Tài liệu Luận văn Quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện: LUẬN VĂN:
Quản lý tài chính ở Đại học Đà
Nẵng - Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Trình
độ dân trí và tiềm lực khoa học - công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và
vị thế của mỗi quốc gia. Trên thế giới giáo dục và đào tạo được coi là nhân tố quyết định
sự thành bại của mỗi Quốc gia. Luật Giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 4 thông qua ghi rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan
trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước”, và nhấn mạnh “tăng cường các
nguồn lực cho giáo dục - đào tạo”, “tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào
tạo”.
Dự thảo chiến lược phát tri...
98 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quản lý tài chính ở Đại học Đà
Nẵng - Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Trình
độ dân trí và tiềm lực khoa học - công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và
vị thế của mỗi quốc gia. Trên thế giới giáo dục và đào tạo được coi là nhân tố quyết định
sự thành bại của mỗi Quốc gia. Luật Giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 4 thông qua ghi rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan
trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước”, và nhấn mạnh “tăng cường các
nguồn lực cho giáo dục - đào tạo”, “tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào
tạo”.
Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2020 cũng ghi rõ: "...
Xây dựng một nền giáo dục - đào tạo chất lượng cao đạt chuẩn khu vực và Quốc tế”.
Đại Học Đà Nẵng được thành lập theo Nghị định 32/CP ngày 04/04/1994 của
Chính phủ và Quyết định 477/TTg ngày 5/9/1994 của Thủ tướng Chính phủ; được điều
chỉnh theo Nghị định số 07/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ và Quyết định
số 16/001/QĐ-TTg ngày 12/02/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Sự ra đời của Đại học Đà
Nẵng đánh dấu bước đổi mới quan trọng đối với quá trình xây dựng và phát triển nền
giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung, ở Đà Nẵng nói riêng trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển đại học của các nước tiên
tiến trên thế giới, xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học
chất lượng cao của khu vực và cả nước. Để hoàn thành nhiệm vụ trọng đại đó, Đại Học
Đà Nẵng phải phát huy tiềm năng của mình, trên cơ sở sự ưu tiên đầu tư của Nhà nước,
trong đó hoàn thiện quản lý tài chính là bộ phận quan trọng. Với những điều kiện mới,
nhiệm vụ mới, Đại học Đà Nẵng cần phải nâng cao năng lực quản lý tài chính để phối
hợp cùng với các mảng công tác về đào tạo, nghiên cứu khoa học nhằm góp phần nâng
cao năng lực quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng. Vì vậy, đề tài: “Quản lý tài chính ở
Đại học Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” được chọn làm đối tượng
nghiên cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan
đến lĩnh vực quản lý tài chính trong các trường đại học, trên cả nước nói chung và khu
vực miền Trung nói riêng. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Ngân hàng Thế giới, nghiên cứu tài chính cho giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
(1996)
- Nguyễn Duy Bắc (2002), “Phát triển giáo dục và đào tạo theo tinh thần xã hội
hoá”, Tạp chí lý luận Chính trị.
- Đỗ Minh Cương - Nguyễn Thị Đoan (1999), Phát triển nguồn nhân lực cho giáo
dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Công Nghiệp (1996), Xây dựng quy trình lập kế hoạch và cơ chế điều
hành ngân sách giáo dục - đào tạo, Bộ Tài chính.
- Trần Thị Thu Hà (1993), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ
thống giáo dục Quốc dân, Luận án Phó tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội.
- Trần Xuân Hải (2000), Giải pháp vốn đầu tư phát triển sự nghiệp đào tạo trong
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội.
- Lê Phước Minh (2001), “Vấn đề thu chi trong giáo dục Đại học và một số ý kiến
về tạo nguồn”, Tạp chí Giáo dục, (7).
- Trần Văn Phong (2001), Nguồn tài chính và quản lý tài chính ở các trường Đại
học công lập trong giai đoạn hiện nay, Luận án Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Văn Ngọc (2001), Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại học
quốc gia Hà Nội-Thực trạng và giải pháp, Luận án Thạc sĩ Kinh tế,Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Duy Tạo (2000), Hoàn thiện quản lý tài chính các trường đào tạo công
lập ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh.
Các công trình trên tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau và đã đề cập đến nhiều
khía cạnh về đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, nguồn tài chính và quản lý tài chính ở
các trường đào tạo công lập. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
chuyên biệt về vấn đề quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là thông qua phân tích thực trạng quản lý tài chính ở Đại
học Đà Nẵng, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực quản lý tài chính ở Đại học Đà
Nẵng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn tới.
Phù hợp với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo,
nhân tố tác động tới việc quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo, kinh nghiệm của một số
nước trong việc quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo.
- Đánh giá thực trạng quản lý tài chính của Đại Học Đà Nẵng thời gian qua và nêu
ra những tồn tại cần khắc phục, những điểm mạnh cần phát huy.
- Luận chứng giải pháp nâng cao năng lực quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng
trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng (đơn vị
sự nghiệp có thu), các yếu tố quyết định năng lực quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng bao
gồm yếu tố con người, quy chế quản lý và thiết bị hỗ trợ...
Phạm vi nghiên cứu trong luận văn:
- Về nội dung: Chủ yếu giới hạn ở các nội dung quản lý tài chính của Đại học Đà
Nẵng.
- Về không gian: Đối tượng khảo sát của luận văn là Đại học Đà Nẵng bao gồm 5
trường thành viên.
- Về thời gian: Từ năm 2000 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, bám sát điều kiện thực tế ở địa phương. Trong từng nội dung cụ thể,
còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát tài liệu sẵn có kết hợp phương
pháp nghiên cứu thực tiễn: (mẫu phiếu điều tra, phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia tổng
kết kinh nghiệm), qua đó xử lý số liệu: (dùng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu,
các kết quả điều tra khảo sát) để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý tài chính trong đào tạo đại
học.
- Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề quản lý tài chính trong đào tạo đại
học.
- Nêu ra bức tranh khái quát về quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng
- Đề xuất những giải pháp quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được
chia làm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
một số vấn đề chung về quản lý tài chính
ở trường đại học công lập
1.1. Quản lý tài chính ở trường Đại học công lập
1.1.1. Khái niệm tài chính, nguồn tài chính và quản lý tài chính ở trường Đại
học công lập
1.1.1.1. Khái niệm tài chính
Tài chính không những tượng trưng cho các quan hệ - mặt bản chất bên trong mà
còn tượng trưng cho các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ - Mặt biểu hiện bên ngoài “vỏ
vật chất” của các quan hệ đó. Tài chính phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân
phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị (gọi tắt là các quan hệ phân phối). Là một bộ
phận của các quan hệ phân phối của xã hội.
Bản chất của tài chính - các quan hệ phân phối sản phẩm xã hội - chịu sự ràng
buộc bởi bản chất của quan hệ sản xuất xã hội mà đặc trưng cơ bản là các quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất.Có nhiều khái niệm về tài chính,nhưng khái niệm về tài chính dưới
đây cho phép chúng ta nhìn nhận đầy đủ,toàn diện về tài chính:
Khái niệm tài chính: Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra
ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh
trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền
tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Việc xác định đúng đắn quan niệm tài chính và bản chất tài chính có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn. Điều đó tạo cơ sở cho việc vận dụng các quan hệ tài
chính tồn tại khách quan để quyết định chính xác các quyết định tài chính, đồng thời
thông qua các chính sách tài chính để tổ chức các quan hệ tài chính nhằm sử dụng tài
chính tác động tích cực tới các hoạt động và các hoạt động kinh tế - xã hội theo các
phương hướng đã xác định.
1.1.1.2. Khái niệm nguồn tài chính
Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác,
sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng
tiền hoặc tài sản vật chất và phi vật chất. Sự vận động của các nguồn tài chính phản ánh
sự vận động của những bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị (tiền tệ). Nguồn tài
chính luôn thể hiện một khả năng về sức mua nhất định. Trong nền kinh tế thị trường,
mỗi chủ thể trong xã hội khi đã nắm trong tay những nguồn tài chính nhất định là nắm
trong tay một sức mua để có thể nắm được những nguồn vật lực hay sử dụng được những
nguồn nhân lực nhất định phục vụ cho mục đích tích lũy hay tiêu dùng của mình.
Nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo nói chung và đào tạo ở các trường
đại học công lập nói riêng là đầu tư cơ bản, đầu tư cho sự nghiệp phát triển của con người
- là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhà kinh tế học Hoa Kỳ Gray
Backer đã khẳng định “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào
nguồn nhân lực”.
Đầu tư cho đào tạo là đầu tư “lợi ích tương lai”, hiệu quả không thấy ngay được,
lợi ích của việc đầu tư cho sự nghiệp đào tạo có tác dụng như đầu tư cho phương tiện sản
xuất, một loại phương tiện sản xuất tạo ra sản phẩm có tính chất vô hình, sản phẩm đó
không thuộc loại tiêu dùng mà thuộc loại “tạo tiềm năng”. Hiệu quả của việc đầu tư cho
sự nghiệp đào tạo được phát huy trên phạm vi toàn xã hội, đồng thời được xác định đầy
đủ khi những sản phẩm của đào tạo đi vào cuộc sống và thực sự thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Có thể thấy quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo (được
minh hoạ theo Sơ đồ 1.1).
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo
1.1.1.3. Khái niệm quản lý tài chính
Quản lý tài chính trước hết là quản lý các nguồn tài chính, quản lý các quỹ tiền
tệ, quản lý việc phân phối các nguồn tài chính, quản lý việc tạo lập, phân bổ và sử dụng
các quỹ tiền tệ một cách chặt chẽ, hợp lý và có hiệu quả theo các mục đích đã định.
Đồng thời quản lý tài chính cũng chính là thông qua các hoạt động kể trên để tác động
có hiệu quả nhất tới việc xử lý các mối quan hệ kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình
phân phối các nguồn tài chính, trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các
chủ thể trong xã hội.
Quản lý tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng để Nhà nước điều hành
và quản lý nền kinh tế đất nước, hình thành và đảm bảo các cân đối chủ yếu và tỷ lệ phát
triển của nền kinh tế quốc dân.
Quản lý tài chính thực chất là sử dụng và phát huy vai trò của hệ thống tài chính
thông qua Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông qua cơ chế hoạt động và vận động của
tài chính phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của
Nhà nước.
Quản lý tài chính trong trường đại học: Quản lý tài chính trong trường đại học là
quản lý việc thu-chi một cách có kế hoạch, tuân thủ các chế độ tài chính, đã quy định và
tạo ra được hiệu quả chất lượng giáo dục.
1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu quản lý tài chính ở trường đại học công lập
Đầu tư cho sự nghiệp Đào
tạo
Phát triển đào tạo
Đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài
Tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ xã hội
1.1.2.1. Đặc điểm
Quản lý tài chính ở trường đại học công lập là quản lý hệ thống các nguyên tắc,
các quy định, quy chế, chế độ của Nhà nước về tài chính, nguồn hình thành tài chính…
mà hình thức biểu hiện là những văn bản pháp luật, pháp lệnh nghị định…Ngoài ra nó
còn được thể hiện thông qua các quy chế, quy định của trường đại học đối với các hoạt
động tài chính của trường đại học công lập.
1.1.2.2. Yêu cầu
Các quy định về quản lý tài chính ở trường đại học công lập phải tuân thủ theo các
văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan tới các hoạt động tài chính của trường, vì
tài chính trong trường đại học công lập là sự vận động của đồng tiền để thực hiện mục
tiêu phát triển, mục tiêu đào tạo và bản chất của việc đầu tư cho giáo dục đào tạo nói
chung và giáo dục đào tạo đại học nói riêng là đầu tư cho phát triển, cho sự hoàn thiện
nhân cách con người. Quản lý tài chính trong trường đại học công lập phải đáp ứng được
các yêu cầu sau:
- Nắm vững được các chế độ, chính sách hiện hành
- Xác định được các khoản thu
- Xác định các nguồn thu
- Thanh quyết toán, báo cáo tài chính
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nghiệp vụ về tài chính
1.1.3. Vai trò của quản lý tài chính đối với sự phát triển của các trường đại
học công lập
Trong điều kiện cơ chế thị trường, các trường đại học công lập có quyền tự chủ (tự
trị) nhất định về huy động nguồn tài chính và quản lý các nguồn tài chính đó. Tài chính
phục vụ cho giáo dục đào tạo ở các trường đại học công lập hiệu quả chủ yếu từ hai
nguồn: Ngân sách Nhà nước (NSNN) cấp và nguồn ngoài NSNN, trong đó nguồn NSNN
có vai trò quan trọng nhất (minh hoạ trên Sơ đồ 1.2).
Sơ đồ 1.2: Nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo
Nguồn tài chính cho giáo dục -
đào tạo
Nguồn NSNN Nguồn ngoài NSNN
Ngân sách nhà nước: (Điều 1 - Luật ngân sách): là toàn bộ các khoản thu-chi của
Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trong cơ chế thị trường, NSNN không còn là ngân sách của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, nhưng trong tất cả các nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo thì nguồn
NSNN vẫn giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất.
NSNN với tư cách là một loại quỹ tiền tệ của Nhà nước có vị trí cực kỳ quan
trọng, phân phối các nguồn tài chính, thể hiện mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội.
Quyền lực về NSNN thuộc về Nhà nước, mọi khoản thu-chi tài chính của Nhà
nước đều do Nhà nước quyết định nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước. Bản chất của
NSNN là hệ thống các mối quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội,
phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm thực
hiện các chức năng quản lý và điều hành kinh tế, xã hội của mình, trong đó có các khoản
chi cho bộ máy quản lý của Nhà nước, cho giáo dục - đào tạo, y tế…
Tất cả các khoản chi tiêu tài chính của Nhà nước đều được đảm bảo từ thuế và các
hình thức thu khác vào ngân sách.
Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không chỉ đơn thuần là quỹ tiền tệ tập trung
để thoả mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, mà thực sự trở thành công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Có thể nói đầu tư từ NSNN là yếu tố
quyết định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển sự nghiệp đào tạo, biểu hiện:
Thứ nhất: Chi phát triển văn hoá - xã hội trong đó có sự nghiệp giáo dục - đào tạo
là những nội dung cơ bản nhất của hoạt động chi ngân sách Nhà nước. Đảng và Nhà nước
ta coi trọng giáo dục - đào tạo là “Quốc sách hàng đầu”, tại điều 89 Luật Giáo dục nêu rõ:
Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tỷ lệ ngân sách
Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Hiện
nay, nguồn đầu tư của NSNN vẫn chiếm ưu thế trong tổng chi cho sự nghiệp đào tạo. Do
hệ thống trường công còn chiếm tỷ lệ lớn, phát triển các trường bán công, dân lập chưa
nhiều, việc xã hội hoá sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đa dạng hoá các loại hình trường, lớp
chưa phổ biến, chưa có khả năng thu hút nguồn đầu tư khác cho sự nghiệp đào tạo. Song
NSNN duy trì và phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo theo định hướng của Đảng và Nhà
nước là chiến lược chung của Quốc gia.
Đặc biệt chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo được ưu tiên hàng đầu, khoản
chi này tương đối ổn định và chiếm tỷ trọng trong NSNN, gồm
4 nhóm:
Nhóm 1: Chi cho con người: lương, phụ cấp lương, phúc lợi, BHXH, khoản chi
này theo kế hoạch chiếm khoảng 38 - 43% song vẫn chưa đảm bảo cuộc sống cho cán bộ
công nhân viên, vì vậy việc đầu tư cho giáo dục là phải có các chính sách ưu đãi đối với
giáo viên là cần thiết.
Nhóm 2: Chi quản lý hành chính bao gồm: công tác phí, công vụ phí (điện, nước,
xăng xe, hội thảo, hội nghị…) khoản chi này thường chiếm khoảng 22%/Tổng chi thường
xuyên.
Nhóm 3: Chi giảng dạy, học tập: Bao gồm việc mua tài liệu, sách giáo khoa, giáo
trình, đồ dùng học tập, vật liệu, hoá chất thí nghiệm, phấn viết…Đây là khoản chi có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo, chiếm khoảng 13 -14% / Tổng chi ngân sách.
Nhóm 4: Chi mua sắm, sửa chữa: bao gồm chi cải tạo, sửa chữa, nâng cấp trường
lớp, bàn ghế, trang thiết bị, cơ sở vật chất… phục vụ cho việc giảng dạy và học tập.
Khoản chi này chiếm khoảng 20 -21% / Tổng chi ngân sách.
ở mỗi giai đoạn khác nhau thì mức độ, nội dung, cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp
đào tạo cũng có sự khác nhau.
Thứ hai: đầu tư NSNN cho xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập,
nghiên cứu khoa học từng bước nâng cao chất lượng đào tạo và cũng là cơ sở để khuyến khích
thu hút đầu tư từ các khâu, đơn vị, doanh nghiệp… Thực hiện “Nhà nước và nhân dân cùng
chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo”.
Thứ ba: NSNN từng bước đảm bảo ổn định đời sống đội ngũ cán bộ giảng dạy,
phục vụ giảng dạy thông qua thang, bậc lương, ngoài ra còn hưởng phụ cấp ưu đãi trong
ngành giáo dục, với mức 30% cho cán bộ trực tiếp giảng dạy, 50% đối với giáo viên ở
các trường sư phạm.
Thứ tư: NSNN đảm bảo học bổng cho học sinh, sinh viên, ưu tiên đối với diện
chính sách, đảm bảo kinh phí cho đào tạo cán bộ giảng dạy và quản lý.
Thứ năm: NSNN có vai trò điều phối cơ cấu của mỗi trường cũng như toàn bộ hệ
thống thông qua định mức chi ngân sách hàng năm giúp cho việc định hướng, sắp xếp cơ
cấu mạng lưới các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, phát huy tiềm lực đội ngũ
cán bộ giảng dạy, cơ sở vật chất trong việc tạo chất lượng cao và hiệu quả, phân biệt
ngành nghề đào tạo theo khối lượng (y tế, tài chính, kinh tế, tổng hợp…) và tập trung
ngân sách cho mục tiêu chương trình quốc gia như: xây dựng trung tâm đào tạo chất
lượng cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh.
1.1.3.2. Vai trò, vị trí của nguồn ngoài ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp
đào tạo
Nguồn thu ngoài ngân sách: bao gồm sự đóng góp của các tổ chức kinh tế – xã
hội, vốn của nhà trường do hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất tạo ra,
vốn do nguồn tài trợ của nước ngoài, vốn do sự đóng góp của các tổ chức cá nhân…
Nguồn ngoài NSNN có vai trò và vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo:
Thứ nhất: Tăng đầu tư, nâng cấp cơ sở đào tạo, cải thiện đời sống cán bộ giảng
dạy, sinh viên… nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Thứ hai: Khai thác tiềm năng của các thành phần, tổ chức kinh tế đóng góp kinh
phí cho sự nghiệp đào tạo khi NSNN còn hạn hẹp.
Thứ ba: Phát huy tính năng động trong việc huy động các nguồn tài chính đầu tư
cho sự nghiệp đào tạo.
1.2. Nội dung quản lý tài chính trong các trường đại học công lập
Quy trình quản lý tài chính trong các trường đại học công lập phục vụ giáo dục,
đào tạo gồm 4 bước:
Lập kế hoạch: Dựa vào quy mô đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo của Nhà nước, nắm đầy đủ số lượng biên chế, học sinh – sinh viên, cơ
sở vật chất năm báo cáo để có cơ sở dự kiến năm kế hoạch cho trường. Dựa vào số liệu
chi cho con người, quản lý hành chính, mua sắm, sửa chữa, nghiệp vụ chuyên môn, xây
dựng cơ bản, chương trình mục tiêu... của năm báo cáo để làm cơ sở dự kiến năm kế
hoạch cho trường.
Điều hành thực hiện: Cấp phát kinh phí và thực hiện các khoản chi tiêu kịp thời
theo kế hoạch, đảm bảo hoạt động thường xuyên của đơn vị, giám sát việc chi tiêu của
các bộ phận, đảm bảo đúng chế độ, đúng mục đích và có hiệu quả.
Quyết toán kinh phí: là khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh phí, phản ánh
đầy đủ các khoản chi và báo cáo quyết toán ngân sách đúng chế độ báo cáo về biểu mẫu,
thời gian, nội dung và các khoản chi tiêu. Trên cơ sở báo cáo quyết toán để phân tích,
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi tiêu cho công tác đào tạo và rút ra ưu, nhược
điểm trong quá trình quản lý, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch của năm sau sát hơn.
Kiểm tra: Trong quá trình thực hiện kế hoạch, không phải bao giờ cũng đúng như
dự kiến vì vậy đòi hỏi phải có sự kiểm tra thường xuyên để nắm tình hình quản lý tài
chính, nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư và kịp thời đưa ra những giải pháp điều chỉnh sai
lệch, hạn chế rủi ro.
1.2.1. Mô hình quản lý tài chính ở các trường đại học công lập
Trong bối cảnh thực hiện chiến lược giáo dục 2001 - 2010, việc quản lý tài chính
của các trường đại học công lập đòi hỏi phải đáp ứng được đầy đủ những nội dung, yêu
cầu đặt ra. ở mỗi giai đoạn khác nhau mức độ, nội dung, cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp
đào tạo cũng khác nhau. Ta có thể mô tả hoạt động tài chính của các trường đại học công
lập theo mô hình sau:
Sơ đồ 1.3:Mô hình hoạt động tài chính của các trường đại học công lập
ở Việt Nam
1.2.2. Nội dung quản lý tài chính ở các trường Đại học công lập
- Quản lý các nguồn thu của trường đại học là phải xác định đúng, đủ các nguồn
thu theo quy định của Nhà nước, có kế hoạch khai thác các nguồn thu từ NSNN và nguồn
thu do nhà trường tự huy động được nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính của trường.
- Quản lý việc chi tiêu của trường đại học, trường cần phân bổ và sử dụng các
nguồn tài chính một cách hợp lý nhất, hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất, nhằm đảm bảo sự ổn
định về các nguồn tài chính dài hạn và ngắn hạn, phục vụ các mục tiêu hoạt động tài
chính của nhà trường. Phải căn cứ vào các nguồn thu để lập kế hoạch chi tiêu sao cho
Đầu ra
(Mục tiêu kế hoạch đào
tạo)
Học sinh tốt
nghiệp
các hệ
Các công trình khoa
học
Sản phẩm, dịch
Đầu vào
Nguồn lực tài
chính
Trường Đào tạo công
lập
NSNN Trung
ương
Ngân sách địa
phương
Học phí
Đóng góp cộng
đồng
Tài trợ nước ngoài
Đào tạo
(chính
quy, tại
chức, mở
rộng, hợp
đồng)
Hoạt động
ngoài đào
tạo (NCKH,
sản xuất,
dịch vụ…)
đảm bảo thu đủ bù chi và có phần chênh lệch. Nội dung chi phải đúng mục đích, đúng đối
tượng, đúng luật và tiết kiệm nhưng vẫn hiệu quả, đảm bảo chất lượng giảng dạy.
- Phân phối chênh lệch thu-chi: Phần chênh lệch thu-chi hằng năm sẽ được Thủ
trưởng đơn vị trích lập các quỹ, sau khi thống nhất với tổ chức Công đoàn, theo thứ tự:
Quỹ dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp. Việc quản lý thu, chi càng tốt phần chênh lệch sẽ càng lớn thì việc trích
lập các quỹ sẽ hợp lý hơn, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, giáo viên trong
trường, tạo điều kiện tái đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy.
Những công việc cụ thể trong quản lý tài chính ở các trường đại học có thể khái
quát như sau:
- Phân tích tình hình
- Xác định nhu cầu
- Nắm vững các chế độ chính sách hiện hành
- Xác định nhiệm vụ cụ thể đối với công tác quản lý tài chính trong trường đại học
- Xây dựng kế hoạch tài chính trên cơ sở phân tích chi phí - lợi ích
- Xác định các nguồn lực cần khai thác
- Tổ chức khai thác các nguồn lực tài chính
- Tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính theo các mục tiêu đặt ra
- Chỉ đạo, điều phối các hoạt động tài chính - kế toán
- Kiểm tra, đánh giá
- Đổi mới
1.2.2.1. Quản lý nguồn thu của các Trường Đại học công lập
Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn
dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, đầu tư phát triển. Mục tiêu của Giáo dục là
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
Giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là nhân tố quyết định tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Chính vì vậy phải tăng cường nguồn tài chính, cơ sở
vật chất cho giáo dục, tăng đầu tư từ NSNN, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để
phát triển giáo dục. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính, chuẩn hoá và hiện đại hoá nhà
trường, các trang thiết bị giảng dạy, nghiên cứu và học tập.
Sự chuyển đổi của nền kinh tế đã làm thay đổi một cách căn bản quan điểm đầu tư
cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo không chỉ từ một nguồn gần như duy nhất là
từ NSNN như trước đây, mà còn xã hội hoá giáo dục, nhất thiết đầu tư cho giáo dục phải
bao gồm từ nhiều nguồn đầu tư:
- Nguồn kinh phí do NSNN cấp
- Nguồn thu từ học phí, các loại phí, lệ phí
- Các nguồn thu hợp pháp khác
* Nguồn kinh phí do NSNN cấp
Giáo dục - đào tạo là của toàn Đảng, toàn dân và của Nhà nước. Để phát triển sự
nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về giáo dục, nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ CNH-HĐH đất nước, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã giành ưu tiên hàng đầu cho việc bố
trí ngân sách giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục.
Ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục là một trong những nội dung quan trọng
nhất của hoạt động chi NSNN. Luật giáo dục ghi rõ: “Nhà nước giành ưu tiên hàng đầu
cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ NSNN chi cho giáo dục tăng dần theo
yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. NSNN chi cho giáo dục phải được phân bổ
theo nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ, căn cứ vào quy mô phát triển giáo dục,
điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng, miền và thể hiện được chính sách ưu đãi của Nhà
nước đối với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. Ngoài ra, Nhà
nước còn giành một phần kinh phí từ ngân sách và sử dụng các nguồn khác để đưa cán bộ
khoa học đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.
Ngân sách Nhà nước cấp cho các trường Đại học công lập bao gồm các khoản
mục:
- Một phần kinh phí hoạt động thường xuyên của trường Đại học công lập được
NSNN bảo đảm.
- Kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành,
chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được cấp có thẩm quyền
giao, kinh phí thanh toán cho trường Đại học công lập theo chế độ đặt hàng để thực hiện
các nhiệm vụ của Nhà nước.
- Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động
đào tạo và nghiên cứu khoa học theo dự án và kế hoạch hằng năm, vốn đối ứng cho các
dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt kinh phí đầu tư ban đầu…
Nguồn kinh phí do NSNN cấp hiện vẫn giữ vai trò chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn tài chính của các trường đại học công lập. Tuy nhiên quy trình cấp
phát ngân sách cho giáo dục đại học vẫn theo lối mòn của cách cấp phát theo nhu cầu
thường niên. Việc cấp phát NSNN cho các trường đại học công lập nằm trong chức năng
điều hành và được thực hiện theo sơ đồ sau.
Sơ đồ 1.4: Điều hành thực hiện thu chi ngân sách Nhà nước
Chính phủ
Bộ KH - ĐT
Bộ Tài
chính
Các Bộ,
ngành liên
quan
Các đơn vị đào
tạo
Kho bạc Nhà nước
Kho bạc tỉnh, thành
phố
Kho bạc quận, huyện
ở nước ta việc cấp phát tài chính cho các trường Đại học công lập: “Dựa trên cơ sở
đầu vào và chủ yếu dựa trên số lượng sinh viên cùng các chi phí của đơn vị, do đó không
khuyến khích được các trường giảm chi phí để nâng cao chất lượng”. Kinh nghiệm ở một
số nước như Australia, Hà Lan, Singapore… thì việc cấp phát tài chính đều dựa trên cơ
sở đầu ra, thông qua số lượng sinh viên đã được đào tạo và tốt nghiệp. Như vậy chất
lượng giáo dục và kết quả được nâng lên rõ nét (vì do số lượng sinh viên bỏ học và lưu
ban).
Quy trình phân bổ tài chính cho các trường Đại học công lập ở nước ta còn bộc lộ
một số yếu điểm sau:
- Các tiêu chí thiếu rõ ràng
- Việc cấp kinh phí còn dựa vào các tiêu chuẩn định mức thô sơ, thiếu tổng hợp và
chưa đề cập đầy đủ các nguồn tài chính khác. Chưa chú ý đến nhu cầu cụ thể của các
trường đại học và những chính sách ưu tiên của Chính phủ, mức độ, cơ cấu chi phí khác
nhau của các trường, các bậc đào tạo, các lĩnh vực, các loại hình đào tạo…
- Chi tiêu NSNN chỉ nhấn mạnh đầu vào, ít chú ý đến mục tiêu cuối cùng là sản
phẩm sinh viên tốt nghiệp
- Thiếu cơ chế khuyến khích các trường đào tạo nâng cao chất lượng và hiệu quả
trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Trong những năm qua, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ 21, đầu tư cho giáo dục
từ NSNN không ngừng được tăng lên. Năm 2004 đầu tư cho giáo dục đào tạo từ NSNN
đã đạt đến 17,1%/năm trong tổng chi tiêu của NSNN, tăng hơn 3,4% so với năm 2000.
Quy trình đầu tư, phân bổ ngân sách đã có những bước cải cách căn bản làm tăng tính
hiệu quả của đầu tư cho giáo dục
* Nguồn thu từ học phí, các loại phí, lệ phí:
Để tăng cường nguồn lực cho giáo dục, thể hiện đa dạng hoá các nguồn đầu tư cho
giáo dục, Điều 36 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục
và khuyến khích các nguồn đầu tư khác”. Chính sách đó cho phép huy động mọi nguồn
lực trong xã hội cho phát triển giáo dục đào tạo, nhằm chia sẻ bớt gánh nặng đối với Nhà
nước.
Nguồn thu từ học phí, lệ phí… đã góp phần tăng cường kinh phí đầu tư cho giáo
dục. Thông qua việc thu học phí Nhà nước cũng có thể điều tiết quy mô, cơ cấu đào tạo
và thực hiện chính sách công bằng xã hội.
Theo luật giáo dục: Học phí, lệ phí là khoản đóng góp của gia đình người học hoặc
người học để góp phần đảm bảo cho các hoạt động giáo dục. Chính phủ quy định khung
học phí, cơ chế thu và sử dụng học phí đối với tất cả các loại hình trường, cơ sở giáo dục
khác theo nguyên tắc không bình quân, thực hiện miễn giảm cho các đối tượng hưởng
chính sách xã hội và người nghèo. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính căn cứ vào các
quy định của Chính phủ về học phí, hướng dẫn việc thu và sử dụng học phí, lệ phí tuyển
sinh của các trường và cơ sở giáo dục khác trực thuộc trung ương.
Sau khi Nhà nước xoá bỏ bao cấp trong giáo dục, học phí có một vị trí rất quan
trọng, chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng thu của các trường. Thậm chí có những
trường, nguồn thu từ học phí cao hơn gấp hai lần so với NSNN cấp.
Việc thực hiện chính sách học phí mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, học phí là một trong những nguồn kinh phí quan trọng nhất để phát triển
giáo dục đại học trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường
Thứ hai: Thông qua chính sách học phí, Nhà nước có thể thực hiện điều tiết quy
mô và cơ cấu giáo dục đại học
Thứ ba: Thông qua học phí, Nhà nước thực hiện chính sách xã hội và thực hiện
công bằng xã hội. Với ý nghĩa như vậy, Nhà nước ta đã nhiều lần điều chỉnh chính sách
học phí. Lần thứ nhất theo Quyết định số: 241/TTg ngày 24/05/1993 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thực hiện thu học phí đối với tất cả học sinh, sinh viên theo học tại các
trường công lập (trừ bậc tiểu học). Đây là lần đầu tiên Nhà nước chính thức quy định
mức học phí đối với giáo dục các cấp. Lần thứ hai, sau năm năm thực hiện Quyết định
241/TTg, mức học phí ở các cơ sở giáo dục - đào tạo công lập được quy định lại theo
Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/03/0998 học phí được phân thành nhiều mức độ
khác nhau, tuỳ thuộc vào loại trường, vùng, miền, địa điểm trường, thời gian và cơ cấu
ngành nghề đào tạo…
* Các nguồn thu khác:
Ngoài hai nguồn thu chính trên, các trường đại học còn có thể huy động sự đóng
góp của các tổ chức kinh tế - xã hội, và các cá nhân, các nguồn tài trợ của nước ngoài,
các nguồn thu do hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất tạo ra, các khoản
thu do hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các cơ
sở giáo dục, nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng…, các nguồn thu này sẽ tạo điều
kiện cho các trường nâng cấp cơ sở vật chất, cải thiện đời sống của giảng viên và sinh
viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Nó cũng giúp khai thác tiềm năng
của các thành phần, tổ chức kinh tế - xã hội trong việc đóng góp kinh phí khi nguồn kinh
phí NSNN còn hạn hẹp. Đồng thời phát huy tính năng động của các trường đại học trong
việc huy động nguồn tài chính cho giáo dục - đào tạo. Với xu hướng nâng cao tính tự chủ
về tài chính cho các trường đại học công lập như hiện nay, việc tăng cường khai thác các
nguồn vốn này đang trở thành một trong những chiến lược đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục của hệ thống các trường Đại học công lập.
Công tác nghiên cứu khoa học, tư vấn và dịch vụ trong các cơ sở đào tạo hiện
chiếm khoảng 3 -> 4% tổng số nghiên cứu khoa học của cả nước, đây là một tỷ lệ rất
thấp, các sản phẩm nghiên cứu lại không được tiếp thị nên nhiều đề tài rất có ý nghĩa đối
với sản xuất nhưng không được áp dụng, không được trao đổi, mua bán trên thị trường.
Cơ chế đầu tư cho nghiên cứu khoa học nói chung còn bị phân tán, chậm đổi mới. Sự liên
kết giữa cơ sở đào tạo và Viện nghiên cứu nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong công tác giảng dạy
và nghiên cứu còn lỏng lẻo. Mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp còn hạn chế,
vì vậy việc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu rất hạn chế.
để tăng cường nguồn đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo, thực hiện đa dạng hoá
các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều
kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục, cần thiết phải tranh
thủ nguồn tài chính vay với lãi suất ưu đãi cho giáo dục từ Ngân hàng thế giới, Ngân
hàng phát triển Châu á, các tổ chức quốc tế và các nước. Thực hiện chế độ ưu đãi về sử
dụng đất đai, vay vốn cho các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp đầu tư xây dựng, các cơ sở
giáo dục. Nhờ đó mà nguồn vốn ODA cho giáo dục đào tạo những năm qua đã tăng đáng
kể. Việc ban hành Nghị định 06/2000/NĐ-CP quy định về việc hợp tác đầu tư với nước
ngoài của bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học, với nhiều
điều khoản được ưu đãi như: thuế, bảo đảm cân đối ngoại tệ… đã thu hút nhiều dự án đầu
tư cho giáo dục đào tạo.
Tuy nhiên do còn thiếu kinh nghiệm, vừa học vừa làm nên nhiều chính sách về thu
hút đầu tư còn chưa nhất quán và hay thay đổi gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Việc
triển khai các dự án vốn vay ODA thường chậm trễ do nhiều nguyên nhân như: nội dung
dự án do các nhà tài trợ giúp chưa sát với thực tế Việt Nam, thiếu các văn bản pháp quy
hướng dẫn các thủ tục tiếp nhận và sử dụng ODA.
1.2.2.2. Quản lý nguồn chi của trường Đại học công lập
- Chi thường xuyên: gồm tất cả các khoản phát sinh thường xuyên và liên tục
trong năm, được sử dụng hết trong năm đó, không thể chuyển sang năm sau. Chi thường
xuyên bao gồm các khoản sau:
+ Chi tiền lương, tiền công…
+ Chi học bổng, trợ cấp xã hội
+ Chi quản lý hành chính
+ Chi nghiệp vụ chuyên môn
+ Chi thuê giảng viên, chuyên gia
+ Chi bồi dưỡng nghiệp vụ hè
+ Chi cho công tác giáo dục, an ninh quốc phòng
+ Chi cho thi tốt nghiệp
+ Chi đề tài nghiên cứu khoa học
+ Chi sửa chữa thường xuyên
+ Các khoản chi khác
- Chi cho hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, thực hiện nghĩa vụ với NSNN.
- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành,
chương trình mục tiêu quốc gia.
- Chi thực hiện đơn đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát). Chi đối ứng thực hiện
các dự án có vốn nước ngoài, chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được các cấp có thẩm
quyền giao.
- Chi đầu tư, phát triển, gồm: Chi đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định,
trang thiết bị, chi thực hiện các dự án đầu tư khác theo quy định của Nhà nước.
- Chi trả vốn vay, vốn góp
- Các khoản chi khác
Hiện nay, nguồn đầu tư của NSNN vẫn chiếm ưu thế trong tổng chi cho sự nghiệp
giáo dục, đào tạo do hệ thống trường công chiếm tỷ lệ lớn. Để đảm bảo các nội dung chi
này, các trường đại học chủ yếu dựa vào nguồn cấp phát của NSNN. Mặt khác việc xã
hội hoá giáo dục còn hạn chế nên chưa thu hút được các nguồn đầu tư khác cho hệ thống
giáo dục
Chi NSNN cho giáo dục bao gồm 04 nhóm chi sau:
Nhóm 1: Chi cho con người: Gồm lương, phụ cấp lương, phúc lợi, BHXH. Đây là
khoản chi bù đắp hao phí lao động, đảm bảo duy trì quá trình tái sản xuất sức lao động
cho giảng viên đại học, cán bộ công nhân viên trong trường. Khoản chi này theo kế hoạch
chiếm khoảng 35 -> 45% tổng chi của các trường và trong thực tế thì các trường cũng chi
cao hơn kế hoạch, tuy nhiên vẫn chưa đảm bảo được cuộc sống cho cán bộ, giảng viên.
Nhóm 2: Chi quản lý hành chính, gồm: Công tác phí, công vụ phí, điện nước, xăng
xe, hội nghị… Đây là khoản chi mang tính chất gián tiếp, đòi hỏi phải chi đúng, chi đủ,
chi kịp thời và cần phải quản lý tiết kiệm và có hiệu quả. Khoản chi này thường chiếm
khoảng 20% tổng chi thường xuyên.
Nhóm 3: Chi nghiệp vụ chuyên môn, gồm: Các khoản chi mua giáo trình, tài liệu,
đồ dùng học cụ, vật liệu, hoá chất phục vụ thí nghiệm, phấn viết… tuỳ theo nhu cầu thực
tế của các trường. Khoản chi này nhằm đáp ứng các phương tiện phục vụ việc giảng dạy,
giúp cho giảng viên truyền đạt kiến thức một cách hiệu quả. Đây là khoản chi có vai trò
quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo, chiếm khoảng 15% tổng chi
của trường. Hiện nay, trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển không ngừng, nhu
cầu thay đổi công nghệ phục vụ giảng dạy đang đòi hỏi một nguồn vốn lớn. Vì vậy việc
tăng tỷ trọng chi cho giảng dạy và học tập là một trong những điều kiện để giúp nền giáo
dục đại học nước nhà tránh tụt hậu so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế
giới.
Nhóm 4: Chi mua sắm, sửa chữa, gồm: các khoản chi cho việc sửa chữa, nâng cấp
trường, lớp, bàn ghế, trang thiết bị học cụ trong lớp, nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật
chất cho việc giảng dạy và học tập dẫn đến ảnh hưởng không tốt đến chất lượng đào tạo.
Vì vậy khoản chi này cũng cần được chú trọng hơn trong thời gian tới.
* Căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính, sau khi trang trải các khoản chi phí, thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ với NSNN theo quy định (thuế và các khoản phải nộp), số chênh
lệch thu lớn hơn chi do thủ trưởng đơn vị quyết định trích lập các quỹ, sau khi thống nhất
với tổ chức công đoàn:
- Quỹ dự phòng ổn định thu nhập: mức trích do thủ trưởng đơn vị quyết định,
nhằm mục đích đảm bảo thu nhập tương đối ổn định cho người lao động trong trường
hợp nguồn thu bị giảm sút, không đảm bảo kế hoạch đề ra.
- Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi: không vượt quá 03 tháng lương thực tế bình
quân trong năm của đơn vị. Quỹ này dùng để chi khen thưởng cho các tập thể và cá nhân
người lao động, chi các hoạt động phúc lợi tập thể. Thủ trưởng đơn vị quyết định việc sử
dụng và mức chi quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi sau khi đã thống nhất với tổ chức công
đoàn.
- Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: Sau khi đã trích lập 3 quỹ trên, quỹ này
được sử dụng nhằm tái đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị, hỗ trợ đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Trong phạm vi nguồn của quỹ, thủ trưởng đơn vị
quyết định việc sử dụng vào các mục đích trên theo quy định.
Các trường Đại học công lập không được trích lập các quỹ trên từ các nguồn kinh
phí:
- Kinh phí nghiên cứu khoa học, đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành
- Chương trình mục tiêu Quốc gia
- Tiền mua sắm sửa chữa tài sản được xác định trong phần thu phí, lệ phí được để
lại đơn vị theo quy định.
- Vốn đầu tư XDCB, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản.
- Vốn đối ứng các dự án, vốn viện trợ, vốn vay.
- Kinh phí NSNN cấp để thực hiện tinh giảm biên chế.
- Kinh phí NSNN cấp để thực hiện các nhiệm vụ đột xuất.
- Kinh phí của các nhiệm vụ phải chuyển tiếp sang năm sau thực hiện.
1.2.2.3. Quản lý định mức chi ở các trường Đại học công lập
Việc quản lý và lập định mức chi bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Lập kế hoạch: Dựa vào quy mô đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển sự nghiệp
giáo dục, chỉ tiêu biên chế, số lượng học sinh - sinh viên, cơ sở vật chất để xây dựng kế
hoạch tài chính, cấn đối thu-chi cho phù hợp.
- Điều hành thực hiện: Cấp phát kinh phí và thực hiện các khoản chi tiêu kịp thời
theo kế hoạch, đảm bảo hoạt động thường xuyên của đơn vị, giám sát việc chi tiêu của các
bộ phận theo đúng chế độ, đúng mục đích và có hiệu quả.
- Quyết toán kinh phí: là khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh phí, phản ánh
đầy đủ các khoản chi và báo cáo quyết toán ngân sách đúng chế độ, báo cáo về biểu mẫu,
thời gian, nội dung và các khoản chi tiêu. Trên cơ sở báo cáo quyết toán, phân tích đánh
giá tình hình thực hiện kế hoạch chi tiêu cho công tác đào tạo, rút ra ưu, nhược điểm
trong quá trình quản lý, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch năm sau sát hơn.
- Kiểm tra: Việc thực hiện kế hoạch không phải bao giờ cũng đúng như dự kiến, đòi hỏi
phải có sự kiểm tra thường xuyên để nắm tình hình quản lý tài chính.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính ở trường Đại học công lập
Giáo dục đào tạo có mối quan hệ chặt chẽ với những thay đổi, phát triển về xã hội,
kinh tế và chính trị. Tác động của những biến đổi này đến trạng thái của hệ thống giáo
dục, đến nội dung giáo dục và cấu trúc của các cấp bậc học là rất đa chiều. Đặc trưng cơ
bản nhất của giáo dục đại học là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho tất cả các lĩnh
vực của xã hội. Sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học một mặt bị tác động, chi phối
đồng thời cũng góp phần thúc đẩy các xu hướng phát triển chung của đời sống văn hoá xã
hội hiện đại.
Quản lý tài chính là một hoạt động rất quan trọng không chỉ đối với các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh mà cả đối với các trường đại học. Nó là một trong những yếu
tố quyết định quy mô, chất lượng đào tạo cũng như uy tín của các trường đại học. Nhất là
trong điều kiện xã hội hoá giáo dục và nâng cao tính tự chủ tài chính của các trường Đại
học công lập như hiện nay. Hoạt động quản lý tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể của
mỗi trường đại học sẽ khuyến khích và tạo cơ sở cho các trường đại học phát triển. Do đó
hoạt động quản lý tài chính phù hợp với quy mô và tính chất của từng trường đại học đòi
hỏi phải tính đến tác động của nhiều nhân tố. Nhìn chung hoạt động quản lý tài chính của
trường đại học chịu tác động của các nhân tố cơ bản sau:
1.2.3.1. Điều kiện kinh tế - xã hội - văn hoá
Những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá và chính sách chi tiêu công
cho giáo dục đại học là các yếu tố tác động đến quá trình đổi mới hệ thống tài chính giáo
dục đại học. Trước hết, đó là sự xuất hiện của nền giáo dục đại học đại chúng, hệ quả là
môi trường chính sách của giáo dục đại học đã từng bước thay đổi và ngày càng gắn chặt
hơn với cấu trúc nền kinh tế - xã hội. Những nhân tố trước đây được xem là phù hợp với
yêu cầu quản lý của các trường đại học thì nay không còn thích hợp và đòi hỏi phải có
những cải cách, đổi mới. Mục tiêu của sự đổi mới là nâng cao chất lượng đào tạo, sự
thích ứng và tính công bằng trong các trường đại học công lập.
Yếu tố lao động và việc làm cũng đang có những thay đổi quan trọng. Trong bối
cảnh toàn cầu hoá và trước yêu cầu phát triển của một nền kinh tế tri thức, nhu cầu về lực
lượng lao động của xã hội đang có sự thay đổi về chất. Trước đây chủ yếu đòi hỏi một
đội ngũ lao động phải được đào tạo trong các trường dạy nghề, trung học kỹ thuật, trước
khi bước vào thị trường sức lao động, thì ngày nay xã hội đang có nhu cầu ngày càng
tăng về lực lượng lao động được qua đào tạo ở trình độ đại học và sau đại học, các nhà
khoa học và các chuyên gia bậc cao.
Để đáp ứng nhu cầu về học tập của xã hội, hệ thống giáo dục đại học ở hầu hết các
nước đều phải mở rộng quy mô nhằm tiếp nhận ngày càng nhiều sinh viên vào học. Kết
quả là, số lượng các cơ sở đào tạo đại học ngày càng tăng, mạng lưới các trường đại học
ngày càng đa dạng hơn.
Quy mô sinh viên tăng, số lượng các trường đại học cũng tăng nhưng chi phí công
cũng như các nguồn lực cung cấp cho phát triển trường đại học không tăng tương ứng.
Điều này làm nảy sinh những bất cập và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng trong các
trường đại học.
Nhằm ngăn chặn tình trạng suy giảm chất lượng giáo dục đại học, nhiều giải pháp
đổi mới cả về tổ chức và quản lý đại học đã được triển khai áp dụng. Ngày nay, nâng cao
chất lượng trong các trường đại học không còn là việc riêng của từng hệ thống đại học
đơn lẻ, mà đã trở thành mối quan tâm hàng đầu có tính toàn cầu của mọi quốc gia.
Mục tiêu của quá trình đổi mới chính sách quản lý đại học, trong đó có việc đổi
mới hệ thống tài chính giáo dục đại học và từng bước trao quyền tự chủ tài chính cho các
trường đại học là nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động trong các trường đại học.
1.2.3.2. Chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với giáo
dục đào tạo ở các trường đại học công lập
Đây là nhân tố ảnh hưởng quyết định tới hoạt động quản lý tài chính của trường
đại học, cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị hành chính sự nghiệp có thu là một bộ
phận của chính sách tài chính quốc gia, nó là căn cứ để các trường đại học xây dựng cơ
chế quản lý tài chính riêng. Vì vậy nếu cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước tạo mọi
điều kiện để phát huy tính chủ động, sáng tạo của trường đại học thì đó sẽ là động lực
nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động quản lý tài chính của mỗi trường.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, Nhà nước quản lý gần như tất
cả các dịch vụ xã hội, trong đó có giáo dục - đào tạo. Khi đó, trường đại học được cấp
toàn bộ kinh phí từ NSNN, việc sử dụng nguồn kinh phí đó như thế nào cũng hoàn toàn
theo quy định của Nhà nước. Trong điều kiện đó, mọi người dân trong xã hội đều có cơ
hội học tập, tuy nhiên do nguồn NSNN còn hạn hẹp nên Nhà nước không đáp ứng được
nhu cầu học tập của toàn xã hội, cả về quy mô lẫn về chất lượng giáo dục.
Việc chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN, đã tạo nên những bước phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội -
văn hoá. Theo đó lĩnh vực giáo dục cũng có những thay đổi rõ rệt theo hướng xã hội hoá
sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Hiện nay chính sách tài
chính trong giáo dục - đào tạo đối với các trường đại học công lập đổi mới theo hướng:
- Tạo quyền chủ động, tự quyết, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp có thu
mà trước hết là Hiệu trưởng nhà trường.
- Tăng cường trách nhiệm quản lý Nhà nước và đầu tư cho giáo dục - đào tạo.
- Sắp xếp bộ máy và tổ chức lao động hợp lý.
- Tăng thu nhập cho người lao động.
1.2.3.3. Chế độ chính sách của Nhà trường và quy mô, bộ máy quản lý tài chính
của trường đại học công lập
Thông qua cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước cho các đơn vị hành chính sự
nghiệp, các trường đại học công lập nói chung và các trường đại học dân lập nói riêng, thì
mỗi trường phải xây dựng cho mình những cơ chế cho phù hợp trên nguyên tắc đảm bảo
các chế độ chính sách của Nhà nước. Tuỳ theo quy mô của mỗi trường sẽ điều chỉnh các
quan hệ tài chính khác nhau như việc xác định các hình thức huy động nguồn tài chính,
việc phân phối chênh lệch thu - chi hằng năm… với các trường có quy mô lớn, nguồn vốn
lớn thì dễ dàng trong việc đầu tư nâng cấp và sử dụng các trang thiết bị, nâng cao trình độ
giáo viên, chất lượng sinh viên, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên do quy mô lớn, bộ máy quản lý cồng kềnh nên việc quản lý sẽ kém linh
hoạt và tốn kém. Ngược lại với những trường có quy mô nhỏ sẽ dễ dàng thích ứng với
những thay đổi về cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy… Nhưng lại khó có thể trang bị
những trang thiết bị hiện đại, nâng cao trình độ giáo viên… Do đó khó khăn trong việc
nâng cao chất lượng giảng dạy.
1.2.3.4. Nhiệm vụ, mục tiêu, xu hướng vận động phát triển của trường Đại học
công lập và những vấn đề mới đặt ra trong việc quản lý tài chính, nguồn tài chính ở
trường Đại học công lập
Trong điều kiện vận động và xu hướng phát triển của đời sống xã hội hiện đại,
giáo dục đại học ở các nước đã và đang phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức to
lớn, đặc biệt là vấn đề giải quyết các mối quan hệ giữa quy mô, chất lượng và hiệu quả
đào tạo, đào tạo và nghiên cứu, dịch vụ, nhu cầu và nguồn lực cho phát triển… Để giải
quyết các yêu cầu, nhiệm vụ đó thì giáo dục đại học ở nước ta đã và đang phải thực hiện
các cuộc đổi mới và cải cách sâu rộng về mục tiêu và xu hướng sau:
- Xu hướng đại chúng hoá: chuyển từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng
và phổ cập.
- Xu hướng đa dạng hoá: Phát triển nhiều loại hình trường với cơ cấu đào tạo đa
dạng về trình độ và ngành nghề theo hướng hàn lâm hoặc nghề nghiệp và công nghệ nặng
về thực hành.
- Tư nhân hoá: Để tăng hiệu quả đào tạo và thu hút nhiều nguồn lực ngoài NSNN
cho giáo dục đại học, nhiều nước như Mỹ, Philipin phần lớn các trường đại học là trường
đại học tư.
- Bảo đảm chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh, tập đoàn hoá và công
nghệ hoá giáo dục đại học.
- Phát triển mạng lưới các đại học nghiên cứu để trở thành các trung tâm sản xuất,
sử dụng, phân phối, xuất khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ mới, hiện đại. Thông
qua đào tạo và nghiên cứu để phát hiện và thu hút nhân tài khoa học và công nghệ.
- Đẩy mạnh các loại hình dịch vụ đào tạo nhân lực quốc tế và khu vực. Như vậy,
xu hướng chung của giáo dục đại học trên thế giới là chuyển dần sang khu vực tư nhân.
Chính vì vậy, xu hướng quốc tế là tăng quyền tự chủ trong quản lý tài chính và quản lý
nhân sự của cấp cơ sở trong hệ thống giáo dục. Các trường phải đối mặt thường xuyên
với các vấn đề thực tiễn của người dạy và người học, đồng thời cũng là cấp có khả năng
phân bổ và sử dụng các nguồn lực thích hợp. Xu hướng này chính là công cuộc cải cách
tài chính trong tiến trình cải cách giáo dục được thực hiện có hiệu quả ở một số nước phát
triển, cải cách tài chính trong tiến trình cải cách giáo dục chính là sự phân công và phân
bổ lại các nguồn kinh phí phục vụ cải cách giáo dục có hiệu quả, đạt chất lượng cao.
- Khoa học công nghệ phát triển đòi hỏi hoạt động quản lý tài chính phải thay đổi
cho phù hợp, tránh lạc hậu và phải phù hợp với trình độ quản lý chung của trường đại
học, giúp trường dễ dàng tiếp cận và thực hiện đúng mục tiêu của cơ chế quản lý tài
chính.
Trình độ khoa học kỹ thuật - công nghệ ngày càng phát triển đa dạngvà phong
phú, vì vậy tính truyền thống về nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy trong
trường đại học bị phá vỡ. Để khỏi bị lạc hậu, trường đại học phải thường xuyên gắn kết
với khoa học công nghệ thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ. Để tăng tính hấp dẫn của mỗi khoá học và đảm bảo tính phù hợp của khoá
học với thực tế sản xuất và đời sống, nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy và
hoạt động của trường đại học phải có sự chủ động về học thuật để thích ứng với những
thay đổi hàng ngày của cuộc sống. Ngoài mục tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy mang
tính truyền thống, hoạt động nghiên cứu khoa học của trường đại học hiện nay còn phải
đạt được mục tiêu mở rộng nguồn thu nhằm tăng thu nhập của trường. Muốn vậy trường
đại học phải thường xuyên chuyển các nguồn lực nghiên cứu vào các đề tài và lĩnh vực
mới. Để đảm bảo thành công chính sách ưu tiên cho nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao
công nghệ trong môi trường cạnh tranh, quy trình cấp vốn cho hoạt động nghiên cứu phải
hết sức năng động và linh hoạt. Hệ thống quản lý tài chính đại học cần phải được thay đổi
cho phù hợp.
1.3. Kinh nghiệm của các trường đại học trong việc quản lý tài chính
1.3.1. Kinh nghiệm của nước ngoài
* Kinh nghiệm của Mỹ:
Nguồn kinh phí và tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục đại học ở Mỹ rất lớn, gồm: Sự hỗ trợ
tài chính rất lớn của Nhà nước và xã hội. Ngân sách hàng năm của Nhà nước dành cho
giáo dục luôn có xu hướng gia tăng (ví dụ như năm 1989 đầu tư cho lĩnh vực này khoảng
353 tỷ USD, đến năm 1999 là 635 tỷ USD, đến năm 2003 đã đạt 756 tỷ USD, nên phần
chi cho giáo dục đại học cũng tăng theo, hiện nay đầu tư cho giáo dục chiếm tỷ lệ khoảng
7% GDP, và nếu kể cả phần chi của xã hội thì toàn bộ chi tiêu cho giáo dục - đào tạo
hàng năm xấp xỉ 1.000 tỷ USD, trong đó giáo dục đại học chiếm đến 2/3, tức hơn 700 tỷ
USD.
Trong cơ chế quản lý tài chính tập trung, với việc phân bổ ngân sách theo các tiêu
chuẩn định sẵn, nhà trường nhận các nguồn tài trợ về: tài liệu học tập, giảng viên, phương
tiện đi lại cùng một ít kinh phí khác, đã làm hạn chế khả năng sáng tạo của đội ngũ, ngăn
cản sự đổi mới của nhà trường, có hại cho việc thiết kế chương trình và khả năng tham
gia của các nhà giáo dục… Vì vậy các nhà kinh tế học Hoa Kỳ cần phải thực hiện cải
cách giáo dục một cách cơ bản với hai chiến lược: Chiến lược quản lý tài chính và chiến
lược hiệu quả chi phí và chất lượng.
Các nghiên cứu trong lĩnh vực trường tư cũng cho thấy rằng phí tập trung hoà
trong 04 lĩnh vực: Quyền lực, thông tin, tri thức và kinh phí sẽ làm tăng hiệu quả và chất
lượng đào tạo trong nhà trường. Nhà trường có quyền quyết định phân bổ các nguồn tài
chính một cách hợp lý và được quyền tự chủ về tài chính. Khi trao quyền tự chủ về tài
chính cho các trường đại học công lập, các nhà quản lý quận, huyện tiếp tục kiểm soát
các chi phí của Nhà trường như: nhà, cửa, lương của giảng viên, các khoản mua sắm ban
đầu… các nhà quản lý quận, huyện cần đưa ra danh mục các trang thiết bị chất lượng và
buộc Nhà trường phải tuân theo. Vì vậy, các chuyên gia quản lý tài chính cấp quận,
huyện lại tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với Nhà trường trong quá trình tự chủ về tài
chính. Điều đó dẫn đến một số trường có thể thuê giảng viên ít kinh nghiệm hoặc giảng
viên làm việc thêm giờ để giảm giá thành phải trả cho đội ngũ, dẫn đến chất lượng và
hiệu quả không cao.
Để thực hiện tốt tự chủ về tài chính trong các trường đại học công lập đòi hỏi nhà
trường cần có các quyền sau:
- Quản lý chuyên môn: Nhà trường phải được tự tuyển chọn đội ngũ giảng viên,
quyết định thời gian làm việc của các tổ chuyên môn, phân công lao động hợp lý.
- Quản lý các khoản chi tiêu cho giảng viên và các phương tiện sử dụng trong nhà
trường.
- Kiểm soát các nguồn cung cấp: chủ động tìm người cung cấp các dịch vụ và các
thiết bị khi họ cần. Cho phép Nhà trường được chuyển các khoản tiền chưa chi tiêu sang
các năm học sau.
Việc phân bổ ngân sách giáo dục được thực hiện theo các phương thức:
- Phân bổ ngân sách dựa trên số lượng học sinh, sinh viên, chính quyền Liên bang
định mức chi phí cơ bản và cung cấp kinh phí cho Nhà trường.
- Trợ cấp kinh phí cho các học sinh, sinh viên nghèo với định mức hỗ trợ tối thiểu
là 1.500 USD/Sviên.
- Các Bang cần điều chỉnh phân bổ kinh phí phù hợp với các trường, vùng, miền…
* Kinh nghiệm của Thái Lan:
Chính phủ khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư thêm cho hệ thống giáo dục - đào
tạo như xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm trang thiết bị dạy học. Mới đây, Nội các
Chính phủ đã thông qua việc xây dựng một quỹ 20 tỷ Bạt để trợ cấp theo hình thức cho vay
với lãi suất ưu đãi cho các nhà đầu tư muốn xây dựng thêm trường học. Chính phủ sẵn
sàng cấp đất với giá thấp và miễn giảm thuế cho các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng
giáo dục - đào tạo.
Đối với người học có quyền được vay trước một khoản tiền để trả học phí, mua
sách vở, học cụ và các chi phí khác liên quan tới học tập, lượng vay đủ để cho người học
trang trải cho đủ 7 năm: 3 năm ở cấp trung học và 4 năm ở cấp đại học. Sau khi tốt
nghiệp 2 năm thì họ bắt đầu phải hoàn trả số tiền vay cả gốc cộng lãi: 1% hằng năm trong
vòng 15 năm.
Việc sử dụng công cụ tài chính linh hoạt như ở Thái Lan đã tạo cơ hội tốt, không
những cho tất cả những người dân mà còn cho những người nghèo có cơ may học tập.
* Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Trong những năm gần đây giáo dục đại học ở Trung Quốc phát triển nhanh chóng,
Nhà nước Trung Quốc đã thực hiện những cải cách nhằn thúc đẩy giáo dục đại học theo
kịp sự phát triển kinh tế và đáp ứng được nhu cầu đại học của các đối tượng trong xã hội.
Việc cải cách quản lý cơ chế tài chính giáo dục đại học của Trung Quốc được thực
hiện theo các hướng sau:
- Chuyển giao phần lớn các trường Đại học cho các Tỉnh, thành phố quản lý
- Nới rộng quyền quản lý các trường Đại học, Cao đẳng cho địa phương
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
- Cải cách thể chế đầu tư, xây dựng, phát triển các trường ngoài công lập
- Cải cách thể chế giáo dục, thực hiện xã hội hoá giáo dục đại học
1.3.2. Kinh nghiệm ở các trường đại học trong nước
Kinh nghiệm của Đại học Quốc gia Hà Nội:
Trong công cuộc đổi mới đất nước đã tạo nên sự chuyển biến quan trọng trong tất
cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội mà nổi bật là sự chuyển đổi cơ chế từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội hoạt động phù hợp với những yêu cầu
đổi mới nền giáo dục đại học theo hướng xây dựng các đại học lớn đa ngành, đa lĩnh vực,
chất lượng cao, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, để có thể bắt kịp
trình độ giáo dục đại học của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Khắc phục
tình trạng phân tán hiện nay với một số đông các trường đại học đơn ngành, quy mô nhỏ,
chất lượng đào tạo không đồng đều và có xu thế tách rời đào tạo với nghiên cứu khoa
học. Đại học Quốc gia Hà Nội được hoạt động và tổ chức theo quy chế đặc biệt với
những quyền tự chủ cao trong một môi trường thuận lợi, Đảng và Nhà nước có những
chủ trương, chính sách đầu tư hợp lý cho sự phát triển giáo dục và đào tạo, nhiên cứu
khoa học và công nghệ. Nghị quyết Trung ương II khoá VIII đã ghi rõ: “coi trọng nghiên
cứu cơ bản, nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của đất nước, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ, phấn đấu để đến năm
2020 có một số trường Đại học đạt chuẩn Quốc tế”.
Mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội cùng với quy chế và Nghị định của Chính phủ
ban hành giao quyền tự chủ cao, cho phép khai thác sử dụng tốt các nguồn lực tập trung,
các cơ sở vật chất dùng chung cho tất cả các đơn vị thành viên. Đặc điểm này khiến Đại
học Quốc gia Hà Nội vừa khai thác được sức mạnh tối đa của toàn hệ thống, vừa nâng
cao được hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả sử dụng và khai thác nguồn nhân tài, vật
lực.
Từ những bài học kinh nghiệm của các nước và ở trong nước, chúng ta có thể kế
thừa những kinh nghiệm, những mô hình quản lý tài chính tiên tiến của các nước trên thế
giới và bài học quản lý tài chính giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung và cho Đại học
Đà Nẵng nói riêng:
- Cần tăng cường quyền tự chủ tài chính cho các trường đại học để trường có thể
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu của thị trường sức lao động.
Xây dựng mô hình trường đại học công lập tự chủ thay cho mô hình hoạt động của
trường đại học truyền thống.
- Đổi mới công tác phân bổ và quản lý ngân sách giáo dục
- Hoàn thiện cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ chế chính sách và các giải pháp xã hội hoá
giáo dục, tạo điều kiện để vừa phát triển quy mô số lượng vừa nâng cao chất lượng đào
tạo.
- Phát triển các trường ngoài công lập, hoàn thiện và ban hành các cơ chế chính
sách hỗ trợ các trường ngoài công lập, tạo sự cạnh tranh trong
giáo dục.
- Khuyến khích đa dạng hoá các nguồn thu của trường đại học, nhất là các nguồn
thu ngoài NSNN cấp.
- Cải tiến quản lý cơ chế tài chính, thực hiện phân cấp phân quyền tiến tới xây
dựng mô hình các trường Đại học tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo tinh thần Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ.
Chương 2
Thực trạng quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Đại học Đà Nẵng
2.1.1. Khái quát về Đại học Đà Nẵng
2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của Đại học Đà Nẵng
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, tiếp tục quán triệt các tư tưởng chỉ
đạo về giáo dục của Nghị quyết TW2 khoá VIII, nỗ lực phấn đấu toàn diện, làm cho giáo
dục thực sự là quốc sách hàng đầu cả về 4 yêu cầu: Đầu tư tài chính, đầu tư cán bộ, chính
sách ưu tiên, tổ chức quản lý. Tập trung phát triển giáo dục mạnh hơn, khẩn trương và
hiệu quả hơn, theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Đưa nền giáo dục nước
nhà vào thế ổn định với chất lượng giáo dục toàn diện, nhằm đào tạo có chất lượng nguồn
nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN.
Đà Nẵng là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương, là trung tâm về khoa
học, kỹ thuật, thương mại, dịch vụ của khu vực Miền Trung và Tây Nguyên, nằm trải dài
theo khu công nghiệp Miền Trung và khu vực, là đầu mối giao thông về hàng không,
đường sắt, đường bộ và đường biển. Là một trong ba sân bay quốc tế của cả nước, có
trạm không lưu kiểm soát bay của cả khu vực, cảng biển nước sâu. Đây là cảng biển lớn
nhất của Miền Trung để giao lưu với khu vực và trên thế giới. Đà Nẵng có một đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế đông đảo, ngày càng tăng về số lượng và chất
lượng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của Miền Trung và Tây Nguyên.
Việc tổ chức, sắp xếp lại các trường Đại học Việt Nam theo hướng đa ngành, đa
lĩnh vực là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, với mục tiêu chủ yếu là nâng
cao tính thực tiễn, tính gắn kết, tính linh hoạt và khả năng thích ứng của hệ thống giáo
dục đại học Việt Nam với các nhu cầu đa dạng của nền kinh tế thị trường, nâng cao chất
lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy, học
tập nhằm đuổi kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, nâng cao tính hiệu quả của
việc sử dụng các nguồn lực trong đại học nói chung và Đại học Đà Nẵng nói riêng là nhu
cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Trong việc sắp xếp lại mạng lưới các trường Đại học, Đại học Đà Nẵng được
khẳng định là đại học khu vực đa cấp, đa ngành, do vậy cần được đầu tư nhằm nâng cấp
cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển toàn diện để đáp ứng được nhiệm vụ Nhà nước
giao.
Đại học Đà Nẵng được thành lập theo Nghị định số: 32/1994/NĐ-CP ngày
04/04/1994 của Chính phủ, thuộc hệ thống giáo dục đại học của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ cấu tổ chức của Đại học Đà
Nẵng gồm:
- Các trường thành viên:
+ Trường Đại học Bách khoa
+ Trường Đại học Kinh tế
+ Trường Đại học Sư phạm
+ Trường Đại học Ngoại ngữ
+ Trường Cao đẳng Công nghệ
- Các Ban chức năng:
+ Văn phòng Đại học Đà Nẵng
+ Ban Tổ chức cán bộ
+ Ban Đào tạo
+ Ban Kế hoạch tài chính
+ Ban Quản lý khoa học và Đào tạo sau đại học
+ Ban Thanh tra giáo dục và công tác thi đua
+ Ban Hợp tác Quốc tế
+ Ban Quản lý dự án xây dựng Đại học Đà Nẵng
+ Ban Quản trị thiết bị
+ Ban Công tác học sinh, sinh viên
- Các trung tâm:
Biểu 2.1: Các trung tâm
STT Tên Trung tâm
1 Trung tâm thông tin tư liệu
2 Trung tâm đào tạo thường xuyên
3 Trung tâm phát triển phần mềm
4 Trung tâm thí nghiệm tổng hợp
5 Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
6 Trung tâm nghiên cứu ứng dụng và tư vấn nền móng công trình
7 Trung tâm nghiên cứu bảo vệ môi trường
8 Trung tâm nghiên cứu thiết bị áp lực và năng lượng mới
9 Trung tâm nghiên cứu và triển khai thiết bị nâng chuyển
10 Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng thiết bị cơ khí
11 Trung tâm nghiên cứu điện-điện tử
12 Trung tâm phát triển quản trị và tư vấn doanh nghiệp
13 Trung tâm nghiên cứu, tư vấn việc làm và du học tự túc
14 Trung tâm đánh giá chất lượng đào tạo
15 Trung tâm khoa học công nghệ và tư vấn đầu tư
16 Trung tâm quản lý ký túc xá
17 Trung tâm giáo dục thể chất
Về cơ cấu tổ chức bộ máy hiện tại của Đại học Đà Nẵng đã đảm bảo sự vận hành tương
đối tốt trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên cùng với sự biến động môi
trường trong bối cảnh hội nhập, đặc biệt là xu hướng tự chủ tài chính, trong thời gian tới Đại
học Đà Nẵng cần hoàn chỉnh quy chế phối hợp các trường thành viên theo hướng phân quyền,
nhằm phát huy tối đa nguồn lực, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ trong giai đoạn chiến lược
mới.
Đại học Đà Nẵng hiện có 1.426 cán bộ công chức, trong đó có 905 giảng viên,
với:
34 giáo sư và phó giáo sư
278 giảng viên cao cấp và giảng viên chính
129 tiến sĩ khoa học và tiến sĩ
431 thạc sĩ
Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006 ->2010, theo mục tiêu được đề ra thì hiện tại Đại học Đà Nẵng đã đạt
mức chỉ tiêu về giảng viên có trình độ thạc sĩ, tuy nhiên giảng viên đạt trình độ tiến sĩ chỉ
chiếm 14,2%, do đó cần phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng để bổ sung đầy đủ lực lượng
nòng cốt này. Mặt khác số sinh viên trên một giáo viên tính đến thời điểm năm 2005 khoảng
40 (quá cao so với mục tiêu của Bộ đề ra). Đội ngũ cán bộ của Đại học Đà Nẵng dưới 50 tuổi
chiếm hơn 80% do đó rất có điều kiện để đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ khoa học kỹ thuật nếu được đầu tư thoả đáng. Đây là một vấn đề cần quan tâm đặc
biệt, đòi hỏi trong thời gian tới Đại học Đà Nẵng phải có kế hoạch đào tạo, tuyển dụng thêm
đội ngũ giáo viên nhằm đảm bảo chất lượng giảng dạy và nâng cao công tác nghiên cứu khoa
học theo yêu cầu đặt ra.
Một thực trạng của giáo dục đại học Việt Nam nói chung và của Đại học Đà Nẵng
nói riêng là đội ngũ cán bộ quản lý chuyên môn và cán bộ quản lý hành chính phần lớn
không được đào tạo cơ bản có hệ thống qua trường lớp quản lý, mà hầu hết xuất phát từ
cán bộ giáo dục, họ trưởng thành từ tích lũy kinh nghiệm qua thực tiễn công tác và tự rèn
luyện. Trong công tác tổ chức cán bộ, Đại học Đà Nẵng thực hiện theo đúng sự lãnh đạo
của Đảng, thực hiện được nguyên tắc có kế thừa thành quả của các trường trước đây đã
làm được, trên tinh thần vì một Đại học vùng vững mạnh, thực hiện chủ trương tổ chức
lại mạng lưới đại học để tăng cường sức mạnh của đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất phục
vụ cho việc phát triển đào tạo.
Với vai trò là một cơ sở đào tạo lớn nhất và có chất lượng cao ở khu vực Miền
Trung, đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, Đại học Đà Nẵng đã
đào tạo ra các cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế có trình độ sau đại học,
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân lành nghề và giáo viên phổ thông
có chuyên môn nghiệp vụ cao, có lương tâm nghề nghiệp, trách nhiệm thích ứng linh
hoạt với thị trường sức lao động rộng lớn.
Đại học Đà Nẵng đã góp phần trực tiếp trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên
cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, tư vấn… trong nhiều lĩnh vực đóng góp vào sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước nói
chung và Miền Trung, Tây Nguyên nói riêng. Ngoài ra, Đại học Đà Nẵng còn đào tạo ra
những chuyên gia giỏi, phục vụ đắc lực, có hiệu quả cao trong công cuộc CNH-HĐH đất
nước.
2.1.1.2. Quy mô ngành nghề và cơ sở vật chất đào tạo
2.1.1.2.1. Về quy mô ngành nghề đào tạo
Với chức năng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội
khu vực miền Trung và Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung. Với phương châm
phát triển đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực Đại học Đà Nẵng gồm 5 trường thành viên đã và
đang đào tạo 66 ngành nghề bao gồm hầu hết các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, sư phạm,
ngoại ngữ… với chất lượng ngày một cao nhằm đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe về
nhu cầu nguồn nhân lực đa dạng hoá của xã hội. Quy mô cơ cấu ngành nghề đào tạo của
Đại học Đà Nẵng được thể hiện như sau:
Biểu 2.2: Cơ cấu ngành nghề đào tạo của Đại học Đà Nẵng
giai đoạn 2001-2005
STT Trường Đại học Bách khoa STT Trường Đại học Sư phạm
1 Cơ khí chế tạo 20 Sư phạm toán - tin
2 Cơ điện tử 21 Sư phạm toán
3 Cơ khí giao thông 22 Sư phạm tin
4 Điện kỹ thuật 23 Sư phạm vật lý
5 Điện tử - viễn thông 24 Sư phạm hoá học
6 Kỹ sư tin học 25 Sư phạm sinh - môi trường
7 Công nghệ hoá thực phẩm 26 Sư phạm giáo dục chính trị
8 Công nghiệp chế biến dầu và khí 27 Sư phạm ngữ văn
9 Công nghệ Silicat 28 Sư phạm lịch sử
10 Công nghệ Polime 29 Sư phạm địa lý
11 Công nghệ sinh học 30 Sư phạm giáo dục tiểu học
12 Công nghệ nhiệt - điện lạnh 31 Sư phạm mầm non
13 Xây dựng dân dụng và công nghiệp 32 Sư phạm giáo dục đặc biệt
14 Công nghệ môi trường 33 SP. GD thể chất - quốc phòng
15 Kiến trúc 34 Cử nhân Toán - tin
16 Xây dựng thuỷ lợi – thuỷ điện 35 Cử nhân toán
17 Kinh tế kỹ thuật 36 Cử nhân công nghệ thông tin
18 Xây dựng cầu đường 37 Cử nhân vật lý
19 Sư phạm kỹ thuật 38 Cử nhân hoá học
39 Cử nhân sinh - môi trường
40 Cử nhân Việt Nam học
41 Cử nhân văn học
42 Cử nhân lịch sử
43 Cử nhân địa lý
44 Cử nhân tâm lý học
STT Trường Đại học Bách khoa STT Trường Đại học Sư phạm
45 Cử nhân báo chí
STT Trường Đại học kinh tế STT Trường Cao đẳng công nghệ
46 Kinh tế phát triển I. Cao đẳng chính quy
47 Kinh tế chính trị 1 Điện kỹ thuật
48 Quản trị kinh doanh 2 Điện tử
49 Kế toán 3 Tin học ứng dụng
50 Tài chính, tín dụng (Ngân hàng) 4 Cơ khí chế tạo
51 Thống kê và hệ thống thông tin 5 Cơ khí giao thông
52 Luật kinh doanh 6 Kỹ thuật nhiệt - máy lạnh
STT Trường đại học Ngoại ngữ 7 Cơ điện tử
53 Sư phạm tiếng Anh 8 Xây dựng dân dụng
54 Sư phạm tiếng Nga 9 Xây dựng cầu đường
55 Sư phạm tiếng Pháp 10 Xây dựng công trình thuỷ
56 Sư phạm tiếng Trung 11 Công nghệ hoá học
57 Cử nhân tiếng Anh 12 Công nghệ hoá thực phẩm
58 Cử nhân tiếng Nga 13 Công nghệ hoá môi trường
59 Cử nhân tiếng Pháp II. Cao đẳng liên thông
60 Cử nhân tiếng Trung 1 Điện kỹ thuật
61 Cử nhân tiếng Nhật 2 Điện tử
62 Cử nhân tiếng Hàn 3 Tin học ứng dụng
63 Cử nhân tiếng Thái 4 Cơ khí chế tạo
64 Cử nhân Quốc tế học 5 Cơ khí giao thông
65 Cử nhân Đông phương học 6 Xây dựng dân dụng
66 Ngôn ngữ và văn hoá Việt
Biểu 2.3: Cơ cấu ngành nghề đào tạo Sau đại học của Đại học Đà Nẵng
giai đoạn 2001 - 2005
STT Tiến sĩ STT Thạc sĩ
1 Kỹ thuật động cơ nhiệt 1 Công nghệ chế tạo máy
2 Công nghệ chế tạo máy 2 Kỹ thuật động cơ nhiệt
3 Công nghệ thiết bị nhiệt 3 Kỹ thuật ô tô máy kéo
4 Công nghệ thiết bị lạnh 4 Công nghệ nhiệt
5 Chế biến thực phẩm và đồ
uống
5 Thiệt bị mạngvà nhà máy điện
6 Cơ học kỹ thuật 6 Tự động hoá
7 Mạng và hệ thống điện 7 Tưới tiêu cho cây trồng
8 Chỉnh trị sông và bờ biển 8 Khoa học máy tính
9 Phát triển nguồn nước 9 Công nghệ thực phẩm và đồ uống
10 Công nghệ sinh học thực phẩm 10 Kỹ thuật điện tử
11 Kinh tế công nghiệp 11 Quản trị kinh doanh
12 Kinh tế nông nghiệp 12 Kế toán
13 Hoá hữu cơ
14 Quản lý giáo dục
15 Phương pháp toán sơ cấp
16 Sinh thái học
17 Văn học Việt Nam
18 Ngôn ngữ học
* Các hệ và các cấp đào tạo:
Là một đại học đa cấp, đa lĩnh vực Đại học Đà Nẵng có chức năng đào tạo từ bậc
công nhân kỹ thuật, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, cụ thể
như sau:
- Đại học có: 66 chuyên ngành
- Cao đẳng có: 13 chuyên ngành
- Trung học chuyên nghiệp có: 08 chuyên ngành
- Công nhân nghề có: 07 chuyên ngành
- Sau đại học có:
+ Tiến sĩ: 12 chuyên ngành
+ Thạc sĩ: 18 chuyên ngành
Ngoài nhiệm vụ đào tạo chính quy theo chỉ tiêu do Nhà nước giao hằng năm, Đại
học Đà Nẵng còn mở nhiều loại hình đào tạo không chính quy như: hệ vừa học vừa làm,
đào tạo từ xa, bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý cho cán bộ
các tỉnh khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Loại hình đào tạo này một mặt đã
đáp ứng tốt nhu cầu nguồn nhân lực của khu vực, mặt khác sử dụng có hiệu quả nguồn
lực của đại học và tạo một nguồn thu nhập bổ sung cho cán bộ công chức nhằm an tâm
công tác trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp.
2.1.1.2.2. Về quy mô đào tạo
Thực hiện phương châm đã được Đại học Đà Nẵng quán triệt trong định hướng
của mình là: “Kiên định với mục tiêu, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo một
cách toàn diện, xây dựng và phát triển các năng lực căn bản của một trường đại học để
khẳng định Đại học Đà Nẵng là một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học lớn trong
cả nước và ngày càng có vị thế cao trong khu vực và trên thế giới”. Trong thời gian qua,
Đại học Đà Nẵng liên tục phát triển theo hướng ổn định quy mô nhằm nâng cao chất
lượng và phát triển các ngành nghề đào tạo mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã
hội. Tỷ lệ tuyển mới hằng năm đều đạt và vượt mức kế hoạch giao ở tất cả các bậc đào
tạo. Trong 5 năm, tuyển mới sau đại học đạt 965 học viên (tăng 226% so với kế hoạch),
hệ đại học gồm 42.816 sinh viên (tăng 122%), đào tạo cao đẳng đạt 99% (9004 sinh viên)
[xem phụ lục 1].
Đại học Đà Nẵng là một trong những đại học có uy tín về chất lượng đào tạo về
quy mô, trong vòng 5 năm từ 20.089 sinh viên năm 2001 (trong đó có 109 học viên sau
đại học; 13.513 thuộc hệ đại học; 4.150 thuộc hệ cao đẳng; 2.517 thuộc hệ trung học
chuyên nghiệp và 808 thuộc hệ dạy nghề) đến nay đã có 86.155 sinh viên, tăng hơn 40%.
Ngoài hệ đại học, hiện nay Nhà trường còn đào tạo hệ sau đại học với 12 chuyên ngành
cho tiến sĩ với quy mô 5 năm (2001-2005) là 59 nghiên cứu sinh và 18 chuyên ngành thạc
sĩ với 899 học viên. Có thể khẳng định, với quy mô này Đại học Đà Nẵng đã đáp ứng
được một phần nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho công cuộc phát triển kinh tế -
xã hội trong khu vực [xem phụ lục 2].
2.1.1.2.3. Về cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác học tập giảng dạy bao gồm nhiều lĩnh vực
khác nhau. Trong đó, các điều kiện về khả năng đáp ứng yêu cầu về chỗ ở nội trú của
sinh viên chưa được đảm bảo đúng mức cho nhu cầu ngày càng tăng về số lượng sinh
viên tuyển sinh mới. Đặc biệt, do nhu cầu hợp tác quốc tế hiện nay Đại học Đà Nẵng có
số lượng du học sinh khá lớn (du học sinh Trung Quốc, Lào và một số ít Hàn Quốc, Nhật
Bản), nhưng nhà trường cũng chưa trang bị được những điều kiện Ký túc xá đảm bảo
những yêu cầu thiết yếu của đối tượng sinh viên này.
Nhìn chung tất cả các trường thuộc Đại học Đà Nẵng đều trong tình trạng thiếu
phòng học, vì vậy việc sắp xếp, bố trí phòng học cho hợp lý tại các trường đang là vấn đề
khó khăn cho các phòng Đào tạo và công tác sinh viên, vì chưa có sự cân đối sức chứa
của các phòng học với các lớp đã được phân chia theo ngành nghề. Điều này dẫn đến tình
trạng hiệu suất sử dụng phòng học chưa cao. Để khắc phục tình trạng này, cần phải ghép
lớp, nhưng vấn đề này cũng không phải đơn giản bởi tính đa dạng của ngành nghề đào
tạo.
Về cơ sở vật chất phục vụ cho nhu cầu học tập, số đầu sách đặc biệt là giáo trình
tăng lên nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu.
Ký túc xá phục vụ cho sinh viên ăn, ở, học tập hiện nay không chỉ là vấn đề mà
Đại học Đà Nẵng, Bộ Giáo dục và Đào tạo bức xúc mà được cả xã hội quan tâm lo lắng
đến. Về mặt tâm lý, khi cho con em mình theo học tại các trường đại học, các bậc phụ
huynh luôn luôn quan tâm đến việc ăn ở của con em mình, nhất là trong tình hình xã hội
đang có khá nhiều phức tạp như hiện nay. Họ muốn gửi gắm con em cho các ký túc xá,
nơi mà họ nghĩ vẫn còn có những ràng buộc nhất định đối với sinh viên, hạn chế được
tính tự do trong sinh hoạt và thuận lợi cho việc học tập của sinh viên. Trong xu hướng
mới, Đại học Đà Nẵng sẽ thực hiện mô hình cho một số trường đại học thuộc Đại học Đà
Nẵng như: Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế sẽ chuyển từ đào tạo theo niên chế sang
hình thức đào tạo theo tín chỉ, bắt đầu từ khoá tuyển sinh 2006, yêu cầu về phòng học
cũng như bố trí thiết kế phòng học cũng phải thay đổi cho phù hợp, đòi hỏi Đại học Đà
Nẵng phải có kế hoạch đầu tư thích hợp nhằm đảm bảo cho công tác đào tạo. Những điều
kiện về đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho học tập, giảng dạy của Đại học Đà Nẵng trong
thời gian qua được thể hiện qua biểu sau:
Biểu 2.4: Các điều kiện cơ sở vật chất tại Đại học Đà Nẵng
TT Danh mục Đơn
vị
2003 2004 2005
1. Khả năng đáp ứng yêu cầu về chỗ ở nội
trú cho sinh viên
m2
34.503 34.503 34.503
2. Diện tích nhà ăn sinh viên m2 1.080 1.080 1.080
3. Số phòng Internet phục vụ sinh viên phòng 04 04 06
4. Số máy tính kết nối Internet phục vụ
sinh viên
Máy
250 300 500
5. Cơ sở vật chất phục vụ dạy và học
5.1. Tổng diện tích nhà làm việc (khu hành
chính)
m2
14.125 14.125 14.125
5.2. Tổng diện tích các phòng học m2 25.187 25.187 25.187
5.3. Tổng diện tích phòng thí nghiệm m2 6.000 6.560 7.600
5.4. Số lượng các phòng thí nghiệm phòng 75 82 95
5.5. Diện tích xưởng thực tập m2 6.000 6.000 6.000
5.6. Số lượng các xưởng thực hành Xưởng 30 30 30
5.7. Số lượng các thiết bị có giá trị từ 5.000
USD trở lên
Thiết
bị
61 70 90
5.8. Tổng giá trị các thiết bị có giá trị từ
5.000 USD trở lên
Thiết
bị
13 tỷ 15 tỷ 18 tỷ
5.9. Diện tích khu thể thao, văn hoá m2 4.000 4.000 4.000
6. Tổng diện tích sử dụng của thư viện m2 5.029 5.029 10.500
7. Diện tích kho sách m2 1.502 1.502 2.600
8. Diện tích phòng đọc m2 2.583 2.583 7.900
9. Sách và tạp chí hiện có trong thư viện
9.1. Số đầu sách giáo trình đầu
sách
251 331 857
9.2. Số đầu sách chuyên ngành đầu
sách
14.168 16.382 20.923
9.3 Số đầu sách tham khảo đầu
sách
389 480 1.207
10. Tổng số tên tạp chí hiện có tại thư viện Loại
TC
212 244 310
11. Số máy tính phục vụ tra cứu tại thư viện Máy 170 170 285
12. Số máy tính phục vụ tra cứu Internet tại
thư viện
Máy
170 170 285
Nguồn: Ban kế hoạch tài chính Đại học Đà Nẵng năm 2005.
2.1.1.3. Thực trạng về nguồn lực tài chính
Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế của đất nước còn
nhiều khó khăn, vì vậy nguồn kinh phí dành cho giáo dục và đào tạo còn gặp nhiều hạn chế, do
đó kinh phí hàng năm của Đại học Đà Nẵng được cấp từ ngân sách Nhà nước thông qua Bộ
Giáo dục và Đào tạo cũng không nhiều. Để bổ sung cho ngân sách Nhà nước, những năm gần
đây nhà nước đã có chủ trương người học đóng góp thêm một phần kinh phí được gọi là học
phí.
Chế độ tài chính của Đại học Đà Nẵng được thực hiện theo Nghị định
10/2002/NĐ-CP, trong trường hợp đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí
hoạt động thường xuyên. Nguồn thu chủ yếu của Đại học Đà Nẵng là từ phí, lệ phí và
kinh phí Nhà nước cấp. Trong thời gian tới cần chú trọng tới nguồn thu gắn với hoạt
động của đơn vị (thu dự án liên kết đào tạo, hoạt động sản xuất, bán sản phẩm thực hành,
sản phẩm thí nghiệm, cung ứng dịch vụ gắn với hoạt động của đơn vị, khai thác cơ sở vật
chất, các hợp đồng nghiên cứu khoa học và công nghệ.)
Tình hình thu - chi ngân sách Nhà nước theo báo cáo quyết toán 2005 của Đại học
Đà Nẵng được phản ảnh trong biểu sau:
Biểu 2.5: Thu-chi ngân sách nhà nước của Đại học Đà Nẵng năm 2005
TT A. Phần thu Số tiền (VNĐ)
I. Tổng số thu từ phí, lệ phí, thu khác 57.225.000.000
1. Thu phí, lệ phí 52.675.000.000
2. Thu hoạt động SXKD 0
3. Thu khác (thu khác + tài trợ) 4.550.000.000
II. Số thu nộp ngân sách (nộp ĐHĐN) 0
III. Số thu được để lại đơn vị theo chế độ 57.225.000.000
IV. Kinh phí ngân sách Nhà nước cấp 81.184.562.000
1. Dự toán chi thường xuyên (I.1+ I.2) 64.800.962.000
2. Dự toán chi đào tạo sau đại học (14-10) 2.501.000.000
3. Đào tạo lại cán bộ (14-11) 147.600.000
4. Chi kinh phí khoa học công nghệ 7.135.000.000
5. Chi chương trình mục tiêu quốc gia 6.600.000.000
6. Chi viện trợ học sinh nước ngoài (10-08) 0
7. Chương trình mục tiêu quốc gia khác 0
B. Tổng số chi của đơn vị 138.409.562.000
I Chi thường xuyên cao đẳng, đại học 57.380.962.000
II Chi thường xuyên 14-07 7.420.000.000
III. Chi bồi dưỡng cán bộ 14-11 147.600.000
IV. Chi khoa học công nghệ (11-01) 7.135.000.000
V. Chi thực hiện chương trình mục tiêu 6.600.000.000
VI. Chi viện trợ học sinh nước ngoài (10-08) 0
VII. Chi chương trình mục tiêu quốc gia khác 0
Nguồn: Ban kế hoạch tài chính ĐHĐN năm 2005
2.1.2. Thực trạng quản lý nguồn thu của Đại học Đà Nẵng
2.1.2.1. Quản lý nguồn thu từ ngân sách nhà nước
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (Quyết định 201/2001/QĐ-TTg ngày
28/12/2001 cũng đặt ra mục tiêu “tăng cường nguồn tài chính cho giáo dục-đào tạo. Nâng
tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo từ 15% năm 2000 lên ít nhất 18% năm
2005 và 20% năm 2010”, điều này được thể hiện qua bảng sau:
Biểu 2.6: Chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục ở Việt Nam
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004
Chi ngân sách GD-ĐT-
KHCN
12.677 15.432 17.615 19.453 21.932
Chương trình mục tiêu 566 600 710 970 1.045
Chi đầu tư phát triển 3.144 3.693 4.309 6.637 7.259
Tổng số 16.387 19.725 22.634 27.060 30.236
Tỷ trọng trong NSNN 15,04% 15,02% 15,04% 16,40% 16,53%
Nguồn: Bộ tài chính – Ngân sách nhà nước
Nguồn NSNN cấp cho giáo dục - đào tạo tăng chậm, tuy nhiên từ năm 2002 để
tăng cường nguồn tài chính cho giáo dục - đào tạo, Nhà nước đã có chủ trương phát hành
công trái giáo dục, vì vậy tỷ trọng chi NSNN cho giáo dục năm 2003 đã đạt 16,40% và
năm 2004 là 16,53% trong tổng chi NSNN. Năm 2003 phát hành công trái giáo dục đã
huy động được 2.579 tỷ đồng, đây là một tín hiệu tốt để thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ chi
NSNN lên 18% năm 2005 và 20 % năm 2010.
Công tác quản lý kinh phí sự nghiệp thường xuyên do NSNN cấp cho Đại học
Đà Nẵng (bao gồm: kinh phí sự nghiệp đào tạo đại học, sự nghiệp đào tạo bồi dưỡng
sau đại học, sự nghiệp nghiên cứu khoa học và sự nghiệp khác do Bộ Giáo dục và Đào
tạo cấp phát) được triển khai thực hiện theo quy trình sau:
- Đầu năm ngân sách, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ sự nghiệp được giao, Đại học
Đà Nẵng xây dựng kế hoạch chi ngân sách cả năm trên cơ sở tổng hợp kế hoạch chi ngân
sách của các đơn vị, bộ phận trực thuộc Đại học Đà Nẵng để bảo vệ, nhận chỉ tiêu kế
hạch chi ngân sách cả năm trước Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Căn cứ chỉ tiêu kế hoạch chi ngân sách cả năm được Bộ Giáo dục và đào tạo
thông báo, Đại học Đà Nẵng sẽ phân bổ cho những nội dung chi tập trung và cho các đơn
vị, bộ phận trực thuộc gắn với những nội dung chi phân cấp quản lý.
- Căn cứ yêu cầu, tiến độ thực hiện nhiệm vụ sự nghiệp, tổng mức chi ngân sách
đã được phân bổ và chế độ chính sách hiện hành, hàng quý Đại học Đà Nẵng xây dựng
dự toán chi ngân sách, đăng ký biên chế, quỹ tiền lương, sĩ số học sinh, quỹ học bổng,
sinh hoạt phí trong quý với Bộ trên cơ sở tổng hợp từ các đơn vị, bộ phận trực thuộc
- Vốn ngân sách do Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phát từng đợt cho Đại học Đà
Nẵng sẽ được cân đối, cấp phát căn cứ chỉ tiêu kế hoạch chi ngân sách để giao cho các
đơn vị, bộ phận trực thuộc.
- Việc cấp phát vốn ngân sách cho các đơn vị được thực hiện theo phương thức
phân bổ hạn mức kinh phí, căn cứ dự trù chi tiêu từng đợt, từng công việc của đơn vị và
kế hoạch đã được duyệt.
2.1.2.2. Quản lý nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước
Nguồn kinh phí ngoài NSNN bao gồm: Thu học phí, viện trợ và thu sự nghiệp
khác, được Đại học Đà Nẵng thống nhất quản lý và hướng dẫn thống nhất việc thu chi
theo quy định.
Đối với Đại học Đà Nẵng, nguồn vốn NSNN cấp vẫn đóng vai trò chủ đạo và
quyết định đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo hằng năm chiếm khoảng 65-75% tổng
nguồn kinh phí của trường.
Biểu 2.6: Cơ cấu nguồn thu của Đại học Đà Nẵng từ năm 2003-2005
ĐVT: tỷ đồng
Chỉ tiêu 2003 2004 2005
Nguồn ngân sách Nhà nước 65.848.264.037 74.382.833.010 81.184.562.000
Nguồn ngoài ngân sách Nhà
nước
56.783.905.925 51.828.500.000 57.225.000.000
Nguồn: Ban kế hoạch tài chính - Đại học Đà Nẵng năm 2005
Qua số liệu bảng trên ta thấy, tỷ trọng nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước cũng
có xu hướng tăng dần qua các năm, cho thấy Đại học Đà Nẵng đã đẩy mạnh được công
tác xã hội hoá giáo dục, đa dạng hoá các nguồn tài chính phục vụ cho sự nghiệp giáo dục
đào tạo và đã thành công trong việc huy động các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà
nước. Đối với Đại học Đà Nẵng ngoài nguồn vốn do NSNN cấp, Nhà trường còn huy
động từ các nguồn sau:
- Học phí, lệ phí và các khoản đóng góp khác của người học theo quy định của
Nhà nước.
- Huy động từ vốn vay và nguồn viện trợ không hoàn lại, các dự án của nước
ngoài, từ các tổ chức kinh tế - văn hoá - giáo dục trong và ngoài nước.
- Huy động từ các đơn vị địa phương, các ngành theo yêu cầu đào tạo theo địa chỉ
và nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ, các hoạt động dịch vụ phát triển kinh tế -
văn hoá - xã hội, các hoạt động sản xuất kinh doanh, bán sản phẩm thực hành, thí
nghiệm…
- Các nguồn thu khác.
2.1.3. Quản lý nội dung chi của Đại học Đà Nẵng
2.1.3.1. Chi từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp
Nguồn NSNN cấp chủ yếu được Nhà trường sử dụng cho các khoản chi thường
xuyên, trực tiếp, gắn với quá trình giảng dạy và học tập, bao gồm các khoản mục sau:
- Chi cho con người: gồm chi lương và các loại tiền công, tiền thưởng và các
khoản phụ cấp, phúc lợi tập thể cho cán bộ công nhân viên, chi học bổng và các khoản
chi hỗ trợ cho sinh viên thuộc diện chính sách… chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng chi hằng
năm.
- Chi quản lý hành chính: gồm chi các khoản tiền điện, nước, điện thoại, Internet,
xăng xe, công tác phí, văn phòng phí và văn phòng phẩm cho giáo viên, tiền nhà đất, vệ
sinh cơ quan… phục vụ cho các hoạt động của bộ máy quản lý của Đại học Đà Nẵng.
- Chi cho nghiệp vụ chuyên môn: gồm chi cho hoạt động đào tạo đại học, cao học
và nghiên cứu sinh như: mua vật tư thí nghiệm, mua tài liệu giáo trình cho thư viện, chi
cho quá trình thực tập, thực tế tại các cơ sở sản xuất, chi cho nghiên cứu khoa học của
sinh viên, khen thưởng cán bộ giảng viên, sinh viên, chi cho tổ chức các hội nghị, hội
thảo về nâng cao chất lượng giảng dạy, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, chi
cho chuyên gia nước ngoài cùng các đoàn đến làm việc…
- Chi mua sắm, sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định nhằm đầu tư mua sắm cơ sở
vật chất, thay thế các trang thiết bị cũ, sửa chữa và trang bị thêm các phòng học, phòng
thí nghiệm, phòng máy tính, thư viện…
Trong những năm qua Đại học Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng nhằm củng cố hoàn
chỉnh bộ máy, giảm biên chế để giảm quỹ lương, giảm chi phí hành chính, đồng thời tỷ lệ
chi cho nghiệp vụ chuyên môn giảng dạy và học tập cũng như chi mua sắm sửa chữa
từng bước được cải thiện nâng lên. Điều này chứng tỏ Đại học Đà Nẵng đã chú trọng hơn
vào việc đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo cả về mặt chuyên môn, nghiệp vụ cũng như
trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học tập.
Việc chi trả lương cho cán bộ công chức và lao động hợp đồng được thực hiện
theo hệ thống thang bảng lương hành chính sự nghiệp, các khoản phụ cấp lương được
thực hiện theo quy định nhưng còn cứng nhắc vì vậy không tạo được động lực để người
lao động nâng cao năng suất và chất lượng giảng dạy.
Các khoản chi hành chính tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu
chi, còn các khoản chi cho nghiệp vụ chuyên môn tuy có tăng nhưng chưa có những bước
chuyển biến đáng kể. Trong thực tế các khoản chi cho sinh viên và giáo viên đi thực tập,
thực tế, mua thiết bị thực hành, thí nghiệm theo yêu cầu đào tạo còn hạn hẹp, mới chỉ đáp
ứng tối thiểu cho một số ngành lý thuyết, đối với các ngành khoa học tự nhiên và công
nghệ còn thiếu thốn. Vì vậy, chất lượng đào tạo chưa cao, kỹ năng thực hành, thực tế của
sinh viên còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc. Chưa
chi trả vượt giờ, chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng còn nhiều bất cập, chưa tương xứng
với công sức của giảng viên, do đó không tạo được động lực để họ giành thời gian đầu tư
nghiên cứu nâng cao trình độ và chất lượng giảng dạy.
Các khoản chi cho mua sắm, sửa chữa trang thiết bị, cơ sở vật chất tuy đã được
chú trọng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự gia tăng về quy mô đào tạo, đặc biệt là hệ
đào tạo chính quy.
2.1.3.2. Chi từ nguồn ngoài ngân sách
Ngoài nguồn kinh phí do Nhà nước cấp, Đại học Đà Nẵng còn huy động thêm
từ các nguồn học phí của người học, lệ phí tuyển sinh và các khoản thu từ đào tạo tại
chức, đào tạo từ xa, các loại dịch vụ cùng các nguồn thu khác. Nguồn kinh phí này
chủ yếu được phân bổ cho các khoản chi sau:
- Chi hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy và phục vụ đào tạo như bồi dưỡng thêm cho
giảng viên, khuyến khích cán bộ, giảng viên tự bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chuyên
môn… phục vụ giảng dạy.
- Chi tăng cường cho cơ sở vật chất: mua sắm, sửa chữa, tôn tạo, thuê cơ sở vật
chất, văn phòng phẩm, trang thiết bị tại các văn phòng khoa, hỗ trợ việc biên soạn giáo
trình, hỗ trợ quản lý chuyên môn, hành chính, đoàn thể.
- Chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo như hỗ trợ cho việc tổ chức
thực tập, thực tế của giảng viên và sinh viên, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao,
vào các dịp lễ tết, khen thưởng học sinh, sinh viên, hỗ trợ phong trào sinh viên tình
nguyện, phong trào mùa hè xanh…
- Trích nộp cho các đơn vị phục vụ: ký túc xá, thư viện trường, trạm xá và nộp cấp
trên.
Nguồn tài chính ngoài NSNN cấp do Nhà trường tự huy động thêm cũng đã
phần nào bổ sung vào tổng nguồn kinh phí chi của Nhà trường nhằm phục vụ cho
công tác giảng dạy và học tập, đầu tư cho mua sắm trang thiết bị cơ sở vật chất, bên
cạnh việc chi cho bộ máy quản lý của Nhà trường. Tuy nhiên nguồn kinh phí này
trong những năm qua huy động chưa được nhiều nhưng cũng đã góp phần cải thiện
nâng cao đời sống cho cán bộ giảng viên, công nhân viên trong trường, bổ sung vào
công tác quản lý hành chính phục vụ đào tạo và hỗ trợ công tác chuyên môn nhằm đổi
mới phương pháp nâng cao chất lượng đào tạo của Đại học Đà Nẵng, đáp ứng yêu cầu
của xã hội.
Hằng năm sau khi trang trải toàn bộ chi phí hoạt động và thực hiện nghĩa vụ với
NSNN theo quy định của pháp luật, số chênh lệch (nếu có) giữa phần thu (sau khi loại trừ
kinh phí nghiên cứu khoa học, chương trình mục tiêu quốc gia, các nhiệm vụ đột xuất
được cấp có thẩm quyền giao, kinh phí thực hiện tinh giảm biên chế, vốn đầu tư xây dựng
cơ bản, vốn đối ứng của ngân sách nhà nước, vốn vay, vốn viện trợ…) và phần chi tương
ứng, Đại học Đà Nẵng có thể trích lập các quỹ sau:
- Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để đảm bảo thu nhập cho người lao động trong
trường hợp nguồn thu bị giảm sút.
- Quỹ khen thưởng được dùng để khen thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá
nhân theo kết quả công tác và thành tích đóng góp.
- Quỹ phúc lợi: dùng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi, chi cho các
hoạt động phúc lợi tập thể của người lao động, trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao
động kể cả trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức chi cho người lao động trong biên chế, chi
thực hiện tinh giảm biên chế.
- Phần còn lại được kết chuyển sang năm sau
Việc phân phối chênh lệch thu – chi của Đại học Đà Nẵng được thực hiện
tương đối hợp lý và phù hợp với quy định của Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16
tháng 01 năm 2002 về “chế độ tài chính áp dụng cho đưon vị sự nghiệp có thu”. Do
chênh lệch thu – chi còn ít nên trường cũng chưa trích lập được quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết
bị, nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, trợ giúp thêm đào tạo,
huấn luyện nâng cao tay nghề, năng lực công tác cho cán bộ, viên chức trong trường.
Vì vậy, trong thời gian tới Đại học Đà Nẵng cần có chính sách tăng cường thu hút các
nguồn tài chính đồng thời giảm, hạn chế bớt các khoản chi tiêu chưa hợp lý, sử dụng
hiệu quả và tiết kiệm các nguồn tài chính để giúp nâng cao chất lượng đời sống cán bộ
giảng viên, nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng giảng dạy và đào tạo đáp ứng nguồn
nhân lực cho xã hội trong tình
hình mới.
2.1.4. Bộ máy và cán bộ quản lý tài chính
2.1.4.1. Bộ máy và phân cấp quản lý tài chính
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Giám đốc Đại học Đà Nẵng quy định về
nhiệm vụ tài chính, Đại học Đà Nẵng lập Ban Kế hoạch -Tài chính và được quy định, tổ
chức như sau:
Ban Kế hoạch - Tài chính của Đại học Đà Nẵng có chức năng:
- Phối hợp với các ban khác của Đại học Đà Nẵng, lập và thực hiện các kế hoạch
được duyệt về thu chi tài chính ngân sách, về trang bị mới, xây dựng mới, tu bổ, chống
xuống cấp, bảo quản và sử dụng các tài sản… trong từng thời kỳ, phục vụ những hoạt
động thường xuyên và xây dựng những định hướng, dự án phát triển lâu dài của Đại học
Đà Nẵng.
- Thực hiện mọi chế độ công tác tài chính, kế toán của đơn vị dự toán và kế toán
hành chính sự nghiệp trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, phục vụ cho việc triển khai
thực hiện có hiệu quả các hoạt động của Đại học Đà Nẵng.
- Triển khai các hoạt động nghiệp vụ tài chính kế toán, bao gồm: nghiên cứu và
triển khai thực hiện đầy đủ các chế độ tài chính hiện hành của Nhà nước, của Bộ, phối
hợp với một số ban nghiên cứu vận dụng và đề xuất các chế độ, tiêu chuẩn định mức cho
hoạt động gắn với thu, chi tài chính và hoạt động quản lý, sử dụng tài sản trong Đại học
Đà Nẵng, bồi dưỡng, huấn luyện và hướng dẫn các nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nhân
viên làm công tác kế hoạch, thống kê, tài chính, kế toán…
- Thực hiện nhiệm vụ trang bị, cung cấp và quản lý việc sử dụng các loại máy
móc, thiết bị công cụ, tài sản của Đại học Đà Nẵng được mua sắm, xây dựng, tiếp nhận từ
mọi nguồn vốn và nguồn cung cấp, thanh lý những tài sản hư hỏng, hết thời hạn sử dụng,
tài sản không sử dụng được.
- Thực hiện nhiệm vụ của đơn vị chủ đầu tư là Đại học Đà Nẵng đối với các công
trình xây dựng cơ bản, sửa chữa lớn, tu bổ, chống xuống cấp và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ
thuật thuộc mọi nguồn vốn trong toàn Đại học Đà Nẵng.
- Thực hiện việc kiểm tra các quá trình thu - chi, phân phối tài chính ngân sách,
các quá trình mua sắm, xây dựng, tu bổ, bảo quản sử dụng thiết bị, công cụ tài sản trong
toàn Đại học Đà Nẵng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, tiết kiệm chi phí, chống tham ô,
lãng phí.
2.1.4.2. Chức năng, nhiệm vụ của cán bộ quản lý tài chính
* Ban kế hoạch tài chính của Đại học Đà Nẵng được tổ chức gồm: Trưởng ban,
các Phó trưởng ban và Kế toán trưởng.
- Mỗi viên chức trong Ban chịu trách nhiệm trực tiếp trước Lãnh đạo Ban về những
nhiệm vụ công tác được giao, chủ động triển khai thực hiện công tác được duyệt và đáp ứng
các nhiệm vụ công tác đột xuất do trưởng ban yêu cầu.
* Các bộ phận thuộc Ban Kế hoạch tài chính bao gồm:
- Bộ phận Kế hoạch và Thống kê:
Có trách nhiệm liên hệ và giao dịch với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ trong
việc xây dựng kế hoạch, cấp phát ngân sách đào tạo, nghiên cứu khoa học của Đại học
Đà Nẵng. Việc xây dựng kế hoạch tài chính của Đại học Đà Nẵng để bảo vệ trước Bộ cần
có sự phối hợp với các Ban chức năng chuyên môn khác trong Đại học Đà Nẵng về đào
tạo, nghiên cứu khoa học, các chương trình mục tiêu… và là cơ sở đầu mối để tập hợp
cân đối các kế hoạch tài chính của các đơn vị, bộ phận trực thuộc của Đại học Đà Nẵng.
Trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch chi ngân sách cả năm được Bộ Giáo dục và Đào tạo thông
báo, lập dự kiến phân bổ những nội dung chi tập trung và cho những nội dung chi được
phân cấp quản lý cho các bộ phận, đơn vị trực thuộc.
Lập dự toán chi ngân sách hằng quý trên cơ sở tổng hợp từ các đơn vị, bộ phận
trực thuộc, báo cáo với Bộ, chuẩn bị điều kiện và xây dựng các dự án, các quy hoạch phát
triển lâu dài của Đại học Đà Nẵng. Nghiên cứu soạn thảo các văn bản hướng dẫn các đơn
vị trực thuộc thực hiện công tác kế hoạch – thống kê và các chế độ báo cáo.
- Bộ phận Nghiệp vụ tài chính kế toán:
Liên hệ giao dịch với Bộ Giáo dục và Đào tạo, kho bạc Nhà nước, ngân hàng về
việc thực hiện tiến độ cấp phát các nguồn vốn và kế hoạch tiền mặt cho toàn Đại học Đà
Nẵng. Thực hiện các thủ tục cấp phát vốn, kinh phí cho các đơn vị thuộc Đại học Đà
Nẵng, theo chỉ tiêu kế hoạch tài chính – ngân sách đã được Giám đốc Đại học Đà
Nẵng duyệt. Triển khai thực hiện các nội dung công tác, nghiệp vụ kế toán hành chính
sự nghiệp và kế toán đơn vị chủ đầu tư của Đại học Đà Nẵng, tổng hợp toàn bộ kinh
phí được cấp trong Đại học Đà Nẵng. Tổ chức thực hiện các yêu cầu thông tin kinh tế
tài chính ngân sách trong Đại học Đà Nẵng để Giám đốc thường xuyên thực hiện mọi
hoạt động tài chính và phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo của Giám đốc Đại học Đà
Nẵng và Ban Kế hoạch tài chính. Thực hiện công tác thanh tra tài chính, kiểm tra kế
toán, thẩm tra xét duyệt quyết toán đối với các đơn vị thuộc Đại học Đà Nẵng. Nghiên
cứu soạn thảo các văn bản hướng dẫn, quản lý sử dụng các nguồn tài chính, thực hiện
chế độ kế toán trong toàn Đại học Đà Nẵng.
- Bộ phận Cơ sở vật chất:
Xây dựng các dự án tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng công trình, lập kế hoạch
tu bổ, sửa chữa, chống xuống cấp toàn bộ tài sản, công trình xây dựng thuộc Đại học Đà
Nẵng, lập kế hoạch đầu tư trang thiết bị, xây dựng mới công trình thuộc Đại học Đà
Nẵng,. Thực hiện công tác đấu thầu, chọn thầu theo quy định hiện hành cho công tác đầu
tư trang thiết bị, sửa chữa, xây dựng thuộc Đại học Đà Nẵng. Triển khai thực hiện các
chương trình mục tiêu trong phạm vị của Bộ Giáo dục và Đào tạo giao cho Đại học Đà
Nẵng. Thực hiện nhiệm vụ cung cấp, trang bị và quản lý việc sử dụng tài sản, kiểm kê
thanh lý tài sản hằng năm. Theo chủ trương chung của Bộ, thường xuyên bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm kê, quản lý tài sản trong
toàn Đại học Đà Nẵng.
* Công tác hạch toán kế toán của Đại học Đà Nẵng được tổng hợp tập trung tại
Ban Tài chính có chức năng, nhiệm vụ cụ thể như sau:
Đối với bộ phận tài vụ của đơn vị hạch toán kế toán phụ thuộc bao gồm các cán
bộ phụ trách công tác kế toán và cán bộ phụ trách công việc thủ kho, thủ quỹ có chức
năng, nhiệm vụ cụ thể là: tham mưu cho thủ trưởng đơn vị trong việc lập, chấp hành các
dự toán, kế hoạch thu-chi tài chính, các chế độ, chính sách tiền tệ, tài chính, tiêu chuẩn
định mức hiện hành.
Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chi trả, thu nộp tại đơn vị, giữ gìn toàn vẹn
các khoản vốn, tài sản do đơn vị trực tiếp quản lý sử dụng. Thực hiện chế độ chứng từ kế
toán đối với các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tại đơn vị. Ghi chép các sổ kế toán,
theo dõi chi tiết theo quy định của hình thức tổ chức công tác kế toán phân tán đối với
đơn vị kế toán phụ thuộc, theo nội dung phân cấp quản lý hạch toán hiện hành và hướng
dẫn của kế toán trưởng Đại học Đà Nẵng.
Lập dự toán thu, chi kinh phí của đơn vị hằng quý, năm theo chỉ tiêu kế hoạch tài
chính ngân sách được phân bổ và theo chế độ tiêu chuẩn, định mức hiện hành theo nhu
cầu công việc… Thực hiện các thủ tục giao nhận tài sản đang dùng, tạm ứng hoặc thu,
nộp kinh phí của đơn vị kế toán cấp trên. Bảo quản toàn vẹn số kinh phí được cấp tại đơn
vị trước khi đưa ra thực chi hoặc thu nộp, bảo đảm kịp thời nhu cầu chi tiêu của đơn vị và
yêu cầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 2.pdf