Tài liệu Luận văn Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi: Thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN:
Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và
giải pháp
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều thu nhập từ
phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau quá trình chuyển dịch
này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số thuế thu được trong hiện tại và tương
lai; ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội; thuế và
tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội...
Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ không chỉ thể hiện ra những vấn đề
kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế không những đòi hỏi tính
khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn cần đến nghệ thuật tinh tế
trong hành thu.
"Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN", hàng năm số thu về thuế chiếm khoảng
80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu chỉnh các Luật thuế, các
văn bản pháp lý...
116 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và
giải pháp
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều thu nhập từ
phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau quá trình chuyển dịch
này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số thuế thu được trong hiện tại và tương
lai; ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội; thuế và
tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội...
Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ không chỉ thể hiện ra những vấn đề
kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế không những đòi hỏi tính
khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn cần đến nghệ thuật tinh tế
trong hành thu.
"Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN", hàng năm số thu về thuế chiếm khoảng
80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu chỉnh các Luật thuế, các
văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận
thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp bước chuyển của nền kinh tế thì quản lý thu thuế cần
phải thay đổi và phải được hoàn thiện hơn để đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất
nước cũng như các cam kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa
những uy lực vốn có của thuế để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển sản
xuất kinh doanh của mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo thực hiện đúng
nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Đối với khu vực KTNQD, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng,
đều khắp các địa bàn trong từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ sách kế toán,
chứng từ hóa đơn còn thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện tượng khai man trốn
thuế, lậu thuế còn nhiều từ đó tạo ra sự bất bình đẳng và sự cạnh tranh không lành mạnh
giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD phải tiếp
tục cải tiến và hoàn thiện nhằm thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ thống thuế đặt
ra.
Quảng Ngãi là một tỉnh duyên hải miền Trung, số thu về thuế không nhiều, chưa
đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong đó kinh tế ngoài quốc doanh
(KTNQD) đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân sách địa
phương. Nhiều năm qua ngành thuế tỉnh Quảng Ngãi nói chung, thuế ngoài quốc doanh
(NQD) nói riêng đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao. Nhưng với tính
chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quản lý thu thuế ở tỉnh Quảng
Ngãi cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu,
thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật.
Việc chọn đề tài "Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi - Thực trạng và giải pháp" có ý nghĩa thiết thực và bức xúc cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về thuế - công
tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên
cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thu thuế NQD trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, luận văn nghiên cứu là cần thiết, qua đó chỉ những
nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế NQD, trên cơ sở đó đề xuất những giải
pháp khả thi ở địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, nhằm thực hiện được mục tiêu của hệ thống thuế
tại địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và những giải pháp thiết thực nhằm
tăng cường, hoàn thiện quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận của quản lý thu thuế đối với khu vực
KTNQD.
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi.
+ Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và tăng cường
quản lý thu thuế NQD tại tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi nghiên cứu:
Quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD rất rộng, đa dạng và phức tạp. Vì vậy,
phạm vi của đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về quản lý thu thuế khu vực NQD trong các hoạt
động sản xuất kinh doanh - dịch vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi gồm: Công ty cổ phần,
Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, Hộ kinh doanh công thương nghiệp
và dịch vụ từ năm 1999 - 2001.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực
tiễn, phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh để rút ra những kết luận cần
thiết.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Từ những đánh giá về thực trạng, những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân
của những tồn tại của công tác quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD ở tỉnh Quảng
Ngãi, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý
thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo và các cán bộ
nghiệp vụ ở cơ quan thuế trong quá trình lập dự toán, phân tích, đánh giá kế hoạch thu, đề
xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế ở đơn vị. Đảm
bảo sự tinh tế trong hành thu; hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng thất thu thuế; thực
hiện công bằng trong điều tiết thuế ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Một Số Vấn Đề CƠ Bản Về Thuế
Và Quản Lý THU Thuế ngoài quốc doanh
1.1. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế nước ta hiện nay
1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế
- Khái niệm - bản chất:
Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời cũng là
một phạm trù lịch sử, nó ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển
của một nhà nước. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện khi
xã hội có sự phân chia thành giai cấp, để duy trì bộ máy hoạt động của mình như: an
ninh, quốc phòng; chi hoạt động của bộ máy nhà nước; chi sự nghiệp giáo dục, y tế;....;
đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn tài chính để chi. Nguồn tài chính này có được là do sự
đóng góp của mọi thành viên trong xã hội và sự đóng góp này mang tính bắt buộc. Theo
Ph.Ăngghen: "Để duy trì quyền lực công cộng cần phải có sự đóng góp của những người
công dân cho Nhà nước đó là thuế má" [24, tr. 522]. Trong thời kỳ Cộng sản nguyên
thủy, khi điều kiện lao động của con người còn thô sơ, con người lao động đủ để duy trì
sự sống của mình, chưa có Nhà nước lúc đó xã hội chưa biết thuế là gì. Với tiến trình
phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện, thuế cũng từ đó ra đời, tồn tại và
phát triển.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ làm
nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ở chừng mực
nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có thêm nhiệm vụ điều hành,
quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày càng nhiều hơn. Đến khi Nhà nước
đảm nhận thêm công việc chăm lo đời sống, văn hóa, xã hội của cộng đồng thì thuế lại
được động viên càng lớn với nhiều sắc thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế.
Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở rộng, đòi hỏi
nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng lên. Điều đó, không thể thiếu sự
đóng góp của người dân và các tổ chức kinh tế, đó là thuế.
Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và thuế
ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra sản phẩm thặng dư.
Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sự chuyển dịch giá trị sản phẩm thặng dư từ
thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác
rất đa dạng và phức tạp. Cho nên, đứng trên giác độ toàn xã hội, đòi hỏi phải có hệ thống
thuế để điều tiết thỏa đáng số sản phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công
bằng. Vì vậy, khi xã hội càng văn minh thì thuế khóa lại càng đa dạng và phát triển.
Tóm lại, qua quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy, thuế và
Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại tất yếu phải có thuế.
Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Trên các sách báo kinh tế thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt
đối khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra mới nhìn
nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung
nhất của phạm trù này. Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất
đơn giản: "Thuế khóa là cái vú sữa của chính phủ" [23, tr. 317].
Sau này khái niệm về thuế được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn Từ điển
kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes cho rằng: "Thuế là
một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá
nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu hàng hóa và dịch vụ (thuế gián
thu) và trên tài sản".
Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn
"Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao
bằng hàng hóa, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà
trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hóa hoặc
dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà tòa án tuyên phạt do
hành vi vi phạm pháp luật [31, tr. 10].
ở nước ta đến nay cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo một số
nhà nghiên cứu: thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân theo pháp luật của Nhà nước quy định, nhằm đáp ứng những
khoản chi tiêu cần thiết của Nhà nước. Đó là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức
(chủ yếu là tổ chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính bắt
buộc không hoàn trả trực tiếp [25, tr. 1].
Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu về thuế, các nhà kinh tế cho rằng,
để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật các khía cạnh sau đây: nội
dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp
nhân và thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách
khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt
buộc theo mệnh lệnh nhà nước; xét theo khía cạnh luật pháp thuế là khoản nộp cho Nhà
nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về thuế kể trên, có thể nêu
lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt
buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật
quy định, nhằm sử dụng cho mục đích công cộng [30, tr. 11].
- Đặc điểm:
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế.
Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển. Nghiên cứu về thuế
người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt với các công cụ tài chính khác.
+ Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho
Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự:
Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó phân biệt thuế
với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc điểm này vạch rõ nội dung
kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được hình thành một cách khách quan và có
một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước. Phân
phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế - như một nhà kinh tế định nghĩa: là
một phương thức phân phối của Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận
thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự
cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác trực tiếp cho người nộp thuế.
Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những
lý do sau:
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi
ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong
việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng
quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập phải chuyển giao.
Thứ hai, trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về hàng
hóa công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó thì thu nhập về hàng hóa
công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các chi phí bỏ ra. Nhưng hàng hóa
công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo "khẩu phần" để sử dụng và
người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo "khẩu phần". Mặt khác, hàng hóa công
cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù
đắp các chi phí. Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hóa công cộng đã xuất hiện
những "người ăn không", nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng
hóa công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hóa công cộng, Nhà nước chỉ có thể sử
dụng phương pháp thuế để buộc "người ăn không" phải chuyển giao thu nhập từ khu vực
tư sang khu vực công.
Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành động
đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp,
mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác
của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức phạt bằng tiền
cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ xảy ra đối với người nộp phạt khi có
hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích nhà nước hoặc cộng đồng. Hình thức
phí, lệ phí, công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc
của phí và lệ phí chỉ xảy ra khi người trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do
Nhà nước cung cấp.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính hoàn trả trực
tiếp:
Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá,
nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn
dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch vụ và hàng hóa công cộng do Nhà
nước cung cấp. Người nộp thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp
hàng hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu
nhập cho Nhà nước; mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng
không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít
chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng như
nhu cầu tài chính chung của Nhà nước.
Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được hoàn trả
trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một phần các dịch vụ
công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó không
nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta
phân biệt sự khác nhau giữa thuế và các khoản phí, lệ phí.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng luật
pháp:
Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác phản ánh sự
chuyển giao thu nhập không mang tính chất tùy tiện mà dựa trên những cơ sở pháp luật
nhất định và đã được xác định trước trong Luật thuế; Pháp lệnh thuế. Những tiêu thức
thường được xác định trước trong các Luật thuế, Pháp lệnh thuế là: đối tượng chịu thuế;
đối tượng nộp thuế; mức thuế phải nộp; thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng
chế khác.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh hưởng của
các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định:
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế
quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự biến động của NSNN....
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị của Nhà
nước, tâm lý, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hóa, xã hội của dân
tộc...
Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội nên người ta
thường nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới hạn trong
phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà nước đối với con người và tài
sản.
Tóm lại: những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất và nội
dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng ta phân biệt thuế với các
hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện khác nhau.
1.1.2. Vai trò của thuế
+ Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà nước:
Bất kỳ một chế độ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải tạo cho
mình một nền tài chính quốc gia vững chắc và lành mạnh, mà trong đó nguồn tài chính
chủ yếu được động viên từ thuế và phí ở nội bộ nền kinh tế quốc dân.
"Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN". ở nước ta từ khi có các Luật thuế ra đời
nguồn thu từ thuế ngày càng tăng lên, ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu
ngân sách, năm 1990 đạt 86%; năm 1997 đạt 87%; năm 1998 đạt 88%, đến nay khoảng
90% [26, tr. 10]. Vai trò của thuế thực sự được nâng lên và thể hiện rõ trong quản lý điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý và điều tiết của Nhà
nước, thuế được áp dụng thống nhất đối với các thành phần kinh tế, không phân biệt kinh
tế nhà nước và KTNQD, nó bao quát và điều tiết các hoạt động kinh doanh, mọi nguồn
thu nhập, mọi tài nguyên thiên nhiên và mọi hoạt động tiêu dùng trong xã hội.
Chính sách động viên về thuế cần có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu vững chắc,
lâu dài cho NSNN. Cơ chế thuế suất không nên quá phức tạp, quá cao mà cần nghiên cứu
và tính toán dựa trên những căn cứ khoa học và sự phát triển của nền kinh tế sẽ phù hợp
hơn với khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế, đảm bảo nguồn thu ngân sách được
ổn định thường xuyên. Thuế suất được điều chỉnh giảm có thể sẽ dẫn đến phát sinh lo
lắng không đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Nhưng trên thực tế nếu hệ thống thuế hợp
lý, thuế suất ở mức vừa phải thì sẽ tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp
nhân dân, đối tượng nộp thuế thấy mức thuế công bằng hợp lý sẽ tự nguyện khai báo nộp
thuế tốt hơn. Diện thu thuế được mở rộng, diện miễn giảm thu hẹp, vừa được lòng dân
vừa đảm bảo nhiệm vụ thu theo kế hoạch. Tỷ lệ động viên về thuế cần tính toán khoa
học, đầy đủ mọi khoản đóng góp cho NSNN, bao gồm mọi khoản thuế, phí và lệ phí. Cần
khắc phục tình trạng các ngành, các địa phương tùy tiện đặt ra các khoản thu trái với
quy định của Nhà nước.
Thuế tạo nguồn thu cho NSNN, nhưng nguồn thu đó được hình thành trên cơ sở
nền kinh tế tăng trưởng và đạt hiệu quả cao. Đây là vấn đề luôn được các quốc gia quan
tâm đúng mức trong quá trình hoạch định chính sách và tổ chức quản lý thu thuế.
+ Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước dùng để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Một chính sách thuế đặt ra không chỉ đơn thuần tạo nguồn thu cho NSNN,
mà quan trọng hơn là thực hiện chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường,
cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, cơ chế thị trường cũng là môi trường làm nảy
sinh những khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ kinh tế,
trong đó đặc biệt là công cụ thuế nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô, điều tiết thị trường,
đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt: khuyến khích và hạn chế.
Điều đó được thể hiện ra trong việc xây dựng cơ cấu các loại thuế và mối quan hệ giữa
chúng cũng như việc xác định thuế suất, chế độ miễn - giảm thuế phù hợp với điều kiện
thực tế. Khuyến khích đối với những ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh cần
thiết cho nền kinh tế quốc dân hoặc những ngành nghề những hoạt động sản xuất kinh
doanh phục vụ cho đại đa số quần chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp. Hạn chế, thu
hẹp những ngành nghề không có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, cho nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân hoặc những ngành nghề ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đến sức
khỏe của nhân dân thì áp dụng thuế suất cao. Trong nền kinh tế thị trường, các thành
phần kinh tế tự do lựa chọn ngành nghề sản xuất, kinh doanh, với mục tiêu đầu tư vào
những ngành nghề nào mang lại lợi nhuận cao nhất mà không tính đến hậu quả để lại sau
quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà nước dùng công cụ thuế để điều chỉnh và hướng các
hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào con đường phát triển có hiệu quả mang lại nhiều lợi
ích cho quốc kế dân sinh.
Trong điều kiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam thể hiện rất rõ quan
điểm khuyến khích các ngành nghề sản xuất hơn là các hoạt động thương mại, dịch vụ.
Sản xuất các mặt hàng thiết yếu được khuyến khích hơn sản xuất các mặt hàng và dịch vụ
khác. Để khuyến khích các ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay
thế hàng nhập khẩu cần thiết khi trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng
chưa đáp ứng đủ nhu cầu, hay đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn,
vùng không thuận lợi cho sức khỏe, sinh hoạt của người dân,... Nhà nước thường áp dụng
thuế ưu đãi để thúc đẩy kinh tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ theo hướng có
lợi cho quốc kế dân sinh.
Hiện nay, Nhà nước ta sử dụng tổng hợp hệ thống chính sách thuế, nhằm: khuyến
khích mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh
lành mạnh trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật; góp phần thúc đẩy việc khai thác vật tư
nguyên liệu trong nước, tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, phát triển
kinh tế hàng hóa đẩy mạnh xuất nhập khẩu đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích lũy; bảo
đảm lợi ích giữa Nhà nước và xã hội, lợi ích của các bên hợp tác, vừa đảm bảo sản xuất
trong nước phát triển nâng cao đời sống của người dân.
+ Thuế góp phần điều hòa thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong phân phối:
Với học thuyết "Bàn tay vô hình" của Adam Smith nền kinh tế thị trường không
có sự điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước, thị trường tự điều chỉnh nền kinh tế. Như vậy,
thì sự phân phối thu nhập sẽ gây ra sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Một bộ
phận dân chúng sẽ giàu lên nhanh chóng, đại đa số người nghèo càng khó khăn hơn, đời
sống không được cải thiện. Tình trạng trên không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức, công
bằng xã hội mà còn tạo nên tình trạng lũng đoạn, độc quyền và về lâu dài sẽ không thể
đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng được.
Trong thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự đóng góp của
cộng đồng, của toàn xã hội. Chính vì vậy mà thành quả kinh tế đạt được trong hiện tại và
tương lai phải được phân phối trên cơ sở của cộng đồng. Cho nên, cần có sự can thiệp
của Nhà nước trong quá trình phân phối thu nhập, sự phân phối này chủ yếu nhờ vào
công cụ thuế để điều tiết. Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, thì vai trò tạo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế và người dân trong động viên điều tiết thuế và công bằng xã hội ngày càng
được nâng cao hơn, bao quát hơn.
Sự thành công trong việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta trong những
năm qua là: hệ thống thuế mới được áp dụng chung cho các ngành nghề, hoạt động sản
xuất kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh tế cũng như các tầng lớp nhân dân
nhằm mục tiêu đảm bảo sự công bằng bình đẳng trong điều tiết. Sự bình đẳng, công bằng
thể hiện thông qua các chính sách động viên như nhau giữa các thành phần kinh tế, chủ
thể sản xuất kinh doanh và mọi tầng lớp dân cư. Thông qua một hệ thống các sắc thuế,
Nhà nước điều chỉnh mức thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội, người có thu nhập cao
phải đóng thuế cao và ngược lại (thể hiện thông qua hoạt động tiêu dùng chịu sự điều tiết
của các sắc thuế gián thu và thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao). Tổ
chức và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận cao phải đóng góp thuế cao hơn những tổ chức
và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận thấp (thể hiện ở sắc thuế TNDN).
1.2. Đặc điểm của quản lý thu thuế ngoài quốc doanh
1.2.1. Một số vấn đề chung về kinh tế ngoài quốc doanh
- Kinh tế thị trường và sự tồn tại tất yếu của khu vực KTNQD:
Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc nghiên cứu KTNQD nói chung và thuế
đối với KTNQD nói riêng không thể tách rời việc nghiên cứu những đặc điểm của môi
trường mà KTNQD tồn tại và phát triển. Đó chính là nền kinh tế được vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bởi lẽ, khi chuyển
từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường chính là nội dung bao trùm nhất
của công cuộc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, được tiếp
tục khẳng định ở những Đại hội lần thứ VII, VIII, IX. Vậy kinh tế thị trường có những
đặc trưng cơ bản gì? Nhiều đặc trưng, song có thể nêu ít nhất mấy đặc trưng đáng quan
tâm sau đây:
Thứ nhất, Đó là tính chất đa thành phần của nền kinh tế. Nếu kinh tế kế hoạch
hóa tập trung phủ nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế thì ngược lại kinh tế thị
trường coi sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan, một
động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển. ở đây, nền kinh tế được chia thành hai khu vực cơ
bản đó là: Khu vực kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh cũ) và kinh tế NQD. Mỗi khu
vực đều có chức năng và nhiệm vụ riêng, cùng nhau tồn tại, phát triển theo nguyên tắc hỗ
trợ, hỗn hợp, đan xen và bổ sung cho nhau.
Thứ hai, Trong cơ chế thị trường mọi sản phẩm sản xuất đều mang tính chất hàng
hóa với đầy đủ ý nghĩa của nó. Không những thế, vật tư, kỹ thuật, sức lao động, trí tuệ,
thông tin,... đều được coi là hàng hóa, tiêu thụ trên thị trường với giá cả được xác định
chủ yếu theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, trên nguyên tắc thuận mua vừa bán.
Thứ ba, Tính cạnh tranh. Trong khuôn khổ pháp luật mọi thành phần kinh tế
được tham gia bình đẳng ở tất cả mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ (trừ một số
ngành nghề Nhà nước cấm kinh doanh), việc đầu tư tiền vốn, tăng cường trang thiết bị kỹ
thuật, thuê mướn công nhân, liên doanh liên kết cả trong và ngoài nước đều được khuyến
khích phát triển. Các yếu tố thị trường quốc gia dần từng bước hòa nhập với thị trường
quốc tế, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Chính sự cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế và sự phát triển không ngừng về nhu cầu tiêu dùng đã tạo ra
thị trường hàng hóa đa dạng, phong phú mà thực tiễn kinh tế thị trường đã minh chứng.
Kinh tế thị trường có khả năng giải phóng mọi tiềm năng sản xuất, điều chỉnh mọi hoạt
động kinh doanh, khuyến khích sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh
tế xã hội ngày càng phát triển.
Từ đặc điểm cạnh tranh, thị trường tuy thống nhất nhưng các thành phần kinh tế
hoạt động với khả năng, trình độ và mục tiêu khác nhau. Cơ chế thị trường tạo điều kiện
cho một số doanh nghiệp có tiềm lực về trí tuệ, tiền vốn, kỹ thuật, làm ăn có hiệu quả
được phép làm giàu một cách chính đáng. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường luôn tồn tại
những khuyết tật vốn có của nó, nhất là khi tình trạng phát triển tự phát hoặc cạnh tranh
không lành mạnh. Nếu Nhà nước không đủ sức điều chỉnh thị trường thì với xu thế
"mạnh được, yếu thua" phát triển, thị trường sẽ bị rối loạn, hoạt động trốn lậu thuế, mua
bán chèn ép nhau, thậm chí có cả những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, lừa gạt, triệt tiêu lẫn
nhau để tồn tại và phát triển ngày càng gia tăng theo thời gian. Đối lập với một số người
giành thắng lợi làm giàu một cách nhanh chóng sẽ có nhiều người thất bại làm ăn thua lỗ,
phá sản, gây lãng phí tiền vốn, tăng thất nghiệp, kinh tế bị kìm hãm, an ninh trật tự xã hội
không đảm bảo, các tầng lớp dân cư ngày càng bị phân hóa cao về thu nhập đời sống,...
Như vậy, từ trong bản thân của cơ chế thị trường đã bao hàm hai mặt thống nhất:
mặt tích cực thúc đẩy kinh tế phát triển, đời sống xã hội được nâng cao; mặt tiêu cực là
kìm hãm sự phát triển kinh tế, phân hóa đời sống xã hội.
ở Việt Nam, kinh tế thị trường định hướng XHCN được tiếp tục khẳng định ở Đại
hội Đảng lần thứ IX. Nền kinh tế đó phát triển dựa trên hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước với tư nhân trong và ngoài
nước,...trong đó sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể là nền tảng của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN hiện nay ở nước ta.
Yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường đặt ra cho tất cả các hình thức sở hữu
là phải xác định rõ quyền sở hữu về tài sản, tiền vốn, trí tuệ,... nhằm mục đích định lượng
hóa sở hữu của từng đối tượng làm cơ sở để Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách quản
lý thuế và thu thuế cho NSNN.
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vừa chịu sự điều tiết theo cơ chế "Bàn tay vô
hình" của thị trường, theo quy luật cung cầu, quy luật giá trị, vừa chịu sự điều tiết theo cơ
chế "Bàn tay hữu hình" của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, chủ trương chính
sách đồng bộ. Thị trường và Nhà nước đóng vai trò là người phân bổ các nguồn lực cho
sự phát triển các thành phần kinh tế. Đề cao quá mức vai trò của thị trường mà coi nhẹ
hay phủ nhận vai trò của Nhà nước hoặc ngược lại đều không đạt được sự phát triển và
tăng trưởng nền kinh tế một cách hiệu quả và bền vững.
- Khái niệm và đặc điểm kinh tế NQD:
Trong cơ chế thị trường nền kinh tế bao gồm hai khu vực: Kinh tế nhà nước chủ
yếu thực hiện chức năng dịch vụ công cộng, nặng về mục tiêu chính là lợi ích chung của
toàn xã hội; KTNQD chủ yếu làm chức năng kinh doanh mưu cầu lợi nhuận. Từ đó trong
cơ cấu sản xuất xã hội, KTNQD được coi là một thực thể khách quan, gồm các thành
phần kinh tế được xác định tùy theo đặc điểm kinh tế - xã hội và đường lối chính trị của
mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn khác nhau như, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh
tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước...
Khu vực KTNQD: là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân hoạt động
kinh doanh bằng vốn của các tổ chức, của một số cá nhân góp lại; hoạt động kinh doanh
theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận. KTNQD có nhiều đặc điểm riêng biệt, nhưng
có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do tư nhân quản lý và phân phối lợi nhuận;
+ Có tính tư hữu cao, trình độ phổ biến thấp, cho nên hiểu biết về luật cũng như ý
thức chấp hành pháp luật chưa cao;
+ Vốn ít, số lượng cơ sở nhiều, nằm rải rác, phân tán ở tất cả các địa phương trong
cả nước;
+ Số thu hàng năm chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số thu ngân sách;
+ Thường xuyên biến động về số lượng cơ sở, tùy thuộc vào chính sách, chế độ
của Nhà nước trong từng thời điểm;
Mục tiêu của chủ doanh nghiệp trong khu vực KTNQD chính là lợi nhuận, do
vậy không ít cơ sở luôn tìm mọi cách, mọi sơ hở của cơ quan thuế, cán bộ thuế, chính
sách, chế độ, để luồn lách, trốn thuế.
Các hình thức tồn tại phát triển của khu vực KTNQD rất đa dạng với số lượng
lớn, ý thức trong việc thực hiện luật pháp với mức độ khác nhau, tùy theo trình độ phát
triển ở mỗi quốc gia. Song rõ ràng đây là một lĩnh vực phức tạp trong quản lý thu thuế.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong những năm gần đây số lượng cơ sở NQD tăng
nhanh, cụ thể: khối doanh nghiệp NQD: năm 1999 có 137 cơ sở, năm 2000 có 190 cơ sở,
năm 2001 có 284 cơ sở, đến tháng 4/ 2002 có 316 cơ sở; khối hộ kinh doanh cá thể: năm có
1999 có 14.301 hộ, năm 2000 có 15.270 hộ, năm 2001 có 15.131 hộ (hộ thuộc diện quản
lý thuế môn bài) [4], [6], [7], [8].
Sự phát triển ở khu vực KTNQD ở nước ta những năm qua đã tạo thêm nhiều của
cải vật chất cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần không nhỏ vào
sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế.
- Ưu nhược điểm của kinh tế NQD:
KTNQD có tiềm năng lớn về trí tuệ, kiến thức, tiền vốn, lao động, sản phẩm, hợp
tác, liên doanh, liên kết...
+ Tiềm năng quan trọng nhất của KTNQD là khả năng vô tận về trí tuệ, sáng kiến
cá nhân trong đội ngũ những người lao động, trong nhân dân. Kinh nghiệm của các nước có
nhiều thành công trong phát triển kinh tế (Hồng Kông, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản, Hàn
Quốc...) cho thấy các tiềm năng bên trong như đất đai, tiền vốn trong thời kỳ đầu của sự
phát triển ở các nước này đều rất hạn chế. Nhưng nhờ phát huy được trí tuệ, sáng kiến cá
nhân và đầu tư xây dựng kinh tế, đồng thời có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, cho nên
chỉ sau một thời gian không dài đã làm nên những kỳ tích vĩ đại trong phát triển kinh tế.
Đối với nước ta, khi công cuộc đổi mới được triển khai từ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI, nhiều sáng kiến cá nhân của quần chúng lao động, của nhân dân đã và đang
được phát huy cả trong lao động sản xuất cũng như trong việc tìm tòi các hình thức kinh
doanh thích hợp, năng động, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phong
phú của thị trường.
+ Tiềm năng về kiến thức, kinh nghiệm quản lý, nâng cao tay nghề, đặc biệt là
phát huy kiến thức, bí quyết truyền thống được tích lũy qua nhiều đời là nguồn tiềm năng
vô cùng to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế nếu được khởi động với những chính sách, chủ
trương thích hợp. Hiện nay nguồn "chất xám" của KTNQD cũng rất đa dạng, có loại
được Nhà nước đào tạo trong các trường chính quy từ công nhân, kỹ sư, nhà kinh tế đến
các thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư.... Có loại cá nhân tự bỏ tiền ra để học lấy một
nghề nhất định ở trong hoặc ngoài nước. Có loại do các doanh nghiệp NQD sau khi tuyển
dụng lao động bỏ tiền đào tạo hoặc đào tạo lại.
+ Nguồn vốn trong khu vực KTNQD nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác đã
và đang được tích lũy ngày càng lớn. ở hầu hết các nước, nguồn vốn đầu tư từ phía Nhà
nước không đáng kể (chiếm từ 13% - 30% tổng vốn đầu tư). Các nước đều có chính sách
thỏa đáng để huy động nguồn lực to lớn từ nguồn vốn của KTNQD. Nếu Chính phủ có
chính sách đúng đắn, tạo môi trường thuận lợi, tạo lòng tin trong nhân dân, nhất định họ
sẽ sẵn sàng bỏ vốn đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ.
+ KTNQD có tiềm năng lao động to lớn và góp phần đáng kể vào việc giải
quyết việc làm cho xã hội. ở nước ta hàng năm bình quân có khoảng 1,243 triệu người đến
tuổi lao động [35, tr. 248], bao gồm: lực lượng thanh niên đến tuổi lao động, số học sinh tốt
nghiệp dạy nghề, trung học, cao đẳng, đại học hoặc những người lao động thất nghiệp do
sắp xếp lại biên chế trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp hoặc do sắp xếp lại
sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân, những người bán thất nghiệp ở nông thôn,
thành thị. Đây là nguồn lao động rất dồi dào mà Nhà nước ta chưa khai thác hết được. Nếu
chỉ thông qua các doanh nghiệp nhà nước thì sẽ không thu hút được hết những người lao
động. Thực tế trong những năm qua cho thấy, ở thời điểm cao nhất kinh tế nhà nước chỉ
thu hút khoảng 2 triệu lao động. Trong khi đó riêng kinh tế NQD trong công nghiệp và
dịch vụ năm 1992 đã thu hút trên 1,2 triệu lao động [30]. Chỉ thông qua KTNQD với mọi
hình thức, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề, áp dụng nhiều phương thức tổ chức, sử
dụng một cách linh hoạt mọi loại lao động của xã hội mới có thể tận dụng được các lực
lượng dôi thừa.
Kinh nghiệm của các nước Tây Âu, hơn 70% kết quả tăng trưởng của nền kinh tế
là do lao động tạo ra, 30% còn lại là do tiền vốn thiết bị. Đối với Việt Nam có đội ngũ lao
động đông đảo, nếu biết cách phát huy và khai thác thì đó là một lợi thế chứ không phải
là gánh nặng.
Lao động của KTNQD ở Việt Nam còn có tiềm năng quan trọng được bộc lộ rõ
thông qua quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp, bộ máy nhà nước đã bành trướng quá mức. Khi chuyển sang kinh tế
thị trường định hướng XHCN với cơ chế quản lý mới có sự quản lý của Nhà nước, chính
khu vực kinh tế nhà nước đã là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào cho KTNQD. Theo tài
liệu điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, đã có 72% giám đốc các
công ty trách nhiệm hữu hạn đã từng là công chức Nhà nước; 10,4% giám đốc các công ty
này đã từng là giám đốc doanh nghiệp nhà nước. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, 30%
giám đốc đã từng là cán bộ công chức nhà nước. Khi chuyển sang lĩnh vực KTNQD,
không những họ đã sử dụng trình độ lành nghề trong kinh doanh mà còn có cả vốn liếng
tích lũy được (bằng tiền trợ cấp thôi việc, bằng tiền hưu trí...), thậm chí máy móc kỹ thuật
từ nguồn thanh lý, giải thể của các doanh nghiệp nhà nước. Điều này có thể lý giải phần
nào tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khi một bộ phận lớn của kinh tế
nhà nước bị thu hẹp, giải thể hoặc ngưng sản xuất do làm ăn thua lỗ, không thích ứng
được với cơ chế kinh tế mới [30].
+ KTNQD còn là môi trường thuận lợi để hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong
nền kinh tế mở hiện nay, sự giao lưu với các nước phát triển mạnh về mọi mặt đó là một
tất yếu khách quan. Đại hội Đảng lần IX đã xác định:
Phát triển đa dạng kinh tế nhà nước dưới các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước, ngoài
nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh; chú trọng phát
triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa
các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước, ngoài nước [21, tr. 99].
Tại các nước, liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do KTNQD thực hiện vì là
khu vực năng động, làm ăn có hiệu quả, thích ứng nhanh với sự biến động hoặc thay đổi
của thị trường, của khách hàng. Trong khi đó ở nước ta hiện nay, các liên doanh với nước
ngoài chủ yếu là do kinh tế nhà nước thực hiện. Nhiều Việt kiều muốn đầu tư về quê
hương gặp không ít khó khăn trong việc tìm đối tác liên doanh.
+ Sự đa dạng của KTNQD tạo ra nguồn sản phẩm đa dạng, phong phú đáp ứng
mọi nhu cầu tiêu dùng của xã hội ở mọi nơi, mọi thời điểm. Thực tế nhiều năm qua ở các
nước XHCN và ở Việt Nam đều cho thấy nền kinh tế chủ yếu dựa trên KTQD thì hàng
hóa sẽ nghèo nàn về chủng loại, số lượng. ở Liên Xô cũ, sau 70 năm xây dựng CNXH
với hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước chỉ có 10 triệu loại sản phẩm. Trong khi đó ở Nhật
Bản một nước nhỏ bé hơn nhiều về dân số và diện tích có tới 1,4 triệu doanh nghiệp với
hơn 50 triệu loại sản phẩm. ở nhiều nước Đông Nam á, KTNQD đang được đánh
giá là nguồn lực chủ yếu làm tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu, có
thể tạo thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng lên rất nhanh.
Đường lối phát triển kinh tế - xã hội dựa vào KTNQD về cơ bản là một chiến
lược hướng vào thị trường. KTNQD có thể quyết định và điều chỉnh nhanh chóng sản
xuất cái gì, đầu tư vào đâu để có lợi nhuận nhiều nhất. ở các nước đang phát triển,
KTNQD trở thành động lực kích thích kinh tế phát triển tốt hơn so với sự can thiệp quá
sâu của Nhà nước vào quá trình kinh tế và dựa vào kinh tế nhà nước là chủ yếu.
Việt Nam, tuy KTNQD mới được công nhận và phục hồi nhưng trong những
năm qua đã xác định được chỗ đứng xứng đáng, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới đất nước.
Sự đóng góp của KTNQD không chỉ dừng lại ở mặt làm tăng tổng sản phẩm
trong nước, thêm nhiều hàng hóa với nhiều mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý mà còn tạo ra môi
trường thuận lợi cho giải quyết việc làm, nâng cao đời sống xã hội, cả cho người sản xuất
lẫn người tiêu dùng.
Từ một số thế mạnh của KTNQD, có quan điểm muốn tư nhân hóa một cách triệt
để nhằm huy động được tối đa mọi nguồn lực, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế đang tiềm
ẩn trong KTNQD. Thực ra, quan điểm này chưa thấy hết được những khiếm khuyết của
KTNQD. Tuy là một khu vực năng động nhưng thiếu định hướng và không bao quát hết
mọi nhu cầu xã hội, tự phát theo cơ chế thị trường, trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của
các cơ quan nhà nước; không ít cơ sở đã hoạt động vô chính phủ, kinh doanh trái phép,
buôn bán trốn lậu thuế. Điều đó càng trở nên khó khăn, phức tạp đối với một nền kinh tế
sản xuất nhỏ, phân tán, chưa quen với văn minh công nghiệp, hệ thống pháp luật chưa
đồng bộ, chưa hoàn thiện như ở nước ta.
Việc khuyến khích KTNQD để phát triển kinh tế - xã hội không đồng nghĩa với
việc buông lỏng quản lý, để mặc cho các thành phần kinh tế tự do phát triển. Ngược lại,
đòi hỏi Nhà nước phải quản lý, định hướng, phải có hệ thống pháp luật được thể chế hóa
đầy đủ rõ ràng cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô, để có thể phát huy đến mức tối đa mặt tích cực
và hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực của KTNQD trong cơ chế thị trường.
1.2.2. Đặc điểm quản lý thu thuế NQD
- Mục tiêu, yêu cầu của hệ thống thuế:
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến lần thứ IX, Đảng ta luôn khẳng định
chủ trương chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Công cuộc chuyển đổi này là phù hợp với
quy luật khách quan của một nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa buôn bán, hợp tác
kinh tế rộng rãi với nước ngoài. Do vậy, hệ thống thuế hiện hành đã cải cách bước hai,
phải đảm bảo những mục tiêu, yêu cầu cơ bản là:
Mục tiêu của hệ thống thuế:
+ Về mục tiêu tài chính:
Có thể khẳng định mục tiêu này của cải cách thuế đợt I là rất thành công. Từ
ngày thành lập đến nay ngành thuế đã không ngừng phấn đấu vươn lên, khắc phục mọi
khó khăn để liên tục hoàn thành vượt mức nhiệm vụ kế hoạch thu thuế dược giao. Số thu
năm sau tăng nhiều hơn năm trước, số thuế thu trong năm 1999 bằng khoảng 9,7 lần số
thuế thu năm 1990. Trước đây thuế chỉ đảm bảo 50% - 60% tổng số thu NSNN, đến nay
đã chiếm trên 90%, nhờ vậy đã đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng
của NSNN, không phải phát hành cho chi tiêu hành chính nữa, đồng thời giảm bội chi
NSNN và dành được một phần tích lũy đáng kể cho phát triển kinh tế, góp phần đẩy lùi
lạm phát từ 3 con số trong những năm cuối thập kỷ 80, xuống còn 4% trong năm 1999,
tạo cơ sở ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, nhất là những người hưởng
lương hành chính - sự nghiệp, hưu trí, hưởng phụ cấp xã hội,.... Về cơ bản chính sách
thuế thường xuyên được xem xét, sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp với sự biến động
phức tạp về tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Những biện pháp về cải tiến, tổ chức
thực hiện cũng đã góp phần đáng kể vào thành tích trên, đặc biệt là việc thường xuyên
củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy đào tạo, rèn luyện cán bộ thuế theo 10 điều kỷ luật của
ngành. Tuy vậy, kết quả thu được còn chưa phản ánh đúng tình hình phát triển kinh tế. Cả
nước còn có đến 60% - 70% cơ sở kinh doanh được nộp thuế theo hình thức khoán, hiệp
thương, chủ yếu theo cảm tính, chưa đảm bảo kết quả thu thuế sát với hoạt động của từng
cơ sở, vừa lạm thu, vừa thất thu, đặc biệt là ở khu vực KTNQD. Số nợ đọng dây dưa kéo
dài đến hàng trăm tỷ đồng cũng là nguyên nhân gây thất thoát lớn cho NSNN. Tình hình
đóng góp giữa khu vực kinh tế nhà nước và KTNQD cũng cần được điều chỉnh. Tuy còn
thất thu nhưng khu vực kinh tế nhà nước chiếm khoảng 38% GDP, đã đóng góp khoảng
28% tổng số thu NSNN (loại trừ thuế xuất nhập khẩu, thu khấu hao, thu về dầu thô, xổ
số). Trong khi đó KTNQD chiếm khoảng 62% GDP, chỉ mới đóng góp 17% tổng số thu
NSNN. Như vậy KTNQD làm ra tổng sản phẩm quốc nội gấp 1,63 lần khu vực kinh tế
nhà nước nhưng lại đóng góp cho NSNN chỉ bằng 60% mức đóng góp của khu vực kinh
tế nhà nước [26, tr.11].
+ Về mục tiêu kinh tế:
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu
tố chủ quan (trang bị kỹ thuật, tiền vốn, trình độ quản lý,...) và khách quan (cung cầu, giá
cả, chính sách thuế,...) nhưng nhìn chung hệ thống thuế mới đã từng bước góp phần thực
hiện yêu cầu phục vụ có hiệu quả chủ trương giải phóng mọi khả năng tiềm tàng, bảo
đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy sắp xếp lại
tổ chức sản xuất, kinh doanh, tăng cường hạch toán kinh tế, tăng năng suất, hạ giá thành,
nâng cao hiệu quả kinh tế, khắc phục tình trạng lãi giả, lỗ thật trong khu vực kinh tế nhà
nước. Phát huy tác dụng hướng dẫn phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông có lợi cho
quốc kế dân sinh, góp phần khuyến khích đầu tư vốn, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, phục
vụ xuất khẩu và các chương trình lớn, khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong
nước và tranh thủ hợp tác với nước ngoài, vừa coi trọng bảo vệ sản xuất nội địa,...
Tuy nhiên, từ thói quen thực hiện lâu dài chế độ tập trung, bao cấp, chúng ta còn
đánh giá quá cao vai trò thuế qua chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong cơ chế thị
trường. Do đó, một số loại thuế được xây dựng quá nhiều mức thuế suất khác nhau, quá
phức tạp, vừa phân biệt theo nguyên liệu, ngành nghề, theo công dụng, vừa theo tính chất
lý, hóa của từng mặt hàng, với mức thuế suất chênh lệch nhau đến 5 - 7 lần, nhưng lại
không có được những tiêu chuẩn đầy đủ, rõ ràng, thiếu phương tiện kiểm hóa để xác định
đúng mã số thuế, dẫn đến tình trạng hiểu thế nào cũng được làm thế nào cũng đúng, tạo
cơ sở phát sinh tùy tiện, tiêu cực.
Nhiều thuế suất xây dựng quá cao nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng nhưng thực
tế lại thúc đẩy việc trốn lậu thuế, dẫn đến tình trạng "dân kêu thuế nặng, Nhà nước phê
phán thuế bị thất thu". Trong luật thuế lại quy định nhiều trường hợp được xem xét, miễn
giảm thuế, tạo tâm lý phổ biến cho nhiều doanh nghiệp là cố tìm vài khía cạnh để có thể
"xin" và được xem xét miễn giảm thuế. Một người được miễn giảm thuế, để kéo theo nhiều
trường hợp phải giải quyết, vì cán bộ có thẩm quyền khó có đủ lý lẽ, hiểu biết, số liệu,
tình hình để bác bỏ, thậm chí có cả trường hợp bị áp lực từ nhiều phía, khó có thể công
minh. Kết quả là miễn giảm tràn lan, gây tiêu cực và thất thu cho ngân sách.
Quan điểm bảo vệ sản xuất nội địa kéo dài, một chiều, qua thuế suất thuế nhập
khẩu, thuế suất thuế GTGT, vừa gây thiệt hại cho nhân dân (phải tiêu dùng hàng xấu, giá
cao) vừa không thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm cải tiến mẫu mã, nâng cao chất
lượng, hạ giá thành, giá bán để tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh trong thị
trường nội địa và hội nhập quốc tế. Trong thuế GTGT có nhiều trường hợp thu chồng
chéo, làm tăng giá, tác động không tốt đến sản xuất, kinh doanh,... Không ít trường hợp
vì yếu tố thuế, giá bán hàng quá cao, không được xã hội chấp nhận nên thuế gián thu trở
thành gánh nặng của thuế trực thu mà cơ sở kinh doanh phải chịu để có thể tiêu thụ được
hàng hóa.
+ Về mục tiêu xã hội:
Chính sách thuế mới được áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế đã
cơ bản bảo đảm được sự động viên đóng góp bình đẳng và thực hiện công bằng xã hội.
Người có thu nhập cao, nộp thuế TNDN và thuế thu nhập đối với những người có thu
nhập cao nhiều hơn những người có thu nhập thấp nhưng vẫn đảm bảo được hưởng số
thu nhập còn lại cao hơn, thậm chí cao hơn nhiều so với người làm ăn lười biếng. Thông
qua kết quả thu thuế, Nhà nước có thêm điều kiện giải quyết nhiều việc mang tính xã hội:
xóa đói giảm nghèo; giúp đỡ khắc phục thiên tai.
Tuy vậy, trong hoàn cảnh còn nhiều cơ sở kinh doanh được nộp thuế theo hiệp
thương, mức thuế phải nộp cao hay thấp tùy vào "thế mạnh" của cán bộ thuế hay người
nộp thuế, có trường hợp người có doanh thu cao, thu nhập lớn lại chỉ phải nộp thuế ít và
ngược lại.
Việc đánh thuế TNDN bổ sung chưa khuyến khích người làm ăn giỏi, có thu
nhập cao. Trong căn cứ tính thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao chưa có
sự xem xét đến hoàn cảnh gia đình (độc thân hay đông người ăn theo), đến các chi phí bỏ
ra để có thu nhập đánh thuế (học tập, nâng cao tay nghề) do đó chưa đảm bảo sự công
bằng hợp lý [26, tr. 10-12].
yêu cầu chủ yếu của hệ thống thuế:
Từ những mục tiêu cơ bản, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống chính sách thuế và
từng sắc thuế là:
+ Phải bao quát hết nguồn thu để kiểm kê, kiểm soát và thu đúng, thu đủ cho
NSNN;
+ Góp phần khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển theo định hướng của Nhà
nước trong từng thời kỳ;
+ Đảm bảo tính bình đẳng và công bằng xã hội;
+ Phải rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra;
+ Chi phí hành thu thấp.
- Nội dung cơ bản của một số sắc thuế chủ yếu đối với KTNQD:
Nhằm bao quát mọi đối tượng phải thu thuế, đảm bảo tính công bằng trong động
viên điều tiết tiền thuế và đáp ứng yêu cầu thu của ngân sách, hệ thống thuế hiện nay ở
nước ta bao gồm các sắc thuế sau:
Thuế GTGT; Thuế TTĐB; Thuế XNK; Thuế tài nguyên; Thuế TNDN; Thuế thu
nhập đối với những người có thu nhập cao; Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thuế nhà đất;
Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Thuế môn bài.
Mỗi sắc thuế có chức năng, tác dụng, đối tượng nộp khác nhau nhưng có mối liên
hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau; giữa thuế trực thu và thuế gián thu để phát huy tác dụng
toàn diện của hệ thống thuế.
Ngoài ra, còn một số khoản thu mang tính chất lệ phí, nhằm động viên sự đóng
góp cho NSNN vừa mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí thực hiện một số thủ
tục hành chính.
Một số loại thuế chủ yếu đối với khu vực KTNQD:
+ Thuế môn bài: [7]
Thuế môn bài mang tính chất là loại thuế trực thu, động viên sự đóng góp trực
tiếp của cơ sở kinh doanh tạo được nguồn thu quan trọng cho nhu cầu chi tiêu của NSNN
ngay từ đầu mỗi năm khi các nguồn thu khác chưa nhiều. Thuế môn bài còn có tác dụng
kiểm kê, kiểm soát các cơ sở kinh doanh, có căn cứ phân loại quy mô kinh doanh để áp
dụng biện pháp quản lý cho phù hợp.
Thuế môn bài áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân có thực tế kinh doanh. Thuế
thu mỗi năm một lần và chủ yếu thu vào đầu năm. Những cơ sở kinh doanh hoạt động
trong 6 tháng đầu năm phải nộp mức thuế môn bài cả năm. Nếu bắt đầu hoạt động trong 6
tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế cả năm.
Mức thuế môn bài hàng năm được quy định trong biểu thuế đối với các doanh
nghiệp và đối với các hộ kinh doanh tương ứng với số thu nhập bình quân tháng của cơ
sở. Mức thuế từ 25.000đ đến 850.000đ một năm.
Các tổ chức, cá nhân kinh doanh phải nộp thuế môn bài trong thời hạn quy định
theo mức thuế cơ quan thuế ghi trong thông báo. Nếu thay đổi địa điểm, ngành nghề, mặt
hàng kinh doanh đã ghi trong thẻ môn bài, cơ sở kinh doanh phải báo ngay cho cơ quan
thuế biết để thay đổi thẻ môn bài mới cho phù hợp với ngành nghề kinh doanh.
Với mục đích kiểm kê, kiểm soát tất cả các cơ sở thực tế kinh doanh, thuế môn
bài không có quy định miễn giảm thuế.
+ Thuế GTGT: [27], [8], [1]
Thuế GTGT tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh ở
từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. Thuế GTGT được hoàn đối với
hàng hóa xuất khẩu sẽ phát huy tốt tác dụng khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện cho
hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế; thuế GTGT kết hợp với hàng
nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu; góp phần tích cực bảo vệ hàng sản
xuất trong nước; tăng cường hạch toán kế toán kinh doanh, thúc đẩy việc mua bán hàng
hóa thực hiện tốt chế độ hóa đơn để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào; khuyến khích
hiện đại hóa, chuyên môn hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm,...
Đối tượng đánh thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam, kể cả
hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, hàng tiêu dùng nội bộ hoặc làm quà biếu,
quà tặng đem trao đổi (không thanh toán bằng tiền), trừ 26 nhóm mặt hàng quy định
trong Luật thuế GTGT (như hàng nông sản tự sản xuất, tự chăn nuôi của người nông dân
trực tiếp bán ra, các dịch vụ không mang tính chất kinh doanh, dịch vụ công cộng, dịch vụ
y tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, thông tin đại chúng,...).
Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh mọi ngành
nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ thuộc mọi thành phần
kinh tế, hoạt động các ngành hàng, dịch vụ thuộc diện đánh thuế GTGT.
Giá tính thuế GTGT là giá chưa có thuế GTGT. Khi bán hàng hoặc cung cấp dịch
vụ, trên hóa đơn phải ghi rõ giá bán hàng (hoặc giá dịch vụ) chưa có thuế GTGT, tiền
thuế GTGT phải nộp và giá bán gồm cả thuế GTGT (tổng giá thanh toán). Đối với hàng
nhập khẩu là giá tính thuế hàng nhập khẩu (giá CIF hoặc giá do Bộ Tài chính quy định)
cộng (+) với thuế nhập khẩu (nếu có). Giá tính thuế đối với hoạt động hưởng hoa hồng là
tiền hoa hồng được hưởng chưa trừ khoản phí tổn nào từ hoạt động này. Riêng đối với
các loại hàng hóa, dịch vụ mang tính đặc thù, dùng các chứng từ thanh toán gồm cả thuế
GTGT (như vé cước tàu xe, tem bưu điện, giá bìa sách,...) thì giá ghi trên chứng từ thanh
toán hoặc giá bìa sách được công nhận là giá đã có thuế GTGT; cần quy đổi tìm giá chưa có
thuế GTGT làm căn cứ tính thuế.
Thuế suất thuế GTGT có 4 mức: 0% (áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ thực tế xuất
khẩu); 5% đối với những hàng hóa dịch vụ cần thiết cho nhu cầu đời sống và sản xuất;
20% đối với hàng hóa dịch vụ cần điều tiết cao; 10% đối với đại bộ phận các mặt hàng và
dịch vụ.
Thuế GTGT được thực hiện theo hai phương pháp: khấu trừ và trực tiếp. Phương
pháp thu có khấu trừ áp dụng đối với mọi cơ sở kinh doanh phải thực hiện chế độ hóa
đơn GTGT và sổ sách kế toán, có căn cứ xác định thuế đầu ra và thuế đầu vào để thực
hiện chế độ khấu trừ thuế. Phương pháp thu trực tiếp được thực hiện đối với các cơ sở
kinh doanh không có điều kiện thực hiện chế độ hóa đơn GTGT, sổ sách kế toán, chủ yếu
áp dụng đối với hộ nhỏ, thuế tính theo tỷ lệ giá trị gia tăng trên doanh thu khoán, trong
thời gian từ
6 tháng đến 1 năm.
Thuế GTGT chỉ thực hiện việc khấu trừ thuế đầu vào đã nộp của hàng hóa,
nguyên nhiên vật liệu, TSCĐ, dịch vụ đầu vào dùng để sản xuất, kinh doanh dịch vụ
thuộc đối tượng đánh thuế GTGT khi bán hàng ra.
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ đối hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu và dịch
vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa tính thuế GTGT, phát sinh trong tháng nào
thì được kê khai khấu trừ khi xác định thuế GTGT phải nộp của tháng đó, không phân
biệt đã xuất dùng, bán ra hay còn trong kho.
Nếu số thuế GTGT được khấu trừ trong tháng lớn hơn số thuế GTGT đầu ra của
tháng đó thì số thuế GTGT nộp thừa còn lại sẽ được chuyển để tiếp tục khấu trừ trong
tháng sau hoặc được xét hoàn thuế theo quy định trong chế độ.
Đối với hàng hóa dịch vụ đầu vào mua trong nước hoặc nhập khẩu, sử dụng đồng
thời cho cả hoạt động thuộc diện chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT, cơ sở kinh
doanh chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất,
kinh doanh hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT.
Đối với hàng hóa là nông, lâm, thủy sản chưa qua chế biến mua của người sản
xuất mà không có hóa đơn GTGT, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ đối với các cơ sở
sản xuất, chế biến theo tỷ lệ % đã được quy định trong Nghị định của Chính phủ về "Quy
định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT" [10].
Đối với TSCĐ, về nguyên tắc việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với TSCĐ
được áp dụng tương tự như đối với vật tư, hàng hóa và dịch vụ. Nhưng nếu khấu trừ liên
tục trong 3 tháng mà số thuế GTGT đầu vào vẫn chưa được khấu trừ hết thì cơ sở kinh
doanh được làm thủ tục đề nghị cơ quan thuế xét hoàn lại hết số thuế GTGT đầu vào
chưa được khấu trừ theo chế độ.
Điều kiện chung để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào là cơ sở kinh doanh phải
thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ; hàng hóa, dịch vụ mua vào
phải có hóa đơn GTGT hay chứng từ thanh toán đặc thù; hàng hóa vật tư nhập khẩu phải
có chứng từ nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu; hàng nông, lâm, thủy sản phải có bảng kê
thu mua theo mẫu quy định; trên hóa đơn ghi rõ số thuế GTGT đầu vào.
Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được xét hoàn
thuế khi cơ sở kinh doanh có lũy kế số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số
thuế GTGT đầu ra phát sinh liên tục 3 tháng (không phân biệt niên độ kế toán) hoặc sau
khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể có số thuế GTGT nộp thừa.
Đối với cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc xuất khẩu theo
từng lần với số lượng lớn, phát sinh số thuế đầu vào được khấu trừ cao, thì được hoàn
thuế GTGT theo từng kỳ hoặc theo tháng.
Cơ quan thuế phải xác định số thuế phải hoàn và ra quyết định hoàn thuế trong
vòng 15 ngày (tối đa là 30 ngày) kể từ ngày nhận hồ sơ xin hoàn thuế hợp pháp, đầy đủ.
Ngoài ra trong luật thuế GTGT còn quy định một số trường hợp miễn giảm thuế
như: một số hàng hóa, dịch vụ sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn; hộ cá thể nghỉ
kinh doanh trong tháng từ 15 ngày trở lên; những cá nhân kinh doanh có thu nhập bình
quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
+ Thuế TNDN: [28], [9], [2]
Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập có được của một doanh
nghiệp trong một kỳ sản xuất kinh doanh nhất định (gồm thu nhập kinh doanh và các thu
nhập khác). Có nhiều nước trên thế giới gọi thuế này là thuế thu nhập công ty. Dù tên gọi
có thể khác nhau nhưng nội dung cơ bản thì đều giống nhau: đánh vào thu nhập sau khi
đã trừ chi phí hợp lý [12, tr. 93].
Việc ban hành Luật thuế TNDN nhằm bao quát và điều tiết được tất cả các khoản
thu nhập đã, đang và sẽ phát sinh của cơ sở kinh doanh trong cơ chế thị trường; khuyến
khích các nhà đầu tư nước ngoài và khuyến khích các tổ chức cá nhân trong nước tiết
kiệm vốn cho đầu tư phát triển kinh doanh qua các chế độ miễn, giảm thuế; từng bước
thu hẹp sự khác biệt về chính sách thuế để đảm bảo sự bình đẳng và cạnh tranh lành
mạnh giữa các thành phần kinh tế; hệ thống hóa những quy định ưu đãi về thuế trong
nhiều Luật khác nhau, bảo đảm sự rõ ràng thống nhất trong việc thực hiện các chế độ ưu
đãi thuế.
Đối tượng đánh thuế TNDN là TNCT phát sinh trong năm kinh doanh của doanh
nghiệp, từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các khoản thu nhập khác, kể cả thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài.
Đối tượng nộp thuế TNDN là các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ có TNCT.
Đối tượng không thuộc diện chịu thuế TNDN là các hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp
tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng thủy sản (trừ hộ gia đình, cá nhân, nông dân sản xuất hàng hóa lớn có thu nhập cao
theo quy định của Chính phủ). Ngoài ra đối với Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà
Chính phủ Việt Nam ký kết có quy định khác thì thực hiện theo quy định đó.
TNCT từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là khoản chênh lệch giữa
doanh thu với các khoản chi phí hợp lý được trừ, có liên quan đến TNCT.
TNCT khác bao gồm: thu nhập từ chênh lệch mua bán chứng khoán, quyền sở
hữu, quyền sử dụng tài sản; lãi về chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản; lãi tiền gởi,
cho vay vốn, bán ngoại tệ; kết dư cuối năm các khoản dự phòng; thu các khoản nợ khó
đòi đã xử lý xóa sổ nay đòi được; thu các khoản nợ phải trả không xác định được chủ nợ;
các khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót nay mới phát hiện ra và
các khoản thu nhập khác.
Doanh thu để xác định TNCT là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền cung
ứng dịch vụ, kể cả trợ giá, phụ thu. Nếu có doanh thu bằng ngoại tệ, thì phải quy đổi
ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
công bố tại thời điểm thu ngoại tệ.
Các khoản chi phí hợp lý được trừ để xác định TNCT là những khoản chi phí về
vật chất, thực tế có liên quan đến doanh thu, TNCT trong năm, với mức hợp lý theo các
văn bản pháp quy của Nhà nước hiện hành.
Không được tính vào chi phí hợp lý các khoản sau đây: chi phí trích trước mà
thực tế không chi; các khoản chi không có chứng từ hoặc chứng từ không hợp lệ; các
khoản tiền phạt; các khoản chi không liên quan đến doanh thu, TNCT trong năm; các
khoản chi do các nguồn vốn khác đài thọ.
Theo nguyên tắc chung thuế suất thuế TNDN áp dụng đối với các cơ sở sản xuất
kinh doanh trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không
theo Luật đầu tư nước ngoài là 32%. Cơ sở kinh doanh có địa điểm kinh doanh thuận lợi,
ngành nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh, sau khi đã nộp thuế TNDN theo thuế suất ổn
định 32% mà thu nhập còn lại vẫn cao thì phải nộp thuế TNDN bổ sung đối với phần thu
nhập còn lại vượt 20% vốn chủ sở hữu tại thời điểm quyết toán, với thuế suất thuế TNDN bổ
sung là 25% [11], [4].
Ngoài ra, để khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư
theo chiều sâu; các cơ sở hoạt động ở những vùng miền núi, hải đảo; vùng sâu, vùng xa,
vùng có khó khăn;... Luật thuế TNDN thể hiện sự ưu đãi qua chế độ miền, giảm thuế.
Hơn nữa các doanh nghiệp còn được chuyển lỗ sang năm sau nếu thực sự trong năm kinh
doanh bị lỗ và thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm.
- ý nghĩa và đặc điểm của quản lý thu thuế NQD:
ý nghĩa của quản lý thu thuế NQD:
Trong công tác quản lý thu thuế và phí hiện nay, thuế công thương nghiệp NQD
tuy không chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN chỉ ở
mức 17% [26, tr. 11-12], nhưng lại là lĩnh vực khó khăn phức tạp hơn cả. Công tác quản
lý thu thuế NQD không chỉ đơn thuần phục vụ cho mục tiêu thu ngân sách mà chính là
thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước đối với khu vực KTNQD; thông qua công cụ thuế
thực hiện yêu cầu quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Quản lý thu thuế NQD
có vai trò quan trọng trong việc đưa chính sách, pháp luật vào hoạt động kinh doanh và
phát huy tác dụng của chính sách. Quản lý thu thuế NQD không chỉ góp phần tăng thu
cho ngân sách mà còn góp phần đảm bảo thực hiện công bằng xã hội và tạo sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Trên cơ sở
quan niệm và tiếp cận KTNQD từ góc độ thuế, quản lý thu thuế NQD có một số ý nghĩa
chủ yếu sau:
+ Thông qua công tác thuế đã góp phần tích cực trong việc tạo môi trường kinh
tế, pháp lý và tạo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh; thực hiện chức năng kiểm
soát, định hướng phát triển của Nhà nước đối với khu vực KTNQD; thúc đẩy nền kinh tế
hàng hóa phát triển nhanh chóng và đúng hướng; thúc đẩy cơ sở thực hiện hạch toán kinh
doanh, huy động triệt để nguồn vốn ngày càng có hiệu quả, sử dụng nguồn lao động, thiết
bị tốt hơn, từ đó tạo bước chuyển biến mới trên lĩnh vực tài chính.
+ Công tác thuế đã góp phần quan trọng phát huy mặt tốt của kinh tế thị trường
và hạn chế những mặt trái của nó:
Đất nước ta, nhiều năm qua đã thực hiện mô hình kinh tế thị trường, bên cạnh những
ưu điểm đã bộc lộ rõ những khuyết tật lớn, đó là phân hóa thu nhập giữa các tầng lớp dân
cư, là điều kiện để phát sinh tệ nạn tham nhũng, tha hóa bản chất đạo đức của con người,
do kinh doanh chạy theo lợi nhuận bất chấp cả luật pháp. Hoạt động quản lý thu thuế đã
góp phần hạn chế những mặt trên, thông qua thu thuế đã góp phần điều tiết thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã hội, định hướng cho KTNQD phát
triển có lợi cho nền kinh tế quốc dân và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh
doanh.
+ Quản lý thu thuế NQD còn giáo dục ý thức và trách nhiệm của công dân trong
việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Thông qua công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật thuế đã làm cho người dân hiểu được những quy định của Nhà nước và tự giác chấp
hành. Các đối tượng nộp thuế thuộc khu vực KTNQD rất đa dạng, nhiều nơi trình độ dân
trí chưa cao, ý thức chấp hành luật pháp của dân chưa nghiêm, sự hiểu biết về pháp luật
và nhận thức về trách nhiệm nghĩa vụ công dân chưa đầy đủ, thông qua quản lý thu thuế
cán bộ, nhân viên ngành thuế đã truyền đạt chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước,
giới thiệu, giải thích chính sách thuế và sự cần thiết của thuế trong sự tồn tại và phát triển
của đất nước cho người dân nói chung và đối tượng nộp thuế nói riêng để mọi công dân
tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước, dần dần đã góp phần nâng cao thêm ý
thức chấp hành luật pháp của người dân. Đồng thời thông qua công tác tuyên truyền pháp
luật thuế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thu thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ,
thu kịp thời tiền thuế vào ngân sách, đó chính là mục tiêu phấn đấu của ngành thuế.
Đặc điểm của quản lý thu thuế NQD:
+ Trình độ của đối tượng nộp thuế phổ biến thấp, do đó sự hiểu biết pháp luật
cũng như ý thức chấp hành pháp luật kém;
+ Số lượng cơ sở lớn nhưng số thu vừa nhỏ, vừa phân tán. Theo số liệu thống kê
của 48 tỉnh, thành trong cả nước tính đến 31/05/2001 thì số doanh nghiệp được cấp đăng
ký kinh doanh là 35.886; hộ kinh doanh là 804.772, nhưng số thu không nhiều, hiện
tượng thất thu thuế còn phổ biến. Biểu hiện, khu vực kinh tế này tạo nên 62% GDP
nhưng đóng góp khoảng 17% tổng thu NSNN [26, tr. 11-12];
+ Nằm rải rác, phân tán nên rất khó cho cơ quan thuế trong quá trình thực hiện
quản lý thu thuế;
+ Nặng tư tưởng thu lợi cá nhân, nên không ít người luôn tìm cách chống đối thậm
chí quyết liệt những cán bộ, nhân viên thuế thực thi nhiệm vụ được giao.
+ ở Việt Nam, hệ thống sổ sách, hóa đơn, chứng từ, kế toán... của KTNQD vừa
yếu kém, vừa lỏng lẻo làm cho quản lý thu thuế càng khó khăn, phức tạp, hiệu quả thấp.
1.3. Kinh nghiệm quản lý thuế ngoài quốc doanh ở một
số nước
ở hầu hết các quốc gia, KTNQD là chủ yếu, do đó nguồn thu cho NSNN từ thuế
cũng chủ yếu ở khu vực kinh tế này. Trên nhiều góc độ khác nhau, từ nhiều nguồn tài liệu
và các báo cáo khảo sát của các nghiên cứu về quản lý thu thuế ở các nước, cả nước phát
triển hoặc có điều kiện tương tự như Việt Nam, kinh nghiệm quản lý thu thuế đối với
KTNQD được khái quát gồm:
- Trước khi bắt đầu hoạt động cơ sở phải kê khai, đăng ký thuế và nhận một mã
số riêng cho từng đơn vị, được ghi vào máy vi tính. Mọi hoạt động kinh doanh đều phải
được thường xuyên bổ sung vào hồ sơ theo mã số hóa của đơn vị, thuận tiện cho việc tra
cứu và xác định các căn cứ tính toán các loại thuế.
- Mọi đơn vị kinh doanh lớn và vừa phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn,
sổ sách kế toán. Trong hóa đơn ghi rõ mã số của đơn vị bán hàng để thuận tiện cho việc
tra cứu khi cần thiết.
- Chính sách thuế được quy định rõ ràng đầy đủ. Có quá trình phổ biến kỹ cho cơ
sở sản xuất kinh doanh. Từ đó cơ sở có thể tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp
thuế. Cán bộ thuế chỉ làm công tác kiểm tra các đơn vị nghi vấn và đề nghị xử lý khi có
vi phạm. Một nguyên tắc có tính bất di, bất dịch là cán bộ thuế không trực tiếp thu tiền
thuế để tránh tiêu cực.
- Khi một đơn vị kinh doanh không nộp thuế đúng quy định, bị cưỡng chế thuế
qua hình thức trích tiền trong tài khoản ngân hàng, kê biên tài sản bán đấu giá... Trường hợp
vi phạm nặng, lập hồ sơ chuyển sang tòa án hành chính. Tòa án này có chức năng xử lý vi
phạm nặng về thuế, vừa có chức năng làm trung gian giải quyết những vụ khiếu nại cán bộ
thuế có những quyết định về thuế hoặc xử phạt thiếu khách quan, chưa đúng Luật. Mặt
khác, cơ quan này còn áp dụng các biện pháp mềm dẻo, nhân đạo như: cho người nợ thuế
nộp dần, có lưu ý chiếu cố đến những trường hợp khó khăn, tạo điều kiện về mặt tinh thần để
họ yên tâm phấn đấu thực hiện tốt hơn. Với hoàn cảnh dân trí ở nước ta còn thấp, ý thức
về nghĩa vụ nộp thuế chưa cao, đây cũng là vấn đề nước ta cần tham khảo.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ được tiến hành rộng rãi, thường
xuyên thông qua việc đăng đầy đủ các văn bản về thuế trên các sách, báo, phát thanh, truyền
hình và các tờ rơi tóm tắt văn bản đầy đủ, gọn những việc cơ sở sản xuất kinh doanh phải
làm. Ngoài ra, cơ quan thuế các cấp có tổ chức bộ phận tư vấn, giải đáp, hướng dẫn đầy đủ
những nội dung hiện hành về thuế cho các cơ sở nhằm tạo điều kiện cho công tác quản lý thu
thuế có hiệu quả cao.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ quản
lý thu thuế là một vấn đề được các nước đặc biệt quan tâm. Phương thức đào tạo bồi
dưỡng được tiến hành theo bốn cấp: cơ bản, nâng cao, chuyên gia, chuyên đề. Công tác
quản lý thu thuế có những biện pháp thủ thuật riêng và những bí quyết để chống lại các
hoạt động trốn, lậu thuế có hiệu quả. Vì vậy, sau khi tuyển chọn qua các kỳ thi, từ sinh
viên tốt nghiệp các trường đại học Tài chính, Kinh tế, Luật,... cơ quan thuế tổ chức bồi
dưỡng thêm kiến thức về thuế theo chức danh, sau đó mới bố trí vào những vị trí công tác
cụ thể. Các kỳ thi đánh giá chất lượng quyết định nâng ngạch, bậc cũng được tổ chức
nghiêm túc, chặt chẽ, khách quan.
Đối với cán bộ quản lý thu thuế có nhiều kinh nghiệm, kiến thức về thuế vẫn có
sự tiếp tục bồi dưỡng qua các kỳ học chuyên đề, hoặc gởi vào các trường để bồi dưỡng
thêm về lý luận. Xây dựng quy chế đào tạo, bồi dưỡng một cách thiết thực, kết hợp đào
tạo trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế
để có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Chế độ tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ thuế khá cao nhưng việc xử lý vi
phạm cũng rất nghiêm minh để chống tiêu cực trong ngành.
- Cơ quan thuế được trang bị đầy đủ phương tiện làm việc: trụ sở, phương tiện đi
lại, mạng vi tính từ cơ quan thuế cấp cao nhất đến cấp cơ sở để cung cấp các thông tin về
quản lý thu thuế một cách kịp thời lên cơ quan thuế cấp trên, tạo tiền đề cho quá trình
quản lý thu thuế đạt hiệu quả cao.
Để quản lý thu thuế NQD tốt, hiệu quả, kinh nghiệm trên đây đối với nước ta nói
chung, với tỉnh Quảng Ngãi nói riêng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, lựa chọn cho phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
Tuy nhiên, những kinh nghiệm quản lý thu thuế nói chung, thu thuế NQD nói
riêng của các quốc gia, dù vận dụng trong điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau trên mỗi địa
bàn tỉnh, thành ở nước ta thì nội dung chủ yếu cần nghiên cứu, cần tập trung đổi mới
hoàn thiện có thể gồm các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế và hệ thống thuế suất phù hợp với cơ chế thị
trường và thông lệ, tập quán khu vực cũng như thế giới.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý thu thuế nói chung, với KTNQD nói riêng trên cả ba
mặt: hoạch định chính sách thuế; thu thuế; thanh tra, kiểm tra thu, nộp thuế.
- Nâng cao năng lực, hiệu lực bộ máy quản lý thuế và trình độ cán bộ quản lý thu
thuế.
- Hiện đại hóa từng bước cơ sở vật chất kỹ thuật ngành thuế nói chung, cho mỗi
địa bàn tỉnh, thành nói riêng.
Chương 2
Thực Trạng Quản Lý THU Thuế
Ngoài quốc doanh TRÊN Địa Bàn Tỉnh Quảng Ngãi
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi
2.1.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Quảng Ngãi nằm ở vùng duyên hải miền Trung, là một tỉnh được chia tách từ
tỉnh Nghĩa Bình vào năm 1989, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp tỉnh Bình
Định, phía Tây Nam giáp với Kon Tum bởi chi nhánh của dãy Trường Sơn, phía Đông
giáp biển Đông với bờ biển dài 130 km. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là: 5.131,5 km2 được
phân bổ thành ba khu vực: đồng bằng - trung du, miền núi và hải đảo. Đồng bằng có diện
tích đất tự nhiên 1.896,22 km2, chiếm khoảng 36% diện tích đất tự nhiên của tỉnh, khu vực
miền núi có diện tích đất tự nhiên là 3.225,23 km2, chiếm 63,7%, hải đảo có diện tích đất tự
nhiên là 9,96 km2, chiếm 0,3%. Dân số Quảng Ngãi tính đến năm 2000 khoảng 1.223.390
người, mật độ dân số 237 người/km2. Toàn tỉnh có 13 huyện, thị xã, trong đó 1 thị xã
Quảng Ngãi với diện tích 37,13 km2 dân số 111.984 người, mật độ dân số 3.016
người/km2; còn lại 13 huyện diện tích 5.094,37 km2, dân số 1.111.406 người, mật độ dân
số 218 người/km2. Thời tiết ở Quảng Ngãi có hai mùa nắng mưa rõ rệt, nhiệt độ trung
bình các tháng trong năm là 25,70C, lượng mưa các tháng trong năm là: 2.504mm -
3.500mm, độ ẩm trung bình là 86%, số giờ nắng khoảng 2000 giờ/năm.
Quảng Ngãi có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua, ngoài ra còn có
quốc lộ 24A nối Quảng Ngãi với Tây Nguyên, đồng thời có cảng biển sâu Dung Quất.
Chính vị trí địa lý này là tiền đề để kinh tế Quảng Ngãi nói chung, KTNQD nói riêng
phát triển ngày càng mạnh hơn trong tương lai, nhất là khi cảng biển sâu Dung Quất hoàn
thành [34], [20].
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Lịch sử phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi gắn liền với lịch sử phát triển của
các tỉnh duyên hải miền Trung nói riêng và của cả nước nói chung. Vì vậy, hoạt động
kinh tế chủ yếu của tỉnh Quảng Ngãi trong những năm qua là sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp còn kém phát triển, thương mại, dịch vụ nhỏ là chủ yếu. Bởi lẽ, hậu quả của chiến
tranh để lại nặng nề, dẫn đến cơ sở hạ tầng thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, hơn
nữa một thời gian dài trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp nên
kinh tế của tỉnh không phát triển được, nông nghiệp thì lại lạc hậu về kỹ thuật, do vậy từ
ngày tách tỉnh đến nay Quảng Ngãi luôn là một tỉnh nghèo trong cả nước, số thu ngân
sách hàng năm không nhiều, khoảng 180 tỷ đồng.
Tuy vậy, trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cấp chính quyền
cùng với tinh thần lao động cần cù chịu khó vốn là đặc tính của người dân Quảng Ngãi nên
kinh tế trong tỉnh có những bước chuyển biến đáng kể. Cụ thể: Tổng GDP theo giá so sánh
năm 1994 từ năm 1991 - 2000 lần lượt như sau:
Bảng 2.1: GDP của tỉnh Quảng Ngãi theo giá 1994
ĐVT: 1.000.000.000đ
Năm GDP Năm GDP
1991 1.116,2 1996 1.701,7
1992 1.142,5 1997 1.855,4
1993 1.210,7 1998 2.004,9
1994 1.347,8 1999 2.141,3
1995 1.512,7 2000 2.223,21
Nguồn: [13], [14].
Kinh tế của tỉnh trong những năm qua vẫn nặng về sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng và khai thác thủy sản, cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng giảm dần
nông, lâm, thủy sản, tăng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Cụ thể được so sánh ở bảng
sau:
Bảng 2.2: Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế từ năm 1996 - 2000
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000
Nông, lâm, thủy sản 47,9% 43,7% 44,4% 43,2% 40,2%
Công nghiệp, xây dựng 16,7% 18,1% 18,6% 20,2% 23%
Dịch vụ 35,5% 38,2% 37% 36,6% 36,8%
Nguồn: [14].
2.2. Thực trạng KTNQD và quản lý thu thuế NQD địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
trong những năm 1999 - 2001 [15], [16], [18], [17]
2.2.1. Thực trạng KTNQD - ảnh hưởng đến quản lý thu thuế NQD trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi
Những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, các
thành phần KTNQD phát triển mạnh. Theo số liệu thống kê, năm 2000 tốc độ tăng GDP
khu vực KTNQD là 18% so với năm 1999, 6 tháng đầu năm 2001 tốc độ tăng GDP là
17% so với cùng kỳ năm 2000.
Từ năm 2000, thực hiện Luật doanh nghiệp mới các doanh nghiệp NQD được
thành lập nhiều, đến năm 2001 khoảng 20.000 doanh nghiệp, bằng khoảng 50% số doanh
nghiệp được thành lập từ năm 1990 - 1999. Nhiều doanh nghiệp NQD có quy mô lớn về
vốn, lao động, phạm vi kinh doanh rộng cả về ngành nghề và địa bàn trong đó có nhiều
doanh nghiệp được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp liên doanh
với cả nước ngoài.
Khu vực hộ kinh doanh cá thể cũng có sự tăng trưởng đáng kể, hàng chục nghìn
hộ kinh doanh trong các ngành nghề truyền thống nay có điều kiện phục hồi và phát triển
như: đồ mộc, mây tre đan, sành sứ...
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, là gốc của thu ngân sách. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây thu ngân sách từ khu vực KTNQD cũng chịu nhiều ảnh hưởng khách quan
như:
- Để khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách miễn, giảm thuế, ảnh hưởng làm giảm nguồn thu ngân sách của khu vực
KTNQD. Như kéo dài thời gian miễn giảm thuế đối với những cơ sở mới thành lập, mở
rộng diện được ưu đãi đầu tư, miễn giảm thuế đối với sản xuất phần mềm máy tính, miễn
thuế buôn chuyến đối với hàng hóa nông sản, không áp dụng thuế GTGT đối với hàng
hóa xuất khẩu, cả cho hàng hóa doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu chuyển tiếp...
- Giá cả hàng hóa nhìn chung không tăng, nhiều mặt hàng giá lại giảm, đặc biệt
là hàng hóa nông sản giá cả không tăng, vừa ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của các
cơ sở vừa làm giảm sức mua trên thị trường đã tác động đến công tác quản lý thu thuế nói
chung mọi cơ sở kinh doanh nói riêng.
- Nhiều địa phương do ảnh hưởng của thiên tai năm 2000 phải miễn, giảm thuế
cho các cơ sở kinh doanh tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh ổn định và phát triển, năm
2001 cũng đã xuất hiện nhiều thảm họa thiên tai đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn
thu thuế từ KTNQD.
- Với mục tiêu khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước thực hiện
nhiều cải cách hành chính nhằm đơn giản hóa các thủ tục thành lập cơ sở kinh doanh, xóa
bỏ nhiều loại giấy phép mà lâu nay cơ quan thuế thường dựa vào đó để quản lý thu.
Không ít cơ sở đã lợi dụng các quy định thông thoáng để thành lập cơ sở kinh doanh trốn
lậu thuế, kinh doanh theo kiểu chụp giựt, lừa đảo.
- Ngành thuế cũng phải tiếp tục thực hiện cải cách các thủ tục hành thu như: phân
cấp bớt cho Chi cục thuế quản lý một số doanh nghiệp, hạn chế công tác kiểm tra và khắc
phục kiểm tra chồng chéo, tinh giản biên chế, áp dụng quy trình quản lý mới chuyển từ
chức năng quản lý sang chức năng kiểm tra, giám sát, xóa bỏ cơ chế chuyên quản [32]...
Riêng đối với tỉnh Quảng Ngãi các cơ sở sản xuất kinh doanh khu vực KTNQD
thời gian qua đã có những bước chuyển biến, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh
tế ở địa phương. Biểu hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, có sự tăng trưởng nhanh về số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh.
Bảng 2.3: Sự phát triển của KTNQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
từ năm 1999 - 2001
Năm
Doanh nghiệp
tư nhân
Công ty trách
nhiệm hữu hạn
Công ty
cổ phần
Hộ kinh doanh
cá thể
1999 87 24 2 14.301
2000 138 46 6 15.270
2001 196 81 7 15.131
Nguồn: [15], [16], [18].
Thứ hai, phát triển theo lợi thế.
Bảng 2.4: Phân bổ cơ sở sản xuất kinh doanh NQD trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi theo ngành nghề hoạt động ở năm 2001
Loại hình
Công nghiệp, khai thác,
chế biến lâm, hải sản
Xây
dựng
Thương
mại
Dịch
vụ
Doanh nghiệp NQD 44 126 78 36
Hộ kinh doanh cá thể 4.972 0 5.793 4.366
Nguồn: [15], [16], [18].
Thứ ba, quy mô vốn đầu tư tăng nhanh: tính đến cuối năm 2001, tổng vốn đăng
ký kinh doanh của 284 doanh nghiệp NQD là 322.307triệu đồng; vốn đăng ký bình quân
của một doanh nghiệp là 1.134,8triệu đồng. Vốn bình quân của một hộ kinh doanh cá thể
là 21,8 triệu đồng. Mặc dù sự gia tăng về vốn theo thực tế kinh doanh ở mức đáng kể, so
với thời điểm năm 1996 thì số lượng vốn ở năm 2001 tăng khoảng 2,6 lần, nhưng so với
điều kiện kinh doanh hiện nay thì lượng vốn còn quá thấp, chưa đủ để đầu tư mở rộng,
mua sắm trang thiết bị hiện đại,... do đó hầu hết các cơ sở KTNQD đều có trình độ lạc
hậu và trung bình thấp trên tất cả các mặt. Vì vậy, số thuế thu được hàng tháng, hàng năm
không nhiều. Cụ thể:
Doanh nghiệp NQD: năm 2000 số thu bình quân 62,63 triệu đồng/ doanh nghiệp;
năm 2001 bình quân 38,42 triệu đồng/doanh nghiệp
Hộ kinh doanh cá thể số thu bình quân tháng: tháng 12/2000: 137.000đ/hộ; tháng
3/2001: 152.000đ/hộ; tháng 6/2001: 152.000đ/hộ.
Thứ tư, lao động phổ biến trình độ thấp: trình độ chuyên môn hầu hết đều ở dạng
lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, số lao động có trình độ chuyên môn chỉ đạt tỷ lệ
12%.
Thứ năm, trình độ quản lý thấp nhiều hạn chế: nhìn chung các chủ doanh nghiệp,
chủ hộ kinh doanh đều sử dụng kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều
chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo nhất là đối với hộ kinh doanh cá thể.
Thứ sáu, năng lực cạnh tranh yếu, kém, hạn chế, sản phẩm sản xuất chủ yếu tiêu
thụ tại địa phương; đối với các hộ kinh doanh chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực thương mại,
dịch vụ.
Do vậy, nên tỷ trọng thu thuế NQD trong tổng số thu ngân sách tỉnh Quảng Ngãi
trong những năm qua còn thấp, dẫu rằng tỷ trọng hàng năm đều tăng. Cụ thể:
Bảng 2.5: Quy mô và tỷ trọng thu thuế NQD trong NSNN
tỉnh Quảng Ngãi
ĐVT: 1.000.000đ
Năm Tổng thuế NQD Tổng thu ngân sách Tỷ lệ % so sánh
1998 30.690 167.352 18,33
1999 32.794 155.047 21,15
2000 38.815 149.663 25,93
2001 42.609 173.530 24,55
6 tháng/2002 23.054 94.463 24,4
Nguồn: [15], [16], [18], [19].
Song bên cạnh sự tích cực đó, do hình thành trên nền tảng là sản xuất nhỏ, nên
kinh nghiệm và trình độ quản lý của cơ sở kinh doanh còn thấp, tư tưởng ngại bỏ vốn đầu
tư, sợ công khai vốn, nặng tư tưởng thu lợi cho cá nhân, nên đã bộc lộ nhiều nhược điểm
trong hoạt động như:
+ ý thức thực hiện nghĩa vụ thuế chưa cao.
+ Trình độ quản lý thấp, chưa thực sự xem việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán,
hóa đơn chứng từ là công cụ để quản lý trong kinh doanh, đã dẫn đến nhiều trường hợp vi
phạm với mục đích trốn thuế thông qua những biểu hiện: không chấp hành chế độ sổ sách
kế toán, chứng từ hóa đơn; lợi dụng hóa đơn để gian lận trốn thuế...
Trước thực trạng trên Cục thuế tỉnh đã chủ động triển khai những biện pháp tích
cực, sát hợp trong từng nội dung, từng lĩnh vực, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các ngành
để quản lý đạt hiệu quả; mặt khác đã kịp thời chỉ đạo cho các đơn vị trong ngành thực hiện
nghiêm túc các quy trình nghiệp vụ của ngành nên đã khắc phục một bước tình trạng thất thu
thuế, góp phần tăng thu ngân sách.
Trong những năm qua để quản lý thu thuế khu vực KTNQD đạt hiệu quả cao,
Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi đã dựa vào những văn bản của cấp trên như:
Thực hiện Thông tư 110/1998/TT-BTC ngày 3/8/1998 của Bộ Tài chính hướng
dẫn việc sửa đổi, bổ sung cơ cấu bộ máy Cục thuế Nhà nước các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và Công văn 3669 TCT/TCCB ngày 23/10/1998 của Tổng cục Thuế
hướng dẫn thực hiện Thông tư 110/TT-BTC, Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi đã thành lập
phòng quản lý thu thuế NQD chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1999 và thực hiện
việc phân cấp quản lý thu thuế theo hướng dẫn của Tổng cục Thuế.
áp dụng quy trình quản lý thu thuế 1368 TCT/QĐ/TCCB ngày 16/12/1998 của
Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế đã chuyễn dần trách nhiệm kê khai, tính thuế và nộp
thuế sang đối tượng nộp thuế, kết quả đã tạo cho các cơ sở KTNQD có ý thức tự chủ hơn
trong trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, xóa đi những thành kiến
không tốt giữa cơ quan thuế, cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế như trước đây.
Trong quy trình quản lý, việc thiết kế chương trình phần mềm quản lý thuế về
phạt nộp chậm, phạt hành chính về chậm nộp tờ khai mang ý nghĩa rất quan trọng, đưa
dần các cơ sở kinh doanh công thương nghiệp, dịch vụ NQD vào nề nếp thực hiện nghĩa
vụ với NSNN. Do đó, tình hình nộp thuế của các cơ sở ở khu vực KTNQD trong thời
gian qua đã có nhiều tiến bộ, luôn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng số thu của
ngành thuế tỉnh Quảng Ngãi.
2.2.2. Thực trạng quản lý thu thuế khu vực KTNQD trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi
Quản lý thu thuế NQD trên cả nước nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng là
một công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cán bộ, nhân viên thuế
cũng như các cơ quan chức năng. Hơn nữa, trong thời gian qua từ 1999 - 2001 hình thức
quản lý đối tượng nộp thuế, thu thuế thường biến động theo những văn bản hướng dẫn
của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế; đồng thời sự gia tăng, thay đổi đối tượng nộp thuế
thường không đồng đều ở các năm. Vì vậy, trong phần thực trạng sẽ phân tích, đánh giá
theo từng năm. Cụ thể:
* Năm 1999:
Bảng 2.6: Kết quả thu ngân sách năm 1999 - Phân theo sắc thuế
ĐVT: 1.000.000đ
Chỉ tiêu T.hiện Dự toán 1999 T.hiện % so sánh
1998
Trung
ương
Tỉnh
1999 Dự
toán
trung
ương
Dự
toán
Tỉnh
Thực
hiện 19
98
1 2 3 4 5 6 = 5/3 7 = 5/4 8 = 5/2
Thuế môn bài 3.872 3.800 3.900 3853 101,4 98,8 99,5
Thuế TTĐB 17 200 550 304 152 55,3 1.788,2
Thuế GTGT
(D.Thu)
Trong đó: Thuế
doanh thu thu nợ
16.383 14.000 11.750 15.658
2.358
111,8 33,3 95,6
Thuế TNDN
Trong đó: Thuế
lợi tức thu nợ
8.174 11.000 12.650 12.310
809
111,9 97,3 150,6
Thuế tài nguyên 360 400 550 413 103,3 75,1 114,7
Thu khác 1.884 600 600 256 42,7 42,7 13,6
Tổng cộng 30.690 30.000 30.000 32.794 109,3 109,3 106,9
Nguồn: [15].
Bảng 2.7: Kết quả thu ngân sách năm 1999 - phân theo đơn vị thu
ĐVT: 1.000.000đ
TT Đơn vị Dự toán 1999 Thực hiện 1999
% so Dự toán
1999
1
Phòng quản lý doanh
nghiệp NQD
5.128,4 8.462 165
2 TX Quảng Ngãi 11.023,1 11.095 108
3 Huyện Bình sơn 2.253,3 1.913 89,4
4 Huyện Sơn Tịnh 2.468,7 2.096 84,9
5 Huyện Tư Nghĩa 2.719,4 2.317 85,2
6 Huyện Nghĩa Hành 679,7 730 107,4
7 Huyện Mộ Đức 1.899,8 1.915 100,8
8 Huyện Đức Phổ 2.900,1 2.787 96,1
9 Huyện Ba Tơ 353 245 69,4
10 Huyện Minh Long 125 72 57,6
11 Huyện Sơn Hà 500 494 98,8
12 Huyện Trà Bồng 450,06 338 75,1
13 Huyện Lý Sơn 270,02 236 87,4
14 Huyện Sơn Tây 91,97 94 102,2
Nguồn: [15].
Qua số liệu trên ta nhận thấy, tổng số thu năm 1999 trong khu vực KTNQD trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã tăng 9,3% so với dự toán Trung ương và tỉnh giao, tăng 6,9%
so với cùng kỳ năm 1998. Điều này chứng tỏ năm 1999 Cục thuế Quảng Ngãi đã hoàn
thành kế hoạch được giao. Đạt được kết quả trên chủ yếu nhờ vào các chuyển biến chủ
yếu sau:
Thứ nhất, chuyển việc quản lý thuế đối với các doanh nghiệp NQD từ các Chi
cục thuế huyện, thị lên Cục thuế cho nên việc tập trung kiểm tra quyết toán thuế năm
1998 để xác định nợ đọng và số phải nộp thêm so với báo cáo của các doanh nghiệp đạt
hiệu quả hơn trước.
Thứ hai, ngành kinh doanh hải sản nộp thuế GTGT cao hơn nhiều so với thuế
doanh thu trước đây đã làm tăng số thu so với năm 1998, một phần nhờ vào yếu tố tác động
của công tác tổ chức quản lý thu thuế tại Phòng thuế NQD.
Thứ ba, việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn của các cơ sở đã
được chú trọng và được quản lý chặt chẽ hơn so với năm 1998 nên giảm bớt hiện tượng
thất thu về doanh số và thuế GTGT.
- Kết quả về quản lý:
+ Các doanh nghiệp NQD:
Về đối tượng nộp thuế: từ ngày 1/1/1999 có 137 đơn vị, đến đầu năm 2000 số
lượng doanh nghiệp đã lên đến 170 đơn vị; trong đó: sản xuất 31, dịch vụ 17, thương
nghiệp 51, xây dựng cơ bản 71. Tất cả các doanh nghiệp NQD kể cả những doanh nghiệp
đã ngừng hoạt động đã được đưa vào danh sách để quản lý, theo dõi chặt chẽ. Hơn nữa,
số đối tượng nộp thuế tăng do Nhà nước thực hiện nhiều cải cách hành chính nhằm đơn
giản hóa các thủ tục thành lập cơ sở kinh doanh, cấp đăng ký kinh doanh, xóa bỏ nhiều
loại giấy phép,... tạo điều kiện cho nhiều hộ kinh doanh thành lập doanh nghiệp.
Thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ: năm 1998, số doanh nghiệp
NQD thực hiện chế độ sổ sách kế toán chiếm tỷ lệ nhỏ, trong đó các doanh nghiệp XDCB
hầu như chưa thực hiện được, ngành sản xuất và thương nghiệp chỉ có 50% số đơn vị lập
được các chứng từ hạch toán ban đầu. Việc ghi chép vào các sổ kế toán còn rất nhiều thiếu
sót, có nhiều đơn vị không mở đầy đủ các sổ theo quy định hoặc có mở sổ nhưng bỏ trống
không ghi chép.
Từ ngày 1/1/1999, với quy định bắt buộc của hai Luật thuế GTGT và TNDN và
lợi ích của việc thực hiện đúng chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn để được tính
thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Các doanh nghiệp NQD đã nhận thức được tầm
quan trọng trong việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hơn nữa trong năm Cục thuế đã
tập trung chỉ đạo triển khai tích cực công tác kế toán đối với các doanh nghiệp NQD.
Phòng NQD đã tổ chức nhiều đợt tập huấn về chế độ sổ sách kế toán và những chính sách
chế độ mới có liên quan đến hoạt động của cơ sở, thường xuyên cử cán bộ đến các doanh
nghiệp hướng dẫn việc ghi chép, hạch toán trên sổ sách kế toán. Đến cuối năm 1999 có
113/137 đơn vị đã thực hiện được chế độ ghi chép và chế độ báo cáo tài chính, tuy nhiên
số lượng doanh nghiệp đạt chất lượng tốt trong công tác hạch toán kế toán chưa cao.
Thực hiện kê khai nộp thuế: Các doanh nghiệp NQD đã từng bước nâng cao được ý
thức chấp hành việc kê khai nộp thuế. Trong thời gian đầu của việc thực hiện hai Luật thuế
mới, do chưa nắm rõ các chính sách và hướng dẫn kê khai thuế GTGT nên có nhiều doanh
nghiệp lập tờ khai chậm và không chính xác.
Qua quá trình kiểm tra, hướng dẫn và đôn đốc kịp thời nên đa số các doanh
nghiệp từng bước thực hiện việc kê khai đi vào nề nếp và đúng thời gian quy định. Tuy
nhiên, tình trạng doanh nghiệp kê khai hóa đơn trên thấp dưới cao để trốn thuế, xin hóa
đơn đầu vào để được khấu trừ thuế vẫn còn xảy ra. Mới ở năm đầu thực hiện hai Luật
thuế mới, quản lý thu thuế NQD cả nước nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng vẫn còn
nhiều bỡ ngỡ nên năm 1999 Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi chưa có biện pháp hữu hiệu để đối
chiếu, xác minh đầy đủ, hạn chế hiện tượng gian lận, trốn lậu thuế.
+ Khu vực hộ kinh doanh công thương nghiệp:
Quản lý về số hộ: số hộ quản lý thu thuế GTGT và TNDN 14.301 hộ so với năm
1998 tăng về số hộ quản lý 1%. Trong năm Cục thuế đã chỉ đạo thực hiện giảm thuế đối
với những hộ kinh doanh có thu nhập thấp, đồng thời khai thác những hộ kinh doanh trốn
thuế, mới phát sinh. Cho nên tỷ lệ tăng về số hộ trong năm 1999 không nhiều so với năm
trước với tỷ lệ tăng là 1%, tương ứng số hộ tăng 102.
Quản lý doanh thu: Doanh thu tính thuế GTGT bình quân tháng trong năm
63.328 triệu đồng, tăng so với năm 1998 là 98%. Như vậy qua thực hiện các Luật thuế
mới thì doanh thu tính thuế tăng lớn gần hai lần so với 1998, tương đối sát với thực tế
doanh thu kinh doanh. Tuy nhiên số thuế tăng lên không đáng kể do tỷ lệ động viên về
thuế GTGT trên doanh số nhỏ hơn thuế Doanh thu cũ ở hầu hết các mặt hàng, ngành
nghề.
Triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh: tính đến 31/12/1999 toàn tỉnh Quảng
Ngãi đã triển khai được 1.022 hộ kinh doanh thực hiện chế độ kế toán. Trong đó có hơn
200 hộ đã thực hiện tốt việc ghi chép trên sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn và nộp thuế
theo kê khai. Số còn lại chưa thực hiện tốt việc ghi chép và vẫn nộp thuế theo phương
pháp ấn định. Cục thuế đã tích cực chỉ đạo cho các Chi cục thuế huyện, thị tập trung triển
khai công tác này, phấn đấu đến cuối năm 2000 hoàn thành chỉ tiêu triển khai chế độ kế
toán của Tổng cục Thuế giao là 1.000 hộ.
+ Tình hình chuyển biến trong quản lý thu thuế qua các năm:
Chuyển biến nhất trong quản lý thu thuế NQD là 1/1/1999 đưa các doanh nghiệp
NQD về Cục thuế để quản lý thu thuế, củng cố công tác kế toán cho các doanh nghiệp,
qua đó tăng nguồn thu cho NSNN. Số thu năm 1999 so với năm 1998 tính riêng doanh
nghiệp NQD tăng về số tuyệt đối là 3.333 triệu đồng, số tương đối là 65%. Đối với khu
vực KTNQD hoàn thành chỉ tiêu được giao của Tổng cục Thuế và của tỉnh, số thu năm
1999 tăng về số tuyệt đối so với năm 1998 là 2.104 triệu đồng, số tương đối là 9,3%.
Ngoài ra, để hạn chế sự thất thu thuế, Cục thuế đã triển khai nhiều biện pháp trong quản
lý thu thuế những nghề đặc thù như: nghề đánh bắt chế biến hải sản, vận tải, xây dựng cơ
bản; Công tác duyệt bộ điều chỉnh mức thuế hộ kinh doanh,.... đã góp phần không nhỏ
trong quá trình tăng thu ở khu vực KTNQD như đã nêu trên.
- Những tồn tại:
Bên cạnh những mặt tích cực, việc quản lý thu thuế năm 1999 trong khu vực
KTNQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn một số mặt tồn tại như: chưa quản lý hết
đối tượng kinh doanh, doanh thu làm cơ sở tính thuế nói chung và đặc biệt là doanh thu ở
các hộ kinh doanh còn chưa sát với doanh thu thực tế,... đã dẫn đến hiện tượng không
công bằng trong động viên tiền thuế giữa các đối tượng nộp thuế GTGT theo phương
pháp trực tiếp với các đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Việc thực
hiện quy trình quản lý thu thuế cũng chưa được nghiêm túc, còn để xảy ra tình trạng cán
bộ thuế xâm tiêu, tham ô tiền thuế...
- Biện pháp khắc phục:
Qua kết quả quản lý thu thuế NQD đã đạt được và những mặt còn tồn tại, cần
thiết phải có những biện pháp nhằm mục tiêu tăng cường quản lý thu thuế khu vực NQD
năm 2000 như sau:
+ Tiếp tục rà soát các hộ cá thể kinh doanh trên địa bàn, đưa hết đối tượng có
thực tế kinh doanh vào diện nộp thuế. Trong công tác quản lý đối tượng nộp thuế cần chú
ý các trường hợp sau:
Một số cửa hàng, cửa hiệu núp dưới danh nghĩa hạch toán báo sổ, hạch toán phụ
thuộc doanh nghiệp nhưng thực chất là nhận khoán, doanh nghiệp không chi phối hoạt
động kinh doanh, không hạch toán kết quả kinh doanh chung vào doanh nghiệp. Những
đối tượng này phải kiên quyết đưa ra quản lý thu theo hộ cá thể.
Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống, đặc biệt là các nhà hàng, vũ trường. Thủ
đoạn của các chủ kinh doanh đều sử dụng chứng từ riêng để thu tiền không phải là chứng
từ đăng ký với cơ quan thuế, họ chỉ xuất trình chứng từ của cơ quan thuế khi có yêu cầu
của khách hàng. Kinh doanh nhà hàng lại thường đông đúc vào những giờ cơ quan thuế
quản lý đã hết giờ làm việc nên khó nắm bắt được thực tế lượng khách ra vào. Hiện nay ở
thị xã, thị trấn nơi tập trung dân cư đông đúc dịch vụ ăn uống đêm rất phổ biến, nhiều hộ
kinh doanh cả ngày không xuất hiện nhưng đến tối kê bàn ghế chiếm một đoạn vỉa hè để
làm điểm kinh doanh hoặc tập trung vào các chợ đêm. Họ bán có cả các loại rượu bia
kèm theo, có thể bán đến cả rạng sáng hôm sau, doanh thu hàng đêm rất lớn nhưng phần
lớn vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan thuế. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất thu
ở hiện tượng trên là do cơ quan thuế chưa phối hợp chặt chẽ với Hội đồng tư vấn thuế rà
soát đối tượng kinh doanh, chưa bố trí phân công cán bộ giám sát, kiểm tra ngoài giờ dẫn
đến tình trạng thất thu về hộ và cả về doanh số. Để khắc phục hiện tượng trên cần tăng
cường sự phối hợp của cơ quan thuế với các cơ quan liên quan đưa vào sổ bộ quản lý hết
đối tượng này, tiến hành điều tra, khảo sát làm cơ sở ấn định doanh thu tính thuế, ra
thông báo yêu cầu nộp thuế hàng tháng.
Những hộ kinh doanh ở các làng nghề truyền thống: phối hợp với các ngành của
huyện và UBND phường, xã thống kê số hộ thực tế kinh doanh để đưa vào sổ bộ quản lý.
Nắm quy mô kinh doanh, điều tra doanh thu và lập dự kiến mức doanh thu ấn định, tham
khảo ý kiến của Hội đồng tư vấn thuế phường, xã cũng như các hộ kinh doanh trên cơ sở
đó ấn định mức thuế và thông báo để từng hộ kinh doanh nộp thuế vào ngân sách.
+ Về quản lý doanh thu:
Để quản lý chặt chẽ doanh thu kinh doanh, Cục thuế cần tập trung chỉ đạo đẩy
mạnh việc yêu cầu hộ kinh doanh thực hiện chế độ kế toán, chứng từ hóa đơn và kiểm tra
các hộ kinh doanh lập hóa đơn khi bán hàng. Cục thuế căn cứ vào đặc điểm kinh doanh
chọn hộ kinh doanh những ngành nghề, những mặt hàng có giá trị lớn như: điện tử, xe
máy, đồ trang trí nội thất bắt buộc hộ kinh doanh phải mở sổ sách kế toán, lập hóa đơn
chứng từ khi bán hàng và quản lý thuế theo hình thức kê khai. Nắm chắc lượng hàng mua
vào, bán ra để quản lý sát doanh thu, phát hiện và có biện pháp xử lý thích hợp đối với
các trường hợp cố tình gian lận thuế.
Đối với những hộ kinh doanh nhỏ: Chi cục thuế cần phối hợp với các ngành, Hội
đồng tư vấn thuế tổ chức cho các hộ kinh doanh đã hết thời hạn ổn định thuế tự giác kê
khai lại doanh thu kinh doanh, tiến hành chọn mẫu điều tra và xác định lại tương đối
chính xác doanh thu kinh doanh, đối chiếu với tài liệu kê khai để xác định lại doanh thu
tính thuế phù hợp với thực tế kinh doanh của đối tượng.
Những hộ kinh doanh lớn có đủ điều kiện chuyển sang nộp thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ: Chi cục thuế huyện, thị xã phải tạo mọi điều kiện thuận lợi về
nhận đơn, xét duyệt, bán hóa đơn GTGT, hướng dẫn ghi sổ sách kế toán, lập hóa đơn
GTGT, kê khai nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
Đối với những hộ kinh doanh thực hiện việc ấn định doanh thu và ổn định mức
thuế: phải điều tra, xem xét lại doanh thu tính thuế để kịp thời tính lại doanh thu. Trong
bước thực hiện các Chi cục thuế cần tập trung vào những địa bàn trọng điểm, những
ngành hàng đang thất thu nhiều như: ăn uống, kinh doanh dịch vụ khách sạn, nhà nghỉ,
các mặt hàng nhập khẩu và những ngành hàng mang tính thời vụ nhưng tránh làm tràn
lan hoặc chỉ tập trung vào các chợ dễ gây phản ứng ở các hộ kinh doanh.
Khi xem xét tính lại doanh thu của các hộ kinh doanh phải thực hiện nghiêm túc
quy trình quản lý đã đề ra.
+ Đẩy mạnh công tác kiểm tra hộ xin nghỉ kinh doanh, phát hiện và xử lý kịp
thời những hộ có đơn xin nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn kinh doanh nhằm mục đích
tránh thất thu thuế vừa ngăn chặn cán bộ thuế lợi dụng việc miễn, giảm thuế cho hộ nghỉ
kinh doanh để móc ngoặc, tham ô tiền thuế.
+ Tập trung chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán,
chứng từ hóa đơn, đảm bảo 100% doanh nghiệp đều mở đầy đủ các loại sổ sách kế toán,
ghi chép phản ánh chính xác tình hình sản xuất kinh doanh, thực hiện nộp thuế theo kê
khai, chấm dứt việc thu thuế khoán đối với doanh nghiệp. Đôn đốc doanh nghiệp nộp báo
cáo quyết toán thuế, tổ chức tốt công tác kiểm tra báo cáo quyết toán thuế để thu ngay số
thuế phát sinh và số thuế còn tồn đọng vào ngân sách, đồng thời phát hiện những trường
hợp kê khai không trung thực để có những biện pháp phù hợp.
Căn cứ vào số lượng doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn cũng như kết quả
kiểm tra báo cáo quyết toán thuế, tiến hành kiểm tra chống thất thu để phát hiện và chấn
chỉnh những doanh nghiệp lập báo cáo quyết toán không sát đúng với thực tế kinh doanh,
cố tình gian lận thuế. Kết hợp với việc kiểm tra quyết toán thuế với việc kiểm tra trước và
sau khi hoàn thuế, xác minh đối chiếu hóa đơn, chứng từ mua vào bán ra có nghi vấn liên
quan đến tính thuế GTGT đầu vào, đầu ra nhằm phát hiện kịp thời các trường hợp gian
lận.
+ Đối với các trường hợp nợ thuế nhưng nay cơ sở đã nghỉ không kinh doanh
phải lập danh sách, phối hợp với Hội đồng tư vấn và các bộ phận chức năng phân loại
từng trường hợp cụ thể để xin ý kiến xử lý chung.
+ ở những địa bàn cán bộ thuế vẫn phải trực tiếp thu tiền thuế của đối tượng nộp
thuế cần phải quy định cụ thể số tiền thuế được trực tiếp thu và thời hạn phải thanh toán
số tiền thuế phải nộp vào ngân sách. Thực hiện nghiêm túc việc chấm bộ thuế để phát
hiện các trường hợp nợ đọng hoặc cán bộ thuế đã thanh toán biên lai nhưng chưa nộp tiền
vào ngân sách.
* Năm 2000:
Bảng 2.8: Kết quả thu ngân sách năm 2000 - phân theo sắc thuế
ĐVT: 1.000.000đ
Chỉ tiêu Thực Dự toán 2000 Thực % so sánh
hiện
1999
Trung
ương
Tỉnh
hiện
2000
Dự toán trung
ương
Dự toán
Tỉnh
Thực hiện
99
1 2 3 4 5 6 = 5/3 7 = 5/4 8 = 5/2
Thuế môn
bài
3.853 3.600 3.850 3.949 109,7 102,6 102,5
Thuế
TTĐB
304 200 300 396 198 132 130,3
Thuế TGT
(d./thu)
Trong.đó:
Thuế doanh
thu thu nợ
15.658
2.358
12.200 14.39
0
18.74
3
592
153,6 130,3 119,7
Thuế
TNDN
Tr.đó:
Thuế lợi
tức thu nợ
12.310
809
10.900 13.10
0
14.89
7
622
136,7 113,7 121
Thuế tài
nguyên
413 300 450 562 187,3 124,9 136,1
Thu khác 256 300 310 268 89,3 86,5 104,7
Tổ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và giải pháp.pdf