Tài liệu Luận văn Quản lý việc dạy chữ chăm cho người chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh Bình Thuận: 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CAO THANH XUÂN
QUẢN LÝ VIỆC DẠY CHỮ CHĂM CHO NGƯỜI CHĂM
Ở HUYỆN HÀM THUẬN BẮC TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ MINH HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
2
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có 54 thành phần dân tộc khác
nhau. Dân tộc Chăm là một dân tộc thiểu số thuộc cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, hiện sinh sống ở nhiều tỉnh thuộc miền Trung và miền Nam, tập trung
nhiều ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Chữ Chăm đã có từ lâu
đời, đồng bào Chăm truyền tụng và nâng niu, song ít được phổ biến rộng rãi
trong các tầng lớp nhân dân, mà chủ yếu dành cho lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo nhằm nghiên cứu nghi thức hành lễ; hoặc chỉ có một bộ phận người
Chăm dùng để tìm hiểu phong tục tập quán của người Chăm. Với chủ trương
của Đảng và Nhà nước về chính...
115 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quản lý việc dạy chữ chăm cho người chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh Bình Thuận, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CAO THANH XUÂN
QUẢN LÝ VIỆC DẠY CHỮ CHĂM CHO NGƯỜI CHĂM
Ở HUYỆN HÀM THUẬN BẮC TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ MINH HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
2
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có 54 thành phần dân tộc khác
nhau. Dân tộc Chăm là một dân tộc thiểu số thuộc cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, hiện sinh sống ở nhiều tỉnh thuộc miền Trung và miền Nam, tập trung
nhiều ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Chữ Chăm đã có từ lâu
đời, đồng bào Chăm truyền tụng và nâng niu, song ít được phổ biến rộng rãi
trong các tầng lớp nhân dân, mà chủ yếu dành cho lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo nhằm nghiên cứu nghi thức hành lễ; hoặc chỉ có một bộ phận người
Chăm dùng để tìm hiểu phong tục tập quán của người Chăm. Với chủ trương
của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc và chữ viết của các dân tộc thiểu
số, các văn kiện chính thức của Nhà nước Việt Nam từ Hiến pháp đầu tiên cho
đến những văn kiện gần đây đều thống nhất một quan điểm: Tôn trọng quyền
tồn tại và phát triển của tiếng nói và chữ viết các dân tộc thiểu số đồng thời hỗ
trợ để tiếng nói và chữ viết của họ phát triển.
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1960 có ghi: "Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình".
Quyết định của Chính phủ số 53/CP ngày 22/02/1980 có đoạn viết:
"Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc thiểu số được Nhà nước tôn
trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển. Các dân tộc thiểu số chưa có chữ viết đều
được giúp đỡ xây dựng chữ viết theo chữ La tinh"[10].
Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, tại điều 4 có viết: “Giáo dục
tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt. Các dân tộc thiểu số có quyền sử
dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện
Giáo dục tiểu học[21].
3
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 viết:
"Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục,
tập quán truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình".
Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển tiếng nói
và chữ viết của các dân tộc thiểu số, cụ thể hơn là tiếng nói và chữ viết của
dân tộc Chăm, một số trường tiểu học vùng đồng bào dân tộc Chăm ở huyện
Hàm Thuận Bắc đã tiến hành việc dạy tiếng Chăm cho học sinh người Chăm.
Song, nhu cầu học chữ Chăm không chỉ giới hạn ở học sinh tiểu học, mà
nhiều người dân Chăm, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên mong muốn được
học cái chữ của dân tộc mình. Đây là nguyện vọng chính đáng nhằm góp phần
nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, phản ánh tính đúng đắn về chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta.
Là một ngôn ngữ của dân tộc thiểu số có dân số ở mức trung bình trong
tổng số 54 dân tộc ở Việt Nam, tiếng Chăm cùng với nền văn hoá Chăm có
vai trò quan trọng trong việc góp phần hình thành và xây dựng nền văn hoá
Việt Nam và được coi là một môn học trong hệ thống giáo dục tiểu học đối
với học sinh Chăm. Việc phát sóng bằng tiếng Chăm và đưa tiếng Chăm vào
dạy học trong nhà trường đã được bà con dân tộc Chăm phấn khởi đón nhận.
Tiếng Chăm hiện nay là một trong những tiếng dân tộc được phát sóng trên
các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Bình Thuận, Đài
Phát thanh - Truyền hình tỉnh Ninh Thuận và tập san Dân tộc và Miền núi do
Thông tấn xã Việt Nam xuất bản bằng tiếng Chăm đã mang đến cho đồng bào
người Chăm nhiều thông tin quí giá[34]. Song, để tiếp nhận đầy đủ lượng
4
thông tin trên, người dân Chăm càng phải cần có vốn hiểu biết chữ Chăm làm
công cụ truyền tải.
Hiện nay tiếng Chăm có các biến thể khác nhau và các loại hình chữ
viết khác nhau, đó là tiếng Chăm gốc và tiếng Chăm biến thể. Trong giao tiếp
hàng ngày, người Chăm sử dụng tiếng Chăm biến thể, trong khi đó trên 60%
người Chăm (đặc biệt là người ở lứa tuổi dưới 50) nghe không hiểu, hoặc hiểu
rất ít tiếng Chăm cổ đang dùng phát sóng trên các phương tiện phát thanh-
truyền hình[34]. Như vậy, thực tế phần lớn người Chăm chưa hiểu rõ các nội
dung bài báo được đăng tải trên các tạp chí bằng chữ Chăm hay trên sóng
phát thanh tiếng Chăm, vì một lẽ dễ hiểu là đa số người dân Chăm còn mù
chữ Chăm. Vì mù chữ Chăm và do thường ngày chỉ dùng tiếng địa phương có
nhiều lỗi chính tả, hoặc không còn nhớ từ vựng của tiếng mẹ đẻ mà được thay
thế vào đó bằng nhiều từ tiếng Việt, tiếng nước ngoài, cho nên đa số người
Chăm chưa thể đọc được chữ Chăm trên mặt báo hay chưa nghe và hiểu hết
tiếng Chăm chuẩn được phát thanh trên sóng của đài phát thanh. Điều đó,
chứng tỏ tiếng nói và chữ viết của người Chăm ngày càng mai một, nếu
không có sự bảo tồn kịp thời và đúng mức thì ngôn ngữ Chăm sẽ dần dần bị
mất hết vai trò của mình trong đời sống xã hội người Chăm. Trong khi đó
tiếng Chăm dạy cho học sinh trong nhà trường tiểu học chưa đủ lực để giữ vai
trò bảo tồn, phát triển tiếng nói và chữ viết Chăm. Một trong các giải pháp để
giúp cho các em khỏi quên chữ Chăm sau khi học tiểu học và cũng làm cho
người lớn biết chữ Chăm là phải tiến hành mở các lớp dạy chữ Chăm cho
người lớn (độ tuổi 15 - 45). Thế nhưng đến nay tại tỉnh Bình Thuận, chính
quyền tỉnh Bình Thuận chưa tổ chức việc dạy chữ Chăm cho người Chăm hết
độ tuổi học ở trường tiểu học.
Đề tài nghiên cứu “việc quản lý dạy chữ Chăm cho đồng bào dân tộc
Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận” nhằm đáp ứng tâm tư,
5
nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc Chăm, làm cho người dân
Chăm biết được chữ Chăm, từ đó sẽ thu nhận nhiều thông tin hữu ích trong
cuộc sống, tìm hiểu phong tục tập quán của đồng bào Chăm qua các tài liệu
cổ, góp phần phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người Chăm,
tạo nên sự đoàn kết và thể hiện sự bình đẳng dân tộc giữa cộng đồng các dân
tộc ở Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khảo sát nhu cầu học chữ Chăm của người Chăm và tìm hiểu việc tổ
chức dạy chữ Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Từ đó, đề
xuất một số giải pháp thực hiện việc quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm
ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
3.2. Khách thể nghiên cứu : Người Chăm trong độ tuổi từ 15 - 45, các trí
thức và các giáo viên người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu tiến hành quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm thì sẽ tạo
điều kiện tốt cho người Chăm trong độ tuổi 15 - 45 tham gia học chữ Chăm, ít
nhất ở mức biết đọc và biết viết.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu việc quản lí dạy chữ Chăm cổ cho người học chữ
Chăm trong độ tuổi từ 15 - 45 trên địa bàn huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
Thuận.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
6.1. Hệ thống một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
6
6.2. Nghiên cứu thực trạng nhu cầu học chữ Chăm và việc tổ chức dạy chữ
Chăm cho người Chăm độ tuổi 15 - 45 ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
Thuận.
6.3. Đề xuất và thử nghiệm một số giải pháp quản lý việc dạy chữ Chăm
cho người Chăm độ tuổi 15 - 45 ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
7. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Nghiên cứu Luật giáo dục, các văn bản qui phạm pháp luật của chính
phủ, các cấp quản lý giáo dục và các tác giả nói về việc dạy tiếng dân tộc
thiểu số. Nghiên cứu các báo cáo của UBND huyện Hàm Thuận Bắc về tình
hình kinh tế - xã hội của huyện; nghiên cứu các tài liệu nói về người Chăm,
ngôn ngữ Chăm.
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu
Điều tra khoảng 300 người dân Chăm có độ tuổi từ 15 - 45, thuộc 3 xã
của huyện Hàm Thuận Bắc có đông đồng bào dân tộc Chăm sinh sống nhằm
tìm hiểu thực trạng học chữ Chăm (Trình độ chữ Chăm, nhu cầu, mục đích
học chữ Chăm). Xác định mức độ và tần số về nhu cầu học tiếng Chăm, hình
thức tổ chức lớp học chữ Chăm cho người lớn tuổi.
Điều tra (phỏng vấn bằng phiếu) 50 người, gồm một số chức sắc tôn
giáo, lão làng, trưởng thôn, trí thức và giáo viên người Chăm nhằm khẳng
định nhu cầu, mục đích và những đề xuất khác của việc học chữ Chăm.
Điều tra hiệu trưởng ở các trường Tiểu học có dạy tiếng Chăm, các giáo
viên người Chăm và một số cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo
nhằm góp ý, bổ sung, hoàn chỉnh các giải pháp quản lý dạy tiếng Chăm.
7
7.3. Phương pháp thử nghiệm
Trình lên Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Thuận xin phép tổ chức mở lớp
dạy (thử nghiệm) 3 lớp học tiếng Chăm cho người lớn tuổi , mỗi xã một lớp,
nhằm rút kinh nghiệm cho việc giảng dạy tiếng Chăm và công tác quản lý
việc giảng dạy tiếng Chăm cho người lớn tuổi, tạo khí thế ban đầu cho phong
trào học tiếng Chăm trong huyện.
7.4. Phương pháp toán học thống kê
Dùng để xử lí kết quả nghiên cứu. Sử dụng bảng thống kê để tính tần
số, tỉ lệ phần trăm về: Trình độ chữ Chăm; nhu cầu, mục đích và hình thức
học tập chữ Chăm.
8. TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU
8.1. Nghiên cứu lí luận
* Nghiên cứu về tính hợp pháp, sự cần thiết và ý nghĩa của việc quản lý
các lớp học chữ Chăm cho người Chăm (Từ tháng 6/2006 đến tháng 7/2006).
* Nghiên cứu khái niệm công cụ (Từ tháng 7/2006 đến tháng 8/2006).
8.2. Nghiên cứu thực trạng
* Tìm hiểu khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội,
giáo dục và người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc (tháng 8/2006).
* Khảo sát thực trạng biết chữ Chăm, nhu cầu và mục đích học chữ
Chăm của người Chăm ở độ tuổi 15 - 45 qua khoảng 300 phiếu điều tra
(tháng 8/2006).
* Khảo sát khoảng 50 phiếu phỏng vấn, tìm hiểu nguyện vọng của các
già làng, các chức sắc tôn giáo, các trí thức trong cộng đồng người Chăm về ý
nghĩa và sự cần thiết của việc tổ chức học chữ Chăm cho người Chăm (tháng
8/2006).
* Nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên dạy tiếng Chăm ở huyện
Hàm Thuận Bắc (tháng 9/2006).
8
* Khảo sát thực trạng về công tác quản lý việc dạy chữ Chăm cho
người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc (tháng 9/2006).
* Xử lý số liệu điều tra (tháng 10/2006 - 12/2006).
* Tổng hợp số liệu, các tư liệu và viết báo cáo kết quả nghiên cứu
(tháng 01/2007 - 8/2007).
9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Vấn đề dạy chữ (tiếng) dân tộc thiểu số trên thế giới
Nhiều quốc gia trên thế giới đã có những chính sách khuyến khích việc
học tiếng dân tộc thiểu số cho cả trẻ em và người lớn tuổi.
Ở Liên hiệp Anh, có dân tộc Wales. Chính phủ Anh cho phép, khuyến
khích việc giảng dạy tiếng Wales. Hằng năm đều tổ chức ngày hội thi tiếng
Wales.
Ở Philipin, “đối với các dân tộc đã có chữ viết như người Mangyan ở
Mindoro, các dân tộc ở Ifugao thì lại tiến hành dạy tiếng dân tộc, tiếng
Philipin và tiếng Anh” [32].
Mỹ, Trung Quốc, Inđônêxia là các quốc gia đa dân tộc. Tại những quốc
gia này, chính quyền cho phép tổ chức giảng dạy các thứ tiếng của người dân
tộc thiểu số cho học sinh trong trường phổ thông và dạy cho người lớn tuổi
dân tộc thiểu số có nhu cầu học tập.
Theo Marilin Gregerson, một nhà ngôn ngữ học Mỹ, thì người dân tộc
có thể học tiếng phổ thông “dễ dàng nếu trước tiên họ được dạy để đọc cái
ngôn ngữ họ thạo nhất”[32].
F.B. Dawson và Barbara jean Dawson, trong bài viết về sự đóng góp
hiện nay của Viện Ngôn ngữ Mùa hè vào chương trình xóa mù chữ không
chính thức tại Hà Nội: “...dự án thứ hai có mục đích cố vấn cho việc xây dựng
tài liệu đọc cơ bản bằng ngôn ngữ H’Mông để dùng trong một chương trình
thí nghiệm dành cho học sinh bỏ học và người lớn không có cơ hội đi
học”[32].
10
1.1.2. Vấn đề dạy tiếng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Một số công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ
Chăm như: “Ngôn ngữ các dân tộc thiểu Việt Nam và chính sách ngôn ngữ”
của Hoàng Tuệ (1984); “Văn học Chăm: Khái luận, văn tuyển” của Insara
(1994); “Ngữ pháp tiếng Chăm” của Bùi Khánh Thế (1996); “Văn hóa - xã
hội Chăm” của Insara (2003)…Qua các công trình này, cho chúng ta thấy các
tác giả đều mong muốn duy trì và phát huy những giá trị bản sắc văn hoá tốt
đẹp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhất là văn hoá Chăm. Song, chưa
có một công trình khoa học nào nói về quản lý việc dạy chữ Chăm cổ cho
người Chăm lớn tuổi.
Từ đây, gợi mở cho chúng ta: Phải chăng cần nghiên cứu về công tác
quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm nhằm góp phần phát triển Văn
hoá Chăm.
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dạy tiếng dân tộc
thiểu số.
* Nghị quyết trung ương năm 1940 nêu: “ Mỗi dân tộc có quyền dùng
tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục của mình”[12].
* Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 của Đảng Cộng sản Đông dương
ngày 10/5/1941: “Văn hóa của mỗi dân tộc được tự do phát triển, tồn tại;
tiếng mẹ đẻ của các dân tộc được tự do phát triển, tồn tại và được bảo
đảm”[13].
* Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), tại chương I Điều 5 có
nêu: “ Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình”
* Luật giáo dục năm 2005, tại điều 7, mục 2 có ghi:
11
Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng
tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và các cơ sở giáo dục
khác; việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được
thực hiện theo quy định của Chính phủ[21].
* Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, điều 4 có ghi: “Các dân
tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình cùng với
tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học”[22].
* Quyết định số 53/CP ngày 22/02/1980 của Hội đồng chính phủ (nay
là Chính phủ) về chủ trương chữ viết đối với các dân tộc thiểu số, nêu:
Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa
là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hóa chung của cả
nuớc. Ở các vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng
đồng thời với tiếng và chữ phổ thông. cùng với chữ phổ thông, chữ
dân tộc tham gia vào nhiều mặt hoạt động ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, nhất là trong việc giữ gìn và phát triển vốn văn hóa của các
dân tộc (Mục I.2). Bộ Giáo dục có trách nhiệm hướng dẫn các tỉnh
xây dựng kế hoạch dạy chữ phổ thông và chữ dân tộc trong các
trường, các lớp phổ thông và bổ túc văn hóa thích hợp với tình hình
thực tế và yêu cầu của từng vùng, từng dân tộc (mục III.1)[10].
* Thông tư số 01/GD-ĐT ngày 03/02/1997 của Bộ GD-ĐT hướng
dẫn thực việc dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số nêu:
+ Thực hiện Luật phổ cập GD tiểu học, trước hết triển khai dạy
môn tiếng dân tộc (bao gồm tiếng nói, chữ viết) trong các trường lớp
mẫu giáo, các trường tiểu học, các lớp xóa mù chữ và bổ túc văn hóa
12
tại các vùng dân tộc thiểu số. Đa dạng hóa các hình thức dạy tiếng
dân tộc. Người học có thể lựa chọn việc học tập thích hợp: học ở
trường lớp, học ở gia đình, ở các lớp học thêm ngoài giờ, học tiếng
dân tộc sau khi đã học xong bậc tiểu học... Mở các lớp xóa mù chữ
cho người lớn tuổi ở các thôn, ấp, làng, bản; các lớp học tiếng dân tộc
buổi chiều, tối... (Phần 1. Một số nguyên tắc chung)[3].
+ Trước mắt, tiến hành xây dựng chương trình bộ môn tiếng
Chăm, tiếng Khơme, Thái, Tày, Nùng và các thứ tiếng Ê Đê, Gia Rai,
Ba Na, Xê Đăng, K’ho ở các tỉnh Tây nguyên (Phần 2. Một số việc
làm cụ thể trước mắt)[3].
+ Ngành học giáo dục thường xuyên cần nhanh chóng tạo ra
các điều kiện cần thiết để đưa tiếng dân tộc vào việc xóa mù cho
người dân tộc thiểu số. Trước hết, tiến hành xóa mù chữ dân tộc cho
các đối tượng lớn tuổi không có điều kiện xóa mù chữ bằng chữ quốc
ngữ. Sau xóa mù chữ cần có các tài liệu đọc thêm bằng chữ dân tộc
để củng cố và nâng cao thêm vốn hiểu biết tiếng và chữ mẹ đẻ cho họ
(Phần 2. Một số việc làm cụ thể trước mắt)[3].
1.1.2.2. Quan điểm của một số tác giả về việc dạy chữ dân tộc thiểu
số và chữ Chăm
* Hoàng Tuệ:
+ Một trạng thái song ngữ ở trình độ thấp, trình độ tự nhiên,
không những không thể phát huy tác dụng tích cực, mà còn ảnh
hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của cộng đồng xã hội nhỏ là từng
dân tộc thiểu số, và cộng đồng lớn là toàn thể dân tộc Việt Nam.... Có
thể nghĩ rằng đáng mong muốn nhất là một trạng thái song ngữ ở
trình độ cao, trình độ văn hóa, tức là trạng thái song ngữ văn học,
13
trong đó người dân tộc thiểu số có ý thức đầy đủ, sâu sắc về tiếng mẹ
đẻ cũng như về tiếng Việt và có khả năng sử dụng tốt tiếng Việt văn
học cũng như tiếng mẹ đẻ, phát triển dần thành ngôn ngữ văn
học[31].
+ Dạy học chữ và tiếng dân tộc là một việc làm đáp ứng nguyện
vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc...; Chính quyền Ngô Đình
Diệm thì không cho người thiểu số học tiếng thiểu số, chỉ buộc họ
học tiếng Việt... còn người Pháp soạn chữ Chăm bằng tiếng Latin với
mưu đồ là gây ra và nuôi dưỡng mãi mãi sự đối kháng giữa các dân
tộc thiểu số, đặc biệt ở vùng chiến lược Tây nguyên, với người Kinh.
Cần có chủ trương thỏa đáng đối với ngôn ngữ có chữ viết cổ
truyền... Song, nhìn về quá khứ của sự hội nhập các dân tộc, và nhìn
vào hiện tại của những chênh lệch phát triển giữa các dân tộc, không
thể không thấy là quốc gia Việt Nam đang đứng trước những vấn đề
không đơn giản... Những ngôn ngữ vốn đã có chữ viết cổ, lại có thêm
chữ viết Latin hóa thì tùy tình hình cụ thể của từng dân tộc, có thể
dạy song song vừa chữ cổ, vừa chữ Latin hoặc có thể dạy chữ cổ cho
người lớn tuổi ngoài nhà trường và chữ Latin cho học sinh phổ thông
[32].
* Bùi Khánh Thế cho rằng:
+ Trong tập hợp các ngôn ngữ Việt Nam, tiếng Chăm là một
ngôn ngữ có hệ thống văn tự lâu đời, có di sản văn học quí (cả văn
học viết và văn học dân gian) và nhất là được sử dụng thường xuyên
trong sinh hoạt chung của nội bộ cộng đồng Chăm cũng như trong
sinh hoạt song ngữ Chăm – Việt tại những khu vực người Việt và
người Chăm sống xen kẽ [26].
14
+ Giữ gìn và phổ biến các giá trị quý báu của văn hóa truyền
thống Chăm được ghi lại bằng hệ thống văn tự cũ (tiếng cổ), nhằm
giúp cho sự phát triển xã hội hiện tại, gây niềm tự hào chính đáng cho
nhân dân Chăm với tư cách là chủ nhân của một truyền thống văn hóa
lâu dài, đồng thời cũng là thành viên trong một quốc gia đa dạng về
thành phần dân tộc và văn hóa.... Dùng hình thức giáo dục có tính
chất vừa Nhà nước vừa nhân dân để giúp cho lớp người Chăm trẻ tuổi
có sự hiểu biết cần thiết về hệ thống văn tự cổ truyền (tùy nhu cầu và
sự tự nguyện), qua đó mà biết được lịch sử phát triển văn hóa không
chỉ riêng cho dân tộc mình, mà của cả toàn khối cộng đồng dân
tộc[26].
* Hoàng Văn Ma:
+ Người Chăm, người Hrê, người K’ho có dân số gần như nhau
và cùng hưởng chính sách bình đẳng như nhau. Nhưng tiếng Chăm,
chữ Chăm gắn với văn hóa Chăm Pa, mà ảnh hưởng của nó lan tỏa
sang nhiều dân tộc lân cận....Đối với chúng ta, ... còn nhằm một mục
đích thực tiễn là nghiên cứu tiếng nói chữ viết dân tộc để phục vụ
giảng dạy song ngữ, để nâng cao dân trí và bảo tồn vốn văn hóa dân
tộc.... Hơn nữa, nếu chỉ có các tác phẩm dịch sẽ không có được các
điều kiện chắt lọc được những cái hay từ ngôn ngữ tác phẩm[18].
+ Khích lệ việc sử dụng tiếng dân tộc vì ngôn ngữ còn thì văn hóa
còn. Đúng vậy, tiếng nói của một dân tộc nào đó là công cụ giao tiếp,
là biểu hiện linh hồn dân tộc, là di sản thiêng liêng của muôn đời để
lại.... Nếu tầng lớp trẻ không được đào tạo về tiếng mẹ đẻ thì nhiều
cái hay, cái gốc sẽ bị lãng quên dần. Kết quả, khi nói tiếng dân tộc thì
pha lẫn tiếng Việt một cách không cần thiết; khi nói tiếng Việt thì lộ
ngay cái giọng miền ngược[18].
15
+ Như tiếng Chăm, đã mất phương pháp cấu tạo từ phụ tố....
Đối với chữ Chăm, tình hình càng phức tạp hơn. Cách phát âm đối
với một số từ ở ngôn ngữ này có những sắc thái khác nhau nhất định
tùy theo giới, tuổi tác, trình độ hiểu biết văn tự Chăm cổ [18].
* Insarsa (người Chăm):
+ Muốn văn học và văn học tiếng dân tộc có cơ hội nẩy mầm
và phát triển đủ sâu và rộng thì việc dạy tiếng dân tộc đóng một vai
trò quyết định.... Từ năm 1978, chữ Chăm được dạy rộng khắp trong
các trường tiểu học có con em Chăm học,... nhưng sau đó, vì các em
chưa có sách đọc thêm để nâng cao hay mở rộng vốn từ hay kiến thức
văn học dân tộc nên không ít trường hợp các tài năng không cơ hội
phát triển, hoặc thậm chí chữ thầy trả lại cho thầy....Tiếng nói - chữ
viết Chăm, qua đó tồn tại các văn bản cổ Chăm, là tài sản quý báu
chung của nền văn hóa đa dân tộc Việt Nam. Giữ gìn nó là giữ gìn
bản sắc dân tộc, để chúng ta mãi là chúng ta, không bị nghiêng đổ
trước cơn bão văn minh vật chất tầm thường đang xâm nhập vào xã
hội mà tất cả thức giả trên thế giới lên tiếng báo động....[15].
* Nguyễn Văn Tỷ, Trưởng Ban biên soạn sách tiếng Chăm tỉnh Ninh
Thuận nêu:
Quá trình nghiên cứu về từ hiện đại của Ban biên soạn sách
tiếng Chăm tỉnh Ninh Thuận, và ngữ liệu trong các văn bản cổ cho
thấy từ vựng Chăm hết sức phong phú, đa dạng và trên cơ sở vốn từ
cổ truyền có điều kiện khả năng phát triển lớp từ vựng mới. Từ năm
1978, nhờ sự hình thành Ban biên soạn sách tiếng Chăm tỉnh Thuận
Hải (nay là Bình Thuận và Ninh Thuận), chữ Chăm cổ (akhar thrah)
đã được biên soạn và in ấn thành sách giáo khoa, và được đưa vào
giảng dạy trong các trường tiểu học có đông con em dân tộc Chăm
16
theo học, cũng như trong các lớp bổ túc văn hóa cho thanh niên và
quần chúng nhân dân Chăm trong tỉnh [26].
* Phú Văn Hẳn (người Chăm):
Việc dạy và học tiếng Chăm là cần thiết và chính đáng, song
phải thỏa mãn nhu cầu bảo tồn vốn văn hóa dân tộc Chăm, phải
hướng đến kết quả cuối cùng là đọc được các văn bản cổ đang được
lưu giữ rộng rãi trong cộng đồng người Chăm Việt Nam....Nhiều bí
ẩn liên quan đến văn bản cổ của Champa hiện nay sẽ từng bước sáng
tỏ[31].
* Nông Quốc Chấn:
Một số cán bộ dân tộc còn có thái độ và nhận thức chưa đúng,
coi chữ viết riêng của dân tộc là trở ngại cho sự phát triển của con em
mình!... Mỗi công dân nói thành thạo hai ngữ ngôn, viết và đọc thành
thạo chữ quốc ngữ và chữ dân tộc sẽ là một thuận lợi lớn trong quá
trình nâng cao trình độ văn hóa, khoa học và mở rộng mối quan hệ
giữa các dân tộc[7].
* Một công trình về Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết dân tộc
Chăm do nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện Ngôn ngữ học (Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam) điều tra, khảo sát tại các tỉnh Bình Thuận và Ninh
Thuận- hai nơi tập trung đông đồng bào dân tộc Chăm sinh sống, đã nhận xét:
Nên coi chữ Chăm truyền thống là chữ Chăm duy nhất và
thống nhất sử dụng trong toàn dân tộc Chăm ở các tỉnh Bình Thuận
và Ninh Thuận, không cho phép chế tác chữ Chăm Latinh mang tính
tổ chức Nhà nước vì có liên quan đến lợi ích quốc gia, là tính thống
nhất của từng dân tộc gắn liền với tính thống nhất của quốc gia. Trên
các phương tiện truyền thông đại chúng, lấy tiếng Chăm cổ làm cơ sở
17
kết hợp với việc sử dụng cả tiếng Chăm biến thể trong xã hội hiện nay
để phát sóng. Sự điều chỉnh này đảm bảo được mục đích truyền
thông, người Chăm hiểu được tiếng Chăm, đưa tiếng nói của Đảng,
Nhà nước đến với người dân[34].
Hiện nay, nhu cầu học tiếng Chăm của người Chăm và những
người công tác tại vùng Chăm đang có chiều hướng tăng mạnh; vì thế
cần soạn thảo sách giáo khoa phục vụ các đối tượng học khác nhau
như giáo sinh, người Chăm xoá mù chữ Chăm. Nhà nước ở tầm quốc
gia phải đóng vai trò quyết định đối với vấn đề chữ viết của các ngôn
ngữ dân tộc thiểu số, không nên trao quyền quyết định cho các địa
phương, vì việc chế tác và sử dụng chữ viết dân tộc thiểu số như hiện
nay, sẽ dẫn đến tình trạng một dân tộc có thể sử dụng các chữ viết
khác nhau do thuộc các địa phận hành chính khác nhau, về lâu dài sẽ
có nguy cơ chia tách dân tộc[34].
* Hoàng Thị Châu:
Nhu cầu viết tiếng dân tộc thiểu số thành văn bản là có thật, là
cấp thiết của người lớn tuổi. Vậy chữ dân tộc thiểu số trước tiên phải
được phổ cập cho người lớn tuổi, sau đó mới dạy cho trẻ em. Khi đã
có chữ viết, thì việc đầu tiên là xoá nạn mù chữ dân tộc cho người
lớn, và trước tiên là cho cán bộ để họ ghi chép sổ công tác, chuẩn bị
bài nói chuyện trong các cuộc họp với nhân dân, viết bản tin trước khi
phát thanh, ghi chép văn học dân gian, sáng tác tác phẩm của
mình,...[8].
Chỉ khi nào người lớn nhận thấy chữ viết quả là có ích, không
thể thiếu được trong cộng đồng, họ sẽ tự dạy cho con em họ, yêu cầu
mở lớp dạy chữ và khuyến khích con em đi học. Khi ấy việc tổ chức
18
dạy đại trà tiếng và chữ dân tộc thiểu số cho trẻ em cấp tiểu học mới
có ý nghĩa và duy trì được lâu dài[8].
Cần có nhiều biện pháp đưa chữ viết vào đời sống như viết các
thông báo, biển treo ở những nơi công cộng bằng song ngữ (tiếng dân
tộc thiểu số và tiếng Việt) nhất là ở các thị xã, thị trấn [8].
Tóm lại, các quan điểm trên thể hiện rõ:
* Quyền bình đẳng của các ngôn ngữ trong xã hội được thừa nhận bằng
các văn bản pháp luật. Đảng và nhà nước quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ các
dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ, văn hóa.
* Ở những cơ sở dạy tiếng dân tộc thiểu số, tiếng dân tộc thiểu số đã và
đang được giảng dạy như một môn học, bình đẳng với các môn học khác
trong hệ thông giáo dục quốc dân, nhằm mục đích giúp người học tiếp thu
nhanh, thuận lợi các kiến thức được truyền đạt bằng tiếng dân tộc và tiếng
phổ thông, góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết và vốn văn học truyền thống
của các dân tộc thiểu số.
* Sự cần thiết phải mở các lớp dạy chữ Chăm cho người Chăm còn mù
chữ Chăm ở các thôn, ấp, làng, xóm... với các loại hình học tập thích hợp: học
ở trường, học ở gia đình, ở các lớp học thêm ngoài giờ…
Điều đó, khẳng định Đảng và Nhà nước ta đã định hướng, cho phép và
tạo điều kiện để người Chăm được đi học chữ Chăm, thoát khỏi tình trạng mù
chữ Chăm, thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, chống lại những luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch về chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Quan
điểm dạy chữ Chăm cho người Chăm còn được sự đồng thuận, ủng hộ mạnh
mẽ của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, các trí thức người dân tộc, người Chăm
và một số tác giả nước ngoài.
19
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1 Quản lý
Khái niệm “Quản lý” được định nghĩa khác nhau dựa trên cơ sở những
cách tiếp cận khác nhau:
• Theo F.W.Taylor, nhà thực hành quản lý lao động và nghiên cứu quá
trình lao động: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm
và làm cái đó bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”[28].
• Theo A.Fayon, nhà lý luận quản lý kinh tế: "Quản lý là đưa xí nghiệp
tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất các nguồn lực (nhân, tài, vật lực của
nó)”[28].
• Theo K.Marx: “Quản lý là một chức năng tất yếu của lao động xã hội,
nó gắn chặt với sự phân công và phối hợp”[28].
Ở Việt Nam các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học quản lý và
trong lĩnh vực khoa học giáo dục đưa ra các định nghĩa khác nhau:
• “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý
đến tập thể người lao động nói chung (khách thể quản lý), nhằm thực
hiện những mục tiêu dự kiến”[28].
• Quản lý là tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý (người quản lý) tới khách thể quản lý (người bị quản lý), trong
một tổ chức về mặt chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, … bằng một hệ
thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, các phương pháp và biện
pháp cụ thể, … nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt mục tiêu của tổ
chức, v.v…[28].
Hiện nay, quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: “Quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức
năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”[28]. Hay chúng
20
ta có thể hiểu một cách gọn hơn, quản lý là quá trình tổ chức và điều hành
công việc nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
1.2.2. Dạy học
Bản chất của quá trình dạy học là sự tương tác giữa người dạy và người
học. Với tư cách là chủ thể:
- Người dạy (chủ thể của hoạt động dạy – giáo viên) giữ vai trò
chủ đạo : quyết định dạy cái gì (mục tiêu), dạy như thế nào
(phương pháp).
- Người học (chủ thể của hoạt động học – học sinh) giữ vai trò
chủ động (chủ thể nhận thức): tự giác, tích cực, sáng tạo trong
học tập[6].
1.2.3. Quản lý quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức, mọi người đều rõ mục
đích của dạy học là làm cho người học lĩnh hội được những kinh nghiệm xã
hội mà loài người đã tích lũy được qua nhiều thế kỷ. Quá trình dạy học là một
quá trình tâm lý, vì dạy học phải đi trước sự phát triển và quá trình phát triển
không diễn ra như nhau, mà mỗi lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo tương
ứng. Mặt khác, quá trình dạy học là một quá trình xã hội, là sự tương tác giữa
người và người, người và xã hội; mục đích dạy học do xã hội đặt ra.
Về nội dung quản lý quá trình dạy học, chúng ta có thể nêu những vấn
đề chính như sau:
* Quản lý việc thực hiện kế hoạch và chương trình giảng dạy.
* Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị giờ dạy của giáo viên.
* Quản lý giờ lên lớp của giáo viên.
* Quản lý việc sinh hoạt tổ chuyên môn, dự giờ và quá trình giáo dục
của giáo viên.
21
* Quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên.
* Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học.
* Quản lý việc phân công giảng dạy cho giáo viên.
* Quản lý quá trình bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
* Quản lý các phương tiện và điều kiện hỗ trợ hoạt động giảng dạy.
* Quản lý việc lập kế hoạch phát triển lớp học.
* Quản lý việc đào tạo đội ngũ giáo viên.
* Quản lý việc vận động người học ra lớp học.
* Quản lý việc cấp giấy chứng nhận học lực.
1.2.4. Chữ Chăm
* Hiện nay, người Chăm có các thứ chữ khác nhau tương ứng với hai
vùng cư trú và hai tôn giáo. Người Chăm theo đạo Hồi ở An Giang, từ thế kỷ
XVI học chữ Ả Rập để đọc kinh, họ còn dùng những kí tự này để ghi tiếng
nói Chăm; Người chăm vùng Bình Thuận, Ninh Thuận thì có chữ Chăm cổ, “
những văn bia cổ nhất được ghi bằng thứ chữ này được phát hiện có thời điểm
khoảng thế kỷ thứ II – III sau Công nguyên”[18].
* Suốt quá trình lịch sử của mình, người Chăm vùng Bình Thuận, Ninh
Thuận đã dùng các thứ chữ sau:
- Akhar thrah (có thể hiểu là chữ thông dụng)
- Akhar yok (có thể hiểu là chữ bí ẩn)
- Akhar atwơr (có thể hiểu là chữ viết tắt – chữ treo)
- Akhar kalimưng ( có thể hiểu là chữ viết tháo - chữ con nhện).
Cả 4 loại chữ trên đều là thứ chữ cổ, song chỉ có loại akhar thrah là
được sử dụng tương đối rộng rãi, thông dụng; 3 loại chữ còn lại đều là biến
22
thể của akhar thrah. Ngoài ra, “còn có akhar hayap là kiểu chữ dùng để viết
trên bia; akhar rik có nghĩa là chữ thánh, chữ cổ thường dùng để viết hoa
trong đầu những văn bản ở thời cận đại"[26].
* Văn tự akhar thrah lần đầu tiên được các học giả Pháp giới thiệu một
cách có hệ thống và dùng trong tự điển Chăm – Pháp (E.Aymonier, A.
Cabaton), và sau đó được giới thiệu trong chuyên luận bằng tiếng Nga về
ngôn ngữ Indonesia (Arakin V.D). Akhar thrah cũng như tất cả các loại chữ
trên đều bắt nguồn từ một trong những văn tự cổ miền Nam Ấn độ[26].
* Hệ thống chữ akhar thrah hiện dùng để giảng dạy trong các trường
tiểu học đã được Ban biên soạn chữ Chăm tỉnh Thuận Hải cũ (nay tách thành
hai tỉnh là Bình Thuận và Ninh Thuận) sửa đổi đôi chút trên cơ sở chữ akhar
thrah cổ, hiện gồm 65 kí hiệu, trong đó có 41 chữ cái và 12 chân chữ (phụ lục
1 Bảng chữ cái tiếng Chăm cổ).
* Ngoài ra, còn có chữ Chăm theo kí tự Latin do người Pháp biên soạn.
Trước năm 1975, Viện Chuyên khảo ngữ học mùa hè của Mỹ ở Sài Gòn đã
biên soạn sách học tiếng Chăm theo mẫu tự Latin[32].
1.2.5. Dạy chữ Chăm
Là làm cho người học biết được hệ thống chữ akhar thrah, hiện dùng để
giảng dạy trong các trường tiểu học, cũng như đang dùng để truyền tải các
thông tin trên tạp chí Dân tộc và Miền núi do Thông tấn xã Việt Nam xuất
bản.
1.2.6. Người lớn tuổi học chữ Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh
Bình Thuận
Người lớn ở đây chủ yếu là đối tượng có độ tuổi từ 15 - 45. Họ có một
số đặc điểm cần lưu ý trong quá trình dạy học:
* Với độ tuổi 15 - 18
23
- Về mặt sinh học: Các em đang trong giai đoạn phát triển mạnh, có
nhiều chuyển biến về tâm lý, dễ bất đồng; trí lực phát triển tốt, rất thuận lợi
cho việc học tập, tiếp thu kiến thức mới.
- Về mặt xã hội: Các em chưa thực sự là người trưởng thành, đang ở
giai đoạn chuẩn bị trưởng thành, có nhu cầu muốn tự lập, muốn tự khẳng định
mình, song còn ham chơi và suy nghĩ chưa thật chín chắn, dễ nản lòng hay bất
mãn khi gặp sự cố, có thể dễ bỏ học. Phần lớn các em trong diện này đang
còn học phổ thông; số còn lại đang học nghề hoặc đã tham gia hoạt động lao
động sản xuất để góp sức với gia đình nuôi sống bản thân mình; việc học chữ
Chăm chỉ là hoạt động thứ yếu.
* Với độ tuổi 18 - 30
- Về mặt sinh học: Đã trưởng thành, phát triển không đáng kể về mặt
sinh học; khả năng học tập, tiếp thu kiến thức vẫn còn tốt.
- Về mặt xã hội: Đã trưởng thành, tự lập, có khả năng tự quyết định
và tự chịu trách nhiệm về bản thân, muốn được người khác tôn trọng. Hầu hết
ở độ tuổi này, họ là lao động chính, rường cột trong gia đình. Nói chung, lao
động sản xuất là hoạt động chủ đạo đối với họ; họ phải vừa làm vừa lo cho
gia đình con cái, còn việc học tập chỉ là thứ yếu, kể cả việc học chữ Chăm.
* Với độ tuổi 30 - 45
- Về mặt sinh học: Không còn phát triển, một số chức năng của cơ thể
suy giảm như: nghe, nhìn, vận động, chú ý, trí nhớ… Do đó, việc học tập, tiếp
thu kiến thức mới gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trí nhớ chủ định của người
lớn tuổi tương đối phát triển hơn. Người lớn có thể tập trung chú ý hằng giờ
nếu thấy vấn đề thiết thực, có ý nghĩa với bản thân họ.
- Về mặt xã hội: Ngoài những mặt giống như ở độ tuổi 18 – 30, họ
còn có nhiều ưu điểm hơn, do họ có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, suy
24
nghĩ và làm việc chín chắn hơn. Ý thức giữ gìn phong tục tập quán và ngôn
ngữ của dân tộc ở độ tuổi này trỗi lên mạnh mẽ hơn. Đây là một đặc điểm rất
thuận lợi cho việc giảng dạy chữ Chăm cho người lớn tuổi, có thể họ tiếp thu
chậm hơn, nhưng bù lại họ sẽ kiên trì hơn trong việc học.
* Những đặc điểm chung của độ tuổi 15 - 45 khi tham gia học chữ
Chăm, họ có những thuận lợi và khó khăn sau:
- Tự nguyện, tự giác tham gia học tập. Có chủ định trong việc học
chữ Chăm: học như thế nào? Học để làm gì? Học để khẳng định vai trò của
mình trong gia đình và xã hội.
- Hầu hết đã nghe, đọc và viết khá thành thạo tiếng Việt.
- Đa số có vốn hiểu biết rộng về văn hoá, xã hội; có kinh nghiệm
trong cuộc sống.
- Có sẵn vốn tiếng nói Chăm, do đó dễ phát âm khi học chữ, dễ hiểu
và dễ nhớ từ ngữ tiếng Chăm.
- Xem việc học chữ Chăm chỉ là một hoạt động thứ yếu, không dành
nhiều thời gian cho việc học tập, tư tưởng dễ bị phân tán do phải lo công việc
chính yếu khác.
- Dễ tự ái, do muốn được tôn trọng và bình đẳng. Họ không muốn bị
ra lệnh, ép buộc hay áp đặt.
Do vậy, người giáo viên cần đánh giá đúng mức về tâm lý và năng lực
tiếp thu của người học, không quá nhấn mạnh vào những khó khăn về tuổi tác
mà hạ thấp khả năng tiếp thu của học viên; cần phát huy tính chủ động tích
cực và kinh nghiệm của người học, xem đây là yếu tố có tính quyết định đến
kết quả học tập chữ Chăm của người lớn.
25
1.2.7. Dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Là làm cho người lớn tuổi biết được hệ thống chữ akhar thrah. Về mặt
tâm sinh lý, ở độ tuổi này có sự khác biệt nhiều so với độ tuổi đang học tiểu
học. Do vậy, việc học tập của họ có một số khác biệt so với trẻ em. Hơn nữa,
họ đã có vốn từ ngữ tiếng Chăm khá tốt nên có nhiều thuận lợi trong việc học
chữ Chăm. Cần chú ý một số vấn đề:
* Dạy học tập trung vào việc tạo điều kiện cho người học tự khám phá,
tự xây dựng, kiến tạo nên kiến thức riêng của mình.
* Dạy học tập trung vào việc tổ chức cho người học trao đổi, tham gia
thảo luận, phát huy tính tích cực của các cá nhân trong nhóm.
* Mục đích dạy học không chỉ truyền kiến thức, mà chủ yếu là làm thay
đổi hoặc phát triển các quan niệm đã có của người học, qua đó người học kiến
tạo kiến thức mới, đồng thời phát triển trí tuệ và nhân cách của mình.
* Cần tạo ra môi trường học tập vui vẻ, thoải mái, tin tưởng và tôn trọng
lẫn nhau. Chân tình giúp đỡ và động viên người học kịp thời.
1.2.8. Quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Quản lý việc dạy chữ Chăm là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều
hành và kiểm tra việc dạy chữ Chăm, nhằm làm cho những người Chăm chưa
biết chữ Chăm biết được chữ Chăm cổ (akhar thrah).
1.3. Một số vấn đề lý luận liên quan đến công tác quản lý việc dạy chữ
Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Về nội dung cụ thể của quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm
lớn tuổi, chúng ta có thể nêu những vấn đề chính như sau:
1.3.1. Quản lý việc lập kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao trách nhiệm chính cho Hiệu trưởng
trường Tiểu học đang giảng dạy tiếng Chăm cho học sinh chịu trách nhiệm
26
tiến hành khảo sát thực trạng trình độ và nhu cầu học học chữ Chăm của
người dân ở địa phương, từ đó lập kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm cho
người lớn. Việc làm này được đưa vào trong công tác lập kế hoạch phát triển
lớp học chung của nhà trường hằng năm. Giúp việc cho Hiệu trưởng trong
công tác này là giáo viên Chuyên trách xoá mù chữ - phổ cập giáo dục trên
địa bàn xã, nơi trường tiểu học đóng chân, giúp cho Hiệu trưởng các số liệu
về độ tuổi, trình độ văn hoá,…theo sổ theo dõi phổ cập giáo dục.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo sẽ xem xét, duyệt kế hoạch phát triển mở
lớp học chữ Chăm cho người lớn khi duyệt kế hoạch phát triển lớp học chung
của nhà trường, và xem đây là cơ sở để định mức kinh phí và nhân sự cho nhà
trường hằng năm.
- Tại Điều 3, mục 2 của Điều lệ Trường Tiểu học có nêu: “Thực hiện kế
hoạch phổ cập giáo dục tiểu học và tham gia xoá mù chữ trong phạm vi cộng
đồng”[5]. Vì vậy, việc giao cho nhà trường tiểu học đang giảng dạy tiếng
Chăm lập kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm cho người lớn là phù hợp với
nhiệm vụ của trường Tiểu học được quy định trong Điều lệ trường Tiểu học
do bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Hơn nữa, các trường tiểu học này hiện
quản lý đội ngũ giáo viên đang giảng dạy tiếng Chăm cho các em học sinh
tiểu học, các giáo viên này có nhiều kinh nghiệm giảng dạy tiếng Chăm. Nhà
trường cũng có kinh nghiệm trong việc quản lý đội ngũ giáo viên tiếng Chăm.
Bên cạnh đó có sự giúp sức, cộng đồng trách nhiệm của giáo viên chuyên
trách xoá mù chữ - phổ cập giáo dục, việc làm này cũng chính là để hỗ trợ,
góp phần cho công tác xoá mù chữ nói chung, trong đó có nhiệm vụ xoá mù
chữ Chăm, thể hiện đúng trách nhiệm được giao cho ngưòi giáo viên này.
- Kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm cho người lớn cũng được
thông báo đến chính quyền địa phương cấp xã, nó được xem là một chỉ tiêu
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của chính quyền địa phương. Căn cứ vào
27
kế hoạch này chính quyền sẽ tạo điều kiện giúp đỡ để bảo đảm an ninh, hỗ trợ
về vật chất và động viên tinh thần của thầy trò lớp chữ Chăm.
- Kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm cho người lớn cũng được
Phòng Giáo dục và Đào tạo đưa vào kế hoạch phát triển giáo dục chung của
huyện, trình Uỷ ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc và Sở Giáo dục và Đào
tạo Bình Thuận để giải quyết biên chế giáo viên dạy chữ Chăm, cấp kinh phí
cho lớp học chữ Chăm hoạt động, chỉ đạo việc thực hiện chương trình và các
vấn đề chuyên môn khác như là một lớp xoá mù chữ phổ thông theo quy định
hiện hành.
1.3.2. Quản lý việc thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy
- Chương trình giảng dạy chữ Chăm bằng chữ akhar thrah cho người
lớn, hiện nay chưa được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức ban hành chung
cho cả nước. Song, hiện nay ở tỉnh Ninh Thuận, Sở Giáo dục và Đào tạo đã
biên soạn chương trình học tiếng Chăm bằng chữ akhar thrah cho người lớn.
Trong khi chờ Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình chính thức,
chúng ta chọn chương trình học chữ Chăm bằng chữ akhar thrah cho người
lớn do Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Ninh Thuận đã biên soạn.
- Việc chọn chương trình học tiếng Chăm bằng chữ akhar thrah cho
người lớn do Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Ninh Thuận đã biên soạn, trước
mắt giải quyết được việc thiếu chương trình để giảng dạy. Mặt khác chương
trình trên cũng phù hợp với người học, vì người Chăm ở 2 tỉnh Ninh Thuận và
Bình Thuận cùng ngôn ngữ Chăm Đông, cùng phong tục tập quán và thực tế
các lớp học tiếng Chăm cho người lớn ở huyện Hàm Thuận Bắc trước đây
cũng đã thực hiện theo chương trình này.
- Chương trình giảng dạy và sách giáo khoa được Phòng Giáo dục và
Đào tạo phân bổ, cấp phát đến từng trường học có lớp học chữ Chăm như việc
cấp phát chương trình và sách giảng dạy các bộ môn khác trong trường học.
28
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao cho Hiệu trưởng các trường tiểu học
quản lý việc thực hiện chương trình và kế hoạch dạy chữ Chăm cho người
Chăm lớn tuổi như việc quản lý chương trình học xoá mù chữ phổ thông trên
địa bàn mình phụ trách.
1.3.3. Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị giờ dạy của giáo viên
- Phòng Giáo dục và Đào tạo quy định việc soạn giáo án của một tiết
dạy chữ Chăm cho người lớn. Yêu cầu của một bài soạn giáo án dạy chữ
Chăm như một tiết dạy xoá mù chữ (tiếng Việt). Ngoài ra, Hiệu trưởng còn
phải đề nghị giáo viên chú ý hơn việc minh hoạ sát thực tế trong quá trình
giảng dạy, sao cho người học dễ hiểu, dễ nhớ và thích thú trong quá trình học
tập; cần chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi người lớn.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao nhiệm vụ cho Hiệu trưởng trường
tiểu học phân công trách nhiệm cụ thể cho tổ trưởng tổ tiếng Chăm trong việc
hướng dẫn soạn bài, kiểm tra và góp ý việc soạn bài của giáo viên dạy chữ
Chăm cho người lớn, tương tự hướng dẫn việc giảng dạy tiếng Chăm cho học
sinh tiểu học. Đây cũng là việc làm thường xuyên của Hiệu trưởng trong công
tác quản lý trường học.
1.3.4. Quản lý giờ lên lớp của giáo viên
- Giờ lên lớp là khâu chủ yếu nhất, quan trọng nhất của quá trình dạy
học. Nó quyết định chất lượng dạy học. Chất lượng giờ lên lớp phụ thuộc vào
năng lực giảng dạy của ngưòi giáo viên. Muốn giáo viên có giờ dạy tốt người
Hiệu trưởng cần thể hiện đầy đủ các biện pháp quản lý giờ dạy của giáo viên
và tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện giờ lên lớp có hiệu quả.
- Trên cơ sở đề nghị của tổ tiếng Chăm, Hiệu trưởng cần xây dựng tiêu
chuẩn đánh giá giờ dạy của giáo viên dạy chữ Chăm dựa trên tiêu chuẩn đánh
giá giờ dạy của giáo viên tiếng Chăm trong trường tiểu học và tiêu chuẩn
đánh giá một tiết học xoá mù chữ, vì việc dạy chữ Chăm cho người lớn trước
29
mắt vừa mang tính chất xoá mù chữ vừa thể hiện là tiết học chữ Chăm.
- Hiệu trưởng quan tâm đến việc dự giờ, thăm lớp học chữ Chăm để
nhằm động viên tinh thần học tập của học viên và nhận xét, đánh giá tiết dạy
của giáo viên.
1.3.5. Quản lý việc sinh hoạt tổ (chuyên môn) tiếng Chăm, dự giờ và
quá trình giáo dục của giáo viên tiếng Chăm
- Giáo viên dạy chữ Chăm cho người lớn là các giáo viên đang dạy
tiếng Chăm trong nhà trường Tiểu học. Trong các trường tiểu học này, có
thành lập một tổ (chuyên môn) tiếng Chăm; tổ tiếng Chăm có trách nhiệm
quản lý hoạt động giảng dạy tiếng Chăm trong trường tiểu học. Do vậy,
Phòng Giáo dục và Đào tạo giao cho tổ tiếng Chăm trong trường tiểu học
quản lý hoạt động giảng dạy chữ Chăm cho người lớn. Việc giao cho tổ tiếng
Chăm quản lý, chỉ đạo chuyên môn về việc giảng dạy chữ Chăm cho người
lớn có nhiều mặt thuận lợi, vì:
+ Các giáo viên dạy tiếng Chăm đều là người Chăm, họ có nhiều
kinh nghiệm và năng lực trong giảng dạy ngôn ngữ Chăm; họ đều là dân địa
phương nên hiểu rõ về phong tục tập quán và cuộc sống của người dân Chăm
ở địa phương mình giảng dạy. Đây là một điều kiện rất thuận lợi cho việc
giảng dạy chữ Chăm.
+ Các giáo viên dạy chữ Chăm đều có mong muốn duy trì và
phát triển ngôn ngữ Chăm, cho nên họ dạy chữ Chăm với bằng tất cả nhiệt
tình của mình, chứ không phải chỉ giảng dạy vì đồng tiền thù lao theo quy
định. Ngoài việc truyền thụ các con chữ, họ còn dạy cho người Chăm hiểu
biết chung về đạo làm người, về cách đối nhân xử thế để cho người dân Chăm
chung sống một cách lạc quan trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ (chuyên môn) tiếng Chăm, tăng
30
cường việc dự giờ thao giảng để tìm ra phương pháp giảng dạy thích hợp là
việc làm cần thiết nhằm làm cho việc học tập chữ Chăm của người lớn có
hiệu quả. Do vậy, Hiệu trưởng các trường tiểu học có tổ chức việc dạy chữ
Chăm cho người lớn cần phải hướng dẫn, tạo điều kiện tốt nhất cho tổ giáo
viên tiếng Chăm hoạt động và thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở tổ trưởng tổ
tiếng Chăm về trách nhiệm của mình. Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng lấy
kết quả hoạt động của tổ tiếng Chăm để làm cơ sở đánh giá công tác quản lý
trường học của hiệu trưởng.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức thanh tra việc quản lý trường học
của Hiệu trưởng, trong đó có thanh tra nội dung công tác chỉ đạo của Hiệu
trưởng về hoạt động tổ tiếng Chăm và dạy chữ Chăm cho người lớn.
1.3.6. Quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên
- Phòng Giáo dục và Đào tạo quy định hồ sơ chuyên môn của giáo viên
dạy lớp chữ Chăm cho người lớn như hồ sơ của giáo viên dạy xoá mù chữ
(tiếng Việt), bao gồm:
+ Giáo án
+ Sổ điểm
+ Sổ dự giờ (chung cho các lớp khác, tính trên mỗi giáo viên)
+ Sổ chủ nhiệm
- Các loại hồ sơ chuyên môn của giáo viên dạy lớp chữ Chăm cho
người lớn phải thể hiện bằng chữ phổ thông (tiếng Việt), ngoại trừ giáo án
được ghi bằng chữ Chăm cổ ở một số nội dung, để tiện việc kiểm tra theo dõi.
Các loại hồ sơ này do tổ trưởng tổ tiếng Chăm kiểm tra theo quy định của
Hiệu trưởng để quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên. Giáo viên dạy lớp
chữ Chăm cho người lớn có trách nhiệm cập nhật đầy đủ theo quy định hiện
hành (như là hồ sơ một lớp xoá mù chữ). Việc lập các loại hồ sơ trên là một
31
căn cứ để đánh giá, xếp loại kết quả hoạt động của giáo viên hằng năm, là cơ
sở để đánh giá chất lượng giảng dạy, học tập của người dạy và người học.
1.3.7. Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học
- Căn cứ vào chương trình học do Ban biên soạn chữ Chăm và quy chế
đánh giá kết quả học tập theo chương trình xoá mù chữ tiếng Việt của Bộ giáo
dục và Đào tạo, việc dạy chữ Chăm cho người lớn bước đầu thực chất là xoá
mù chữ Chăm. Do vậy, thực hiện chế độ kiểm tra đánh giá kết quả học tập ở
lớp học chữ Chăm cho người lớn như chế độ kiểm tra đánh giá một lớp học
xoá mù chữ phổ thông (tiếng Việt) hiện hành, bao gồm:
+ Điểm kiểm tra miệng
+ Điểm kiểm tra 15 phút
+ Điểm tra 1 tiết
+ Điểm kiểm tra 3 giai đoạn theo chương trình học
+ Điểm kiểm tra cuối khóa học
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao cho trường tiểu học nơi tổ chức lớp
học chữ Chăm cho người lớn chịu trách nhiệm tổ chức việc đánh giá kết quả
học tập của lớp học, báo cáo kết quả học tập cho Phòng Giáo dục và Đào tạo
vào cuối mỗi giai đoạn theo tiến độ thực hiện chương trình của lớp học chữ
Chăm cho người lớn.
- Hiệu trưởng chịu trách nhiệm kiểm tra hoạt động của giáo viên trong
khâu tổ chức đánh giá kết quả học tập của lớp chữ Chăm, cụ thể là về tiến độ
kiểm tra cho điểm, cách xếp loại học lực, mức độ phù hợp của đề kiểm tra, số
lần kiểm tra, tính nghiêm túc trong kiểm tra.
1.3.8. Quản lý việc phân công giáo viên giảng dạy lớp học chữ Chăm
- Hằng năm, căn cứ vào kế hoạch mở lớp tiếng Chăm cho các học sinh
32
dân tộc Chăm trong trường tiểu học và kế hoạch mở lớp chữ Chăm cho người
lớn, hiệu trưởng nhận xét khả năng đáp ứng nhu cầu giảng dạy của các giáo
viên tiếng Chăm trong nhà trường của mình, từ đó kiến nghị với Phòng Giáo
dục và Đào tạo bố trí giáo viên tiếng Chăm cho năm học mới.
- Theo số lượng giáo viên tiếng Chăm của trường, Hiệu trưởng chịu
trách nhiệm chỉ đạo việc phân công giáo viên đảm nhận giảng dạy lớp học
chữ Chăm cho người lớn, việc phân công này do tổ trưởng tổ tiếng Chăm
trong trường đề xuất. Ngoài việc chọn cử giáo viên có năng lực giảng dạy, tổ
trưởng tổ tiếng Chăm còn phải chú ý đến những giáo viên người Chăm nhiệt
tình, am hiểu sâu rộng về kiến thức xã hội và có nhiều kinh nghiệm trong giao
tiếp. Có như vậy mới thuyết phục và hấp dẫn những người học lớn tuổi hay
khó tính trong quá trình giảng dạy.
- Hiệu trưởng theo dõi quá trình giảng dạy của giáo viên, ngoài việc
nắm chất lượng giảng dạy, Hiệu trưởng còn phải hiểu rõ khả năng giao tiếp
ứng xử của giáo viên trong quá trình giảng dạy, thường xuyên động viên các
giáo viên cố gắng vượt qua những khó khăn trong giảng dạy. Trong những
trường hợp mà mối quan hệ giữa giáo viên với người học không diễn ra tốt
đẹp, có chiều hướng xấu, thể hiện như kéo dài tình trạng học viên bỏ học
nhiều, làm việc riêng trong giờ học… thì Hiệu trưởng cần tính toán đến việc
nhắc nhở, thậm chí phải thay đổi giáo viên khác để chất lượng dạy lớp chữ
Chăm cho người lớn đạt kết quả tốt hơn.
1.3.9. Quản lý quá trình đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tiếng
Chăm
- Căn cứ vào kế hoạch mở lớp tiếng Chăm cho các học sinh dân tộc
Chăm trong trường tiểu học và kế hoạch mở lớp chữ Chăm cho người lớn ở
các trường tiểu học, căn cứ vào số giáo viên tiếng Chăm hiện có, Phòng Giáo
dục và Đào tạo có kế hoạch đào tạo dài hạn đội ngũ giáo viên tiếng Chăm
33
chung cho cả huyện. Việc đào tạo giáo viên tiếng Chăm được dựa vào các yếu
tố sau:
+ Căn cứ đội ngũ giáo viên người Chăm đang giảng dạy ở các
trường tiểu học, phân chia họ ra làm 2 loại: Có khả năng dạy chữ Chăm; chưa
có khả năng dạy chữ Chăm. Tất cả số giáo viên có khả năng dạy chữ Chăm
thường đã được bồi dưỡng để dạy tiếng Chăm trong trường tiểu học. Số còn
lại cần được bồi dưỡng để họ có khả năng tham gia dạy tiếng Chăm.
+ Phòng Giáo dục và Đào tạo đề nghị Sở Giáo dục và đào tạo mở
lớp đào tạo giáo viên dạy tiếng (chữ) Chăm hoặc cho phép Phòng Giáo dục và
Đào tạo tổ chức lớp học tiếng Chăm cho giáo viên người Chăm.
+ Khi được Sở Giáo dục và Đào tạo cho phép mở lớp, Phòng
Giáo dục và Đào tạo báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện kế hoạch mở lớp dạy
tiếng Chăm cho giáo viên. Nếu số lượng giáo viên cần học chữ Chăm trong
huyện ít, có thể huy động thêm số cán bộ huyện, xã tham gia cho đủ số học
viên trong một lớp học. Đây là việc làm cần thiết, là cách nhanh nhất để tạo
nguồn giáo viên dạy chữ Chăm.
+ Hằng năm, Phòng Giáo dục và Đào tạo cử giáo viên tiếng
Chăm dự lớp bồi dưỡng tiếng Chăm do Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
+ Việc bồi dưỡng cho giáo viên tiếng Chăm còn phải được
thường xuyên tổ chức qua các buổi thảo luận góp ý giờ dạy tiếng Chăm, các
buổi sinh hoạt tổ tiếng Chăm, các buổi học tập và sinh hoạt chuyên môn
nghiệp vụ do ngành giáo dục tổ chức.
Những năm qua việc bồi dưỡng cho giáo viên tiếng Chăm chủ yếu là
bồi dưỡng phương pháp giảng dạy cho học sinh tiểu học học tiếng Chăm. Đầu
năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo có tổ chức bồi dưỡng phương pháp dạy
chữ Chăm cho cán bộ công chức có nhu cầu học chữ Chăm để phục vụ công
34
tác của mình, chứ chưa có cơ quan quản lý giáo dục nào bồi dưỡng phương
pháp dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi. Các giáo viên dạy lớp xoá mù
chữ Chăm cho người Chăm nên cùng bàn bạc và tự rút kinh nghiệm về cách
dạy người lớn cho phù hợp.
1.3.10. Quản lý các phương tiện và điều kiện hỗ trợ hoạt động giảng
dạy
Các phương tiện và điều kiện về cơ sở vật chất có tác dụng hỗ trợ tích
cực quá trình giảng dạy của giáo viên. Nếu người giáo viên biết cách sử dụng
và có được cơ sở vật chất tốt thì hiệu quả giờ dạy học chắc chắn sẽ tốt hơn. Vì
vậy, người quản lý cần phải có kế hoạch bảo đảm các yêu cầu tối thiểu về
phương tiện và cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động giảng dạy cho các lớp
học.
Để bảo đảm cho lớp học chữ Chăm được hoạt động bình thường, Hiệu
trưởng trường tiểu học nơi tổ chức mở lớp chữ Chăm cần xem xét kỹ về một
số yêu cầu sau:
- Phòng học: Phải bảo đảm theo đúng quy định về kích thước, ánh sáng,
che mưa nắng, an toàn khi gió bão…
- Bàn ghế: Phù hợp với người lớn tuổi.
- Bảng đen: Hiện rõ phần trình bày của giáo viên.
- Sách giáo khoa, sách tham khảo: Rõ ràng, dễ đọc.
- Các trang thiết bị dạy và học
Hiệu trưởng cần khảo sát nhu cầu tối thiểu về các phương tiện và cơ sở
vật chất cho việc mở lớp học hàng năm, kể cả các lớp học chữ Chăm. Từ đó,
có kế hoạch mua sắm hay đề nghị các cấp liên quan trang bị cơ sở vật chất
sao cho đáp ứng được hoạt động giảng dạy trong nhà trường và các lớp học
chữ Chăm cho người lớn tuổi.
35
Hiệu trưởng nên phân công cho một Phó hiệu trưởng chỉ đạo công tác
quản lý về cơ sở vật chất trường học, tạo điều kiện tốt nhất cho người dạy và
người học chữ Chăm có đủ các phương tiện học tập cần thiết để dạy tốt và
học tốt. Hướng dẫn giáo viên sử dụng và bảo quản đồ dùng dạy học.
Trên cơ sở đề nghị của các Hiệu trưởng trường học, Trưởng Phòng
Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo việc mua sắm để trang bị mới hay cấp bổ sung
các phương tiện và cơ sở vật chất cho các trường học, chẳng hạn như mua
sách giáo khoa, sách tham khảo, đồ dùng dạy học hay đề nghị Uỷ ban nhân
dân huyện xây thêm Phòng học.
1.3.11. Quản lý việc tổ chức lớp học và vận động người học ra lớp học
- Hiệu trưởng trường tiểu học nơi chuẩn bị dạy chữ Chăm tiến hành
việc lập kế hoạch vận động người ra lớp học theo các bước cơ bản sạu:
+ Hiệu trưởng bàn bạc với giáo viên chuyên trách xoá mù chữ -
phổ cập giáo dục rồi dự thảo kế hoạch mở lớp dạy chữ Chăm.
+ Hiệu trưởng trao đổi với chính quyền địa phương, với Ban
nhân dân thôn về kế hoạch mở lớp học chữ Chăm và đề nghị sự hỗ trợ của họ
cho việc mở lớp như: Cử người lo việc an ninh trật tự cho lớp học, giải thích
về sự cần thiết của việc học chữ Chăm, dự khai giảng lớp học chữ Chăm để
động viên tinh thần học tập của người học.
+ Lập Thông báo mở lớp học chữ Chăm, nêu rõ những chi tiết
như thời gian mở lớp, đối tượng học, thời điểm và địa điểm đăng kí học, thời
điểm kết thúc lớp học, thời gian học tập trong tuần.
+ Cử nhân viên ghi danh đăng kí học tập và trình danh sách
đăng kí cho Hiệu trưởng sau thời điểm đăng ký kết thúc.
+ Tổ chức lễ khai giảng lớp học chữ Chăm, phân công giáo viên
tổ chức học tập và thảo luận nội quy lớp học, từ đó có thể ghi nhận những
36
kiến nghị của học viên về nhu cầu cần thiết phục vụ cho việc dạy và học. Sau
khi học tập nội quy, tiến hành việc chọn cử lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ
phó của lớp học. Giới thiệu giáo viên đứng lớp, thời khoá biểu học tập trong
tuần.
- Theo dõi tỉ lệ chuyên cần học tập của lớp học. Nếu thấy học viên vắng
học nhiều, Hiệu trưởng nên tìm hiểu kỹ lí do và phân công người đến gặp trực
tiếp người học để động viên họ tiếp tục ra lớp học. Người được phân công
vận động có thể là giáo viên chuyên trách xoá mù chữ, học viên lớn tuổi có uy
tín, giáo viên đứng lớp hay Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng của trường.
- Hiệu trưởng cần tạo nên một dư luận rộng khắp trong nhân dân nhằm
ủng hộ, động viên người học ra lớp học chữ Chăm. Để làm được việc này,
Hiệu trưởng cần cùng với giáo viên chuyên trách xoá mù chữ có kế hoạch dự
các buổi họp nhân dân thôn xóm, xin được trình bày về những ý nghĩa của
việc học chữ Chăm hay tranh thủ các ý kiến của các vị có uy tín trong làng
như là lão làng, các vị có chức sắc tôn giáo để nhờ họ động viên người học ra
lớp, góp phần cổ vũ tinh thần học tập của học viên.
- Hiệu trưởng phải báo cáo tình hình khai giảng, tình hình học tập cho
chính quyền địa phương và Phòng Giáo dục và Đào tạo biết để được sự giúp
đỡ từ phía chính quyền và việc hướng dẫn về chuyên môn của Phòng Giáo
dục và Đào tạo huyện.
1.3.12. Quản lý việc cấp giấy chứng nhận học lực
- Giấy chứng nhận học lực sau mỗi lớp học là sự thể hiện một một quá
trình học tập, là yêu cầu chính đáng, mang tính pháp lý, là cơ sở để người học
được tiếp tục học các lớp tiếp theo. Vì vậy, việc cấp giấy chứng nhận phải kịp
thời theo đúng thẩm quyền, phù hợp với những quy định của pháp luật.
- Theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giấy chứng
37
nhận học hết lớp, hết cấp trong trường tiểu học do hiệu trưởng trường đó cấp.
Theo tinh thần đó, khi một học viên học xong một lớp trong chương trình học
chữ Chăm do trường tiểu học tổ chức thì hiệu trưởng trường tiểu học chịu
trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đã hoàn thành lớp học, để họ được tiếp tục
theo học các lớp cao hơn, hay làm cơ sở pháp lý cho các vấn đề khác có liên
quan. Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận học lực lớp chữ Chăm do trường
tiểu học tổ chức giảng dạy cho người lớn được hiệu trưởng trường tiểu học đó
cấp. Vấn đề này Phòng Giáo dục và Đào tạo cần có báo cáo để thỉnh thị ý
kiến chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo.
- Các trường học cần lưu trữ, bảo quản tốt sổ điểm của lớp học chữ
Chăm như các loại sổ điểm khác trong trường để làm cơ sở cấp phát giấy
chứng nhận học lớp, hết cấp tiểu học chữ Chăm khi người học có nhu cầu.
1.4. Cơ sở thực tế
Ở Việt Nam, “ tổ chức dạy chữ dân tộc đối với các dân tộc đã có chữ
viết, tổ chức xây dựng các bộ chữ đối với các dân tộc chưa có chữ viết và phổ
biến các bộ chữ đó, là những công việc mà Đảng và Nhà nước ta từ Trung
ương đến các tỉnh đều hết sức quan tâm. Ngay cả trong thời kì kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ cũng như trong xây dựng hòa bình.... hiện nay còn
khoảng 14 tỉnh trên cả nước đang tổ chức việc dạy - học chữ và ngữ văn của
các dân tộc như H’Mông, Chăm, Khmer, Bana, Êđê, K’Ho...”[32].
Sau ngày giải phóng miền Nam Việt Nam, tiếng Chăm và chữ Chăm
Akhar Thrah) cũng được dạy trong các trường tiểu học song ngữ theo chương
trình và sách giáo khoa của Bộ Giáo dục, ở những nơi tập trung người Chăm
(trong hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận). Chữ Chăm đã được La tinh hoá từ
đầu thế kỉ 20. Bộ chữ này gần giống bộ chữ Êđê ở Tây Nguyên được phổ cập
khá rộng rãi. Nhiều người Chăm thích dùng để ghi chép cá nhân, viết thư,
chép chuyện cổ tích, thơ ca, văn học dân gian. Nhưng đa số người Chăm chủ
38
trương cho con em học chữ Chăm Akhar Thrah để bảo tồn nền văn hoá dân
tộc lâu đời của mình[8].
Ở tỉnh Ninh Thuận, “ Tỉnh cũng đã tổ chức việc dạy tiếng Chăm cho
học sinh Chăm đang học lớp 10 và lớp 11 trường Dân tộc Nôi trú tỉnh, mở lớp
dạy tiếng Chăm cho cán bộ làm công tác dân vận, công an, viện kiểm sát và
một lớp học dành cho cán bộ và nhân dân xã Phước Thái huyện Ninh Phước”
[1].
Ở tỉnh Bình Thuận, vào tháng 10/2001, Sở Giáo dục - Đào tạo và Uỷ
ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đã “ cho phép Phòng Giáo dục và Đào
tạo huyện Hàm Thuận Bắc mở lớp dạy tiếng Chăm cho cán bộ và giáo viên
người Chăm” [23]. Đến ngày 20/10/2006, Sở Giáo dục-Đào tạo Bình Thuận
cũng đã cho phép Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Hàm Thuận Bắc mở lớp
dạy tiếng Chăm cho cán bộ, đảng viên và thanh niên người dân tộc Chăm từ
năm học 2006 - 2007”[24]. Hiện nay, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Hàm
Thuận Bắc đã tổ chức mở 3 lớp dạy xoá mù chữ tiếng Chăm cho cán bộ, đảng
viên và thanh niên ở các xã Ma Lâm, Hàm Phú và Hàm Trí (Mỗi xã một lớp).
Các lớp học được duy trì khá tốt, cả giáo viên và học viên đều thể hiện sự nổ
lực trong việc dạy và học, chất lượng học tập có chiều hướng phát triển tốt
(Nguồn Phòng Giáo dục và Đào tạo Hàm Thuận Bắc)[20].
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua phân tích lí luận, việc dạy chữ Chăm cho người Chăm là việc làm
cần thiết, phục vụ chính sách dân tộc và phát triển ngôn ngữ của Đảng và Nhà
nước ta, nhằm bảo tồn tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiếu số ở Việt
Nam. Quan điểm này cũng đã được nhiều nơi ở trong và ngoài nước thực
hiện.
39
Phần lí luận cũng đã cho thấy các nội dung chính trong quản lý việc
dạy chữ Chăm cho người Chăm, phân định rõ trách nhiệm của các trường tiểu
học thuộc vùng có đông đồng bào Chăm sinh sống và trách nhiệm của Phòng
Giáo dục và Đào tạo cấp huyện trong các khâu quản lý việc dạy chữ Chăm
cho người Chăm.
Đây là việc làm khá mới mẻ, đòi hỏi có sự kiên trì của các cấp quản lý
giáo dục và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp nhằm khơi dậy trong mọi
người dân Chăm tinh thần học tập chữ Chăm.
Phần lý luận này chính là cơ sở định hướng cho hoạt động dạy chữ
Chăm cho người Chăm lớn tuổi.
40
Chương 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và giáo dục của huyện Hàm
Thuận Bắc
2.1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình và khí hậu
Hàm Thuận Bắc nằm ở vị trí trung tâm tỉnh Bình Thuận, có diện tích tự
nhiên 1282.47 km2, là vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm của tỉnh, có Quốc
lộ IA chạy suốt chiều dài của huyện; có Quốc lộ 28, đường An Lâm - Đông
Giang nối với các tỉnh Tây Nguyên. Có tọa độ địa lý như sau: 110 12' 40"
đến 110 39' 32" vĩ độ Bắc và 1070 50' 00" đến 108010' 58" kinh độ Đông. Phía
Bắc giáp cao nguyên Di Linh, phía Nam giáp thành phố Phan Thiết, phía
Đông giáp huyện Bắc Bình và phía Tây giáp huyện Hàm Thuận Nam và
huyện Tánh Linh của tỉnh Bình Thuận (Phụ lục 2).
Hàm Thuận Bắc là một huyện miền núi có địa hình tương đối đa dạng,
là nơi cuối cùng của dãy Trường Sơn đổ ra biển; có khí hậu nắng nóng, nhiệt
độ trung bình 26,70C; lượng mưa trung bình: 1.300mm, cao nhất 1.500mm và
thấp nhất 800mm trong năm, thuộc diện thấp so với bình diện quốc gia. Mùa
mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau.
2.1.1.2. Kinh tế - xã hội
Toàn huyện Hàm Thuận Bắc có 17 xã trong đó có 2 thị trấn, 4 xã đồng
bằng, 7 xã miền núi và 4 xã vùng cao. Tổng số dân của huyện vào năm 2006
là 149.654 người, chiếm 14,03% dân số toàn tỉnh, với 74.366 người nam
(chiếm 49,69%) và 75.288 người nữ (chiếm 50,31%), trong đó dân số sống ở
thị trấn, thị tứ là 13.597 người chiếm 9,1% và 136.057 người sống ở miền núi
và nông thôn chiếm 90,9%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,85%[33].
41
Tổng số lao động : 71.834 người chiếm 48% dân số, chất lượng nguồn
lao động không đồng đều. Chủ yếu là lao động nông nghiệp. Đặc điểm cơ bản
của nguồn lao động chủ yếu là lao động phổ thông, trình độ thấp, chưa qua
đào tạo, lao động có tay nghề cao chiếm một tỷ lệ thấp. Lực lượng cán bộ
khoa học kỹ thuật rất ít, toàn huyện năm 2000 có 2.645 người tốt nghiệp trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng hoặc đại học. Bình quân trên 1.000 người dân có
18 người có trình độ trung học trở lên[33].
Toàn huyện có 21 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó người
Kinh chiếm 92,7%, đồng bào dân tộc thiểu số còn lại chủ yếu là người Chăm,
người K’Ho và người Rai. Toàn huyện có 6 tôn giáo với 13.932 tín đồ, chiếm
9% dân số toàn huyện, trong đó đông nhất là đồng bào theo Phật giáo và công
giáo; hầu hết người Chăm theo Bà la môn giáo và Hồi giáo cũ.
Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, huyện
Hàm Thuận Bắc được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân; cả huyện có 310 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, hơn 3500 gia đình liệt
sĩ, thương binh, và hàng ngàn người có công với cách mạng.
Do hậu quả của chiến tranh ác liệt kéo dài, nên đến nay Hàm Thuận
Bắc vẫn còn là một huyện nghèo, kinh tế chậm phát triển; có gần 80% dân số
phụ thuộc vào nghề nông; tuy sản xuất nông nghiệp phát triển khá song người
dân thu nhập thấp, GDP bình quân đầu người chưa đến 400 USD/năm; có
khoảng 15% là hộ nghèo, chủ yếu tập trung vào đồng bào các dân tộc thiểu
số[33].
Mặc dù có nhiều cố gắng trong phát triển kinh tế xã hội, song mức
hưởng thụ văn hóa của người dân trong huyện chưa cao, nhất là ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tình hình vi phạm pháp luật
đáng quan tâm, do người dân chậm tiếp thu, thiếu thông tin và công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật chưa đạt hiệu quả cao.
42
Về giáo dục, mạng lưới và quy mô trường lớp phát triển khá ổn định;
tất cả các xã, thị trấn đều có trường học từ cấp mẫu giáo đến trung học cơ sở;
toàn huyện có 2 trường trung học phổ thông. Công tác Xóa mù chữ và phổ
cập giáo dục thường xuyên được củng cố, duy trì đáp ứng nhu cầu học tập của
người dân trong huyện. Việc chăm lo phát triển giáo dục vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn được chú ý đúng mức; môn học tiếng
Chăm vẫn được duy trì giảng dạy một cách ổn định trong các trường tiểu học
có đông con em người Chăm theo học. Các cấp ủy Đảng và chính quyền các
cấp quan tâm phát triển giáo dục, xem công tác xã hội hóa giáo dục là một
biện pháp hữu hiệu để thực hiện tốt việc phổ cập giáo dục. Đến tháng 12/
2006, huyện Hàm Thuận Bắc đã đạt được chuẩn Phổ cập giáo dục Tiểu học
đúng độ tuổi. Đến tháng 6/2007 huyện có 16/17 xã đạt chuẩn Phổ cập giáo
dục Trung học cơ sở; có 14/17 xã thành lập Trung tâm học tập cộng đồng; các
tổ chức Hội Khuyến học các cấp từ xã đến huyện đều đã được thành lập và đi
vào hoạt động khá hiệu quả; đội ngũ giáo viên các cấp học có số lượng tương
đối đầy đủ, hầu hết đã được chuẩn hoá về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thể
hiện tốt tinh thần trách nhiệm của mình trong giảng dạy và giáo dục học sinh.
Phần lớn đội ngũ giáo viên đều là dân địa phương trong huyện. Tuy điều kiện
kinh tế xã hội ở huyện chưa thật sự phát triển, song ý thức về chăm lo phát
triển sự nghiệp giáo dục của người dân trên địa bàn huyện rất đáng trân trọng,
đa số các bậc cha mẹ đều mong muốn cho con em của mình được đến trường
học. Những năm gần đây, hàng năm đều có hơn 99% trẻ 6 tuổi vào học lớp 1;
cha mẹ học sinh đóng góp xây dựng, tu sửa cơ sở vật chất trường học hơn 1 tỉ
đồng hàng năm. Tuy nhiên, còn có nhiều chênh lệch về chất lượng học tập
giữa học sinh vùng đồng bằng, thị trấn với học sinh các vùng đặc biệt khó
khăn. Do địa bàn dân cư phân tán, các em ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn
còn phải đi rất xa mới đến được trường Trung học phổ thông để học.
43
2.1.2. Người dân tộc Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc
Người Chăm, còn gọi là người Chàm, người Chiêm Thành, người
Chiêm. Trên cả lãnh thổ Việt Nam, dân tộc Chăm hiện có hơn 120.000
người, cư trú tương đối tập trung ở các tỉnh Phú Yên, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Đồng Nai, Sông Bé, An Giang, Tây Ninh, Tp Hồ Chí Minh. Ở nước
ngoài, người Chăm sống nhiều nhất ở Campuchia (trên 500.000 người), một
số sống ở Thái Lan, Malaysia và một số nước khác[8].
Người Chăm theo chế độ mẫu hệ, nhà gái cưới chồng cho con. Con
trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang,
sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái
được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà
và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Người Chăm theo 2 tôn giáo chính: Bà la môn giáo và Hồi giáo. Người
Chăm theo Bà la môn giáo gọi là người Chăm Bà la môn, bộ phận này có 2
nhóm: nhóm thực hiện lễ hỏa táng khi chết gọi là Chăm Chuh (Chăm thiêu);
nhóm còn lại gọi là Chăm Tar (Chăm chôn). Người Chăm theo Hồi giáo, có 2
nhóm, gọi là Chăm Bà ni ( ở Bình Thuận và Ninh Thuận ) và Chăm Isalam
(Ở Tp Hồ Chí Minh, An Giang, Tây Ninh, Cam Pu Chia ).
Người Chăm có tiếng nói và chữ viết riêng từ rất lâu, khoảng thế kỷ thứ
II trước Công nguyên. Tiếng Chăm thuộc hệ Nam đảo (Austronesien). Gần
gũi với tiếng Chăm có các ngôn ngữ dân tộc: Jarai, Raglai, Churu, Êđê, Chăm
Hroi....Ở nước ngoài, ngôn ngữ Chăm có quan hệ gần gũi với ngôn ngữ
Malayu (Malaysia), ngôn ngữ các dân tộc Indonésia, ngôn ngữ người Hui Hui
ở đảo Hải Nam (Trung quốc)... Tiếng Chăm có 2 phương ngữ chính: phương
ngữ Chăm Đông của người Chăm ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận và
phương ngữ Chăm Tây của người Chăm ở các tỉnh Đồng Nai, Sông Bé, Tây
Ninh, Tp Hồ Chí Minh, An Giang ...[32].
44
Người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, hầu hết sống tập trung ở vùng
đồng bằng, thuộc 3 xã: Ma Lâm, Hàm Phú, Hàm Trí. Dân số người Chăm của
cả huyện là 4486 người (Tính đến ngày 01/01/2006, Theo công văn số
1008/KH-UBND ngày 08/9/2006 của Chủ tịch UBND huyện Hàm Thuận
Bắc)[33]. Đa số người dân Chăm sống bằng nghề nông, thu nhập thấp, có 252
hộ nghèo trong tổng số 1062 hộ người Chăm, chiếm tỉ lệ 23,7%. Mặt bằng
dân trí của người Chăm còn thấp so với mặt bằng dân trí chung của toàn
huyện. Tuy đa số người Chăm đã được xoá mù chữ tiếng Việt, song cả huyện
chỉ có 31 người Chăm tốt nghiệp Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại
học (chiếm tỉ lệ 6,9% trong tổng số dân Chăm). Người Chăm ở huyện Hàm
Thuận Bắc theo 2 tôn giáo là Bà La môn (Xã Ma Lâm, Hàm Phú) và Hồi giáo
(xã Hàm Trí). Các chức sắc của tôn giáo Bà la môn thường sử dụng tiếng
Chăm cổ (akhar thrah) vào những việc nghiên cứu và hành lễ của tôn giáo.
Một số trí thức người Chăm cũng thường dùng tiếng Chăm cổ để nghiên cứu
văn học Chăm, phong tục và tập quán của dân tộc Chăm, hoặc gần đây để
xem các tạp chí bằng tiếng Chăm. Đa số người Chăm chưa được học chữ
Chăm.
Có thể nói, niềm ao ước được học tiếng Chăm, chữ Chăm nhằm để bảo
tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Chăm, bảo tồn văn hoá Chăm và góp phần giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam của người dân Chăm ở huyện
Hàm Thuận Bắc đã được ngành Giáo dục và chính quyền địa phương quan
tâm, từng bước tạo điều kiện để người dân Chăm thực hiện nguyện vọng
chính đáng của mình.
45
2.2. Thực trạng về việc biết chữ Chăm và nhu cầu học chữ Chăm của
người Chăm lớn tuổi
2.2.1. Thực trạng về việc biết chữ Chăm của người Chăm lớn tuổi
Bảng 2.1: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM PHÂN THEO DÂN TỘC
Trình độ chữ Chăm Cộng
Chưa biết
chữ Chăm
Từ lớp 1
đến lớp 3
Từ lớp 4
trở lên
Đã biết
nhưng
bị tái mù
SL % SL % SL % SL %
SL
Chăm 96 78.7 3 2.5 3 2.5 20 16.4 122 Dân
Tộc Khác 1 100 0 0 0 0 0 0 1 Ma
Lâm
Cộng 97 78.9 3 2.4 3 2.4 20 16.3 123
Chăm 38 80.9 6 12.8 0 0 3 6.4 47 Dân
tộc Khác 2 66.7 0 0 0 0 1 33.3 3 Hàm
Phú
Cộng 40 80.0 6 12.0 0 0 4 8.0 50
Chăm 87 73.7 13 11.0 7 5.9 11 9.3 118 Dân
tộc Khác 8 88.9 0 0 1 11.1 0 0 9 Hàm
Trí
Cộng 95 74.8 13 10.2 8 6.3 11 8.7 127
Chăm 221 77.0 22 7.7 10 3.5 34 11.8 287
Ba xã Dân tộc Khác 11 84.6 0 0 1 7.7 1 7.7 13
Địa
bàn
cư
trú
Tổng cộng 232 77.3 22 7.3 11 3.7 35 11.7 300
(Nguồn: xử lí phiếu điều tra)
Ghi chú: * SL: Số lượng
46
0
50
100
150
200
250
BIỂU ĐỒ 2.1: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM THEO DÂN TỘC
Chăm 221 22 10 34
Khác 11 0 1 1
Chưa biết
chữ Chăm
Từ lớp 1
đến lớp 3
Từ lớp 4
trở lên
Đã biết nhưng
bị tái mù
Trong số 300 người được điều tra có 287 người là dân tộc Chăm, 13
người là dân tộc khác ( Kinh, Rai), họ là những người lập gia đình với người
Chăm hoặc là giáo viên đang công tác tại địa bàn 3 xã được điều tra.
Qua kết quả điều tra cho thấy, có 232 người chiếm 77, 3% số người
trong độ tuổi điều tra chưa biết chữ Chăm; có 35 người chiếm 11,7% số người
đã bị tái mù.
Như vậy, có cả thảy 89% số người trong độ tuổi điều tra hiện còn mù
chữ Chăm. Trong đó, số người Chăm chưa biết chữ Chăm là 221 người chiếm
77% và số đã biết nhưng tái mù chữ Chăm là 34 người, chiếm 11,8% Điều đó
cho thấy số người Chăm mù chữ Chăm chiếm tỉ lệ cao 88,8% (gần 90%)
trong cộng đồng người Chăm (Bảng 2.1).
47
BẢNG 2.2: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM PHÂN THEO GIỚI TÍNH
Trình độ chữ Chăm Cộng
Chưa biết
chữ Chăm
Từ lớp 1
đến lớp 3
Từ lớp 4
trở lên
Đã biết
nhưng bị
tái mù
SL % SL % SL % SL %
SL
nam 76 87.4 1 1.1 3 3.4 7 8.0 87 Giới
tính nữ 21 58.3 2 5.6 0 0 13 36.1 36 Ma
Lâm
Cộng 97 78.9 3 2.4 3 2.4 20 16.3 123
nam 36 80.0 5 11.1 0 0 4 8.9 45 Giới
tính nữ 4 80.0 1 20.0 0 0 0 0 5 Hàm
Phú
Cộng 40 80.0 6 12.0 0 0 4 8.0 50
nam 86 76.1 11 9.7 7 6.2 9 8.0 113 Giới
tính nữ 9 64.3 2 14.3 1 7.1 2 14.3 14 Hàm
Trí
Cộng 95 74.8 13 10.2 8 6.3 11 8.7 127
nam 198 80.8 17 7.0 10 4.0 20 8.2 245 Ba
xã
Giới
tính nữ 34 61.8 5 9.1 1 1.8 15 27.3 55
Địa
bàn
cư
trú
Tổng cộng 232 77.3 22 7.3 11 3.7 35 11.7 300
(Nguồn: xử lí phiếu điều tra)
48
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
BIỂU ĐỒ 2.2: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM THEO GIỚI TÍNH
Nam 198 17 10 20
Nữ 34 5 1 15
Chưa biết
chữ Chăm
Từ lớp 1
đến lớp 3
Từ lớp 4
trở lên
Đã biết nhưng
bị tái mù
Bảng 2.2 cho thấy trong số điều tra, nam giới có 80,8% số người chưa
biết chữ Chăm và 8,2% số người bị tái mù chữ Chăm. Số nam giới cả 2 diện
này là 218/245 người chiếm tỉ lệ 89%.
Về tâm lý, do giới nữ thường có trình độ văn hoá thấp hơn và ngại tiếp
xúc nên phần nhiều họ từ chối việc điều tra về trình độ chữ Chăm. Cả ba xã
chỉ có 55 nữ trong tổng số 300 người tham gia điều tra, đa số trong các chị em
nữ này, họ là những người có trình độ học lực cao hơn so với số chị em nữ
khác trong địa bàn cư. Qua điều tra, nữ giới có 61,8% số người chưa biết chữ
Chăm và 27,3% số người bị tái mù chữ Chăm. Số nữ giới cả 2 diện này là
49/55 người chiếm tỉ lệ 89,1%; thực tế số mù chữ Chăm trong nữ giới cao
hơn số liệu điều tra.
49
Như vậy, tỉ lệ người mù chữ Chăm trong nữ giới chỉ cao hơn nam giới
là 0,1%. Tuy nhiên, trong thực tế tỉ lệ người mù chữ Chăm trong nữ giới chắc
chắn sẽ cao hơn nhiều so với kết quả đã được điều tra.
Tuy người Chăm theo chế độ mẫu hệ nhưng vai trò của nữ giới trong
sinh hoạt cộng đồng vẫn thấp kém hơn nam giới. Cũng giống như phụ nữ
người Kinh trước đây, họ vẫn chịu nhiều thiệt thòi hơn cả về mặt gia đình lẫn
trong xã hội. Nam giới người Chăm vẫn là người hiểu biết về chữ Chăm
nhiều hơn, họ vẫn được cộng đồng người Chăm đương nhiên thừa nhận quyền
được ưu tiên hơn về mặt học tập, nhất là học tập chữ Chăm để tiến hành các
nghi lễ tôn giáo, nghiên cứu lịch sử hay phong tục tập quán của người Chăm.
50
BẢNG 2.3: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM PHÂN THEO NGHỀ NGHIỆP
TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM CỘNG
Chưa biết
chữ chăm
Từ lớp
1đến lớp
3
Từ lớp 4
trở lên
Đã biết
nhưng bị
tái mù
SL % SL % SL % SL %
SL
nông 87 82.9 2 1.9 3 2.9 13 12.4 105
CCVC 1 33.3 0 0 0 0 2 66.7 3
nghề
nghiệp
khác 9 60.0 1 6.7 0 0 5 33.3 15
Ma
Lâm
Cộng 97 78.9 3 2.4 3 2.4 20 16.3 123
nông 35 79.5 6
(Nguồn: xử lí phiếu điều tra)
Ghi chú: CCVC: Công chức viên chức.
13.6 0 0 3 6.8 44
CCVC 3 75.0 0 0 0 0 1 25.0 4
nghề
nghiệp
khác 2 100 0 0 0 0 0 0 2
Hàm
Phú
Cộng 40 80.0 6 12.0 0 0 4 8.0 50
nông 85 78.7 9 8.3 7 6.5 7 6.5 108
CCVC 9 52.9 3 17.6 1 5.9 4 23.5 17
nghề
nghiệp
khác 1 50.0 1 50.0 0 0 0 0 2
Hàm
Trí
Cộng 95 74.8 13 10.2 8 6.3 11 8.7 127
nông 207 80.5 17 6.6 10 3.9 23 9.0 257
CCVC 13 54.2 3 12.5 1 4.2 7 29.1 24 Ba xã nghề nghiệp
khác 12 63.2 2 10.5 0 0 5 26.3 19
Địa
bàn
cư
trú
Tổng cộng 232 77.3 22 7.3 11 3.7 35 11.7 300
51
0
50
100
150
200
250
BIỂU ĐỒ 2.3: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM THEO NGHỀ NGHIỆP
Nông 207 17 10 23
CCVC 13 3 1 7
Khác 12 2 0 5
Chưa biết
chữ Chăm
Từ lớp 1
đến lớp 3
Từ lớp 4
trở lên
Đã biết nhưng
bị tái mù
Qua số liệu điều tra trong bảng 2.3 cho thấy:
Về thành phần làm nông có 207 người mù chữ Chăm (80,5%), 23 bị tái
mù chữ Chăm (9%); cả 2 diện này là 230/257 chiếm 89,5%. Đây là tỉ lệ mù
chữ Chăm cao nhất so với tỉ lệ mù chữ ở các thành phần công chức viên chức
hay nghề nghiệp khác.
Đối với công chức viên chức nhà nước, có 13 người chưa biết chữ
Chăm chiếm 54,1%; 7 người bị tái mù chữ Chăm chiếm 29,1%. Cả hai diện
này là 20 người chiếm 83,3% trong tổng số 24 công chức viên chức.
Trong 19 người làm nghề khác tham gia điều tra, có 12 người mù chữ
Chăm, chiếm 63,1%; 5 người tái mù chữ Chăm chiếm 26,3%. Cả hai diện
này là 17 người chiếm 89,4% trong tổng số người thuộc nghề này.
52
BẢNG 2.4: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM PHÂN THEO CẤP HỌC
TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM CỘNG
Chưa biết
chữ Chăm
Từ lớp 1
đến lớp 3
Từ lớp 4
trở lên
Đã biết
nhưng bị
tái mù
(Nguồn: xử lý số liệu điều tra)
Ghi chú:
* TH: Tiểu học; THCS: Trung học cơ sở; THPT: Trung học phổ thông.
SL % SL % SL % SL %
SL
TH 70 88.6 1 1.3 1 1.3 7 8.9 79
THCS 20 60.6 2 6.1 1 3.0 10 30.3 33
Cấp
học
THPT 7 63.6 0 0 1 9.1 3 27.3 11
Ma
Lâm
Cộng
97 78.9 3 2.4 3 2.4 20 16.3 123
TH 17 77.3 3 13.6 0 0 2 9.1 22
THCS 16 80.0 3 15.0 0 0 1 5.0 20
Cấp
học
THPT 7 87.5 0 0 0 0 1 12.5 8
Hàm
Phú
Cộng 40 80.0 6 12.0 0 0 4 8.0 50
Mù
chữ 1 100 0 0 0 0 0 0 1
TH 65 80.2 4 4.9 5 6.2 7 8.6 81
THCS 14 66.7 4 19.0 2 9.5 1 4.8 21
Cấp
học
THPT 15 62.5 5 20.8 1 4.2 3 12.5 24
Hàm
Trí
Cộng 95 74.8 13 10.2 8 6.3 11 8.7 127
Mù
chữ 1 100 0 0 0 0 0 0 1
TH 152 83.5 8 4.4 6 3.3 16 8.8 182
THCS 50 67.6 9 12.2 3 4.0 12 16.2 74
Ba xã
Cấp
học
THPT 29 67.4 5 11.6 2 4.7 7 16.3 43
Địa
bàn
cư
trú
Tổng cộng 232 77.3 22 7.3 11 3.7 35 11.7 300
53
0
20
40
60
80
100
120
140
160
BIỂU ĐỒ 2.4: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM THEO CẤP HỌC
Mù chữ 1 0 0 0
Tiểu học 152 8 6 16
THCS 50 9 3 12
THPT 29 5 2 7
Chưa biết
chữ Chăm
Từ lớp 1
đến lớp 3
Từ lớp 4
trở lên
Đã biết nhưng
bị tái mù
Bảng 2.4 cho thấy, trong 300 người điều tra, nếu tính theo trình độ phổ
thông thì có 1 người mù chữ phổ thông, người này mù cả chữ Chăm, chiếm
1/1 (100%); ở cấp tiểu học có 168/182 người chưa biết chữ Chăm và bị tái mù
chữ Chăm, chiếm 92,3%; ở cấp trung học cơ sở có 62/74 người chưa biết chữ
Chăm và bị tái mù chữ Chăm, chiếm 83,8%; ở cấp trung học phổ thông có
36/43 người chưa biết chữ Chăm và bị tái mù chữ Chăm chiếm 83,7%.
Qua phân tích trên, có thể nhận định rằng khi trình độ học lực phổ
thông càng cao thì tỉ lệ mù chữ Chăm càng giảm dần. Điều đó cho thấy sự cần
thiết phải đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục chữ phổ thông, để tạo điều
kiện về mặt trình độ và nhận thức, từ đó nâng cao ý thức học tập chữ Chăm
trong cộng đồng người Chăm, góp phần thực hiện song ngữ trong công tác
giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
54
BẢNG 2.5: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM THEO ĐỘ TUỔI
Trình độ chữ Chăm Cộng
Chưa biết
chữ Chăm
Từ lớp 1
đến lớp 3
Từ lớp
4 trở lên
Đã biết
nhưng bị
tái mù
SL % SL % SL % SL %
SL %
1 11 4.7 1 4.5 0 0 6 17.1 18 6.0
2 28 12.1 0 0 0 0 4 11.4 32 10.7Độ tuổi
3 58 25.0 2 9.1 3 27.3 10 28.6 73 24.3
Ma
Lâm
Cộng 97 41.8 3 13.6 3 27.3 20 57.1 123 41.0
1 5 2.1 0 0 0 0 0 0 5 1.7
2 20 8.6 1 4.5 0 0 2 5.7 23 7.7 Độ tuổi
3 15 6.5 5 22.7 0 0 2 5.8 22 7.3
Hàm
Phú
Cộng 40 17.2 6 27.3 0 0 4 11.5 50 16.7
1 8 3.5 1 4.5 0 0 0 0 9 3.0
2 20 8.6 4 18.2 2 18.2 6 17.1 32 10.6Độ tuổi
3 67 28.9 8 36.4 6 54.5 5 14.3 86 28.7
Hàm
Trí
Cộng 95 41.0 13 59.1 8 72.7 11 31.4 127 42.3
1 24 10.3 2 9.1 0 0 6 17.1 32 10.7
2 68 29.3 5 22.7 2 18.2 12 34.3 87 29.0
Cư
trú
Ba
xã
Độ
tuổi
3 140 60.4 15 68.2 9 81.8 17 48.6 181 60.3
100 22 100.Tổng cộng 232 11 100 35 100 300 100
(Nguồn: xử lí phiếu điều tra)
Ghi chú: * SL: số lượng; %: tính % theo cột
• 1: Độ tuổi từ 15 - 20
• 2: Độ tuổi từ 21 - 30
• 3: Độ tuổi từ 31 - 45
55
0
20
40
60
80
100
120
140
BIỂU ĐỒ 2.5: TRÌNH ĐỘ CHỮ CHĂM THEO ĐỘ TUỔI
Tuổi 15-20 24 2 0 6
Tuổi 21-30 68 5 2 12
Tuổi 31- 45 140 15 9 17
Mù chữ Lớp 1- Lớp 3 Lớp 4 - Lớp 5 Tái mù chữ
Trong 300 người được điều tra:
Ở độ tuổi 15 - 20, có 24 người chưa biết chữ Chăm trong tổng số 32
người chiếm 75% và 6 người tái mù chữ chiếm 18,8% ; cả hai diện này có
đến 30 người còn mù chữ trong tổng số 32 người, chiếm 93,8% trong độ tuổi
này.
Tương tự, ở độ tuổi 21 - 30 số người chưa biết chữ lẫn số người tái mù
chữ là 80 người trong tổng số 87 người chiếm tỉ lệ 91,9%; ở độ tuổi 30 - 45 số
người chưa biết chữ lẫn số người tái mù chữ là 157 người trong tổng số 181
người chiếm tỉ lệ 86,7%.
Như vậy, có thể nói tỉ lệ người mù chữ Chăm tương đối đồng đều ở các
độ tuổi, dao động từ 86,7% đến 93,8%. Trong đó, độ tuổi 15 - 20 có tỉ lệ tái
mù cao hơn các độ tuổi khác, trong khi đó đa số trong độ tuổi này được học
tiếng Chăm trong trường tiểu học. Từ đó cho ta thấy nếu không có giải pháp
56
tổ chức để củng cố việc học chữ Chăm sau khi được học chữ Chăm ở trường
tiểu học, nhất là việc mở các lớp chữ Chăm cho người lớn tuổi thì tình trạng
tái mù chữ Chăm cứ tiếp tục diễn ra.
2.2.2. Nhu cầu học chữ Chăm của người Chăm lớn tuổi
BẢNG 2.6: NHU CẦU HỌC CHỮ CHĂM PHÂN THEO TRÌNH ĐỘ
CHỮ CHĂM
Nhu cầu học chữ Chăm CỘNG
Rất cần Cần
Có cũng
được,
không
cũng
được
Không
cần
SL % SL % SL % SL %
SL
MC 92 94.8 5 5.2 0 0 0 0 97
L1-
L5 6 100 0 0 0 0 0 0 6
Trình
độ
chữ
Chăm TMC 17 85.0 3 15.0 0 0 0 0 20
Ma
Lâm
Cộng 115 93.5 8 6.5 0 0 0 0 123
MC 39 97.5 1 2.5 0 0 0 0 40
L1-
L5 6 100 0 0 0 0 0 0 6
Trình
độ
chữ
Chăm TMC 4 100 0 0 0 0 0 0 4
Hàm
Phú
Cộng 49 98.0 1 2.0 0 0 0 0 50
MC
(Nguồn: xử lí phiếu điều tra)
Ghi chú: MC: Mù chữ; L1-L5: Từ lớp 1 đến lớp 5; TMC: tái mù chữ
82 86.3 12 12.6 0 0 1 1.1 95
L1-
L5 15 71.4 1 4.8 3 14.3 2 9.5 21
Trình
độ
chữ
Chăm TMC 11 100 0 0 0 0 0 0 11
Hàm
Trí
Cộng 108 85.0 13 10.2 3 2.4 3 2.4 127
MC 213 91.8 18 7.8 0 0 1 0.4 232
L1-
L5 27 81.8 1 3.0 3 9.1 2 6.1 33
Ba
xã
Trình
độ
chữ
Chăm TMC 32 91.4 3 8.6 0 0 0 0 35
Cư
trú
Tổng cộng 272 90.7 22 7.3 3 1.0 3 1.0 300
57
0
50
100
150
200
250
BIỂU ĐỒ 2.6: NHU CẦU CHỮ CHĂM THEO TRÌNH ĐỘ
CHỮ CHĂM
MC 213 18 0 1
L1-L5 27 1 3 2
TMC 32 3 0 0
Rất cần Cần Có cũng được,không cũng Không cần
Qua kết quả điều tra ở bảng 2.6 cho thấy có 213 người chưa biết chữ
Chăm và 32 ngưòi tái mù chữ Chăm, cả thảy là 245/267 người, chiếm 91,7%
người cho rằng rất cần phải học chữ Chăm. Bên cạnh đó chỉ có một người mù
chữ Chăm cho rằng “không cần” học chữ Chăm, số còn lại đều có nhu cầu
học chữ Chăm. Điều này cho thấy những người còn mù chữ Chăm rất khao
khát học chữ Chăm.
Diện biết chữ Chăm (thông thường theo họ ước lượng trình độ tối đa là
lớp 5, vì đến nay cũng chưa có một ai trong diện điều tra được học cấp trung
học về trình độ chữ Chăm), có 27/33 người chiếm 81,8% cho rằng “rất cần”
và 1/33 chiếm 3% cho là “cần” phải học chữ Chăm. Trong diện này có 3/33
chiếm 9,1% có ý kiến “có cũng được, không cũng được”, chứ không nhất
thiết phải học chữ Chăm. Cá biệt, có 2/33 người, chiếm 6,1% cho rằng
“không cần” phải học chữ Chăm.
58
Qua phân tích trên, cho ta thấy dù thuộc diện mù chữ hay biết chữ
Chăm cũng đều có hơn 81% người Chăm trong số điều tra có nguyện vọng
phải học chữ Chăm và xem việc đó là nhu cầu “rất cần” trong đời sống của
cộng đồng người Chăm; có cả thảy 272/300 chiếm 90,7% số người được điều
tra cho rằng việc học chữ Chăm cho người lớn là “rất cần” và 7,3% nói là
“cần”. Như vậy có cả thảy 98% người Chăm trong diện điều tra thật sự có nhu
cầu học chữ Chăm cổ; chỉ có 2% số người còn lại không quan tâm đến việc
học chữ Chăm trong người lớn.
59
BẢNG 2.7: NHU CẦU HỌC CHỮ CHĂM THEO CẤP HỌC
Nhu cầu học chữ Chăm Cộng
Rất cần Cần
Có cũng
được, không
cũng được
Không
cần
SL % SL % SL % SL %
SL
TH 73 92.4 6 7.6 0 0 0 0 79
THCS 31 93.9 2 6.1 0 0 0 0 33 Cấp học
THPT 11 100 0 0 0 0 0 0 11
Ma
Lâm
Cộng 115 93.5 8 6.5 0 0 0 0 123
TH 22 100 0 0 0 0 0 0 22
THCS 20 100 0 0 0 0 0 0 20 Cấp học
THPT 7 87.5 1 12.5 0 0 0 0 8
Hàm
Phú
Cộng 49 98.0 1 2.0 0 0 0 0 50
MC 0 0 0 0 0 0 1 100 1
TH
(Nguồn: xử lí phiếu điều tra)
73 90.1 6 7.4 1 1.2 1 1.2 81
THCS 17 81.0 1 4.8 2 9.5 1 4.8 21
Cấp
học
THPT 18 75.0 6 25.0 0 0 0 0 24
Hàm
Trí
Cộng 108 85.0 13 10.2 3 2.4 3 2.4 127
MC 0 0 0 0 0 0 1 100 1
TH 168 92.4 12 6.6 1 0.5 1 0.5 182
THCS 68 91.9 3 4.0 2 2.7 1 1.4 74
Ba xã Cấp học
THPT 36 83.7 7 16.3 0 0 0 0 43
Cư
trú
Tổng cộng 272 90.7 22 7.3 3 1.0 3 1.0 300
60
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
BIỂU ĐỒ 2.7: NHU CẦU HỌC CHỮ CHĂM THEO CẤP HỌC
MC 0 0 0 1
Tiểu học 168 12 1 1
THCS 68 3 2 1
THPT 36 7 0 0
Rất cần Cần Có cũng được,không cũng được Không cần
Tại bảng 2.7 cho chúng ta thấy:
Có 1 người mù chữ phổ thông, người này cũng cho rằng “không cần”
phải học chữ Chăm.
Trong số 182 người ở cấp học Tiểu học, có 168 chiếm tỉ lệ 92,4% cho
rằng “rất cần” phải học chữ Chăm; có 12 người chiếm 6,6% cho là “cần” phải
học chữ Chăm; cả hai diện vừa nêu là 99%; chỉ có 1 người chiếm 0,5% nêu
“có cũng được, không cũng được” và 1 người cho rằng “không cần” phải học
chữ Chăm.
61
Ở cấp Trung học cơ sở, có 68 người 91,9% cho rằng “rất cần” phải học
chữ Chăm; 3 người chiếm 4% cho là “cần” phải học chữ Chăm; cả hai diện
vừa nêu là 95,9%; chỉ có 2 người chiếm 2,7% nêu “có cũng được, không cũng
được” và 1 người chiếm 1,4% cho rằng “không cần” phải học chữ Chăm.
Đặc biệt ở cấp Trung học phổ thông, trong số 43 người được điều tra
thì có 36 người chiếm 83,7% cho rằng “rất cần” và 7 người chiếm 7,3% cho
là “cần” phải học chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi; không có ngưòi nào
cho là “có cũng được, không cũng được” hay “không cần” phải học chữ
Chăm.
Qua phân tích trên, trừ một người ở diện mù chữ phổ thông, ở tất cả các
cấp học còn lại có 98% số người cho rằng “rất cần” hoặc “cần” phải học chữ
Chăm; chỉ có 3 người chiếm 1% chưa có thái độ dứt khoát trong việc học chữ
Chăm hay không và 3 người chiếm 1% “không cần” học chữ Chăm. Đặc biệt,
với những người có trình độ trung học phổ thông họ đều cho rằng “rất cần”
hoặc “cần” phải học chữ Chăm. Qua đó chứng tỏ nhận thức về học chữ Chăm
phụ thuộc nhiều vào trình độ học vấn phổ thông, khi học lực phổ thông càng
cao họ càng ý thức tốt hơn về sự cần thiết phải học chữ của dân tộc mình.
62
2.2.3. Mục đích học chữ Chăm của người Chăm lớn tuổi
BẢNG 2.8: NHU CẦU HỌC CHỮ CHĂM THEO CÁC MỤC ĐÍCH
Nhu cầu học chữ Chăm
Rất cần Cần Có cũng được, không cũng được Không cần
Địa bàn
xã
Mục
đích
SL % SL % SL % SL %
Cộng
SL
1 52 30.2 3 1.7 0 0 0 0 55
2 76 42.2 5 2.8 0 0 0 0 81 Ma Lâm
3 2 8.0 0 0 0 0 0 0 2
1 10 5.8 0 0 0 0 0 0 10
2 48 26.7 1 0.6 0 0 0 0 49 Hàm Phú
3 1 4.0 0 0 0 0 0 0 1
1 91 52.9 12 7.0 2 1.2 2 1.2 107
2 44 24.4 5 2.8 1 0.6 0 0 50 Hàm Trí
3 21 84.0 0 0 1 4.0 0 0 22
1 153 88.9 15 8.7 2 1.2 2 1.2 172
(Nguồn: xử lí phiếu điều tra)
Ghi chú:
* 1: Tìm hiểu phong tục tập quán của người Chăm
* 2: Giữ gìn tiếng nói và chữ viết của người Chăm
* 3: Mục đích khác
2 168 93.3 11 6.1 1 0.6 0 0 180 Ba Xã
3 24 96.0 0 0 1 4.0 0 0 25
63
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
BIỂU ĐỒ 2.8: NHU CẦU HỌC CHỮ CHĂM
THEO CÁC MỤC ĐÍCH
Tìm hiểu phong tục
tập quán người Chăm
153 15 2 2
Giữ gìn tiếng nói
chữ viết người Chăm
168 11 1 0
Mục đích khác 24 0 1 0
Rất cần Cần
Có cũng
được, không
cũng được
Không cần
Qua kết quả điều tra trong bảng 2.8 cho thấy:
Có 172 ý kiến chiếm 57,3% số người cho rằng mục đích của việc học
chữ Chăm là vì phải tìm hiểu phong tục tập quán của người Chăm; trong đó
có đến 153/172 ý kiến nêu có nhu cầu “rất cần” chiếm 88,9% và 15/172 ý
kiến cho là “cần” chiếm 8,7% trong tổng số những người có mục đích này.
Chỉ có 2/172 chiếm 1,2% có mục đích tìm hiểu phong tục tập quán của người
Chăm nhưng “Không cần” học chữ Chăm và 1,2% cho rằng “có cũng được
không cũng được”.
64
Có 180 ý kiến chiếm 60% số người cho biết học chữ Chăm nhằm để
giữ gìn tiếng nói và chữ viết của người Chăm; trong đó có đến 168/180 ý kiến
chiếm 99,3% của người diện này có nhu cầu “rất cần” học chữ Chăm; không
có người nào cho rằng “ không cần” phải học chữ Chăm.
Chỉ có 25 ý kiến chiếm 8,3% nêu lí do học chữ Chăm là vì mục đích
khác, trong đó có một số người không phải dân tộc Chăm cho rằng họ học
chữ Chăm để dễ dàng trong quan hệ công tác khi giao tiếp với đồng bào dân
tộc Chăm.
Như vậy, có thể kết luận rằng mục đích chính của việc học chữ Chăm
là nhằm bảo tồn ngôn ngữ Chăm, nhất là chữ Chăm cổ và qua đó tìm hiểu
thêm về phong tục tập quán của người Chăm.
65
2.2.4. Nhu cầu về hình thức, thời gian, số lượng người học trong lớp
học chữ Chăm của người Chăm lớn tuổi
BẢNG 2.9: NHU CẦU VỀ HÌNH THỨC, THỜI GIAN VÀ SỐ
LƯỢNG NGƯỜI HỌC CHỮ CHĂM THEO NGHỀ NGHIỆP
Tự
học
Cần
có
thầy
Học
tại
nhà
Học
tại
trường
Dưới
10
người
Trên
10
người
Học
ban
ngày
Học
ban
đêm
Làm
nông 1 94 0 97 10 73 74 32
Công
chức 0 2 0 3 0 2 1 2
Nghề
nghiệp
Nghề
khác 0 10 0 9 1 9 5 5
Ma
Lâm
1 106 0 109 11 84 80 39 Cộng
(Nguồn: Xử lý phiếu điều tra)
Làm
nông 0 39 0 30 2 39 44 0
Công
chức 0 4 0 4 0 4 4 0
Nghề
nghiệp
Nghề
khác 0 2 0 2 0 1 2 0
Hàm
Phú
Cộng 0 45 0 36 2 44 50 0
Làm
nông 9 95 9 91 2 89 70 26
Công
chức 0 17 0 15 1 11 12 1
Nghề
nghiệp
Nghề
khác 0 2 0 2 0 1 2 0
Hàm
Trí
Cộng 9 114 9 108 3 101 84 27
Làm
nông 10 228 9 218 14 201 188 58
Công
chức 0 23 0 22 1 17 17
3
Địa
bàn
cư
trú
Ba
xã
Nghề
nghiệp
Nghề
khác 0 14 0 13 1 11 9 5
Tổng cộng 10 265 9 253 16 229 214 66
66
Qua số liệu điều tra trong bảng 2.9 cho thấy:
Trong 257 người làm nghề nông, có 218 ý kiến chiếm 84,8% đề nghị
cần phải tổ chức lớp học chữ Chăm cho người lớn tại trường học và có 228 ý
kiến chiếm 88,7% số người làm nghề nông được điều tra cho rằng cần phải có
thầy dạy học chữ Chăm; chỉ có 9 ý kiến chiếm 3,5% cho là họ có thể tự học
chữ Chăm ở nhà mà không cần có thầy dạy chữ Chăm; có 201 chiếm 78,2% ý
kiến đề nghị phải tổ chức lớp học trên 10 người. Ngoài ra, còn có 188 ý kiến
chiếm 73,1% đề nghị tổ chức lớp học chữ Chăm vào ban ngày; 58 ý kiến
chiếm 22,5% mong muốn tổ chức lớp học vào ban đêm.
Với 24 người là công chức viên chức nhà nước tham gia điều tra, có
23/24 ý kiến chiếm 95,8% đề nghị cần phải tổ chức lớp học chữ Chăm cho
người lớn tại trường học và cho rằng cần phải có thầy dạy học chữ Chăm;
Không có ý kiến nào cho là họ có thể tự học chữ Chăm ở nhà mà không cần
có thầy dạy chữ Chăm; tuy nhiên có 1/24 chiếm 4,1% số ngưòi không bày tỏ
ý kiến về vấn đề này. Về số người học trong một lớp, có 17/24 chiếm 70,8% ý
kiến đề nghị phải tổ chức lớp học trên 10 người. Ngoài ra, còn có 17/24 chiếm
70,8% ý kiến đề nghị tổ chức lớp học chữ Chăm vào ban ngày; 3/24 ý kiến
chiếm 12,5% muốn tổ chức lớp học vào ban đêm.
Trong 19 người làm nghề khác, có 14 người tham gia ý kiến trong lĩnh
vực này. Trong đó có 14/14 ý kiến chiếm 100% đề nghị cần phải có thầy dạy
học chữ Chăm cho người lớn tuổi; có 13/13 ý kiến chiếm 92,8% cho rằng cần
phải tổ chức lớp học chữ Chăm cho người lớn tại trường học; Không có ý
kiến nào cho là họ có thể tự học chữ Chăm ở nhà mà không cần có thầy dạy
chữ Chăm; có 11 người chiếm 78,5% ý kiến đề nghị phải tổ chức lớp học trên
10 người. Ngoài ra, còn có 9 ý kiến chiếm 64,3% đề nghị tổ chức lớp học chữ
Chăm vào ban ngày; 5 ý kiến chiếm 35,7% mong muốn tổ chức lớp học vào
ban đêm.
67
Qua phân tích trên cho thấy:
Tuy ở các nghề khác nhau nhưng có đến 253 trong tổng số 300 người
được điều tra chiếm 84%, trong đó những người là công chức, viên chức hay
nghề khác chiếm hơn 95,8% cho rằng cần phải tổ chức lớp học chữ Chăm tại
trường; có 88,7% số người làm nghề nông đồng tình với quan điểm trên. Như
vậy, đa số người Chăm ở các nghề khác nhau đều cho là cần thiết phải tổ chức
lớp học có thầy dạy học chữ Chăm cho người lớn như là một lớp học xoá mù
chữ phổ thông.
Có 265 ý kiến chiếm 88,3%, trong đó những người là công chức, viên
chức hay nghề khác chiếm hơn 95,8% đề nghị phải có thầy dạy chữ Chăm;
chỉ có 10 người chiếm 3,3% khẳng định là họ có thể tự học chữ Chăm tại nhà
mà không cần có thầy dạy, số còn lại không có ý kiến là cần có thầy dạy hay
không. Điều đó, cho thấy người dân tôn trọng và đặt niềm tin vào việc dạy
của người thầy, ngành Giáo dục cần phải chú ý đặc biệt về việc đào tạo người
thầy giáo dạy chữ Chăm cả về tay nghề lẫn việc rèn luyện đạo đức người
thầy.
Có 225/300 người, chiếm 75% số người được điều tra đề nghị tổ chức
lớp học với trên 10 học viên cho mỗi lớp; chỉ có 16/300 người, chiếm 5,3% số
người cho là chỉ cần dưới 10 học viên cho mỗi lớp học; số còn lại không có ý
kiến về vấn đề này. Phần lớn nông dân, 201/257 người chiếm 78,2% cho là
cần tổ chức học với số lượng trên 10 học viên cho một lớp. Như vậy, việc tổ
chức lớp học chữ Chăm với số lượng trên 10 người học cho mỗi lớp là hợp lý,
phù hợp với nguyện vọng người học, tạo nên tính tập thể trong học tập và
cũng để tiết kiệm chi phí cho việc mở lớp.
Có 214/300 người chiếm 71,3% số người điều tra có nhu cầu học chữ
Chăm vào ban ngày, trong đó có 188/257 chiếm 73,2% nông dân cho rằng
68
học ban ngày là thích hợp hơn; 70/300 người chiếm 23,3% có nhu cầu học
vào ban đêm, số còn lại không có ý kiến gì. Điều này là cơ sở cho việc bố trí
thời gian học. Như vậy, tùy điều kiện và nhu cầu của người học ở từng nơi để
bố trí việc học vào ban ngày hay ban đêm nhằm tạo thuận lợi nhất cho người
học. Học vào ban ngày cũng có nhiều thuận lợi cho việc đi lại, ánh sáng trong
lớp học và an ninh trong quá trình học tập. Một số ý kiến khác đề xuất mỗi
tuần chỉ cần học mỗi buổi vào chiều ngày Thứ Bảy.
* Về nhu cầu sách giáo khoa
Về nhu cầu sách giáo khoa và dụng cụ học tập chữ Chăm, tốt nhất Nhà
nước cần cấp phát miễn phí sách giáo khoa và dụng cụ học chữ Chăm cho
người Chăm để họ theo học chữ Chăm. Việc làm này cũng bình thường như
việc cấp phát miễn phí sách giáo khoa xoá mù chữ tiếng phổ thông (Tiếng
Việt) cho mọi người, để giảm bớt một phần chi phí cho người học và khuyến
khích mọi người tham gia học tập, thể hiện sự bình đẳng và có phần ưu tiên
cho ngưòi dân tộc thiểu số trong việc thực hiện chính sách ngôn ngữ của
Đảng và Nhà nước.
69
2.2.5. Nguyện vọng của các lão làng, chức sắc tôn giáo và trí thức trên
địa bàn cư trú về việc tổ chức dạy chữ Chăm cho người Chăm
BẢNG 2.10: THỐNG KÊ NHU CẦU HỌC CHỮ CHĂM THEO
THÀNH PHẦN XÃ HỘI
Rất cần Cần
Có cũng được,
không cũng
được
Cộng
Địa
bàn
cư
trú
Thành
phần xã
hội SL % SL % SL % SL
Lớn tuổi 9 90.0 1 10.0 0 0 10
Công chức 8 100 0 0 0 0 8
Chức sắc
Tôn giáo 4 100 0 0 0 0 4
Ma
Lâm
Cộng 21 95.5 1 4.5 0 0 22
Lớn tuổi 1 100 0 0 0 0 1
Công chức 4 100 0 0 0 0 4
Chức sắc
Tôn giáo 5 83.3 1 16.7 0 0 6
Hàm
Phú
Cộng 10 90.9 1 9.1 0 0 11
Lớn tuổi 5 71.4 1 14.3 1 14.3 7
Công chức 2 50.0 1 25.0 1 25.0 4
Chức sắc
Tôn giáo 4 66.6 1 16.7 1 16.7 6
Hàm
Trí
Cộng 64.7 3 17.6 3 17.6 17 11
Lớn tuổi 15 83.3 2 11.1 1 5.6 18
(Nguồn: xử lý số liệu phỏng vấn)
Công chức 14 87.5 1 6.2 1 6.2 16 Ba
xã
Chức sắc 13 81.3 2 12.5 1 6.2 Tôn giáo 16
Tổng cộng 42 84.0 5 10.0 3 6.0 50
70
0
2
4
6
8
10
12
14
16
BIỂU ĐỒ 2.9: NHU CẦU HỌC CHỮ CHĂM THEO
THÀNH PHẦN XÃ HỘI
Lớn tuổi 15 2 1 0
Công chức 14 1 1 0
Chức sắc tôn giáo 13 2 1 0
Cần Rất cần Có cũng được,không cũng được Không cần
Theo bảng 2.10 cho thấy:
Trong 18 người lớn tuổi (lão làng) có 15 ý kiến chiếm 83,3% cho rằng
“rất cần” và 2 ý kiến chiếm 11,1% nêu “cần” phải tổ chức dạy chữ Chăm cho
người Chăm; có 1 ý kiến chiếm 5,6% cho là “có cũng được không cũng
được”; không có ý kiến “không cần” tổ chức dạy chữ Chăm cho người Chăm
lớn tuổi.
Có 16 công chức được phỏng vấn, trong đó có 14 ý kiến chiếm 87,5%
cho rằng “rất cần” và 1 ý kiến chiếm 6,2% nêu “cần” phải tổ chức dạy chữ
Chăm cho người Chăm; có 1 ý kiến chiếm 6,2% quan điểm rằng “ có cũng
71
được không cũng được”; tuy nhiên, không có ý kiến “không cần” tổ chức dạy
chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi.
Tham gia phỏng vấn có 16 người đang giữ các chức sắc tôn giáo của
hai đạo Bà la môn và Hồi giáo, trong đó có 13 ý kiến chiếm 81,3% số người
cho rằng “rất cần” và 2 ý kiến chiếm 12,5% nêu “cần” phải tổ chức dạy chữ
Chăm cho người Chăm; cũng có 1 ý kiến chiếm 6,2% cho là “ có cũng được
không cũng được”; không có ý kiến “không cần” tổ chức dạy chữ Chăm cho
người Chăm lớn tuổi.
Qua phân tích trên cho thấy, cả ba thành phần được phỏng vấn vốn có
uy tín về nhiều mặt trong cộng đồng người Chăm đã cùng nhất trí khá cao
trong nhận định “cần” và “rất cần” phải dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn
tuổi; không có một ý kiến nào cho là “không cần” phải dạy chữ Chăm. Điều
đó, một lần nữa khẳng định tính cần thiết phải tổ chức lớp học xoá mù chữ
Chăm trong cộng đồng người Chăm.
72
2.3. Thực trạng về đội ngũ giáo viên dạy chữ Chăm ở huyện Hàm Thuận
Bắc tỉnh Bình Thuận
BẢNG 2.11: KHẢ NĂNG DẠY CHỮ CHĂM THEO NGHỀ NGHIỆP
Dạy được Không dạy được Cộng
SL % SL % SL %
Nông 17 39.5 79 33.1 96 34.0
Công chức 1 2.3 1 0.4 2 0.7
Nghề
nghiệp
Khác 3 7.0 12 5.0 15 5.3
Ma
Lâm
Cộng 21 48.8 92 38.5 113 40.1
Nông 3 7.0 41 17.2 44 15.6
Công chức 0 0 4 1.7 4 1.4
Nghề
nghiệp
Khác 0 0 2 0.8 2 0.7
Hàm
Phú
Cộng
(Nguồn: xử lí phiếu điều tra)
3 7 47 19.7 50 17.7
Nông 9 20.9 92 38.5 101 35.8
Công chức 9 20.9 7 2.9 16 5.7
Địa
bàn
cư
trú
Nghề
nghiệp
Khác 1 2.3 1 0.4 2 0.7
Hàm
Trí
Cộng 19 44.2 100 41.8 119 42.2
Nông 29 67.4 212 88.7 241 85.5
Công chức 10 23.3 12 5.0 22 7.8
Ba xã Nghề
nghiệp
Khác 4 9.3 15 6.3 19 6.7
Tổng cộng 43 100 239 100 282 100
73
0
50
100
150
200
250
BIỂU ĐỒ 2.10: KHẢ NĂNG DẠY CHỮ CHĂM THEO
NGHỀ NGHIỆP
Nông 29 212
Công chức 10 12
Khác 4 15
Dạy được Không dạy được
Bảng 2.11 cho thấy:
Trong 257 người làm nghề nông có 241 người trả lời về việc có khả
năng tham gia dạy chữ Chăm hay không. Trong đó 29/241, chiếm 12% số ý
kiến cho rằng “dạy được” chữ Chăm.
Trong số 29 người “dạy được” chữ Chăm trên vẫn còn nhiều người có
trình độ chữ Chăm thấp, tuy vậy lòng nhiệt tình của họ sẽ là nguồn lực động
viên cho việc học chữ Chăm trong người lớn tuổi.
Số còn lại là 212/241 chiếm 88% cho là “không dạy được” chữ Chăm.
Có 22 người trong số 24 công chức nêu khả năng tham gia dạy chữ
Chăm, trong đó có 10/22 người chiếm 45,5% số ý kiến cho rằng “dạy được”
chữ Chăm.
Có 12/22 công chức còn lại chiếm 54,5% số ý kiến cho là “không dạy
được” chữ Chăm. Do đặc điểm nghề nghiệp, thành phần công chức là lực
74
lượng có điều kiện và có nhiều khả năng dạy chữ Chăm hơn so với nông dân
và những người làm nghề khác trong cộng đồng. Nếu được động viên và bồi
dưỡng tốt họ sẽ sớm trở thành những người tham gia giảng dạy chữ Chăm cho
cộng đồng.
BẢNG 2.12: KHẢ NĂNG DẠY CHỮ CHĂM THEO TRÌNH ĐỘ
CHỮ CHĂM
Khả năng dạy chữ Chăm Cộng
Dạy được Khôngdạy được
SL % SL %
SL %
MC 17 39.5 71 29.7 88 31.2
L1-L3 1 2.3 2 0.8 3 1.1
(Nguồn: Xử lí phiếu điều tra)
L4-L5 0 0 3 1.3 3 1.1
Trình
độ
chữ
Chăm
TMC 3 7.0 16 6.7 19 6.7
Ma
Lâm
Cộng 21 48.8 92 38.5 113 40.1
MC 3 7.0 37 15.5 40 14.2
L1-L3 0 0 6 2.5 6 2.1
L4-L5 0 0 0 0 0 0
Trình
độ
chữ
Chăm
TMC 0 0 4 1.7 4 1.4
Hàm
Phú
Cộng 3 7.0 47 19.7 50 17.7
MC 7 16.3 87 36.4 94 33.3
L1-L3 7 16.3 1 0.4 8 2.8
L4-L5 2 4.7 4 1.7 6 2.1
Trình
độ
chữ
Chăm
TMC 3 7.0 8 3.3 11 3.9
Hàm
Trí
Cộng 19 42.2 100 41.8 119 42.2
MC 27 62.8 195 81.6 222 78.7
L1-L3 8 18.6 9 3.8 17 6.0
L4-L5 2 4.7 7 2.9 9 3.2
Địa
Bàn
Cư
trú
Ba xã
Trình
độ
chữ
Chăm
TMC 6 13.9 28 11.7 34 12.1
Tổng cộng 43 100 239 100 282 100
75
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
BIỂU ĐỒ 2.11: KHẢ NĂNG DẠY CHỮ CHĂM THEO TRÌNH ĐỘ
CHỮ CHĂM
Mù chữ 27 195
Lớp 1- Lớp3 8 9
Lớp 4 - Lớp 5 2 7
Tái mù chữ 6 28
Dạy được Không dạy được
Bảng 2.12 cho thấy:
Tuy có đến 43 người nhiệt tình hăng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVQLGD002.pdf