Tài liệu Luận văn Quán ngữ tình thái tiếng Việt: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Yến Nga
QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác.
Tác giả luận văn
Trần Thị Yến Nga
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS.Dư Ngọc Ngân. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới cô.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn phòng Khoa học – Công
nghệ sau Đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm Tp.HCM,
quý thầy cô trong tổ Ngôn ngữ - khoa Ngữ văn trường Đại học
Sư phạm Tp.HCM đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn
của mình.
Trần Thị Yến Nga
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong vốn từ vựng của mỗi ngôn ng...
94 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quán ngữ tình thái tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Yến Nga
QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác.
Tác giả luận văn
Trần Thị Yến Nga
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS.Dư Ngọc Ngân. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới cô.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn phòng Khoa học – Công
nghệ sau Đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm Tp.HCM,
quý thầy cô trong tổ Ngôn ngữ - khoa Ngữ văn trường Đại học
Sư phạm Tp.HCM đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn
của mình.
Trần Thị Yến Nga
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong vốn từ vựng của mỗi ngôn ngữ, bên cạnh đơn vị từ còn có
một số lượng lớn các loại đơn vị ngữ cố định được gọi là quán ngữ
(QN),… Chúng được dùng rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày
cũng như trong các bài nói, bài viết, trong sáng tác văn chương, trên đài
phát thanh, truyền hình, sân khấu, báo chí,… Vì vậy, việc nắm hiểu và
trau dồi khả năng sử dụng những ngữ cố định đó đã trở thành nhu cầu tự
nhiên của mỗi người.
Gần đây, cùng với khuynh hướng chú trọng hơn đến nhân tố con
người trong ngôn ngữ và trong hoạt động ngôn ngữ, giới nghiên cứu Việt
ngữ học ngày càng quan tâm đến vấn đề tính tình thái, ý nghĩa tình thái
của ngôn ngữ. Đó cũng là lẽ tất yếu bởi không có một nội dung nhận
thức và giao tiếp hiện thực nào lại có thể tách khỏi những nhân tố như
mục đích, nhu cầu, thái độ đánh giá… của người nói đối với điều được
nói ra xét trong mối quan hệ với hiện thực, với đối tượng giao tiếp và các
nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp.
Như đã biết, một trong những mục đích chính của giao tiếp là trao
đổi thông tin. Độ phức tạp trong việc xử lí thông tin và hiệu ứng mà phát
ngôn tác động đến người nghe đòi hỏi người nói có những thao tác xử lí
nhất định về mặt ngôn ngữ. Việc sử dụng ngữ điệu hay các phương tiện
từ vựng không giống nhau giúp người nói thể hiện các thái độ khác nhau
đối với nội dung phát ngôn. Các thông tin liên nhân được truyền đạt bên
cạnh những thông tin ngôn liệu được gọi là thông tin tình thái nhận
thức.
Trong số những đơn vị từ vựng biểu đạt thông tin tình thái nhận
thức, có một loại ngữ cố định chuyên biểu thị ý nghĩa tình thái, thường
được gọi là quán ngữ tình thái (QNTT). Loại đơn vị này có những nét
đặc thù về cấu tạo, chức năng và ngữ nghĩa. Sự tồn tại của các QNTT
với ý nghĩa, vai trò của chúng trong cơ chế giao tiếp liên nhân đã thôi
thúc chúng tôi tìm hiểu, khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của loại
đơn vị này với đề tài “Quán ngữ tình thái trong tiếng Việt”.
Về mặt lí luận, luận văn hi vọng góp phần tìm hiểu một số đặc
điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa - ngữ dụng của QNTT, một vấn đề từ trước
đến nay ít được đề cập đến.
Về mặt thực tiễn, quá trình giải quyết những vấn đề cụ thể về
QNTT trong luận văn có thể góp thêm ý kiến cho việc biên soạn tài liệu
nghiên cứu cũng như trong việc vận dụng vào công tác giảng dạy của
bản thân về những vấn đề có liên quan đến QNTT trong tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói, trong tiếng Việt, các nhà nghiên cứu từ vựng học đã
gọi lớp từ chuyên dụng này là QN. Tuy nhiên, cho đến nay, sự nhìn nhận
và nắm bắt về QN một cách nhất quán, giúp người dạy, người học không
cảm thấy mơ hồ và nhập nhằng với các khái niệm tương cận vẫn còn là
vấn đề phía trước. Trong khi các hiện tượng khác thuộc ngữ cố định
được nghiên cứu một cách có hệ thống thì QN chỉ mới được đề cập đến
với những nhận định ban đầu. Chúng tôi chỉ tìm thấy được một số ít
công trình, bài viết (chủ yếu là về từ vựng học) có trình bày sơ lược về
đơn vị quán ngữ trong tiếng Việt. Các tác giả như Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến đã đề cập đến QN trong các
công trình của mình nhưng cũng chỉ là những gợi mở cho các hướng
nghiên cứu sâu và qui mô hơn. Hoàng Trọng Phiến [22] đã liệt kê được
gần 500 QN trong công trình từ điển giải thích hư từ tiếng Việt của tác
giả. Đỗ Thanh và các đồng sự đã bổ sung hàng trăm đơn vị nữa trong
công trình của họ [15]. Và như đã nói, chúng tôi lấy lớp từ này làm xuất
phát điểm nghiên cứu.
Một số tác giả khác đã khảo sát QN một cách gián tiếp như là
những phương tiện “hiện thực hoá” cho các đơn vị, hiện tượng ngôn ngữ
có liên quan trong từ pháp, ngữ pháp, lôgíc-cú pháp,... Cụ thể, Đinh Văn
Đức đã xác lập khái niệm tình thái và miêu tả lớp tiểu từ tình thái trong
đó chúng có khả năng được hiện thực hoá bằng QN [10]. Ngoài ra, trong
các thành phần câu, theo đa số tác giả ngữ pháp tiếng Việt, lớp từ này
xuất hiện dưới dạng là thành phần phụ tình thái, đề tình thái hoặc thuyết
tình thái trong câu. Các tác giả phân tích diễn ngôn thì phần nhiều quan
tâm đến đặc tính liên kết của QN. Vì thế, có thể thấy rằng QN, trong địa
hạt ngữ pháp, cũng đã từng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, trong thế đối lập với trạng ngữ, liên ngữ và tình thái ngữ,… Thật
vậy, trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã tỏ ra rất nỗ lực trong việc làm rõ
vấn đề này. Nhiều tác giả đã thấy được bản chất của QN trong câu đơn
nhưng không thể xếp chúng vào một thành phần cú pháp nào cả về nên
đề nghị gọi là phụ chú ngữ (nói trộm bóng, có lẽ, kể ra...). (Nguyễn Kim
Thản) cho là gia tố (ấy thế, vả lại, mới chết chửa, có ai ngờ,..) (Lưu Vân
Lăng), hay thành phần xen kẽ (có lẽ, có ai ngờ,...) (Nguyễn Tài Cẩn).
Trong ngữ pháp chức năng, chúng là yếu tố tình thái làm thành Đề của
câu được đánh dấu bằng thì (theo ý tôi thì, nếu tôi không nhầm thì, thật
ra thì...); bằng la (quả là, nói thật là, miễn là...) (Cao Xuân Hạo). Trong
đó, Nguyễn Văn Hiệp [57] là tác giả đã quan tâm và đầu tư nhiều cho
việc kiến giải, phân biệt lớp từ này với trạng ngữ, “vị ngữ thứ yếu” (thuật
ngữ của các tác giả) mặc dù chỉ dưới góc nhìn của ngữ pháp câu và ngữ
nghĩa lôgic cú pháp. Nguyễn Văn Hiệp đặt tên cho chúng là “định ngữ
câu”. Tuy nhiên, do cố gắng tìm ra bản chất của các tham tố ngoài cú
pháp câu, các tác giả trên khá thiên về ngữ nghĩa lôgic-cú pháp. Trong
thực tế nói năng, việc sử dụng và ý nghĩa dụng học phong phú của lớp từ
này vượt hẳn ra cái gọi là “điều kiện sử dụng câu có định ngữ câu” của
tác giả.
Diệp Quang Ban đã đề nghị một đơn vị gọi là liên ngữ để chỉ quan
hệ ngoại hướng, liên kết câu chứa nó với các câu liên quan phía trước mà
thực chất chính là những QN liên kết. Ngoài ra, có hai công trình nổi bật
về liên kết văn bản của Trần Ngọc Thêm [85] và liên kết lời nói của
Nguyễn Thị Việt Thanh [73] đều bàn về QN với cách gọi khác như
“cụm từ làm thành phần chuyển tiếp”, “từ nối”,...
Trong khi đó, việc nghiên cứu QN chỉ dừng lại ở những giải nghĩa
cho từng QN, chỉ ra một vài cách dùng, một số giá trị sử dụng nào đó
của nó. Nghĩa là các tác giả hoặc chỉ nêu khái niệm QN một cách khái
lược trong các giáo trình ngôn ngữ (phần từ vựng) hoặc bàn đến một
cách chung chung về cách phân loại, cách sử dụng và đặc trưng ngữ
nghĩa của các QN tiếng Việt qua một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí
chuyên ngành. Chẳng hạn:
Nguyễn Thị Thìn (2000) với bài “Quán ngữ tiếng Việt” [71] đã
dựa vào công dụng thường dùng của QN để phân chia nó thành bốn loại.
Ngô Hữu Hoàng (2002)đđã chỉ ra một số điểm khác biệt giữa
thành ngữ (TN) và QN, trong bài “Vài suy nghĩ về cụm từ cố định nói
chung và quán ngữ nói riêng” [42]. Theo đó, tác giả đưa ra kết luận TN
“là kết quả của việc vay mượn để đúc kết ngữ nghĩa từ vựng (định danh)
bậc hai nhằm đáp ứng tình trạng nhu cầu phản ánh “nghĩa” của thế giới
khách quan trong giao tiếp”, còn QN “phục vụ cho các chức năng của lời
nói, tạo ra một hành vi giao tiếp sao cho có hiệu quả…Ngữ nghĩa của nó
bị hư hóa nên mất tính TN và cấu trúc nội tại từ đó cũng rất lỏng lẻo”.
Chi tiết hơn là bài viết “Bàn về điều kiện sử dụng của một số
QNTT nhận thức dưới góc độ lí thuyết quan yếu” của Ngũ Thiện Hùng
[45]. Qua khảo sát cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, tác giả đã khẳng định
“việc sử dụng các QNTT nhận thức không chỉ chịu sự chế định của các
yếu tố logic cú pháp mà còn phải tính đến các điều kiện như định hướng
nội dung hay định hướng quan hệ (động cơ vì người nghe/người nói)”.
Ngoài ra, các giáo trình về từ vựng học, các từ điển có nêu khái
niệm QN chẳng hạn:
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2001), Nxb Hà Nội có
nêu định nghĩa về QN như sau: “là những tổ hợp từ cố định dùng lâu
thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành (tr.84).
Nguyễn Thiện Giáp (1990) trong giáo trình “Từ vựng học tiếng
Việt”, Nxb GD cho rằng QN “là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại
trong các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội
dung cần diễn đạt nào đó”.
Đỗ Hữu Châu (1999) trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” Nxb
GD lại xếp QN vào phần trung gian giữa ngữ cố định với cụm từ tự do.
Hoàng Trọng Phiến (2003), “Cách dùng của hư từ tiếng Việt hiện
đại” có nêu cách dùng của một số QN.
Cao Xuân Hạo (1991) trong “Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức
năng" (quyển 1) dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm QN hay QNTT,
nhưng tác giả đã dành một phần trong chương II để mô tả phân tích đặc
điểm chức năng của các thành phần làm thành Đề tình thái, Thuyết tình
thái.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu trên đây ta thấy, cho đến
thời điểm này, nhiều vấn đề cơ bản của QNTT vẫn còn bỏ ngỏ. Như vậy,
Quán ngữ tình thái tiếng Việt thực sự là một đề tài hấp dẫn, đáng được
quan tâm nghiên cứu bởi tính đa loại, đa công dụng và những đặc trưng
riêng của nó. Từ đó chúng tôi hy vọng góp phần tìm ra hoạt động của
QNTT để vận dụng vào việc nói, viết tiếng Việt cho tốt.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là tìm ra những đặc điểm ngữ nghĩa- chức
năng của QNTT. Để đạt được mục đích đó , chúng tôi tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm ra những tiêu chí để nhận diện QNTT tiếngViệt, trên cơ sở đó
lập một danh sách về QNTT thông dụng.
- Miêu tả những đặc điểm cơ bản của QNTT về hình thức.
- Phân tích ngữ nghĩa – chức năng của lớp từ này. Từ đó khảo sát ba
chức năng cơ bản của QNTT tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, trong quá trình tiếp cận và phân
tích đối tượng, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học
chung như thu thập ngữ liệu, khảo sát, phân loại ngữ liệu…, luận văn
chủ yếu sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học để phân tích ngữ nghĩa
chức năng của các QNTT thu thập được.
- Phương pháp miêu tả để trình bày quá trình khảo sát, phân tích
đối tượng và kết quả nghiên cứu.
4.2. Nguồn ngữ liệu
QNTT thường xuất hiện trong khẩu ngữ, trong những lời đối thoại
trực tiếp của những người tham gia giao tiếp. Nó cũng được liệt kê trong
một số từ điển tiếng Việt. Vì vậy để tìm ra được các đặc điểm chức năng
của lớp từ này, tư liệu chủ yếu của luận văn bao gồm:
- Các tác phẩm, các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn
chương, chủ yếu là của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, tuyển tập truyện
ngắn, tạp chí Văn nghệ quân đội,…
- Từ điển tiếng Việt và Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung gồm 2 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Trong chương này, luận văn đã điểm qua vài nét về QN như: khái
niệm, phân biệt QN với TN, phân loại các QN tiếng Việt (QNTV). Ngoài
ra, chúng tôi còn đề cập đến một số vấn đề về tình thái trong ngôn ngữ
học. Theo đó, luận văn đã nêu ra một số đặc điểm bản chất của QNTT
tiếng Việt.
Chương 2: Đặc điểm của QNTT tiếng Việt
Ở chương 2, luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát đặc điểm cấu
tạo, các chức năng ngữ nghĩa cơ bản của QNTT tiếng Việt như chức
năng đánh giá, chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn và chức
năng biểu thị thái độ, tình cảm của người nói.
Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Vài nét về quán ngữ
1.1.1. Khái niệm quán ngữ
QN là đơn vị ngôn ngữ thuộc phạm vi quan tâm trước hết của các
nhà nghiên cứu từ vựng. Chính vì thế mà đơn vị này thường được gặp
trong công trình nghiên cứu về từ vựng hơn là trong các sách ngữ pháp.
Bản thân thuật ngữ “QN” được hiểu theo kiểu chiết tự “quán” là thói
quen. Lý do là lớp từ này được sử dụng theo “phản xạ” bản ngữ. Với đặc
tính “dùng lâu thành quen” theo “phản xạ”, một số người cũng gọi chung
TN là QN. Trong tác phẩm “Ý nghĩa và cấu trúc ngôn ngữ” [77] dịch từ
tiếng Nga, nguyên tác tiếng Anh là Meaning and the Structure of
language của tác giả người Mỹ Wallace L. Chafe, Nguyễn Văn Lai đã
dùng từ “QN hoá” thay cho “TN hoá” ở chương 5 khi dịch thuật ngữ
idiomaticization [77].
Nguyễn Văn Tu với công trình nghiên cứu về từ tiếng Việt [79] đã
dành vài trang để nói về khái niệm QN. Theo quan niệm của tác giả, QN
cũng có tính ổn định vì các thành tố gắn bó với nhau thông qua quá trình
“quen dùng” và đưa ra các ví dụ minh hoạ cho quan điểm của mình: bạn
nối khối, anh hùng rơm, gót sắt, kỷ luật sắt, mua việc,...Như vậy, đối với
Nguyễn Văn Tu, QN là một kiểu ngữ cố định mà các tác giả khác gọi tên
là ngữ cố định định danh (Vũ Đức Nghiệu); TN hợp kết (Nguyễn Thiện
Giáp), các TN ở dạng tỉ dụ (Hoàng Văn Hành)... Qua đó, tác giả quan
niệm tất cả các đơn vị của ngữ cố định đều có đặc tính “dùng lâu thành
quen” và với những cụm nào nghĩa bóng thấp thì ông gọi là QN và nghĩa
bóng cao là TN. Có thể đây là lý do giải thích có lúc người ta dùng thuật
ngữ “QN” để gọi luôn cho TN, hay ngược lại.
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ định nghĩa QN là:
Tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ
các nghĩa của các yếu tố hợp thành. [19, tr.829]
Từ điển này đưa ra các ví dụ là “lên lớp”, “lên mặt”, “lên tiếng” [19,
tr.829]. Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo, định nghĩa QN là:
Tổ hợp từ cố định quen dùng mà nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của
những yếu tố cấu thành. [58, tr. 1364].
Tuy nhiên từ điển này không cho ví dụ minh hoạ. Từ định nghĩa của
hai từ điển, chúng tôi vẫn rút ra được một kết luận rất có ích cho việc
phân biệt QN với TN, đó là: QN, đứng về mặt từ vựng học, không có
nghĩa bóng.
Cho đến bây giờ, những định nghĩa mà chúng tôi có được đa phần
tập trung ở địa hạt này. Đỗ Hữu Châu phát biểu:
QN là những cách nói, cách diễn đạt cần thiết để đưa đẩy, để
chuyển ý hay dẫn ý, để nhập đề chứ không có tác dụng nêu bật một sắc
thái của những cái đã có tên hoặc nêu bật ra các sự vật, hiện tượng, tính
chất,...chưa có tên gọi. Ngoài các thí dụ đã nêu, có thể dẫn thêm các QN
khác như : “ai cũng biết rằng”, “rõ ràng là”, “chắc chắn là”,…[12,
tr.74]
Ông cho rằng TN trung gian với từ ghép và QN trung gian với cụm
từ tự do. Dựa vào đó, chúng tôi đưa ra lược đồ sau đây:
Ngữ cố định
Quán ngữ Thành ngữ
(Gần gũi cụm từ tự do)
Theo lược đồ, QN là đơn vị phân biệt với TN và qua định nghĩa của
tác giả, phân biệt ở đây không chỉ là hình thức của QN mang tính chất
của cụm từ tự do cao mà còn là về mặt nghĩa học. Trong khi TN có nghĩa
định danh và tính biểu trưng thì QN, như quan niệm của Đỗ Hữu Châu,
mang nghĩa “rỗng” vì nó chỉ có chức năng dẫn xuất, đưa đẩy. Nó là đơn
vị ngôn ngữ mang tính công cụ. Thật vậy, khi một người muốn bổ sung
giữa cái nói rồi với cái định nói nữa, anh ta sử dụng các “chỉ xuất” diễn
ngôn được làm sẵn hoặc để cho người nghe có thể “dự báo”, có thể nắm
bắt trước tinh thần phát ngôn, chuyển đổi chủ đề, tránh tình trạng đột
ngột, tạo ý khẳng định, phủ định, tạo hành vi tại lời, v.v.
Nguyễn Thiện Giáp có cùng ý kiến :
QN là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại văn bản
để liên kết, rào đón hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi
phong cách thường có những QN riêng, chẳng hạn các QN “của đáng
tội”, “nói khí vô phép”, “nói bỏ ngoài tai”, “chẳng nước non gì”, “còn
mồ ma”, v.v...thường được dùng trong phong cách hội thoại [67, tr.101].
Từ định nghĩa của Nguyễn Thiện Giáp, chúng tôi phát hiện thêm
một đặc điểm nữa mà sẽ là thiếu sót nếu không đưa vào đặc tính của QN:
Sự sử dụng lặp đi lặp lại thành quen dùng như một cách nói chuyên
dụng. Đặc tính này đã phần nào phản ánh lý do lớp từ này có tên là
“QN”. Ví dụ:
(1) Đừng tưởng là giỏi giang tài cán mà việc nhà ai cũng chõ vào
nhá.
Cụm từ “đừng tưởng” này không chỉ xuất hiện trong phát ngôn trên,
của riêng người phát biểu trên mà hầu như nó là một biểu thức được làm
sẵn qua một quá trình tái hiện nhiều lần trong tiếng Việt trong các tình
huống tạo phát ngôn vừa có tính chất “khuyên” vừa có tính chất “cảnh
báo”. Định nghĩa và sự sắp xếp của Nguyễn Thiện Giáp về ngữ cố định
trong đó có QN được thể hiện qua lược đồ của tác giả đề nghị sau đây
[67, tr.101]:
Có tính nhất thể
về nghĩa
Không có tính
nhất thể về nghĩa
Ngữ láy
đơn nhất
Ngữ láy
mô hình
Chức năng
biểu hiện
gợi tả
Thành ngữ
hoà kết
Thành ngữ
hợp kết
Cấu tạo
bằng
phương
thức láy
Chức năng
định danh
Ngữ định danh
hoà kết
Ngữ định danh
hợp kết
Cấu tạo
bằng
phương
Chức năng
đưa đẩy,
nhấn mạnh
QN thức ghép
Dễ nhận thấy rằng QN trong lược đồ của Nguyễn Thiện Giáp có ba
đặc điểm nổi bật:
- Có chức năng đưa đẩy, nhấn mạnh, không có nghĩa định danh (nét
khu biệt lớn nhất với các đơn vị ngữ cố định khác).
- Không có tính nhất thể về nghĩa.
- Được cấu tạo bằng phương thức ghép.
Nhưng như thế nào là “phương thức ghép”? Chắc chắn “ghép” đây
không phải theo phương thức cấu tạo của TN, từ ghép hoặc từ láy vì tác
giả đã chỉ ra:
Về ý nghĩa cũng như về hình thức cụm từ trên (tức là QN- chú thích
của người viết) chẳng khác gì cụm từ tự do nhưng do nội dung của
chúng đã trở thành điều thường xuyên phải cần đến trong sự suy nghĩ và
diễn đạt mà chúng được dùng lặp đi lặp lại như một đơn vị có sẵn [67,
tr.101].
Đặc điểm “không khác gì cụm từ tự do” có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc quyết định sự khác nhau về hình thái cũng như nội dung của
QN với các đơn vị từ vựng khác.
Vũ Đức Nghiệu cũng quan niệm:
QN là những cụm từ được lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ
(discourse) thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là
đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh, hoặc để liên kết trong diễn từ. Ví dụ:
“của đáng tội”, “nói bỏ ngoài tai”, “nói tóm lại”, “kết cục là”, “nói
cách khác”,... [90, tr.161]
Ví dụ :
(2) Tự nhiên, Trường không muốn về nhà nữa. (Thạch Lam, Sợi
tóc)
“Tự nhiên” chỉ ra một hệ quả đột ngột, xuất phát từ một nguyên
nhân nào đó đã xảy ra rồi, nó gắn bó với toàn bộ cấu trúc phát ngôn
(PN). Nó hoàn toàn không phải là trạng ngữ “tự nhiên” của một PN đại
loại như:
(3) Trường cười nói rất tự nhiên.
Hoặc:
(4) Cứ tự nhiên như ở nhà.
Vũ Đức Nghiệu đã đưa ra một lược đồ để minh họa cho định nghĩa
của mình [90, tr.161]:
CỤM TỪ CỐ ĐỊNH
Ngữ cố định Thành ngữ
(Mẹ tròn con vuông)
QUÁN NGỮ Ngữ cố định định danh
(Của đáng tội) ( Mặt trái xoan)
Qua lược đồ, chúng ta có thể nhận thấy rằng tác giả dù có ý kiến
khác và thuật ngữ khác trong việc phân chia ngữ/cụm từ cố định nhưng
tác giả vẫn thống nhất đặt QN vào một vị trí trong hệ thống cụm từ cố
định.
Cũng giống như các tác giả trên, nhóm tác giả trường Cao đẳng Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh và Long An cũng đưa ra hai khái niệm
nổi bật trong hệ thống ngữ cố định là TN và QN trong đó QN có khuynh
hướng còn gần gũi với cụm từ tự do. Về cơ bản nhóm tác giả này cũng
đồng ý rằng:
QN là những ngữ cố định có cấu tạo và ngữ nghĩa không khác gì
ngữ tự do, nhưng được dùng nhiều trong lời nói như những công thức
“có sẵn”. Ví dụ “rõ ràng là”, “nghĩ cho cùng”, “của đáng tội”, “nói
tóm lại”, “chẳng chóng thì chày”,...[84, tr.129]
Tuy nhiên, phải thấy rằng có một ít mâu thuẫn trong định nghĩa này
khi các tác giả vừa khẳng định QN là “ngữ cố định” vừa một mặt cho
rằng chúng “có cấu tạo và ngữ nghĩa không khác gì ngữ tự do”
Hữu Đạt có định nghĩa dựa vào nội hàm của thuật ngữ nên suy ý hơi
rộng nhưng những ví dụ tác giả đã đưa ra hoàn toàn phù hợp với lớp QN
chúng tôi đang bàn luận:
Theo nghĩa đen “quán” là “quen”. Vậy QN là một loại ngữ cố định
được người ta quen dùng. Ví dụ: “nói tóm lại”, “kết quả là”, “rốt
cuộc”, “nói một cách khác”, “ nói gọn lại là”, “trước hết”, “đáng chú ý
là”, “không chóng thì chày”, “mặt khác thì”...[...]. Như vậy nói khái
quát thì QN là loại ngữ cố định được quen dùng nhưng ít hoặc không có
tính hình tượng. [29, tr. 77]
Ý kiến trên bổ sung cho phần nhận định về QN là chúng có ít hoặc
không có tính hình tượng. Thật vậy, với tư cách là đơn vị ngôn ngữ
không có nghĩa thực mà chỉ có nghĩa chuyên dụng thì việc đặt ra vấn đề
“hình tượng” hoặc “biểu trưng” là vừa rất khó và cũng không thực tế.
Quan niệm này cũng không khác gì với các từ điển tiếng Việt mà chúng
tôi tổng hợp được rằng, khác với TN, QN có ý nghĩa có thể suy ra từ các
thành tố tạo nên nó một cách trực tiếp. Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với ý
kiến này, ví dụ thật khó hình dung được đâu là nghĩa TN của các QN
như Tôi thiết nghĩ, nói tóm lại, ấy thế mà,...
Ngoài các định nghĩa về thuật ngữ QN mà theo chúng tôi, còn có
chỗ mơ hồ về các ví dụ minh hoạ, hai công trình từ điển tiếng Việt giải
thích các QN cụ thể trong mục từ của mình là “cách dùng khẩu ngữ”,
hoặc “dùng ở đầu câu”, hoặc “dùng làm thành phần phụ câu”. Ví dụ từ
điển tiếng Việt [19, tr.240) đã giải thích QN (nói) của đáng tội là khẩu
ngữ, dùng làm phần chêm trong câu. Tổ hợp biểu thị sự chuyển ý để
nhằm thanh minh hoặc làm rõ thêm cho điều ít nhiều không hay vừa nói
đến ở trên; và các ví dụ là nói cho đúng ra, cho thoả đáng, thực ra thì.”
Ví dụ :
(5) Nhiều người cho rằng nó keo kiệt, nhưng của đáng tội, nó không
có thế. [19, tr.40]
Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với quan điểm này, đặc biệt là nhận
định đặc trưng vị trí cú pháp của QN thường là “ở đầu câu”.
Đỗ Thanh [15] đã xếp QN vào trong lớp từ công cụ tiếng Việt.
Hoàng Trọng Phiến đã phát biểu:
Hư từ và các kết cấu hư từ là những thành viên không thể thiếu
trong các kết cấu cú pháp phức tạp, nhiều tầng bậc. (Trong từ điển này,
chúng tôi cũng đưa vào các tổ hợp mà chúng tôi gọi là QN, tương đương
như những locution kiểu : nói thật ra, từ bấy đến nay, không hề gì đâu)
[22].
Đến đây, chúng ta có thể hiểu khái niệm QN như sau:
“Quán ngữ là ngữ cố định, được dùng lâu dần thành quen, có
tính ổn định tương đối về kết cấu, có tính TN về nghĩa khá thấp và
không mang tính biểu trưng, tính hình tượng. Bên cạnh một số QN
có ý nghĩa từ vựng, phần lớn QN còn có ý nghĩa chức năng và tình
thái”.
1.1.2. Phân biệt quán ngữ với thành ngữ
Cho đến nay có một số giáo viên ở trường phổ thông vẫn chưa phân
biệt được QN với TN một cách rõ rệt. Có lẽ vấn đề là ở chỗ có một số
QN ít nhiều cũng có nghĩa là TN. Chẳng hạn như các QN: nói của đáng
tội, nói khí không phải, chẳng chóng thì chày, hai sôi ba lạnh, ngày một
ngày hai, chẳng chóng thì chày, ra môn ra khoai, qua ngày đoạn tháng,
… Đây là hiện tượng ranh giới mờ giữa một số TN và QN trong thực tế.
Tuy vậy, số lượng những đơn vị như trên không nhiều. Hơn nữa, cũng
không thể nói rằng không có những đơn vị thuần QN, TN.
Thật ra, QN và TN được xếp vào loại cụm từ/ngữ cố định. Giữa
chúng có những điểm chung và riêng. Điểm chung là, cả TN và QN đều
được hình thành trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Vì vậy,
phần lớn trong số chúng mang tính khẩu ngữ tự nhiên, giàu sắc thái chủ
quan, thích hợp với phong cách hội thoại và phong cách nghệ thuật.
Cũng như TN, QN là tổ hợp hai từ trở lên, mang tính cố định (tương đối)
về mặt kết cấu, tính TN về mặt nghĩa, có chức năng cấu tạo câu.
Nhưng khác với TN, QN không mang tính biểu trưng, tính hình
tượng. Cấu tạo QN thông thường theo cơ chế ẩn dụ, hoán dụ, so sánh
như TN. Phần lớn nghĩa của QN đều là nghĩa chức năng, được nhận ra
bằng việc lí giải từng cách dùng của nó. Cụ thể, ta phải xem thử QN
đang xét có bao nhiêu cách dùng. Trong mỗi cách dùng, nó có công dụng
ngữ pháp, nghĩa học, dụng học hay liên kết văn bản/ hội thoại như thế
nào; xuất hiện ở vị trí ngữ pháp nào trong kiểu câu chứa nó, xuất hiện
trong tình huống điều kiện như thế nào? Ta thử tìm hiểu nghĩa của QN
“không biết”. Trước hết, cần phân biệt QN không biết với tổ hợp từ tự do
gồm phụ từ phủ định không cộng với vị từ biết làm trung tâm vị ngữ chỉ
định tình trạng nhận thức của chủ thể nêu ở chủ ngữ. QN “không biết”
thường ở đầu/cuối câu làm thành phần phụ tình thái.
QN không biết có cách dùng thông thường:
- Cách dùng 1: Trong kiểu cấu trúc: không biết + câu nghi vấn ?(a)
Ví dụ: (6) Không biết dạo này Hải có còn làm ở công ti cũ nữa
không?
Khi nói ra phát ngôn có kiểu cấu trúc (a), người nói đang có vấn đề
khúc mắt cần phải suy nghĩ để tìm ra lời giải. Và, QN không biết biểu lộ
tâm trạng của người nói đang băn khoăn, trăn trở vì chưa tìm ra lời giải.
- Cách dùng 2: Trong kiểu cấu trúc: P+ thế + không biết ! (b)
Ví dụ: (7) Ồ, vẫn chưa tạnh à? Mưa lâu thế không biết !
Cấu trúc (b) thường được dùng trong tình huống: xuất hiện một
trạng thái/ thuộc tính P ở mức độ cao khác thường, vượt ra ngoài mức độ
của người nói. QN không biết góp phần nhấn mạnh vào ý nghĩa mức độ
cao, đồng thời biểu lộ tâm trạng, cảm xúc ngạc nhiên, lấy làm lạ trước sự
tình P.
Như vậy, từ hai cách dùng trên, có thể xác định ý nghĩa của QN
không biết: dùng để biểu lộ tâm trạng cảm xúc của người nói trước một
sự việc, một thuộc tính hay một tình huống:
+ Băn khoăn, trăn trở vì chưa tìm ra lời giải.
+ Ngạc nhiên, lấy làm lạ bởi mức độ khác thường của thuộc tính.
Ta cũng có thể đặt QN đang xét vào mối quan hệ đồng nghĩa, trái
nghĩa với những QN cùng nhóm nhằm phát hiện nét nghĩa tinh tế của
chúng như không đời nào = sức mấy,….Đặc tính này không thể có được
ở TN vì mỗi TN là một đơn vị có nghĩa cụ thể, nội dung riêng biệt, mà
muốn hiểu nó phải thông qua lí giải. Ví dụ với TN già kén kẹn hom,
chúng ta có thể lí giải đó là: “một hành động, một tình trạng kén chọn
trong lứa đôi, hôn nhân dể đánh mất cơ hội, bị muộn màng”. Nói một
cách nôm na, nếu như nghĩa của TN thường là nghĩa bóng thì nghĩa của
QN lại là nghĩa đen, không có tính chất tái định danh mà bị trừu tượng
hóa TN nghĩa cú pháp, cung cấp cho mệnh đề một chức năng thông báo,
một lực ngôn trung hoặc sự mạch lạc trong liên kết các phát ngôn. Lí giải
về tình trạng này, theo Ngô Hữu Hoàng có thể lí do là về mặt tâm lí ngôn
ngữ học, khác với mục đích sử dụng TN, QN thường được sử dụng như
một phương tiện tăng tính mạch lạc, cân xứng, sáng sủa, tính tình thái và
logic của diễn ngôn, có chức năng như chất bôi trơn diễn ngôn thì việc
tạo thêm cho chính phương tiện này các lớp nghĩa chồng chất lên nhau
cho thêm khó hiểu là điều không có lợi trong giao tiếp. Đến đây, ta có
thể khẳng định hầu hết các QN, nếu khảo sát kĩ, chúng ta đều phát hiện
ít nhiều tính TN trong nghĩa hệ thống nhưng rất thấp và nó thường bị mờ
đi, không còn được hiểu là TN hay không để nhường chỗ cho một cái
quan trọng hơn; ngữ nghĩa chức năng mà chúng ta tạo ra cho phát ngôn.
Một đặc điểm lớn để phân biệt TN và QN là mức độ chặt chẽ về kết
cấu. TN thường có cấu trúc chặt chẽ, tuân thủ nhiều quy luật. Chẳng hạn,
TN tiếng Việt thường có cấu trúc đối xứng, là loại TN chiếm tỉ lệ cao
nhất (thường có bốn thành tố, hai thành tố đầu đối với hai thành tố sau,
ví dụ: mẹ tròn – con vuông, ăn chắc – mặc bền,…) trong đó có đối xứng
vần điệu. Loại phổ biến thứ hai là TN so sánh thường xuất hiện quan hệ
từ như (lạnh như tiền, rẻ như bèo,…). Trong khi đó với QN ta lại có thể
thêm vào, bớt đi hoặc thay thế trong cấu trúc nội tại của chúng một đơn
vị hay một kết cấu tương đương khác cũng không ảnh hưởng đến ý nghĩa
chức năng mà nó đảm đương. Vấn đề là sao cho đạt được hiệu lực giao
tiếp chứ không phải là sự chuẩn xác về khái niệm như khi dùng TN. Đến
đây, chúng tôi có thể khái lược một số điểm khác nhau cơ bản giữa TN
với QN như sau:
Tiêu
chí
so
sánh
THÀNH NGỮ QUÁN NGỮ
Cấu
tạo
Quan hệ cú pháp nội tại
chặt che.
Thành ngữ thường có 3 thành
tố trở lên (phổ biến là 4 thành
tố), có đối, có điệp, có vần
điệu, kết hợp với nhau theo
một số quy luật nhất định, có
cấu trúc đối xứng.
Chẳng hạn: Xanh vỏ đỏ lòng.
Trong cấu trúc thường có
xuất hiện từ như (trong TN so
sánh).
Quan hệ cú pháp nội tại không
chặt chẽ.
QN có khi dài như nói khí vô
phép, khổ một nỗi là,…; cũng có
khi ngắn như: trước hết, tất
nhiên,…
QN thường có cấu trúc không
chặt chẽ như TN. Do vậy, một số
trường hợp nếu thêm vào, bớt đi
trong kết cấu của chúng một đơn
vị hay thay thế một kết cấu tương
đương khác cũng không ảnh
Ví dụ:Rách như tổ đỉa. hưởng gì đến ý nghĩa chức năng
của chúng.
Ví dụ: Các QN có động từ nói
như: nói tóm lại có thể thay thế
bằng nói ngắn gọn, nói một cách
ngắn gọn,, nói chung, ...
Ngữ
nghĩa
TN có nghĩa khái niệm. Và
nghĩa của nó toát lên từ nghĩa
của toàn bộ tổ hợp, khác hơn,
mới hơn so với tổng số nghĩa
của các yếu tố trong tổ hợp.
Như vậy, ở TN, nghĩa thống
nhất thành một khối, có
tính biểu trưng, tính hình
tượng, bóng bẩy về mặt ý
nghĩa. TN Cá nằm trên thớt
nói lên tình trạng nguy hiểm
có thể de dọa sự sống còn.
Nghĩa của phần lớn QN đều là
nghĩa chức năng, nghĩa tình
thái. Một số QN có tính thành
ngữ thấp, đã bị mờ đi, không còn
được hiểu là tính thành ngữ. Cách
hiểu QN thường không theo cơ
chế ẩn dụ, hoán dụ, so sánh như
TN mà gắn liền với từng cách
dùng của nó.
Chức
năng
TN mang chức năng định
danh hoặc chức năng miêu tả
và biểu thị sự vật hiện tượng,
thuộc tính khách quan một
cách sinh động gợi cảm.
Ví dụ: Đàn gảy tai trâu.
Gan cóc tía.
QN không có tác dụng định
danh cũng không có tác dụng sắc
thái hóa sự vật, hoạt động, tính
chất, trạng thái mà chủ yếu là để
liên kết, chuyển ý, đưa đẩy, rào
đón hoặc nhấn mạnh nội dung
nào đó cần chuyển đạt.
Ví dụ: khổ nỗi, suy cho cùng,…
1.1.3 Phân loại các quán ngữ tiếng việt
Việc phân loại QN có thể tiến hành theo một số tiêu chí như sau:
- Căn cứ vào kiểu cấu tạo của QN
- Căn cứ vào vị trí ngữ pháp trong câu của QN
- Căn cứ vào mức độ tính cố định và tính thành ngữ của QN
- Căn cứ vào công dụng của QN
- Căn cứ vào phạm vi và tính chất phong cách
Cần nói thêm là mọi sự phân chia chỉ có tính chất tương đối, bởi
luôn tồn tại những đơn vị trung gian, đơn vị đa nghĩa, đa chức năng. Sự
phân biệt từ ghép - thành ngữ – QN – ngữ tự do cùng với sự phân loại
QN cũng không ngoại lệ.
Nguyễn Thị Thìn [71] đi sâu vào cách phân loại căn cứ vào công
dụng của QN. Theo đó, tác giả đã chia QN thành 4 loại. Chúng tôi có thể
tóm tắt mô hình sau:
(I) Là những QN thường chỉ là tên gọi bổ sung, không phải là tên
gọi chính thức của hiện thực khách quan được biểu thị như thực từ hay tổ
hợp từ tự do. Những cái tên gọi bổ sung này, trong một số ngữ cảnh cụ
thể, lại tỏ ra đắc dụng hơn là tên gọi chính thức bởi tính có cấu trúc và
tính khẩu ngữ tự nhiên của nó.
Ví dụ: ba xây, ba chống, hai tốt, ba đảm đang, ba sôi hai lạnh, bằng
được, phải lòng,…
Quán ngữ tiếng Việt
(I)
Quán ngữ
dùng chủ yếu
trong chức
năng NGHĨA
HỌC
(II)
Quán ngữ
dùng chủ yếu
trong chức
năng DỤNG
HỌC
(III)
Quán ngữ
dùng chủ yếu
trong chức
năng LIÊN
KẾT VĂN
BẢN
(IV)
Quán ngữ đa
chức năng
(II) Còn gọi là QNTT. Loại QN này khá phong phú về số lượng
cũng như về khả năng thể hiện ý nghĩa tình thái dụng học. Cùng với tình
thái từ, chúng thực sự trở thành loại phương tiện thông dụng và hữu hiệu
nhất trong chức năng dụng học.
Ví dụ: nói bỏ ngoài tai, của đáng tội, công bằng mà nói, chả trách
(gì), xem chừng, có lẽ nào, may ra, chưa biết chừng,…
(III) Tuy tần số sử dụng có thấp hơn so với một số loại phương tiện
liên kết khác như quan hệ từ, đại từ nhưng các QN thuộc loại này vẫn
khẳng định được sự cần thiết của mình trong chức năng liên kết văn bản,
bởi khả năng biểu thị những mối quan hệ nghĩa mà những phương tiện
khác không thể thay thế được.
Ví dụ: nhìn chung, trong khi đó, mặt khác, hơn nữa, nói tóm lại, nói
cách khác, trước hết,…
(IV) Những QN thuộc loại đang xét thường là hình thức thể hiện
tổng hợp của một số thành phần nội dung khác nhau: nội dung nghĩa
học, nội dung quan hệ. Với chúng ranh giới giữa phạm trù nghĩa học –
phạm trù dụng học trở nên không hoàn toàn minh xác.
Ví dụ: biết tay, chi phải, lấy được, hết ý, biết đâu, biết đâu đấy,…
Nhìn chung, tác giả khá tỉ mỉ, chi tiết khi phân ra 4 tiểu loại QN
như trên. Và theo khảo sát chúng tôi, QNTT (QN chủ yếu dùng trong
chức năng dụng học) chiếm đa số (hơn 80%) trong các loại QN. Một số
QNTT cũng đa chức năng; có thể dùng trong cả chức năng ngữ nghĩa
học, dụng học hay liên kết văn bản. Loại QN này gần đây đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Chúng tôi sẽ đi sâu vào đề tài này ở
những chương sau.
1.2. Vấn đề tình thái trong ngôn ngữ học
1.2.1. Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ
Trong ngôn ngữ, vấn đề tình thái cũng đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm từ rất lâu. Các công trình nghiên cứu về tình thái chủ yếu xoay
quanh những nội dung như: phạm trù tình thái, các loại hình tình thái,
những ý nghĩa tình thái được phản ánh trong các ngôn ngữ, các phương
tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái,… Xét về phạm vi ý nghĩa tình thái, các
tác giả có sự khác biệt như:
John Lyons(1977, Semantics) cho rằng tình thái là “thái độ của
người nói đối với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay tính trạng mà
mệnh đề đó miêu tả” (tr.452) và “tình thái đạo nghĩa liên quan đến tính
tất yếu hay tính có thể của hành vi được thực hiện bởi một chủ thể có
trách nhiệm về đạo đức và xem xét tình thái theo nội dung về tính nghĩa
vụ, sự cho phép và cấm đoán” (tr.822, 833).
Theo Palmer (1986, Mood and Modality), tình thái là thông tin ngữ
nghĩa của câu thể hiện thái độ hay ý kiến của người nói đối với điều
được nói ra và phân biệt tình thái nhận thức với tình thái đạo nghĩa. Theo
ông “Tình thái nhận thức liên quan đến tính khả năng, tính cần thiết và
mức độ cam kết của người nói đối với điều mà anh ta nói ra (tr.51), tình
thái đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo lí của hành động do
một người nào đó hay do chính người nói thực hiện (tr.96). Còn quan
niệm về tình thái của Bybee rộng hơn khi ông cho rằng “tình thái là tất
cả những gì mà người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề”
(tr.385).
Xa hơn là sự nghiên cứu tình thái gắn với lí thuyết hành động ngôn
từ (Theory of Speech acts). Điển hình là J.R Searle. Ông cho rằng lý
thuyết hành động ngôn từ thích hợp hơn để xem xét những vấn đề về
tình thái vì sự quan tâm đến quan hệ giữa người nói và điều được nói của
lí thuyết này. F.R.Palmer (1986) chia sẻ quan điểm trên khi cho rằng
trong hành động tạo lời, chúng ta nói về một điều gì đó (như: trả lời câu
hỏi, thông báo một sự phán quyết, khuyến cáo, hứa hẹn,… ). Sự khác
biệt giữa nội dung mệnh đề và tình thái rất gần với sự khác biệt giữa
hành động tạo lời và hành động tại lời (tr.14).
Trong giới Việt ngữ học, vấn đề tình thái cũng được chú ý quan tâm
nghiên cứu hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Đại diện cho nhóm tác giả
nghiên cứu gián tiếp về vấn đề tình thái có Nguyễn Kim Thản (1977)
trong “Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt” khi phân loại các loại từ trong
tiếng Việt đã cho rằng có một số động từ tình thái (như: toan, muốn,
hòng,…) và trợ từ phục vụ cho sự biểu thị thái độ của người nói (như: ạ,
cơ, vậy, mà, đấy, đấy thế,…). Hay Lê Cận – Phan Thiều (1983) trong
“Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt” có xác định, miêu tả tình thái từ trong
hệ thống từ loại tiếng Việt. Và Đinh Văn Đức (2001) trong “Ngữ pháp
tiếng Việt – từ loại” đã nhận định “tình thái vốn là một khái niệm về ngữ
nghĩa của câu, nghĩa là thuộc địa hạt cú pháp”. Còn Nguyễn Minh
Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1998) với “Thành phần câu tiếng Việt” đã
trình bày các phương tiện ngôn ngữ dùng để biểu thị tình thái trong tiếng
Việt. Ngoài ra, Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung trong Ngữ pháp
tiếng Việt (2000) cũng nêu vấn đề về tình thái từ. Theo đó, tình thái từ
“là tiểu từ chuyên dùng biểu thị ý nghĩa tình thái trong quan hệ của chủ
thể phát ngôn với người nghe hay với nội dung phản ánh”.
Tiêu biểu cho các tác giả trực tiếp quan tâm khảo sát vấn đề tình
thái thể hiện qua những bài viết đăng trên tạp chí Ngôn ngữ như:
Lê Đông (1991) “Ngữ nghĩa – ngữ dụng của hư từ tiếng Việt: ý
nghĩa đánh giá của các hư từ”.
Nguyễn Minh Thuyết (1995) “các tiền phó từ chí thời – thể trong
tiếng Việt”.
Phạm Hùng Việt (2001), “Vấn đề tình thái với việc xem xét chức
năng ngữ nghĩa của trợ từ tiếng Việt”.
Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003) “Khái niệm tình thái trong
ngôn ngữ học”.
Lê Thị Diệu Hoa [33] đã cho rằng: “Tình thái là sự nhìn nhận, đánh
giá thái độ của người nói mà câu đề cập đến: khẳng định tính đúng đắn
chân thực của sự việc, phỏng đoán sự việc với thái độ tin cậy cao hoặc
thấp, đánh giá mức độ hay số lượng của một phương diện nào đó trong
sự việc, xác định sự việc là có thực hay chỉ là khả năng giả thiết.”
[tr.164].
Hoàng Trọng Phiến trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt – Câu (1980)
cho rằng tình thái là phạm trù ngữ pháp của câu ở dạng tiềm tàng. Tình
thái có mặt trong tất cả các kiểu câu. Điều này thể hiện ở chỗ câu có giá
trị thời sự, nó có tác dụng thông báo một điều mới mẻ. Qua đó, người
nghe hiểu rằng người nói có thái độ thế nào với hiện thực.
Đỗ Hữu Châu (1983) lại quan niệm “tình thái sẽ bao gồm toàn bộ
những ý nghĩa thuộc phạm vi dụng học và sẽ tập hợp lại thành thông
điệp bộc lộ kèm với lõi P của câu” (tr.16)
Chia sẻ quan điểm này, trong một bài viết bàn về khái niệm tình thái
(1988), Hoàng Tuệ đã nhận xét “tình thái là một khái niệm trong sự phân
tích theo cách nhìn tìm đến thái độ của người nói trong hoạt động phát
ngôn tức cũng là tìm đến tác động ngữ dụng, tác động mà người nói
muốn tạo ra ở người nghe trong thực tế hoạt động ngôn ngữ”.
Ở một mức khái quát cao, Cao Xuân Hạo cho rằng tình thái của câu
được biểu thị trong cấu trúc cú pháp cơ bản (mà tác giả gọi là cấu trúc
Đề – Thuyết) gồm có:
- Nhận định của người nói về giá trị chân ngụy của điều được nói ra
trong câu (khẳng định, phủ định, ngờ vực, nêu rõ phạm vi giới hạn và
điều kiện của tính chân lí).
- Về tính khả năng hay tất yếu của điều đó (có thể hay không có thể,
tất nhiên hay không tất nhiên, mức độ cao hay thấp của tính khả năng,
tính tất yếu).
- Cách đánh giá của người nói đối với sự tình được truyền đạt (đáng
mừng hay đáng tiếc, đáng hy vọng hay e ngại, nên có hay nên có, …)
- Sự giới thiệu của người nói về tính chất của câu nói (tính thành
thực, đơn giản, áng chừng hay chính xác,…)
- Mối quan hệ giữa câu nói với tình huống đối thoại hay đối với
ngôn cảnh và nhiều nội dung khác thuộc lĩnh vực lô gích và siêu ngôn
ngữ. (tr.175)
Mặc dù các diễn đạt của các tác giả là không giống nhau song nhìn
chung cách hiểu tình thái là một phạm trù ngữ nghĩa – chức năng phản
ánh mối quan hệ, thái độ, cách đánh giá của người nói đối với nội dung
của phần còn lại trong câu là cách hiểu được nhiều nhà nghiên cứu thừa
nhận nhất.
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi
xin tổng kết thành mấy điểm chính như sau về vấn đề tình thái:
- Tình thái cùng với nội dung mệnh đề là hai thành phần cần yếu tạo
nên cấu trúc ngữ nghĩa của câu, góp phần thực tại hoá câu, gắn câu với
điều kiện giao tiếp hiện thực.
- Tình thái là một phạm trù rộng lớn thể hiện thái độ, những cách
đánh giá khác nhau của người nói đối với nội dung mệnh đề, với người
đối thoại và với các nhân tố khác của ngữ cảnh liên quan đến sự tình
được phản ánh.
- Tình thái cần được nhìn nhận, xem xét, nghiên cứu như một phạm
trù mang tính phức thể, nhiều phương diện tác động lẫn nhau và liên hệ
một cách chặt chẽ với các phạm trù ngữ nghĩa – chức năng cũng như với
các phạm trù của ngữ dụng học. Theo cách nhìn này, khi nghiên cứu tính
tình thái, chúng ta phải tính đến sự tương tác phức tạp của bốn nhân tố
của quá trình giao tiếp: người nói, người đối thoại, nội dung của phát
ngôn và thực tế.
Nội dung, ý nghĩa cụ thể của tình thái rất đa dạng nhưng phần lớn
đều trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến các trạng thái nhận thức, đánh
giá, thái độ, tâm lí, tình cảm của người nói.
1.2.2. Một số đối lập chủ yếu của tình thái ngôn ngữ
Đối với một lĩnh vực phức tạp như tình thái, các nhà nghiên cứu đã
cố gắng đưa ra những cách phân loại khác nhau nhằm sắp xếp các ý
nghĩa tình thái vào một số phạm trù. Tuy nhiên, phần lớn cách phân loại
đó thực ra chỉ là một sự phân loại trong phạm vi một nhóm ý nghĩa tình
thái chứ không phải là những sự phân loại bao quát toàn bộ các ý nghĩa
tình thái hiểu theo nghĩa rộng của phạm trù này. Đó là do trong ngôn ngữ
tự nhiên, các biểu hiện của tình thái rất đa dạng. Nếu tình thái được hiểu
theo nghĩa rộng, như là “tất cả những gì mà người nói thực hiện cùng với
toàn bộ nội dung mệnh đề” (Bybee, 1994) thì trong thực tế, các nội dung
tình thái được biểu thị xuyên thấm qua nhiều cấp độ ngôn ngữ khác
nhau, từ ngữ điệu đến trật tự từ, từ các phương tiện từ vựng đến các
phương tiện ngữ pháp, từ những thành tố thuộc bậc câu đến những thành
tố thuộc bậc trên câu, bậc dưới câu, … Tuy vậy, sau khi tham khảo
những công trình nghiên cứu về tình thái, đặc biệt là những bài viết đăng
trên tạp chí Ngôn ngữ của Nguyễn Văn Hiệp, cùng với việc khảo sát tư
liệu thực tế để kiểm chứng, chúng tôi có thể nêu ra một số đối lập chủ
yếu về tình thái trong ngôn ngữ như sau:
1.2.2.1. Đối lập giữa tình thái nhận thức (Epistemic Modality) và
tình thái đạo nghĩa (Deontic Modality)
- Tình thái nhận thức: Trước hết, thuật ngữ “nhận thức” có nghĩa là
“hiểu biết”, tuy nhiên ở đây nó được dùng theo một nghĩa rộng hơn,
không chỉ liên quan đến tình thái tất yếu, tính khả năng mà còn liên quan
đến mức độ cam kết của người nói đối với điều được nói ra trong câu.
Trường hợp không đánh dấu về tình thái nhận thức là trường hợp người
nói xác nhận hoàn toàn tính chân thật của điều được nói ra, còn trường
hợp có đánh dấu về tình thái nhận thức là trường hợp người nói thể hiện
những mức độ cam kết thấp hơn. Đối với trường hợp người nói không
cam kết hay xác nhận hoàn toàn tính chân thật của điều được nói ra,
người ta thấy có ít nhất bốn cách nói, theo đó người nói có thể trình bày
điều được nói ra với tư cách là:
+ Điều mà người nói phỏng đoán (có thể là…/Tôi nghĩ là,..)
+ Điều mà người nói suy luận (Tôi kết luận là…/kết luận rút ra
là,…)
+ Điều mà người nói được thông báo qua một người thứ ba là (nghe
nói là…/X nói là…)
+ Điều mà người nói cảm nhận được, thông qua bằng chứng của các
giác quan (có lẽ, như là,…)
Cần nói thêm rằng, sự phân biệt tình thái khách quan và tình thái
chủ quan là ở chỗ tình thái khách quan (hay tình thái logic) loại trừ vai
trò của người nói, còn tình thái chủ quan (hay tình thái ngôn ngữ) lại thể
hiện vai trò của người nói (đánh giá, cam kết, thể hiện mục đích) đối với
điều được nói ra. Xét câu: “Người ta nói nó ốm”. Ngữ đoạn chứng cứ
“người ta nói” có giá trị tương đương với các QN biểu thị tình thái như
nghe đâu, nghe nói, nghe đồn..., một dạng cam kết gián tiếp.
Có thể thấy tình thái nhận thức thể hiện cái vị thế, hiểu biết của cá
nhân người nói đối với tính chân thực của điều được nói đến trong câu,
dựa trên những bằng chứng và cơ sở suy luận nào đó mà người nói có
được.
- Tình thái đạo nghĩa: đây là loại tình thái có liên quan đến nhân tố
ý chí của người nói, cụ thể tình thái đạo nghĩa liên quan đến tính thích
hợp về đạo đức hay các chuẩn mực xã hội khác đối với hành động do
một người nào đó hay chính người nói thực hiện.
Ở tình thái đạo nghĩa, tính chủ quan thể hiện ở thái độ, ý chí và
mong muốn của người nói đối với hành động. Người nói cho rằng hành
động là bắt buộc, là bị cấm đoán, là được phép hay được miễn trừ. Qua
đó người nói thể hiện ý chí, mong ước người nghe thực hiện hành động
hay tự mình cam kết hành động.
1.2.2.2. Đối lập giữa tình thái khách quan và tình thái chủ quan
- Tình thái khách quan: thông báo mối quan hệ giữa điều được nói
ra với bên ngoài rằng điều ấy có thực hay không. Thông thường tình thái
khách quan thường được diễn đạt bằng động từ.
Ví dụ: (8) Bà đỡ nói với Nguyệt:
- Bà nên nói thật thì tôi mới liệu được.
(Nguyễn Công Hoan)
Tình thái khách quan biểu hiện hành vi ngôn ngữ trực tiếp như
một lời khuyên nhủ, nên ý muốn không bắt buộc, ý ngầm như muốn
khuyên nhủ người nghe.
Ví dụ: (9) Nó định về quê.
Người nói chỉ định trình bày một cách khách quan trạng thái tâm
lí của đối tượng được biểu thị bằng đại từ nó.
Ví dụ: (10) Anh phải gọi điện thoại cho họ ngay.
Người nói miêu tả một cách khách quan tình thế tất yếu của việc
gọi điện thoại gắn với chủ thể hành động.
- Tình thái chủ quan: Trong khi tình thái khách quan loại trừ vai trò
của người nói thì tình thái chủ quan lại đề cao vai trò của người nói. Tình
thái chủ quan thể hiện thái độ (hay quan hệ) của người nói với điều được
thông báo. Đây là những nét thông báo tinh tế, ý nhị của người nói mà
nhiều khi khó có thể cảm nhận hết được.
Ví dụ: (11) Anh bị ốm vị tất phải đến họp.
Việc anh ta đến họp theo người nói đánh giá chưa chắc xảy ra do
dựa trên căn cứ suy luận là “anh ta bị ốm”.
Ngoài ra, trong tình thái còn có một số kiểu đối lập tiêu biểu như
đối lập gữa tình thái nhận thức và tình thái căn bản, giữa tình thái của
mục đích phát ngôn và tình thái trả lời phát ngôn, giữa tình thái hướng
tác thể và tình thái hướng người nói. Bên cạnh những nội dung tình thái
được phân biệt với nhau trên đây, nói đến tình thái ngôn ngữ là nói đến
những đánh giá chủ quan, có tính cá nhân khác, của người nói đối với
điều được nói ra trong câu xét theo khía cạnh sự tình là tích cực hay tiêu
cực, đánh giá về lượng (nhiều/ít) về chủng loại (phong phú/nghèo nàn),
về thời điểm (sớm/ muộn). Những nội dung này có thể được gọi chung là
“lập trường” của người nói là những nội dung vốn không được tính đến.
Trong khung nội dung tình thái khách quan, chẳng hạn, những cặp câu
sau đây khác biệt theo những nội dung mang tính “lập trường”, thuộc về
chủ quan của người nói.
- (12) May ra nó về rồi. (Người nói đánh giá sự tình khả năng là tích
cực).
- (13) Nhỡ ra nó về rồi. (Người nói đánh giá sự tình khả năng là
không tích cực).
- (14) Thằng bé ăn mỗi một bát cơm. (Đánh giá về lượng: một bát
cơm là ít).
- (15) Thằng bé ăn đến/những một bát cơm. (Đánh giá về lượng:
một bát cơm là nhiều).
- (16) Bây giờ đa 9 giờ rồi. (Đánh giá về thời gian: 9 giờ là muộn).
- (17) Bây giờ mới 9 giờ thôi. (Đánh giá về thời gian: 9 giờ là sớm).
- (18) Cô ấy mua nào gà, nào vịt, nào trứng. (Đánh giá về chủng
loại: Mua chừng ấy thứ là nhiều).
- (19) Cô ấy chỉ mua có gà, vịt, trứng. . (Đánh giá về chủng loại:
Mua chừng ấy thứ là ít).
Với những gì vừa được trình bày trên đây, chúng tôi hy vọng, trong
khả năng hạn hẹp của mình, có thể góp phần làm rõ một số phương diện
chính yếu của phạm trù tình thái trong ngôn ngữ, nhất là cách phân loại
các kiểu ý nghĩa thuộc phạm trù tình thái trong ngôn ngữ dựa trên cơ sở
đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Đây là cơ sở quan
trọng để chúng ta có thể triển khai những nghiên cứu về hệ thống các
QNTT tiếng Việt trong tính thực tại đa dạng, sinh động của chúng và
thông qua lăng kính chủ quan của người sử dụng ngôn ngữ.
1.2.3. Các phương tiện biểu hiện tình thái trong ngôn ngữ
Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa tình thái, các phương tiện
biểu hiện tình thái trong ngôn ngữ tự nhiên rất đa dạng. Có thể chia làm
hai nhóm lớn là nhóm các phương tiện ngữ pháp và nhóm các phương
tiện từ vựng. Ở các ngôn ngữ có biến đổi hình thái, thức và các hình thái
khác của động từ (như thời, thể) đóng một vai trò quan trọng trong việc
biểu hiện tình thái. Dĩ nhiên, những ngôn ngữ này cũng huy động các
phương tiện khác như ngữ điệu, các phương tiện từ vựng, hoặc phối hợp
đồng thời nhiều kiểu phương tiện.
Trong tiếng Việt, ngoài ngữ âm (dùng ngữ điệu, trọng âm để thể
hiện thái độ, tình cảm hoặc để nhấn mạnh vào điểm mà người nói cho là
cần chú ý) thì các phương tiện từ vựng đóng một vai trò rất quan trọng,
có thể kể ra các nhóm chính:
o Các phó từ làm thành phần phụ của vị từ: sẽ, đang, từng, vừa,
mới,…
o Các vị từ tình thái làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan,
định, muốn, cố, đành, được, bị,…
o Các động từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ
mệnh đề: Tôi e rằng, tôi nghĩ rằng, tôi sợ rằng,..
o Các động từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (với những
điều kiện về ngôi, về chỉ tố thời,…) như: ra lệnh, van, xin, đề
nghị, yêu cầu,…
o Các thán từ: ôi, chao ôi, ồ, eo ôi,…
o Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp tương đương: à, ư, nhỉ,
nhé, thôi, chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì chết,…
o Các trợ từ tình thái: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả, chính, đích
thị, mới, đã, chỉ,…
o Các kiểu câu điều kiện, giả định: nếu…thì…, giá…thì…,
cứ….thì….
Đặc biệt trong đó cũng có các QNTT như: nói gì thì nói, ngó bộ,
thảo nào, đằng thẳng ra, kể ra, làm như thể… Đó là những tổ hợp từ,
những lối nói đã tạo thành những đơn vị, khối hay khuôn cấu trúc tương
đối ổn định được người nói dùng như một công cụ chức năng của những
tác tử tình thái tác động vào nội dung mệnh đề theo một kiểu nào đó. Dù
khái niệm về QN vẫn chưa được các nhà từ vựng học thống nhất với
nhau về nội dung, nhưng ý nghĩa biểu đạt tình thái của lớp từ này đã
được thừa nhận. Và chúng tôi tạm gọi đối tượng mà mình đang nghiên
cứu là QNTT.
1.3. Quán ngữ tình thái tiếng Việt
Như đã nêu trong phần đặt vấn đề, đối tượng nghiên cứu mà chúng
tôi chọn là những tổ hợp từ, những lối nói đã tạo thành những đơn vị,
khối hay khuôn cấu trúc tương đối ổn định được người nói dùng như một
công cụ có chức năng của những tác tử tình thái tác động vào nội dung
mệnh đề theo kiểu nào đó. Sở dĩ chúng tôi gọi những tổ hợp này là
QNTT bởi về cơ bản chúng cũng có những đặc điểm về hình thức và ý
nghĩa tương đồng với những tổ hợp từ được gọi là QN được nhiều người
chấp nhận. Song, cũng dễ nhận thấy là ngoại diên khái niệm QNTT, theo
quan niệm của chúng tôi về một phương diện nào đó, hẹp hơn so với
quan niệm của các nhà từ vựng học. Nói một cách cụ thể hơn, ở đây,
chúng tôi chỉ quan tâm đến các đơn vị QN đã được mã hóa, dùng để
trình bày những dạng có thể thức hoặc tham gia cấu tạo nên khung câu.
Do đó, người đọc có thể thấy trong danh sách các QNTT mà chúng tôi
thu thập vắng mặt rất nhiều tổ hợp mà mọi người quen gọi là QN nhưng
lại có thể thêm nhiều tổ hợp, kết cấu trước nay chưa ai bàn đến và cũng
không loại trừ khả năng có những tổ hợp đã được nói đến nhưng lại
không được coi là QN. Chẳng hạn các tổ hợp từ kiểu: hình như, có lẽ, tất
nhiên, đương nhiên, có khi, vả lại,… mà trước nay các sách ngữ pháp
vẫn gọi là phó từ, liên từ. Thiết nghĩ điều này cũng dễ hiểu, không có gì
đáng phải bàn cãi. Bởi lẽ, việc gọi những tên khác nhau cho cùng một
đối tượng hay ngược lại những đối tượng khác nhau được xếp vào cùng
một khái niệm cũng là điều thường thấy. Nó phụ thuộc vào góc độ mà
người ta chọn để xem xét đối tượng. Ở đây, xin nhắc lại một lần nữa tiêu
chí đầu tiên và cũng là quan trọng nhất đối với các tổ hợp từ được chúng
tôi tập hợp để nghiên cứu trong luận văn này là khả năng biểu đạt các ý
nghĩa tình thái chứ không phải gì khác. Dùng khái niệm QN của từ vựng
học, thực ra chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến tính chất “khối” tương
đối ổn định và quen dùng của chúng mà thôi. Và như vậy, chúng tôi có
thể tóm tắt một số đặc điểm về bản chất của QNTT tiếng Việt như sau:
o Là cụm từ cố định, có tính ổn định tương đối về cấu trúc và
thành phần từ vựng cấu tạo nên nó.
o Có chức năng bày tỏ, bộc lộ sắc thái biểu cảm. Đây là đặc điểm
khác hẳn với những QN chỉ dùng trong phong cách khoa học, có
chức năng liên kết.
o Về cấu trúc, thường có cấu trúc là cụm từ, một số trường hợp có
kết cấu là cụm chủ – vị (chẳng hạn: ai có ngờ đâu, ai có dè
đâu,…).
o Về chức năng tạo câu, QNTT tương đương với từ.
o Về ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa của QNTT tương đương với ý nghĩa
của một từ hoặc cụm từ.
o Là cụm từ cố định (đơn vị có sẵn trong vốn từ vựng của ngôn
ngữ) nhưng ranh giới của lớp từ này với cụm từ tự do (đơn vị
cấu tạo tự do trong lời nói) là không rõ ràng, cụ thể.
Từ những đặc điểm trên, qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi tổng hợp
và đưa vào danh sách một số QNTT TV thường dùng. Chúng cũng là đối
tượng nghiên cứu của luận văn (x.Phụ lục).
* Tiểu kết
Nhìn chung, ở chương này, chúng tôi đã bước đầu xác định một số
đặc điểm cơ bản của lớp từ được chọn làm đối tượng khảo sát ở luận văn
– QNTT tiếng Việt. So sánh với thành ngữ, chúng tôi rút ra vài đặc điểm
khác nhau cơ bản giữa hai khái niệm quán ngữ và thành ngữ. Luận văn
đưa ra bốn loại QN được phân biệt nhau trên cơ sở giữa chúng có sự
khác nhau về công dụng. Từ đó nhận ra QNTT – dùng trong chức năng
dụng học – là loại được sử dụng phổ biến hơn cả. Cũng cần nói thêm
rằng, trong chương này, luận văn chỉ đề cập đến một khía cạnh khá nhỏ
trong một phạm trù rộng lớn như khái niệm tình thái. Đó là chúng tôi
nhận ra rằng phần lớn ý nghĩa tình thái đều có liên quan đến trạng thái
nhận thức, đánh giá, thái độ, tâm lí và tình cảm của người nói. Cùng với
những phương tiện từ vựng khác, QNTT là đơn vị có khả năng biểu hiện
ý nghĩa tình thái với đặc điểm và cách dùng riêng.
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁN NGỮ TÌNH
THÁI TIẾNG VIỆT
Cũng như QN theo cách hiểu thông thường, QNTT là những tổ hợp
từ hay lời nói mang tính ổn định được tái hiện nhiều lần do nhu cầu cần
thiết của sự giao tiếp. Tính thành ngữ và tính ổn định của cấu trúc của
QNTT không cao. Đặc điểm của cụm từ tự do còn in đậm trong các cụm
từ cố định thuộc loại này. Song, chúng không đơn thuần là phương tiện
liên kết hay dùng để đưa đẩy, rào đón, dẫn ý, chuyển ý như các nhà từ
vựng đã nhận định. Trên thực tế, chúng có vai trò quan trọng và đa dạng
hơn nhiều. Tác dụng của QNTT là làm phương tiện bổ trợ, tác động vào
nội dung mệnh đề, vào ý nghĩa của chỉnh thể câu; đưa vào câu những
kiểu tình thái đánh giá, biểu cảm khác nhau, gắn câu với hoàn cảnh giao
tiếp hiện thực, tạo nên tính sinh động, uyển chuyển và chính xác của câu
nói. Trên cơ sở quan sát những QNTT thu được, chúng tôi nhận thấy
chúng có những đặc điểm nổi bật đáng chú ý sau đây:
2.1. Đặc điểm hình thức của QNTT tiếng Việt
Gần đây, một số nhà Việt ngữ học đã thấy được tầm quan trọng của
QNTT trong việc tạo nghĩa tình thái hay kiến tạo phát ngôn. Thế nhưng,
việc nghiên cứu về QN tình thái cho đến nay có thể nói là còn khá mỏng
và rời rạc. Các thông tin về ngữ pháp mà chúng hàm chứa dường như
quá ít ỏi và khó khái quát thành đặc điểm chung. Rõ ràng do không có
tiêu chí minh bạch, cụ thể về hình thức cũng như nội dung nên nhìn
chung các thủ pháp phân tích kiểu cấu trúc luận đối với lớp từ này còn
gặp phải nhiều khó khăn. Dù vậy, chúng tôi cũng mong muốn khái quát
được một số đặc điểm hình thức cấu tạo của QNTT.
Xét từ góc độ hình thức cấu tạo nội tại của bản thân các QNTT, có
thể thấy chúng là những tổ hợp có độ dài ngắn khác nhau. Căn cứ vào số
lượng thành tố tham gia cấu thành tổ hợp, một cách chung nhất có thể
phân chúng thành hai nhóm:
- Nhóm 1: các QNTT có cấu tạo gồm hai thành tố, như: ắt hẳn, biết
đâu, chả trách, có lẽ, hóa ra, lại còn, nghe chừng, quả tình, phải chi, giá
mà, thảo nào, thế ra,… Đây là những tổ hợp mà trước nay quan niệm
truyền thống nhìn từ góc độ cấu trúc của câu vẫn gọi là thành phần phụ
của câu.
- Nhóm 2: các QNTT có cấu tạo từ ba thành tố trở lên. Ví dụ: ấy thế
mà, của đáng tội, cực chẳng đã, chưa biết chừng, đến mùa quýt, chẳng
đâu vào đâu, bất quá là cùng, làm cho ra vẻ,…
Căn cứ vào khả năng phân bố vị trí của các QNTT trong câu / phát
ngôn, chúng ta có thể phân thành:
- Các QNTT ở vị trí cuối câu/ phát ngôn: P cũng nên, P có khác, P
không chừng, P là cái chắc, P là cùng, P quá đi chớ, P thì có,…
- Các QNTT ở vị trí đầu câu/ phát ngôn, cho phép dự báo thông tin
phát ngôn. Đây hầu như là hình thức khá phổ biến của QN tiếng Việt và
cũng là lí do chủ yếu chúng được xếp vào hệ thống ngữ cố định. Theo đó
là các QN: theo tôi thì, có ngờ đâu là, rõ ràng là, nghe đâu, thấy bảo,
hơi sức đâu mà, may mắn thay, thật tình mà nói, thảo nào,…
- Các QNTT ở vị trí linh hoạt:
+Đầu hoặc cuối câu/ phát ngôn: thôi nào, không biết, …
+Đầu hoặc giữa câu/ phát ngôn: chắc là, hình như, quả thật, chẳng
lẽ,..
Dễ dàng nhận thấy cấu trúc của QNTT là một vấn đề cần bàn đến để
giúp phân biệt chúng với các cấu trúc của các loại đơn vị khác trong ngữ
cố định. Theo chúng tôi QN khá đa dạng về cấu trúc cú pháp. Một số
QNTT khi được sử dụng vẫn có thể thêm vào hoặc cắt đi một, hai thành
tố một cách rất linh hoạt. QNTT khá gần gũi với cụm từ tự do. Có nghĩa
là có rất nhiều QNTT có cấu trúc chưa hoàn toàn ổn định như các đơn vị
cụm từ cố định khác. Vì thế những trường hợp này rất khó khái quát đặc
điểm về cấu trúc cú pháp của QNTT. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng
tôi, nếu căn cứ vào đặc điểm cấu tạo, có thể tạm thời xếp một số QNTT
vào những cấu trúc cơ bản sau:
2.1.1. QNTT có cấu tạo là những tổ hợp từ có quan hệ đẳng lập
Ví dụ: chẳng chóng thì chày, qua ngày đoạn tháng, không sớm thì
muộn, ngày một ngày hai, được chăng hay chớ, đến nơi đến chốn, ra đầu
ra đũa, cắn rơm cắn cỏ, ra môn ra khoai…
Trong những QNTT này, chúng ta nhận thấy tính thành ngữ còn
khá cao. Do vậy, chúng chẳng khác TN là mấy. Trường hợp cùng một tổ
hợp từ mà các nhà nghiên cứu xếp vào những lớp từ khác nhau cũng là
khá phổ biến. Chẳng hạn, với tổ hợp từ ra môn ra khoai, Nguyễn Hữu
Quỳnh cho là TN và xếp nó vào bảng TN tiếng Việt [49, tr.307], nhưng
Hoàng Trọng Phiến lại cho nó là QN và giải thích: “ra môn ra khoai”
tương đương với ra nhẽ, biểu hiện nghĩa làm rõ sự thật của một sự việc,
một hành động.
Ví dụ: (20) Việc này phải làm cho ra môn ra khoai (phải làm cho
ra nhẽ) chứ không thể để mập mờ như vậy được.” [22, tr.216]
Tình trạng phức tạp về ngữ nghĩa của các QNTT cũng như những
đặc trưng bản chất của chúng, cho thấy những QNTT có cấu tạo theo
quan hệ bình đẳng, ngang hàng này đứng ở vị trí trung gian giữa TN và
QN.
2.1.2. QNTT có cấu tạo là những tổ hợp từ có quan hệ chính
phụ
Cụm từ chính phụ khác với cụm từ đẳng lập về kết cấu. Trong cụm
từ chính phụ có một thành tố trung tâm và một hay nhiều thành tố phụ bổ
sung ý nghĩa cho thành tố trung tâm. Căn cứ vào loại từ trung tâm và
thành tố phụ, căn cứ vào quan hệ ý nghĩa, quan hệ ngữ pháp giữa các
thành tố với nhau, ta có thể xác lập trong tiếng Việt có các kiểu loại cụm
từ khác nhau như cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ. Xét về cấu tạo,
một số khá lớn, QNTT tiếng Việt là các cụm từ có quan hệ chính phụ.
Sau đây là vài hình thức hiện thực mà chúng tôi quan sát được:
2.1.2.1. QNTT có cấu tạo là tổ hợp từ có động từ làm trung tâm.
Chẳng hạn: cần gì lại phải, cần chi mà, kể làm gì, làm (cho) ra vẻ, biết
lấy làm, liệu sao thì liệu,..
Ví dụ: (21) Đứng trước bọn con gái, cậu ta làm cho ra vẻ mình là
con người có văn hóa, làm ra vẻ ta đây là trí thức.
Một số QNTT có hình thức là một tổ hợp có động từ nói làm trung
tâm, như: nói trộm bóng vía, bỏ quá cho, nói khí không phải, nói sai
đừng chấp, nói bỏ ngoài tai,…. Theo Trần Ngọc Thêm, mô hình này là
Động từ + thành tố chỉ cách thức; theo chúng tôi, vì đặc tính siêu
ngôn ngữ của QN nên động từ này thường là nói. Những QNTT có hình
thức này chủ yếu bộc lộ sự đánh giá của người nói đối với điều được
nói ra theo yêu cầu của nghi thức giao tiếp để đảm bảo tính lịch sự hay
sự kiêng tránh theo quy ước của cộng đồng. Chúng có hiệu lực tạm thời
như một lời xin lỗi trước.
Đặc biệt trong phần QN là cụm động từ, chúng tôi nhận thấy có
hiện tượng gặp nhau của cụm động từ với một mệnh đề tỉnh lược chủ
ngữ, như: biết đâu chừng, nghe đâu, nghe nói, thấy bảo,..
Ví dụ: (22) Nghe đâu nó sắp về nước rồi phải không?
Cũng có thể tái hiện “Tôi” trước “nghe đâu” mà cụm từ này vẫn
cùng một chức năng:
(23) Tôi nghe đâu nó sắp về nước phải không
hoặc: (23’) (Tôi) nghe nói nó sắp về nước phải không?
Đa số QN loại này tỉnh lược chủ ngữ một cách tối đa, đến một lúc
chúng không còn được nói ra nữa. Lý do thật đơn giản, như chúng tôi đã
trình bày, tuy nói là “tỉnh lược chủ ngữ” nhưng chủ ngữ ở đây không thể
nào khác hơn là chủ thể phát ngôn (người nói) nên QN dạng này không
có chức năng thông báo thông tin thực “Ai làm điều đó”. Nó chỉ là
phương tiện đưa đẩy, che chắn. Vì lý do tiết kiệm ngôn ngữ, về mặt tâm
lý giao tiếp, … có lẽ người nói thấy không cần thiết nói ra chủ ngữ (vì đó
chính là người nói). Thói quen này lâu dần được cố định hoá thành một
biểu thức. Ngược lại, nếu thay bằng “Cô ta nghe nói”, “Họ nghe nói”…
thì những đơn vị vừa thay đó không phải là QN mà là một tổ hợp tự do,
cú pháp hoá thành một mệnh đề thực sự của một câu ghép. Và phát ngôn
này chứa đựng hai thông tin thực “Ai làm”, “Làm cái gì”, …
2.1.2.2. QNTT có cấu tạo là một tổ hợp từ có tính từ làm trung
tâm
Các QNTT loại này thường xuất hiện trong các câu cảm mang đậm
màu sắc tình thái, chẳng hạn cực chẳng đã, may mà, may mắn thay, rủi
thay, lạ thay,…
Ví dụ: (24) May mà còn có đất mua chịu được.
Hoặc : (25) Đại hội nhà văn lần thứ tư được nhớ lại như một đại hội
có nhiều ý kiến trái ngược gay gắt. May thay các nhà văn của chúng ta
đã tỏ ra vững vàng.
Theo nguồn ngữ liệu mà chúng tôi thu thập để đưa vào khảo sát
không có QNTT có cấu tạo là cụm danh từ. Còn về trường hợp những
QNTT có cấu trúc là một cụm chủ-vị như Ai có ngờ đâu, Ai có dè đâu,
Nó chết một cái là,..như cũng đã nói, đây chỉ là hình thức phiếm định
chủ ngữ. Chúng tuy có hình thức là một câu nhưng chức năng, vai trò
trong câu chỉ tương đương với ngữ (tổ hợp từ) như ngờ đâu, dè đâu,
chết một cái là…Nếu khảo sát ba yếu tố “rõ thật”, “ai đời”, “rõ khéo”, ta
thấy chúng đều đồng đẳng về chức năng: dấu hiệu biểu hiện một thái độ
trách cứ, mỉa mai
(26) Ay chết! Con làm hỏng cái này rồi.
“Ay chết” được Hoàng Trọng Phiến coi là QN và giải thích:
Hư từ này có chức năng như một câu cảm thán, tỏ ý ngạc nhiên, can
ngăn. Câu tiếp theo nói về nội dung cảm thán đó. [22, tr.2].
Từ ví dụ trên, chúng ta thử lược bỏ “ấy”, phát ngôn sẽ còn lại chỉ
một từ đơn là “chết”:
(26’) Chết! Con làm hỏng cái này rồi.
Hoặc lược bỏ “chết”:
(26’’) Ay! Con làm hỏng cái này rồi.
PN không thay đổi vì “ấy chết”, “chết” và “ấy” đều có chức năng
công cụ, nếu có khác nhau thì chỉ là ở cấp độ cảm thán. Do đó, nếu đã
chấp nhận “ấy chết”(26) là QN thì “chết”(26’) và “ấy”(26’’) cũng là
QN.
Hoàng Phê quan niệm các QNTT là những tác tử lôgic tiếng Việt.
Dựa theo ý kiến này và quan niệm “từ ghép hư” của Đỗ Hữu Châu,
chúng tôi cho rằng, mặc dù có hình thức từ đơn (sự trùng hợp ngẫu nhiên
của một yếu tố ngôn ngữ), QNTT vẫn có khuynh hướng được hình thành
bằng nhiều hình vị hoặc sự kết hợp nhiều hình vị vào một từ đơn có sẵn,
vốn cũng là hoặc không phải là QN để tạo nên một tổ hợp QN có nghĩa
tình thái rất cao. Ví dụ có lẽ = có + lẽ sẽ có phái sinh chắc có lẽ = chắc +
có+ lẽ + nào, thảo nào (mà) = thảo + nào + (mà), ấy vậy mà = ấy + vậy +
mà, chẳng trách là = chẳng + trách + là,… Chúng được tái sử dụng
nhiều lần sau đó và trở nên ổn định, tức là có độ lặp. Các QN ấy thiếu
lôgic về ngữ nghĩa thuần tuý nhưng lúc bấy giờ, có vẻ như người nói cố
tình muốn dùng như vậy để làm nổi bật về nghĩa tình thái trong hành vi
liên kết ấy của người nói.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy rằng về tổng quát, biểu thức QN tiếng
Việt không có hiện tượng cấu trúc hoá cao, nhưng trong trường hợp phản
ánh tình thái, QN tiếng Việt cũng có những biểu thức khá ổn định như:
Thật đúng (là) P/Thật là P/Rõ là/X thay /Cho +X(cho lắm, cho
hay, cho đành)/ Chưa+X( chưa biết chừng, chưa chi)/Có +X(có chăng,
có họa là)/ Nghe+X/ Phải +X/ Ra+X/…
Rõ ràng, cấu trúc cú pháp của QNTTTV rất đa dạng, phức tạp,
ngoại lệ nhiều hơn quy luật. Có lẽ do chúng còn quá gần gũi với các đơn
vị là cụm từ tự do, các thành tố của chúng được thêm vào hay bớt đi đến
mức tối giản chỉ còn lại một từ đơn là có thể được. Vì vậy cấu trúc của
QNTT có thể tồn tại từ nhỏ nhất là từ đơn đến lớn nhất là mệnh đề.
Tóm lại, trong thuật ngữ QNTT, QN chỉ còn lại một cái tên, trên
thực tế, đặc điểm “ngữ” của nó không còn có ý nghĩa truyền thống là
một “cụm từ” nữa mà chỉ là một “yếu tố ngôn ngữ” như danh ngữ,
động ngữ, tính ngữ, hoặc nói theo thuật ngữ ngữ dụng học là một dấu
hiệu diễn ngôn (discourse signal/marker/device), ở đó có khả năng một
chức năng có thể được biểu hiện bằng nhiều hình thái và một hình
thái có khả năng chỉ ra nhiều chức năng. Như vậy, tuy có tên là QN
nhưng trong khi hành chức, các thành tố dụng học này không mang
nhiều đặc trưng gần gũi với các đơn vị cụm từ cố định khác. Nói cách
khác, chúng đã tồn tại vượt ra khỏi hệ thống cụm từ cố định. Đây là một
vấn đề mà chúng tôi nhận thức rằng vẫn còn gây tranh cãi nên các ý kiến
đưa ra của chúng tôi hoàn toàn không phải là những kết luận cuối cùng
mà chỉ là những điều có tính gợi mở trong nghiên cứu.
2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa – chức năng của QNTT tiếng Việt
2.2.1. Vấn đề chung
Trên quan điểm chức năng, khi nói đến vấn đề nghĩa, Cao Xuân
Hạo đã viết: “(…) người ta đã từng thấy có thể phân định đơn vị từ, phân
chia từ loại, phân biệt thực từ và hư từ…, căn cứ vào những tiêu chí ngữ
nghĩa được hiểu một cách đơn giản hóa quá mức nghĩa ở đây chẳng qua
là khả năng biểu hiện những sự vật hiện tượng của thế giới hiện thực,
không thấy rằng chức năng biểu thị và cương vị ngữ pháp không phải là
một, cũng không thấy rằng nghĩa biểu hiện mới chỉ là một trong các bình
diện đa dạng của nghĩa.
Cách quan niệm sơ lược về nghĩa khiến cho phần đông các tác giả
không thấy cần biết đến nghĩa logic ngôn từ, ý nghĩa tình thái, giá trị
thông báo, giá trị ngôn trung (illocutionnary force), giá trị xuyên ngôn
(perlocutionary force)” [2, tr.4-5].
Theo đó, tác giả đã xếp một số yếu tố biểu thị tình thái của câu,
trong đó có các QNTT, vào cấu trúc Đề - thuyết, với tư cách là cấu trúc
cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Trong công trình nghiên cứu của
mình, Cao Xuân Hạo đã dành hẳn một chương mục để miêu tả những
yếu tố biểu thị tình thái của câu trong cấu trúc cú pháp cơ bản, gồm
những yếu tố tình thái làm thành đề của câu, những yếu tố biểu thị tình
thái được xử lí như một phần thuyết tình thái (được đánh dấu bằng thì
hoặc là) [2, tr.174-182].
Xét ví dụ sau:
(27) Dù sao (thì) cung đã muộn rồi.
(28) Anh ở đây mà phiền thì lạ thật.
(Ghi chú: Đ: đề; T: thuyết; đ: đề; t: thuyết; C: câu)
Như vậy, qua phân tích và lí giải của Cao Xuân Hạo theo quan điểm
của ngữ pháp chức năng, ta thấy, những QNTT dẫu sao (thì), (thì) lạ
thật, đảm nhiệm chức năng thành phần câu. Dù tác giả có gọi đó là siêu
đề hay thuyết tình thái và cho là “cả hai gói câu nói vào một cái khung
tình thái” [2, tr.181], nhưng vẫn quả quyết “Nó hoàn toàn đáp ứng với
định nghĩa của một phần Đề: đó là cái phạm vi ứng dụng của phần
Thuyết, tức phần còn lại của câu” [2, tr.176].
Trái lại, có tác giả lại xếp lớp từ này vào Tình thái ngữ và cho rằng:
“Chúng không tham gia vào cấu trúc cú pháp biểu thị nội dung phản ánh
hiện thực khách quan. Nó là hình thức thể hiện một trong hai thành phần
nghĩa cơ bản của câu, thành phần nghĩa tình thái dụng học. Tuy có vai
trò quan trọng về nghĩa nhưng tình thái ngữ vẫn không được xem là
thành phần chính của câu, bởi lẽ:
-Tình thái ngữ không phải là thành phần ngữ pháp bắt buộc phải có
trong câu bình thường để đảm bảo tính hoàn chỉnh, độc lập của câu như
chủ ngữ, vị ngữ.
Đ T
C
đ2
đ3
C
t3
t2
T Đ
-Tình thái ngữ tồn tại theo phương thức đi kèm với cấu trúc cú pháp
biểu thị nội dung phản ánh hiện thực”. [5, tr.92-94].
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tạm gác sang một bên vấn
đề quy từ loại hay thành phần câu cho những tổ hợp nêu trên. Chúng đều
được coi là những QNTT( với tư cách là một đơn vị ngôn ngữ), và chúng
tôi sẽ khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa - chức năng của lớp từ này.
Trước hết, dựa theo giáo trình “Sơ thảo Ngữ pháp chức năng” [2,
tr.177-179], chúng tôi xin khái lược một số nét cơ bản về ngữ nghĩa của
QNTT tiếng Việt như sau:
- Giới thiệu điều được nhận định hay trần thuật như có một giá trị
chân lí tương đối hay một khả năng xác thực hạn chế nào đó thật ra, kể
ra, suy ra, xem ra, may ra, nhỡ ra (một cái), lẽ ra, lí ra, đằng thằng ra,
thiếu chút nữa,…
Ví dụ:
(29) Thật ra thì tôi có biết gì đâu.
(30) Nói cho đúng ra thì anh cũng có nóng.
(31) Ngữ này xem ra cũng biết điều.
(32) May ra thì cũng được vài thúng gạo.
(33) Lẽ ra anh phải đến sớm hơn.
(34) Phải cẩn thận, nhỡ ra một cái thì phiền lắm.
- Khẳng định tính đương nhiên trong mọi tình huống: dẫu sao
(thì)… cũng…, thế nào cũng…., đằng nào cũng…, đằng nào (mà)…
chẳng.
Ví dụ:
(35) Dù sao thì cũng đã muộn rồi.
- Nhận định về một khả năng cùng cực: ít ra thì, giỏi lắm là, may
lắm là, cùng lắm thì, quá lắm thì,…
Ví dụ: (36) Anh ăn giỏi lắm là được bốn bát chứ mấy.
(37) Cùng lắm thì lấy thóc giống ra mà bán.
- Thừa nhận giá trị chân lí của một nhận định được tiền giả định,
hoặc nhấn mạnh giá trị chân lí của nhận định kế theo: quả thật, quả tình,
quả tình, phải nói.
- Dẫn nhập một khả năng, một phỏng đoán, một nhận định về khả
năng: có thể, có lẽ, hình như, dường như, dẫu như, tưởng như, không
loại trừ, không chừng, chưa biết chừng, nghe đâu, nghe nói, không khéo.
- Dẫn nhập một sự tình kèm theo một sự đánh giá trong quan hệ với
tình huống: có điều, được (một) cái, khốn nổi, hiềm một nổi, (chỉ) mỗi
tội, (chỉ) tiếc cái, đáng tiếc, đáng buồn, đáng mừng,…
- Nhận định về chân lí đương nhiên của sở thuyết: tất nhiên, (lẽ)
đương nhiên, cố nhiên, hẳn, ắt, chắc chắn, chắc hẳn, chắc đúng, quả
thật, vị tất, chưa chắc, không nhất thiết,…
- Nhận định về tính cùng cực của cái sự tình hay khả năng do sở
thuyết biểu thị: hết sức, hay nhất, tốt hơn cả, tệ nhất, đáng tiếc nhất, may
lắm, ít nhất,…
- Nhận định về ưu thế (về thực tiễn, về đạo đức) của điều được nói
trong phần tiếp theo: tốt hơn, chẳng thà,…
- Giới thiệu điều sau đó là một điều kiện duy nhất cần thiết: miễn,
miễn sao, chỉ xin một điều, chỉ cốt (sao)…
- Nhận định về tính bất ngờ của điều được nói trong phần tiếp theo:
không ngờ, ai ngờ, ai có dè, ngờ đâu, dè dâu,…
- Dẫn nhập một sự tình mới phát hiện hay có tác dụng giải thích: lẽ
ra, hóa ra, chẳng hóa ra, số là, chả (…) là.
Vấn đề mà luận văn tập trung giải quyết là việc phân tích khía cạnh
ngữ nghĩa của các QNTT nằm trong nhóm, tức là sự phân loại các kiểu
nghĩa thường gặp của QNTT và mô tả chúng theo cách tiếp cận của ngữ
nghĩa- chức năng. Như vậy, phân tích các kiểu nghĩa, luận văn không chỉ
sử dụng các tri thức của ngữ nghĩa học truyền thống mà còn tận dụng các
kết quả phân tích ngữ nghĩa học gần đây cho vấn đề đặt ra.
Với tư cách là một đơn vị biểu đạt ý nghĩa tình thái, các QNTT
thường có ý nghĩa, chức năng riêng. Nghĩa của chúng không chỉ thuộc
vào nghĩa từ vựng, vào nghĩa ngữ pháp mà còn gắn với ngữ nghĩa – ngữ
dụng trong câu. Như vậy, nghĩa của chúng không phải là phép cộng cơ
giới đơn thuần nghĩa của từng thành tố tạo thành tổ hợp. Nói cách khác,
mỗi QNTT có thể được xem như là một thể hoàn chỉnh, hoạt động như
một khối có sẵn trong đó các thành tố đã ít nhiều mất tính độc lập. Chẳng
hạn, xét QNTT chỉ có điều P, trong các ví dụ sau:
(38) Có chiến đấu thì có hi sinh. Chỉ có điều anh ấy mất mà không
biết con mình là trai hay gái. (Kiếp người, tr.78)
(39)Thì ra ở đây cũng có những nhà tầng nay mai. Chỉ có điều
những khu đất rộng rãi lên nhà tầng không phải của anh em trong đơn vị.
(VNQĐ 3/95, tr.15).
(40)Bình yên và bão tố đều cần cả, miễn là đúng lúc đúng chỗ. Chỉ
có điều cô đến với bình yên của mình và bỏ lại bão tố cho ông Xung, cô
tàn nhẫn quá. (Phù thủy, tr.180)
(41)Thiên đình lại phải đại nghị. Có điều không ai tâu trình được
điều gì thực sự bổ ích. (Tuyển tập truyện ngắn I/tr.194).
Chúng ta dễ dàng nhận thấy những phát ngôn có chứa QNTT chỉ có
điều luôn giả định sự tồn tại của một phát ngôn QNTT nào đó có trước.
Theo Từ điển tiếng Việt (2000), quan hệ ngữ nghĩa giữa P và QNTT là
quan hệ bổ sung, “P là ý bổ sung quan trong cho QNTT” [12,198]. Cách
giải thích này, theo chúng tôi là chưa thật chính xác. Qua quan sát và
phân tích ngữ liệu, chúng tôi cho rằng tổ hợp từ có điều trong kiểu cấu
trúc Q (chỉ) có điều P không chỉ cho biết P là sự bổ sung cho QNTT mà
còn cho biết thái độ và sự đánh giá của người nói rằng sự bổ sung, điều
chỉnh này là không nhiều, có giới hạn. Nét nghĩa tình thái đánh giá
không nhiều, có giới hạn này là do từ có mang lại. Điều này có nghĩa là
với tư cách là một QNTT, có không còn là một tình thái từ. Nó thường
đứng trước danh từ, đôi khi có “chỉ” đi kèm ở trước biểu thị mức độ
thấp, ít của điều được nêu ra ở danh từ.
Ví dụ: (42) Mỗi bữa, nó ăn (chỉ) có hai chén cơm.
Như vậy, rõ ràng là ngay trong trường hợp nghĩa của các thành tố
tạo thành QNTT còn rất gần với nghĩa từ vựng vốn có của nó thì thật ra
chúng có nét nghĩa khác so với nghĩa của tổ hợp tự do có cùng hình thức.
Điều này cũng sẽ được khẳng định hơn trong trường hợp các QNTT
cũng do tổ hợp các từ với nhau tạo nên, song hầu như rất khó nhận biết
hay tìm ra được sợi dây liên hệ về ngữ nghĩa mà QNTT biểu thị với
nghĩa của các thành tố cấu thành tổ hợp. Đó là trường hợp các QNTT
kiểu: ai đời P bao giờ, chẳng qua P, cực chẳng đã P, dễ thường P, dù
thế nào đi nữa P, khéo mà P, không khéo mà P, gì thì gì P, P quá đi chứ,
của đáng tội P,…
Có thể nói, ở đây đã diễn ra một sự chuyển biến sâu xa về mặt
nghĩa. Chúng ta không thể trực tiếp dựa vào nghĩa của các yếu tố ghép
thành tổ hợp để tìm ra nghĩa cho toàn tổ hợp, cho dù chỉ là nghĩa bề mặt.
Ngô Hữu Hoàng cho rằng đây là ngữ nghĩa bậc hai và phân tích cơ chế
hình thành nó qua ví dụ sau:
Xét cụm từ chả/ chẳng trách của hai phát ngôn dưới đây:
(43) Em chả/ chẳng trách anh được.
(44) Thế thì mỡ đặt miệng mèo. Chả/ chẳng trách có trời giữ.
Đứng về mặt quan hệ cú pháp - ngữ nghĩa mà nói, có thể thấy ngay
chả/ chẳng trách(43) là một tổ hợp cú pháp bình thường, có vị ngữ động
từ trách ở dạng phủ định, có một mệnh đề thông tin trực tiếp là “Người
nghe không bị trách cứ”. Thế rồi từ cái “lịch sử” ngữ nghĩa đó, trong nói
năng, giao tiếp, người ta lại dùng đi dùng lại cho bất kì một hiện tượng
nào đó không thể không xảy ra từ một hệ quả tất yếu (nên phải chấp
nhận mà không trách cứ), biến nó thành một loại ngữ nghĩa tình thái,
giao cho nó nhiệm vụ báo hiệu một tình cảm, một thái độ chấp nhận đối
với thực tế mà mệnh đề thông tin ngay sau đó phản ánh. Và chả/chẳng
trách (44) vì thế mà mất đi quan hệ cú pháp giữa hai thành tố chả và
trách, bị hình thái hóa thành một chỉnh thể từ vựng – ngữ pháp không
thể tách rời và về cú pháp trở thành thành phần độc lập của câu, khi cắt
bỏ đi thì nội dung thông tin của phát ngôn không hề thay đổi mà chỉ
vắng bóng hoặc khiếm khuyết về cấp độ nghĩa tình thái. Bên cạnh đó
chả trách có các tổ hợp hư từ công cụ đồng nghĩa khác có cùng chức
năng như thảo nào, đúng là, thật là… rất xa lạ với chả trách của ví dụ
(43), và phát ngôn này không thể chấp nhận được khi nói:
(43’) Em thảo nào/ đúng là/ thật là anh được.
Trong khi đó đối với (44), chúng ta có thể thay thế được hàng loạt
các đồng nghĩa ấy theo trục liên tưởng:
(44’) … Thảo nào/ đúng là/ thật là… có trời giữ”. (tr.26-27)
Lập luận như trên đã cho thấy các QNTT được dùng như công cụ để
người nói thực hiện sự đánh giá đối với nội dung mệnh đề, cho biết điều
được nói ra là chân thực hay không chân thực, khen hay chê, tán thành
hay phản đối điều ấy. Trong thực tế giao tiếp, việc dùng ngôn ngữ để hỏi
lại, để chất vấn hay bác bỏ điều được nói ra trước đó hoặc để đánh giá,
chú giải nó về một phương diện nào đó, là khá phổ biến. Chẳng hạn, khi
ai đó nói: nói khí không phải P, nói bỏ ngoài tai P, nói bỏ quá cho P, khí
vô phép P, nói không phải nói P, … thì ngoài việc thông báo P, người ấy
còn thể hiện sự đánh giá của cá nhân mình rằng: “điều tôi nói ra (P) theo
phép lịch sự thông thường hay theo suy nghĩ của tôi là có gì đó không
đúng, không phải lắm nhưng tôi vẫn nói và mong được người đối thoại
thông cảm mà bỏ qua cho”. Với tư cách là người bản ngữ, người nghe
mặc nhiên hiểu thông điệp này khi tiếp nhận một phát ngôn mở đầu bằng
một trong số các QNTT trên. Và từ đó, một cách ngẫu nhiên, họ tự chuẩn
bị cho mình “tâm thế” tiếp nhận cũng như cách thức phản ứng, hồi đáp
lại thích hợp.
Như đã trình bày, để đáp ứng yêu cầu của luận văn, chúng tôi cố
gắng hướng tới một cách phân từ loại khả dĩ kiểm soát được của những
đơn vị của nhóm QNTT. Nhóm từ này phải đáp ứng không những với
các tiêu chuẩn ngữ pháp đặt ra với tư cách là điều kiện tiền đề cho sự
phân loại nghĩa của các thành viên mà còn thoả mãn tính tự nhiên của
người bản ngữ trong cách nói năng thường ngày: mỗi một QNTT ngầm
chứa những khả năng ngữ nghĩa mà người Việt đã thừa nhận như một
thành tố nói năng không thể thiếu được trong giao tiếp hằng ngày.
Nguồn tư liệu mà chúng tôi hiện có đã cho thấy các QNTT không chỉ
phức tạp, đa dạng ở phương diện hình thức mà còn thể hiện rõ nét hơn ở
phương tiện nội dung ngữ nghĩa. Tuy nhiên, chúng thống nhất với nhau
ở một điểm, đó là cùng được người nói sử dụng như một phương tiện,
một công cụ tác động vào nội dung mệnh đề nhằm biểu thị những ý
nghĩa tình thái nhất định. Có thể thấy rằng QNTT có tầm quan trọng rất
lớn trong việc kiến tạo ngữ nghĩa tình thái cho phát ngôn.
Có thể nói, cùng với sự phát triển của các bộ môn ngôn ngữ khác,
ngữ nghĩa học hiện nay cũng không ngừng có những hướng tìm tòi mới.
Hiện nay, bên cạnh việc nghiên cứu cấu trúc nghĩa của bản thân từng từ,
người ta còn chú ý đến nghĩa của từ trong quan hệ với câu, với phát
ngôn. Việc xem xét nghĩa của từ còn được đặt trong mối quan hệ của
người phát ngôn – chủ thể sử dụng phát ngôn với nội dung của phát
ngôn, với thực tiễn, hoàn cảnh nói năng và với người đối thoại. Và như
đã xác định ở phần trên, công trình này đi theo hướng tìm hiểu ngữ nghĩa
– chức năng của QNTT tiếng Việt. Áp dụng những khuynh hướng này
vào việc nghiên cứu ngữ nghĩa chức năng của QNTT TV, chúng tôi hy
vọng sẽ mang lại một kết quả nghiên cứu thiết thực gắn với thực tiễn sử
dụng chúng.
Đỗ Hữu Châu trong một chuyên luận viết về từ vựng ngữ nghĩa
tiếng Việt đã phân loại các chức năng giao tiếp cơ bản của các tín hiệu
trong thông điệp. Theo đó, các tín hiệu trong thông điệp được phân
thành bốn chức năng: miêu tả, dụng học, phát ngôn và cú học. [12, tr.58-
59]. Theo cách phân loại này, lớp từ mà chúng tôi đang xét thuộc vào
loại tín hiệu mang chức năng dụng học “…bộc lộ người nói, người nghe,
bộc lộ quan hệ giữa người nói và người nghe với nhau. Nó cũng bộc lộ
thái độ của người hỏi và người nghe đối với sự vật hiện tượng…”[12] và
chức năng phát ngôn (“Theo chức năng này, tín hiệu và thông điệp có
quan hệ tới các hành vi phát ngôn đó. Nhờ chức năng này mà các hoạt
động giao tiếp được bắt đầu, tiếp diễn bình thường và đi đến kết thúc.
Mặt khác chức năng này sẽ làm cho người đối thoại nhận biết các hành
vi phát ngôn (xác tín, đồng tình, bác bỏ, yêu cầu, khuyên bảo, hỏi, hứa
hẹn,…) [12, tr.59].
Để làm rõ bình diện ngữ nghĩa chức năng của QNTT TV, chúng tôi
chỉ khảo sát ba chức năng cơ bản sau:
- Chức năng đánh giá
- Chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn.
- Chức năng phản ánh tình thái.
2.2.2. Các chức năng ngữ nghĩa cơ bản của QNTT tiếng Việt
2.2.2.1. Chức năng đánh giá
Khi xem xét ngữ nghĩa chức năng của đánh giá, Volf đã đưa
đánh giá vào phạm trù tình thái. Tác giả đã nhận xét: “Có thể xem đánh
giá như là một trong những dạng của tính tình thái, tức là cái được đặt
chồng lên thêm cho một nội dung mô tả có trong sự thể hiện bằng ngôn
ngữ” [12, tr.11]. Vốn là một trong những hoạt động gắn liền
với nhận thức của con người, đánh giá chính là nêu ý kiến nhận xét,
thường là chủ quan, của người nói về sự việc được nêu trong câu. Do đó,
nội dung đánh giá ít nhiều hàm chứa cả thái độ của người đánh giá như
hài lòng, không hài lòng, thán phục hoặc chê bai, vui mừng hoặc tức
giận; đánh giá về lượng, mức độ, hay đánh giá về tính hợp lí, hợp lẽ của
điều được nói tới trong câu… Thực tế có nhiều cách đánh giá và ý nghĩa
đánh giá được thể hiện trong ngôn ngữ dưới nhiều hình thức. Dưới đây
chỉ là một số cách đánh giá thường gặp trong đó có sự tham gia của các
QNTT:
* Đánh giá về lượng, mức độ
Bất quá P là cũng, cũng chỉ P là cùng, cùng lắm thì (là) P, quá lắm
là P, P biết mấy, P biết bao, P là mấy, P là bao, có mỗi P, ít nhất (là) P,
P là đằng khác …
Ví dụ: (46) - Theo anh mấy ngày nữa thì mẹ về ?
- Bất quá hai ngày nữa là cùng.
(47) - Lên đường chậm vài giờ thì đã sao. Rồi lên phân
trần cùng đồng chí trạm trưởng, may ra thì đồng chí ấy thông cảm,
không thì đành nghe chửi. Quá lắm cũng đưa ra khiển trách.
(Núi đồi và thảo nguyên/tr.84).
Biểu thị sự phỏng đoán, đánh giá của chủ ngôn rằng sự việc, số
lượng nêu ở P là ở mức cùng cực, khả năng xấu nhất có thể xảy ra.
Ví dụ: (48) - Con bò có con năm trăm là mắc lắm. Thường ba,
bốn trăm là cùng.
(49) - Số tiền phải nộp phạt chỉ chênh có vài nghìn đến
mươi nghìn là cùng.
(Tuyển tập truyện ngắn I/476)
QNTT “P là cùng” thường dùng trong khẩu ngữ, có vị trí cố định
ở cuối câu. Trong hai trường hợp trên, ta thấy đứng trước “là cùng” là
một số từ, một danh ngữ có số từ làm trung tâm. Khi đó, QNTT này biểu
thị sự khẳng định của người nói rằng con số được nói đến là ở mức cao
nhất mà P đạt tới, không thể vượt hơn.
(50) Ít ra nó cũng phải có vài lời xin lỗi.
(Từ điển tiếng Việt/463)
(51) Anh đề nghị nếu binh trạm không bổ sung thú y về thì
anh em trong tổ nên cử người đi học lấy dăm bảy tháng. Ít ra cũng còn
biết cách xem bệnh và bốc thuốc cho voi.
(Tuyển tập truyện ngắn I/260)
QNTT “ít ra” biểu thị ý khẳng định của người nói rằng P là khả
năng ở mức độ tối thiểu cần đạt đến, có như thế mới hợp lí.
* Đánh giá về tính hiện thực/ phi hiện thực của sự việc
đáng lẽ, lẽ ra, lẽ nào, chẳng lẽ, đúng lí ra, công bằng mà nói, ai lại
P, ai đời P, đúng ra, P mới phải, đằng thằng ra, thì P, nỡ lòng nào,..
Ví dụ: (52) Đáng lẽ tôi cũng đi rồi. Nhưng cậu lái xe bỗng nổi cơn
sốt rét. Tôi phải để cậu ấy nghỉ ngơi. (Tuyển tập truyện ngắn
II/508)
(53) Tôi yêu cô ấy. Đáng lẽ tôi phải gặp cô ấy từ rất lâu;
như thế mới hợp lý.
(Bi kịch nhỏ/105)
(54) Trăng sáng đầy vườn hoa, cô ấy đáng lẽ phải ở bên
chú và thưởng thức khung cảnh ấy. Nhưng không.
(Tuyển tập truyện ngắn I / tr.76).
QNTT “đáng lẽ” theo đúng lẽ thường thì đã P nhưng vì một lý
do nào đó, điều xảy ra trong thực tế lại trái ngược P.
* Đánh giá về tính tất yếu/ phi tất yếu của điều được nói tới trong
câu
ắt hẳn, chắc hẳn, chắc chắn, dĩ nhiên là, cố nhiên là, tất nhiên là,
đương nhiên là, có lẽ,…
Ví dụ: (55) - Đầu tháng sáu Tây, tôi nghỉ thật. Anh sẽ được thêm số
tiền ấy của tôi mà trả tiền nhà với tiêu pha. Ăn thì bởi có một mình, cố
nhiên là bà Hà không thể nhận rồi.
(Tuyển tập Nam Cao, tr.300)
QNTT cố nhiên là biểu thị ý khẳng định dứt khoát của người
nói đối với tính tất yếu của điều được nói đến ở mệnh đề.
(56) Trở lại chỉ huy sở của đoàn, tôi cắm đầu viết lại câu chuyện
này. Tất nhiên là các nhân vật trong chuyện tôi thay tên. Cả những gì
thuộc về tính chất sự việc tôi cũng bớt đi cho đỡ rườm rà.
(Kiếp người, tr.251)
(57) Kỳ thi năm ấy, Dân bỏ thi môn của tôi. Như thế, đương nhiên
tôi phải cho Dân điểm không.
(Tuyển tập truyện ngắn, tr.430)
đương nhiên biểu thị sự khẳng định, thừa nhận của người nói
rằng điều được nói đến tất yếu như vậy không thể khác được.
(58)Sao em không học Sư phạm? Có lẽ nghề này nghèo túng phải
không em?
(Văn nghệ quân đội 8/96, tr.42)
có lẽ biểu thị ý phỏng đoán khẳng định một cách dè dặt của
người nói đối với tính chân thực của điều được nói đến. Như vậy QNTT
này được dùng trong trường hợp diễn tả điều không tất yếu sẽ xảy ra.
* Đánh giá về khả năng/ phi khả năng của điều được nhắc đến
nghe đồn, nghe nói, thấy bảo, trông như, dáng như, thoáng như,
dường như, chưa biết chừng, có khi, không chừng,…
Ví dụ: (59) Cô dè dặt:
- Nghe nói anh sắp lấy vợ.
(Tuyển tập truyện ngắn, tr.152)
(60) Thấy bảo người đàn bà này uống rượu nhiều.
(Tuyển tập truyện ngắn, tr.8)
(61) Anh ta dáng chừng sốt ruột, hết đứng lại ngồi.
(Từ điển tiếng Việt, tr.233)
(62) Đám đàn bà tức tối khi thấy bác đi qua. Làm sao nó lại đẹp
thế, lại trắng trơn đến thế? Dễ chừng nó chưa bao giờ bị đỉa bám vào
chân?
Người nói không cam kết hay bảo đảm tính chân thực của điều
được nói ra. Nghĩa là trên thực tế sự việc có thể như thế này mà cũng có
thể không. Bản thân các QNTT thấy bảo, dáng chừng, dễ chừng cho
chúng ta biết nội dung thông tin mệnh đề đi kèm có thể có khả năng xảy
ra hoặc không có khả năng xảy ra.
(63) Có khi mình hẹn lần vì bất đắc dĩ mà người ta lầm mình là
hạng người cẩn thận, kín đáo, chắc chắn cũng không biết chừng.
(Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tr.85)
(64) Tôi về chuyến này đem những ngót năm trăm bạc mà để kẻ cắp
biết thì có khi cũng không về được tới nhà.
(Tuyển tập truyện ngắn I/501)
Theo đánh giá của người nói vào thời điểm phát ngôn thì cả hai
khả năng này đều có thể xảy ra. Tuy nhiên, đựa trên những căn cứ, cơ sở
suy luận nhất định người nói thiên về phía khả năng P hoặc coi P là khả
năng đáng quan tâm, chú ý.
* Đánh giá về tính tích cực/ tiêu cực của điều được nói tới trong câu
ngộ nhỡ P, được cái P, chỉ (phải) mỗi tội P, hiềm một nỗi P, (nói)
của đáng tội, may sao, suýt nữa,…
Ví dụ:
(65) Được cái cậu ta không cờ bạc, rượu chè gì.
(66) Chỉ phải mỗi tội sức vóc nó nhỏ yếu, khó mà kham nổi công
việc nặng nhọc.
(67) Ngộ nhỡ ông ấy biết thì chết.
(68) Việc nghiêm trọng nhất mà ông không ngờ tới là hai con ruột
của ông, qua mọi thăng trầm của cuộc sống, gặp nhau và yêu nhau, suýt
nữa thành vợ chồng chính thức.
(Bi kịch nhỏ/48)
“Suýt nữa” biểu thị P là sự tình không có thật, mặc dù khả năng
trở thành hiện thực đã rất gần. Tuỳ vào nội dung mà P diễn đạt cũng như
tuỳ vào tình huống giao tiếp cụ thể mà QNTT này thể hiện những sắc
thái đánh giá (tích cực hoặc tiêu cực) khác nhau của người nói đối với P.
QNTT “được cái” theo cách nhìn nhận đánh giá chủ quan của
người nói thì P là điều tốt, có tính tích cực, bù lại cho những cái xấu, có
tính tiêu cực đã được nói đến ở trước.
“Chỉ mỗi tội” thể hiện sự đánh giá của người nói về cái điều P
đáng tiếc, hạn chế bên cạnh những cái hay, điều tốt mà đối tượng được
nêu có.
Dễ nhận thấy là kiểu phát ngôn có chứa QNTT thuộc nhóm này
luôn tiền giả định sự tồn tại của một hoặc một chuỗi phát ngôn Q đứng
trước.
Mặc dù trên hình thức là đánh giá nhưng chúng xuất hiện vào
những phát ngôn với vai trò như một phương tiện để đền bù vào những
chỗ mà người nói sợ rằng sẽ xảy ra vi phạm các phương châm hội thoại
(nhất là phương châm lịch sự). Khi không tuân thủ được cái lịch sự
thường tình trong giao tiếp, từ trong tiềm thức, họ tự thấy mình cần phải
có sự che chắn, rào đón để có thể giữ được xã giao trong tình trạng bình
thường. Và một khi không thể tránh né cái dở, bồi đắp cái hay được nữa
thì họ có những cách nói lòng vòng hoặc che chắn bằng những cách khen
rồi dùng những QNTT có lập luận nghịch như:
Ví dụ: (69) Anh chàng có bề ngoài khá bắt mắt chỉ mỗi tội nói
chuyện chán thật.
Những QNTT ra đời, tồn tại và “được sử dụng lâu dần thành quen”
chính vì chúng phù hợp với lối nói năng ưa tế nhị, ý tứ, trọng tình, trọng
các mối quan hệ, sợ mất lòng, sợ phải phê bình người khác một cách quá
thẳng thắn. Vì vậy, tuy đã chắc rồi, nhưng sợ mất lòng nên người nói cứ
rào đón hoặc dành phần thất lợi về mình, kiểu như: Tôi đoảng quá, nói
của đáng tội, nói bỏ lỗi, nói khí vô phép, khốn nỗi, … Và thường có
khuynh hướng là những QNTT trang trọng có khả năng ngày một mất
dần.
Ví dụ:(70) Con tưởng cô ấy lấy được ai giỏi giang hơn con chứ
cũng lấy thằng xe thằng bếp mà lại phải lấy làm hai. Lấy con làm một
mà cô ấy không thèm lấy.
Ông Học ngắt lời anh:
- Không lấy thì thôi, thiếu gì con gái mà anh còn phải tiếc. Tôi
ấy à ! Nói khí vô phép chứ vợ tôi mà thế thì mấy tôi cũng không lấy nữa.
(Truyện ngắn Nam Cao / tr.278)
(71) - Nhưng khốn nỗi xưa nay không ai chết lần thứ hai để được
bài học kinh nghiệm về cái chết. Vì vậy có nhiều người chết một cách
ngờ nghệch.
(Nguyễn Công Hoan – Truyện ngắn tuyển chọn)
QNTT “khốn nỗi” biểu lộ thái độ đánh giá của người nói, cho
rằng đó là điều bất lợi.
2.2.2.2. Chức năng tham gia biểu thị hành động ngôn từ
Những năm gần đây, vấn đề câu trong giao tiếp được giới Việt ngữ
học quan tâm với tên gọi là phát ngôn. Các mục đích của phát ngôn thời
gian gần đây được các nhà ngôn ngữ học đặc biệt quan tâm và khảo sát
chúng một cách tương đối hệ thống bởi lí thuyết hành động ngôn từ
(speech acts).
Ngữ dụng học chỉ ra rằng nói năng cũng là một loại hành động
tương tự như các hành động vật lí khác. Theo J.L.Austin [13, tr.238-349]
hành động ngôn từ gồm ba loại lớn: hành động tạo lời, hành động tại lời
và hành động mượn lời. Trong đó, hành động tại lời là những hành động
mà người nói thực hiện ngay khi nói năng. Nói cách khác, khi ta nói một
câu nghĩa là tư duy lô gích xác lập một mệnh đề và đồng thời ta cũng đã
thực hiện một hành động giao tiếp nhất định (mệnh đề được tình thái
hoá). Các hành động được thực hiện bằng phương tiện ngôn ngữ khi nói
được gọi là hành động tại lời (hay còn được gọi là hành động ngôn
trung). Có rất nhiều hành động tại lời như trình bày, miêu tả, giải thích,
minh hoạ, khẳng định, loan báo, minh chứng, đánh giá, phủ định, trả lời,
biện luận,… Nội dung của hành động tại lời được biểu hiện trong lời nói.
Lời nói luôn thể hiện suy nghĩ, nhận định, đánh giá, thái độ, tình cảm của
người nói. Có thể thấy rằng, với tư cách là phương tiện giao tiếp giữa
người nói (viết) và người nghe (đọc), phát ngôn luôn tồn tại trong cơ chế
hoạt động của giao tiếp liên nhân. Trong đó, các đối tượng giao tiếp có
thể sử dụng những dấu hiệu tình thái là trợ từ, thán từ, các tiểu từ tình
thái cuối câu hay các QNTT. QNTT không giống như các loại khác
trong hệ thống ngữ cố định (mặc dầu chúng tạm thời được xếp vào đó).
Vì thế, đối tượng mà chúng tôi đang khảo sát không phải với tư cách là
loại đơn vị ngôn ngữ trong hệ thống (trạng thái tĩnh) mà là đơn vị đang
làm chức năng của thực tiễn giao tiếp lời nói. Qua phân tích cách dùng
của QNTT tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu hiện có, chúng tôi thấy lớp từ
này có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành động ngôn từ khác
nhau khá sinh động và phong phú. Tuy nhiên, trong điều kiện hạn hẹp
của luận văn, chúng tôi chỉ khảo sát cách diễn đạt tình thái cảm thán và
nghi vấn. Các cách diễn đạt này không chỉ để tiếp nhận câu trả lời mà
còn có giá trị khẳng định, phủ định hoặc trách mắng. Và tình thái cảm
thán là hành động ngôn từ dùng để thể hiện cảm xúc, tình cảm, thái độ
của người nói đối với một người, một vật hay một sự kiện nào đó. Để
thấy rõ chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn của các QNTT,
cụ thể là tạo tình thái hành động nghi vấn và cảm thán, có thể xét các ví
dụ sau:
(72) Ở cái cảnh của chúng ta lúc này, hạnh phúc chỉ là một cái
chăn quá hẹp. Người này có thì người kia bị hở. Đâu phải tôi muốn tệ?
Nhưng biết làm sao được? Ai bảo cuộc đời cứ khắt khe vậy?
(Tuyển tập Nam Cao, tr.49)
(73) Nhưng bỗng hắn hơi ngần ngại, biết đâu cái lão cáo già này
nó lại chả lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi.
(Tuyển tập Nam Cao, tr.28)
(74) Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những
thằng du côn?
(Tuyển tập Nam Cao, tr.29)
(75) Chẳng lẽ cháu bà đành không có vợ?
(Tuyển tập Nam Cao, tr.76)
(76) Thứ ngạc nhiên:
- Công mỗi tháng có hai đồng.
- Chứ còn gì ? Cơm nuôi, quần áo chủ may mà.
(Tuyển tập Nam Cao, tr.249)
(77) Oanh có một mình, y đang mải miết viết gì. Thấy Thứ lên,
y xếp cả vào ngăn kéo (…).
- Cô lại viết thư cho ông Đích chứ gì ?
(Tuyển tập Nam Cao, tr.262)
(78) Tôi cố đưa mắt mờ vì mưa, mờ cả vì tâm trạng của mình lúc
ấy, cố tìm lấy một người hay một vật. Không lẽ nào giặc đã qua mà
người ta không trở lại ?
(Tuyển tập truyện ngắn II, tr.346)
(79) - Em hãy nói cho anh biết: em hay lui tới nhà ai ? Làm gì ?
Anh cần biết để giúp đỡ em.
- Làm gì mà tra hỏi như quan toà thế ? Ai cũng có bạn. Anh
cũng có tự do.
(Tuyển tập Nam Cao, tập 2, tr.24)
(80) Chưa bao giờ tôi đi bộ như thế này. Phải chăng đây là bước
đầu cuộc sống mới của tôi ?
(Tuyển tập Nam Cao, tập 1, tr.15)
(81) Chàng đã thất bại ba lần. Lần thứ tư sao lại chẳng là một
thắng cuộc?
(Tuyển tập truyện ngắn I, tr.157)
Dễ dàng nhận thấy là trong các phát ngôn trên, dù có hình thức là
nghi vấn nhưng những QNTT ai bảo, biết đâu, có bao giờ, chẳng lẽ, chứ
còn gì nữa, chớ gì, chứ gì, không lẽ nào, làm gì mà P thế, phải chăng,
sao lại chẳng,… lại biểu thị nhiều cung bậc tình thái khác nhau như bác
bỏ, phỏng đoán, khẳng định, nghi vấn, hoài nghi, … Điều đó cho thấy
khả năng tham gia biểu thị các ý nghĩa hàm ẩn của các QNTT TV. Khả
năng này cũng góp phần lí giải tại sao người Việt thường sử dụng QNTT
trong giao tiếp. Chúng không chỉ giàu sắc thái chủ quan và tính khẩu ngữ
tự nhiên mà còn là đơn vị góp phần làm phong phú thêm cách diễn đạt tư
tưởng, tình cảm bằng ngôn từ trong giao tiếp. Nhận thấy vai trò tham gia
biểu thị mục đích phát ngôn của lớp từ này, Nguyễn Thị Lương[69,
tr.32-35] đã bổ sung một số chức năng thể hiện tình thái hành động ngôn
từ của các QN tiếng Việt như sau:
- Đánh dấu hành động phỏng đoán, giả định: có lẽ, chưa biết
chừng, biết đâu, chắc hẳn,…
- Đánh dấu hành động phủ định bác bỏ: nào phải, nào có, nào
đâu, đâu có,…
- Đánh dấu hành động phản đối, can ngăn: tội gì mà, phải vạ, chả
phải tội, hơi sức đâu, sức mấy, việc gì,…
- Đánh dấu hành động chấp nhận, chấp thuận, thừa nhận thôi
được, đã đành, hèn gì, chả trách, phải đấy,…
- Đánh dấu hành động cảm thán: nhờ trời, ấy chết, rõ khổ, tiếc
thay, biết nhường nào,…
- Đánh dấu hành động cảnh báo, nhắc nhở: không khéo, kẻo nữa,
ngộ như,…
- Đánh dấu hành động đưa đẩy, rào đón: nói khí không phải, nói
trộm bóng vía, nói bỏ ngoài tai, của đáng tội,…
2.2.2.3. Chức năng biểu thị thái độ, tình cảm của người nói
Ngay tên gọi của đối tượng mà chúng tôi đang khảo sát – QNTT
tiếng Việt – cũng đã cho thấy rằng phản ánh tình thái là chức năng đầu
tiên, quan trọng nhất của lớp từ này. Và trong nhóm các QNTT có chức
năng đánh giá hay các QNTT tham gia biểu thị các mục đích phát ngôn
cũng phản ánh ý nghĩa tình thái. Có điều, chúng tôi tách chúng ra riêng
để khảo sát những tình cảm, thái độ chủ quan mà người nói bộc lộ, bày
tỏ trong phát ngôn thông qua các QNTT. Có thể nói, nhờ QNTT, người
nghe “đọc” được ý đồ, thái độ, tình cảm của người nói đối với P hoặc
những gì thuộc P. Và như vậy, rõ ràng, nhờ các QNTT thuộc nhóm này
mà người nói “nói” được những gì mà mình cần diễn đạt. Hay nói cách
khác, người nói không cần nêu lên một cách hiển ngôn thái độ, tình cảm
của mình song người đối thoại vẫn có thể cảm nhận được tình cảm, thái
độ ấy. Điều này rất phù hợp với văn hoá của người Việt, vốn dĩ coi việc
thể hiện tình cảm, thái độ một cách quá rõ ràng thường bị coi là thiếu tế
nhị, lịch sự.
Trong ngôn ngữ của loài người, ở bất kì loại hình ngôn ngữ nào
cũng đều tồn tại một lớp từ biểu thị thái độ, tình cảm. Và với tiếng Việt,
ngoài các thực từ hay thán từ, trợ từ còn có một số QNTT chuyên biểu
thị thái độ, tình cảm của người nói với nội dung sự tình hoặc với đối
thoại. Nói chung, các cung bậc tình cảm, tâm lí của con người rất phức
tạp. Trong giới hạn, khả năng của mình, chúng tôi chỉ đưa vào khảo sát
những trạng thái tâm lí, những biểu hiện thái độ điển hình, cơ bản
thường được đánh dấu bằng các QNTT đi kèm. Theo đó, chúng tôi phân
ra những nhóm sau:
* Biểu thị thái độ tin cậy của người nói đối với tính xác thực của
nội dung sự việc được nêu trong câu
Trong đó, căn cứ vào mức độ tin cậy, chúng lại có thể được xếp vào
hai nhóm sau:
* Người nói muốn biểu thị thái độ tin cậy cao
quả thật (là) P, rõ ràng (là) P, chắc chắn là P, ắt hẳn là P, cố nhiên
là P, còn phải nói, rõ thật P, …
Ví dụ:
(82) Nếu không một lần đắm mình trong tiếng lửa reo giữa đêm
đông giá buốt, chắc hẳn chúng ta chẳng thấy thích thú gì khi nhắc đến
những con người lầm lụi này, những người đốt gạch.
(Văn nghệ quân đội 5/97 – tr.30)
QNTT “chắc hẳn” biểu thị ý khẳng định tin chắc của người nói
đối với tính chân thực của P.
(83) Một hôm Thứ bảo đùa San hỏi nó xem có thể trọ ở nhà nó
không. Cố nhiên là San cũng chỉ coi đó là một câu nói đùa thôi.
(Tuyển tập truyện ngắn I.188).
QNTT “cố nhiên (là)” biểu thị ý khẳng định dứt khoát của người
nói đối với tính chân thực của điều được nói đến ở P, gạt bỏ, ngăn chặn
trước những ý kiến, suy đoán cho rằng không P hoặc có thể được nảy
sinh từ phía người tham gia giao tiếp.
(84) Tôi xấu hổ đến đau đớn vì lời nhiếc móc của tôi với Dân hôm
nọ. Quả thực tôi mới là thằng ngu nhưng chắc tôi không có gan để nói
với Dân điều ấy.
(Tuyển tập truyện ngắn II/429)
QNTT “quả thực” biểu thị ý khẳng định, xác nhận tuyệt đối của
người nói đối với tính chân thực của P, rằng P là đúng như vậy, không có
gì phải nghi ngờ nữa.
(85) Anh khách bình phẩm:
- Cái thằng cắt tóc số nó được nhờ con vợ.
Bà chủ xen vào:
- Thì còn phải nói. Ngày xưa khi anh ấy là bộ đội trong B tuy chỉ
là láng giềng thôi nhưng cô ấy chăm sóc bà cụ chẳng khác gì con cháu
trong nhà.
QNTT “còn phải nói” biểu thị ý khẳng định, xác nhận hoàn toàn
của người nói đối với tính chân thực của P rằng P đúng là như vậy, thậm
chí còn hơn thế.
(86) Từ nay thì im lặng ! Vừa nhàn thân, vừa nhẹ đầu. Giá sáng
hôm qua mình cũng tỉnh táo được như thế nhỉ. Rõ thật, ôm rơm chỉ nhặm
bụng. (Tuyển tập truyên ngắn II/460)
QNTT “rõ thật” biểu thị ý khẳng định, xác nhận của người nói
đối với P, rằng qua thực tế thấy P đúng là như vậy, không còn gì phải
nghi ngờ nữa.
* Thể hiện thái độ hoài nghi, chưa chắc chắn
Hình như, dường như, cũng có thể, không khéo, chưa biết chừng,
chắc đâu, phải chăng, dễ thường, có vẻ như, dễ chừng, dễ chừng,…
Ví dụ:
(87) Nó không đáp chỉ lắc đầu uể oải. Hình như nó đang bận
nghĩ ngợi điều gì.
(Truyện ngắn Nam Cao / 49)
(88) Tôi lập tức đạp xe đi vòng quanh vùng Gia Định tìm lão
Tầm Xuân nhưng lão vẫn bặt tăm. Hình như lão đã về quê rồi.
(Văn nghệ quân đội 3/97, tr.28)
QNTT “hình như” biểu thị ý phỏng đoán một cách dè dặt về P
dựa trên những điều mà người nói đã quan sát, cảm nhận được.
(89)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNNH003.pdf