Luận văn Quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam

Tài liệu Luận văn Quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam: 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với bờ biển dài 3.260 km chưa kể các đảo và vùng đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km2, Việt Nam rất quan tâm đến việc bảo tồn và quản lý các nguồn lợi thủy sản. Bởi lẽ, đây là một trong những ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Ngày 25.07.1994, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 63 của Công ước Luật biển; với tư cách là thành viên của Công ước, Việt Nam luôn luôn tôn trọng các điều khoản của Công ước và thực thi những cam kết quốc tế của mình. Trong những năm vừa qua, ngành thủy sản nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt. Nếu như năm 1981, sản lượng thủy sản cả nước chỉ có 600 nghìn tấn thì hiện nay đạt hơn 4,3 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu năm 1981 là 15,2 triệu USD, nay tăng lên 4,25 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành một trong mười nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới. Ngành thủy sản tạo việc làm cho hơn bốn triệu lao động, chưa kể những lao động gián tiếp như công nghiệp chế biến, dịch vụ xuất khẩu, ...

pdf77 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với bờ biển dài 3.260 km chưa kể các đảo và vùng đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km2, Việt Nam rất quan tâm đến việc bảo tồn và quản lý các nguồn lợi thủy sản. Bởi lẽ, đây là một trong những ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Ngày 25.07.1994, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 63 của Công ước Luật biển; với tư cách là thành viên của Công ước, Việt Nam luôn luôn tôn trọng các điều khoản của Công ước và thực thi những cam kết quốc tế của mình. Trong những năm vừa qua, ngành thủy sản nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt. Nếu như năm 1981, sản lượng thủy sản cả nước chỉ có 600 nghìn tấn thì hiện nay đạt hơn 4,3 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu năm 1981 là 15,2 triệu USD, nay tăng lên 4,25 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành một trong mười nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới. Ngành thủy sản tạo việc làm cho hơn bốn triệu lao động, chưa kể những lao động gián tiếp như công nghiệp chế biến, dịch vụ xuất khẩu, hệ thống thương mại, đóng tàu,... Điều đó chứng tỏ ngành thủy sản đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam. Theo ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn “Trong những năm gần đây, nghề khai thác cá ngừ đại dương phát triển khá nhanh, cả về quy mô công nghiệp đánh bắt hải sản và quy mô nhỏ của hộ ngư dân, đặc biệt là ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Nhận thức được hiệu quả của nghề câu cá ngừ đại dương, thời gian qua, ngành thủy sản xem đây là đối tượng, mục tiêu để phát triển nghề khai thác cá xa bờ” [10]. Chỉ tính riêng trong 5 tháng đầu năm 2010, kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang hầu hết các thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật Bản, Canada,… đều tăng trưởng mạnh; đặc biệt, có thị trường Mỹ và Canada tăng hơn 500% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính từ đầu năm đến nay, kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của cả nước đạt gần 100 triệu USD, tăng hơn 100% cả 2 về khối lượng lẫn giá trị so với cùng kỳ năm 2009 với giá xuất khẩu trung bình đạt 3,83 USD/kg [23]. Tuy nhiên, nghề câu cá ngừ đại dương nói riêng và nghề khai thác các ngừ nói chung bắt đầu phát triển trong khoảng 15 năm trở lại đây. So với các quốc gia khác trong khu vực như Inđônêxia và Nhật Bản…chúng ta có xuất phát điểm thấp và chậm hơn nhiều. Vì vậy, trong quá trình khai thác, chế biến và xuất khẩu các doanh nghiệp và ngư dân không thể không tránh khỏi thách thức. Sức ép cạnh tranh trong xuất khẩu ngày càng cao, rào cản kỹ thuật từ các nước liên tục có những thay đổi, trong khi chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm của nước ta chưa đồng bộ; việc khai thác trái phép của một bộ phận ngư dân nước ngoài đã trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống của ngư dân và ảnh hưởng đến các mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. Vấn đề nuôi trồng, đánh bắt xa bờ vẫn còn quy mô nhỏ, lạc hậu. Ứng dụng khoa học, kỹ thuật hạn chế, các mô hình công nghiệp còn ít. Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hiện tuợng nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền đang đe dọa nghiêm trọng đến nghề nuôi thủy sản. Bên cạnh đó, việc tạo thương hiệu cho thủy sản Việt Nam đến nay vẫn chưa làm được. Tình trạng rớt giá liên tục tái diễn mà phần thiệt luôn về phía ngư dân [2]. Điều đó nói lên một thực tế là có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương hiện nay. Do đó, quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong giai đoạn canh tranh khốc liệt hiện nay. Chính vì vậy, quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh xuất khẩu thủy sản cả về phương diện lý thuyết lẫn thực tế. Xuất phát từ lý do đó, tác giả đã chọn đề tài “Quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Hệ thống lại những vấn đề lý thuyết cơ bản về quản trị rủi ro. - Phân tích thực trạng rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương, thu thập dữ liệu để nhận dạng các rủi ro và xác định các nguyên nhân gây ra rủi ro đó. 3 - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương trước những thời cơ và thách thức. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: là quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương hiện nay. Đối tượng khảo sát là các ngư dân, các vựa, nậu, các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu + Về không gian: Tác giả nghiên cứu về rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam, trong đó tập trung chủ yếu ở ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; đây là những tỉnh có sản lượng khai thác cá ngừ lớn nhất ở nước ta. + Về thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2010. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra: Để tìm ra các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam, tác giả đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp ngư dân các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; các nậu, vựa, các công ty, các chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn ba tỉnh nói trên. - Phương pháp phân tích thống kê, so sánh và tổng hợp: Kết hợp kết quả điều tra với các số liệu từ báo cáo tổng kết của các tổ chức, hiệp hội để phân tích, đánh giá, so sánh và tổng hợp. - Phương pháp tư duy: Tác giả sử dụng phương pháp tư duy logic trong phân tích thực trạng công tác quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp. 5. Tính mới của đề tài Cá ngừ đại dương là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước; nó đã mang lại nguồn ngoại tệ lớn, góp phần cải thiện đời sống của nhiều gia đình. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu về cá ngừ đại dương mà mới dừng lại ở những bài báo, bài hội thảo viết về lĩnh vực này như: Mối nguy Histamine và các biện pháp kiểm soát trong sản xuất kinh doanh cá ngừ của Nguyễn Thị Ngọc Yến, Phó Giám đốc Trung tâm Chất lượng Thủy sản 4 vùng 3; Thực trạng khai thác cá ngừ đại dương Phú Yên và đề xuất giải pháp của Kỹ sư Lê Quỳnh Ba, Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên; Những giải pháp hỗ trợ cho ngư dân đánh bắt xa bờ của Bùi Thị Phương Oanh, Phòng Chính trị Bộ đôi Biên phòng Phú Yên; Vai trò của Nậu trong hoạt động thu mua và tiêu thụ cá ngừ đại dương ở ba tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa của nhóm nghiên cứu về Nậu/Vựa trong nghề cá ở Việt Nam, thuộc dự án ALMRV; v.v… có thể nói đây là đề tài hoàn toàn mới mẽ ở nước ta. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những người đi trước, tác giả chọn đề tài “Quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam” mở ra hướng nghiên cứu mới cho mình. Trong luận văn, tác giả tìm hiểu thực trạng rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam, đồng thời vạch ra một số nguyên nhân gây ra rủi ro trong lĩnh vực này. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản trị rủi ro xuất khẩu. 6. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn được chia thành ba chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu. Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam thời gian đến. 5 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH KINH DOANH XUẤT KHẨU 1.1. Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu 1.1.1. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu 1.1.1.1. Khái niệm Trong cuộc sống và công việc hằng ngày rủi ro có thể xuất hiện trên mọi lĩnh vực. Rủi ro không ngoại trừ một ai, một quốc gia, một dân tộc nào. Rủi ro có thể xuất hiện trong mọi công việc kể cả trong kinh doanh, vì thế kinh doanh luôn gắn liền với rủi ro mạo hiểm và chấp nhận rủi ro trong kinh doanh vì họ kỳ vọng sẽ thu được phần lợi nhuận, được xem như là một “sự tưởng thưởng” cho việc dám chấp nhận mạo hiểm này. Tuy nhiên, chỉ có những nhà kinh doanh biết phân tích, đánh giá và lường trước rủi ro để đưa ra những biện pháp phòng ngừa rủi ro hợp lý thì mới có nhiều cơ may nhận được “sự tưởng thưởng” đó. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào cho các nhà doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thì rủi ro càng đa dạng và phức tạp hơn. Rủi ro trong kinh doanh là điều tất yếu, không thể loại bỏ hẳn nhưng doanh nghiệp có thể phòng ngừa và hạn chế tác động của rủi ro bằng các biện pháp hợp lý. Cho đến nay chưa có định nghĩa thống nhất về rủi ro, những trường phái khác nhau, tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Những định nghĩa này rất đa dạng và phong phú. Theo trường phái truyền thống: rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Theo trường phái trung hòa: rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro có tính hai mặt: vừa có tính tích cực, vừa có tính tiêu cực. Rủi ro có thể gây ra 6 những tổn thất, mất mát, nguy hiểm,… nhưng cũng chính rủi ro có thể mang đến cho con người những cơ hội. Theo Allan Willet, một học giả Mỹ cho rằng: “Rủi ro là một bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố không mong đợi”. Theo Frank Knight, một học giả Mỹ định nghĩa: “Rủi ro là những bất trắc có thể đo lường được”. Theo Williams, JR, Smith and Young lại cho rằng: “Rủi ro là những kết quả tiềm ẩn có thể xảy ra, khi rủi ro xảy ra thì kết quả là điều không thể nhìn thấy trước một cách chắc chắn”. Trích dẫn sách tài chính doanh nghiệp hiện đại: Rủi ro được xem là khả năng xuất hiện các khoản thiệt hại tài chính. Những chứng khoán nào có khả năng xuất hiện các khoản lỗ lớn được xem như là có rủi ro lớn hơn những chứng khoán có khả năng xuất hiện khoản lỗ thấp. Ngoài ra, một số học giả trong nước cho rằng: - Rủi ro là sự bất trắc gây mất mát. - Rủi ro là sự biến động tiềm ẩn ở kết quả. - Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất. Từ những khái niệm trên, có thể đi đến khái niệm về rủi ro xuất khẩu như sau: “Rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu là những bất trắc có thể xảy ra ngoài ý muốn trong quá trình kinh doanh xuất khẩu, gây thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu”. 1.1.1.2. Phân loại rủi ro Với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, chiến lược phát triển kinh tế của nước ta hướng mạnh đến xuất khẩu, rủi ro xuất khẩu ngày càng phức tạp và đa dạng. Việc phân loại rủi ro xuất khẩu có ý nghĩa thiết thực, giúp đưa ra các giải pháp phòng ngừa rủi ro có hiệu quả, rủi ro xuất khẩu có thể phân thành nhiều loại. Tuy nhiên, việc phân loại rủi ro xuất khẩu theo yếu tố chủ quan, khách quan có ý nghĩa thiết thực hơn trong việc tìm ra các giải pháp phòng ngừa rủi ro cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. 7 Nhóm rủi ro do các yếu tố khách quan Rủi ro do hiểm họa: Những rủi ro do lũ lụt, hạn hán, động đất, dịch bệnh,… tác động bất lợi đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hậu quả rủi ro do thiên tai mang lại thường rất nghiêm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp phải phá sản vì rủi ro này. Rủi ro chính trị, pháp lý: Loại rủi ro mà các nhà kinh doanh nhất là các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lo ngại nhất. Bởi vì, trước khi xây dựng chiến lược kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp hay quyết định ký một hợp đồng xuất khẩu phải dựa vào tình hình kinh tế – xã hội, dựa trên các quyết định,… một biến động mạnh về chính trị, pháp lý xảy ra có thể làm đảo lộn mọi dự đoán của doanh nghiệp và làm doanh nghiệp thất bại. Rủi ro do lạm phát: Sự tăng giá bình quân của hàng hóa. Các doanh nghiệp luôn gặp các rủi ro do các biến động kinh tế. Rủi ro lạm phát là một điển hình trong các rủi ro do biến động kinh tế. Khi lạm phát xảy ra ở mức độ cao thì hợp đồng xuất khẩu sẽ không có ý nghĩa. Trong kinh doanh xuất khẩu, thời gian kể từ khi tính toán hiệu quả của thương vụ xuất khẩu đến khi nhận tiền hàng thanh toán từ phía nước ngoài tương đối dài, trung bình 30 – 45 ngày. Do vậy, xác suất xảy ra lạm phát là không phải nhỏ. Rủi ro hối đoái: Sự không chắc chắn về một khoản thu nhập hay chi trả do biến động tỷ giá gây ra, có thể làm tổn thất đến giá trị dự kiến của hợp đồng. Trong hợp đồng xuất khẩu, rủi ro do xuất khẩu xảy ra khi ngoại tệ mà doanh nghiệp xuất khẩu nhận được trong tương lai giảm giá so với đồng nội tệ. Nghĩa là tiền thu về được qui đổi ra đồng nội tệ giảm so với dự kiến. Rủi ro do sự thay đổi chính sách ngoại thương: Hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành chính, luật pháp nhằm điều tiết các hoạt động mua bán quốc tế của một nhà nước trong một giai đoạn nhất định. Hầu hết các chính sách ngoại thương của các nước thay đổi theo từng giai đoạn tùy theo mục đích, định hướng của nhà nước đó trong từng thời kỳ khác nhau. Sự thay đổi thường xuyên của các định chế này là một đe dọa lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu vì các doanh nghiệp này không những chịu 8 rủi ro do sự thay đổi chính sách ngoại thương trong nước mà còn chịu ảnh hưởng bởi chính sách ngoại thương của các nước xuất khẩu. Trong rủi ro do sự thay đổi chính sách ngoại thương, doanh nghiệp xuất khẩu có thể gặp nhiều rủi ro về qui định hạn ngạch, thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu và các qui định hành chính khác. Rủi ro do sự biến động giá: Bao gồm rủi ro do biến động giá các yếu tố đầu vào và giá xuất khẩu trên thị trường trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu của doanh nghiệp, đặc biệt đối với các hợp đồng xuất khẩu có thời gian dài. Biến động giá cả các yếu tố đầu vào như: biến động giá cả nguyên vật liệu, chi phí lưu thông… các doanh nghiệp xuất khẩu đặc biệt quan tâm đến rủi ro này vì các hợp đồng xuất khẩu thường được các doanh nghiệp ký trước khi tiến hành mua hàng để xuất khẩu. Nhóm rủi ro do các yếu tố chủ quan mang lại Rủi ro do thiếu vốn: Để nâng cao khả năng cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm cũng như dịch vụ. Song do thiếu vốn, doanh nghiệp không đủ khả năng đổi mới công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất tối ưu. Từ đó, không đủ sức cạnh tranh với đối thủ dẫn tới việc mất thị phần… Ngoài ra, trong hoạt động xuất khẩu, rủi ro do thiếu vốn còn làm cho quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu không được đảm bảo, dẫn tới giao hàng chậm. Rủi ro do thiếu thông tin: Các nhà xuất khẩu hơn ai hết phải là những người biết rõ thông tin về giá cả, sự biến động trên thị trường thế giới, đặc biệt là những thông tin về đối tác. Việc thiếu những thông tin sẽ mang lại những hậu quả khó lường cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tiến hành những hoạt động kinh doanh xuất khẩu với các “công ty ma”, đến khi không được thanh toán tiền hàng mới biết mình bị lừa. Hơn nữa, việc không nắm bắt được những biến động giá cả trên thị trường thế giới, nhiều doanh nghiệp đã ký hợp đồng với giá thấp đến khi giá trên thị trường tăng vọt, làm cho giá trong nước của mặt hàng cũng tăng theo, khiến doanh nghiệp đó bị lỗ. Chính vì thế sự bùng nổ thông tin như hiện nay, để nhận biết và tránh những sai lệch thông tin không còn cách nào khác là doanh nghiệp cần phải coi nó như là một trong những yếu tố chủ yếu đem lại rủi ro cho mình. 9 Rủi ro do năng lực quản lý kém: Rủi ro được xem không có phương thức hữu hiệu nào trị được. Một nhà xuất khẩu có năng lực quản lý kém sẽ liên tục gặp những rủi ro khác nhau: tưởng làm như vậy là kịp thời nhưng thực tế là quá trễ, tính toán như vậy tưởng là lời nhưng thực tế là lỗ, quan hệ như vậy cứ nghĩ là khách hàng hài lòng nhưng thực tế khách hàng rất thất vọng… Rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Có thể nói, rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay còn thiếu nhân viên có trình độ nghiệp vụ ngoại thương, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự thiếu hiểu biết về luật pháp và tập quán kinh doanh quốc tế mà biểu hiện là sự hố giá, nhầm chất lượng, thiếu số lượng, vi phạm giao kết trong hợp đồng và L/C… Một khi trình độ nghiệp vụ của nhân viên ngoại thương còn yếu kém thì họ dễ dàng bị mắc lừa và hậu quả là rủi ro phát sinh thường xuyên và liên tục. Nhóm rủi ro căn cứ theo qui trình thực hiện kinh doanh xuất khẩu Rủi ro khi chào hàng: Việc doanh nghiệp thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong mua bán quốc tế có hai loại chào hàng chính: chào hàng cố định và chào hàng tự do. Chào hàng cố định là việc chào bán một lô hàng nhất định cho người mua, mà người chào hàng bị ràng buộc vào lời chào của mình. Chào hàng tự do là loại chào hàng không ràng buộc trách nhiệm đối với người phát ra nó. Những rủi ro thường gặp khi chào hàng: không nêu rõ tên hàng, phẩm chất, giá cả, điều kiện giao hàng, thời gian hiệu lực không rõ ràng… Rủi ro khi đàm phán: Trong mua bán quốc tế người ta chủ yếu sử dụng các phương thức đàm phán như: đàm phán giao dịch qua thư tín, đàm phán giao dịch qua điện thoại, đàm phán giao dịch trực tiếp, tùy theo hình thức đàm phán qua giao dịch và sự thông thạo của người đàm phán mà doanh nghiệp có thể gặp những rủi ro cơ bản sau: 10 - Đối với hình thức giao dịch qua thư từ: Đó là sự chuẩn bị kém về nội dung, hình thức làm cho khách hàng có sự nhầm lẫn về ngôn ngữ hay nội dung mà người bán muốn chuyển tải do có sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, tập quán kinh doanh. - Đối với hình thức giao dịch qua điện thoại: Doanh nghiệp có thể gặp rủi ro do ngôn từ sử dụng không rõ ràng, gãy gọn, kém linh hoạt, đôi khi sự không lịch thiệp trong giao tiếp có thể làm cho doanh nghiệp mất đi một hợp đồng có giá trị sinh lợi lớn. - Đối với hình thức giao dịch trực tiếp: Đó là sự thiếu hiểu biết về đối tác, chưa chuẩn bị đầy đủ những tư liệu cần thiết có liên quan, thiếu kỷ năng, nghệ thuật đàm phán, thiếu kế hoạch đàm phán. Rủi ro khi soạn thảo: Quá trình soạn thảo hợp đồng là một trong những khâu quan trọng, nếu chuẩn bị chu đáo doanh nghiệp có thể phòng ngừa và hạn chế những rủi ro khác nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng. Những rủi ro thường gặp trong khâu soạn thảo là không dẫn chiếu các tập quán, văn bản pháp luật có liên quan, thiếu những điều khoản cần thiết của hợp đồng, đặc biệt là các điều khoản bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp như điều chỉnh giá các hợp đồng có thời gian thực hiện dài, giao hàng, thanh toán, trọng tài… không đưa vào những thỏa thuận trong đàm phán, ngôn từ sử dụng không rõ ràng. Rủi ro khi ký kết: Quá trình ký kết thường rất ít xảy ra rủi ro đối với doanh nghiệp, ngoại trừ những nhân tố tiêu cực. Tuy nhiên các doanh nghiệp có thể mắc những rủi ro sau: không kiểm tra lại các điều khoản trong hợp đồng, không đối chiếu các khoản đã đạt được cũng như không kiểm tra các phụ kiện của hợp đồng. Rủi ro trong quá trình chuẩn bị nguồn hàng: Quá trình chuẩn bị nguồn hàng là khâu quan trọng trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện tốt hợp đồng khi đã chuẩn bị hàng hóa đủ số lượng và chất lượng, đúng theo yêu cầu của hợp đồng xuất khẩu. Trước khi xuất khẩu các sản phẩm hầu hết phải trải qua một giai đoạn sản xuất, chế biến hay ít nhất cũng trải qua một giai đoạn thu gom từ nhiều nguồn. Do đó, quá trình chuẩn bị nguồn hàng chịu 11 ảnh hưởng lớn của môi trường tự nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội… rủi ro trong khâu này là không tránh khỏi. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu có lẽ là người phải chịu nhiều rủi ro trong khâu này nhất. Rủi ro nhất của doanh nghiệp trong khâu này là khi đã ký hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoài rồi mới chuẩn bị hàng sau. Đó là các đại lí giao hàng không đủ số lượng hoặc đủ số lượng nhưng chất lượng không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, chưa kể những rủi ro khác như đột biến của giá mua, thiên tai… Ngoài ra, doanh nghiệp cũng không thể tránh khỏi những rủi ro về bảo quản, bao bì, đóng gói, kí mã hiệu… nếu không có biện pháp phòng ngừa. Rủi ro trong quá trình vận chuyển: Tuỳ theo từng loại hợp đồng và những điều kiện cơ sở giao hàng mà mức độ rủi ro trong quá trình vận chuyển sẽ khác nhau. Thông thường trong quá trình vận chuyển, doanh nghiệp thường gặp những rủi ro như: thuê phương tiện vận tải không phù hợp với tính chất hàng hóa, chèn lót, sắp đặt không đúng kỹ thuật,… hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thường được vận chuyển bằng đường biển, song các nhân viên nghiệp vụ của doanh nghiệp lại chưa thông thạo về nghiệp vụ thuê tàu. Nghiệp vụ vận tải của các nhân viên này còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hóa không phải là ít. Rủi ro trong quá trình giao nhận: Rủi ro mà các doanh nghiệp thường gặp trong quá trình giao nhận hàng xuất khẩu do những nguyên nhân chính sau: - Thiếu thông tin về hãng tàu, lịch trình, địa điểm, chi nhánh, chuyển tải… không chủ động trong việc chuẩn bị hàng để giao. - Không nắm vững các khái niệm về thời gian xếp dỡ, thời gian tàu đến cảng xếp hàng, do đó không chủ động giao hàng để tránh bị phạt do chậm xếp hàng. - Không nắm vững kỹ thuật giao hàng, bố trí sắp xếp hàng hóa trên phương tiện vận tải để đảm bảo chất lượng và số lượng được giao, không sử dụng đúng trong hợp đồng. - Chưa thông thạo các thủ tục hải quan, hoặc không chuẩn bị đầy đủ các chứng từ cần thiết để tiến hành kiểm hóa, ảnh hưởng đến thời gian giao hàng. - Không thông báo giao hàng cho khách hàng biết theo qui định của hợp đồng. 12 - Không chủ động trong việc thuê tàu vì “bán FOB, mua CIF”, nên các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường gặp rủi ro trong quá trình giao nhận, nhất là làm thế nào giao hàng phù hợp với L/C. Vì thế quá trình giao hàng được tiến hành trong thời gian ngắn và cập rập là điều tất yếu dẫn đến rủi ro lớn. - Rủi ro trong quá trình giao nhận ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện hoàn chỉnh một hợp đồng xuất khẩu của doanh nghiệp. Bởi vì, để được thanh toán đầy đủ tiền hàng, doanh nghiệp cần phải có đầy đủ những chứng từ cần thiết. Trong đó vận đơn là một trong những chứng từ cần thiết chứng minh việc giao hàng của doanh nghiệp. Vì vậy, phòng ngừa rủi ro trong quá trình giao nhận là hết sức cần thiết trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Rủi ro trong quá trình thanh toán: Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, các phương tiện thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng và phong phú, do đó rủi ro trong thanh toán quốc tế ngày càng cao. Các phương thức thanh toán mà các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng trong xuất khẩu chủ yếu vẫn là L/C và TT hoặc MT và CAD. 1.1.2. Quản trị rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu 1.1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu Có rất nhiều quan điểm về quản trị rủi ro, trong phạm vi luận văn này chúng tôi muốn đưa ra khái niệm về quản trị rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu như sau: “Quản trị rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu là một quá trình có tính chất toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, tìm ra những nguyên nhân, sau đó kiểm soát phòng ngừa nhằm giảm thiểu những tổn thất, mất mát và những ảnh hưởng bất lợi trong quá trình kinh doanh xuất khẩu”. 1.1.2.2. Nội dung quản trị rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu Nội dung chính của quản trị rủi ro bao gồm: - Nhận dạng, phân tích và đo lường rủi ro. - Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro. - Tài trợ rủi ro khi nó xuất hiện. 1.1.2.3. Nhận dạng - Phân tích - Đo lường rủi ro 13 Nhận dạng rủi ro: Nhằm xác nhận những thông tin về nguồn gốc rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa, đối tượng rủi ro và các loại tổn thất. Nhận dạng rủi ro bao gồm các công việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ mọi hoạt động của tổ chức nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không những rủi ro đã và đang xảy ra, mà còn dự báo được những rủi ro của tổ chức, trên cơ sở đề xuất các giải pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp. Phân tích rủi ro: Xác định được những nguyên nhân gây ra rủi ro trên cơ sở mới tìm ra các biện pháp phòng ngừa. Đo lường rủi ro: Thu thập số liệu và phân tích đánh giá. Tần suất xuất hiện rủi ro là số lần xảy ra tổn thất trong một khoảng thời gian nhất định. Mức độ nghiêm trọng của rủi ro tổn thất mất mát. 1.1.2.4. Kiểm soát – Phòng ngừa rủi ro Kiểm soát rủi ro bao gồm các kỹ thuật, công cụ, chiến lược và những chương trình nhằm đến mục tiêu né trách, đề phòng và hạn chế hay nói cách khác là kiểm soát tần suất, độ lớn của các tổn thất và các ảnh hưởng bất lợi khác của rủi ro. Các chương trình kiểm soát rủi ro khác nhau ở mỗi tổ chức, tuy nhiên các tổ chức có thể sử dụng công cụ và kỹ thuật được sắp xếp theo các nhóm sau: Né tránh rủi ro là phương pháp kiểm soát rủi ro bằng cách né tránh những hoạt động, con người, tài sản có khả năng làm phát sinh các tổn thất. Trước hết là chủ động né tránh trước khi rủi ro xảy ra và sau đó loại bỏ những nguyên nhân gây ra rủi ro. Ngăn ngừa tổn thất: Nhóm các biện pháp làm giảm bớt tổn thất; giảm tần suất tổn thất xảy ra hoặc giảm mức thiệt hại khi tổn thất xảy ra. Hoạt động ngăn ngừa rủi ro là tìm cách can thiệp vào ba mắc xích đầu tiên của chuỗi rủi ro: mối nguy hiểm, môi trường rủi ro và sự tương tác giữa mối nguy hiểm và môi trường. Giảm thiểu rủi ro: Nhóm các biện pháp này sử dụng khi rủi ro đã xảy ra, tấn công vào các rủi ro nhằm làm giảm nhẹ sự nghiêm trọng của tổn thất, giảm bớt sự thiệt hại do rủi ro gây ra. Mặc dù sử dụng sau khi tổn thất đã xảy ra nhưng các biện pháp này phải lập kế hoạch trước khi tổn thất xảy ra thì công việc mới có hiệu quả. 14 Phân chia rủi ro: Kỹ thuật cắt rời các rủi ro độc lập nhau để nếu xảy ra tổn thất chúng không xảy ra hiện tượng dây chuyền. Một sự kiện đơn lẻ sẽ ít gây tổn thất nặng nề hoặc làm ảnh hưởng lớn đối với hoạt động của tổ chức. Thí dụ, người ta ngăn rừng thành thửa, mỗi thửa vài dặm vuông tách rời nhau đề phòng khi có hỏa hoạn sẽ chỉ cháy hết thửa đó thôi không cháy lan sang các thửa khác. Chuyển giao rủi ro: Tạo ra nhiều thực thể thay vì phải một mình gánh chịu rủi ro. Muốn vậy nhiều khi phải chịu một khoản phí nhất định, vì vậy, phải cân nhắc hiệu quả của hoạt động này cũng như hậu quả của các rủi ro tiềm tàng. 1.1.2.5. Tài trợ rủi ro - Tài trợ sau tổn thất + Các nguồn tài trợ sẵn có sau tổn thất: Tiền mặt và đầu tư ngắn hạn: Vấn đề tài trợ sau tổn thất chỉ đặt ra khi công ty quyết định tái đầu tư và có thể có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa quyết định tái đầu tư và tài trợ. Phí cơ hội của việc không có tiền để tái đầu tư có quan hệ cùng chiều với tỷ suất nội hoàn (IRR) của việc tái đầu tư. Năng suất tái đầu tư lại phụ thuộc vào năng suất sử dụng vốn trước tổn thất và sự tàn phá do tổn thất gây ra. Nợ: Tài khoản thấu chi là một khoản vay doanh nghiệp đã đặt trước với ngân hàng phòng khi hữu sự. Trong ngắn hạn hình thức vay này có giá trị như tiền mặt về phương diện tính thanh khoản của doanh nghiệp và thường được sử dụng như một công cụ giúp giảm bớt sự biến động của ngân lưu hoạt động. Vốn cổ phần: Phát hành cổ phiếu mới để tài trợ tổn thất là biện pháp thường được dùng nhất. Lúc đó các điều khoản phát hành phụ thuộc vào nhận định của nhà đầu tư về tương lai của doanh nghiệp sau khi tổn thất xảy ra và tình hình thị trường cổ phiếu lúc đó. + Ảnh hưởng đến cấu trúc vốn Nợ có chi phí thấp hơn vốn cổ phần: Ở vị trí nhà đầu tư thì trái phiếu ít rủi ro hơn cổ phiếu, vì vậy, họ sẵn sàng chấp nhận mua trái phiếu có lợi suất thấp hơn cổ phiếu. Trong khi doanh nghiệp lại thấy trái phiếu là rủi ro hơn cổ phiếu nên họ cũng sẵn lòng tăng lợi suất cổ phiếu để huy động vốn cổ phần. Nợ rẻ hơn vốn cổ 15 phần theo nghĩa lợi suất trung bình của trái phiếu hiện nay thấp hơn lợi suất mà các nhà đầu tư mong đợi khi mua cổ phiếu mới và chính lợi suất trung bình xác định giá của chứng khoán phát hành. Chi phí của nợ và vốn cổ phần tăng theo tỉ lệ nợ của doanh nghiệp: Phát hành nợ càng nhiều rủi ro do vỡ nợ của doanh nghiệp càng lớn, từ đó lợi suất nhà đầu tư càng cao. + Chi phí giao dịch và tổn thất do gián đoạn Chi phí giao dịch và tổn thất do gián đoạn đều ảnh hưởng bất lợi đến hiện giá của ngân lưu từ tái đầu tư. Chi phí giao dịch bao gồm các chi phí liên quan đến việc phát hành chứng khoán, chi phí về pháp lý, chi phí xử lý hồ sơ trong công ty... Các chi phí này làm sụt giảm ngân lưu mong đợi ở năm tổn thất xảy ra và hồi phục dần về mức độ ổn định hơn các năm sau. - Tài trợ trước tổn thất bằng bảo hiểm: Bảo hiểm có 2 chức năng: Cung cấp nguồn tài chính tài trợ cho tái đầu tư, ổn định dòng thu nhập của doanh nghiệp. + Phân tích trước tổn thất của bảo hiểm: Tài trợ trước tổn thất bằng bảo hiểm sẽ tăng thêm giá trị của vốn cổ phần so với tài trợ nợ sau khi tổn thất xảy ra. + Bảo hiểm và chi phí vốn: Bảo hiểm sẽ giảm rủi ro cho doanh nghiệp, vì vậy, nhà đầu tư sẵn lòng chấp nhận một lợi suất thấp hơn, từ đó làm giảm chi phí vốn của doanh nghiệp. + Bảo hiểm về tổn thất do gián đoạn: Tổn thất do gián đoạn là tổn thất thu nhập sau khi rủi ro xảy ra và không khôi phục lại được bằng biện pháp tái đầu tư. Tuy nhiên, phương án tái đầu tư luôn được lựa chọn dù tài trợ bằng bảo hiểm hay bằng nợ vì lãi suất tái đầu tư. Tuy nhiên, tài trợ bằng bảo hiểm được ưa thích hơn vì lợi suất mong đợi của cổ đông thấp hơn phương án tài trợ bằng nợ. + Bảo hiểm tài sản dư thừa: Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng cao, nhiều công ty lâm vào cảnh phá sản. Để giảm thiểu rủi ro khi công ty vỡ nợ, bảo hiểm đã hỗ trợ một cách hiệu quả cho trái 16 chủ. Phí bảo hiểm là tiền của cổ đông bỏ ra nhưng lợi ích từ bảo hiểm thì được chuyển một phần qua trái chủ dưới hình thức làm giảm rủi ro vỡ nợ. 1.2. Quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất khẩu 1.2.1. Quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu 1.2.1.1. Giai đoạn chuẩn bị Giai đoạn chuẩn bị là khâu đầu tiên và giữ vai trò quan trọng trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu. Trong giai đoạn này nhìn chung để hợp đồng đạt hiệu quả cao chúng ta cần phải chuẩn bị những vấn đề như: ngôn ngữ, thông tin, năng lực của người đàm phán và thời gian đàm phán. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chỉ đề cập vào khâu chuẩn bị thông tin. Nội dung của những thông tin thì rất phong phú nhưng tác giả chỉ tập trung vào những thông tin cơ bản như sau: Thông tin về hàng hóa Người đàm phán cần phải nắm vững về những thông tin liên quan đến hàng hóa như chất lượng hàng hóa như thế nào bao gồm các tiêu chuẩn cơ lý hóa, khả năng cung cấp hàng của doanh nghiệp, ngoài ra còn có những yếu tố khác như thời vụ, vị thế lúc bán hàng, các qui định về qui cách, phẩm chất, bao bì. Thông tin về thị trường, giá cả Người đàm phán cần phải nắm những thông tin dự đoán xu hướng biến động giá cả trên cơ sở phân tích tình hình cung cầu, sự khủng hoảng, số lượng trữ kho và sự tham gia đầu cơ của các yếu tố thị trường. Tìm hiểu đối tác Như lịch sử công ty, ảnh hưởng của công ty trong xã hội, uy tín, tình hình tài chính, mức độ trang bị kỹ thuật, số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm, định hướng phát triển trong tương lai… 1.2.1.2. Giai đoạn đàm phán Trong giai đoạn này cần lưu ý những vấn đề sau: • Cần diễn đạt chính xác ý kiến của mình, cố gắng làm cho lời nói có tính thuyết phục, nên dùng cách diễn giải chậm rãi, rõ ràng thân thiện đôi chỗ có pha chút hài hước để tạo bầu không khí thân thiện. 17 • Cần chú ý lắng nghe ý kiến của đối tác, đừng cướp lời họ, đừng vội vàng đưa ra nhận xét. 1.2.1.3. Giai đoạn kết thúc và ký kết hợp đồng Trong giai đoạn này cần chú ý những điểm sau: • Cần thỏa thuận với nhau tất cả những điều khoản cần thiết trước khi ký kết hợp đồng. • Hợp đồng thường do một bên soạn thảo, trước khi ký kết bên kia cần kiểm tra kỹ lưỡng, đối chiếu với những thỏa thuận đã đạt được trong đàm phán. 1.2.2. Quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất khẩu 1.2.2.1. Thực hiện những công việc bước đầu của khâu thanh toán Nếu thanh toán bằng L/C, người bán cần: • Nhắc nhở người mua mở L/C theo đúng yêu cầu. • Kiểm tra L/C. • Sau khi kiểm tra L/C nếu thấy phù hợp với hợp đồng thì tiến hành giao hàng còn không phù hợp thì thông báo ngay cho người mua và ngân hàng mở L/C, để tu chỉnh, cho đến khi phù hợp thì tiến hành giao hàng. Nếu thanh toán bằng CAD, người bán cần nhắc người mua mở tài khoản ký thác đúng theo yêu cầu, khi tài khoản đã mở cần liên hệ với ngân hàng để kiểm tra điều kiện thanh toán, cần chú ý tên các chứng từ cần xuất trình, người cấp, số bản… kiểm tra xong nếu thấy phù hợp thì tiến hành giao hàng. Nếu thanh toán TT trả trước, nhắc nhở người mua chuyển tiền đủ và đúng hạn. Chờ ngân hàng báo có rồi mới tiến hành giao hàng. Còn các phương thức thanh toán khác như TT trả sau, D/A, D/P thì người bán phải giao hàng rồi mới có thể thực hiện được các công việc của khâu thanh toán. 1.2.2.2. Chuẩn bị hàng hóa để xuất khẩu Người xuất khẩu cần phải đi gom hàng cho đủ số lượng và chất lượng như trong hợp đồng. Ngoài ra còn chuẩn bị trước các vấn đề như bao bì đóng gói, ký mã hiệu, vận chuyển hàng hóa đến kho riêng hay đến cửa khẩu. 1.2.2.3. Kiểm tra hàng hóa để xuất khẩu 18 Trước khi giao hàng, người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng và trọng lượng, nếu hàng xuất khẩu là nông, lâm, thủy sản cần phải kiểm tra khả năng lây lan (tức là kiểm dịch). Việc kiểm nghiệm, kiểm dịch được tiến hành ở hai cấp: cấp cơ sở và cấp cửa khẩu. Trong đó việc kiểm tra cấp cơ sở đóng vai trò quyết định còn việc kiểm tra ở cấp cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại ở cấp cơ sở. Việc kiểm nghiệm ở cấp cơ sở có KCS của đơn vị, còn việc kiểm dịch và kiểm định ở cấp cửa khẩu có chi cục kiểm dịch hoặc các đơn vị kiểm dịch độc lập như SGS, Vinacontrol hoặc FCC hay Omic… 1.2.2.4. Làm thủ tục hải quan Khai báo và nộp tờ khai hải quan. Làm nghĩa vụ nộp thuế, lệ phí xuất khẩu. 1.2.2.5. Thuê phương tiện vận tải Nếu hợp đồng xuất khẩu qui định việc người bán thuê phương tiện để chuyên chở hàng đến địa điểm đích (điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu CIF, CPT, CIP, DES, DEQ, DDU, DDP, DAF) thì người xuất khẩu phải tiến hành thuê phương tiện vận tải. Còn nếu hợp đồng qui định giao hàng tại nước người xuất thì người nhập khẩu phải thuê phương tiện chuyên chở về nước (điều kiện cơ sở giao hàng là EXW, FCA, FAS, FOB…). Tùy từng trường hợp cụ thể người xuất khẩu có thể thuê tàu chợ, tàu chuyến, tàu định hạn. 1.2.2.6. Giao hàng cho người vận tải Hàng xuất khẩu của ta chủ yếu giao nhận bằng đường biển. Trong trường hợp này chủ hàng phải làm các công việc sau: Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu, lập “bảng kê hàng chuyên chở“ (cargo list) gồm các mục chủ yếu sau: consignee, mark, B/L number, description of cargos, number of packages, gross weight, measurement, named port of destination… trên cơ sở đó khi lưu cước hãng tàu lập S/O (shipping order) và lên sơ đồ xếp hàng 19 lên tàu (cargo plan or stowage plan) làm căn cứ để cảng sắp xếp thứ tự gửi hàng và tính chi phí liên quan. 1.2.2.7. Mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất khẩu Khi xuất khẩu theo điều kiện CIF, CIP hoặc nhóm D (Incoterms) thì người bán phải mua bảo hiểm cho hàng hóa. Để mua bảo hiểm cần làm những công việc sau: • Chọn điều kiện mua bảo hiểm. • Làm giấy yêu cầu bảo hiểm. • Đóng phí bảo hiểm và lấy chứng thư bảo hiểm. 1.2.2.8. Lập bộ chứng từ thanh toán Sau khi giao hàng, người bán nhanh chóng lập bộ chứng từ thanh toán trình khách hàng hoặc ngân hàng để đòi tiền. Nếu là thanh toán theo L/C thì phải làm đúng như yêu cầu của L/C; còn nếu thanh toán theo các phương thức khác thì làm chứng từ theo hướng dẫn giao hàng của khách hàng (shipping intrucstion). Một bộ chúng từ thanh toán thường có những chứng từ như sau: vận đơn đường biển; giấy chứng nhận bảo hiểm; hóa đơn thương mại; giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa; giấy chứng nhận trọng lượng hàng hóa; giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa; phiếu đóng gói hàng hóa; giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật. 1.2.2.9. Giải quyết khiếu nại nếu xảy ra Khi nhận được hồ sơ khiếu nại của người mua hoặc các bên hữu quan khác, người bán cần nghiêm túc, nhanh chóng nghiên cứu hồ sơ, tìm phương hướng giải quyết một cách thỏa đáng. 1.3. Những bài học kinh nghiệm về quản trị rủi ro trong quá trình xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam 1.3.1. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam gặp rủi ro trong thanh toán Vụ Thị trường châu Âu (Bộ Công thương) cho biết, một số doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu cá ba sa và thủy sản khác sang các công ty nước ngoài nhưng khi thanh toán tiền hàng đã gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có trường hợp đã giao hàng mấy năm nhưng hiện vẫn chưa nhận được tiền thanh toán điển 20 hình như Công ty Hoogland Foods BV và Công ty Star Procurement Inc (Starcom Co Inc) của Hà Lan. Theo thông tin dữ liệu của Phòng Thương mại Hà Lan (cơ quan chịu trách nhiệm đăng ký kinh doanh, thành lập doanh nghiệp và cung cấp dịch vụ thông tin về doanh nghiệp Hà Lan), Công ty Hoogland Foods BV là công ty của 1 người (ông Gert.J Hoodlands), trụ sở công ty cũng là nhà riêng và Công ty Procurement Inc có gốc là công ty của một nước châu Phi, đăng ký kinh doanh tại Hà Lan. Cơ quan trên cho biết, người giao dịch với phía doanh nghiệp Việt Nam là ông Gert.J Hoodlands, Giám đốc Công ty Hoogland Foods BV, nhưng khi ký hợp đồng thì thường lấy tư cách pháp nhân là Công ty Star Procurement Inc. Trong giao dịch với các doanh nghiệp Việt Nam, phía nước ngoài đều đề nghị phương thức thanh toán D/A (thanh toán nhờ thu chấp nhận chứng từ - người mua hàng sẽ ký chấp nhận lên hối phiếu và gửi lại cho ngân hàng nhờ thu). Tuy nhiên, sau khi giao hàng các “đối tác” nước ngoài cứ lần lữa, chần chừ, tìm cách không thanh toán. Trước tình huống trên, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải thuê luật sư để nhờ tòa án giữ tài sản mới thu được tiền hàng. Theo Vụ Thị trường châu Âu, nhiều doanh nghiệp Việt Nam thường không chú ý là giao dịch với một người nhưng khi ký hợp đồng lại với một tư cách pháp nhân khác mà mình không rõ, đến khi không thu được tiền, tranh chấp xảy ra, đối tác đứng ra giao dịch chỉ nhận là đại lý của pháp nhân đứng ra ký hợp đồng nhập khẩu và không chịu trách nhiệm pháp lý; liên hệ với đối tác là pháp nhân đứng tên ký hợp đồng thì không liên lạc được, doanh nghiệp Việt Nam thường bị thua thiệt. “Với những đối tác nước ngoài không nghiêm túc, phương thức thanh toán lại không chắc chắn mà phụ thuộc vào thiện chí của người mua thì việc đòi tiền hàng chỉ có thể thực hiện thông qua luật sư để tiến hành các thủ tục gây sức ép hoặc khởi kiện tại tòa án Hà Lan”, Vụ Thị trường châu Âu nhận định. Để phòng tránh những rủi ro không thu được tiền hàng khi giao dịch với đối tác nước ngoài, Vụ Thị trường châu Âu khuyến cáo các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần lưu ý: 21 Đối với khách hàng mới quen hoặc mới giao dịch, doanh nghiệp cần yêu cầu phía đối tác cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh và tra cứu thông tin trước khi tiến hành thương thảo, sử dụng phương thức thanh toán chặt chẽ, an toàn nhằm đảm bảo thu hồi tiền hàng. Công ty nước ngoài cũng như công ty Việt Nam khi đã đăng ký kinh doanh là có tư cách pháp nhân, tuy nhiên không phải đối tác có tư cách pháp nhân là yên tâm ký hợp đồng mà cần chú ý tới khả năng chuyên doanh, số lượng nhân viên, tình hình tài chính, các điều khoản hợp đồng mà khách hàng đưa ra,… Các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý tư cách pháp nhân người/công ty giao dịch và người/công ty đứng ra ký kết hợp đồng. Vừa qua, một số cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài như: Pakixtan, Singapore, Hà Lan… cũng đã đăng tải thông tin cảnh báo về việc doanh nghiệp Việt Nam không được thanh toán tiền hàng khi chấp nhận phương thức thanh toán D/A, D/P, đặc biệt là giao dịch với những đối tác mới [13]. 1.3.2. Phòng ngừa rủi ro khi xuất khẩu sang thị trường Bê-nanh Thời gian qua, Thương vụ Việt Nam tại Marốc (kiêm nhiệm thị trường Bê- nanh) đã nhận được nhiều thư của doanh nghiệp trong nước đề nghị điều tra về các đối tác thương mại tại nước Cộng hòa Bê-nanh. Qua xác minh thực tế và làm việc với Đại sứ quán Bê-nanh tại Marốc, Thương vụ được biết một số người tại Bê-nanh chuyên giả danh doanh nghiệp để lừa đảo các công ty nước ngoài và đã có doanh nghiệp Việt Nam bị lừa mất tiền. Dưới đây là một số thông tin về thị trường Bê- nanh và các biện pháp phòng ngừa rủi ro để các doanh nghiệp tham khảo. Một số quy định thương mại của Bê-nanh Bê-nanh là quốc gia có quy định xuất nhập khẩu rất thông thoáng. Các điều kiện hoạt động buôn bán tại Bê-nanh được quy định trong Luật số 90-005 ngày 15/5/1990 của nước này như sau: - Mọi hoạt động thương mại hoặc cung ứng dịch vụ mang tính thương mại đều được tự do tại Bê-nanh. 22 - Tự do nhập khẩu vào Bê-nanh mọi hàng hóa trừ một số mặt hàng có thể gây tổn hại đến an ninh quốc gia, sức khỏe cộng đồng, thuần phong mỹ tục hoặc sản phẩm mang tính chiến lược. - Không có quy định về ngoại thương nào của Bê-nanh bắt buộc việc nhập khẩu hàng hóa vào nước này đòi hỏi phải gửi mẫu sản phẩm trước. Các nhà xuất khẩu nên cảnh giác với cái bẫy yêu cầu gửi hàng mẫu bắt buộc. - Tại Bê-nanh không tồn tại Hội đồng kiểm tra hàng xuất khẩu trước khi đưa hàng lên tàu ra nước ngoài, nhưng có một cơ quan phụ trách giám định và kiểm tra hàng nhập khẩu trước khi dỡ hàng tại cảng Cotonou, Bê-nanh. Các doanh nghiệp nước ngoài không bị đòi hỏi bất cứ một giấy phép hay chi phí cam kết phải giao sản phẩm trước khi xuất hàng sang Bê-nanh. Thẻ nhà nhập khẩu hoặc thương nhân chuyên nghiệp do Bộ Thương mại của Bê-nanh cấp cho người quản lý một doanh nghiệp hoàn toàn mang tính cá nhân và không thể nhượng lại. Thẻ này không thể được sử dụng để đảm bảo hoặc đỡ đầu cho một công ty khác. Trong số các phương tiện thanh toán dùng trong giao dịch thương mại quốc tế, đồng Euro và tín dụng thư không hủy ngang có xác nhận được sử dụng nhiều nhất. Việc sử dụng tín dụng thư có thể thực hiện được thông qua các ngân hàng địa phương. Những hành vi lừa đảo thường gặp Doanh nghiệp Bê-nanh thường yêu cầu nhà xuất khẩu phải chuyển trước vào tài khoản phía Bê-nanh một trong những loại phí trị giá từ 1.500 USD đến 6.000 USD: - Phí đăng ký sản phẩm nhập khẩu. - Phí xin giấy phép nhập khẩu và hợp thức hóa giấy tờ này. - Phí theo quy định của Bộ Tài chính Bê-nanh về kiểm soát chống khủng bố, rửa tiền, buôn lậu ma túy. - Phí trả cho luật sư thay mặt người bán ký hợp đồng trước sự chứng kiến của ngân hàng nước sở tại. - Phí hợp thức hóa hợp đồng… Để lừa nhà nhập khẩu, công ty Bê-nanh thường đề xuất mua hàng với khối lượng và trị giá rất lớn, mong muốn thiết lập quan hệ lâu dài và dễ dàng chấp nhận 23 mọi điều kiện của người bán. Để chứng minh, công ty Bê-nanh thường cung cấp những giấy tờ có dấu của các cơ quan có thẩm quyền địa phương như giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy xác nhận bảo đảm, tài khoản ngân hàng,… nhưng thường đây là giấy tờ và con dấu giả. Họ cũng sẵn sàng làm thư mời doanh nghiệp sang Bê- nanh và bố trí cho xe ra đón tại sân bay. Địa chỉ các công ty này cung cấp thường không đầy đủ hoặc thiếu chính xác. Họ thường giấu số điện thoại cố định, số fax mà chỉ cung cấp số điện thoại di động. Một số khác lại sử dụng tên, địa chỉ, trang web của các công ty lớn tại Bê-nanh nhưng thay đổi số điện thoại, số fax và số tài khoản. Những biện pháp phòng ngừa rủi ro Để phòng ngừa rủi ro khi xuất khẩu sang Bê-nanh, các doanh nghiệp cần chú ý: Tìm hiểu thông tin về sự tồn tại trên thực tế của công ty mà mình muốn thiết lập quan hệ thương mại. Trong trường hợp này, có thể tra cứu danh bạ các doanh nghiệp đặt tại Bê-nanh trên trang web của Phòng Thương mại và Công nghiệp Bê- nanh (CCIB) www.ccib.bj (mục répertoire des entreprise/ Télécherement) hoặc liên lạc trực tiếp với Trung tâm Thủ tục Doanh nghiệp nằm trong CCIB tại Cotonou. Trường hợp công ty không đăng ký tại CCIB, cần tìm hiểu thông tin tại Phòng thư ký Tòa thương mại sơ thẩm. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần đảm bảo chắc chắn rằng người quản lý công ty đóng tại Bê-nanh phải là người có thẻ thương nhân hoặc thẻ nhập khẩu chuyên nghiệp đích thực và thẻ này vẫn còn giá trị. Doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm hiểu về doanh nghiệp Bê-nanh bằng cách yêu cầu đối tác cung cấp địa chỉ đầy đủ ngân hàng nơi doanh nghiệp đó mở tài khoản để tiện đối chiếu và trực tiếp hỏi thông tin (Doanh nghiệp Bê-nanh thường chỉ cung cấp tên ngân hàng uy tín nhưng ghi sai địa chỉ, số điện thoại, fax). Bê-nanh là một nước nói tiếng Pháp, do vậy các văn bản hành chính chính thức như giấy phép đăng ký kinh doanh phải viết bằng tiếng Pháp. Việc gửi thư điện tử tới các cơ quan công quyền thường không nhận được trả lời, do vậy, để tìm hiểu đối tác, doanh nghiệp nên gửi fax hoặc gọi điện trực tiếp tới các cơ quan này [20]. 24 1.3.3. Thông tin không chính xác về sản phẩm nhằm đánh tụt uy tín của đối thủ là một "đòn" đang được sử dụng khá phổ biến Việc đưa tin không chính xác về chất lượng hàng thủy sản Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu, cùng với các rủi ro khác trong quá trình xuất khẩu đang làm cho hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu mặt hàng này bị ảnh hưởng không nhỏ. Để hạn chế tình trạng này, theo các chuyên gia, các doanh nghiệp và cơ quan chức năng cần chủ động công bố thông tin cũng như quản lý chất lượng thủy sản ở tất cả các khâu. Chiến thuật tổng lực Các chuyên gia thương mại nông nghiệp cho rằng, xuất phát từ sự cạnh tranh ngày một gay gắt trên thị trường nông sản, nên tất yếu dẫn đến tình trạng nhiều thị trường luôn tìm cách đưa ra các rào cản thương mại nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước của họ. Thông tin không chính xác về sản phẩm nhằm đánh tụt uy tín của đối thủ là một "đòn" đang được sử dụng khá phổ biến. Biện pháp này có đặc thù là dùng các kênh không chính thức, mà phương tiện truyền thông là một điển hình để "bôi nhọ" đối thủ. Khi đối thủ lật ngược được thế cờ, thì đã phải gánh chịu những thiệt hại đáng kể: lượng hàng bán ra, uy tín sản phẩm giảm; nặng hơn còn bị người tiêu dùng tẩy chay. Điều này được minh chứng rõ nét qua vụ các cơ quan truyền thông của Ai Cập và Italia đưa tin không chính xác về chất lượng cá tra, cá ba sa vừa qua và sau đó đã được chính cơ quan có thẩm quyền của các nước này minh oan cho phía Việt Nam. Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lương Lê Phương, thực tế trên đang tác động không tích cực đến kinh tế trong nước, nhất là trong bối cảnh xuất khẩu nông sản nói chung, thủy sản nói riêng của Việt Nam là một trong những trụ cột của nền kinh tế. Để chủ động hóa giải vấn đề này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng các bộ, ngành liên quan đang triển khai nhiều giải pháp về tăng cường công bố thông tin, tập trung kiểm soát chất lượng nông sản, tăng cường trao đổi với đối tác nhập khẩu. "Cục Quản lý chất lượng Nông lâm và Thủy sản gửi toàn bộ thông tin về quản lý chất lượng cá tra, cá ba sa của Việt Nam đến Văn phòng Quốc gia SPS Việt Nam, để 25 đăng tải tại địa chỉ www.spsvietnam.gov.vn nhằm công bố cho toàn thế giới hiểu rõ về chất lượng các sản phẩm cá tra, cá ba sa của Việt Nam", Phó Cục trưởng Nguyễn Như Tiệp cho biết. Văn phòng SPS thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là đầu mối thực hiện các nghĩa vụ minh bạch hóa theo yêu cầu của Hiệp định về áp dụng các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS) của Tổ chức Thương mại thế giới, là kênh thông tin chính thức giữa Việt Nam và các thành viên WTO về các vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật. Theo các chuyên gia, cùng với chủ động công bố thông tin, cần tiếp tục siết mạnh quản lý chất lượng thủy sản ngay từ khâu nuôi trồng, chất lượng thức ăn, chế biến, bảo quản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Phó Tổng thư ký Hội nghề cá Việt Nam Bùi Văn Thưởng nhấn mạnh cần xử lý nghiêm các hành vi gian dối trong quá trình nuôi, chế biến thủy hải sản, tránh xảy ra tình trạng không trung thực của một vài cá nhân, doanh nghiệp mà ảnh hưởng đến toàn ngành. Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng cần có cơ chế khuyến khích chuyển mạnh sang các mô hình nuôi trồng, chế biến sản phẩm sạch. Để nâng cao chất lượng cá tra, Chính phủ vừa chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn soạn thảo "Đề án nuôi cá tra vùng Đồng bằng sông Cửu Long bền vững". Với một loạt các biện pháp kiểm soát từ khâu môi trường nuôi, con giống, đến thu hoạch, chế biến, hy vọng khi đề án này triển khai sẽ tạo bước đột phá trong nâng cao chất lượng cá tra. Chủ động đối phó rủi ro Các chuyên gia cho rằng cần chủ động hơn trong nắm bắt diễn biến các thị trường, nhất là những thị trường xuất khẩu thủy sản trọng điểm nhằm xây dựng kịch bản đối phó sớm với những tranh chấp có thể phát sinh thì mới giảm thiểu được rủi ro cho nông sản xuất khẩu. Theo ông Nguyễn Như Tiệp, chuyện tranh chấp tay đôi giữa đối tác nước ngoài với các ngành hàng của Việt Nam sẽ ngày một diễn biến phức tạp. Đây là xu 26 hướng tất yếu không thể tránh khỏi, nên muốn giảm thiểu rủi ro không còn cách nào khác là lên phương án sẵn sàng "đánh" tay đôi với đối tác. Muốn giành thế chủ động, cơ quan quản lý, các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp cần tăng cường nắm bắt đặc thù, dự báo diễn biến của từng thị trường. Trên cơ sở đó đưa ra các kịch bản ứng phó tương ứng có lợi nhất. Thứ trưởng Lương Lê Phương cho biết, trong chương trình trọng điểm xúc tiến thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn rất chú trọng trong nắm bắt, nghiên cứu thông tin, đặc biệt các thị trường trọng điểm. Qua đó, kịp thời đưa ra những cơ chế, chính sách phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động sản xuất, chế biến, xuất khẩu thủy sản nói riêng, nông sản nói chung [15]. Tóm tắt chương 1 Chương 1 nêu lên một số khái niệm về rủi ro và quản trị rủi ro, quá trình tổ chức kinh doanh xuất khẩu; nhận dạng những rủi ro thường gặp trong quá trình kinh doanh xuất khẩu, những bài học kinh nghiệm xuất khẩu thủy sản từ đó làm tiền đề cho việc phân tích thực trạng và những nguyên nhân gây ra rủi ro ở chương tiếp theo. 27 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH XUẤT KHẨU CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu cá ngừ đại dương trên thế giới 2.1.1. Tình hình khai thác cá ngừ đại dương trên thế giới Trong cơ cấu các mặt hàng thủy sản, cá ngừ đại dương luôn giữ một vai trò đặc biệt vì những giá trị dinh dưỡng của nó. Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhu cầu về cá ngừ đại dương tăng vọt dẫn đến sản lượng khai thác tăng liên tục và cá ngừ trở thành mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh nghề khai thác, chế biến và thương mại cá ngừ đã trở thành mục tiêu kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Trong số các loài cá ngừ, có 7 loài được tính là cá ngừ thương mại, đó là: - Cá ngừ vằn (Katsuwonus pelamis) – Skipjack tuna - Cá ngừ vây dài (Thunnus alalunga) – Albacore - Cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares) – Yellowfin tuna - Cá ngừ vây xanh miền Nam (Thunnus maccoyii) – Southern bluefin tuna - Cá ngừ mắt to (Thunnus obesus) – Bigeye tuna - Cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương (Thunnus orientalis) – Pacific bluefin tuna - Cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương (Thunnus thynnus) – Atlantic bluefin tuna Trong số 7 loài trên: có 3 loài là cá ngừ mắt to, cá ngừ vằn và cá ngừ vây vàng là cá nhiệt đới. Còn cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương, cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương và cá ngừ vây xanh miền Nam là cá ôn đới. Các loài trên đều có giá trị kinh tế cao, kích thước lớn, di cư rộng còn được gọi là cá ngừ đại dương. Sản lượng khai thác các loài cá ngừ thương mại trong hai thập kỷ qua tăng lên liên tục. Năm 2000 là 3,8 triệu tấn, năm 2002 tăng trên 4 triệu tấn, năm 2003 đạt 4,3 triệu tấn nhưng năm 2004 giảm nhẹ còn 4,157 triệu tấn. Năm 2007, các nước thành viên EU khai thác 16.779,5 tấn [29]. Năm 2008, sản lượng đánh bắt là 4 triệu 28 tấn, ngư trường đánh bắt chủ yếu được lấy từ Thái Bình Dương, tại Ấn Độ Dương sản lượng khai thác chiếm 20,4% cao hơn nhiều so với Đại Tây Dương và Địa Trung Hải chiếm 9,5% [30]. Năm 2009, sản lượng khai thác tại một số nước trên thế giới cao quá mức cho phép, vì vậy, trong cuộc họp thường niên của Ủy ban Quốc tế về Bảo tồn cá ngừ Đại Tây Dương (ICCAT) được tổ chức tại Braxin, Uỷ ban đã quyết định cắt giảm hạn ngạch khai thác cá ngừ Đại Tây Dương từ 90.000 tấn năm 2009 xuống còn 85.000 tấn năm 2010 để bảo tồn nguồn lợi loài cá này. Trong năm 2010, theo thống kê từ ngày 01.01 đến ngày 31.10, chỉ tính riêng Mêhicô đã đánh bắt 116,26 ngàn tấn cá ngừ, Ecuađo 119,26 ngàn tấn, Panama 52,8 ngàn tấn, Vênêzuêla 30,7 ngàn tấn [19]. Trong hai thập kỷ qua, loài cá ngừ được khai thác nhiều nhất là cá ngừ vằn, sản lượng khai thác tăng gấp đôi. Đến năm 2002 vượt qua 2 triệu tấn, năm 2003 đạt 2,111 triệu tấn, năm 2004 giảm còn 2,092 triệu tấn chiếm hơn 50% sản lượng. Năm 2009, sản lượng cá ngừ vằn đã tăng thêm 10% (1,79 triệu tấn) so với năm 2008 [1], tuy nhiên trữ lượng loài này vẫn khả quan, không ở tình trạng khai thác quá mức. Cá ngừ vây vàng là loài cá có sản lượng lớn thứ hai, loài này thường được chế biến thành cá hộp và có giá trị cao hơn cá ngừ vằn. Phần lớn cá ngừ vây vàng được đánh bắt ở Tây Ấn Độ Dương, Trung Tây Thái Bình Dương. Năm 2003, sản lượng đạt 1,485 triệu tấn. Năm 2004 giảm còn 1,385 triệu tấn chiếm hơn 33% sản lượng. Năm 2007, chỉ tính riêng khu vực Trung và Tây Thái Bình Dương, chủ yếu là Philippin và Hàn Quốc đã đánh bắt 436 ngàn tấn [6]. Cá ngừ mắt to liên tục tăng cho đến năm 2002, năm 2003 đạt 425 ngàn tấn, năm 2004 chỉ đạt 405 ngàn tấn chiếm khoảng 9,7% sản lượng. Năm 2009, sản lượng cá ngừ mắt to giảm 8% so với năm trước xuống còn 118,6 ngàn tấn [1]. Loài này đang bị khai thác quá mức, vì vậy trong những năm gần đây, ICCAT quyết định cắt giảm hạn ngạch khai thác loại cá này thì Hàn Quốc lại được cấp hạn ngạch cho khai thác cá ngừ mắt to năm 2010 là 2,9 ngàn tấn, tăng 38% so với năm 2009 [29]. Cá ngừ vây dài có sản lượng tương đối ổn định, năm 2003 đạt 225 ngàn tấn, năm 2004 chỉ đạt 216 ngàn tấn chiếm khoảng 5,2% sản lượng. Mùa khai thác cá 29 ngừ vây dài Bắc Thái Bình Dương kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, tổng sản lượng 15 – 20 ngàn tấn. Theo báo cáo sơ bộ 2009, đội tàu cá ngừ của British Columbia đã đánh bắt khoảng 5,45 ngàn tấn, trong khi đó sản lượng của đội tàu khai thác của Mỹ đạt 11,58 ngàn tấn [25]. Cá ngừ vây xanh, sản lượng khai thác ngày càng tăng. Năm 2003 đạt 52 ngàn tấn, năm 2004 đạt 59 ngàn tấn chiếm khoảng 1,4% sản lượng. Năm 2006, chỉ tính riêng sản lượng khai thác cá ngừ vây xanh miền Nam đạt 14,03 ngàn tấn [7]. Năm 2008, tổng sản lượng khai thác ước tính khoảng 25 ngàn tấn, trong đó gần 18 ngàn tấn do Nhật Bản khai thác, trong khi Hàn Quốc chỉ có 1,5 ngàn tấn [5]. Nhật Bản là nước khai thác và tiêu thụ cá ngừ vây xanh lớn nhất thế giới, mỗi năm tiêu thụ khoảng 48 ngàn tấn, chiếm 80% tổng sản lượng khai thác cá ngừ vây xanh của toàn thế giới. Năm 2010, ICCAT đã cắt giảm hạn ngạch đánh bắt cá ngừ vây xanh Đông Đại Tây Dương của Nhật Bản với tỷ lệ lên đến 40% tương đương với 8,5 ngàn tấn, giảm hạn ngạch từ 22 ngàn tấn năm 2009 xuống còn 13,5 ngàn tấn năm 2010 [29]. Tuy nhiên, do lạm thác cá ngừ vây xanh di cư vào vùng biển có nhiệt độ ôn hòa ở biển Thái Bình Dương đã ảnh hưởng đến nguồn lợi loài cá này. Nên năm 2009, nhiều nước khai thác cá ngừ vây xanh (gồm cả Nhật Bản) nhất trí không tăng công suất khai thác của mình trong vòng 10 năm và giảm hoạt động khai thác cá ngừ vây xanh con. Trước sự giảm sút nguồn lợi cá ngừ tự nhiên, trong những năm qua cùng với nghề khai thác cá ngừ, nghề nuôi cá ngừ đại dương đang có xu hướng phát triển nhanh trên thế giới và đang trở thành một ngành sản xuất được nhiều nước quan tâm. Các nước có nghề nuôi cá ngừ phát triển là: Úc, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Mêhicô,… Đối tượng nuôi chủ yếu là cá người vây xanh loài Thunnus macccoyii và cá ngừ vây vàng loài Thunnus albacares. Hình thức nuôi bằng lồng trên biển và chủ yếu là nuôi thương phẩm. 2.1.2. Tình hình xuất khẩu cá ngừ đại dương trên thế giới Cá ngừ là một loại thủy sản bổ dưỡng, đặc biệt có hàm lượng Omega-3, axit béo đa không no, phốt pho, I ốt, prôtêin và vitamin B12,... cho nên nó được sử dụng 30 ngày càng cao ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Các sản phẩm chính trên thị trường thế gới là cá ngừ để làm sashimi, cá ngừ nguyên liệu đóng hộp, đồ hộp cá ngừ và các mặt hàng chế biến. Các thị trường chính Mỹ Thị trường cá ngừ của Mỹ tăng đối với cả cá ngừ hộp nhập khẩu và cá ngừ không đóng hộp. Trong 9 tháng đầu năm 2010, nhập khẩu đạt 167.700 tấn, trị giá 541 triệu USD, tăng 19,7% sản lượng và 13,5% giá trị so với cùng kỳ năm 2009. Thái Lan là nhà cung cấp cá ngừ hộp lớn nhất, chiếm 58% cá ngừ đóng hộp và đóng túi. Nhập khẩu cá ngừ hộp từ Thái Lan tăng khoảng 42,8% từ mức 56.800 tấn năm 2009 lên 80.800 tấn, trong khi nhập khẩu từ Philippin giảm từ 22.300 tấn xuống còn 15.300 tấn. Hơn 71% nhập khẩu cá ngừ đóng hộp trong 9 tháng đầu năm 2010 là từ hai quốc gia này. Trong thời gian đó, nhập khẩu cá ngừ đóng túi của Mỹ tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, từ 30.000 lên 32.900 tấn. Nhập khẩu từ Thái Lan đạt 16.800 tấn, giảm nhẹ 1,8%, trong khi nhập khẩu từ nhà cung cấp lớn thứ 2 là Ecuador tăng 33,3%. Nhập khẩu cá ngừ tươi nguyên con của Mỹ trong 9 tháng đầu năm 2010 phục hồi đáng kể. Nhập khẩu cá ngừ thăn và cắt lát đông lạnh rất khả quan tăng 16,7%, đạt 17.475 tấn, cho thấy nhu cầu đối với sản phẩm loại này đã được cải thiện. Châu Âu Đến tháng 8.2010, tổng sản lượng nhập khẩu cá ngừ đóng hộp, đóng gói vào 27 nước EU từ các nước thứ 3 đạt 312.364 tấn, giảm khoảng 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu từ các nhà cung cấp lớn như Ecuador, Thái Lan, Philippin và Bờ biển Ngà giảm nhưng từ Mauritius, Papue Niu Ghinê tăng. Trong 9 tháng đầu năm 2010, các thị trường riêng lẻ Đức, Italia và Pháp nhập khẩu ít hơn. Tuy nhiên, mặc dù tổng nhập khẩu vào Đức thấp hơn khoảng 3,8% so với cùng kỳ năm 2009, nhưng nhập khẩu từ Thái Lan tăng 6,9% và Papua Niu Ghinê tăng 78,3%. 31 Nhập khẩu vào Pháp giảm với nguồn cung từ Bờ biển Ngà và Mađagatca thấp hơn. Nhập khẩu từ Tây Ban Nha tăng 19,3% và Seychelles tăng khoảng 13,8%. Thị trường Italia có chiều hướng tiêu cực, nhập khẩu giảm 5,4%. Trong các thị trường lớn ở EU, chỉ có Anh tăng trưởng khả quan với nhập khẩu tăng 4%, đạt tổng cộng khoảng 90.000 tấn tính đến quý 3 năm 2010. Nguồn cung được cải thiện từ Mauritius (+52.6%) và Ghana (+13,9%) trong khi các nhà cung cấp châu Á đang dần đánh mất sự hấp dẫn của mình tại thị trường này. Nhập khẩu từ Thái Lan và Philippin giảm 19.3% và 11%, tương tự nhập khẩu từ Ecuador cũng giảm 36.8%. Châu Á Thị trường cá ngừ hộp ở các nước phát triển dường như không sôi nổi trong năm 2010, nhưng tại các thị trường mới nổi nhất là ở Châu Á nhu cầu lại tăng lên đáng kể. Thái Lan Mặc dù nhu cầu cá ngừ đóng hộp của Thái Lan tại các thị trường lớn giảm và đồng Bạt tăng giá, nhưng xuất khẩu của nước này tiếp tục tăng mạnh. Tính đến tháng 9 năm 2010, xuất khẩu đạt tổng cộng 384.476 tấn, tăng 10,4% lượng và 1,6% giá trị so với năm ngoái. Xuất khẩu sang Mỹ, thị trường chính của Thái Lan tăng 12,1%, đạt 86.298 tấn tương đương 22,4% tổng lượng xuất khẩu. Xuất khẩu sang các thị trường lớn khác cũng cao hơn như Úc (+30,5%), Ảrập Xêút (+30,8%), Ai Cập (+41,4%) và Achentina (+83.6%). Trong khi đó, xuất khẩu sang Canađa, Anh, Libi giảm. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường mới như Achentina và Chilê tăng lần lượt 32,2% và 41,35%. Nhật Bản Tại Nhật Bản, sản lượng khai thác xa bờ cá ngừ vây vàng và cá ngừ vằn tăng. Hầu hết cá ngừ được bán tươi ở thị trường sashimi nội địa, đặc biệt trong các siêu thị. Nhập khẩu cá ngừ hộp, chế biến bảo quản vào Nhật Bản tăng đáng kể trong năm 2010. Đến tháng 9, nhập khẩu đạt tổng cộng 33.807 tấn, trị giá 14,4 tỉ yên (174 triệu USD), tăng 29,7% lượng và 17,8% giá trị so với năm ngoái. Nhập khẩu từ 32 Thái Lan giảm khoảng 4%, nhưng được bù lại do nhập khẩu tăng từ Inđônêxia (4,8%) và Philippin (48,8%). Trong 9 tháng đầu năm 2010, nhập khẩu cá ngừ vây vàng ổn định nhưng cá ngừ vây xanh và cá ngừ mắt to thì thấp hơn. Tổng nhập khẩu cá ngừ tươi giảm 16%. Tổng nhập khẩu cá ngừ đông lạnh cao hơn do cá ngừ vây vàng tăng. Đài Loan, Hàn Quốc, Vanuatu và Philippin thống trị nguồn cung này. Trung Quốc Trong 10 tháng đầu năm 2010, nhập khẩu cá ngừ đông lạnh phần lớn để tái chế biến, thăn nấu chín và cá ngừ hộp đạt 12.386 tấn, thấp hơn 38% so với cùng kỳ năm 2009. Khoảng 65% nhập khẩu cá ngừ đông lạnh đến từ nguồn Thái Bình Dương như đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Đài Loan, Solomon của Inđônêxia. Xuất khẩu cá ngừ từ Việt Nam sang Trung Quốc tăng từ 25 tấn năm 2009 lên 102 tấn trong thời gian này [31]. 2.2. Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Tình hình khai thác cá ngừ đại dương ở Việt Nam Nghề câu cá ngừ đại dương bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam khoảng đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, nhờ công phát hiện ra phương pháp câu của ngư dân Phú Yên. Sau đó, nghề này dần lan rộng và trở thành thế mạnh của ngư dân duyên hải Nam Trung Bộ như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và trở thành 3 tỉnh trọng điểm trong việc khai thác cá ngừ trong cả nước [27]. Trước thập niên 90, nghề câu cá ngừ đại dương ở Phú Yên chưa được chú trọng, bởi lẽ tại thời điểm này ngư dân Phú Yên chưa biết đến hiệu quả kinh tế của cá ngừ, bên cạnh đó thị trường tiêu thụ chưa có (chưa xuất khẩu, thị trường tiêu thụ nội địa kém). Đối tượng đánh bắt chính của bà con ngư dân chủ yếu là câu cá mập và cá chuồn. Vào khoảng năm 1993 – 1994, một số Việt kiều về thăm quê tại Phú Yên đã tình cờ phát hiện ra cá ngừ vây vàng được bán rất rẻ tại các chợ ở địa phương nhưng giá của loại cá này lại được bán rất đắt tại Nhật và Mỹ. Các Việt kiều này đã tìm hiểu cách khai thác và bảo quản cá ngừ đại dương ở Đài Loan, mua ngư cụ trang bị 33 và hướng dẫn cho một số ngư dân làm nghề lưới rê Chuồn, câu Mập tiến hành chuyển sang nghề câu cá ngừ. Sau đó, họ bao tiêu luôn sản phẩm khai thác có thể xuất khẩu sang Nhật để ăn sống với giá khá cao (khoảng 15.000 – 21.000 đ/kg vào đầu năm 1994). Đối với cá có chất lượng kém ngư dân tự tiêu thụ tại chợ ở địa phương (bán cho người dân ăn tươi hay phơi khô bán ở vùng núi). Giá tiêu thụ tại thời điểm đó khoản 3.000 – 5.000 đ/kg với số lượng rất hạn chế. Ngư trường ở Việt Nam và các vùng lân cận, các loài cá ngừ phổ biến nhất là cá ngừ vằn, cá ngừ vây dài, cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to và một số loài cá ngừ nhỏ, di cư hẹp, có giá trị kinh tế thấp như: - Cá ngừ bò (Thunnus tongol) - Cá ngừ sọc dưa (Sarda orientalis) - Cá ngừ chấm (Euthynnus affinis) - Cá ngừ chù (Auxis thazard) - Cá ngừ ồ (Auxis rochei) Theo khảo sát của Hội Nghề cá Việt Nam, cá ngừ đại dương là loài cá di cư rộng, trữ lượng đi qua vùng biển Việt Nam khoảng 45.000 tấn, tập trung chủ yếu ở ngoài khơi biển miền Trung. Mùa vụ khai thác chính kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Rất khó có được con số chính xác về sản lượng khai thác cá ngừ đại dương của cả ngành thủy sản vì hiện nay ở nước ta chưa có được một hệ thống thống kê đối với các đối tượng khai thác. Theo ước tính của hiệp hội cá ngừ Việt Nam sản lượng khai thác hàng năm gần 10.000 tấn. Mục tiêu đến năm 2011, sản lượng khai thác cá ngừ đại dương 15.000 tấn [2]. Theo Bộ Thủy sản nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2005 tổng số tàu thuyền khai thác cá ngừ cả nước hiện có 1.670 chiếc. Trong đó, có khoảng 950 tàu chuyên câu cá ngừ và có khoảng 44 đội tàu có công suất lớn, được trang bị các trang thiết bị hiện đại, cơ giới hóa thao tác thả câu và thu câu, có thiết bị làm đá lỏng để bảo quản cá [34]. Theo số liệu thống kê, số lượng tàu câu cá ngừ đại dương của 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và các Công ty có công suất từ 90 - 750CV là 1.044 chiếc với tổng công suất khoảng 146.000CV, sản lượng năm 34 2008 đạt được 9.500 tấn. Có thể coi đây là đội tàu lớn nhất của nghề cá Việt Nam hoạt động khai thác xa bờ. Năm 2010, tổng số tàu khai thác cá ngừ công suất trên 90 CV vào khoảng hơn 10.000 chiếc. Mặc dù số lượng tàu thuyền có công suất lớn tăng nhưng trang thiết bị chủ yếu là hoán đổi từ các tàu thuyền cũ nên hiệu quả mang lại chưa cao. Bên cạnh đó, việc khai thác cá ngừ còn ở quy mô nhỏ, tay nghề ngư dân còn thấp. Tuy nhiên, nghề câu cá vàng tỏ ra hiệu quả ở vùng khơi nước sâu của biển Đông nên cơ cấu sản phẩm cũng thay đổi, cá ngừ vằn chiếm đa số, lượng cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to cũng tăng lên. Nhiều ngư dân đã mạnh dạn áp dụng kỹ thuật mới và cải tiến trang thiết bị trên tàu như: lưới vây, mày dò cá, máy định vị, máy đàm thoại tầm xa,... Một số ngư dân và công ty đã đầu tư tàu thuyền công suất cao từ 300 – 1.000 CV, công nghệ khai thác hiện đại của nước ngoài vào nghề câu vàng hoặc thuê chuyên gia tư vấn, kỹ sư khai thác để đánh bắt cá ngừ đại dương. 2.2.2. Quá trình thu gom và sơ chế cá ngừ đại dương xuất khẩu Các tác nhân thực hiện việc thu gom cá ngừ đại dương Vào đầu năm 1995, các thương gia Đài Loan xuất hiện tại Việt Nam để tiến hành thu mua cá ngừ. Nậu cá ngừ và hình thức mua bán, đầu tư của Nậu cho các tàu câu cá ngừ đại dương bắt đầu manh nha xuất hiện từ thời điểm này. Mỗi doanh nghiệp thường chọn cho mình một đại lý là người địa phương để giao dịch và thu mua cá ngừ từ ngư dân. Cho đến nay hoạt động thu mua cá ngừ đã dần đi vào ổn định. Hệ thống thu mua và xuất khẩu cá ngừ đại dương Hoạt động thu mua cá ngừ đại dương thường được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Các Nậu sẽ tập trung thu gom cá ngừ từ ngư dân và chuyển cho các công ty chế biến và xuất khẩu thủy sản. Giai đoạn 2: Các công ty chế biến và xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam sẽ chuyển cá đạt chất lượng xuất nguyên con đến các công ty đối tác. Phần cá còn lại sẽ chế biến dạng fi-lê hay hun khói để xuất khẩu sau đó. Giai đoạn 3: Cá sẽ được các công ty ở nước ngoài đặt bán ở chợ bán đấu giá hay phân phối đến các khách hàng. Hệ thống thu mua và xuất khẩu cá ngừ tại Việt Nam (xem phụ lục 1) Quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống thu mua cá ngừ 35 - Quan hệ giữa Nậu và ngư dân Mỗi Nậu thường dùng tiền của riêng mình để đầu tư cho một hoặc một số chủ tàu. Hình thức đầu tư có thể theo hai dạng. + Đầu tư đóng tàu, trang bị ngư cụ + Bảo lãnh cho chủ tàu mua dầu, đá trước mỗi chuyến biển. - Quan hệ giữa Nậu và công ty chế biến, xuất khẩu tại Việt Nam Một công ty thường chọn một hoặc một vài Nậu để đặt quan hệ làm ăn, đó là những Nậu có uy tín và tiềm lực về tài chính. Công ty cam kết bao tiêu toàn bộ sản phẩm của các tàu mà Nậu đầu tư theo giá thị trường tại địa phương. Ngược lại, Nậu cũng chọn các công ty có uy tín và ưu tiên công ty mua cá của các tàu mà mình đã đầu tư. Nậu thường phải đầu tư cơ sở vật chất tại nơi thu mua. Một số Nậu có sở hữu xe đông lạnh làm dịch vụ chở cá từ cơ sở của mình đến công ty đối tác. Một số Nậu khác có sở hữu xưởng nước đá vừa để bán cho chủ tàu vừa để ướp cá sau khi đã sơ chế. Công ty không cho Nậu vay mà đảm bảo lợi ích của Nậu thông qua hai hình thức: + Chi trả hoa hồng trên mỗi cân cá mà công ty đã mua từ các Nậu đã đầu tư. + Công ty sẽ trả cho Nậu một số suất lương cố định. - Quan hệ giữa công ty chế biến, xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam và công ty đối tác nước ngoài. Tùy thuộc vào quan hệ mua bán mà công ty ở Việt Nam và nước ngoài sẽ hợp đồng bao tiêu theo dạng mua đứt bán đoạn hay các công ty trong nước làm dịch vụ bán cá hưởng hoa hồng trên giá trị cá bán được. Các công ty trong nước phụ thuộc hoàn toàn vào đối tác của họ ở nước ngoài. Phương thức mua bán và thanh toán Hiện nay, việc mua cá ngừ đại dương ở Việt Nam diễn ra theo ba hình thức: đấu giá, mua thông qua Nậu, mua không thông qua Nậu 2.2.3. Quá trình sơ chế và bảo quản cá ngừ đại dương xuất khẩu Sơ chế bảo quản trên biển - Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và tầm quan trọng của việc sơ chế 36 Chất lượng cá ngừ thay đổi theo từng vùng và chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố sinh học và các yếu tố khác như: thức ăn, tuổi, phương pháp đánh bắt, giết cá cũng như phương pháp bảo quản,… Phương pháp đánh bắt ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cá ngừ. Tốt nhất là bắt cá thật nhẹ nhàng để tránh axít lactíc tích tụ trong thịt cá tạo tiền đề xảy ra co cứng cơ làm giảm chất lượng thịt. Màu sắc tự nhiên của thịt cá ngừ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Nhân tố quan trọng nhất là độ tươi, độ béo, tình trạng cỡ cá và thời gian tiếp xúc với không khí mặc dù theo từng thị trường, thị hiếu có thể khác nhau ít nhiều. Bề mặt của thịt cá ngừ khi mới cắt có màu đen sẫm và dần chuyển sang màu đỏ sáng do bề mặt cơ tiếp xúc với ôxy. Đó chính là yếu tố quan trọng khi phân loại, sau khi cắt vết khứa (vết khứa dài từ 3 – 4cm tại phần của vây thứ 5 và thứ 6 ở phía đuôi) và loại bỏ các mẩu thịt vụn cần phải đợi 30 phút trước khi mang đi so sánh để phân loại. Để giúp ngư dân tự đánh giá sản phẩm của mình và có thể bán với giá phù hợp, tôi xin giới thiệu tiêu chuẩn chấm điểm theo tài liệu của hiệp hội nghề cá Đông Nam Á như sau: Tiêu chuẩn chấm điểm (xem phụ lục 2) Sơ đồ phân hạng cá ngừ (xem phụ lục 3) Kỹ thuật sơ chế Hiện nay, Nhật Bản đã đưa ra phương pháp sơ chế và bảo quản cá ngừ áp dụng cho các tàu của Nhật và những nước xuất khẩu cá ngừ cho họ. - Dụng cụ làm việc cần trang bị cho tàu: chụp cá, móc cá, các loại kìm cắt, kéo, cây lao, các loại dao, que thăm, ống luồn que tăm, cưa tay, búa, rìu.v.v... - Các bước xử lý, sơ chế và bảo quản: yêu cầu công việc này phải tiến hành càng nhanh càng tốt (thời gian cho phép ít hơn 1 phút). Quy trình xử lý và bảo quản cá ngừ đại dương trên tàu đánh bắt xa bờ của ngư dân các tỉnh miền Trung (xem phụ lục 4) Bảo quản, chế biến trên bờ và tiêu thụ 37 Cá ngừ có tầm quan trọng hàng đầu trong nghề cá thế giới do sản lượng lớn, phân bố rộng và đặc biệt là có giá trị kinh tế cao. Nhằm ngăn cản sự giảm chất lượng của cá, nhiệt độ cá phải được duy trì thường xuyên ở 00C trong suốt quá trình kể từ khi cá được sơ chế đưa vào bảo quản trên tàu đến khi bốc dỡ, vận chuyển trên bờ. Độc tố Histamine sẽ sinh ra trong thịt cá ngừ khi nhiệt độ tối thiểu bên trong cá xuống dưới 70C. Với đội tàu chuyên dụng, sản phẩm được đưa về bến cá, gần sân bay, cá ngừ đã được bảo quản ở 00C, được bốc lên bằng cần cẩu, giao nhận, bảo quản bằng nước đá khô trong bao PE đặt trong thùng carton và vận chuyển trực tiếp đến kho lạnh của sân bay bằng xe tải có thùng cách nhiệt. - Đóng gói và vận chuyển cá ngừ tươi nguyên con: Cá khi được xếp vào thùng carton để vận chuyển phải đảm bảo: + Phải được giữ ở nhiệt độ 00C + Bề mặt ngoài của cá phải được làm sạch với miếng mút xốp và nước muối sạch an toàn. + Vùng bụng phải được làm sạch nước và các tạp chất khác. + Thành bụng (lớp thịt dày) phải được chèn bằng các gói “gel” đông để duy trì nhiệt độ bên trong của cá. + Để da cá không bị trầy xước, bên ngoài cá phải được bọc bằng lớp giấy chuyên dùng có nhúng nước muối để bảo vệ và da cá không mất độ ẩm. + Thùng carton xếp cá phải đủ cứng, không thấm nước, cách nhiệt. + Chuyên chở bằng xe lạnh, phải giữ được nhiệt độ ở 00C trong suốt quá trình vận chuyển ra sân bay. - Chế biến cá ngừ fille và thổi đông lạnh. + Cá phải tươi, đảm bảo trong suốt quá trình chế biến không bị phân hủy. + Phương pháp lạng fille và cắt thỏi cá thao tác như các loài khác. + Fille và thổi đông lạnh phải được xử lý trong môi trường sạch và an toàn. + Nhiệt độ cá được hạ càng nhanh càng tốt sau khi sản phẩm hoàn thành. 38 + Trong suốt quá trình xử lý cá, không thêm chất hóa học để thay đổi màu của fille và thỏi cá. + Phải hạn chế tối thiểu khả năng tăng nhiệt độ của sản phẩm. Ngoài các mặt hàng truyền thống có giá trị kinh tế cao, hiện các mặt hàng chế biến từ nguyên liệu cá ngừ đại dương như xông khói, nướng, khô tẩm gia vị, đồ hộp,v.v… cũng đang được nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện và đa dạng, nâng cao hiệu quả sử dụng loài hải sản giá trị cao này. 2.2.4. Chất lượng, độ tươi của nguyên liệu cá ngừ đại dương trước chế biến - Chất lượng nguyên liệu cá ngừ đại dương hiện nay chưa có tiêu chuẩn ban hành chính thức, theo thỏa thuận giữa ngư dân và các doanh nghiệp thu mua thường được chia thành 3 loại: A, B, C. - Theo sổ tay quản lý chất lượng cá ngừ đại dương đóng hộp của dự án kỷ thuật sau thu hoạch thủy sản ASEAN-CANADA phase II thì tiêu chuẩn cảm quan của chất lượng nguyên liệu cá ngừ đại dương như sau: (xem phụ lục 5) - Theo Công ty TNHH Hải Vương, một doanh nghiệp sản xuất chế biến cá ngừ có sản lượng lớn nhất của Khánh Hòa, dựa vào yêu cầu của các thị trường xuất khẩu đã đưa ra bảng tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng nguyên liệu cá ngừ như sau: (xem phụ lục 6) - Vai trò của đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm trong quá trình khai thác, chế biến bảo quản và tiêu thụ cá ngừ đại dương. + Trong khai thác và chế biến thủy sản nói chung, việc đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của cả nhà chế biến và cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng thủy sản. + Trong cơ thịt cá ngừ đại dương chứa hàm lượng axitamin histidine cao nên dễ hình thành Histamin, đây là một axit sinh hóa dễ gây ngộ độc cho người tiêu thụ, dưới tác dụng của vi sinh vật. Quá trình hình thành Histamine mạnh hay yếu, nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp đánh bắt, chế độ xử lý và bảo quản sau khi đánh bắt, quá trình vận chuyển, bốc dở, sơ chế, chế biến và bảo quản. Vì lẽ 39 đó, Châu Âu đã ban hành quy định số 852/2004, 853/2004 yêu cầu phải kiểm soát hàm lượng Histamine trong các lô sản phẩm cá ngừ xuất khẩu sang Châu Âu. Giới hạn quy định đối với Histamine trong cá ngừ (xem phụ lục 7) + Nhằm kiểm soát sự hình thành Histamine, cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (US-FDA) đã có tài liệu hướng dẫn kiểm soát quá trình bảo quản nguyên liệu thủy sản căn cứ theo mối tương quan giữa nhiệt độ và thời gian bảo quản. [28]. - Công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng nguyên liệu, chất lượng sản phẩm cá ngừ: + Hiện nay công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng nguyên liệu và sản phẩm cá ngừ chủ yếu do doanh nghiệp, đại lý thu mua hay người đại diện cho thương nhân nước ngoài trực tiếp thực hiện. Phương pháp đánh giá chất lượng chủ yếu và phổ biến là đánh giá cảm quan. + Do chưa có tiêu chuẩn về chất lượng và phương pháp đánh giá chất lượng chính thức được ban hành cộng với chưa có sự quản lý thống nhất về nghiệp vụ, phương pháp kiểm tra nên dẫn đến hậu quả là xảy ra hiện tượng tranh mua, tranh bán, phân loại, phân cấp chất lượng không đồng đều. Ngư dân bị ép cấp, ép giá. Bên cạnh đó, phương thức mua xô đã làm cho ngư dân ít quan tâm đến việc xử lý và bảo quản cá ngừ sau đánh bắt dẫn đến chất lượng cá về bến thấp, giảm giá trị xuất khẩu. + Nhiều ngư dân không tuân thủ hoặc chưa được tập huấn các công đoạn kỹ thuật xử lý và bảo quản sau đánh bắt như giết chết, sả hết máu và nội tạng, ngâm hạ nhiệt,… thêm vào đó một số khách hàng mua cá nguyên con không bỏ nội tạng trong khi ngư dân chủ yếu bảo quản bằng đá xay không đủ hạ nhiệt cá có kích thước lớn như cá ngừ đã làm cho chất lượng cá ngừ càng kém hơn. + Một số doanh nghiệp trong khu vực đã áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACCP để kiểm soát chất lượng cá ngừ đại dương được chế biến tại đơn vị mình. Tuy nhiên, yêu cầu về chất lượng của các đơn vị khác nhau tùy theo sản phẩm được chế biến. Những nhà kinh doanh xuất khẩu cá ngừ tươi cần có nhiều cá loại A, rất muốn đầu tư cho ngư dân nhưng không thể đầu tư cho nhiều người được. Trong khi đó, các nhà chế biến sản phẩm đông lạnh thì lại cần cá có chất 40 lượng loại B, C giá nguyên liệu rẻ hơn nên có thể chẳng quan tâm đến đầu tư để nâng cao chất lượng cá. + Cơ sở hạ tầng phục vụ nghề cá đã và đang được cải thiện. Tuy nhiên, các điều kiện an toàn vệ sinh và đảm bảo nhiệt độ cho cá trong quá trình bảo quản, bốc dỡ, vận chuyển tại bến chưa đáp ứng yêu cầu riêng của nguyên liệu cá ngừ. + Điều kiện an toàn vệ sinh các cơ sở thu mua nguyên liệu không đảm bảo. + Ngoài công tác kiểm soát, đánh giá chất lượng cảm quan tại đầu vào nguyên liệu, chương trình quản lý chất lượng cho sản phẩm cá ngừ và cả cho họ cá thu ngừ của các nhà máy còn tập trung kiểm soát sự hình thành và phát triển của hàm lượng Histamine trong suốt quá trình tiếp nhận nguyên liệu và chế biến tại nhà máy. + Các lô hàng cá ngừ xuất sang thị trường Châu Âu đều được lấy mẫu kiểm tra Histamine bởi cơ quan thẩm quyền NASIQAVED, tuân thủ chỉ thị 91/493/EEC ngày 22.07.1991 của Ủy ban Châu Âu. 2.2.5. Tình hình xuất khẩu cá ngừ đại dương Việt Nam Việt Nam là một nước có tiềm năng lớn về khai thác cá ngừ, song do trang thiết bị, công nghệ lạc hậu cộng với sản xuất nhỏ, kỹ thuật chế biến giá trị gia tăng của Việt Nam hầu như rất kém nên phần lớn cá ngừ của nước ta được xuất khẩu nguyên con; ướp đông cũng làm cho giá trị xuất khẩu cá ngừ chưa cao. Ngoài ra, do công nghệ bảo quản sau thu hoạch yếu nên giá bán của nước ta thấp hơn các nước khác. Tuy nhiên, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam phát triển nhanh từ sau năm 2000. Trong 6 tháng đầu năm 2006 xuất khẩu cá ngừ Việt Nam đạt 19.424 tấn, trị giá hơn 52 triệu USD so với cùng kỳ năm 2005, tăng trên 33% về khối lượng và 21% về giá trị. Trong đó, thị trường xuất khẩu lớn nhất vẫn là Mỹ (41,3%), tiếp đến là EU, Nhật Bản 14,7% đến Niudilân, Đài Loan, Coet, Trung Quốc và một số nước khác. So với kim ngạch xuất khẩu thủy sản nói chung trong 6 tháng đầu năm 2006 gần 1,41 tỷ USD thì xuất khẩu cá ngừ chiếm gần 3,7% tăng hơn 2005 có tỷ lệ là 3% [11]. Bảng 2.1: Xuất khẩu cá ngừ đại dương 11 tháng đầu năm 2007. Xuất khẩu cá ngừ ở Việt Nam tăng liên tục, năm 2008 xuất khẩu đạt 52.818 tấn, trị giá trên 188,6 triệu USD. So với năm 2007, khối lượng xuất khẩu tương 41 đương, nhưng giá trị tăng tới 25%. Trong năm 2008, EU là thị trường nhập khẩu số 1 của Việt Nam với khối lượng đạt 16.544 tấn, trị giá 62,7 triệu USD, giảm 5% về khối lượng nhưng tăng 21,6% về giá trị. Nếu như năm 2007, Đức dẫn đầu các nước trong khối EU về nhập khẩu cá ngừ Việt Nam thì sang đến năm 2008, Italia vượt lên trở thành nhà nhập khẩu hàng đầu với 3.813 tấn, trị giá 15,26 triệu USD, tiếp theo sau là Hà Lan với 10,9 triệu USD và Đức là 9,9 triệu USD. Đứng thứ 2 về nhập khẩu cá ngừ Việt Nam là Mỹ chiếm 29% tổng xuất khẩu. Năm 2008, Mỹ nhập khẩu 15.714 tấn, trị giá 54,8 triệu USD, giảm 8,2% về số lượng nhưng tăng 12,5% về giá trị [11]. Bảng 2.2: Xuất khẩu cá ngừ đại dương năm 2008. Năm 2009, xuất khẩu cá ngừ của cả nước đạt 55,8 ngàn tấn với kim ngạch 180,9 triệu USD, tăng 5,7% về khối lượng, giảm 4,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Bảng 2.3: Xuất khẩu cá ngừ đại dương năm 2009. Theo báo cáo của Vasep, năm 2010 xuất khẩu cá ngừ tăng mạnh cả về khối lượng và kim ngạch so với năm 2009, đây được coi là năm thành công nhất của cá ngừ Việt Nam. Xuất khẩu cá ngừ sang hầu hết các thị trường đều tăng trưởng mạnh 42 cả về khối lượng và giá trị. Chỉ tính trong 11 tháng đầu năm 2010, cả nước đã xuất khẩu gần 76.000 tấn cá ngừ, trị giá trên 265,7 triệu USD, tăng 49,5% về số lượng và 62% về giá trị so với cùng kỳ năm 2009 [26]. Bảng 2.4: Xuất khẩu cá ngừ đại dương 11 tháng đầu năm 2010. Theo tính toán của Vasep, khối lượng xuất khẩu của cả nước năm 2010 đạt khoảng 82,6 nghìn tấn, trị giá 287 triệu USD. Từ cuối năm 2009 đến nay, sản lượng khai thác cá ngừ tại Đông Tây Thái Bình Dương rất thấp, trong khi nhu cầu tiêu thụ vẫn tăng đã đẩy giá xuất khẩu cá ngừ thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng lên khá cao, 11 tháng đầu năm 2010 giá trung bình của cá ngừ Việt Nam đạt 3,49 USD/kg, tăng 8% so với năm 2009 [26]. Như vậy, nguyên nhân chính của sự tăng trưởng này là do giá xuất khẩu cá ngừ cao, nhu cầu tiêu thụ tăng, trong khi một số nước trên thế giới đề xuất cắt giảm hạn ngạch khai thác đối với một số loại cá ngừ. 43 Cơ cấu sản phẩm chủ yếu là cá ngừ đông lạnh nguyên con, số cá ngừ có chất lượng cao còn ít. Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã xuất khẩu các mặt hàng chế biến nhưng chưa nhiều. Cần đầu tư để xuất khẩu nhiều mặt hàng giá trị gia tăng nhằm tăng giá trị hơn nữa. 2.3. Thực trạng rủi ro trong xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó 2.3.1. Thực trạng rủi ro trong xuất khẩu cá ngừ đại dương ở Việt Nam hiện nay Tuy nghề câu cá ngừ đại dương nói riêng và nghề khai thác các ngừ nói chung trong những năm gần đây có những bước phát triển rõ rệt nhưng chúng ta phải thừa nhận một thực tế rằng, nghề câu cá ngừ đại dương ở nước ta có xuất phát điểm thấp và chậm hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Vì vậy, trong quá trình xuất khẩu các doanh nghiệp và ngư dân không thể không tránh khỏi những rủi ro, cụ thể: 2.3.1.1. Nhóm rủi ro do yếu tố khách quan Một là, rủi ro do hiểm họa Sự thay đổi khí hậu có tác động đến hệ sinh thái biển, làm biến động chủng quần và nguồn lợi cá biển trong đó có cá ngừ đại dương, từ đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cộng đồng ngư dân. Hiện tượng san hô chết hàng loạt (Coral Bleaching) trong 20 năm qua do một số nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do nhiệt độ ở các vùng biển đã tăng lên. Các ảnh hưởng tiềm tàng của biến đổi khí hậu đối với môi trường và các hệ thống kinh tế xã hội có thể được đánh giá qua sự nhạy cảm, mức độ thích nghi và mức độ dễ bị tổn thương của hệ sinh thái biển. Tại Việt Nam, hiện chưa có các nghiên cứu đầy đủ về tác động của biến đổi khí hậu đối với khai thác thủy sản. Tuy nhiên, với những nguy cơ và thách thức đang tiềm ẩn đối với lĩnh vực khai thác này có thể sẽ rất lớn. Các ảnh hưởng này phần nào đã được thể hiện qua số liệu thống kê về thiệt hại do bão gây ra đối với cộng đồng ngư dân ven biển trong những năm gần đây. Theo số liệu thống kê của Bộ Thuỷ sản (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) từ năm 2001-2006: “Tình hình thiên tai ngày càng diễn biến phức tạp, tần suất ngày một tăng, tính ác liệt ngày một lớn trên tất cả các loại hình: bão, nước biển dâng, triều cường, lũ lụt, lũ quét,… xảy ra dồn 44 dập và không theo quy luật”. Số lượng các cơn bão ảnh hưởng đến Việt Nam không chỉ có xu hướng tăng lên mà mức độ ảnh hưởng ngày càng nhiều. Năm 2006, 10 cơn bão với cường độ mạnh, các đợt gió mùa Đông Bắc kéo dài và các hiện tượng thời tiết bất thường khác đã tác động đáng kể đến hoạt động thuỷ sản (trong đó có cá ngừ đại dương) và gây ra thiệt hại cho người và tàu cá hoạt động trên biển, đặc biệt cơn bão số 1 (Chanchu) và số 9 (Durian) đã gây thiệt hại rất lớn cho ngư dân khai thác xa bờ, ảnh hưởng lớn đến sản lượng khai thác cá ngừ hàng năm của nước ta. Hai là, rủi ro chính trị, pháp lý Hiện nay, tất cả các vùng biển khai thác cá ngừ đã được các tổ chức quốc tế quản lý chặt chẽ, họ đã hình thành các tổ chức quốc tế như: Uỷ ban bảo tồn cá ngừ Đại Tây Dương, Uỷ ban cá ngừ Ấn Độ Dương, Uỷ ban nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương,v.v… Hầu hết các quốc gia có liên quan đã và đang tham gia vào tổ chức này, họ cho rằng cá ngừ đại dương là loài cá di cư sang nhiều vùng lãnh thổ khác nhau và là tài sản chung cần được quản lý và phân bổ cho các thành viên có liên quan, đồng thời các tổ chức này hợp tác với nhau một cách chặt chẽ. Nếu chúng ta không là thành viên của tổ chức này thì sản phẩm cá ngừ của chúng ta sẽ bị thiệt thòi tại các thị trường đó. Năm 2008 và 2009, một số doanh nghiệp Việt Nam có nhiều container hàng bị giữ tại các cảng của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vì lý do chúng ta không phải là thành viên của WCPFC (Uỷ ban nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương). Các cơ quan chức năng đã vào cuộc để tháo gỡ tạm thời cho các doanh nghiệp và muốn tiếp tục tồn tại, phát triển, chúng ta cần sớm trở thành viên chính thức của các tổ chức này. Bởi lẽ, trước sau gì chúng ta cũng bị áp đặt hạng ngạch đánh bắt hoặc sản phẩm bị hạn chế xuất khẩu vào thị trường các nước thành viên của các tổ chức nói trên. Tháng 11 năm 2010, Việt Nam đã thành lập hiệp hội cá ngừ đại dương và là thành viên có hợp tác của Ủy ban Nghề cá Đông Tây Thái Bình Dương, tuy nhiên hiệp hội này vừa mới thành lập do đó chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho ngành nghề này, vì vậy trong quá trình xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn về việc chứng nhận nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng và như thế cá ngừ đại dương Việt Nam sẽ khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 45 Trong những năm gần đây, xu thế của ngành công nghiệp khai thác thủy sản trên biển hiện nay đang được kiểm soát chặt chẽ để phát triển bền vững. Mới đây, liên minh Châu Âu đã áp dụng quy định số 1005/2008 của hội đồng Châu Âu về thiết lập hệ thống trong cộng đồng nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ các hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định, gọi tắc là IUU. Rào cản này đã và đang tốn rất nhiều công sức, tiền của của các doanh nghiệp và bà con ngư dân, tuy nhiên chúng ta vẫn phải thực hiện và vẫn còn rất nhiều bất cập khó khăn. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các cơ quan chức năng tiếp tục hướng dẫn và hoàn thiện các quy định trong nước để thực hiện yêu cầu này của Châu Âu. Cá ngừ Việt Nam khó cạnh tranh với thị trường Nhật, bởi lẽ kể từ khi hiệp định đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) chính thức có hiệu lực ngày 01.10.2009, theo đó trong vòng 10 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực, Nhật sẽ miễn thuế đối với 94% hàng hóa của Việt Nam vào thị trường này, đặc biệt là miễn thuế đối với 86% sản phẩm nông nghiệp (trong đó có thủy sản). Khi hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp có thể so sánh, lựa chọn biểu thuế giữa hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) ký ngày 01.04.2008, có hiệu lực ngày 01.12.2008 đối với một số nước, thuế suất MFN và VJEPA để xin mức thuế suất thấp nhất. Tuy nhiên, khi VJEPA có hiệu lực cho đến nay, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ vẫn lo lắng với mức thuế suất 7,2% cao hơn rất nhiều (khoảng 40%) so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Philippin,v.v… Do vậy, cá ngừ Việt Nam rất khó cạnh tranh với các nước láng giềng tại thị trường này. Theo quy định của IUU về thiết lập hệ thống kiểm soát nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp, mỗi lô hàng thủy sản xuất sang EU nhất thiết phải có một giấy chứng nhận khai thác. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều bất cập nảy sinh. Để tránh thủ tục rườm rà, nhiều ngư dân đã bán cá ngay tại tàu cho Nậu, Vựa Trung Quốc với giá cao mà họ lại không yêu cầu giấy chứng nhận. Cùng với đó, nhiều khách hàng EU cũng cầm 46 chừng trong việc ký hợp đồng, thậm chí tạm ngừng nhập khẩu thủy sản trong giai đoạn đầu thực thi quy định về khai thác IUU này. Ba là, rủi ro do biến động giá Nghề khai thác đánh bắt thủy sản lâu nay vốn đã khó khăn thì nay lại càng khó khăn hơn khi mà những chuyến đi biển liên tiếp thua lỗ vì chi phí xăng dầu tăng lên. Với ngư dân vùng biển, giá xăng dầu tăng khiến họ cân nhắc hơn mỗi khi ra khơi. Theo một ngư dân ở Tam Quan Bắc, Hoài Nhơn, Bình Định nếu theo giá dầu tăng hiện nay, trung bình một chuyến ra khơi khoảng 1 tháng, ông phải chi thêm gần 40 triệu đồng [3]. Không chỉ ở Tam Quan Bắc mà tại Phú Yên cũng không tránh khỏi tình trạng này, ngư dân hiện đang gặp rất nhiều khó khăn do thiếu vốn, thiếu thông tin thị trường, còn chi phí cho mỗi chuyến biển cứ tăng cao do giá dầu và chi phí gián tiếp tăng. Ông Nguyễn Thành Đông ở Phường 6, Thành phố Tuy Hòa (chủ tàu câu cá ngừ PY92024TS), cho biết: “Tổng chi phí cho một chuyến câu hiện đã cao hơn trước từ 30 – 40 triệu đồng, bởi dầu và các nhu yếu phẩm cần thiết đều tăng giá. Ngược lại, giá cá trước khi dầu tăng giá là 145.000 – 155.000 đồng/kg thì nay chỉ còn 110.000 - 130.000 đồng/kg”. Ông Đặng Tấn Son ở Phường Phú Lâm, Thành phố Tuy Hòa (chủ tàu cá PY-96146TS) trăn trở: “Với công suất máy là 160 CV, bình quân mỗi chuyến biển từ 20 – 25 ngày tiêu thụ hết khoảng 4.000 – 5.000 lít dầu. Cùng thời điểm này năm trước, chi phí cho một chuyến biển khoảng 110 triệu đồng thì nay tăng lên khoảng 150 - 160 triệu đồng”. Chi phí cho mỗi chuyến đi biển tăng không chỉ ảnh hưởng đến các chủ tàu mà còn tác động trực tiếp đến thu nhập của bạn thuyền. Mỗi chuyến biển từ 20 – 25 ngày nhưng theo chi phí hiện nay thì phải đánh bắt hơn 1,5 tấn cá loại 1 mới có lãi để chia phần. Nếu đánh bắt không hiệu quả coi như chuyến đi “lỗ lã tràn lan”. Trong khi đó giá sản phẩm thủy sản không tăng được là bao. Nhiều chuyến đi biển hiệu quả không cao thậm chí bà con ngư dân phải bù lỗ, đã đẩy bà con ngư dân vào tình thế bế tắc. Giá xăng dầu lên cao, kéo theo các loại mặt hàng phục vụ cho nghề biển củng tăng giá nhất là các loại ngư cụ, đá lạnh, điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nghề khai thác thủy sản [16]. 47 Về thị trường tiêu thụ cá ngừ đại dương, ngư dân hiện nay đang gặp nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có ba vấn đề chính là vốn, thị trường và chất lượng sản phẩm. Ngư dân bị “cột chặt” với Nậu do thiếu vốn làm ăn và không thể tự tìm kiếm thị trường, còn Nậu mua cá cung cấp đá, cung cấp dầu… và cho ứng trước tiền nên khi có sản phẩm ngư dân không thể bán nơi khác được. Mối quan hệ mua bán ở trong thế bị ràng buộc, nghịch lý này ngư dân biết nhưng cũng không còn cách nào khác từ đó đã nảy sinh tình trạng ép cấp, ép giá. Thị trường tiêu thụ cá ngừ hoàn toàn thả nổi, tại Bình Định có 9 đại lý, Phú Yên có 2 doanh nghiệp và 19 đầu mối thu mua uỷ thác; riêng Khánh Hoà do 7 Công ty chuyên doanh cá ngừ bao tiêu "từ A đến Z". Việc mua bán, tiêu thụ cho đến nay vẫn theo kiểu ước lượng mua xô hoặc đo kích cỡ, còn chất lượng thì phụ thuộc hoàn toàn ở "cái nhìn" rất cảm tính của người mua. Theo báo Thanh niên đưa tin “các điểm thu mua cá ở Phú Yên hiện đang đánh giá chất lượng cá theo cách dùng que đâm thử thịt cá và xem xét bằng mắt. Cách đánh giá này hoàn toàn cảm tính, không theo một tiêu chí cụ thể, rõ ràng nào nên người mua cá dễ dàng chèn ép ngư dân bằng cách hạ chất lượng, phẩm cấp cá để thu lợi. Người mua thường lấy các lý do sau để ép ngư dân: cá bị ngủ nước (cá chết trước khi kéo câu lên tàu), cá nhiễm phèn (do ướp đá bị phèn), cá bị “sô-cô-la” (xuống cấp, kém chất lượng),... Sở dĩ họ có thể ép như vậy là vì có đến 80% chủ tàu câu cá ngừ ở đây phải vay mượn, ứng trước tiền bán cá từ những người thu mua này. Mỗi ngày, một tư thương có thể thu mua cả chục tấn cá, trong đó chỉ cần ép khoảng 5 con cá ngừ có chất lượng loại 1 (khoảng 50 kg/con) xuống thành loại 2 thì đã thu lãi nhiều triệu đồng (giá cá ngừ giữa loại 1 và loại 2 chênh lệch nhau khoảng 40.000 đồng/kg, loại 3 chỉ bằng 1/4 giá loại 1). Ông Chích, chủ tàu PY-90864 ở Đông Tác, đi chuyến biển câu được 44 con cá ngừ, bị người mua ở cơ sở V.S ép, loại mất 12 con. Ông Chích tiếc của nên đem số cá này qua bán cho doanh nghiệp T.S thì chỉ bị loại có 2 con. Ông Năm Tịnh, chủ tàu PY-90819 ở Đông Tác, cho hay: “Chuyến biển vừa qua, tàu của tôi câu khơi được 2,3 tấn cá, cứ tưởng thu lãi cao, ai ngờ khi cân bán, họ ép hơn 1,3 tấn cá xuống hạng bét nên bị thua lỗ”. 48 Mặt khác, do chưa hình thành được chợ bán đấu giá cá ngừ đại dương và chưa có hệ thống kho lạnh giữ sản phẩm ngay tại bến cảng, nên không thể giữ lâu cá ở hầm tàu sau khi đã trải qua một chuyến biển dài ngày. Giá cá ngừ đại dương chưa được niêm yết công khai như một số hàng hóa khác, mỗi cơ sở mua theo giá thỏa thuận riêng với từng chủ tàu; chưa có cam kết về mặt tiêu chuẩn chất lượng của các cơ sở thu mua với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cho nên việc giám sát, quản lý chất lượng và giá cá ngừ đại dương vẫn chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ tươi nguyên con gặp rất nhiều rủi ro: Sau khi đóng gói xuất khẩu sang Mỹ, khách hàng bên đó nhận được họ tiến hành kiểm tra chất lượng lần nữa, thời điểm này chất lượng cá bị hạ xuống dẫn đến giá cá cũng hạ theo gây thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu; Đối với thị trường Nhật khi cá ngừ ở các nước nhập khẩu vào họ mang ra chợ đấu giá công khai, vào tuần lễ Vàng (đầu tháng 5) là kỳ lễ hội dài nhất cho người lao động Nhật Bản và nhiều công nhân đi nghỉ dài ngày. Thời gian này là cao điểm tiêu thụ cá ngừ. Tuy nhiên, nếu cung vượt quá cầu làm cho cá ngừ rớt giá dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp. 2.3.1.2. Nhóm rủi ro do yếu tố chủ quan Một là, rủi ro do thiếu vốn Hầu hết tàu thuyền khai thác cá ngừ đại dương của nước ta có công suất, kích thước nhỏ phần lớn là dưới 100CV, khả năng chịu đựng sóng gió thấp, tàu không có hầm riêng để cách nhiệt mà chỉ bảo quản cá đơn thuần bằng nước đá xay, khả năng bám biển ngắn ngày… Số lượng đội tàu ngư dân vào thời điểm hiện nay ước tính khoảng hơn 1.500 chiếc, trong đó các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa mỗi tỉnh ước tính có hơn 400 chiếc điều này là một hạn chế rất lớn, dẫn đến rủi ro cho bà con ngư dân và cũng làm cho giá thành sản phẩm ở mức cao. Theo hai ông Nguyễn Văn Do và Nguyễn Hữu Hào, Chủ tịch Hiệp hội cá ngừ đại dương các tỉnh Phú Yên, Bình Định cùng cho rằng “Phần lớn tàu câu cá ngừ đại dương của ngư dân là tàu nhỏ, được hoán cải từ tàu làm các nghề khác, hầm chứa cá chật hẹp, không cách nhiệt tốt, nên không giữ được độ lạnh thích hợp trong thời gian dài. Tất cả các tàu đều dùng đá lạnh xay để bảo quản. Mà chất lượng của đá lạnh đang là 49 vấn đề đáng quan tâm. Hiện ngư dân hai tỉnh này sử dụng đá 30 kg, chạy đông lạnh trong khoảng thời gian từ 8 đến 10 giờ, chưa đủ cứng nên tan nhanh, không giữ được độ lạnh cần thiết, nên cá chỉ tươi được trong một thời gian ngắn” dẫn đến cá bị dạt nhiều, lãng phí gần 50% sản lượng đánh bắt được. Chúng ta chưa có đội tàu thu mua cá ngừ đại dương và cung cấp nước đá, dầu, lương thực thực phẩm, nước ngọt trên biển để tăng khả năng khai thác và hiệu quả chuyến biển [9]. Trong khi đó, đội tàu khai thác cá ngừ đại dương của các doanh nghiệp, công ty được trang bị khá đầy đủ, các thiết bị điện tử hàng hải hiện đại, các thiết bị cơ giới hóa khai thác, có hệ thống thiết bị lạnh luôn ở nhiệt độ -80C để bảo quản sản phẩm sau khi khai thác. Đội tàu có khả năng hoạt động khai thác trong điều kiện sóng gió cấp 10, 11 và thời gian chuyến biển kéo dài từ 30 đến 40 ngày, có phối hợp để chuyển tải sản phẩm về bờ và có thể khai thác ở vùng biển ngoài khơi, vùng biển quốc tế, vùng biển có độ sâu lớn. Công suất máy chính từ 200 đến 800 CV. Theo ông Phạm Ngọc Hòe, vào năm 2004 ở nước ta số tàu này có hơn 40 chiếc. Trong những năm gần đây, tàu thuyền khai thác xa bờ có bước phát triển nhưng không đáng kể. Chỉ tính riêng Tỉnh Bình Định trong năm 2010, tỷ lệ tàu cá có kích thước và công suất lớn vẫn chiếm tỷ lệ thấp 20,98% trong tổng số tàu cá toàn tỉnh [14]. Từ đó đã gây không ít những cản trở đối với việc phát triển nghề này. Từ khi nghề khai thác cá ngừ đại dương khởi phát cho đến nay, đã không ít những tai nạn đau lòng xảy ra với ngư dân khi đang hành nghề trên biển. Thực tế cho thấy, phần lớn những phương tiện đánh bắt xa bờ của ngư dân tỉnh Phú Yên tuy được đóng mới nhưng gần như đều được sử dụng lại máy cũ, không ít phương tiện có thân vỏ tàu quá cũ, được tu bổ làm nước lại nhiều lần không thể chống chọi với điều kiện sóng to, gió lớn nhất là trong mùa mưa bão. Vì thế, rất nhiều tàu thuyền của ngư dân bị hư hỏng máy móc, bị sóng đánh phá nước gây chìm, nằm ngoài khơi cách bờ hàng trăm hải lý. Đối với các ngành nghề khác, khi các doanh nghiệp ký được các hợp đồng ngoại thương là có thể sử dụng hợp đồng này đi thế chấp, vay vốn ngân hàng để có tiền tài trợ cho việc thu gom hàng hóa. Tuy nhiên, đối với hợp đồng xuất khẩu cá ngừ 50 dại dương thì lại không có giá trị vay vốn bởi vì việc hoàn thành hợp đồng phụ thuộc và nhiều yếu tố khách quan hơn là chủ quan. Vì vậy các doanh nghiệp thu mua cá ngừ đại dương gập rất nhiều khó khăn trong việc kinh doanh xuất khẩu cá ngừ. Hai là, rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ Trong những năm qua, ngư dân các tỉnh miền Trung đã phát triển tự phát hàng ngàn tàu khai thác cá ngừ đại dương, hầu hết các đội tàu này chủ yếu được ngư dân chuyển đổi từ nhiều nghề khai thác khác nhau như: Nghề khai thác lưới rê cá chuồn, nghề lưới kéo, nghề câu mực, nghề lưới vây,... Vì vậy, ngư dân chưa được trang bị vững chắc kiến thức chuyên môn, còn thiếu kinh nghiệm thực tế hầu hết đều đánh bắt chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân nên hiệu quả không cao; lao động trong nghề vừa thiếu, vừa không được đào tạo huấn luyện về kỹ thuật.v.v... Do đó, đánh bắt xa bờ gặp nhiều khó khăn. Phương pháp đánh bắt ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cá, nếu trong quá trình đánh bắt mà để cá vùng vẫy nhiều sẽ làm axít lactíc tích tụ trong thịt cá tạo tiền đề xảy ra co cứng cơ làm giảm chất lượng thịt, thịt cá sẽ có mùi chua và vị chát sẽ không phù hợp với chế biến sản phẩm ăn sống. Công tác bảo quản cá còn thô sơ, lạc hậu, hầu hết các tàu đánh bắt sử dụng phương pháp bảo quản bằng nước đá để ướp, muối cá nên chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng rất lớn, tỷ lệ cá có chất lượng cao để sử dụng cho các mặt hàng có giá trị gia tăng là rất thấp dẫn đến hiệu quả kinh tế cho từng chuyến biển cũng thấp. Hệ thống hầm bảo quản cá trên tàu câu cá ngừ của ngư dân phần lớn vẫn là hầm gỗ lót xốp cách nhiệt, mức độ giữ lạnh cho cá sau khi đánh bắt bị hạn chế, đặc biệt là đối với tàu hoạt động dài ngày. Dụng cụ xử lý sơ chế cá ngừ trên tàu chưa thực sự bảo đảm về mặt vệ sinh, chất lượng nước đá cũng chưa được đảm bảo, đặc biệt vào mùa chính vụ do nguồn nước đá cây khan hiếm cho nên ngư dân không thể chủ động trong việc chọn nguồn nước đá sạch. Theo thống kê, bình quân chỉ có từ 30 đến 40% lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Chất lượng cá không bảo đảm nên giá bán thấp. Chẳng hạn, cùng một loại cá trên 30 kg, nếu cá của ngư dân bán được khoảng 3,5 USD/kg thì cá của các doanh nghiệp có giá hơn 6 USD/ kg [11]. Do 51 vậy, để hoàn thành các đơn hàng, các doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Tuy nhiên, khi nhập khẩu nguyên liệu để chế biến, doanh nghiệp phải hoàn tất nhiều thủ tục và nhiều loại giấy tờ để gửi đến các cơ quan chức năng, trong khi đó các nhà nhập khẩu cá ngừ tại Thái Lan và Philippin được chính phủ nước họ tạo điều kiện thuận lợi nhằm giảm sức ép về nguyên liệu. Do đó, nhiều nhà cung cấp chuyển sang hợp tác với các doanh nghiệp Thái Lan, Philippin do thủ tục mua bán đơn giản và không phải lo giấy tờ, đây là một trong những tổn thất rất lớn trong việc xuất khẩu cá ngừ ở nước ta. Việc kiểm định chất lượng cá còn nhiều bất cập, bởi lẽ các kỹ thuật viên kiểm tra về vấn đề này mang tính cảm quan, chưa có một tiêu chuẩn cụ thể nào ấn định cho việc phân loại triệt để vì cá ngừ là mặt hàng tươi sống cho nên đôi khi kỹ thuật kiểm tra tại chỗ chưa được chính xác lắm và vận chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh, lúc đó kỷ thuật viên kiểm tra lần nữa rồi mới cho sơ chế đóng gói chuyển lên máy bay, điều này đã ảnh hưởng rất lớn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquan_tri_rui_ro_trong_qua_trinh_xuat_khau_ca_ngu_dai_duong_o_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan