Tài liệu Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum: Luận văn
Quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp để phát triển
cây công nghiệp ở tỉnh
Kon Tum
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa
điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh như trong các ngành kinh tế khác, mà
đất đai còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là tư liệu
sản xuất đặc biệt. Nhận thấy được tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất
nông nghiệp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách phù hợp trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần
thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà phát triển. Trong đó, công tác lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng,
Chính phủ được triển khai trên phạm vi cả nước và đạt được một số kết quả
nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến
năm 2005 của cả nước đã đượ...
104 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp để phát triển
cây công nghiệp ở tỉnh
Kon Tum
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa
điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh như trong các ngành kinh tế khác, mà
đất đai còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là tư liệu
sản xuất đặc biệt. Nhận thấy được tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất
nông nghiệp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách phù hợp trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần
thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà phát triển. Trong đó, công tác lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng,
Chính phủ được triển khai trên phạm vi cả nước và đạt được một số kết quả
nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến
năm 2005 của cả nước đã được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 tại kỳ họp
thứ 5, khoá XI. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đã được triển khai ở tất cả 64
tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước và được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.
Tuy nhiên, quá trình triển khai và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất vẫn còn bộc lộ một số tồn tại. Đặc biệt sau khi quy hoạch, sử dụng
đất được phê duyệt và đưa vào thực hiện, tình hình theo dõi, giám sát việc
thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập diễn ra dẫn đến tình trạng "quy hoạch
treo" hoặc không điều chỉnh kịp những biến động về sử dụng đất trong quá
trình thực thi quy hoạch tại địa phương.
Do đó, tôi lựa chọn đề tài " Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum " để nghiên cứu, khảo sát tình
hình quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thực tế trên địa bàn tỉnh Kon Tum
nhằm đưa ra những giải pháp điều chỉnh kịp thời, những nội dung sử dụng đất
nông nghiệp bất hợp lý, không phù hợp với phương án quy hoạch sử dụng đất
nông nghiệp đã được phê duyệt góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi đổi mới đến nay, ở nước ta việc nghiên cứu vấn đề đất nông
nghiệp đã có một số công trình, bài viết về vấn đề này như:
- "Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông lâm
nghiệp ở huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Cạn" của Ngô Xuân Hoàng, Luận án
tiến sĩ, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, 2003.
- "Khai thác nguồn lực đất đai để phát triển nông nghiệp tỉnh Đồng
Nai", của Bùi Thị Thuận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- "Khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát triển kinh tế hàng
hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ" của Nguyễn Tiến Khôi, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1999.
- "Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay" của Hà Công
Nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- "Quản lý sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên" của TS. Nguyễn
Thế Toàn (chủ nhiệm đề tài), Đề tài khoa học cấp bộ, 2000.
- "Thực trạng quản lý nhà nước về đất đai nông nghiệp ở Việt Nam và
kiến nghị" Nguyễn Mạnh Tuân, Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
số 7/2004.
- "Quản lý và sử dụng đất ở các nông, lâm trường các tỉnh miền núi
phía Bắc" Bùi Quang, Tài nguyên và môi trường, số 12/2004.
Đối với Kon Tum, những đề tài đi sâu vào nghiên cứu quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp chưa có công trình nào.
Do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài này hy vọng góp một phần nhỏ trong việc tìm
ra những giải pháp để phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất đai trong việc
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch,
sử dụng đất nông nghiệp; phân tích đánh giá thực trạng sử dụng đất nông
nghiệp ở Kon Tum, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy
hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.
* Nhiệm vụ:
- Khái quát, hệ thống hoá lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp của tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nhằm quy hoạch, sử dụng có hiệu quả đất
nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum trong thời gian
tới.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công
nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, như phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá khoa học, trong đó đặc
biệt coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê, nghiên cứu và tổng
kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp từng bước hoàn thiện quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở Kon Tum trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ QUY HOẠCH, SỬ DỤNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. ĐẤT NÔNG NGHIỆP, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Đất nông nghiệp và đặc điểm của đất nông nghiệp
* Khái niệm đất nông nghiệp:
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản
xuất chủ yếu và đặc biệt là của sản xuất nông nghiệp, là một trong các yếu tố
quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, và quốc phòng; có ý nghĩa kinh tế,
chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như
vậy, đất đai được dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời
sống. Theo từng ngành sản xuất, từng lĩnh vực của đời sống, đất đai được
phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo ngành, lĩnh vực chung được sử
dụng.
Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản
hoặc để sử dụng nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi đất
nông nghiệp, đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp còn được gọi là ruộng đất.
Khi nói đất nông nghiệp người ta nói đất được sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai được sử
dụng vào những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất
đai được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông nghiệp mới
được coi là đất nông nghiệp nếu không là các loại đất khác (tuỳ theo việc sử
dụng vào mục đích nào là chính). Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ hợp lý ruộng
đất, trên thực tế người ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt động sản xuất
nông nghiệp mà không cần có sự đầu tư nào lớn cả là đất nông nghiệp cho dù
đất đó đã đưa vào sản xuất nông nghiệp hay chưa.
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu của đất đai, tại Điều 13 luật đất
đai năm 2003 có ghi:
* Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất:
- Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào
chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác.
- Đất trồng cây lâu năm.
- Đất rừng sản xuất.
- Đất rừng phòng hộ.
- Đất rừng đặc dụng.
- Đất nuôi trồng thuỷ sản.
- Đất làm muối.
- Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
Như vậy, có thể hiểu đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào
sản xuất của ngành nông nghiệp bao gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng
cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất
nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khai thác theo quy định
của Chính phủ.
* Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp:
Ở mỗi quốc gia đất đai đều được sử dụng vào nhiều mục đích khác
nhau, riêng đất nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, được biểu
hiện cụ thể:
Một là, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu.
Đất nông nghiệp là tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt không thể thay thế được của ngành nông - lâm nghiệp. Nó là cơ sở tự
nhiên là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã từng chỉ rõ:
"đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi
hoạt động của loài người" [24, tr.473].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định "đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và là nguồn vốn to lớn của đất nước" [8,
tr.61].
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ
yếu và đặc biệt không thể thay thế được. Vì đất nông nghiệp vừa là tư liệu lao
động vừa là đối tượng lao động. Đối với các loại đất chuyên dùng khác thì đất
đai chỉ là đối tượng lao động, con người phải sử dụng tư liệu lao động để tác
động vào tạo ra sản phẩm.
Đất nông nghiệp là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ
sản xuất tác động vào đất làm cho đất thay đổi hình dạng, như cày, bừa, lên
luống... quá trình đó làm tăng chất lượng của ruộng đất, tạo điều kiện thuận
lợi để tăng năng suất và chất lượng cây trồng. Ngược lại, khi con người sử
dụng công cụ sản xuất tác động lên đất, thông qua các thuộc tính lý học, hoá
học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để tác dụng lên cây trồng.
Trong quá trình này đất nông nghiệp đóng vai trò là tư liệu lao động. Sự kết
hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho đất nông nghiệp
trở thành tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp.
Hai là, đất nông nghiệp có vị trí cố định và không thể di chuyển được.
Đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng là tài nguyên thiên nhiên
không sinh sản được. Bởi vì, không giống như vốn, chúng không thể sản sinh
thêm thông qua quá trình sản xuất. Đất nông nghiệp có vị trí cố định không di
chuyển được và có khả năng tái tạo được.
Các tư liệu sản xuất khác có thể di chuyển đến những nơi thiếu và cần
thiết, nhưng hầu hết đều không có khả năng tái tạo lại được. Ngược lại, đất
nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng lại có vị trí cố định không thể
di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, nó gắn liền với điều kiện tự nhiên,
điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi vùng. Đặc tính này đồng thời nó quy định tính
giới hạn về quy mô theo không gian gắn liền với môi trường mà đất đai chịu sự
chi phối, gắn liền với nguồn gốc hình thành của đất đai, địa hình, khí hậu, kết
cấu đất, độ màu mỡ, vị trí của đất... vị trí của đất nông nghiệp có ý nghĩa lớn về
mặt kinh tế trong quá trình khai thác sử dụng đất. Thông thường, đất nông
nghiệp ở gần các khu đô thị, thuận tiện về giao thông thường được khai thác sử
dụng triệt để hơn đất đai ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, và do đó vị trí đất mang
lại cho đất nông nghiệp đặc tính xã hội là có giá trị sử dụng lớn hơn.
Mặt khác, cùng với xu thế đô thị hoá ngày càng nhanh, chủ thể sử dụng
đất có xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các mục
đích khác để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn. Quá trình này làm cho diện
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Ở Việt Nam xu hướng này đã và
đang diễn ra ngày một nhanh chóng, trong 10 năm từ năm 1990 - 2000 đất
trồng lúa nước ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ bị giảm
không có diện tích bù đã lên tới 62.612ha thường là ruộng lúa tốt [4, tr.15].
Đặc điểm này đòi hỏi để sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, cần kết
hợp sức lao động với các tư liệu sản xuất khác một cách hợp lý. Muốn thế,
một mặt phải quy hoạch đồng bộ các khu vực canh tác đất nông nghiệp, bố trí
các trung tâm dịch vụ và phân bố các điểm dân cư hợp lý; mặt khác, phải cải
thiện điều kiện tự nhiên, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu
hạ tầng nhằm tạo điều kiện sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, nâng cao
đời sống nông dân và từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn.
Ba là, đất nông nghiệp bị giới hạn về mặt diện tích, nhưng sức sản xuất
của nó lại là không giới hạn.
Do đặc điểm tự nhiên của đất đai quy định, cho nên diện tích đất nông
nghiệp đưa vào canh tác luôn bị giới hạn bởi không gian nhất định, bao gồm:
giới hạn tuyệt đối và giới hạn tương đối. Xét trên góc độ giới hạn tuyệt đối
thì diện tích đất đai của toàn bộ hành tinh, của từng quốc gia, của từng địa
phương là những con số hữu hạn, có thể lượng hoá bằng những con số cụ thể.
Ví dụ, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Kon Tum là 961.450ha của cả nước
Việt Nam là 32.924,1 nghìn ha [4, tr.5], tổng diện tích đất có tiềm năng sản
xuất nông nghiệp của thế giới là khoảng 3.200 triệu ha, trong đó có 46% đang
được canh tác [15, tr.17]. Theo tính toán của Liên hợp quốc, có khoản 23%
diện tích trên toàn thế giới là sa mạc hoặc đất cằn, 20% là nửa khô cằn,
khoảng 80 triệu người sống ở những vùng đất hầu như không sử dụng được vì
xói mòn, bãi cát hoặc ngập mặn.
Không phải tất cả diện tích tự nhiên đều đưa vào canh tác được, tùy
thuộc vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kinh tế của từng
nước mà diện tích đất nông nghiệp đưa vào canh tác chỉ chiếm tỷ lệ phần trăm
thích hợp. Đó là giới hạn tương đối, giới hạn này nhỏ hơn nhiều so với tổng
quỹ đất tự nhiên bởi tác động của yếu tố đất đai, khí hậu, thời tiết đa dạng,
phức tạp dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp mang
tính khu vực và tính thời vụ rõ rệt.
Ở nước ta tỷ lệ đất nông nghiệp so với tổng quỹ đất tự nhiên năm 2000
chiếm 28,38%, có khả năng đưa lên tối đa là 35% với tổng diện tích tự nhiên
329.241km2, Việt Nam là nước có quy mô trung bình, xếp thứ 66 trong tổng
số trên 200 nước, nhưng là nước đông dân thứ 13 thế giới nên bình quân đất
đai theo đầu người rất thấp, chỉ bằng 1/6 mức bình quân của thế giới (0,45ha),
đứng hàng thứ 8 Đông Nam Á và thứ 170 trong số trên 200 nước trên thế
giới [4, tr.5].
Trong những năm gần đây, quỹ đất nông nghiệp ở nước ta đã có những
biến động đáng kể theo hướng tăng lên từ mức xấp xỉ 7 triệu ha năm 1990 lên
9.345.200 ha vào năm 2000. Nhưng đó chủ yếu là sự gia tăng mạnh về diện
tích đất trồng cây lâu năm ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên lên mức
1.467.951, chiếm 67,3% diện tích trồng cây lâu năm của cả nước, còn diện
tích trồng lúa lại giảm xuống. Việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp luôn
chịu ảnh hưởng của giới hạn về diện tích đất tự nhiên, nhất là những vùng hay
khu vực có quỹ đất tự nhiên gần như đã được đưa vào khai thác và sử dụng
hết thì việc mở rộng diện tích tự nhiên gặp rất nhiều trở ngại. Mặt khác,
không phải toàn bộ diện tích đất tự nhiên đều có thể dễ dàng chuyển hoá
thành đất nông nghiệp. Trên thực tế, việc chuyển hoá đất tự nhiên thành đất
nông nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố như địa hình, kết cấu của đất,
điều kiện canh tác, khả năng tưới tiêu...
Tuy nhiên, dù bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của
đất nông nghiệp lại không có giới hạn, nghĩa là trên mỗi đơn vị diện tích
đất nông nghiệp, nếu không ngừng tăng cường đầu tư vốn, sức lao động,
đưa khoa học và công nghệ mới vào sản xuất thì số lượng sản phẩm đem
lại trên một đơn vị sản phẩm là ngày càng nhiều hơn và chất lượng hơn.
Đây là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
và phát triển kinh tế nông thôn nhằm đáp ứng yêu cầu tăng lên về nông sản
phẩm cung cấp cho xã hội.
Adam Smith đã viết: "đất, trong hầu hết các tình huống, sản sinh ra một
lượng lương thực nhiều hơn so với số lượng đủ để duy trì sự sống của người
lao động" [1, tr.240].
Như vậy, xét về tổng thể, quỹ đất tự nhiên nói chung và quỹ đất nông
nghiệp nói riêng luôn bị giới hạn về mặt diện tích, trong khi đó nhu cầu về
nông sản phẩm của con người ngày càng tăng lên. Do đó, phải sử dụng đất
nông nghiệp hết sức tiết kiệm và xem xét kỹ lưỡng hợp lý khi bố trí sử dụng
các loại đất. Mặt khác, phải chú ý ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng khả năng
phục hồi và tái tạo của đất đai.
Bốn là, đất nông nghiệp vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của
lao động.
Đất nông nghiệp vốn là sản phẩm của tự nhiên, nó xuất hiện và tồn tại
ngoài ý muốn của con người. Đất nông nghiệp được hình thành do quá trình
phong hoá đá và sự tác động của vi sinh vật, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... và
do con người tiến hành khai phá, đưa vào sử dụng nhằm phục vụ lợi ích của
con người. Trong quá trình lịch sử lâu dài đó, lao động của con người qua
nhiều thế hệ đã được kết tinh vào đó. Do đó, ngày nay đất nông nghiệp vừa là
sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động.
C.Mác viết: "Tuy có những thuộc tính như nhau, nhưng một đám đất
được canh tác có giá trị hơn một đám đất bị bỏ hoang" [24, tr.246].
Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng con người cần phải không
ngừng cải tạo và bồi dưỡng, đồng thời phải khai thác đất nông nghiệp cho hợp
lý làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn. Thực tế cho thấy, đất đai là tư liệu sản
xuất chủ yếu không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì
đất đai ngày càng tốt hơn. Việc sử hợp lý ruộng đất hay không là tuỳ thuộc
vào quá trình sử dụng có kết hợp chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng ruộng đất
với việc bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo đất đai hay không. Vì thế trong quá trình
sử dụng đất nông nghiệp phải tìm mọi biện pháp để bảo vệ đất, chống xói
mòn, rửa trôi. Phải thường xuyên coi trọng công tác bồi dưỡng và cải tạo đất
làm tăng độ phì nhiêu của đất đai.
Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước, với tư cách là đại
diện cho quyền sở hữu đó, thông qua hệ thống chính sách, pháp luật để thực
hiện việc giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất đối với các tổ chức và các hộ
gia đình và cá nhân có nhu cầu. Qua đó thực hiện việc quy hoạch sử dụng đất
đai một cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả khuyến khích người lao động định
hướng, lựa chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp.
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "quyền sử dụng đất là hàng
hoá đặc biệt. Chính sách đất đai phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, người đầu tư và
người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của nhà nước,
của xã hội..." [9, tr.61].
Như vậy, việc Đảng và Nhà nước ta thừa nhận quyền sử dụng đất là
một hàng hoá đặc biệt đã tạo cho lĩnh vực nông nghiệp có bước phát triển
mới. Nó đòi hỏi người sản xuất nông nghiệp phải sử dụng đất hợp lý, tiết
kiệm để đem lại hiệu quả cao nhất.
Năm là, đất nông nghiệp có chất lượng không đồng đều
Đất nông nghiệp không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa
các yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Đó là kết quả một mặt là của quá trình
hình thành đất, mặt khác quan trọng hơn là quá trình canh tác của con người.
Độ màu mỡ của đất nông nghiệp nói lên khả năng cung cấp dinh dưỡng cho
cây trồng. Con người không những chỉ sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất,
mà còn có khả năng làm tăng thêm độ màu mỡ của đất. Ngược lại, nếu sử
dụng không hợp lý thì làm giảm độ màu mỡ của tự nhiên. Thực tế này đã diễn
ra ở một số vùng miền núi và trung du nước ta. Ở những vùng này, trước đây
con người chỉ lợi dụng độ màu mỡ tự nhiên vốn có của đất đai để canh tác,
không chú ý bồi dưỡng, cải tạo nên đất bị bạc màu, một số diện tích trước đây
có độ màu mỡ cao nay đã kiệt quệ.
Vì vậy, trong quá trình sử dụng, khai thác đất nông nghiệp cần thiết
phải thường xuyên cải tạo và bồi dưỡng cho đất, không ngừng nâng cao
độ đồng đều của đất nông nghiệp ở từng cánh đồng, từng khu vực để đạt
năng suất cây trồng cao. Nó đòi hỏi người sản xuất phải xác định tỷ lệ về
các nguồn lực tương xứng một cách hợp lý như vốn, nhân lực, loại cây
trồng vật nuôi... có như vậy thì mới có thể đem lại được hiệu quả kinh tế
cao cho mình.
C.Mác viết: "Ưu thế của đất là những khoản đầu tư liên tiếp có thể đem
lại lợi nhuận mà không làm thiệt hại đến những khoản đầu tư trước, ưu thế đó
của đất đồng thời cũng bao hàm cả khả năng có những sự chênh lệch trong
sản phẩm của những khoản đầu tư liên tiếp ấy" [24, tr.1845].
Điều này có nghĩa là việc nâng cao chất lượng, độ phì nhiêu, độ đồng đều
của đất là điều cần thiết để vừa không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng
nông sản, lại vừa bảo vệ đất, giữ cho đất được sử dụng lâu dài và bền vững.
Mặt khác, không phải bất kỳ trường hợp nào cũng cần đến việc nâng
cao độ đồng đều, trong một số trường hợp xuất phát từ đặc điểm chất lượng
đất phân bố không đồng đều, mỗi loại đất ở những vị trí nhất định lại chịu sự
chi phối của các đặc tính tự nhiên của vị trí, dẫn đến nó chỉ cho phép trồng
trọt hay chăn nuôi những loại cây trồng và vật nuôi thích hợp. Từ đó, ở những
nơi có chất lượng đất đặc biệt cần phải chuyên canh những loại cây trồng và
vật nuôi thích hợp nhất, để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, nhằm khai thác
tối đa lợi thế so sánh có được.
1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến toàn bộ
hoạt động sản xuất của ngành nông nghiệp. Vai trò này thể hiện ở những nội
dung sau đây:
* Đất nông nghiệp là một điều kiện tối cần thiết cho hoạt động kinh tế
nông thôn
Từ xa xưa đến nay, hoạt động kinh tế của nông dân chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp. Để sản xuất, họ phải sử dụng công cụ lao động tác động vào đất
đai. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng không thể thiếu được đối
với người nông dân. Nếu không có đất để sản xuất thì không thể có bất cứ
một nền nông nghiệp nào. Điều này đúng với mọi thời đại.
Đất đai là tặng vật của tự nhiên cho con người. Nhờ có đất mà nông
dân đã sản xuất ra lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu của họ, gia
đình và của cả xã hội. Trong điều kiện kinh tế nông nghiệp, đất đai đã trở
thành tư liệu sản xuất quan trọng nhất và là điều kiện sống còn đối với
hoạt động sản xuất nông nghiệp của người nông dân. Người nông dân
không thể tiến hành sản xuất nông nghiệp nếu như không có đất. Đất nông
nghiệp là điều kiện tối cần thiết để người nông dân đem kết hợp nó với
sức lao động sẵn có của mình để tạo ra sản phẩm nông sản Điều này có
nghĩa là họ không thể sống được nếu không được hưởng lợi do việc sử
dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, đất nông nghiệp là một tư liệu sản xuất
không thể thiếu đối với bất kỳ người nông dân nào.
* Đất nông nghiệp là một nguồn lực đầu vào đặc biệt quan trọng của
sản xuất nông nghiệp
Nguồn lực là tất cả các nguồn tài nguyên đang được sử dụng hoặc có
thể được sử dụng vào sản xuất của cải vật chất hoặc dịch vụ. Về mặt kinh tế,
các yếu tố nguồn lực của sản xuất là phạm trù kinh tế dùng để chỉ những
nguồn tài nguyên thiên nhiên, kinh tế và xã hội đã, đang và sẽ được sử dụng
vào hoạt động kinh tế để tạo ra của cải vật chất hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu
nhất định của xã hội.
Khi nói đến vai trò của đất đai, C.Mác viết: "đất là không gian, yếu tố
cần thiết của tất thảy mọi sự sản xuất và mọi hoạt động của loài người"
[24, tr.474]. Cũng như đối với sản xuất nói chung, sản xuất nông nghiệp tất
yếu cần đến sự tham gia của đất đai.
Thật vậy, để có được nông sản, cần phải kết hợp hai yếu tố sức lao
động với tư liệu sản xuất, trong đó quan trọng nhất và cũng là nhân tố không
thể thiếu được của tư liệu sản xuất là đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp không
chỉ thuần tuý là tư liệu sản xuất, mà là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt. Nó là
một trong những nhân tố quyết định đến giá trị của nông phẩm hàng hoá sản
xuất ra.
Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp có tính đặc thù cao so với các ngành
sản xuất khác. Đó là ngành sản xuất dựa trên mối quan hệ của các cơ thể sinh
vật sống với môi trường, tuân theo các quy luật sinh học và chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi điều kiện ngoại cảnh. Đặc biệt, đất nông nghiệp vừa là nơi cư
ngụ của các sinh vật sống, vừa là nơi cung cấp nước, chất dinh dưỡng, vừa là
môi trường cho mọi hoạt động sống, sinh trưởng, phát triển của các sinh vật
sinh sống diễn ra. Nếu không có đất hoặc thiếu đất thì mọi hoạt động sinh học
đó không thể diễn ra một cách bình thường.
Như vậy, đất nông nghiệp là một trong những nguồn lực đầu vào quan
trọng không thể thiếu được của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực nông nghiệp. Tất nhiên, trong hoạt động kinh tế, con người có thể
làm tăng độ phì của đất, có thể tìm kiếm, lựa chọn cây trồng, vật nuôi thích
hợp để làm tăng và phát huy vai trò của đất nông nghiệp trong sản xuất. Nếu
không có phương thức canh tác hợp lý thì các tiềm năng của đất nông nghiệp
không trở thành hiện thực tức là không thể phát huy được vai trò của nó đối
với sản xuất của con người.
* Đất nông nghiệp là một nhân tố tự nhiên đặc biệt quan trọng trong
việc xây dựng cơ cấu kinh tế
Việc phát hiện ra đặc tính của từng loại đất có ý nghĩa quan trọng trong
phân bổ đất đai giữa các ngành nông nghiệp, qua đó xây dựng cơ cấu nông
nghiệp hợp lý.
Trong sản xuất nông nghiệp có câu thành ngữ "đất nào cây ấy". Tức
là mỗi loại đất đều có một thành phần cơ giới nhất định, được tạo nên từ
các loại đá mẹ nhất định. Từ đó, các loại đất khác nhau có độ phì khác
nhau, thành phần các nguyên tố đa lượng, vi lượng chứa đựng trong chúng
là khác nhau, đặc tính thấm hút nước, độ tơi xốp cũng khác nhau. Cho nên,
từng loại đất chỉ phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi nhất định. Chỉ
trong điều kiện được canh tác trên loại đất phù hợp với đặc tính sinh lý,
sinh hoá của cây trồng, vật nuôi thì chúng mới có thể cho thu hoạch sản
phẩm năng suất cao, chất lượng tốt. Đặc biệt, là đối với cây trồng sử dụng
trực tiếp các chất dinh dưỡng có sẵn trong đất để sinh trưởng và phát triển.
Do vậy, việc phát hiện ra đặc tính của các loại đất khác nhau có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc lựa chọn và phân bổ đất đai trong quá
trình canh tác. Từ đó, mới có thể xây dựng một cơ cấu kinh tế nông nghiệp
hợp lý, tận dụng có hiệu quả các tiềm năng sẵn có của đất đai nhằm phát triển
một nền nông nghiệp hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất nông nghiệp
- Về điều kiện tự nhiên:
Khi sử dụng đất nông nghiệp, ngoài bề mặt không gian (diện tích
trồng trọt), cần lưu ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật
sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất (nhiệt độ,
ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng sản dưới lòng đất). Trong
đó, điều kiện tự nhiên, khí hậu là yếu tố hạn chế hàng đầu của việc sử dụng
đất đai, sau đó là điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng) và các
yếu tố khác.
* Yếu tố khí hậu:
Yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và
điều kiện sinh hoạt của con người. Sự khác nhau về nhiệt độ, độ ẩm trong
ngày, giữa các mùa mưa trong năm hay các khu vực khác nhau... trực tiếp ảnh
hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, rừng tự
nhiên... Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu sáng dài hay ngắn
cũng có tác dụng nhất định đối với sinh trưởng, phát triển và quang hợp của
cây trồng. Chế độ nước, lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý
nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất đai, cũng như khả
năng đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, thảm thực vật,
gia súc và thuỷ sản...
* Điều kiện đất đai:
Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ
dốc và sự xói mòn mặt đất... thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí
hậu, từ đó làm ảnh hưởng tới sản xuất và phân bố các ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp, hình thành sự phân dị địa giới theo chiều thẳng đứng đối với
nông nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng lớn đến phương thức sử dụng
đất nông nghiệp. Điều kiện thổ nhưỡng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản
xuất nông nghiệp. Độ phì nhiêu của đất là tiêu chí quan trọng về sản lượng
cao hay thấp. Độ dầy của tầng đất và tính chất đất có ảnh hưởng lớn đối với
sinh trưởng cây trồng.
Vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ,
nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công
dụng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng
đất nông nghiệp cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt
hiệu quả cao nhất về kinh tế.
- Về điều kiện kinh tế - xã hội:
Điều kiện kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định chủ đạo đối với
việc sử dụng đất nông nghiệp. Phương hướng sử dụng đất nông nghiệp được
quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất
định. Điều kiện tự nhiên của đất nông nghiệp cho phép xác định khả năng
thích ứng về phương thức sử dụng đất nông nghiệp. Còn sử dụng đất như thế
nào được quyết định bởi sự năng động của con người và các điều kiện kinh tế
- xã hội, kỹ thuật hiện có; quyết định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kinh tế
kỹ thuật và bởi nhu cầu của thị trường.
Trong phạm vi một vùng, điều kiện vật chất tự nhiên của đất nông
nghiệp thường có sự khác biệt không lớn, về cơ bản là giống nhau. Nhưng
với điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, dẫn đến tình trạng có vùng đất
nông nghiệp được khai thác sử dụng triệt để từ lâu đời và đã đem lại những
hiệu quả kinh tế xã hội rất cao; ngược lại, có nơi bị bỏ hoang hoá hoặc khai
thác với hiệu quả rất thấp... Có thể nhận thấy, điều kiện tự nhiên của đất
nông nghiệp chỉ là một tồn tại khách quan, khai thác và sử dụng đất nông
nghiệp yếu tố quyết định vẫn là con người. Dù điều kiện tự nhiên có nhiều
lợi thế, nhưng các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật không tương ứng, thì
ưu thế tài nguyên cũng khó trở thành sức sản xuất hiện thực, cũng như
chuyển hoá thành ưu thế kinh tế. Ngược lại, điều kiện kinh tế, kỹ thuật được
ứng dụng vào khai thác và sử dụng đất, sẽ phát huy mạnh mẽ tiềm lực sản
xuất của đất nông nghiệp, biến điều kiện tự nhiên từ bất lợi thành có lợi
cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Về không gian:
Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất, đều cần đến
đất đai như điều kiện không gian để hoạt động. Không gian, bao gồm cả vị trí
và mặt bằng. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh cửu của
tự nhiên ban phát cho xã hội loài người.
Không gian mà đất nông nghiệp cung cấp có đặc tính vĩnh cửu và
cố định, vị trí khi sử dụng và số lượng sử dụng không thể vượt quá quy
mô hiện có. Do vị trí không gian của đất nông nghiệp không thể bị mất đi
và cũng không tăng thêm trong quá trình sử dụng, nên phần nào đã giới
hạn sức tải nhân khẩu và số lượng lao động. Có nghĩa tác dụng hạn chế
của không gian đất nông nghiệp luôn xảy ra trong khi dân số và kinh tế xã
hội luôn phát triển.
Sự bất biến của tổng diện tích đất nông nghiệp không chỉ hạn chế khả
năng mở rộng không gian sử dụng đất, mà còn chi phối giới hạn thay đổi của
cơ cấu đất đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại,
số lượng được sử dụng căn cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã
hội nhằm đảm bảo lực tải của đất nông nghiệp.
Việc khẳng định chuyển được của đất nông nghiệp dẫn đến việc phân
bố về số lượng và chất lượng đất đai mang tính khu vực rất chặt chẽ. Cùng
với mật độ dân số của các khu vực khác nhau, tỷ lệ cơ cấu và lượng đầu tư
sẽ có sự khác biệt rõ rệt. Tài nguyên đất nông nghiệp có hạn, lại giới hạn
về không gian, đây là nhân tố hạn chế lớn nhất đối với việc sử dụng đất
nông nghiệp ở nước ta. Vì vậy, cần phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc
sử dụng đất nông nghiệp hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết hợp bảo vệ tài
nguyên đất và môi trường.
1.2. QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
"Đất đai" là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất,
mảnh đất, miếng đất...) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự
nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất,
thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá
tính...), tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích
khác nhau. Như vậy, để sử dụng đất nông nghiệp trước hết cần phải làm quy
hoạch, đây là quá trình nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm xác định ý nghĩa
mục đích từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nông nghiệp
nhất định.
Về mặt bản chất, đất nông nghiệp là đối tượng của các mối quan hệ sản
xuất trong lĩnh vực sử dụng đất (gọi là các mối quan hệ đất đai) và việc tổ
chức sử dụng đất nông nghiệp như "tư liệu sản xuất đặc biệt" gắn chặt với
phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp sẽ là
một hiện tượng kinh tế - xã hội thể hiện đồng thời 3 tính chất: kinh tế (thể
hiện bằng hiệu quả sử dụng đất), kỹ thuật (bao gồm các tác nghiệp chuyên
môn kỹ thuật: điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định xử lý số
liệu...) và pháp chế (xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất
nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất nông nghiệp theo pháp luật).
Từ đó, có thể đưa ra định nghĩa: "quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp
là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, pháp chế của nhà nước về tổ chức,
sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất
thông qua việc phân bổ quỹ đất nông nghiệp (khoanh định cho các mục đích)
và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất (các giải pháp sử dụng đất nông
nghiệp cụ thể), nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo
vệ đất đai và môi trường".
Như vậy, về thực chất quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp là quá trình
hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền
vững để mang lại lợi ích kinh tế cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng:
điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất nông nghiệp như tư
liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết
hợp với bảo vệ đất đai và môi trường.
Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ. Quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các
ngành trên địa bàn lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp chi
tiết của mình. Xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà
nước về đất đai; làm cơ sở để tiến hành giao cấp đất và đầu tư để phát triển
sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá -
xã hội.
Mặt khác, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp còn là biện pháp hữu
hiệu của nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất nông nghiệp theo đúng
mục đích, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển
mục đích tuỳ tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm
nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); ngăn chặn
các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng
sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản
xuất, phát triển kinh tế - xã hội và các hậu quả khó lường về những tình hình
bất ổn định chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là trong
giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường.
1.2.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp thuộc loại quy hoạch có tính lịch
sử - xã hội, tính khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung hạn và dài
hạn, là bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội
và kinh tế quốc dân. Các đặc điểm của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp
được thể hiện cụ thể như sau:
- Tính lịch sử - xã hội :
Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát triển của quy
hoạch, sử dụng đất đai. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phương
thức sản xuất của xã hội thể hiện theo hai mặt: lực lượng sản xuất (mối
quan hệ giữa người với sức hoặc vật tự nhiên trong quá trình sản xuất) và
quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất).
Trong quy hoạch sử dụng đất luôn nảy sinh quan hệ giữa người với đất đai
- là sức tự nhiên (như điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế...) cũng như
quan hệ giữa người với người (nhận bằng văn bản về sở hữu và quyền sử
dụng đất giữa những người chủ đất). Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp
thể hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vừa là
yếu tố thúc đẩy các mối quan hệ sản xuất, vì vậy nó luôn là một bộ phận
của phương thức sản xuất của xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp mang tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng
về mặt pháp lý (là phương tiện mở rộng, củng cố, bảo vệ quyền tư hữu đất
đai: phân chia, tập trung đất đai để mua bán, phát canh thu tô...). Ở nước ta
quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp phục vụ nhu cầu của người sử dụng đất
và quyền lợi của toàn xã hội. Góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất xã
hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, quy hoạch sử dụng đất nông
nghiệp góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế, xã
hội và môi trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất, cũng như mâu thuẫn
giữa các lợi ích trên với nhau.
- Tính tổng hợp :
Tính tổng hợp của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp biểu hiện chủ
yếu ở hai mặt; đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo
vệ... toàn bộ tài nguyên đất nông nghiệp cho nhu cầu của nền kinh tế quốc
dân. Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa
học, kinh tế và xã hội như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số, sản
xuất nông nghiệp, môi trường sinh thái...
Với đặc điểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu
cầu sử dụng đất; điều hoà các mâu thuẫn về đất đai, xác định và điều phối
phương hướng, phương thức phân bố sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh
tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt
tốc độ cao và ổn định.
- Tính dài hạn :
Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh
tế xã hội quan trọng (sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ kỹ thuật; đô thị hoá,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp...), từ đó xác định quy hoạch trung
và dài hạn về đất đai, đề ra các phương hướng, chính sách và biện pháp có
tính chiến lược, tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất
nông nghiệp hàng năm và dài hạn.
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội. Cơ cấu và phương thức sử dụng đất, được điều chỉnh từng
bước trong thời gian dài (cùng với quá trình phát triển dài hạn kinh tế - xã
hội) cho đến khi đạt được mục tiêu dự kiến. Thời hạn (xác định phương
hướng, chính sách và biện pháp sử dụng đất nông nghiệp để phát triển kinh tế
và hoạt động xã hội) của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thường từ 5
năm đến 10 năm hoặc lâu hơn.
- Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô :
Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp chỉ
dự kiến trước được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ cấu và
phân bổ sử dụng đất (mang tính đại thể, không dự kiến được các hình thức và
nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông
nghiệp là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy hoạch mang
tính vĩ mô tính phương hướng và khái lược về sử dụng đất nông nghiệp như:
+ Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng
đất nông nghiệp trong vùng.
+ Cân đối tổng quát nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp.
+ Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp và phân bố đất nông
nghiệp trong vùng.
+ Phân định ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất nông
nghiệp trong vùng.
+ Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của
phương hướng sử dụng đất nông nghiệp.
Do khoảng thời gian dự báo tương đối dài, chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược
hoá, quy hoạch sẽ càng ổn định.
- Tính chính sách:
Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thể hiện rất mạnh đặc tính chính
trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính
sách và quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thể
hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tuân thủ các quy định, các chỉ tiêu khống
chế về dân số, đất đai và môi trường sinh thái.
- Tính khả biến :
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước, chỉ là một trong
những giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp
hơn cho việc phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát
triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay
đổi, các dự kiến của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp không còn phù hợp.
Việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực
hiện là cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp luôn là quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều
xoắn ốc "quy hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực
hiện..." với chất lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao.
1.2.2. Những căn cứ pháp lý của quy hoạch sử dụng đất
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - dịch
vụ - nông nghiệp đã và đang gây áp lực ngày càng lớn đối với đất đai (bình
quân mỗi năm phải chuyển khoảng 30.000 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp có
rừng sang mục đích khác).
Kinh nghiệm thực tiễn cùng với đổi mới tư duy và nhận thức đã trả lại
cho đất đai giá trị đích thực vốn có của nó. Luật đất đai năm 1993 nhấn mạnh
"đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu vực
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng".
Với ý nghĩa đó việc sử dụng hợp lý đất đai liên quan chặt chẽ tới mọi
hoạt động của từng ngành và từng lĩnh vực, quyết định đến hiệu quả sản xuất.
Do đó, Đảng và Nhà nước nước ta luôn coi đây vấn đề bức xúc, cần được
quan tâm hàng đầu.
Ý chí của toàn Đảng, toàn dân về vấn đề đất đai thể hiện rõ trong các
văn bản pháp luật như hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật. Những văn
bản này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, giúp giải quyết về mặt nguyên tắc những vấn đề đặt ra.
- Sự cần thiết về mặt pháp lý phải lập ra quy hoạch sử dụng đất :
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1991 đã
khẳng định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân", "nhà nước thống nhất quản lý
đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có
hiệu quả " (chương II, Điều 18).
Điều 1 luật đất đai năm 1993 sửa đổi, bổ sung cũng nêu rõ "đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý".
Điều 13 luật đất đai xác định một trong những nội dung quản lý nhà
nước về đất đai là "quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất".
Điều 19 luật đất đai khẳng định "căn cứ để quyết định giao đất, cho
thuê đất là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xét duyệt".
Nghị quyết số 01/1997/QH9 Quốc hội khoá 9, kỳ họp thứ 11 (tháng
4/1997) và kế hoạch sử dụng đất cả nước năm 2000 và đẩy mạnh công tác quy
hoạch sử dụng đất các cấp trong cả nước...
Nghị định số 68/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ về quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai.
Luật đất đai năm 2003 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua cũng dành hẳn một mục gần
10 điều quy định các nội dung về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (mục 2 - từ
điều 21 đến điều 30).
Như vậy, để sử dụng và quản lý đất đai (thuộc sở hữu toàn dân, là tư
liệu sản xuất đặc biệt) một cách tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả nhất thì cần
phải có sự quy hoạch đất đai đồng bộ.
- Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất:
Điều 15 (luật đất đai năm 2003) quy định rõ trách nhiệm lập quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất đai theo các cấp lãnh thổ hành chính.
Chính phủ tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
của cả nước.
Uỷ ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) tổ chức thực hiện việc lập
quy hoạch theo lãnh thổ hành chính - trừ trường hợp các đơn vị hành chính
cấp dưới thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị). Trình hội đồng nhân dân
thông qua trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyển xét duyệt.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được trình đồng thời với kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất :
Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước do
chính phủ trình.
Chính phủ xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xét duyệt quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp.
Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất xã không thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị.
1.2.3. Quy hoạch sử dụng đất và sự nghiệp công nghiệp hoá nông
nghiệp nông thôn
Do đặc thù nền kinh tế nước ta, vấn đề công nghiệp hoá nông nghiệp và
nông thôn có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá nông thôn là quá trình phát triển
kinh tế - xã hội mà nội dung chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội ở
nông thôn gắn liền với công nghệ theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Nói
cách khác, công nghiệp hoá nông thôn là quá trình áp dụng phương tiện vật
chất - kỹ thuật, phương pháp sản xuất công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp
trên địa bàn ở nông thôn. Về mặt hình thức, công nghiệp hoá nông thôn được
biểu hiện trên các mặt sau:
Phát triển cơ sở hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, cung cấp năng lượng, bưu
chính viễn thông, giáo dục, đào tạo, y tế...) cho sản xuất nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
Áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông
thôn (sử dụng máy móc trong các khâu làm đất, tưới tiêu, vận chuyển, bảo
quản chế biến, sử dụng giống mới, phương pháp canh tác tiên tiến).
Phát triển công nghiệp (bao gồm cả xây dựng) và dịch vụ ở nông thôn
gồm, các ngành gắn với đầu vào cũng như đầu ra của nông nghiệp (như sản
xuất và sửa chữa nông cụ, sản xuất nguyên liệu), các ngành tận dụng lao
động, vốn tay nghề ở nông thôn để sản xuất ra các mặt hàng tiêu dùng và xuất
khẩu.
Quy hoạch sử dụng đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, đặc
biệt là cấp huyện, xã với nội dung: phân bổ đất đai phù hợp với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn chiếm
vị trí quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông
thôn. Trong nông nghiệp tăng cường đầu tư vào thuỷ lợi hoá, điện khí hoá và
ứng dụng công nghệ sinh học cải thiện môi trường sinh thái, hướng vào thâm
canh tăng vụ là chính và mở thêm diện tích ở những nơi có điều kiện. Để đảm
bảo mục tiên an ninh lương thực quốc gia, cần xác định, diện tích lúa nước
phải duy trì, bảo vệ, tập trung đầu tư thâm canh, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ hành chính các
cấp có nhiệm vụ tạo cơ sở, căn cứ để thực hiện chương trình trồng mức 5 triệu
ha rừng giai đoạn 1998 - 2010.
Nền nông nghiệp nước ta đã bước sang giai đoạn sản xuất dư thừa so
với nhu cầu và sức mua ở trong nước. Vì vậy, phương thức chủ đạo là vừa
nâng cao sức mua trong nước vừa tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để thực
hiện nhiệm vụ đặt ra, cần lựa chọn đúng những sản phẩm có ưu thế của nền
nông nghiệp nước ta, tập trung đầu tư thích đáng cả về ứng dụng sinh học và
công nghiệp chế biến nhằm tạo ra một số hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có
chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nghị quyết Trung
ương 4 Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ nội dung quan trọng trong công nghiệp
hoá nông nghiệp và nông thôn là phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp và nông thôn, điều này đòi hỏi quy hoạch sử dụng đất
phải giữ vai trò tích cực để thực hiện nhiệm vụ này.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỂ PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC
QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG
NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
- Vị trí địa lý:
Kon Tum là tỉnh miền núi vùng cao, biên giới, nằm ở phía Bắc Tây
Nguyên 107020'15" đến 108032'30" kinh độ đông và từ 13055'10" đến
15027'15" vĩ độ bắc. Có diện tích tự nhiên là 9.614,5 km2, chiếm 2,92% diện
tích toàn quốc, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp Quảng Ngãi,
phía Tây giáp Lào và Campuchia.
Nằm ở vùng ngã ba Đông Dương và là nơi hội tụ của các quốc lộ:
QL40, QL14, QL24; Kon Tum cách không xa khu vực phát triển miền trung
(200 - 300km) là khu vực nằm trong chiến lược phát triển vùng và hệ thống
cảng biển miền trung (khu công nghiệp Liên Chiểu, Dung Quất, khu kinh tế
mở Chu Lai) được nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới. Mặt khác, cửa khẩu
Bờ Y - Ngọc Hồi sau khi được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế, kết hợp với
việc xây dựng và cải tạo các tuyến quốc lộ (QL40, QL24, QL14) sẽ tạo cho địa
bàn tỉnh trở thành khu vực khởi đầu hội nhập, một địa điểm trung chuyển quan
trọng trên tuyến thương mại quốc tế nối Mianma - Đông Bắc Thái Lan - Nam
Lào với khu vực Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ. Là
tuyến hành lang thương mại Đông Tây ngắn nhất thông qua cửa khẩu quốc tế Bờ
Y.
- Địa hình :
Phần lớn tỉnh Kon Tum nằm ở phía Tây dãy Trường Sơn, địa hình thấp
dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Địa hình của tỉnh Kon Tum khá
đa dạng: đồi núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau. Trong đó:
+ Địa hình đồi, núi: chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, bao gồm
những đồi núi liền dải có độ dốc 150 trở lên. Các núi ở Kon Tum do cấu tạo
bởi đá biến chất nên có dạng khối như khối Ngọc Linh (có đỉnh Ngọc Linh
cao 2.598m) nơi bắt nguồn của nhiều con sông chảy về Quảng Nam, Đà Nẵng
như sông Thu Bồn, Vu Gia. Địa hình núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía
Bắc - Tây Bắc chạy sang phía Đông tỉnh Kon Tum. Mặt địa hình bị phân cách
hiểm trở, tạo thành các thung lũng hẹp, khe, suối. Địa hình đồi chủ yếu tập
trung ở huyện Sa Thầy có dạng nghiêng về phía Tây và thấp dần về phía Tây
nam, xen kẽ giữa vùng đồi là dãy núi chư Mon Ray.
+ Địa hình thung lũng: nằm dọc theo sông Pô Kô đi về phía nam của
tỉnh, có dạng lòng máng thấp dần về phía nam, theo thung lũng có những đồi
lượn sóng như Đắk Uy, Đắk Hà và có nhiều chỗ bề mặt bằng phẳng như vùng
thị xã Kon Tum.
+ Địa hình cao nguyên: tỉnh Kon Tum có cao nguyên Konp Long nằm
giữa dãy An Khê và dãy Ngọc Linh có độ cao 1.100 - 1.300m, đây là cao
nguyên nhỏ, chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.
- Khí hậu:
Kon Tum thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Nhiệt độ
trung bình trong năm dao động trong khoảng 22-230C, biên độ nhiệt độ dao
động trong ngày 8-90C.
Kon Tum có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa chủ yếu bắt đầu từ tháng 1 đến
tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình
hàng năm khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất là 2.260 mm, năm thấp
nhất 1.234 mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa khô, gió chủ
yếu theo hướng Đông Bắc; mùa mưa gió chủ yếu theo hướng Tây Nam.
Độ ẩm trung bình hàng năm dao động trong khoảng 78-87%. Độ ẩm
không khí tháng cao nhất là tháng 8-9 (khoảng 90%) tháng thấp nhất là
tháng 3 (66%) [19, tr.30].
- Tài nguyên đất:
Tài nguyên đất của tỉnh Kon Tum được chia thành 5 nhóm với 17 loại
đất chính:
+ Nhóm đất phù sa: diện tích 15.670 ha chiếm 1,63% tổng diện tích tự
nhiên bố trí chủ yếu ven sông suối rải rác ở các huyện thị.
+ Nhóm đất xám: diện tích khoảng 10.442 ha chiếm 1,09% diện tích
đất tự nhiên, phân bổ ở hầu hết các huyện, thị.
+ Nhóm đất đỏ vàng: diện tích khoảng 483.570 ha, chiếm 50,3% diện
tích đất tự nhiên phân bố trên địa hình đồi núi dốc chia cắt mạnh, độ dầy tầng
biến động theo địa hình.
+ Nhóm đất mùn vàng trên núi: Diện tích khoảng 437.330 ha chiếm
45,48% diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở vùng núi có độ cao trên 1000m
thuộc các huyện Đắk Glei, Đăk Tô, Kon Plong.
+ Nhóm đất thung lũng: Nhóm đất này toàn tỉnh chỉ có một loại chính
là đất thung lũng có sản phẩm dốc tụ, diện tích ít khoảng 3.400 ha, chiếm
0,35% tổng diện tích đất tự nhiên [19, tr.30]
Như vậy, diện tích có tầng đất mỏng ở Kon Tum chiếm tỷ lệ rất lớn, hàm
lượng dinh dưỡng của các nhóm đất chính đa phần là trung bình hoặc nghèo, độ
chua, độ bazơ thấp. Đất có khả năng nông nghiệp chủ yếu là loại đất xám trên
phù sa cổ, đất xám trên macma axit, đất phù sa được bồi và đất phù sa có tầng
loang lổ. Ở một số vùng có tầng dày canh tác rất phù hợp với phát triển cây công
nghiệp dài ngày (huyện Đắk Hà, Đắk Tô, Ngọc Hồi, thị xã Kon Tum).
- Tài nguyên nước:
+ Nguồn nước mặt: chủ yếu là sông, suối bắt nguồn từ phía bắc và
Đông Bắc của tỉnh Kon Tum, thường có lòng dốc, thung lũng hẹp, nước chảy
siết, bao gồm hai nhánh chính là Pô Kô và Đắkbla cùng hệ thống sông suối
khe nhỏ dày đặc tạo dòng Sê San với tổng lượng dòng chảy rất lớn xấp xỉ 10 -
11 tỷ m3 hàng năm.
Ngoài hệ thống các sông suối, nguồn nước mặt còn được dự trữ ở hệ
thống các hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện, trong đó phải kể đến hồ thuỷ điện
YaLy, có diện tích bề mặt rất lớn với dung tích trên 1 tỷ m3.
Như vậy, nguồn nước mặt là rất lớn nhưng có tới 80% lượng mưa tập
trung vào các tháng mùa mưa, hơn nữa hệ thống sông suối nhỏ, hẹp, có nhiều
thác ghềnh, sườn dốc đứng nên khả năng giữ nước hạn chế. Vì vậy, việc sử
dụng nguồn nước mặt phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong mùa khô là rất
khó khăn, cần phải xây dựng các công trình thuỷ lợi kết hợp với thuỷ điện
đảm bảo sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
+ Nguồn nước ngầm: Theo số liệu của liên đoàn thuỷ văn Miền Nam,
nguồn nước ngầm của tỉnh được phân bố ở độ sâu từ 10 - 25 m, đặc biệt ở
độ sâu 60m - 300m có trữ lượng tương đối lớn. Lưu lượng từ các lỗ khoan
từ 1 - 3 l/s, chất lượng nước tốt về thành phần hoá học, về thành phần sinh
học còn nhiễm bẩn, nhưng nhìn chung chất lượng đạt các tiêu chuẩn quy định.
Ngoài ra, huyện Đăk Tô, Kon Plong còn có 9 điểm có nước khoáng nóng, có
khả năng khai thác, sử dụng làm nước giải khát và chữa bệnh [19, tr.30].
- Tài nguyên rừng, thực vật rừng:
Đến năm 2005, diện tích đất lâm nghiệp của Kon Tum là 662.872,67 ha
chiếm 65,5% diện tích đất tự nhiên. Tổng trữ lượng gỗ vào khoảng 54 triệu m3,
trong đó rừng gỗ có khoảng 46 triệu m3. Rừng Kon Tum có nhiều loại gỗ quý
như trắc, cẩm lai, hương, thông... Động vật rừng phong phú đa dạng có voi, hổ,
beo, gấu, bò rừng... Ngoài ra, rừng Kon Tum còn là nơi chứa nhiều nguồn gen
động thực vật quý hiếm, mang tính dạng học có giá trị và ý nghĩa rất lớn cho
công tác nghiên cứu khoa học, điển hình là cây sâm Ngọc Linh [19, tr.32]
- Tài nguyên khoáng sản:
Là tỉnh có nhiều mỏ và điểm quặng, theo số liệu điều tra sơ bộ trên địa
bàn toàn tỉnh có 214 mỏ và điểm quặng và khoáng sản, nguồn khoáng sản đa
dạng phong phú, có tới 40 loại với các loại hình nguồn gốc khác nhau: vàng
gốc, vàng khoáng, quặng nhôm, đá quý...
Tuy nhiên, cho tới nay mức độ điều tra địa chất còn sơ lược. Để có thể
khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản có hiệu quả kinh tế cao cần được
nhanh chóng đầu tư, điều tra, thăm dò đánh giá chính xác chất lượng, trữ
lượng trên diện rộng, cũng như tập trung vào khai thác một số tài nguyên
khoáng sản có nhu cầu trước mắt như đá quý, vàng sa khoáng, vàng gốc, đất
sét, đá xây dựng...
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Là một tỉnh nghèo miền núi, vùng cao biên giới sản xuất nông - lâm
nghiệp là chủ yếu. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, tỉnh Kon Tum đã đề ra đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đúng đắn. Từ đó, đã phát huy được tiềm năng, thế mạnh của địa phương đưa
nền kinh tế của tỉnh đi vào ổn định, đang đà phát triển và đạt được một số
thành tựu đáng kể. Điều này được thể hiện qua bảng 2.1.
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm tỉnh Kon Tum phân theo khu vực kinh tế [5]
(Đơn vị tính: Triệu đồng, tính theo giá gốc 1994)
Năm Tổng số Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Công nghiệp
và xây dựng Dịch vụ
1995 485.616 272.244 46.738 166.634
1997 584.018 342.194 66.359 210.544
1999 706.077 405.299 79.665 221.113
2001 843.943 437.830 143.830 262.865
2003 1.056.894 545.088 194.037 317.769
2005 1.268.263 626.000 232.593 409.670
Qua bảng 2.1 cho thấy quy mô tăng trưởng, giá trị tổng sản phẩm của
tỉnh không ngừng tăng lên. Nếu năm 1995 tổng sản phẩm tỉnh Kon Tum đạt
485.616 triệu đồng thì đến năm 2005 đạt 1.268.263 triệu đồng.
Trong sản xuất nông nghiệp, tập trung phát triển sản xuất theo hướng
sản xuất hàng hoá và đã có những chuyển biến tích cực. Cụ thể là tổng sản
phẩm khu vực nông nghiệp và thuỷ sản tăng từ 272.244 triệu đồng năm 1995
lên 626.000 triệu đồng năm 2005.
Công nghiệp và xây dựng tăng trưởng cao đã có những đóng góp đáng
kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương góp phần làm tăng nguồn
thu ngân sách và giải quyết việc làm cho người lao động. Năm 1995 tổng sản
phẩm khu vực công nghiệp và dịch vụ là 46.738 triệu đồng đến năm 2005 đã
tăng lên 232.593 triệu đồng.
Ngành thương mại dịch vụ những năm gần đây phát triển đa dạng, đảm
bảo yêu cầu tăng trưởng kinh tế, lưu thông vật tư hàng hoá, dịch vụ phát triển
phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân trên địa bàn về số
lượng, chất lượng và chủng loại. Tốc độ tăng của ngành thương mại dịch vụ
là rất cao từ 166.634 triệu đồng năm 1995 lên 409.670 triệu đồng năm 2005.
Trong những năm qua tổng sản phẩm của tỉnh Kon Tum luôn tăng cao,
trong giai đoạn 2000 - 2005 tăng bình quân năm là 11%, trong đó tỷ trọng
ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 15,69% lên 19,04% thương mại - dịch
vụ tăng từ 38,05% lên 38,58%; nông lâm thuỷ sản từ 45,89% giảm xuống
42,38% [5].
* Thực trạng kết cấu hạ tầng:
- Về giao thông:
Mạng lưới giao thông đường bộ thời gian qua đã được quan tâm đầu tư
nâng cấp, nhờ đó chất lượng phục vụ của các công trình giao thông đã được
nâng lên. Mạng lưới giao thông liên huyện, liên xã và các tuyến nội thị, thị
trấn, giao thông nông thôn cơ bản đáp ứng được nhu cầu đi lại. Đến năm 2005
toàn tỉnh 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã.
Hiện nay toàn tỉnh có 3.444,6 km đường giao thông bộ, trong đó quốc
lộ 389,3 km, tỉnh lộ 353 km và 2702,3 km là đường huyện, thôn xã và nội
đồng. Nhìn chung hệ thống đường giao thông bộ của tỉnh chất lượng còn thấp,
việc đi lại vào mùa mưa gặp rất nhiều khó khăn.
Mạng lưới giao thông đường thuỷ ít, khó khai thác do hệ thống sông
nhỏ hẹp, dốc, nước chảy siết nhiều thác ghềnh. Hiện tại chỉ có thể khai thác
giao thông đường thuỷ thuận lợi từ sông Đăk Bla đi lòng hồ Yaly.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn hai đường băng của hai sân bay được xây
dựng từ trước năm 1975, sử dụng cho mục đích quân sự. Hiện tại chỉ sử dụng
được cho máy bay trực thăng, chưa khai thác phục vụ cho máy bay dân dụng.
- Về thuỷ lợi:
Công tác thuỷ lợi của tỉnh trong những năm qua đã có những bước phát
triển khá nhanh. Tỉnh đã xây dựng được nhiều công trình, với những quy mô
phương án kỹ thuật phức tạp, diện tích tưới của các công trình không ngừng
tăng lên, đóng góp một phần quan trọng đối với phát triển sản xuất nông
nghiệp. Toàn tỉnh hiện có 29 công trình xây dựng cơ bản, 130 công trình tiểu
nông và hàng trăm công trình tạm, đảm bảo tưới cho 14.490 ha đất gieo trồng.
- Về giáo dục và đào tạo:
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển và đạt được nhiều kết
quả. Quy mô các ngành học, bậc học được mở rộng; tỷ lệ học sinh huy động
đến lớp đạt cao; đã khắc phục cơ bản tình trạng thiếu giáo viên ở vùng sâu,
vùng xa; chất lượng dạy và học được nâng lên một bước. Đến năm 2005:
100% số xã, phường được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và 26,31% số
xã, phường được công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở [5, tr.200]
Hoạt động khoa học - công nghệ đã tập trung nghiên cứu chuyển giao
ứng dụng các thành tựu khoa học trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp, xúc tiến
nghiên cứu các đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; bước đầu
tiến hành điều tra, khảo sát, nghiên cứu một số loại khoáng sản.
- Về y tế:
Công tác y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân có bước tiến bộ.
Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được tăng cường về cơ sở vật chất, trang thiết bị
và đội ngũ y, bác sĩ (81% số xã có trạm y tế kiên cố, bán kiên cố; 48% số xã
có bác sĩ). Đến năm 2005 toàn tỉnh có 114 cơ sở y tế, trong đó có 8 bệnh viện;
9 phòng khám đa khoa khu vực; 1 bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức
năng: 92 trạm y tế xã phường và 1 trại phong. Tổng số giường bệnh là 1.400
và 1.200 cán bộ biên chế ngành y tế [5, tr.205].
- Về văn hoá - thể thao:
Nhiều công trình văn hoá, phúc lợi xã hội được đầu tư xây dựng. Các di
tích lịch sử, văn hoá được bảo vệ và từng bước được tôn tạo. Văn hoá vật thể,
phi vật thể đặc sắc của các dân tộc thiểu số được khôi phục và phát triển.
Công tác phát thanh - truyền hình, nhất là chương trình bằng tiếng dân tộc
thiểu số (Ba Na, Xê Đăng, Jẻ Triêng) được duy trì và nâng dần về chất lượng.
Phong trào thể dục thể thao, rèn luyện sức khoẻ có nhiều tiến bộ. Đến nay
100% số hộ được phủ sóng phát thanh; 85% số hộ được phủ sóng truyền hình;
100% số xã được cấp phát Báo Nhân dân, Báo Kon Tum.
* Thực trạng phát triển đô thị:
Toàn tỉnh có 1 thị xã và 8 thị trấn, hệ thống đô thị này giữ vai trò quan
trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nó tạo ra tổng sản phẩm
cho tỉnh rất lớn, phản chiếu sinh động sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thị xã Kon Tum là đô thị hạt nhân lớn nhất (cấp IV) của hệ thống đô
thị trong tỉnh. Trong những năm qua đã có chuyển biến lớn về quy mô dân số
đô thị, về khôi phục xây dựng phát triển, mở rộng đô thị theo hướng hiện đại
và bền vững.
Các thị trấn chỉ mang tính chất hành chính, ít mang màu sắc của đô thị
công nghiệp, chưa có các trung tâm thương mại lớn, chỉ có một số ít các cơ sở
tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ tồn tại, một số cơ sở về chế biến và các điểm
dịch vụ.
Trong những năm gần đây các cấp, các ngành đã quan tâm đến việc đầu
tư phát triển hệ thống đô thị, song còn gặp nhiều khó khăn về vốn và kinh
nghiệm, do đó công tác quản lý đô thị chưa theo kịp tốc độ đô thị hoá.
*Thực trạng phát triển khu dân cư nông thôn:
Do nền kinh tế có trình độ thấp kém, cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm,
nên các điểm dân cư nông thôn vẫn phân bố theo hình thái tự nhiên, phương
thức sản xuất nông nghiệp manh mún, quy mô nhỏ, phân bố rải rác với các
hình thái: bám theo tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, liên huyện, liên xã và hình thái
phân tán nhỏ ở trong nội đồng.
Trong những năm gần đây đang hình thành một điểm dân cư mới, đó là
các điểm dân cư nằm trên các trục giao thông quan trọng hoặc ở các trung tâm
khu kinh tế mới, trung tâm xã, nông trường, trung tâm cụm xã. Đây là một
hình thái phát triển mới mầm mống của đô thị nhỏ, tốc độ phát triển mạnh, có
ưu thế trong tương lai, khi có sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp
hoá nông thôn, kết hợp quá trình chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp,
sẽ hình thành nên nhiều thị tứ, thị trấn trên địa bàn tỉnh.
*Dân số - lao động - việc làm - thu nhập và mức sống:
Tính đến cuối năm 2005 dân số toàn tỉnh là 377.007 người. Trong đó
có 246.589 nhân khẩu nông thôn (chiếm 65,41%) và 130.418 nhân khẩu ở
thành thị (chiếm 34,59% tổng dân số).
Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 39,2 người/km2, là tỉnh có mật độ
dân số thấp của vùng cũng như toàn quốc, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 2,1%.
Dân số phân bố không đồng đều giữa các đơn vị hành chính trong tỉnh.
Thị xã Kon Tum là nơi có mật độ dân số cao nhất là 315,5 người/km2 và
huyện Kon Plong là nơi có mật độ dân số thấp nhất 12,6 người/km2 [5, tr.11].
* Lao động - việc làm:
Tổng số lao động trong độ tuổi của tỉnh tính đến cuối năm 2004 là
180.173 lao động, chiếm 47,79% dân số. Lao động nông - lâm nghiệp có tỷ
trọng lớn trong cơ cấu lao động, chiếm 77,86% tổng số lao động làm việc
trong các ngành kinh tế. Tuy nhiên hiệu suất lao động ở khu vực nông thôn
còn thấp (75% thời gian lao động) [5, tr.17].
Trình độ lao động còn thấp chưa qua đào tạo kỹ năng, tỷ lệ qua đào tạo
rất thấp 21% tổng số lao động.
* Thu nhập và mức sống:
Là một tỉnh miền núi Tây Nguyên, thu nhập của người dân chủ yếu từ
các sản phẩm nông - lâm nghiệp. Trong những năm qua, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã
không ngừng được nâng lên. Thu nhập bình quân đầu người đạt 183 USD
năm 2000, 210 USD năm 2002 và năm 2005 là 289 USD. Sản lượng lương
thực bình quân đầu người là 260 kg [5, tr.27].
Nhìn chung đời sống dân cư của những ngành: thương nghiệp, xây
dựng, công nghiệp, giao thông vận tải có mức thu nhập và mức sống ổn định.
Riêng đời sống dân cư ngành nông nghiệp còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các
xã vùng sâu, vùng xa. Tính đến năm 2005 số hộ nghèo theo tiêu chí mới còn
cao (chiếm 38,63%). Toàn tỉnh có 51 xã đặc biệt khó khăn và biên giới.
Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu công cụ sản xuất tiên tiến, trình độ canh tác,
chăn nuôi còn yếu kém. Ngoài ra còn phải kể đến kết cấu hạ tầng thấp, do đó
ảnh hưởng đến nền kinh tế hàng hoá, trình độ dân trí thấp dẫn đến đời sống xã
hội gặp nhiều khó khăn.
2.1.3. Đánh giá chung
2.1.3.1. Những thuận lợi, lợi thế
Qua tổng hợp và phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh
cho thấy Kon Tum có những lợi thế sau:
Một là, so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên, Kon Tum là tỉnh có
bình quân diện tích tự nhiên/ người lớn nhất (bình quân diện tích tự nhiên/
khẩu của tỉnh Kon Tum là 28.387 m2, khu vực Tây Nguyên là
13.000m2/khẩu) diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều (khoảng 220.880 ha),
đặc biệt là quỹ đất cho phát triển lâm nghiệp và cây công nghiệp lâu năm. Sự
đa dạng về đất đai, địa hình và khí hậu tạo điều kiện cho Kon Tum đa dạng
hoá cây trồng theo hướng chuyên canh ở từng khu vực sinh thái.
Hai là, tỉnh có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó phải
kể đến sự giàu có của tài nguyên rừng. Là tỉnh có độ che phủ rừng cao nhất
Tây Nguyên, với 65,5% diện tích đất tự nhiên được che phủ bởi rừng, trữ
lượng gỗ 54 triệu m3 và gần 2 tỷ cây tre nứa, dưới tán rừng là hệ động vật
phong phú và đa dạng. Trong đó có nhiều loại cây con quý hiếm và có giá trị
kinh tế cao như sâm ngọc linh.
Ba là, trên địa bàn tỉnh có hệ thống sông suối khá dày đặc và đang chứa
đựng một tiềm năng về thuỷ điện lớn nhất miền Nam nước ta.
Bốn là, Kon Tum nằm ở ngã ba biên giới Việt - Lào - Campuchia, nơi
hội tụ của các quốc lộ 14, quốc lộ 40 và quốc lộ 24 nên có vị trí quan trọng về
đầu mối giao lưu kinh tế. Mặt khác, Kon Tum cách không xa các khu vực
phát triển của miền Trung nên sẽ có nhiều điều kiện cuốn hút vào sự phát
triển và chịu ảnh hưởng lớn của những khu vực phát triển này trong quá trình
giao lưu kinh tế, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường tiêu
thụ và thu hút đầu tư.
Năm là, trong những năm qua, tốc độ và cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có
sự tăng trưởng và chuyển dịch hợp lý làm thay đổi dần tính chất của nền kinh
tế. Từ một nền kinh tế tự cung, tự cấp, đến nay đã chuyển dần sang nền kinh
tế hàng hoá, hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh. Kết cấu hạ tầng,
văn hoá, giáo dục, y tế đã có những bước chuyển biến tích cực, đời sống đại
bộ phận nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao, chính trị, an ninh
quốc phòng được giữ vững.
Sáu là, trình độ dân trí ngày càng không ngừng được nâng cao,
nhận thức về vai trò và tác dụng của đất đai cũng đầy đủ hơn, kiến thức về
canh tác, bảo vệ đất, không ngừng nâng cao sức sản xuất của đất đã được
các hộ nông dân tiếp thu và áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Việc áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sử dụng đất đai đã đem lại
hiệu quả cao.
Những lợi thế đó là nguồn lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của tỉnh
phát triển vươn lên bắt kịp với các địa phương trong vùng và khu vực.
2.1.3.2. Những khó khăn, hạn chế
Kon Tum là tỉnh nằm ở cực Bắc Tây Nguyên, địa hình phức tạp, chia
cắt mạnh, đây là khó khăn lớn nhất trong phát triển giao thông, hạn chế giao
lưu với bên ngoài và thu hút vốn đầu tư. Mặt khác, hạ tầng cơ sở còn yếu kém
không đồng bộ. Sự xuống cấp và chưa đầy đủ của các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ,
các công trình thuỷ lợi, hệ thống điện, sự thiếu hụt các công trình phúc lợi
công cộng đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây áp lực với sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung cũng như việc sử dụng đất trên địa bàn tỉnh nói riêng.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn tăng, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch
theo đúng quy luật nhưng diễn ra chậm. Tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư
nghiệp vẫn còn cao. Tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp mặc
dù tăng lên hàng năm nhưng vẫn còn ở mức thấp, sản xuất nông nghiệp vẫn
giữ vai trò chủ đạo. Trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, khả năng tiếp thu và
ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm dẫn đến chưa
khai thác được triệt để tiềm năng đất đai.
Đầu ra và giá tiêu thụ một số sản phẩm nông sản chủ lực như cà phê,
sắn, hạt tiêu thường xuyên không ổn định gây khó khăn trong việc chuyển
dịch cơ cấu cây trồng.
Là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ dân trí của đại bộ
phận dân cư còn thấp, đời sống của nhân dân còn nghèo và bấp bênh. Vùng
sâu, vùng xa phương thức canh tác lạc hậu còn khá phổ biến, tình trạng đốt
rừng làm rẫy vẫn thường xuyên xảy ra.
Tất cả những vấn đề trên đây đều đi tới một nhận định thực trạng phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh đang gây áp lực rất lớn đối với đất đai và môi
trường. Việc phân bố quỹ đất đai cho các ngành, các lĩnh vực đảm bảo khoa
học và hiệu quả hợp lý tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên
quan điểm tiết kiệm đất và bảo vệ môi trường là nhiệm vụ đặt ra cho công tác
quy hoạch sử dụng đất trong thời kỳ tới.
2.2. THỰC TRẠNG QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ
PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
2.2.1. Hiện trạng sử dụng và tình hình quản lý đất nông nghiệp ở
tỉnh Kon Tum
* Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2005 :
Theo kết quả tổng hợp số liệu thống kê đất đai năm 2005 của Sở Tài
nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum, tính đến ngày 31/12/2005, tổng diện
tích tự nhiên của toàn tỉnh là 961450 ha. Là tỉnh có diện tích vào loại lớn so
với các tỉnh trong cả nước, chiếm 2,92% diện tích tự nhiên toàn quốc và
17,65% diện tích vùng Tây Nguyên. Toàn tỉnh có 8 đơn vị hành chính cấp
huyện và 1 thị xã.
Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh năm 2005 là 128.404,57 ha, bình
quân diện tích đất nông nghiệp trên một nhân khẩu là 3.405m2. Diện tích đất
nông nghiệp của tỉnh phân bố không đều giữa các đơn vị hành chính. Cơ cấu
đất nông nghiệp được phân bố như sau:
- Đất trồng cây hàng năm: Diện tích 87.825,27 ha chiếm 68,4% diện
tích đất nông nghiệp toàn tỉnh, trong đó:
+ Đất trồng lúa là 17626,68 ha, chiếm 20,07% diện tích đất trồng cây
hàng năm.
+ Đất nương rẫy là 35.269,57 ha, chiếm 40,16% diện tích đất trồng cây
hàng năm.
+ Đất trồng cây hàng năm khác: 34929,02 ha, chiếm 39,77% diện tích
đất trồng cây hàng năm.
Đất trồng lúa có tỷ lệ nhỏ nhất so với tổng diện tích đất trồng cây hàng
năm (20,07%), được phân bố ở tất cả các huyện dọc theo các sông suối, vùng
trũng thấp, chủ yếu là ruộng 1 vụ và 2 vụ, trong đó ruộng 1 vụ có diện tích là
7.156 ha chiếm 40,6% diện tích đất trồng lúa. Vì vậy, để khai thác có hiệu quả
hơn, diện tích ruộng 1 vụ này, cần có biện pháp thâm canh tăng vụ, đặc biệt là
biện pháp thuỷ lợi để đưa diện tích đất trồng lúa 1 vụ lên sản xuất 2 vụ, nâng
cao hệ số sử dụng đất nông nghiệp trên toàn tỉnh.
Đất nương rẫy chiếm tỷ lệ lớn nhất trong đất trồng cây hàng năm
(40,16% diện tích) trong đó có 6.728 ha nương rẫy trồng lúa. Diện tích nương
rẫy phân bố tập trung nhiều ở các huyện Sa Thầy 7.660 ha, huyện Đăk Tô
7.040 ha, ít nhất là huyện Kon Plong 1.173 ha.
Đất trồng cây hàng năm khác chiếm hơn 1/3 diện tích trong đất trồng
cây hàng năm, hầu hết là đất chuyên mầu và cây công nghiệp hàng năm với
diện tích 30733,02 ha, chiếm 88% diện tích đất trồng cây hàng năm khác, chủ
yếu là loại cây màu lương thực như khoai, ngô... và cây công nghiệp hàng
năm như mía, sắn, vừng, lạc...
- Đất trồng cây lâu năm: diện tích 40.262,14 ha, chiếm 31,36% diện tích
đất nông nghiệp, đứng hàng thứ hai trong cơ cấu đất nông nghiệp toàn tỉnh.
Trong đất trồng cây lâu năm, diện tích chủ yếu là đất trồng cây công nghiệp lâu
năm 35.224,14 ha chiếm 87,70%. Với diện tích cà phê khoảng 11.550 ha, còn lại
là đất trồng cây cao su. Đất trồng cây ăn quả và các loại cây lâu năm khác chỉ
chiếm tỷ lệ diện tích rất ít trong cơ cấu đất trồng cây lâu năm.
- Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: diện tích 317 ha, phần lớn là đất cỏ tự
nhiên cải tạo 188,16 ha, còn lại là 129 ha đất cỏ trồng [phụ lục 4].
* Tình hình quản lý đất đai tỉnh Kon Tum:
+ Quản lý đất đai theo địa giới hành chính:
Kon Tum là tỉnh có địa hình chia cắt, vừa giáp ranh với các đơn vị hành
chính thuộc tỉnh khác (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai) vừa là biên giới
quốc gia với các nước Lào, Campuchia. Trải qua nhiều biến động của tiến
trình lịch sử, tình hình địa giới hành chính trong tỉnh thường có sự thay đổi.
Từ khi chỉ thị số 364/CP của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) được thực hiện, ranh giới hành chính giữa Kon Tum với các tỉnh
khác về cơ bản đã được xác định, Ban Tổ chức Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ)
đã công nhận và đưa vào khai thác sử dụng, phục vụ kịp thời công tác quản lý
lãnh thổ và quản lý đất đai trên địa bàn toàn tỉnh.
Tuy nhiên trên thực tế, ranh giới giữa tỉnh Kon Tum với tỉnh Gia Lai
vẫn chưa được giải quyết theo tinh thần công văn số 920/CP-NC ngày
06/8/1998, cụ thể là việc giao xã Kon Pne thuộc huyện KBang và 300 ha diện
tích đất tại thôn Tơ Huỳnh xã Ia Khươi huyện Chư Pả, tỉnh Gia Lai về Kon
Tum quản lý. Ngoài ra, nhằm đáp ứng quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
tỉnh đã có sự điều chỉnh, bổ sung đơn vị hành chính. Đến nay tỉnh có 1 thị xã
và 8 đơn vị hành chính huyện.
+ Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất gắn với đo đạc, lập bản đồ địa chính:
Trước đây, khi chưa tách khỏi tỉnh Gia Lai - Kon tum, việc đầu tư
kinh phí để đo đạc, lập bản đồ ở Kon tum chưa được quan tâm đúng mức.
Sau khi lập lại tỉnh Kon Tum cho đến nay, được sự quan tâm của Tổng Cục
Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) và UBND tỉnh. Sở Địa
chính tỉnh (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường) đã tiến hành thường
xuyên công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ giải thửa và đạt được
những kết quả đáng khích lệ.
Từ năm 1997 tỉnh đã triển khai lập quy hoạch sử dụng đất cho tất cả
các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Năm 1998 - 1999 tỉnh tiếp tục triển
khai lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện trên địa bàn 9 huyện thị giai đoạn
1998 - 2010. Đến năm 2000 tỉnh đã tổ chức triển khai lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất tỉnh Kon Tum đến 2010 và đã được Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 1033/QĐ-TTg ngày 08/11/2002. Đến nay toàn bộ việc quy
hoạch sử dụng đất của cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) đã hoàn thành, làm căn cứ
cho công tác quản lý đất đai toàn tỉnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong
những năm tới cần phải thường xuyên theo dõi và kịp thời chỉnh lý, bổ sung
điều chỉnh quy hoạch theo đúng quy định của Luật đất đai và phù hợp với
thực tế của quá trình phát triển tại địa phương.
Việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất là nhiệm vụ thường xuyên của
ngành địa chính. Hàng năm, Sở Tài nguyên và Môi trường đánh giá kế
hoạch sử dụng đất năm thực hiện và xây dựng kế hoạch sử dụng đất cho
năm tiếp theo, trình UBND tỉnh thông qua để trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.
+ Về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nông nghiệp:
Sau 5 năm thực hiện chỉ thị số 10/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ và chỉ thị 12/CT-UB của UBND tỉnh về việc giao đất, cấp đất chứng nhận
quyền sử dụng đất nông nghiệp, tính đến tháng 6/2003 toàn tỉnh đã cấp được
46.795 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho 46.795 hộ gia
đình, cá nhân với diện tích 47.731 ha, đạt 75,62% tổng diện tích đất trồng cây
hàng năm của các hộ gia đình, cá nhân. Mặc dù, các huyện thị đã cơ bản hoàn
thành việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân quản lý, sử dụng lâu
dài, song vẫn còn một số diện tích đất nông nghiệp lớn chưa được giao cho
chủ sử dụng đất. Nguyên nhân cơ bản là một phần tương đối lớn diện tích đất
nông nghiệp này đang nằm trong vùng ngập và bán ngập lòng hồ Yaly, một
phần diện tích do các hộ vượt hạn điền, diện tích do phát nương làm rẫy
không đúng quy hoạch và một vài khu còn có sự tranh chấp. Đặc biệt có một
số hộ gia đình không tham gia đăng ký sử dụng đất do chưa thấy rõ được
quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
+ Về thanh tra pháp chế:
Trong những năm qua, tỉnh đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra
việc quản lý, sử dụng đất nông nghiệp của nhiều tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân. Thông qua việc thanh tra, kiểm tra đã phát hiện và xử lý kịp thời các sai
phạm trong công tác quản lý và sử dụng đất nông nghiệp.
Từ năm 1996 đến nay, thực hiện Chỉ thị 245/TTg của Thủ tướng Chính
phủ, UBND tỉnh đã thành lập 2 đoàn thanh tra (có đại diện của các cơ quan có
chức năng tham gia) với mục đích thanh tra, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị
245/TTg; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật đất đai trên địa bàn các xã,
phường. Kết quả kiểm tra cho thấy tình hình vi phạm Luật đất đai trong quản
lý, sử dụng đất nông nghiệp của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh chủ yếu
tập trung vào các doanh nghiệp, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần là nghiêm trọng. Các hình thức vi phạm cụ thể là:
- Tự ý lấy đất nông nghiệp chia cho các cá nhân làm nhà ở.
- Tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
- Tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp.
- Sử dụng đất nông nghiệp không theo quy hoạch.
- Lấn chiếm đất nông nghiệp.
- Sử dụng đất nông nghiệp chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cho phép.
Toàn bộ những vi phạm trên đã được kiến nghị với UBND tỉnh xử lý
theo từng vụ việc cụ thể; xử phạt hành chính hoặc truy tố theo Luật tố tụng
hình sự, còn lại thu hồi hoặc hoàn tất các thủ tục theo đúng pháp luật. Từ đó
đến nay việc thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên liên tục, đáp
ứng nhu cầu của công tác quản lý.
Công tác giải quyết tranh chấp đất đai, đơn thư khiếu nại tố cáo các vi
phạm trong sử dụng đất nông nghiệp đạt kết quả cao trong những năm qua.
Ngoài ra, thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg ngày 08/10/2002 của
Thủ tướng Chính phủ về giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, tỉnh đã tổ chức điều tra, rà soát toàn bộ tình
hình giao đất, cho thuê và sử dụng ruộng đất của đồng bào dân tộc thiểu số
trên địa bàn tỉnh cũng như tình hình quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, lâm
nghiệp của các nông lâm trường. Trên cơ sở đó tổng hợp số hộ đồng bào
dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất và đất ở, các nguyên nhân cơ bản dẫn
đến tình trạng thiếu đất để từ đó đề ra phương hướng giải quyết đối với
từng địa bàn cụ thể.
2.2.2. Thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát
triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến năm 2005
2.2.2.1. Những thành tựu đạt được
Trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu thống kê đất nông nghiệp từ năm
2000 đến năm 2005, có thể thấy các loại hình sử dụng đất nông nghiệp của
tỉnh Kon Tum đều có sự biến động theo chiều hướng tăng.
Quá trình tăng giảm các loại đất nông nghiệp trong giai đoạn này nhìn
nhận một cách tổng quát là phù hợp mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy
nhiên, cần phân tích xu hướng biến động các loại đất nông nghiệp chi tiết để
đánh giá chính xác thực trạng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp ở giai đoạn
hiện nay.
Trong những năm từ năm 2000 đến năm 2005, diện tích đất nông
nghiệp tăng 36.821,88 ha, từ 91.582,69 ha năm 2000 lên 128.404,57 ha năm
2005. Bình quân mỗi năm tăng khoảng 7.364 ha. Diện tích đất nông nghiệp
tăng chủ yếu tập trung ở huyện Sa Thầy, một số xã thuộc phía Bắc thị xã Kon
Tum, huyện Đăk Hà, Đăk Tô.
Trong đất nông nghiệp diện tích trồng cây hàng năm là tăng lớn nhất
trong cả giai đoạn tăng 26919,60 ha. Trong đó đất trồng lúa tăng 2428,12 ha,
đất nương rẫy tăng 11.963,57 ha và đất trồng cây hàng năm khác tăng
12.527,91 ha (tăng mạnh ở diện tích đất chuyên màu và cây công nghiệp hàng
năm tăng 11620,41 ha) [phụ lục 4].
Phân tích xu thế tăng diện tích đất nông nghiệp trồng cây hàng năm ở
giai đoạn này có thể thấy rằng, bên cạnh cố gắng của ngành nông nghiệp
trong việc cải tạo, khai hoang vùng đất chưa sử dụng, thì vài loại đất khác lại
có sự gia tăng đột biến theo chiều hướng bất lợi như đất nương rẫy. Diện tích
đất nương rẫy tăng trong vòng 5 năm là 11.963,57 ha. Kết quả diện tích đất
nương rẫy tăng trong giai đoạn này được lý giải có chủ trương điều chỉnh một
số diện tích đất nông nghiệp sử dụng kém hiệu quả của các nông, lâm trường
giao cho đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất theo tinh thần quyết
định số 132/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Bảng 2.2: So sánh biến động diện tích đất nông nghiệp
giai đoạn 2000 - 2005 [29]
Loại đất Diện tích (ha) 2000
Diện tích
2005
Biến động:
tăng (+),
giảm (-)
Tổng diện tích đất nông nghiệp 91.582,69 128.404,57 +36.821,88
I. Đất trồng cây hàng năm 60.905,67 87.825,27 +26.919,60
1. Đất trồng lúa 15.198,56 17.626,68 +2.428,12
2. Đất nương rẫy 23.306 35.269,57 +11.963,57
3. Đất trồng cây hàng năm khác 22.401,11 34.929,02 +12.527,91
a. Đất chuyên mầu và cây công nghiệp
hàng năm 19.112,61 30.733,02 +11.620,41
b. Đất chuyên rau 1.415 1.545 +130
c. Đất trồng cây hàng năm khác 1.873,5 2.651 +777,5
II. Đất trồng cây lâu năm 30.677,02 40.262,14 +9.585,12
1. Đất trồng cây công nghiệp lâu năm 30.201,02 35.312 +4.110,98
2. Đất trồng cây ăn quả 374 2.748 +2.374
3. Đất trồng cây lâu năm khác 96 2.183,14 +2.084,14
4. Đất ươm cây giống 6 19 +13
III. Đất trồng cỏ dùng chăn nuôi 0 317,16 +317,16
1. Đất cỏ trồng 0 129 +129
2. Đất cỏ tự nhiên cải tạo 0 188,16 +188,16
Loại đất có mức độ tăng lớn thứ hai của đất nông nghiệp là đất trồng
cây lâu năm, tăng 9585 ha trong cả giai đoạn. Tuy nhiên, mức độ tăng diện
tích đất trồng cây lâu năm trong giai đoạn này thấp hơn rất nhiều so với giai
đoạn trước năm 1995 - 2000 (diện tích tăng bình quân của cả giai đoạn này là
4.343 ha/năm). Thực chất vấn đề này có thể hiểu do diện tích đất trồng cây
công nghiệp lâu năm như cà phê đã phát triển mạnh gần như bão hoà ở giai
đoạn 1995 - 2000, nên có xu hướng tăng chậm ở giai đoạn này. Mặc dù vậy,
do giá mủ cao su trong những năm qua luôn ở mức cao và ổn định nên diện
tích cây cao su trong thời gian quan luôn tăng lên.
Đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi đứng thứ 3 về mức độ gia tăng trong
đất nông nghiệp. Vào năm 2000, theo chỉ tiêu thống kê đất nông nghiệp của
tỉnh không có đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi. Hiện nay, do nhu cầu phát
triển chăn nuôi gia súc (trâu, bò, dê) nên tỉnh đã có chủ trương mở rộng diện
tích đất trồng cỏ và cải tạo đồng cỏ tự nhiên. Diện tích tăng hơn 317 ha, tập
trung ở các huyện Sa Thầy, Kon rẫy, Đăk Hà.
Các loại đất còn lại trong đất nông nghiệp như đất vườn tạp và đất có
mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có diện tích tăng không đáng kể, chủ yếu phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày.
Trong 5 năm từ 2000 - 2005, diện tích đất lâm nghiệp có rừng của tỉnh
Kon Tum tăng 56203 ha, bình quân mỗi năm tăng hơn 11240 ha. Song trên
thực tế diện tích tăng thêm chỉ tập trung vào đất rừng trồng. Trung bình mỗi
năm trên địa bàn tỉnh trồng thêm khoảng hơn 13714,64 ha, chủ yếu là trồng
rừng nguyên liệu giấy.
Tuy nhiên, trong nhóm rừng trồng, đất trồng rừng phòng hộ tăng rất ít,
từ năm 2000 đến năm 2005 cả tỉnh chỉ tăng được 2738 ha. Trong khi đó diện
tích rừng phòng hộ tự nhiên trong giai đoạn 2000 - 2005 đã giảm 13.000 ha.
Rừng phòng hộ tự nhiên của tỉnh Kon Tum tập trung chủ yếu ở các khu vực
như rừng phòng hộ trọng yếu Thạch Nham, rừng phòng hộ trọng yếu thuỷ
điện Yaly... Sự giảm sút của rừng phòng hộ tự nhiên sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến độ an toàn của các công trình. Mặc dù, một phần diện tích đất lâm
nghiệp không có rừng giảm đi là do thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ chuyển giao cho địa phương quản lý để giải
quyết đất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ thiếu đất sản xuất. Song xét
về lâu dài, đây vẫn là những mất mát khó có thể bù đắp về mặt tự nhiên (kể
cả việc trồng rừng mới) và là một trong những nguyên nhân gây ra các thảm
hoạ sinh thái ngày càng tăng trong thời gian gần đây tại tỉnh Kon Tum, vùng
Tây Nguyên và cả ở các vùng lân cận (Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông
Nam Bộ) (bảng 2.3).
Bảng 2.3: So sánh biến động diện tích đất lâm nghiệp có rừng
giai đoạn 2000 - 2005 [29]
Đơn vị tính: ha
Loại đất Diện tích 2000
Diện tích
2005
Biến động:
tăng (+),
giảm (-)
Tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng 606.669,2 662.872,24 56.203,04
I. Rừng tự nhiên 594.103 578.195 -15.908
1. Đất có rừng sản xuất 311.280 295.327 -15.953
2. Đất có rừng phòng hộ 206.771 193.771 -13.000
3. Đất có rừng đặc dụng 76.052 89.097 +13.045
II. Rừng trồng 12.547,02 84677,24 +72.130,22
1. Đất có rừng sản xuất 3.797,02 72.370,24 +68.573,22
2. Đất có rừng phòng hộ 8519 11257 +2738
3. Đất có rừng đặc dụng 231 1031 +800
III. Đất ươm giống cây 19 19 0
Trong vòng 5 năm, từ 2000 đến năm 2005, diện tích chưa sử dụng và
sông suối, núi đá đã giảm 90.150,45 ha. Trung bình một năm đất chưa sử
dụng giảm hơn 18030,09 ha, diện tích giảm tập trung vào đất đồi núi chưa sử
dụng, loại đất có tỷ lệ diện tích lớn nhất trong nhóm đất chưa sử dụng.
Tuy nhiên, trong nhóm đất chưa sử dụng, diện tích đất bằng chưa sử
dụng đã giảm được đáng kể (trên 4500 ha). Đây là diện tích có được do hậu
quả của quá trình phá rừng (đặc biệt là rừng tự nhiên) dẫn đến đất bị hoang
hoá trở lại. Ngoài ra việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái phép từ đất
lâm nghiệp sang đất nông nghiệp không theo quy hoạch cũng là một trong
những nguyên nhân gây ra tình trạng trên (bảng 2.4).
Bảng 2.4: So sánh biến động diện tích đất chưa sử dụng
giai đoạn 2000 - 2005 [26]
Đơn vị tính: ha
Loại đất Diện tích 2000
Diện tích
2005
Biến động:
tăng (+),
giảm (-)
Tổng diện tích đất chưa sử dụng 238.553,94 148.403,49 -90.150,45
1. Đất bằng chưa sử dụng 4070,25 732,52 -3337,73
2. Đất đồi núi chưa sử dụng 234429,05 147668,32 -86760,73
3. Núi đá không có rừng cây 54,64 2,65 -51,93
Như vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Kon Tum đến năm
2010 đã thực hiện được 5 năm (từ năm 2000 đến năm 2005). Hiện trạng sử
dụng đất nông nghiệp của tỉnh năm 2005 chính là một phần thực hiện của cả
thời kỳ quy hoạch và năm quyết định trong giai đoạn kế hoạch sử dụng đất
nông nghiệp 5 năm đầu (2000 - 2005). Vì thế, khi đánh giá tình hình sử dụng
đất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum giai đoạn 2000 đến năm 2005 cần so sánh
giữa kết quả đạt được của cả giai đoạn với kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
của giai đoạn 2000 - 2005 của tỉnh, để từ đó rút ra những nhận định chính xác
về các nội dung đã thực hiện của phương án quy hoạch, những phần chưa
thực hiện được so với phương án đề ra, các nội dung hợp lý hay bất hợp lý
trong những phần đã thực hiện; các vấn đề nảy sinh ngoài dự kiến tác động
đến phương án quy hoạch theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, những vấn
đề cần phải tiếp tục xử lý... Nội dung so sánh giữa kết quả thực hiện sử dụng
đất nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2005 với kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
của tỉnh Kon Tum giai đoạn 2000 - 2005 được thể hiện như sau:
Đất trồng cây hàng năm: theo kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 2000 -
2005, diện tích đất trồng cây hàng năm sẽ giảm đi 6.827 ha, chỉ còn 48.496 ha
vào năm 2005. Trong đó giảm chủ yếu vào đất nương rẫy, tiếp theo là đất
trồng cây hàng năm khác. Còn đất ruộng lúa, lúa mầu sẽ tăng lên qua các năm
để đảm bảo an ninh lương thực.
Tuy nhiên, diện tích thực hiện năm 2005 so với thực trạng năm 2000
và kế hoạch năm 2005 có những biến động không theo đúng kế hoạch sử
dụng đất nông nghiệp đã dự kiến. Thể hiện rõ nhất trong sự biến động
ngược chiều này là sự gia tăng mạnh mẽ của đất nương rẫy trong giai đoạn
2000 - 2005 (tăng trên 11.963,57 ha). Mặc dù, nguyên nhân của việc gia
tăng đất nương rẫy trong giai đoạn này được lý giải (giành đất sản xuất cho
đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 132/2002/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ), song đó chỉ là giải pháp tình thế. Vì vậy, trong những
năm tới cần có kế hoạch điều chỉnh giảm dần sự gia tăng của đất nương
rẫy.
Đất vườn tạp: tương tự đất nương rẫy, đất vườn tạp năm 2005 cũng
tăng lên so với kế hoạch năm 2005, tuy mức độ tăng không lớn nhưng cũng
phản ánh một phần sự cần thiết phải điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với
thực tế địa phương.
Đất trồng cây lâu năm: so với kế hoạch năm 2005, diện tích thực hiện
năm 2005 là tương đối phù hợp, hầu hết các loại đất trong đất trồng cây lâu
năm đều tăng lên theo chiều thuận với kế hoạch đề ra.
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: Kế hoạch đến năm 2005 toàn tỉnh sẽ có
8.755 ha, song đến năm 2005 mới phát triển được 317 ha (bằng 1/27 diện
tích theo kế hoạch). Nguyên nhân do khi xây dựng phương án quy hoạch
chưa khảo sát kỹ vùng có khả năng phát triển đồng cỏ. Vì vậy, cần thiết
phải có sự điều chỉnh diện tích đồng cỏ trong tương lai để có khả năng thực
thi [phụ lục 4].
Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: đã phát triển mạnh.
Vậy, xét tổng thể, diện tích đất nông nghiệp năm 2005 đã đạt và vượt
mức kế hoạch đề ra năm 2005. Tuy nhiên, như đã phân tích đối với từng loại
đất thì cần có những điều chỉnh cụ thể nhằm đạt được kế hoạch tổng thể của
quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum đến năm 2010, cũng
như có sự nghiên cứu để điều chỉnh kế hoạch cho sát với khả năng thực thi và
tình hình thực tế ở địa phương.
Những thành tựu đã đạt được trong công tác quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp của tỉnh trong thời gian qua, đã góp phần thúc đẩy ngành nông
nghiệp không ngừng phát triển. Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp (theo
thời giá hiện hành) năm 2005 đạt 1025,971 tỷ đồng chiếm 58,94% cơ cấu của
nhóm ngành, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2000 - 2005 là 9,15% [5, tr.39].
Bảng 2.5: Giá trị sản xuất theo giá hiện hành của ngành nông nghiệp [5]
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ
2000 498.821 383.227 88.935 26.659
2001 518.120 387.153 94.962 36.005
2002 595.931 472.573 89.128 34.230
2003 713.252 576.623 101.229 35.400
2004 891.561 709.719 142.322 39.520
2005 1.025.971 805.310 170.219 50.010
Về cơ cấu cây trồng, trong những năm qua, sản xuất trồng trọt ở tỉnh
tập trung vào 2 nhóm cây chính là: cây lương thực (gồm lúa, ngô); cây hàng
hoá (gồm cây công nghiệp ngắn ngày và cây công nghiệp lâu năm như sắn,
mía, cao su, cà phê...). Năm 2005 giá trị sản xuất của hai nhóm cây này chiếm
87,6% giá trị sản xuất của ngành trồng trọt và chiếm 79,60% giá trị sản xuất
của ngành nông nghiệp.
Diện tích gieo trồng cây lương thực tăng từ 25.350 ha năm 2000 lên
34.033 ha năm 2005, sản lượng lương thực tăng từ 64.940 tấn năm 2000
lên 98.123 tấn năm 2005, bình quân lương thực đầu người 260 kg, đảm
bảo ở mức tiêu thụ bình thường, nhưng chưa đảm bảo được mức an toàn
lương thực.[5, tr.47].
Bảng 2.6: Biến động diện tích, năng suất và sản lượng nhóm cây lương
thực từ năm 2000 - 2005 [5]
2000 2001 2002 2003 2004 2005
1. Cây lúa
- Diện tích (ha) 20.905 21.324 20.798 20.994 22.380 24.354,68
- Năng suất (tạ/ha) 24,79 26,54 28,60 29,49 30,13 27.02
- Sản lượng (tấn) 51.830 56.601 59.483 61.901 67.439 65.810
2. Cây ngô
- Diện tích (ha) 4.445 5.949 7.218 8.087 8.717 9.679
- Năng suất (tạ/ha) 29,49 32,88 34,12 36,25 35,86 33,3
- Sản lượng (tấn) 13.110 19.562 24.627 29.312 31.264 32.313
Diện tích cây hàng hoá trong những năm qua có nhiều biến động. Một
số cây có diện tích tăng nhanh nhưng ngược lại một số cây thì diện tích lại
suy giảm đi do sự biến động của giá cả.
Trong những năm qua diện tích cây sắn tăng nhanh chiếm 98,6% tổng
diện tích cây chất bột có củ, diện tích cây sắn tăng từ 15049 ha năm 2000 lên
27397 ha năm 2005, bình quân mỗi năm tăng 2469,6 ha. Sản lượng sắn năm
2005 là 372.271 tấn.
Bảng 2.7: Biến động diện tích, sản lượng nhóm cây hàng hoá
giai đoạn 2000 - 2005 [5]
Đơn vị tính: ha, tấn
2000 2001 2002 2003 2004 2005
1. Cây sắn
- Diện tích (ha) 15.049 15.616 20.140 23.429 24.272 27.397
- Sản lượng (tấn) 143.279 155.802 240.172 299.678 317.178 272.271
2. Cây mía
- Diện tích (ha) 3.589 3.563 3.501 3.651 3.356 2771
- Sản lượng (tấn) 150.063 150.255 159.087 171.031 154.030 115.571
3. Cây cà phê
- Diện tích (ha) 14.404 14.196 12.984 12.362 11.513 11.550
- Sản lượng (tấn) 11.847 13.683 14.806 19.188 19.388 14.326
4. Cây cao su
- Diện tích (ha) 14.207 14.700 15.833 16.583 19.934 23.762
- Sản lượng (tấn) 1.398 1.235 1.555 2.552 4.564 7.441
Qua bảng 2.7 cho thấy diện tích cây mía trong những năm qua liên tục
giảm từ 3589 ha năm 2000 đến năm 2005 chỉ còn 2771 ha, sự suy giảm diện
tích của cây mía trong thời gian qua là do biến động về giá cả cộng với chính
sách thu mua nguyên liệu mía ở tỉnh chưa hợp lý làm cho người dân không
trồng mía nữa chuyển sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế hơn.
Trong thời gian qua diện tích cây cà phê ở tỉnh Kon Tum cũng liên tục
giảm, do sự biến động của giá cả thị trường thế giới nên nhiều diện tích cây cà
phê không được chăm sóc và bị phá bỏ đi năm 2000 diện tích cây cà phê là
14404 ha thì đến năm 2005 chỉ còn 11550 ha, đạt sản lượng 14.326 tấn.
Riêng đối với cây cao su trong những năm qua luôn có sự tăng trưởng đều
đặn từ 14207 ha năm 2000 đến năm 2005 đã tăng lên 23.762 ha chiếm 67,4%
diện tích trồng cây công nghiệp dài ngày, đạt sản lượng 7.441 tấn [5, tr.80].
Đến năm 2005 diện tích cây ăn quả của tỉnh Kon Tum là 2.748 ha tăng
2.374 ha so với năm 2000. Diện tích cây chè, cây quế và cây tiêu, cây dừa... thời
gian qua vẫn không có biến động lớn, tổng diện tích các loại cây này chỉ khoảng
912,14 ha chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích cây công nghiệp dài ngày.
Như vậy, nhờ có sự quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp hợp lý và hiệu
quả, trong giai đoạn 2000 - 2005 sản xuất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum đã
có bước chuyển biến tích cực, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 9,15%. Sản
xuất lương thực có tốc độ phát triển nhanh, có tác dụng trực tiếp ổn định cuộc
sống cho nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Bước đầu hình
thành các vùng chuyên canh sản xuất cây công nghiệp tập trung với quy mô
ngày càng lớn như cao su, cà phê, mía, sắn... là cơ sở thuận lợi cho đầu tư
thâm canh cao, ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Tuy nhiên, việc quy hoạch, sử dụng
đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp của tỉnh Kon Tum thời gian
qua còn gặp những khó khăn hạn chế.
2.2.2.2. Những tồn tại và hạn chế trong quy hoạch, sử dụng đất nông
nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum
* Những tồn tại và hạn chế :
Kon Tum là tỉnh giàu tiềm năng về đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp
để phát triển cây công nghiệp. Tuy nhiên, thời gian qua tỉnh vẫn chưa khai
thác và phát huy tốt những lợi thế vốn có này, hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp để phát triển cây công nghiệp còn thấp.
Trình độ sản xuất nông nghiệp của người lao động còn thấp, năng suất
cây trồng chưa cao, việc chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất còn chậm, đặc biệt là công nghệ
sau thu hoạch dẫn tới chất lượng nông lâm sản có chất lượng thấp, chưa đáp
ứng được nhu cầu của thị trường. Vì vậy, giá nông sản bán ra thấp làm ảnh
hưởng trực tiếp đến người lao động.
Là một tỉnh miền núi với 50,18% dân số là người dân tộc thiểu số nên
ruộng đất canh tác còn bị phân tán, còn mang nặng tính chất độc canh, quảng
canh và tính chất tự cấp, tự túc. Nhìn chung vấn đề đầu tư vốn, kỹ thuật, công
nghệ vào những khâu then chốt của sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh chỉ
giới hạn ở một số vùng có điều kiện.
Việc chuyển dịch cơ cấu trong công nghiệp của nhiều vùng trong tỉnh
còn chậm. Diện tích đất nông nghiệp dành cho cây trồng hàng năm còn chiếm
tỷ lệ lớn so với diện tích cây lâu năm. Chưa hình thành được những vùng sản
xuất tập trung, chuyên môn hoá lớn đối với một số cây mũi nhọn. Sản xuất
kinh doanh trong ngành nông nghiệp theo cơ chế thị trường chưa chuyển biến
mạnh, chưa tạo ra sự gắn kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm có
hiệu quả.
Hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tuy đã được cải thiện
nhưng vẫn trong tình trạng yếu kém, chưa đồng bộ, nhiều xã vùng sâu vùng
xa điều kiện đi lại còn khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Đây cũng là nguyên
nhân cơ bản để hệ thống dịch vụ nông thôn không tiếp cận được tới vùng sâu,
vùng xa, tạo nên sự chênh lệch cao về mặt bằng giá, gây khó khăn trực tiếp
cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở những vùng này.
Diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp dần trong quá trình công
nghiệp hoá và đô thị hoá vì tốc độ xây dựng những công trình giao thông,
thuỷ lợi và các công trình phúc lợi xã hội không ngừng phát triển. Mặt khác,
việc quản lý đất đai còn nhiều điểm bất cập, khiến cho việc quy hoạch, sử
dụng đất chưa phát huy được hết tính tích cực để đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Công tác quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh thời gian qua chưa chú
trọng đến việc xây dựng và hình thành các vùng chuyên canh cây công
nghiệp, cây thực phẩm gắn với việc xây dựng hệ thống chế biến. Công tác
giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất còn
chậm. Đất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, nhỏ lẻ, nhiều nơi còn diễn ra
tình trạng cho thuê, mua bán, sang nhượng đất nông nghiệp mà chính quyền
địa phương không kiểm soát được. Đặc biệt là vùng đất canh tác của người
đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho một số lớn hộ đồng bào dân tộc thiểu số
không còn đất sản xuất và đất ở dẫn đến tình trạng, để có đất nông nghiệp sản
xuất họ phải đốt rừng làm rẫy và một số thế lực thù địch lợi dụng vào vấn đề
này xuyên tạc và lôi kéo bà con đồng bào dân tộc thiểu số vào các hoạt động
gây mất ổn định tình hình chính trị - xã hội.
Vấn đề tiêu thụ nông sản phẩm đang là nỗi lo thường xuyên của
nông dân. Trong khi giá cả vật tư đầu vào phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp tăng nhanh, từ chi phí sản xuất đến các vật tư như phân bón,
thuốc trừ sâu, xăng dầu và giá cước vận tải... đều tăng lên khá cao. Thì giá
cả nông sản phẩm luôn trong tình trạng bấp bênh gây ra ứ đọng, thậm chí là
không tiêu thụ được. Làm cho người nông dân không đủ bù đắp giá trị sức
lao động v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.pdf