịch nếu cho rằng giao dịch đó có ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của Sàn giao
dịch hoặc để duy trì tính công bằng và minh bạch của thị trường.
− Ủy ban giám sát đề ra những thủ tục nhằm hướng dẫn các thành viên thực
hiện quyền hạn chế hay đình chỉ giao dịch. Những thủ tục này cũng hướng dẫn việc
khởi động lại các giao dịch bị hạn chế hay đình chỉ này nếu chúng khả thi và các
bên tham gia giao dịch mong muốn tiếp tục thực hiện chúng.
Những điều khoản quy định áp dụng trong trường hợp khẩn cấp:
− Trong trường hợp khẩn cấp, Ủy ban giám sát có thể thực hiện tất cả các
biện pháp nhằm kiểm tra và hiệu chỉnh các giao dịch. Các biện pháp kiểm tra và
hiệu chỉnh các giao dịch bao gồm việc đình chỉ hay hạn chế các giao dịch trong một
khoản thời gian nhất định nào đó.
39
− Ủy ban giám sát bổ nhiệm một số thành viên vào Ủy ban tư vấn thị trường
(Market Advisory Committee) với mục đích giúp Ủy ban giám sát thực hiện những
biện pháp kiểm tra hiệu chỉnh các giao dịch trong trường hợp khẩn cấp.
c. Quy trình giao dịch:
Quy trình giao dịch của LIFFE có thể khái quát như sau:
Hình 1.6: Quy trình giao dịch của LIFFE
Lệnh giao dịch: Các lệnh giao dịch có thể gửi đến Sàn giao dịch từ
khi bắt đầu mở cửa đến lúc đóng cửa giao dịch. Trên LIFFE CONNECT®:
− Bỏ giá sẽ được xem là một lệnh đặt mua;
− Chào giá sẽ được xem là một lệnh bán;
− Chấp thuận được định nghĩa là việc khớp lệnh mua và bán tại hệ thống đặt
lệnh trung tâm.
Các lệnh giao dịch bao gồm các loại lệnh giao dịch sau đây:
Nhà giao dịch
Nhà môi
giới của
người
giao dịch
Phòng quản lý
hành chánh
SÀN GIAO DỊCH
QUYỀN CHỌN
Giá thỏa thuận chỉ định
cho nhà môi giới
Những
lệnh
giao
dịch
khác
Hệ thống thanh toán
40
− Đơn lệnh giới hạn: Đơn lệnh giới hạn được nhập vào sổ khớp lệnh trung
tâm và sẽ được xử lý ở mức giá được nêu rõ hoặc ở một mức giá tốt hơn. Phần còn
lại của đơn lệnh giới hạn (nếu có) vẫn có thể lưu lại tại sổ khớp lệnh trung tâm cho
đến khi nó được giao dịch hoặc bị rút lại. Tất cả đơn lệnh giao dịch sẽ tự động bị rút
lại khi Sàn giao dịch đóng cửa. Nói cách khác các đơn lệnh giới hạn có giá trị cho
đến khi bị hủy hoặc có giá trị trong ngày.
− Đơn lệnh giao dịch: Đơn lệnh giao dịch được nhập vào sổ khớp lệnh trung
tâm và sẽ được thực hiện ở các mức giá tốt nhất có tại thị trường. Số lượng chứng
khoán còn lại trong đơn lệnh giao dịch sẽ tự động bị hủy bởi Sàn giao dịch.
− Đơn lệnh giao dịch mở: Đơn lệnh giao dịch mở có thể gửi cho Sàn giao
dịch trước khi mở cửa, đơn lệnh giao dịch này sẽ được thực hiện ở mức khớp lệnh
tại thời điểm mở cửa. Trong trường hợp chỉ một phần đơn lệnh giao dịch mở được
thực hiện tại thời điểm mở cửa, thì số lượng còn lại sẽ được chuyển thành đơn lệnh
giới hạn ở mức giá khớp lệnh mở cửa của giao dịch đó.
Thực hiện giao dịch:
− Các tiêu chuẩn về lệnh giao dịch sau sẽ được xác định ưu tiên giao dịch: ưu
tiên về giá, ưu tiên về thời gian đặt lệnh, ưu tiên về tỷ lệ giao dịch và Đơn lệnh giao
dịch mở được ưu tiên hơn Đơn lệnh giới hạn.
− Khi xảy ra hiện tượng giá đấu thầu cao hơn giá chào (backwardation) hoặc
giá đấu thầu bằng giá chào (choice prices) tại thời điểm mở cửa giao dịch, Sàn giao
dịch sẽ tự động tính toán giá mà tại đó khối lượng giao dịch được thực hiện nhiều
nhất. Các lệnh thực hiện theo cách này sẽ được giao dịch tại giá bằng hoặc tốt hơn
giá nhập và các lệnh chưa được thực hiện sẽ lưu lại cho đến khi nó được giao dịch
hoặc bị rút lại.
− Chi tiết các giao dịch trên Sàn giao dịch sẽ được chuyển đến nơi đăng ký
giao dịch và đến tất cả những người tham gia đã đăng nhập vào thị trường. Tất cả
chi tiết của các giao dịch sẽ được công bố dạng vô danh.
41
− Riêng Hợp đồng giao sau và Hợp đồng quyền chọn, trong suốt thời gian
trước khi hoàn tất việc giao dịch, chi tiết về giá và khối lượng mở sẽ được công bố
đến tất cả thành viên đã đăng nhập vào thị trường.
Mất hiệu lực giao dịch:
− Sàn giao dịch có thể xóa các đơn lệnh ra khỏi sổ khớp lệnh trung tâm theo
yêu cầu của nhà giao dịch.
− Khi Sàn giao dịch xác định là một giao dịch được thực hiện với giá không
phù hợp thì Sàn giao dịch có thể tuyên bố mất hiệu lực giao dịch. Các tiêu chuẩn để
xem xét đưa ra quyết định là:
+ Mức giá mở cửa;
+ Giá của các hợp đồng tương tự;
+ Biểu đồ giá trong tháng;
+ Điều kiện thị trường hiện tại, trong đó có mức hoạt động và dao động;
+ Tốc độ thực hiện giao dịch;
+ Thông tin liên quan đến thay đổi giá trong thị trường có liên quan, công bố
dữ liệu kinh tế hoặc các tin liên quan ngay trước hoặc trong thời điểm giao dịch;
+ Lỗi kê khai;
+ Giao dịch gần thời hạn đóng cửa thị trường.
Khi một giao dịch bị tuyên bố mất hiệu lực các bên có liên quan sẽ được
thông báo bằng điện thoại hoặc tin nhắn từ Sàn giao dịch.
Hiệu chỉnh sai sót:
− Nếu có một sai sót trong việc thi hành hợp đồng, Sàn giao dịch sẽ đề nghị
biện pháp khắc phục đến các bên có liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên.
− Để có giấy chứng nhận hiệu chỉnh sai sót, các bên phải cung cấp cho Sàn
giao dịch:
+ Các bằng chứng về việc giao dịch;
+ Các Hợp đồng có liên quan;
+ Các thủ tục khai báo hiệu chỉnh sai sót được ký bởi hai bên.
42
− Sàn giao dịch cũng có thể yêu cầu các bên cung cấp thêm các thông tin
khác trong trường hợp cần thiết.
1.3.3 Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam khi ứng dụng quyền
chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam
- Xây dựng hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ: Hệ thống khung pháp lý là cơ
sở quan trọng nhất quy định nguyên tắc tổ chức và hoat động của thị trường phái
sinh và tạo nên những rào chắn bảo vệ sự lành mạnh của thị trường tài chính, đồng
thời các văn bản pháp luật cũng là cơ sở quan trọng cho dịch vụ mới ra đời. Tại các
nước trên thế giới khi triển khai ứng dụng quyền chọn chứng khoán đều phải xây
dựng được hệ thống pháp lý hoàn chỉnh. Vì vậy Việt Nam nếu muốn triển khai ứng
dùng quyền chọn chứng khoán cần phải xây dựng được khung pháp lý mang tính
thực tiễn và thống nhất, hệ thống văn bản pháp luật phải điều chỉnh hoạt động
TTCK theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực tiễn thị trường.
- Xây dựng sàn giao dịch quyền chọn từng bước từ quy mô nhỏ đến quy mô
lớn: khi một sàn giao dịch quyền chọn mới bắt đầu đi vào hoạt động thì nên có
những quy định điều kiện cụ thể cho những cổ phiếu được phép giao dịch quyền
chọn. Ban đầu nên chọn cổ phiếu của những công ty lớn, tình hình tài chính ổn
định, hoạt động kinh doanh phát triển tốt, khối lượng giao dịch nhiều và tính thanh
khoản cao. Khi sàn giao dịch quyền chọn đã đi vào hoạt động ổn định thì tiếp tục
mở rộng và phát triển quy mô của sàn giao dịch quyền chọn.
- Xây dựng hệ thống giám sát quản lý: Qua thực tế ứng dụng quyền chọn
chứng khoán tại một số nước trên thế giới, các sàn giao dịch quyền chọn chứng
khoán trên thế giới đều có ủy ban giám sát thực hiện quyền chọn cũng như các hoạt
động liên quan đến giao dịch quyền chọn. Ðặc biệt, với tình hình thực tế hiện nay,
việc ứng dụng quyền chọn chứng khoán cần có cơ chế giám sát chặt chẽ hơn. Do
vậy, khi ứng dụng quyền chọn chứng khoán trên TTCK Việt Nam, Việt Nam cần
xây dựng Ủy ban giám sát với chức năng và nhiệm vụ phù hợp với tình hình thực
tiễn tại Việt Nam.
- Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin tương thích với hoạt động của Sàn
43
giao dịch quyền chọn: Quyền chọn chứng khoán có phương thức giao dịch khá đặc
biệt và phức tạp với sự tham gia của nhiều bên do đó cần xây dựng hệ thống công
nghệ thông tin tương thích với sự phát triển hoạt động của Sàn giao dịch quyền
chọn. Việc chuyên môn hóa các chức năng của thành phần tham gia Sàn giao dịch
quyền chọn chứng khoán và ứng dụng công nghệ thông tin là xu thế tất yếu trong
quá trình phát triển của thị truờng quyền chọn.
- Nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin: Các giao dịch quyền chọn đều dựa
trên sự biến động giá chứng khoán cơ sở, mà sự biến động giá chứng khoán cơ sở
dựa vào phản ứng của các NĐT trên thị trường thông qua những thông tin nhận
được. Do đó, thông tin minh bạch là một điều kiện để NĐT có cơ sở rõ ràng và
chính xác để thực hiện các quyết định đầu tư của mình. Thiết lập các tiêu chuẩn đối
với yêu cầu công bố thông tin; bảo đảm tính minh bạch, công bằng, mở, và đáng tin
cậy của các thông tin được công bố nhằm gia tăng thêm niềm tin cho NĐT. Cũng
cần có chế tài xử lý đối với những hành vi cố tình công bố thông tin sai lệch và
thiếu trung thực nhằm trục lợi để bảo vệ lợi ích của NĐT.
- Hoàn thiện quy trình và trang bị hệ thống kỹ thuật giao dịch: Hoạt động
của TTCK nói chung và quyền chọn nói riêng phải đòi hỏi một số yêu cầu về kỹ
thuật: kỹ thuật định giá; kỹ thuật chọn phương án đầu tư; kỹ thuật đặt, chuyển lệnh
mua và lệnh bán; kỹ thuật hạch toán và chuyển quyền sở hữu; kỹ thuật lưu ký chứng
khoán; kỹ thuật lưu trữ lệnh;… Tất cả các kỹ thuật này đòi hỏi phải có quy trình và
hệ thống quản lý hiện đại,.. Chính vì vậy mà cần phải có hệ thống kỹ thuật hoàn
thiện trước khi đưa vào áp dụng các giao dịch này.
44
CHƯƠNG 2
ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN
CHỨNG KHOÁN: THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM
2.1. Quá trình phát triển của TTCK Việt Nam và sự cần thiết phải áp
dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển TTCK Việt Nam
Ngày 06/11/1993 ban nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn
được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu và xây dựng TTCK cho Việt Nam. Ngày
28/11/1996 chính phủ ban hành nghị định 75/CP về việc thành lập Ủy ban chứng
khoán Nhà nước.
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị
định số 48/CP ban hành về chứng khoán; cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định
thành lập TTGDCK đặt tại TP.HCM. TTGDCK TP.HCM được thành lập theo
Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
TTGDCK Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 8/3/2005.
2.1.1.1 Giai đoạn 2000-2005
Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành
TTGDCK TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên
vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 DN niêm yết 2 loại cổ phiếu
(REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm
yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt
vào năm 2001(chỉ số VN-Index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm
nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm
yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN-Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày
25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng
“hoảng loạn” này, trong khi nhiều NĐT tháo chạy khỏi thị trường lại thì một số
45
NĐT khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận
thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống
đến 130 điểm. Lý do chính là ít hàng hoá, các DN niêm yết cũng nhỏ, không nổi
tiếng, không hấp dẫn NĐT trong nước, trong khi "room" cũng hết.
Ngày 8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn
tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của NĐT nước ngoài được
nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự
quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa
tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế
cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Ta có thể thấy rõ điều đó thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp về TTCK giai đoạn 2000-2005
Năm
Chỉ tiêu
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số công ty
niêm yết,
ĐKGD
5 5 20 22 26 32
Mức vốn hóa
TTCK
(%/GDP)
0.28 0.34 0.48 0.39 0.64 1.21
Số lượng công
ty CK
3 8 9 11 13 14
Số lượng TK
khách hàng
2908 8774 13520 15735 21616 31316
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm
2005, tổng giá trị TTCK việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng. TTCK Việt Nam có
4.500 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng
trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản
46
giao dịch .Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của TTCK gấp đôi so với năm 2004,
huy động được 44,600 tỷ đồng, giá trị cổ phiếu so với GDP của cả nước đạt hơn
1%.
2.1.1.2. Giai đoạn 2006-2009
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho TTCK Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao
dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: SGDCK Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà
Nội và thị trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006
TTCK Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới. Và sự
bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các NĐT trong và
ngoài nước. Năm 2006, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index
tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch
Hà Nội (Hastc) tăng 152,4% .TTCK Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5
lần so đầu năm. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7%
GDP) giá trị cổ phiếu do các NĐT nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD,
chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường. Hàng ngày có khoảng 80-100 công
ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ phiếu được phát hành theo Luật DN là
chính. Trên thị trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so
với khối lượng giao dịch trên Hastc. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công
ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần
năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng
hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006. Trong khoảng từ
giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý
“đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo
phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có
thật.
Năm 2007 – năm đầu tiên Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO) và là năm chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc của Việt Nam trên nhiều lĩnh
vực. Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị
47
trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào TTTC quốc tế. Tính công
khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường. TTGDCK TPHCM
chính thức được chuyển đổi thành SGDCK TPHCM vào giữa năm 2007, đồng thời
SGDCK đã thực hiện giao dịch khớp lệnh liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước
triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng với tình hình thị trường đang phát
triển. Năm 2007 cũng là năm có sự tăng trưởng đột biến về số lượng các CTCK.
Nếu tính đến cuối năm 2006, toàn thị trường chỉ có 22 CTCK chính thức đi vào
hoạt động thì tính đến thời điểm 31/12/2007, có tổng cộng 80 CTCK được ủy ban
chứng khoán nhà nước (UBCKNN) cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 69 công
ty đã chính thức đi vào hoạt động (59 công ty hoạt động dưới hình thức công ty cổ
phần và 10 công ty trách nhiệm hữu hạn trực thuộc các NHTM cổ phần và quốc
doanh). Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường, cùng với
sự ra đời của hàng loạt các CTCK mang đến những dịch vụ tiện ích đã thu hút được
một số lượng lớn các NĐT cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, đến cuối năm
2007 toàn thị trường đã có tổng cộng 327.000 tài khoản giao dịch chứng khoán mở
tại các CTCK (tăng 279% so với cuối năm 2006). TTCK năm 2007 cũng ghi lại dấu
ấn cho những giai đoạn thăng trầm nhất định khi thị trường trải qua những biến
động trồi sụt thất thường: giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị
trường bắt đầu hạ nhiệt và điều chỉnh mạnh vào 5 tháng giữa năm, tiếp đến là một
đợt phục hồi trước khi đi vào thoái trào trong 4 tháng cuối năm. Trong 03 tháng đầu
năm giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt các cổ phiếu đều đạt
mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu năm. Yếu tố quan
trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này phải kể đến sức cầu
trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên
giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn HCM, bình quân mỗi phiên giá trị giao
dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN cũng đạt con số 300 tỷ đồng. Chỉ số VNIndex
đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt động và Hastc – Index thiết lập
mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường
đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3
48
tháng giao dịch.Tiếp đến 05 tháng giữa năm thị trường có sự điều chỉnh mạnh, các
cơ quan quản lý nhà nước cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường
bằng các biện pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm
chế sự tăng trưởng quá nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có
những đợt điều chỉnh rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong
một khoảng thời gian rất dài (từ cuối Tháng 3 đến đầu Tháng 9). Trong 04 tháng
cuối năm thị trường đã có sự hồi phục, trong hai tháng 9 và 10 giá các cổ phiếu trên
sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các mã cổ phiếu blue – chip trên
cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6 tháng giữa năm. Tuy nhiên sự
phục hồi này không duy trì được lâu, tương quan cung cầu mất cân bằng khiến 02
tháng cuối năm thị trường ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối lượng giao dịch và
giá trị giao dịch. VNIndex giảm xuống dưới ngưỡng điểm 1.000 và chỉ xoay quanh
mốc 900 điểm, với lượng chứng khoán chuyển nhượng rất hạn chế. Nhìn chung
diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên giao dịch năm 2007
có nhiều biến động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ giao động mạnh.
Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm, HASTC-Index dừng
ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được mức tăng
trưởng là 23,3%; HASTC-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào cuối
năm 2006. Năm 2007, lượng vốn hóa thị trường đạt 492.900 tỷ đồng, tương đương
khoảng 43,7% GDP
Sang năm 2008 với sự ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, TTCK
Việt Nam đã có một năm gặp rất nhiều khó khăn. Các thông tin tác động xấu tới
tâm lý NĐT chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng
lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ của ngân hàng nhà nước (NHNN), sự leo dốc
của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư
vào TTCK. Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải
can thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng
cộng trong năm 2008, UBCKNN đã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả
2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy
49
giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra
nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị
trường, kêu gọi và tạo điều kiện cho các DN niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ....
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính
phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu
quả và việc bán bớt cổ phần Nhà nước trong các DN đã cổ phần hóa (CPH), chưa kể
hàng loạt ngân hàng, CTCK, DN... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều
lệ, dẫn đến tình trạng TTCK có nguy cơ thừa "hàng". Thị giá các loại cổ phiếu sụt
giảm mạnh (nhiều mã cổ phiếu rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự
thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm
trong tâm lý các NĐT. Tính đến thời điểm 31/12/2008 chỉ số Vnindex đã giảm
605,4 điểm tương đương 65% so với thời điểm cuối năm 2007, giá trị vốn hóa thị
trường của các cổ phiếu đang niêm yết đạt hơn 225,300 tỷ đồng.
Đến năm đầu năm 2009 Cuộc khủng hoàng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu đã tác động mạnh tới Việt Nam, khiến nền kinh tế Việt Nam rơi vào suy
giảm với đáy của đợt suy giảm là quý 1/2009. Theo đó VN-Index cũng chạm đáy
trong quý 1/2009 tương ứng với đáy của sự suy giảm kinh tế, VN-Index đã rơi
xuống mức đáy 235,5 điểm. Kể từ đó cho đến cuối năm thị trường đi lên cùng sự
hồi phục của nền kinh tế. VN-Index đóng cửa năm 2009 ở mức 494 điểm, so với
đáy 235 điểm VN-Index đã tăng trưởng 110,21% kể từ đáy. Còn nếu tính theo mức
điểm thấp nhất 235 điểm và mức điểm cao nhất 633 điểm thì VN-Index đã tăng gần
170%. Đây là mức tăng mạnh nhất trong số các TTCK thế giới. Như vậy có thể nói
rằng TTCK Việt nam đã tạo đáy đi lên trong năm 2009. Năm 2009 lần đầu tiên
TTCK Việt Nam bắt đầu có sự liên hệ chặt chẽ với TTCK thế giới. Sự gắn kết biểu
hiện rõ nét nhất trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 8. Sự gắn kết này là một tín
hiệu tích cực vì nó cho thấy TTCK Việt Nam và kinh tế Việt Nam phát triển hơn và
đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới chứ không còn là thị trường nhỏ
và biệt lập. Trong năm 2009, thị trường mang nặng tâm lý bầy đàn. Biểu hiện rõ
nhất là khi tăng thì gần như toàn bộ các mã tăng và ngược lại. Khi thị trường tăng
50
mạnh thì người mua nhất là NĐT nhỏ lẻ tranh mua giá trần. Đây cũng là điều kiện
thuận lợi để cổ phiếu dễ dàng bị thao túng làm giá lên hoặc đẩy giá xuống tuy theo
mục đích. Tuy nhiên hiện nay NĐT trong nước trên thị trường đã tích lũy được
nhiều kiến thức và kinh nghiệm sau quá trình đầu tư trong những năm qua. Kinh
nghiệm cũng như kiến thức đầu tư được nâng lên sẽ giúp cho thị trường phát triển
lành mạnh và giảm rủi ro cho NĐT. NĐT nước ngoài ngày càng giảm bớt vai trò
chi phối thị trường của mình. NĐT trong nước đang trở nên chủ động và ngày càng
độc lập hơn với NĐT nước ngoài trong các quyết định đầu tư. Nếu như trước đây
các NĐT trong nước thường coi động thái mua vào bán ra của NĐT nước ngoài là
một trong những “kim chỉ nam” cho việc mua bán của mình thì năm nay điều này
đã trở nên tương đối độc lập. Sự độc lập này trước hết do NĐT trong nước đã tích
lũy được nhiều kinh nghiệm và kiến thức hơn nên có thể tự ra được quyết định đầu
tư độc lập.
Đóng cửa phiên cuối cùng của năm 2008, VN-Index dừng ở 315,62 điểm,
giảm 66% so với cuối năm 2007. Đầu năm 2009, kinh tế thế giới và trong nước tiếp
tục có diễn biến xấu khiến VN-Index kéo dài xu hướng giảm, đến ngày 24/2 chỉ còn
235,5 điểm, mức thấp nhất kể từ tháng 3/2005. Sự thua lỗ, hoảng loạn của NĐT sau
đó đã được bù đắp khi VN-Index phục hồi, đạt 624,1 điểm vào ngày 22/10. So với
ngày 24/2, VN-Index cao gấp 2,65 lần, đồng nghĩa với mức tăng 265%. Tính cả
năm, VN-Index tăng 57%, kết thúc năm ở 494,77 điểm. Sự góp mặt của các “đại
gia” mới niêm yết trên sàn chứng khoán năm 2009 đã giúp mức vốn hóa thị trường
tăng lên đáng kể..
Cộng với việc các cổ phiếu niêm yết tăng giá mạnh so với thời điểm cuối
năm 2008, thì chốt năm 2009 tổng giá trị vốn hóa thị trường giảm nhẹ, bằng khoảng
48% GDP (năm 2008).
2.1.2 Sự cần thiết của việc áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán vào
TTCK Việt Nam
2.1.2.1 Tạo ra công cụ bảo vệ lợi nhuận và đa dạng hóa cơ hội kinh doanh cho
NĐT
51
Sau 10 năm phát triển, TTCK Việt Nam đã có những dấu hiệu hết sức lo
ngại, giá các loại chứng khoán biến động phức tạp khiến nhiều NĐT thua lỗ nặng,
cầu chứng khoán suy giảm, thị trường trở nên buồn tẻ..... Giải pháp cho vấn đề ngày
như thế nào? Có biện pháp gì để bảo vệ NĐT khi giá chứng khoán liên tục giảm
hoặc giảm đột biến?
Như đã giới thiệu ở phần trên, NĐT trên TTCK có thể cố định giá bán, giá
mua chứng khoán của mình qua việc sở hữu quyền chọn. Do đó, nếu biết vận dụng
các kỹ thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các NĐT có thể bảo vệ
được lợi nhuận trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc
ứng dụng giao dịch quyền chọn đem lại cho NĐT trên TTCK Việt Nam một công
cụ đầu tư mới. Quyền chọn chứng khoán phát hành trên cơ sở cổ phiếu đã có nhằm
nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
Các quyền chọn chứng khoán sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị cổ phiếu đầu
tư hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu có thay đổi bao nhiêu thì các của các
công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Khi TTCK biến động từng
giây từng phút thì việc nắm trong tay quyền chọn chứng khoán là một biện pháp
khôn ngoan để đối phó với rủi ro.
Bên cạnh việc giúp NĐT quản lý rủi ro, quyền chọn chứng khoán cũng được
dùng để đầu cơ khi NĐT hướng về sự dao động giá trong tương lai. Ở thời điểm
hiện tại, quyền chọn chứng khoán nếu được thực hiện sẽ giúp NĐT giảm thiểu được
rủi ro. Hơn nữa, nhà đâu tư cũng chưa cần nguồn vốn lớn để thực hiện mà chỉ trả
một phần nhỏ cũng như số tiền ký quỹ nhỏ hơn giá trị hợp đồng.
Trong bối cảnh thị trường có sự biến động mạnh như hiện nay thì việc thực
hiện quyền chọn chứng khoán là rất cần thiết và có khả năng góp phần ổn định thị
trường hơn. Hiện NĐT chỉ có thể mua chứng khoán và chờ giá lên để bán kiếm lời.
Liệu có NĐT nào dám bỏ nhiều tiền để đầu tư vào một loại chứng khoán mà họ và
thị trường cho rằng nhiều khả năng chứng khoán đó sẽ giảm giá. Chính vì vậy trong
giai đoạn thị trường giảm giá, khi có yếu tố bất lợi NĐT sẽ ào ạt bán chứng khoán
ra trong khi lượng cầu rất yếu, đẩy thị trường giảm giá mạnh hơn mức cần thiết, gây
52
hoảng loạn và bất ổn tâm lý đầu tư trên thị trường. Tình trạng này đã từng xảy ra tại
Việt Nam trong thời gian qua. Nếu có quyền chọn bán NĐT sẽ không vội vã bán ồ
ạt tức thì vì gần như họ đã mua bảo hiểm về giá. Nếu chứng khoán tăng trở lại, họ
có thể không bán mà chỉ chịu mất phí (thường thấp hơn rất nhiều so với việc thực
hiện quyền). Trường hợp giá giảm hơn so với giá trong quyền chọn bán, họ sẽ bán
với giá đã ghi trong hợp đồng. Thực tế các nước cho thấy, quyền chọn rất được các
NĐT ưa chuộng bởi NĐT ít vốn cũng có thể mua quyền chọn, thay vì phải bỏ ra
khoản tiền lớn để mua chứng khoán chờ tăng giá và bán ra hưởng chênh lệch, nếu
không họ chỉ mất một khoản phí nhỏ.
Lĩnh vực chứng khoán là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm
bởi tính biến động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào
khác ngoài việc tự bảo hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ một phần
rủi ro cho thị trường bằng các công cụ phái sinh đặc biệt là sử dụng công cụ quyền
chọn chứng khoán.
2.1.2.2 Thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển
Quyền chọn chứng khoán vừa là công cụ bảo vệ lợi nhuận vừa là công cụ
giảm thiểu rủi ro hữu hiệu và đồng thời là một loại hàng hóa có thể mua bán trên
TTCK; nên khi ứng dụng giao dịch quyền chọn sẽ làm cho TTCK rất sôi động. Với
vai trò là công cụ bảo vệ lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro quyền chọn tạo tâm lý an
toàn hơn trong đầu tư vào cổ phiếu, do đó thu hút được thêm nhiều NĐT còn e ngại
về mức độ mạo hiểm, rủi ro trên TTCK mạnh dạn tham gia thị trường. Với vai trò là
một hàng hóa trên TTCK, quyền chọn chứng khoán mang đến khát khao kiếm lợi
nhuận nên khi quyền chọn được ứng dụng giao dịch, nhiều NĐT sẽ tham gia thị
trường để kinh doanh quyền chọn. Khi nhiều NĐT tham gia thị trường sẽ làm cầu
hàng hóa chứng khoán tăng. Điều này làm cho thị trường trở nên sôi động và cơ hội
phát triển, mở rộng thị trường là rất cao. Hiện nay, TTCK Việt Nam được đánh giá
là một trong những thị trường nhỏ bé nhất trên thế giới. Việc ứng dụng quyền chọn
sẽ giúp hoàn thiện dần cơ cấu hàng hóa và mang lại một vị thế mới cho TTCK Việt
Nam.
53
2.1.2.3 Tác động tích cực đến các công ty niêm yết
Để quyền chọn chứng khoán một công ty được niêm yết thì công ty đó phải
đáp ứng được những điều kiện của UBCKNN đề ra. Hơn nữa, các công ty niêm yết
không muốn thấy quyền chọn bán cổ phiếu công ty mình được mua bán liên tục bởi
vì đó là dấu hiệu cho thấy thị trường dự đoán giá cổ phiếu công ty mình sẽ đi xuống
và điều này cũng cho thấy uy tín của công ty trên thị trường đang giảm đần. Như
vậy, công ty có thể nhìn vào xu hướng giao dịch quyền chọn trên thị trường mà
nhận biết được sự đánh giá của thị trường đối với công ty mình, điều này giúp công
ty có những điều chỉnh kịp thời trong chiến lược kinh doanh để giữ uy tín của công
ty trên thị trường. Như vậy, quyền chọn giúp NĐT giám sát gián tiếp hoạt động của
các công ty niêm yết. Khi có thêm người giám sát, đòi hỏi công ty niêm yết phải nổ
lực hơn trong hoạt động kinh doanh.
2.2 Thực trạng thị trường quyền chọn ở Việt Nam thời gian qua
2.2.1 Quyền chọn ngoại tệ
Ngày 10/01/1998, trên cơ sở nhận thức sự cần thiết thúc đẩy giao dịch ngoại
hối phát triển, thống đốc NHNN đã ký quyết định 17/1998/QĐ_NHNN ban hành
quy chế giao dịch hối đoái (quyết định 17). Quy chế này đã tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM, tạo công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá
và lãi suất, đồng thời tăng cường sự quản lý và giám sát của NHNN về lĩnh vực
ngoại hối. Tuy nhiên, với quyết định này thì giao dịch ngoại hối chỉ mới được thực
hiện thông qua các công cụ giao ngay kỳ hạn và hoán đổi.
Ngày 12/02/2003, công văn số 135/NHNN-QLNH về giao dịch quyền chọn
ngoại tệ, trước tiên là quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ chính thức ra đời.
Eximbank là NHTM đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp vụ này. Trong đó, công văn
này đã quy định cụ thể nhằm triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ ở
các ngân hàng như về đối tượng tham gia, đồng tiền giao dịch, thời hạn giao dịch,
giới hạn số dư… Sau Eximbank, NHNN cũng cho phép 7 ngân hàng khác thực hiện
thí điểm nghiệp vụ này, gồm có hai ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Viet Nam
54
là Citibank, HSBC chi nhánh TPHCM và 5 ngân hàng trong nước là BIDV, ACB,
Vietcombank, ICB, và Argribank.
Sau 7 năm đi vào hoạt động, đến cuối năm 2004, quyết định 17/1998/QĐ-
NHNN đã phát sinh những hạn chế. Vì vậy, ngày 10/11/2004, thống đốc NHNN đã
ký quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về giao dịch hối đoái của các tổ chức tín
dụng để thay thế quyết định 17 và khắc phục những hạn chế này. Quyết định này có
những điểm mới như chính thức cho phép tất cả các tổ chức tín dụng được phép
thực hiện các giao dịch hối đoái đều được quyền thực hiện giao dịch quyền chọn
ngoại tệ mà không cần phải xin phép NHNN. Qua đó, thời điểm này NHNN đã
chấm dứt thời gian thí điểm nghiệp vụ này. Đồng thời, quy định kỳ hạn của giao
dịch quyền chọn giữa các ngoại tệ với nhau do tổ chức tín dụng được phép và khách
hàng tự thỏa thuận. Quy định này là một sự chuyển biến lớn trong cung cách quản
lý các hoạt động giao dịch ngoại hối giúp thị trường quyền chọn nước ta ngày càng
đa dạng hơn. Bên cạnh đó, quyết định này cho phép các cá nhân được phép tham
gia ngoài các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế, tổ chức khác. Đây thực sự là một cơ
hội cho các NĐT cá nhân có thêm một sân chơi mới trên thị trường tiền tệ.
Quyền chọn ngoại tệ là một công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, đứng trên giác độ
là người bảo hiểm, các ngân hàng khi phát hành quyển chọn rất cần có số đông
khách hàng để có thể làm trung gian cân đối hay điều hòa rủi ro giữa những người
ký kết hợp đồng quyền chọn với ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay lượng khách hàng
sử dụng nghiệp vụ quyền chọn là rất ít và trên thực tế các ngân hàng Việt Nam buộc
phải ký lại hợp đồng quyền chọn nhận được với các ngân hàng nước ngoài giống
như dạng tái bảo hiểm. Sở dĩ phải làm như vậy vì ngân hàng có số lượng khách
hàng tham gia nghiệp vụ quyền chọn quá ít và không đủ điều hòa rủi ro tỷ giá.
Thêm vào đó, số lượng ngân hàng nội địa có khả năng tham gia nghiệp vụ quyền
chọn còn ít nên việc tham gia quyền chọn với các ngân hàng nước ngoài là giải
pháp tốt nhất. Tuy nhiên, làm như vậy thì các ngân hàng Việt Nam sẽ không có lãi
vì phí quyền chọn thu được từ khách hàng lại phải đóng ở mức tương đương cho
các đối tác nước ngoài.
55
Để có quyền chọn ngoại tệ DN phải trả một mức phí cho các NHTM. Mức
phí này tùy thuộc vào từng thời điểm mà xu hướng ngoại tệ có biến động mạnh hay
không, thời gian thực hiện hợp đồng dài hay ngắn. Trong thời gian đó nếu tỉ giá
biến động có lợi cho DN thì DN thực hiện hợp đồng, còn nếu tỉ giá gây bất lợi thì
DN được quyền hủy bỏ cam kết và họ đi mua, bán ngoại tệ bên ngoài cho hiệu quả
hơn. Đương nhiên, tiền phí đã đóng DN phải chịu mất. Do chính sách tài chính quy
định chưa đầy đủ nên khoản phí mất này DN rất khó hạch toán. Vì vậy, nhiều DN
hiện nay còn lúng túng không biết phải hạch toán phí quyền chọn vào đâu thì coi là
hợp lệ. Bản thân các ngân hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Quyền chọn chứng khoán- điều kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam.pdf