Tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Ắt-Ta-pư, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay: LUẬN VĂN:
Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
trên địa bàn tỉnh ắt-ta-pư, nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là một xu thế chung
của nền kinh tế thế giới và là nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia, nhất là trong
thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay. Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đã coi thành phần kinh
tế có vốn ĐTNN ở Lào là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Kể từ khi có Quyết định của Uỷ ban quản lý đầu tư hợp tác với nước ngoài về Quy chế
xin cấp phép cho dự án đầu tư nước ngoài tại Lào (27-02-2002) và Luật khuyến khích
đầu tư nước ngoài lần đầu tiên (22/10/2004), hoạt động ĐTNN ở Lào nói chung và ở
tỉnh ắt-ta-pư nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng kể từ khi đó, công tác
quản lý nhà nước (QLNN) về ĐTNN đã có những chuyển biến tích cực và có nhiều tiến
bộ và...
107 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1080 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Ắt-Ta-pư, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
trên địa bàn tỉnh ắt-ta-pư, nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là một xu thế chung
của nền kinh tế thế giới và là nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia, nhất là trong
thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay. Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đã coi thành phần kinh
tế có vốn ĐTNN ở Lào là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Kể từ khi có Quyết định của Uỷ ban quản lý đầu tư hợp tác với nước ngoài về Quy chế
xin cấp phép cho dự án đầu tư nước ngoài tại Lào (27-02-2002) và Luật khuyến khích
đầu tư nước ngoài lần đầu tiên (22/10/2004), hoạt động ĐTNN ở Lào nói chung và ở
tỉnh ắt-ta-pư nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng kể từ khi đó, công tác
quản lý nhà nước (QLNN) về ĐTNN đã có những chuyển biến tích cực và có nhiều tiến
bộ và ngày càng được xem như một trong những điều kiện cần thiết và là yếu tố quan
trọng để phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Những năm vừa qua, nhiều chương trình, dự án đầu tư nước ngoài tại Lào đã góp
phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, nâng
cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, củng cố sức mạnh an ninh quốc phòng, tạo việc làm, tăng thu
nhập và cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân v.v. Song so với yêu
cầu thì hoạt động trong hoạt động ĐTNN chưa đồng đều, chưa thật sự khai thác hết tiềm
năng và chưa đảm bảo đúng theo quy hoạch của Nhà nước Lào. Mặt khác, tác động của
ĐTNN chưa phải đã tạo ra sự tăng trưởng ổn định và vững chắc cho nền kinh tế. Vì vậy,
trước những chuyển biến mau lẹ của kinh tế thế giới và khu vực, trước thực tế những hạn
chế, bất cập của QLNN về ĐTNN đang đặt ra yêu cầu mới đòi hỏi cần phải có sự luận
giải phương hướng và những biện pháp hữu hiệu của QLNN trong ĐTNN. Những biện
pháp này phải đảm bảo khai thác sự giúp đỡ từ bên ngoài nhiều hơn và có hiệu quả hơn
góp phần nhanh chóng đưa Lào thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng thành
công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thu hút và quản lý sử dụng tốt các nguồn đầu tư tự nó chưa phải là giải pháp duy
nhất quyết định sự phát triển nền kinh tế, nó cần phải được đặt trong tổng thể các mối
quan hệ giữa bên trong với bên ngoài, giữa việc phát triển các nguồn lực trong nước, với
chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đúng đắn. Lào có nguồn tài nguyên đa
dạng và tương đối phong phú, đội ngũ lao động dồi dào... Song tất cả đang còn ở dạng
tiềm năng và chưa được khai thác có hiệu quả. Trong điều kiện thiếu gay gắt về vốn,
công nghệ - kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, kinh nghiệm QLNN trong hoạt
động thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nói chung, ĐTNN nói riêng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, vấn đề " Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
trên địa bàn tỉnh Ắt-ta-pư,nước CHDCND Lào hiện nay " được chọn làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Về từng vấn đề cụ thể như: " Thực trạng ĐTNN tại Lào và những vấn đề đang đặt ra";
"Tình hình ĐTNN tại Lào và các giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Lào ; v. v. đã được khá nhiều tác giả nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này đã tập
trung đề cập về việc di chuyển vốn và chuyển giao công nghệ, về các chính sách và biện pháp
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), về vai trò của chính phủ và các thành phần kinh tế,
đồng thời phân tích khá tập trung về thực trạng hoạt động ĐTNN. Một số công trình đã đi sâu
vào nghiên cứu và đề xuất các giải pháp ở tầm vĩ mô nhằm tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi
hơn cho các nhà ĐTNN như bài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế
CHDCND Lào” (Bua-khăm Thíp-pha-vông, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2001). Ngoài ra,
còn một số công trình khoa học khác nghiên cứu về những mảng khác nhau xung quanh hoạt
động ĐTNN. Cũng có một vài công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này nhưng chỉ
trong phạm vi ở một địa phương của Lào hoặc với đối tượng là các doanh nghiệp có vốn FDI.
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên chưa đề cập một cách chuyên sâu về QLNN
đối với các hoạt động ĐTNN vào phát triển nền kinh tế nói chung và vào một địa phương cụ
thể như tỉnh ắt-ta-pư ở Lào.
Với việc kế thừa có chọn lọc những thành tựu đã đạt được trong các công trình nói
trên, luận văn này đi sâu khảo sát, phân tích tương đối toàn diện hơn, cố gắng nêu một
cách tập trung về việc tăng cường QLNN về ĐTNN ở riêng một địa phương là tỉnh ắt-ta-
pư (CHDCND Lào) hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa và có đóng góp bổ sung nhằm làm sáng tỏ cơ
sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và một số địa phương khác của Lào về
QLNN về ĐTNN nói chung, phân tích làm rõ thực trạng ở địa bàn của một tỉnh của Lào
với những đánh giá kết quả, hạn chế và rút ra các nguyên nhân, từ đó đề ra các giải pháp
có tính khả thi về QLNN đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh ắt-ta-pư.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Góp phần làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng NDCM Lào trong việc hoạch
định chính sách và những định hướng quản lý chủ yếu của Nhà nước Lào về ĐTNN
nhằm phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu mà Đảng NDCM Lào đã đặt ra.
- Phân tích thực trạng QLNN về hoạt động QLĐT ở tỉnh ắt-ta-pư kể từ khi có Luật
khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Lào đến nay.
- Đề xuất những giải pháp để hoàn thiện QLNN về ĐTNN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Về lĩnh vực ĐTNN có rất nhiều khía cạnh và nội dung khác nhau, song luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu QLNN về ĐTNN ở địa bàn một tỉnh bao gồm một số nội dung
cơ bản như: cơ sở pháp lý, quy hoạch, chiến lược, chính sách, cơ chế phối hợp, phân cấp
trong bộ máy quản lý, cải cách và hoàn thiện các thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả
của công tác kiểm tra giám sát và quản lý hoạt động ĐTNN cả ở tầm vĩ mô và tầm vi mô
v.v.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Lĩnh vực ĐTNN là đối tượng quản lý của QLNN nhưng có nhiều hình thức ĐTNN
khác nhau, luận văn chỉ tập trung khảo cứu và lấy số liệu dẫn chứng chủ yếu về hoạt động
FDI là hình thức có vai trò lớn hơn cả đối với nền kinh tế của Lào và có tỷ trọng chiếm ưu
thế trong lĩnh vực ĐTNN nói chung.
Thời gian được phân tích chủ yếu là từ sau khi có Luật khuyến khích đầu tư nước
ngoài tại Lào (tháng 10-2004) đến nay và xét nó trong mối quan hệ với định hướng chiến
lược của Đảng NDCM Lào trong các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII và các
phương hướng, biện pháp sẽ tập trung vào những vấn đề cơ bản có tính khả thi trong điều
kiện đặc thù của Lào.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, các quan điểm về đổi mới nền kinh tế Lào được thể hiện trong các văn kiện Đại
hội của Đảng NDCM Lào.
- Cùng với những phương pháp nghiên cứu nói chung, luận văn coi trọng sử dụng
phương pháp khảo sát, phân tích và tổng hợp - khái quát hoạt động thực tiễn thông qua
các số liệu chính thức được Nhà nước Lào công bố. Mặt khác, luận văn sẽ tham khảo
kinh nghiệm của Việt Nam và một số tỉnh khác của Lào về ĐTNN.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Với những kết quả mà luận văn đạt được, tác giả hy vọng qua công trình này góp
phần vào việc nhận thức về ĐTNN nói chung và của FDI nói riêng, ý nghĩa và vai trò của
QLNN về ĐTNN. Đồng thời, đề tài nghiên cứu đã góp phần đề xuất các hướng triển khai
và những nhóm giải pháp chủ yếu để hoàn thiện QLNN nhằm thu hút và sử dụng một
cách có hiệu quả nguồn vốn ĐTNN ở Lào hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương, 8 tiết, các phụ lục và danh
mục các tài liệu tham khảo.
Chương 1
cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
1.1. lý luận cơ bản về đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và bản chất của đầu tư nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) hay còn gọi là đầu tư quốc tế là hoạt động di chuyển
vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời.
Theo cuốn "Đại từ điển Tiếng Việt" thì "Đầu tư nước ngoài là việc xuất khẩu tư bản
của nước mình đem đầu tư ở nước ngoài để thu lợi bằng cách xây dựng xí nghiệp mới,
mở rộng xí nghiệp cũ ở nước ngoài hay mua chứng khoán của các công ty ở nước ngoài"
[47, tr. 610].
Các nhà kinh tế Trung Quốc định nghĩa rằng:
ĐTNN là người sở hữu tư bản nước này đầu tư vào nước khác. Có hai loại
ĐTNN là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Sự khác nhau cơ bản giữa hai loại
này là ở chỗ người đầu tư có quyền kiểm soát thực tế đối với xí nghiệp mà họ đầu
tư ở nước ngoài hay không [6, tr. 9].
Như vậy, ĐTNN là một tất yếu khách quan đối với cả phía đầu tư lẫn phía tiếp
nhận đầu tư. Phía đầu tư chủ yếu là các công ty đa quốc gia thuộc các nước phát triển
hoặc các nền kinh tế mới nổi. Do yêu cầu mở rộng kinh doanh và nâng cao khả năng
cạnh tranh, do sự chi phối của quy luật lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nhằm
tận dụng những lợi thế vốn có của mình, các công ty đa quốc gia phải vươn tầm hoạt
động ra khắp thế giới. Họ trở thành nguồn cung cấp vốn chính cho nền kinh tế thế
giới. Về phía các nước đang phát triển, do thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng cũng
như tích luỹ còn ở mức thấp, phần lớn thu nhập được dùng để đảm bảo tiêu dùng ở
mức tối thiểu cần thiết, do đó phần dành cho tiết kiệm rất nhỏ. Nói cách khác là tỷ lệ
tiết kiệm trên GDP khá thấp, trong khi đó lại cần một khoản đầu tư tương đối lớn để
phát triển nền kinh tế. Mặt khác, ở các nước này, do công nghiệp chưa phát triển nên
hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, nguyên liệu sơ chế hoặc những mặt
hàng có giá trị gia tăng thấp, trong khi đó hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị
có giá trị gia tăng cao. Vì vậy, cán cân thương mại có tình trạng nhập siêu lớn đồng
thời ngoại tệ cũng thiếu hụt nghiêm trọng.
Chính bởi những lý do trên nên việc du nhập tư bản (vốn) từ nước ngoài là điều cần
thiết. Vốn ĐTNN có thể dưới dạng tiền tệ, vật thể hữu hình, các hàng hoá vô hình hoặc
các phương tiện đầu tư đặc biệt khác như cổ phiếu, trái phiếu, các chứng khoán cổ phần
khác. Người bỏ vốn đầu tư được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Theo Luật ĐTNN tại
Việt Nam:
Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của Luật
này [40].
Trên cơ sở các khái niệm được nêu ở trên, có thể hiểu một cách khái quát về ĐTNN
như sau: Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư ở nước ngoài sử dụng vốn, tài sản của
mình để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước sở tại nhằm mục
đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Về bản chất, đây là
hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức phát triển cao hơn của xuất khẩu hàng hóa.
1.1.1.2. Bản chất của đầu tư nước ngoài
Theo quan niệm của V.I. Lênin, hoạt động ĐTNN là sự xuất khẩu "tư bản thừa", là
hoạt động kinh tế chịu tác động và chi phối của các quy luật kinh tế [27]. Người coi vấn
đề xuất khẩu tư bản như một đặc điểm kinh tế cơ bản của giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền và cho rằng xuất khẩu tư bản trở thành cần thiết đối với chủ nghĩa tư bản vì quá
trình tích tụ và tập trung tư bản là điều kiện quan trọng cho sự lớn lên của tư bản. "Tư
bản thừa" ở đây có tính chất tương đối, tức là thừa so với lợi nhuận thấp nếu phải đầu tư
trong nước, còn nếu đầu tư ra nước ngoài thì tỷ suất lợi nhuận sẽ cao hơn. Người nói:
"Nếu chủ nghĩa tư bản chú ý đến phát triển nông nghiệp, đến việc nâng cao mức sống của
nhân dân... thì không thể có hiện tượng "tư bản thừa".
Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, thì số tư bản
thừa vẫn còn chuyên dùng không phải để nâng cao mức sống của quần chúng
trong một nước nhất định, vì như thế sẽ đi đến kết quả làm giảm bớt lợi nhuận
của bọn tư bản, mà là để tăng thêm lợi nhuận đó bằng cách xuất khẩu tư bản ra
nước ngoài, vào những nước lạc hậu [27, tr.356].
V.I.Lênin cũng đã phân tích hai hình thức xuất khẩu tư bản là: xuất khẩu tư bản cho
vay (là hình thức cho chính phủ hay tư nhân vay nhằm thu lợi tức) và xuất khẩu tư bản
hoạt động (là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới, hoặc mua lại
những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để tiến hành sản xuất ra hàng hóa
nhằm mục đích thu lợi nhuận cao). Từ đó, Người cho rằng: xuất khẩu tư bản có tác dụng
tích cực và tiêu cực đối với cả nước xuất khẩu và nhập khẩu tư bản. Trong thời đại tư bản
tài chính thống trị, xuất khẩu tư bản trở thành công cụ bành trướng và thực hiện sự phân
chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền [28, tr. 231].
Cần lưu ý rằng, trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ĐTNN chủ yếu từ các nước
TBPT sang các nước kinh tế lạc hậu và thuộc địa, nhưng sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
nhất là vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, khi mà cách mạng khoa
học và công nghệ phát triển như vũ bão, xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh
tế... đang diễn ra mạnh mẽ thì luồng vận động của FDI đã có sự thay đổi. Sự đầu tư lẫn
nhau giữa các nước TBPT đã xuất hiện và ở cả những nước vừa là nơi cung cấp nguồn
vốn đầu tư ra nước ngoài, vừa là nơi tiếp nhận ĐTNN. FDI góp phần thúc đẩy nhanh quá
trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong
những nhân tố quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình CNH, HĐH ở các
nước nhận đầu tư phát triển nhanh chóng. Song cũng phải nhận thấy rằng FDI vẫn để lại
cho các quốc gia nhập khẩu tư bản, nhất là các nước đang phát triển, những hậu quả nặng
nề. Điều này tùy thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lý của nhà nước ở nước nhận
đầu tư.
FDI là hoạt động thị trường, đặc biệt là hoạt động thị trường quốc tế, mang đầy đủ tính
chất và quy luật thị trường. Do điều kiện cạnh tranh quốc tế, các nhà ĐTNN phải tính toán
kỹ khả năng, điều kiện thị trường để thu được lợi nhuận. Họ sẽ không đầu tư vào những dự
án mà hiệu quả kinh tế không rõ ràng.
Mặt khác, FDI là hoạt động của khu vực tư nhân, hơn nữa là hoạt động của tư nhân
nước ngoài có quyền sở hữu và quyền quản lý. Động cơ của nhà đầu tư tư nhân khác với
mục tiêu của nước tiếp nhận đầu tư. Xu hướng tự nhiên của các nhà đầu tư bao giờ cũng
coi lợi nhuận là mục tiêu duy nhất hàng đầu, trong khi đó, nước chủ nhà lại quan tâm
nhiều đến hiệu quả kinh tế xã hội, đến sự phát triển tổng thể nền kinh tế thị trường. FDI
phần lớn do các công ty xuyên quốc gia tiến hành. Các công ty này có lợi thế về uy tín,
nhãn hiệu, thị trường, công nghệ, khả năng tài chính... để đầu tư vào quốc gia khác.
Tóm lại, có thể khái quát bản chất của FDI là sự gặp gỡ nhau về nhu cầu và lợi ích
của một bên là nhà đầu tư và một bên là nước nhận đầu tư, là xuất khẩu tư bản từ nước
này sang nước khác mà nhà tư bản mong thu được nhiều lợi nhuận. Xuất khẩu tư bản
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Nguyên tắc chủ đạo là nước có vốn xuất khẩu
sang nước thiếu vốn. ĐTNN là tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế thế giới.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò và nguy cơ của đầu tư nước ngoài
1.1.2.1. Đặc điểm của đầu tư nước ngoài
ĐTNN có đặc điểm nổi bật thể hiện ở chỗ là vốn có nguồn gốc của nước ngoài (có
thể là của chính phủ các nước, của các tổ chức tài chính quốc tế, của các nhà đầu tư tư
nhân, ...) đưa vào một quốc gia nào đó nhằm mục đích sử dụng để đầu tư phát triển ở
quốc gia đó. ĐTNN là khoản vốn được sử dụng để đầu tư nhằm tăng tiềm lực cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư (như tăng cơ sở hạ tầng, tăng
năng lực sản xuất kinh doanh, tăng năng lực trí tuệ cho nguồn nhân lực...) và là một bộ
phận quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn để đầu tư phát triển. Chúng có khả năng to lớn
gắn với tăng cường công nghệ tiên tiến cho nước tiếp nhận đầu tư.
Sử dụng vốn đầu tư trong nước kết hợp với vốn nước ngoài là vấn đề chiến lược
trong phát triển kinh tế của các quốc gia trong thời đại ngày nay. Quy mô và cơ cấu
ĐTNN vào quốc gia tiếp nhận đầu tư phụ thuộc rất lớn vào đường lối phát triển, thể chế,
cơ chế, chính sách và các điều kiện khác về nền hành chính, về nguồn nhân lực, về điều
kiện kết cấu hạ tầng,... của quốc gia đó. Nói cách khác, nó phụ thuộc rất nhiều vào môi
trường đầu tư của quốc gia tiếp nhận đầu tư. Dó đó, ĐTNN là yếu tố rất nhạy cảm, mang
tính chính trị, tính kinh tế rất rõ.
1.1.2.2. Vai trò và nguy cơ của đầu tư nước ngoài
* Vai trò của đầu tư nước ngoài
Hoạt động ĐTNN nói chung chỉ có thể thành công khi có sự gặp gỡ về lợi ích của
cả hai bên, do đó, hoạt động ĐTNN có tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế của cả
nước đi đầu tư lẫn nước chủ nhà tiếp nhận đầu tư. Đặc biệt hoạt động FDI có những ưu
việt hơn hẳn các hình thức kinh tế đối ngoại khác vì thường đem lại hiệu quả cao hơn so
với các nguồn vốn ĐTNN khác và trở thành động cơ cả cho cả hai bên, được thể hiện qua
một số điểm dưới đây:
- FDI cho phép khai thác tất cả các lợi thế của một đất nước trong hội nhập kinh tế
quốc tế và đưa chúng vào chu trình kinh tế thế giới thông qua việc mở rộng sản xuất quốc
tế.
- FDI là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra sự bùng nổ xuất khẩu (cả về mặt lượng lẫn
mặt cơ cấu, đặc biệt chuyển biến cơ cấu xuất khẩu theo hướng CNH), FDI đóng vai trò quyết
định trong xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao.
- Thông qua hiệu ứng lan toả, FDI tạo ra sự liên kết bên trong và bên ngoài. FDI
còn là chất xúc tác để thu hút các nguồn vốn nước ngoài khác, đồng thời FDI đã bổ sung
nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực trong nước, tạo thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế.
Ngoài những vai trò nêu trên, đối với từng đối tượng, FDI lại có những vai trò riêng
như:
* Đối với nước đi đầu tư (nhà ĐTNN)
- Cho phép nhà ĐTNN tham gia điều hành quá trình sản xuất kinh doanh ở đơn vị
mà họ bỏ vốn đầu tư. Nhờ vậy, họ có thể đưa ra những quyết định kịp thời, nâng cao hiệu
quả sử dụng đồng vốn mà họ bỏ ra. ở những nơi có môi trường kinh doanh thuận lợi thì
các nhà đầu tư thường muốn bỏ vốn đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài để được
toàn quyền quyết định trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
- Giúp cho các nhà ĐTNN dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như khai
thác nguyên liệu chủ yếu từ nước mà mình đầu tư vốn vào. Đây là cơ hội để các nhà đầu
tư mở rộng thị trường, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng
trên thế giới, thiết lập mạng lưới toàn cầu, nhất là các công ty đa quốc gia. Gắn liền với
điều đó là sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế.
- Tận dụng khai thác được những lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư để tối đa hoá lợi
nhuận trong sản xuất, kinh doanh, tối thiểu hoá chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu
hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao nhờ các ưu đãi đối với FDI hoặc thông qua việc tận
dụng ưu thế đầu vào như nguồn tài nguyên, nhân công với giá rẻ, nguồn nguyên, nhiên
liệu ổn định,... nhất là ở các nước chậm phát triển và đang phát triển.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước muốn sử dụng chính sách này để
bảo hộ sản xuất trong nước, vì thông qua đầu tư trực tiếp họ đã tạo được các doanh nghiệp
nằm trong lòng các nước đang thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch, rồi từ đó sản xuất sản
phẩm đưa ra tiêu thụ ngay tại nước đó hoặc xuất khẩu cho nước thứ ba.
* Đối với các nước tiếp nhận đầu tư
Thứ nhất, FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn
và ngoại tệ, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của nước tiếp nhận đầu tư. Đây là hình thức đầu tư có tính khả thi cao, không có những
ràng buộc về mặt chính trị, tạo điều kiện cho nước chủ nhà tiếp nhận vốn, công nghệ, kỹ
thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến mà không để lại gánh nặng nợ nần cho nền
kinh tế.
Nếu là nước tư bản phát triển: FDI giúp giảm bớt khó khăn trong nước về kinh tế - xã
hội, giải quyết một phần nạn thất nghiệp, kiềm chế lạm phát, tăng thu ngân sách, tăng cường
cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo môi trường cạnh
tranh thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển.
Nếu là nước đang phát triển: FDI đóng vai trò rất quan trọng, giúp nền kinh tế trở nên
năng động, có hiệu quả, tạo đà cần thiết để vượt qua sự nghèo đói vì vốn là cơ sở để tạo ra công
ăn việc làm trong nước, tiếp nhận được những tiến bộ của công nghệ, trình độ khoa học kỹ
thuật hiện đại; học hỏi được những kinh nghiệm chuyên môn, kiến thức kinh doanh, kỹ
năng quản lý tiên tiến từ những nước phát triển hơn... là những mục tiêu mà các hình
thức đầu tư khác không giải quyết được. Về lâu dài, đây chính là lợi ích căn bản nhất đối
với các nước nhận đầu tư, từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho sự phát triển của
xã hội, khắc phục tình trạng thiếu vốn mà ít gây nợ nần, tăng cường khả năng cạnh tranh và
mở rộng khả năng xuất khẩu của nước chủ nhà, thu được một phần lợi nhuận từ các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN hoặc thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ phục vụ cho FDI.
Thứ hai, thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tận dụng được nguồn vốn bổ sung góp
phần quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại
nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh
mẽ hiện nay. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết
kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong
nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi
quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động FDI. Ngược lại, chính FDI đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Thứ ba, nước chủ nhà có cơ hội tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động góp
phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra
công ăn việc làm (trực tiếp và gián tiếp) thông qua việc thu hút lao động vào các doanh
nghiệp có vốn FDI hoặc những tổ chức khác khi các nhà ĐTNN mua hàng hoá, dịch vụ
từ các nhà sản xuất trong nước hoặc thuê họ thông qua những hợp đồng gia công chế biến
[6, tr. 118].
Thứ tư, thông qua FDI các nước đang phát triển có nhiều cơ hội để tiếp cận với thị
trường thế giới vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty đa quốc gia tiến hành mà
những công ty này có rất nhiều lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những
hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở uy tín lâu đời về chất lượng và mẫu mã hàng hoá.
* Nguy cơ của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mặc dù FDI có những vai trò (ưu việt) như trên, song không phải cứ thu hút nhiều
FDI là có được những ưu việt đó. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì FDI cũng có
một số nguy cơ (nhược điểm) nhất định đối với cả nhà ĐTNN cũng như nước chủ nhà.
Trong nhiều trường hợp, FDI có hiệu ứng ngược lại đối với nước chủ nhà, chẳng hạn gia
tăng xu hướng thay thế nhập khẩu hoặc không tạo ra các mối liên kết bên trong và bên
ngoài, thậm chí gây tổn hại các nguồn tài nguyên. Đó là hệ quả của một chính sách thu
hút FDI thiếu định hướng hội nhập. Nhìn chung những ảnh hưởng tiêu cực trở thành thế
bất lợi rơi chủ yếu vào các nước nhận đầu tư. Cụ thể là:
+ Làm cho nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển dễ rơi vào
tình trạng bị phụ thuộc vào kinh tế của nước đầu tư.
+ Các nước tiếp nhận FDI là những nước đang phát triển hoặc kém phát triển thường
chỉ nhận được sự chuyển giao những công nghệ và kỹ thuật đã lạc hậu hoặc đang trở nên
lạc hậu từ các nước phát triển hơn.
+ Để xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi, tạo sức hút đối với các nhà ĐTNN nên
một số nước chủ nhà buộc phải áp dụng một số chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư như:
chính sách miễn, giảm thuế; cho thuê đất và cung cấp các dịch vụ khác với mức giá quá
thấp trong thời hạn khá dài... dẫn đến tình trạng là đôi khi lợi ích thu được của nhà đầu tư
có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được.
+ Do nhà đầu tư nhằm vào mục đích duy nhất là tìm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt
động đầu tư của mình nên họ chỉ chú trọng đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực nhất
định nào đó theo hướng có lợi nhất cho họ nên nếu không có sự quản lý chặt chẽ theo
đúng quy hoạch của nước tiếp nhận đầu tư sẽ dễ dẫn tới tình trạng mất cân đối trong cơ
cấu đầu tư ở nước tiếp nhận đầu tư dẫn đến cơ cấu kinh tế bị mất cân đối...
+ Do tình trạng kéo dài xu hướng thay thế nhập khẩu và chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài, dễ làm tăng nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán, thậm chí do sự độc quyền của
các doanh nghiệp FDI sẽ làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, làm
lệch lạc sự phân bổ các nguồn lực tài chính, làm tăng nguy cơ phá sản của các cơ sở kinh
tế và ngành nghề truyền thống và một số tác động phi kinh tế khác của nước tiếp nhận
đầu tư.
+ Nếu nước chủ nhà yếu kém về quy hoạch và QLNN về đầu tư sẽ rất dễ xảy ra tình
trạng ĐTNN ồ ạt, tràn lan làm cho tài nguyên thiên nhiên của nước chủ nhà bị khai thác
quá mức, dẫn tới cạn kiệt. Môi trường sinh thái cũng bị huỷ hoại nghiêm trọng do các nhà
đầu tư thường hay né tránh việc áp dụng các công nghệ tiên tiến xử lý chất thải bởi đây là
nguyên nhân góp phần làm tăng chi phí kinh doanh, giảm lợi nhuận. Mặt khác, do mục
đích cạnh tranh hoặc có thù địch về mặt chính trị, nên một số quốc gia hay gắn hoạt động
tình báo, gây rối an ninh, chính trị với hoạt động ĐTNN nhằm vào nước tiếp nhận đầu tư
gây thiệt hại không nhỏ.
+ Sự yếu kém trong quả lý ở nước nhận đầu tư sẽ tạo cơ hội cho sự du nhập các tệ
nạn xã hội cùng với hiện tượng người lao động và những người tham gia quản lý đầu tư
cũng có thể bị mua chuộc, biến chất, thay đổi quan điểm, lối sống và thậm chí còn phản
bội Tổ quốc. Ngoài những tác động ngược kể trên của hoạt động FDI, một số hiện tượng
khác như việc trốn thuế thông qua hoạt động chuyển giá (Transfer-pricing), việc đối xử
không đúng mực đối với người lao động và một số những tác động xã hội, chính trị tiềm
tàng khác cũng thường được tính vào mặt trái của hoạt động FDI.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về đầu tư nước ngoài
Trong các kỳ Đại hội gần đây, Đảng NDCM Lào coi thành phần kinh tế có yếu tố là một
bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào, được
khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác và ĐTNN đóng
một vai trò tất yếu khách quan, phát triển lâu dài cả về bề rộng và chiều sâu, được bắt nguồn từ
quá trình quốc tế hoá sâu sắc nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội, từ sự cuốn hút mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, từ sự gia tăng tích luỹ tư bản và công nghệ, từ nhu
cầu tái cơ cấu lại nền kinh tế của các quốc gia trước sức ép của cuộc cạnh tranh. Đặc biệt
ĐTNN đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và phát triển nền kinh tế của Lào.
Nhà nước Lào luôn xác định ĐTNN là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế quốc
gia vì sự đóng góp rất lớn của thành phần kinh tế này đối với tổng sản phẩm quốc nội và lao
động.
- ĐTNN là một sự hợp tác có đấu tranh, nhưng đấu tranh không phải để làm tan vỡ
hợp tác, mà để làm cho hợp tác được bình đẳng, các bên cùng có lợi theo sự đóng góp
của mỗi bên. Do vậy, trong quá trình mở rộng hợp tác đầu tư, phải luôn đề cao ý thức tự
lực, tinh thần chủ động, không khoán trắng mọi việc cho người nước ngoài. Đặc biệt
những gì có thể tự đầu tư phải cố gắng vươn lên tự làm, không ỷ lại vào hợp tác đầu tư.
- Mỗi dự án đầu tư đều có thể mang lại hiệu quả trên hai lĩnh vực có mối quan hệ
khăng khít với nhau là: hiệu quả kinh tế - xã hội (tạo ra lực lượng sản xuất, ngành nghề,
công nghệ, thị trường, việc làm...) và hiệu quả tài chính (lợi nhuận của doanh nghiệp, các
nguồn thu cho ngân sách...). Theo xu hướng tự nhiên, đứng trên lợi ích của nhà đầu tư thì
hiệu quả cao nhất là lợi nhuận. Tuy nhiên, quan điểm của Nhà nước Lào là, để đánh giá
hiệu quả các dự án đầu tư phải căn cứ vào cả hai tiêu thức trên, trong đó hiệu quả kinh tế
- xã hội là tiêu chuẩn cao nhất. Thực tế đã có không ít những dự án đầu tư đem lại hiệu
quả tài chính cao, nhưng hiệu quả kinh tế - xã hội lại rất thấp, thậm chí gây tổn hại đến
lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội của quốc gia.
- Lào quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới, cải cách kinh tế và chủ động hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nhằm xây dựng quan hệ thương
mại, đầu tư ổn định, minh bạch và tự do hơn với tất cả các đối tác thương mại và đầu tư.
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng mà chính
phủ đang thực hiện nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh để
thu hút ĐTNN. Gần đây, Chính phủ Lào đang cố gắng xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật quốc gia từng bước phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế để điều chỉnh hoạt
động đầu tư, trong việc tiếp nhận FDI cũng như hoạt động thương mại, không thể để cho
một tập đoàn nước ngoài nào độc quyền kinh doanh trên đất Lào, tạo điều kiện cho họ chi
phối, thao túng kinh tế của Lào.
- Trong QLNN về hoạt động ĐTNN phải trên cơ sở bảo đảm giữ vững độc lập, tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc. Phải kết hợp mục tiêu thu hút ĐTNN với việc đảm bảo thúc đẩy kích
thích sự phát triển của sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và tiến hành
hội nhập là bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương mà
Lào tham gia.
- Trong hợp tác liên kết, cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên
quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của ta. Theo nguyên tắc
này, một mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng; mặt khác, phải
chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức đóng góp của các bên hợp
tác.
1.2. lý luận cơ bản về quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
1.2.1. Vai trò, yêu cầu và nguyên tắc của quản lý nhà nước về đầu tư nước
ngoài
1.2.1.1. Vai trò của quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước, trong tình trạng
thiếu vốn đối với một quốc gia chậm phát triển như Lào thì vai trò của ĐTNN là rất quan
trọng. Việc mở cửa cho các dòng vốn nước ngoài vào vào trong nước để phát triển có rất
nhiều thuận lợi nhưng cũng không phải không có những mặt bất lợi, khó khăn gây cản trở
các nhà ĐTNN. Chẳng hạn như, ĐTNN vào một quốc gia kéo theo sự ảnh hưởng tới độc
lập, chủ quyền quốc gia, kéo theo những luồng văn hoá độc hại ảnh hưởng tới thuần
phong mỹ tục, tới những truyền thống tốt đẹp của quốc gia đó. ĐTNN cũng ảnh hưởng
tới sự phát triển của các thành phần kinh tế trong nước, ảnh hưởng tới nguồn tài nguyên
thiên nhiên, tới môi trường sinh thái.
Xuất phát từ những lý do đó, không thể không quan tâm và không thể thiếu sự định
hướng, quản lý của nhà nước. Tất nhiên, khi thực hiện cải cách, mở cửa tạo điều kiện cho các
dòng vốn ĐTNN vào trong nước, các nhà quản lý cần lường trước được những ảnh hưởng
xấu đến kinh tế, văn hoá, xã hội,... Vai trò QLNN ở đây là làm thế nào giảm thiểu những ảnh
hưởng không tốt đó. Bên cạnh đó, QLNN còn tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, giải quyết
những vấn đề vướng mắc của các nhà đầu tư một cách thoả đáng nhằm thu hút ngày càng
nhiều hơn lượng vốn ĐTNN vào trong nước, phục vụ cho lợi ích của nước tiếp nhận đầu tư
và cả của các nhà ĐTNN, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
1.2.1.2. Yêu cầu của quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
ĐTNN là một bộ phận quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa một nước với
các nước khác trong khu vực và trên thế giới. QLNN về ĐTNN, đặc biệt là quản lý hoạt
động FDI cũng phải tuân thủ những nguyên tắc chung của QLNN về kinh tế nhưng về
này cũng có những nét đặc thù nên đòi hỏi có những yêu cầu riêng về quản lý. Đó là:
- FDI là hoạt động mang tính thị trường, đặc biệt là hoạt động thị trường quốc tế, mang
đầy đủ tính chất và quy luật thị trường. Do điều kiện cạnh tranh quốc tế, các nhà ĐTNN phải
tính toán kỹ khả năng, điều kiện thị trường để thu được lợi nhuận nhiều nhất với chi phí bỏ ra
ít nhất. Nói một cách khác, các nhà ĐTNN sẽ không đầu tư vào những dự án mà họ thấy hiệu
quả kinh tế không rõ ràng. Do vậy, một trong những yêu cầu của QLNN về FDI là phải tạo
điều kiện để các nhà ĐTNN hiểu rõ và có đầy đủ thông tin về đường lối, chính sách kinh tế của
quốc gia, về hệ thống pháp luật, về thị trường, về các đối tác nước chủ nhà và những quy định
cụ thể khác của nhà nước đối với hoạt động ĐTNN [32, tr.14].
- FDI là hoạt động của khu vực tư nhân, hơn nữa là hoạt động của tư nhân nước ngoài
có quyền sở hữu và quyền quản lý. Động cơ của nhà đầu tư tư nhân bao giờ cũng coi lợi
nhuận là mục tiêu duy nhất hàng đầu. Trong khi đó, nước chủ nhà lại quan tâm nhiều đến
hiệu quả kinh tế - xã hội, đến sự phát triển tổng thể và bền vững của nền kinh tế thị trường.
Do vậy, QLNN về FDI phải dung hoà được hai lợi ích này. Đối với Lào, trong giai đoạn
đầu, hiệu quả kinh tế - xã hội phải được đặt lên hàng đầu, các lợi ích về kinh tế đơn thuần sẽ
được cải thiện dần trong quá trình phát triển của hoạt động này.
- FDI phần lớn do các công ty đa quốc gia tiến hành. Thực tiễn đã chứng minh cho
thấy các công ty này có lợi thế về uy tín kinh doanh, thương hiệu hàng hoá, thị trường,
công nghệ, khả năng tài chính,... nhưng lại có xu hướng "nội địa hoá" mạnh. Vì vậy,
QLNN là nhằm mục đích vừa thu hút tối đa các bí quyết công nghệ, kinh nghiệm quản
lý... từ các công ty đa quốc gia này, đồng thời có những biện pháp phù hợp để khắc phục
những nhược điểm này.
- Hoạt động FDI được thực hiện thông qua các dự án đầu tư. Quy trình hoạt động
dự án FDI bắt đầu từ việc chuẩn bị dự án, lựa chọn đối tác, đàm phán, ký kết, lập hồ
sơ, xin cấp GPĐT cho đến việc triển khai xây dựng và đưa dự án vào hoạt động. Đây
là cả một quy trình phức tạp đòi hỏi cần có một bộ máy QLNN đủ mạnh để theo dõi,
hỗ trợ cho các dự án hoạt động một cách có hiệu quả, đảm bảo đạt được những mục
tiêu đã đề ra, đảm bảo lợi ích quốc gia.
Về bản chất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, tiểu chủ, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn ĐTNN. Mỗi chủ thể kinh tế trong
nền kinh tế có những dự kiến, phán đoán, lựa chọn và quyết định khác nhau phù hợp với
lợi ích của mình.
Để các quyết định tập trung, hướng vào mục tiêu chung, vừa có lợi cho bản thân
mỗi chủ thể, vừa có lợi cho quốc kế dân sinh, cần có sự điều hoà phối hợp theo một định
hướng chung, có hiệu quả cao nhất:
- Trong nền kinh tế thị trường thuần tuý, có chế điều hoà phối hợp là cơ chế giá cả.
- Trong nền kinh tế hỗn hợp, đặc biệt là nền kinh tế thị trường sơ khai như ở nước
ta, thị trường chưa phát triển, cơ chế giá cả chưa đủ sức mạnh để động viên các nguồn lực
thì nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển và định hướng phát
triển nền kinh tế [31, tr.27].
1.2.1.3. Nguyên tắc cơ bản trong thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư nước
ngoài
Cần phải quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, phải giúp các nhà đầu tư thực hiện được các dự án đầu tư một cách tốt nhất
(nghĩa là phải bảo toàn được vốn; tìm kiếm được lợi nhuận và có khả năng tái sản xuất
cao nhất) nhưng trong điều kiện phải tuân thủ đúng những quy định của pháp luật [32];
Hai là, phải kịp thời giải quyết và điều chỉnh được các mối quan hệ phát sinh trong
quá trình thực hiện các dự án đầu tư [32];
Ba là, thực hiện được nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi, tôn trọng các
quyền của nhà đầu tư, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền của nước nhận đầu tư [30].
Bốn là, phải đảm bảo sự thống nhất giữa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững
và phát triển xã hội của đất nước đặt ra.
1.2.2. Mục tiêu quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
Nhà nước thực hiện quản lý hoạt động ĐTNN có nghĩa là thực hiện các hoạt động tổ
chức, điều hành và quản lý thống nhất theo kế hoạch các quá trình thu hút và triển khai một
cách có hiệu quả các dự án ĐTNN nhằm đạt cho được những mục tiêu cơ bản (hay còn gọi
là mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu) mà đa số các nước chậm phát triển như Lào đều kỳ vọng
ở lĩnh vực này như sau:
- Thứ nhất, giải quyết một cách có hiệu quả những khó khăn về vốn và bù đắp một
phần sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững của các nước
đang phát triển. Đối với các nước nghèo như Lào, vốn được xem là yếu tố cơ bản, là điều
kiện khởi đầu quan trọng để thoát khỏi đói nghèo và phát triển kinh tế. Đây là mục tiêu quan
trọng nhất đối với các quốc gia đang phát triển vì tăng trưởng kinh tế quyết định tốc độ phát
triển của quốc gia, quyết định mức sống của dân cư và tiềm lực kinh tế của đất nước. Nó đáp
ứng được yêu cầu tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế không những phải ở mức cao có thể đạt
được mà còn phải bảo đảm sự ổn định của quá trình tăng trưởng liên tục trong một thời kỳ
dài, đồng thời đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất bảo vệ môi trường, tái
tạo được các nguồn lực tự nhiên [40].
Thứ hai, thông qua các dự án FDI, nước tiếp nhận đầu tư thực hiện được mục tiêu
tiếp nhận được những tài sản vô hình như kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến, kỹ năng
chuyên môn và bí quyết quản lý... của các nước đi trước là những nhân tố quan trọng góp
phần tăng năng suất lao động, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế [23, tr. 23].
- Thứ ba, mục tiêu giải quyết việc làm cho lực lượng lao động của quốc gia - một
nguồn lực quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển. Thông qua việc thực hiện
mục tiêu này, đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu tư trưởng thành về năng lực quản lý, học
hỏi được những kinh nghiệm chuyên môn, kiến thức kinh doanh, kỹ năng quản lý tiên
tiến phù hợp với nền sản xuất hiện đại từ những nước phát triển hơn... Việc thực hiện tốt
mục tiêu này cũng là một nhân tố chủ yếu là giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập của
người lao động, hình thành một lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề và tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước.
- Thứ tư, góp phần cải thiện kết cấu hạ tầng đồng thời tạo ra các điều kiện kinh tế
kỹ thuật cho việc thực hiện cuộc cải biến, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ
là giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trong công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt đối với
những nước chậm phát triển đang trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa như Lào thì
đây là mục tiêu để tận dụng được nguồn vốn bổ sung.
Ngoài những mục tiêu cơ bản nói trên, công tác QLNN về ĐTNN còn có những
mục tiêu khác cũng hết sức quan trọng là góp phần hạn chế những tác động và ảnh hưởng
tiêu cực của ĐTNN tới sự phát triển của kinh tế - xã hội và của đất nước như : sự phụ
thuộc của các nước đang phát triển vào vốn, công nghệ, kỹ thuật và thị trường của các
nhà ĐTNN; sự thâm hụt cán cân thanh toán; sự phá sản của các cơ sở kinh tế và ngành
nghề truyền thống trong nước; tình trạng tài nguyên bị khai thác đến mức cạn kiệt, tình
trạng ô nhiễm môi trường sinh thái; những ảnh hưởng xấu về mặt văn hoá, chính trị, xã
hội v.v.
Xuất phát từ những mục tiêu trên, những dự án ĐTNN được đánh giá là có hiệu quả
kinh tế-xã hội cao cần phải đảm bảo sự QLNN nhằm đạt cho được những mục tiêu cụ thể
sau:
+ Các dự án ĐTNN phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ
trực tiếp hay gián tiếp cho mục tiêu đó, phù hợp với quy hoạch chung, tạo ra giá trị gia
tăng quốc gia cao; đóng góp được nhiều ngân sách cho Nhà nước đồng thời giảm lượng
chi ngoại tệ;
+ Góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế ổn định, bền vững, đặc biệt thúc
đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội ở những vùng, miền khó khăn; Tạo ra được nhiều việc
làm và nâng cao mức sống người lao động với số vốn đầu tư tối thiểu.
+ Cố gắng đến mức cao nhất để tạo ra được giá trị sản lượng hàng hoá cao, nhất là hàng
hoá xuất khẩu có chất lượng, đảm bảo tính cạnh tranh thông qua đổi mới công nghệ một cách
hợp lý, giảm chi phí lao động và tiêu hao nguyên vật liệu;
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài ở Lào
+ Xây dựng cơ chế chính sách, ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, tạo hành
lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động đầu tư nước ngoài
Hệ thống chính sách bao gồm một số chính sách chủ yếu như: Chính sách tài
chính-tiền tệ (chính sách thuế); Chính sách đầu tư phát triển; Chính sách thương mại
(chính sách ngoại thương, chính sách XNK...); Chính sách đất đai; Chính sách bảo hộ
quyền sở hữu; Chính sách bảo vệ môi trường và các chính sách khác (chính sách lao
động, tiền lương, thu nhập,...). Đặc biệt bổ sung kịp thời, phù hợp với tình hình từng thời
kỳ các chính sách ưu đãi thiết thực, tạo sức hấp dẫn cao, nhất là đối với những ngành,
lĩnh vực, và vùng cần ưu tiên đầu tư. Việc ban hành các văn bản pháp luật về ĐTNN
đồng bộ với các cơ chế, chính sách nhằm khai thác được các tiềm năng về vị trí địa lý, tài
nguyên, nguồn lao động, thị trường tiêu thụ và các nguồn lực trong nước của mọi miền
vùng để phát triển kinh tế đối ngoại một cách đồng bộ, hướng mạnh vào xuất khẩu.
+ Xây dựng quy hoạch, xác định chiến lược, lập và công bố danh mục dự án thu hút
vốn FDI, tiến hành xúc tiến đầu tư
Thông thường, ở tầm vĩ mô, QLNN về hoạt động ĐTNN là khâu định hướng thông qua
việc nhà nước của các nước chủ nhà ban hành những chính sách thu hút đầu tư, xây dựng
quy hoạch, xác định chiến lược, xác định rõ lĩnh vực khuyến khích đầu tư; lĩnh vực đầu tư có
điều kiện; lĩnh vực hạn chế đầu tư, các địa bàn khuyến khích đầu tư… căn cứ quy hoạch, kế
hoạch, định hướng phát triển kinh tế-xã hội đã được phê duyệt trong từng thời kỳ. Ưu tiên
các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn, chú ý đồng đều tới
các dự án ở cả 3 loại quy mô lớn, vừa và nhỏ nhưng đảm bảo cung cấp công nghệ hiện
đại, khả năng phát triển bền vững của nền kinh tế và bảo vệ được môi trường sinh thái.
Vai trò của các cơ quan QLNN trong công tác hoạch định chiến lược đầu tư, lựa chọn đối
tác và vận động xúc tiến đầu tư rất quan trọng. và được thể hiện ở 3 khía cạnh:
+ Làm cầu nối, phản ánh ý kiến của nhà đầu tư để chính phủ và các cơ quan có liên quan
nghiên cứu, hoạch định chính sách, cải thiện môi trường đầu tư.
+ Tuyên truyền, cung cấp thông tin về môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật chính
sách của nước chủ nhà.
+ Hỗ trợ các nhà đầu tư về các thủ tục pháp lý, hành chính....
+ Phân cấp và xây dựng cơ chế phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN của các
cơ quan QLNN các ngành, các địa phương
Về cơ chế phân cấp và phối hợp giữa các cơ quan QLNN về ĐTNN phải căn cứ vào
pháp luật ĐTNN, các văn bản pháp luật và các quy định khác có liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan QLNN của nước tiếp nhận đầu tư để từ đó ban hành quy
định về QLNN đối với hoạt động ĐTNN và các biện pháp khuyến khích FDI ở các ngành,
các vùng, các lĩnh vực hoặc ở các địa phương. Các cơ quan QLNN đó sẽ ban hành quy định
hướng dẫn về ĐTNN trong lĩnh vực tùy thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý được phân
cấp của mình. Chính phủ nước chủ nhà phải thành lập một cơ quan QLNN thay mặt chính
phủ đứng ra làm đầu mối phối hợp chung trong việc thực hiện công tác này ( ở Lào cơ quan
này là Bộ KH&ĐT).
+ Cơ quan QLNN các địa phương (tỉnh, huyện) có trách nhiệm hướng dẫn hoạt
động ĐTNN trong lĩnh vực và địa bàn quản lý của mình; cung cấp các thông tin cần thiết
và tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư lựa chọn cơ hội đầu tư tại nước chủ nhà; cải
tiến việc điều hành, rà soát thủ tục đầu tư nhằm bảo đảm thủ tục đầu tư đơn giản, nhanh
chóng.
+ Cơ quan QLNN các địa phương thực hiện QLNN về ĐTNN theo quy định của pháp
luật, thực hiện chế độ phối hợp trong công tác quản lý doanh nghiệp; lấy ý kiến cơ quan
QLNN đầu mối (Bộ KH&ĐT) trước khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc
thẩm quyền liên quan tới hoạt động ĐTNN; trường hợp có ý kiến khác nhau phải báo cáo
Thủ tướng xem xét, quyết định.
+ Cơ quan QLNN các địa phương có trách nhiệm xử lý kịp thời các vấn đề thuộc
thẩm quyền và hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động theo đúng quy định tại GPĐT và
quy định của pháp luật.
+ Bộ KH&ĐT tổng hợp, cung cấp thông tin về tình hình ĐTNN cho các chính
quyền địa phương, định kỳ làm việc với các bộ có liên quan để xử lý kịp thời các vấn đề
phát sinh, giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên hợp doanh,
đề xuất những chính sách, biện pháp cải thiện môi trường đầu tư.
+ Các cơ quan QLNN tại các địa phương chịu trách nhiệm hướng dẫn bên đối tác nước
chủ nhà chọn lựa dự án hợp tác, tiến hành đàm phán và ký hợp đồng hợp tác với bên nước
ngoài theo đúng quy hoạch phát triển của ngành, địa phương và các quy định của luật pháp;
công bố và niêm yết tại nơi tiếp nhận hồ sơ mọi thủ tục, quy trình giải quyết các vấn đề về
ĐTNN; xác định và thông báo công khai một đầu mối tiếp nhận, xử lý và trả lời các nhà đầu
tư và doanh nghiệp có vốn ĐTNN;
+ Cơ quan QLNN về tài chính chịu trách nhiệm QLNN về các nghĩa vụ tài chính
bao gồm các loại thuế và tiền thuê; đánh giá tính hợp lý của các khoản thu chi, khấu hao
tài sản cố định; cùng các bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình đề án từng bước tạo mặt
bằng pháp lý và áp dụng thống nhất chính sách thuế, các loại giá dịch vụ (thuê đất, điện,
nước, bưu chính, viễn thông, hàng không...) đối với các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài. Soạn thảo và công bố các quy định về đền bù, giải phóng mặt bằng áp dụng cho
các dự án ĐTNN, trình sửa đổi những thuế suất không hợp lý trong thuế nhập khẩu, sửa
đổi thuế thu nhập doanh nghiệp...
+ Cơ quan QLNN về tài chính đánh giá tư cách pháp nhân và năng lực tài chính của
đối tác nước ngoài, xác nhận kế hoạch XNK của các doanh nghiệp.
+ Các cơ quan QLNN về môi trường, tài nguyên... chịu trách nhiệm quy định và
công bố các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, quản lý kỹ thuật và những vấn đề liên quan
đến sử dụng đất, khai thác khoáng sản, thuỷ sản, lâm sản để các nhà đầu tư thực hiện và
chịu xử phạt nếu vi phạm; Có trách nhiệm hướng dẫn các chủ đầu tư lập hồ sơ xin giao
đất và khai thác các nguồn tài nguyên để khi dự án được duyệt và cấp giấy phép thì đồng
thời có ngay giấy phép khai thác khoáng sản, lâm sản và sử dụng đất...
+ Ngân hàng quốc gia của nước tiếp nhận đầu tư chịu trách nhiệm quản lý ngoại
hối, tái tạo ngoại tệ, khả năng vay vốn, bảo lãnh vốn vay và mở tài khoản; chủ trì xây
dựng và ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành quy định về mở tài khoản tại ngân hàng
nước ngoài, về bảo lãnh, cầm cố, thế chấp đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN; phối hợp
với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan nghiên cứu đề án về mức giá các dịch vụ thuộc
danh mục nhà nước quản lý giá và quy định việc doanh nghiệp có vốn ĐTNN phải thanh
toán các phí dịch vụ theo hướng tiến dần tới chỉ áp dụng cơ chế một biểu giá chung.
+ Cơ quan QLNN về xây dựng quản lý về địa điểm công trình, quy trình, quy phạm
xây dựng; chủ trì cùng với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Chính phủ về cơ chế
cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN kinh doanh nhà ở, xây dựng kết cấu hạ tầng và
phát triển kinh doanh ở các khu đô thị mới.
+ Các cơ quan QLNN khác như công an, ngoại giao,... nghiên cứu ban hành quy
định thống nhất về xuất, nhập cảnh, quy định thời hạn thị thực nhập cảnh đối với người
nước ngoài đang thực hiện dự án đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư theo thời hạn hợp đồng
lao động. Soát xét và sửa đổi các quy định về cấp visa và lệ phí visa, kiểm tra để bảo đảm
thực hiện thuận lợi cho người nước ngoài.
+ Các bộ ngành khác đảm bảo về giao thông vận tải, năng lượng, bưu chính viễn thông
chủ động quản lý các phần việc thuộc phạm vi hoạt động của mình để bảo đảm kết cấu hạ
tầng cho các doanh nghiệp và cùng với các doanh nghiệp khác có liên quan xử lý ngay với
sự thoả thuận của các nhà ĐTNN.
+ Thẩm định, phê duyệt dự án, cấp và thu hồi giấy phép đầu tư
- Thông thường, sau khi các cơ quan QLNN nhận được đơn xin cấp GPĐT của nhà
ĐTNN, sẽ tiến hành các thủ tục hành chính cần thiết để thẩm định về 5 nội dung cơ bản
sau: Tư cách pháp lý, năng lực tài chính của chủ đầu tư ; mức độ phù hợp của dự án với
quy hoạch; các lợi ích về kinh tế, xã hội; trình độ kỹ thuật và công nghệ; tính hợp lý của
việc sử dụng đất.
- Sau khi đã tiến hành đầy đủ thủ tục và thẩm định một cách đầy đủ các nội dung cơ
bản, nếu thấy dự án phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và đáp ứng được mục tiêu của nước
chủ nhà thì cấp GPĐT cho nhà đầu tư, hỗ trợ cho dự án được triển khai trong điều kiện tốt
nhất, trong thời gian ngắn nhất có thể theo quy định của pháp luật ĐTNN và các văn bản
pháp luật khác có liên quan.
- Trong quá trình quản lý hoạt động đầu tư, nếu thấy dự án không còn đáp ứng được
những mục tiêu đề ra cần phải có quyết định chính xác trong việc thu hồi GPĐT, chấm
dứt sự hoạt động của dự án.
+ Kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động ĐTNN
Sau khi hoàn thành những thủ tục hành chính cần thiết, dự án ĐTNN (FDI) được phép
đưa vào hoạt động và bước vào giai đoạn này, có nhiều cơ quan chức năng quản lý những
lĩnh vực khác nhau, ví dụ: ngân hàng nhà nước quản lý chế độ quản lý ngoại hối, mở tài
khoản...; Bộ Công-Thương quản lý về hoạt động XNK;... Cục hải quan (ở Lào, Cục hải quan
trực thuộc thuộc Bộ Tài chính) được phân công thực hiện các quy chế, quy trình, thủ tục hải
quan thuộc thẩm quyền của mình theo hướng đơn giản, tạo thuận lợi cho hoạt động của
doanh nghiệp; chấn chỉnh tổ chức, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động XNK của các
doanh nghiệp FDI,...; Các cơ quan QLNN khác chịu trách nhiệm quản lý về kỹ thuật, công
nghiệp, môi sinh, môi trường, quản lý việc sử dụng đất, kiểm tra việc giải quyết đền bù
giải phóng mặt bằng, việc thực hiện các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường; việc ký kết và
thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ, đánh giá trình độ khoa học và công nghệ sử
dụng trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Các cơ quan QLNN này xây dựng cơ chế phối
hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN bằng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, trong đó có
việc thành lập tổ công tác liên ngành rà soát có hệ thống tất cả các giấy phép, quy định liên
quan đến ĐTNN, bãi bỏ những giấy phép, quy định không cần thiết và xây dựng cơ chế quản
lý và tổ chức quản lý theo luật định.
- Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các dự án ĐTNN và các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN nhằm bảo đảm thực hiện đúng chức năng, đúng thẩm quyền; tuân
thủ quy định của pháp luật về ĐTNN, pháp luật về thanh tra, kiểm tra và cũng phải tuân
thủ theo sự phân cấp đã được quy định tại các văn bản pháp luật.
1.3. Kinh nghiệm của Việt Nam, Trung Quốc và một số địa phương khác trong
nước về quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài và những bài học thu được
1.3.1. Kinh nghiệm của Việt Nam
Việc nghiên cứu kinh nghiệm thu hút FDI ở Việt Nam là cần thiết và tất yếu nhằm
mục đích vận dụng kinh nghiệm vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Lào để nâng cao hiệu
quả thu hút FDI, phục vụ cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế - xã hội.
Ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới kinh tế, vào năm 1987 Việt Nam đã
ban hành luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và sau đó được điều chỉnh, bổ sung nhiều
lần. Bộ luật này được đánh giá là thông thoáng và hấp dẫn so với các nước trong khu vực.
FDI vào Việt Nam đã tăng nhanh đáng kể trong những năm qua, tốc độ tăng bình quân
50%/năm. Xét về mặt tổng thể: FDI vào Việt Nam từ hai nguồn chủ yếu. Từ các ngoài
nước ASEAN và từ các nước ASEAN. ĐTNN tại Việt Nam đã góp phần quan trọng
trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam ở một số mặt sau:
- Đóng góp quan trọng vào việc khắc phục thiếu hụt vốn ở Việt Nam. Theo ước tính
của Tổng cục Thống kê Việt Nam, trung bình trong 10 năm trở lại đây, bộ phận vốn ĐTNN
chiếm 48%-54% tổng số vốn đầu tư của nền kinh tế, lại hoạt động với công nghệ tiên tiến ở
một số ngành quan trọng của nền kinh tế: khai thác dầu khí, chế tạo máy móc, thiết bị viễn
thông, xây dựng cơ sở hạ tầng... nên đã tác động rất lớn đến nền kinh tế. FDI đã góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chung: từ cơ cấu nông -
công nghiệp chuyển sang cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp và dịch vụ.
- Tạo ra những sản phẩm, khu vực kinh tế và ngành kinh tế cá biệt có kỹ thuật - công
nghệ cao: Việt Nam bước vào công cuộc hồi phục và phát triển kinh tế với xuất phát điểm
rất thấp về mặt công nghệ, do đó chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước. Sau khi thực hiện Luật ĐTNN, Việt Nam đã tiếp nhận được một
số kỹ thuật, công nghệ tiến bộ trong nhiều ngành kinh tế như: thông tin viễn thông, khai thác
dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, hóa chất, sản xuất nông nghiệp,
xây dựng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế; sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm
có chất lượng. Phần lớn thiết bị đưa vào Việt Nam tuy thuộc loại trung bình của thế giới
nhưng vẫn tiên tiến hơn những thiết bị hiện có của Việt Nam. Một số công nghệ chuyển giao
trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông thuộc loại hiện đại nhất của thế giới. Đây là đóng góp khá
quan trọng của FDI ở Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu
mã, từ đó nâng cao kim ngạch xuất khẩu cải thiện môi trường lao động.
- Bước đầu tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động: Tính đến hết năm
2008, các xí nghiệp có vốn ĐTNN đã tạo việc làm cho gần 196 vạn lao động các loại
(trực tiếp, lao động phục vụ cho hợp tác đầu tư), đồng thời đã thu hút hơn 47.000 cán bộ
Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp này. Điều đáng quan tâm nhất là việc hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần vào đào tạo cho Việt Nam các nhà quản trị giỏi
và đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề, đủ năng lực tiếp cận với khoa học tiên tiến của
thế giới. Đặc biệt là sự có mặt của các nhà ĐTNN tại Việt Nam đã tạo ra môi trường cạnh
tranh, thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước phải vươn lên học tập kinh nghiệm quản lý, đổi
mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới.
- Góp phần tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng góp vào
thu ngân sách của Nhà nước: Dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam đã tạo nên sức mạnh đối
với các doanh nghiệp trong nước, buộc các doanh nghiệp này phải tìm cách cải tiến sản
xuất và nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thông qua các hình thức khác
nhau từ liên doanh, liên kết cho đến sự đổi mới.
Khái quát thành tựu Việt Nam sau gần 35 năm thống nhất, nhiều báo chí trong nước
và ngoài nước của Việt Nam có thể nêu lên là "đầu tư nước ngoài đã thổi một luồng sinh
khí mới vào nền kinh tế Việt Nam". Thực tế cho thấy với chính sách đổi mới rộng mở thu
hút ĐTNN đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới, phù hợp với xu thế chung của thời đại. FDI góp phần hình thành nên
những ngành, những vùng kinh tế mới, những KCX-KCN, thúc đẩy các hình thức hoạt
động thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, tạo nên những năng lực mới vô cùng
quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy vậy việc thu hút và sử dụng ĐTNN ở Việt Nam còn những hạn chế:
1. Dòng vốn FDI vào Việt Nam góp phần thúc đẩy tình trạng phát triển kinh tế vốn đã
không cân đối theo vùng và theo ngành vì chủ yếu tập trung ở những vùng tương đối giàu
có và những ngành công nghiệp, dịch vụ, FDI ở Việt Nam sẽ có xu hướng làm tăng thêm
tính bất cân đối của nền kinh tế: nếu kinh tế với khu vực công nghiệp tiên tiến, phát triển
nhanh và với khu vực nông nghiệp phát triển chậm, lạc hậu. Theo quan điểm của nhiều nhà
kinh tế học, điều này sẽ dẫn đến tình trạng căng thẳng về công ăn việc làm ở thành thị vì sự
di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị cũng từ các vùng nghèo khó tới các vùng giàu
có hơn sẽ lớn hơn nhu cầu lao động ở các vùng đó. Đây cũng chính là tác động làm tăng
thêm khoảng cách giàu nghèo trong xã hội: khu vực công nghiệp với thu nhập cao và khu
vực nông nghiệp với thu nhập thấp.
2. Nhiều công nghệ được chuyển giao cho Việt Nam dưới hình thức FDI là những công
nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Hơn thế nữa những chi phí chuyển giao và những
chi phí khác thường cao hơn so với chi phí thị trường.
3. Dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam góp phần làm tăng thêm thâm hụt cán cân
thương mại. Thêm vào đó, về thu nhập bình quân của lao động ở khu vực có vốn ĐTNN
cao hơn thu nhập bình quân của lao động ở khu vực có vốn trong nước, điều này càng
góp phần làm tăng thêm khoảng cách giàu và nghèo trong xã hội. Việt Nam đang tìm
nhiều biện pháp để phát huy những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực trong
việc thu hút FDI.
Bài học rút ra:
Từ nghiên cứu thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian qua có thể rút ra một số
kinh nghiệm mà Lào có thể vận dụng, đó là:
Một, đối với Việt Nam, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, sự ổn định chính trị
luôn được đảm bảo, cùng với sự ổn định chính trị là chính sách ngoại giao mềm dẻo, đảm
bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ
với khẩu hiệu "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới vì hòa bình, hợp
tác và phát triển". Sự ổn định chính trị - xã hội gắn với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, kiên trì con đường đổi mới có
nguyên tắc là nguyên nhân của mọi thành công, trong đó có việc thu hút ĐTNN.
Hai, vai trò quản lý của Nhà nước thông qua việc ban hành một hệ thống chính
sách, văn bản pháp luật khá kịp thời trong quá trình thu hút ĐTNN. Mặc dù còn nhiều
thiếu sót cần được hoàn thiện dần, song Luật ĐTNN tại Việt Nam ngay từ khi mới ra đời
(12/1987) về cơ bản đã tạo dựng một khuôn khổ pháp lý vừa phù hợp với tình hình Việt
Nam vừa thích ứng với thông lệ quốc tế, thậm chí một số nhà ĐTNN nhận xét rằng đó là
bộ luật có nhiều ưu đãi, hấp dẫn nhất so với các nước trong khu vực.
Ba, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi. Trong số những nhân tố cấu
thành của môi trường đầu tư: cơ sở pháp lý, thủ tục hành chính, nguồn nhân lực, cơ sở hạ
tầng... thì nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng (theo nghĩa rộng bao gồm cả khoa học công
nghệ, ngân hàng, tài chính, giao thông liên lạc, thông tin...) giữ vai trò quan trọng nhất.
Vì đó chính là những nhân tố cơ bản quyết định quá trình tăng trưởng dài hạn và lợi thế
cạnh tranh của Việt Nam. Chính vì vậy mà khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên
tiến, tạo mọi điều kiện cho hoạt động nghiên cứu và triển khai, hướng các ngành có vốn
FDI vào xuất khẩu, phát triển cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực là không thể thiếu
được trong chiến lược thu hút FDI của Việt Nam cả hiện tại và trong tương lai.
Bốn, người lao động Việt Nam cần cù, thông minh, kế thừa truyền thống nghìn năm
văn hiến đã biết phát huy sức mạnh cộng đồng tiếp thu cái mới, kiên quyết vươn lên xóa
bỏ đói nghèo.
Cuối cùng, những điểm hạn chế trong việc thu hút FDI của Việt Nam cũng gợi mở
cho Lào những kinh nghiệm có thể tránh được trong việc thu hút FDI tại Lào.
Việc mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, thu hút vốn ĐTNN nhằm phát triển
kinh tế trong nước, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới là vấn đề hết
sức cần thiết và cấp bách đối với Việt Nam. Nó xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế
theo hướng CNH, HĐH nhanh mạnh và ổn định trong nhiều thập kỷ tới để chống nguy cơ
tụt hậu về kinh tế, như Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đề ra. Lịch sử đã
từng chỉ ra rằng: "Kinh nghiệm là người thầy tốt nhất"; đương nhiên không chỉ là kinh
nghiệm của bản thân mà phải bằng tư duy sáng tạo, sẵn sàng tiếp thu, đón nhận kinh
nghiệm của các nước đi trước, nhất là những nét tương đồng và lấy đó làm kinh nghiệm
cho mình. Chỉ có như vậy mới nhanh đạt được thành công cũng đồng thời là hạn chế
"học phí phải trả", do tránh được những sai lầm khuyết điểm của người đi trước.
1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
+ Hoạch định mở rộng địa bàn và quy hoạch vùng chiến lược
Thực hiện tư tưởng của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã thực hiện mở cửa dần từng
bước theo liệu pháp "dò đá qua sông", dễ trước khó sau, tiến dần từng bước, giảm bớt rủi
ro nên đã tránh được những va chạm xã hội lớn và sự phân hóa hai cực quá nhanh như đã
xảy ra ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu do thực hiện "liệu pháp xốc". Trung Quốc chủ
trương mở cửa vùng duyên hải là nơi có vị trí thuận lợi trong giao lưu buôn bán quốc tế
và từ mở cửa duyên hải sẽ dần dần mở sâu vào nội địa. Với những bước đi thận trọng
nhưng khẩn trương, Trung Quốc đã tiến hành mở cửa từng khu vực, dần hình thành nền
kinh tế mở cửa từ điểm, đến tuyến, đến diện. Bắt đầu từ việc thành lập 5 đặc khu kinh tế,
sau đó là việc mở cửa 14 thành phố ven biển, 13 thành phố vùng giáp biên giới nhằm mở
rộng thương mại và đầu tư vùng biên [6, tr. 35]. Trên cơ sở quy hoạch phát triển vùng
như vậy, Trung Quốc tiến hành các biện pháp kêu gọi ĐTNN theo ý đồ chiến lược của
mình, phù hợp với kế hoạch phát triển từng giai đoạn [6, tr.50-54].
+ Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện chính sách tự do hoá FDI,
xây dựng cơ chế thông thoáng, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn
Tính chất nổi bật của nền kinh tế Trung Quốc đang làm cho thị trường đầu tư
trong khu vực ngày càng mang tính cạnh tranh gay gắt. Ngay từ tháng 7/1979, Bộ Luật
đầu tư hợp tác quốc tế giữa Trung Quốc và nước ngoài đã được Quốc hội Trung Quốc
thông qua, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động ĐTNN. Năm 1988, Luật xí nghiệp hợp tác
kinh doanh được ban hành đã cải thiện đáng kể môi trường đầu tư. Cho đến nay, Nhà
nước Trung Quốc đã ban hành trên 500 văn bản gồm các bộ luật và văn bản pháp quy
liên quan đến hoạt động thương mại và ĐTNN. Trong đó có 4 đạo luật lớn là: Luật xí
nghiệp liên doanh đầu tư giữa Trung Quốc và nước ngoài, Luật xí nghiệp hợp tác kinh
doanh, Luật xí nghiệp do nước ngoài đầu tư, Luật thuế thu nhập đối với các xí nghiệp có
vốn nước ngoài và xí nghiệp của nước ngoài [6, tr. 36]. Hệ thống luật pháp trên được xây
dựng trên nguyên tắc: "Bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng tập quán quốc tế" [6, tr.41]. Từ
đó đã góp phần tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hoạt động ĐTNN.
Trung Quốc đã thực hiện rất nhiều chủ trương, biện pháp thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn các nhà ĐTNN. Trung Quốc đang tạo ra một
cuộc đua tranh quyết liệt về thu hút vốn ĐTNN nhờ những quy định khuyến khích đầu tư,
thủ tục thẩm định dự án đầu tư được đơn giản hóa dần dần và môi trường đầu tư của
Trung Quốc được cải thiện rất nhanh chóng. Năm 2000 và 2001, Trung Quốc đã sửa đổi
một cách cơ bản Luật về doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN và các doanh nghiệp có vốn cổ
phần nước ngoài tại Trung Quốc. Theo những sửa đổi này, Trung Quốc đã bãi bỏ những
yêu cầu về cân đối ngoại tệ, về tỷ lệ nội địa hoá; bỏ hoặc sửa đổi yêu cầu về công nghệ
hiện đại và tỷ lệ xuất khẩu; sửa đổi quy định mua nguyên vật liệu trong nước. Các doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sẽ không cần báo cáo kế hoạch
sản xuất và điều hành với các cơ quan liên quan.
+ Có chính sách khuyến khích và cung cấp các ưu đãi đặc biệt
Trung Quốc chủ trương ban hành một loạt các chính sách nhằm tăng cường ưu đãi
về thuế cho các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, trong đó quy định rõ thời hạn miễn
thuế, giảm đáng kể thuế thu nhập cấp độ địa phương và quốc gia, giảm các loại thuế
XNK, thuế đất và đối xử ưu đãi trong các dịch vụ về kết cấu hạ tầng.
Tháng 6/1995, Trung Quốc công bố quy định chỉ đạo phương hướng ĐTNN, trong
đó chỉ rõ 18 ngành được khuyến khích đầu tư (trước đó chỉ có 15 ngành), 15 ngành bị
hạn chế đầu tư và 13 ngành cấm đầu tư [6, tr.27]. Để khuyến khích phát triển các ngành
nông nghiệp, thông tin, năng lượng và phát triển sản xuất tại khu vực miền Trung và
miền Tây, Trung Quốc đã đưa ra nhiều chế độ ưu đãi mới với những quy định cụ thể để
khuyến khích vốn FDI vào những ngành và khu vực này.Trong hàng loạt các chính sách
ưu đãi nói trên, những chế độ ưu đãi đặc biệt thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
ĐTNN như:
+ Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong các ngành sản xuất có thời hạn hoạt động
trên 10 năm được miễn thuế 2 năm và giảm đến 50% thuế trong 3 năm tiếp theo.
+ Các dự án liên doanh trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng hoặc phát triển
nông nghiệp tại các đặc khu kinh tế Hải Nam và Phố Đông Thượng Hải với thời hạn hoạt
động trên 15 năm được hưởng mức thuế ưu đãi cao nhất: miễn thuế 5 năm và giảm 50%
thuế trong 5 năm sau đó.
+ Các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, trồng rừng và chăn nuôi được giảm từ 15%
đến 30% thuế trong thời hạn 10 năm tiếp theo sau thời gian miễn thuế.
+ Các doanh nghiệp vốn nước ngoài có định hướng xuất khẩu và sử dụng công
nghệ tiên tiến còn được miễn thuế chuyển lợi nhuận và giảm phí sử dụng đất. Từ
01/01/2000 các doanh nghiệp hoạt động ở miền Tây Trung Quốc chỉ phải nộp 15% thuế
thu nhập trong vòng 3 năm kể từ khi hết hạn được hưởng các chính sách ưu đãi thuế [6,
tr. 46].
+ Trong nỗ lực khuyến khích tái đầu tư lợi nhuận, nhà nước Trung Quốc sẽ hoàn
trả tới 40% số thuế thu nhập đã nộp nếu như lợi nhuận được tái đầu tư tại Trung Quốc
trong thời gian ít nhất là 5 năm. Nếu lợi nhuận được tái đầu tư vào các doanh nghiệp
công nghệ cao hoặc định hướng xuất khẩu thì nhà ĐTNN sẽ có thể được hoàn trả toàn bộ.
+ Miễn thuế nhập khẩu các máy móc thiết bị cho các dự án thuộc danh mục dự án
khuyến khích đầu tư và cam kết chuyển giao công nghệ.
+ Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp quản lý nhà nước các dự
án đầu tư nước ngoài
Để đẩy nhanh quá trình thành lập các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, Trung
Quốc đã tăng cường sự minh bạch của môi trường pháp lý, giảm bớt sự kiểm soát của
Chính phủ trung ương và cung cấp hỗ trợ thực tế cũng như những đảm bảo về pháp lý và
sự ổn định chính trị. Việc phê duyệt các dự án có vốn trên 30 triệu USD ít bị trở ngại hơn
trước [6, tr. 26]. Tuy nhiên, các quan chức chính phủ vẫn bị yêu cầu phải thẩm định dự án
dựa trên hướng dẫn để xác định xem dự án đó thúc đẩy xuất khẩu làm tăng thu nhập
ngoại tệ, cung cấp công nghệ tiên tiến hay là cung cấp đào tạo kỹ thuật và quản lý.
Về cải cách thủ tục hành chính, Trung Quốc thực hiện chế độ phân cấp việc ra
quyết định đầu tư cho các tỉnh, thành phố, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư
về thời gian, chi phí trong việc làm thủ tục xin đầu tư.
+ Chú trọng vào phát triển kết cấu hạ tầng
Đáp ứng mối quan tâm hàng đầu của các nhà ĐTNN là hệ thống giao thông, thông tin có
thuận lợi, Trung Quốc đã dành nhiều nỗ lực và phát triển khá nhanh kết cấu hạ tầng. Các nhà
lãnh đạo Trung Quốc đã đưa ra những khẩu hiệu thiết thực và triệt để thực hiện nhằm làm cho
môi trường đầu tư ngày càng hấp dẫn hơn, chẳng hạn như “xây tổ đón chim phượng hoàng” để
tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng cho thu hút vốn ĐTNN; “ba thông, một bằng”, tức là thông
đường, thông điện, thông nước và chuẩn bị sẵn mặt bằng theo đúng yêu cầu của nhà đầu tư...
Các chủ trương, biện pháp được hướng vào cải tạo và xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện các ưu
đãi, tăng đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng đã làm tăng sức hấp dẫn của Trung Quốc đối với
FDI. Đion nay phone nào giải thích cho việc FDI tập trung vào các khu vực duyên hải phía đông
- nơi có kết cấu hạ tầng tốt hơn và giao thông thuận tiện hơn với các thị trường nước ngoài.
Trung Quốc cũng chú trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở các vùng kém phát triển của đất
nước để thu hút FDI vào các vùng này. Trước tình hình khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực,
Trung Quốc vẫn mạnh dạn quyết định một chương trình đầu tư hạ tầng trị giá 1.500 tỉ USD
trong ba năm 1998-2000 nhằm hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng và tạo ra động lực mới bên trong để
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước [6, tr. 41].
+ Thành lập các Quỹ đầu tư mở hỗ trợ đầu tư nước ngoài
ở Trung Quốc, lĩnh vực tài chính - ngân hàng vẫn được đánh giá là một mảnh đất
màu mỡ nhất đối với các nhà ĐTNN. Hiện có khoảng gần 50 triệu nhà đầu tư tham gia
vào thị trường chứng khoán (TTCK) Trung Quốc, với tổng lượng vốn lưu chuyển khoảng
500 tỉ USD, TTCK Trung Quốc là thị trường đứng thứ 3 trong khu vực sau Nhật Bản và
Hồng Kông. Những điều khoản thỏa thuận hấp dẫn sau khi Trung Quốc gia nhập WTO
như: các công ty nước ngoài có thể chiếm giữ 33% trong quỹ đầu tư của Trung Quốc và 3
năm sau có thể tăng lên là 49%; các quỹ hỗ trợ ĐTNN có thể huy động các khoản tiết
kiệm [6, tr. 49]. Bên cạnh đó, các chính sách nới lỏng quy chế đầu tư đã góp phần làm số
lượng các nhà ĐTNN tham gia vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng tăng lên đột ngột. Đầu
tháng 5/2000, Uỷ ban chứng khoán Trung Quốc đã thông qua quyết định việc thành lập
các Quỹ đầu tư mở (Open-end fund) thay cho hình thức quỹ đầu tư đóng đang được áp
dụng phổ biến tại Trung Quốc khi đó. Hình thức này đã đem đến nhiều lợi thế hơn cho
nhà đầu tư, cho phép các nhà đầu tư bán lại chứng khoán cho quỹ theo giá thị trường vào
bất cứ lúc nào. Quỹ đầu tư cũng là nơI mà các nhà ĐTNN sẽ đến, đem lại những kiến
thức về quản lý, về thanh toán và an toàn hệ thống.
1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Xa-vẳn-nạ-khệt và Chăm-pa-sắc
+ Kinh nghiệm của tỉnh Xa-vẳn-nạ-khệt.
Xá-vẳn-nạ-khệt là một tỉnh miền Trung của Lào, có tổng diện tích đất 2.177.400
ha ( diện tích lớn hơn các tỉnh thành cả nước ) với dân số khoảng 843.245 người, đứng
thứ hai sau Thủ đô Viêng Chăn. Toàn tỉnh có 1.013 bản, 134.646 hộ gia đình. Xa-vẳn-nạ-
khệt là một tỉnh có điều kiện tiềm năng phong phú, đa dạng về việc phát triển nông-lâm
nghiệp so với các tỉnh thành trong cả nước. Tỉnh Xa-vẳn-nạ-khệt nằm trong đường nối
kinh tế thương mại Đông Tây với con đường huyền thoại lịch sử là đường 9, có cửa khẩu
quốc tế Lao Bảo nối liền với Việt Nam và cầu Hữu Nghị số 2 qua sông Mê Kông sang
Thái Lan. Với điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng thu
hút ĐTNN, hiện nay Xá-vẳn-nạ-khệt đã và đang tổ chức mạnh mẽ thực hiện và triển khai
Bộ luật khuyến khích ĐTNN được ban hành năm 2004 ba mô hình sau:
- Kinh doanh theo hợp đồng
- Hợp tác liên doanh liên kết của các nhà đầu tư trong và ngoài nước (tỷ trọng cổ
phần của các nhà ĐTNN tối thiểu 30% trong tổng số vốn đăng ký hợp pháp).
- Doanh nghiệp FDI.
Cơ quan QLNN về hoạt động ĐTNN ở Xá-vẳn-nạ-khệt đã ban hành và cho áp
dụng thực hiện một số chính sách ưu đãi đối với các nhà ĐTNN, chẳng hạn như:
+ Về chính sách thuế: cho miễn thuế nhập khẩu các thiết bị, phương tiện, dây
chuyền, sản xuất trực tiếp vào doanh nghiệp; Được miễn thuế xuất khẩu đối với các sản
phẩm hoàn chỉnh; Thuế lãi suất chia theo 3 lĩnh vực: từ 20%, 10% và 5%; miễn thuế lãi
suất theo từng dự án, công trình lớn - nhỏ.
+ Các dự án đầu tư vào các huyện miền núi vùng sâu, vùng xa có điều kiện giao
thông cơ sở hạ tầng khó khăn ở Xá-vẳn-nạ-khệt được ưu đãi miễn thuế lãi suất 7 năm sau
đó sẽ thu nộp thuế lãi suất 10% sau 7 năm miễn thuế.
+ Các dự án đầu tư vào các huyện gần trung tâm tỉnh sẽ được miễn thuế trong 5
năm, sau đó sẽ chỉ phải nộp thuế lãi suất từ 3 năm trên 7,5% - 15%.
+ Những dự án đầu tư đặt ngay tại trung tâm thị xã, tỉnh sẽ được miễn thuế trong 2
năm, sau 2 năm sẽ bắt đầu nộp thuế từ 10% - 20%.
Ngoài ra, Xá-vẳn-nạ-khệt còn có nhiều cơ chế, chính sách khác để thu ĐTNN vào
phát triển kinh tế-xã hội như: áp dụng chính sách ưu đãi trong thời hạn từ 50 năm tối
thiểu và 75 năm tối đa, được quyền ưu tiên đưa lợi nhuận về nước hay nước thứ 3. Các
dự án được quyền thuê cán bộ, công nhân, chuyên gia, kỹ sư nước ngoài tối đa 10% và
Xa-vẳn-nạ-khệt còn thực hiện thu thuế cá nhân 10% và những cơ chế khác thông thoáng
nhất, hấp dẫn nhất cho các nhà ĐTNN vào đầu tư tại Xa-vẳn-nạ-khệt.
Từ những thuận lợi về điều kiện địa lý, phong phú về tài nguyên khoáng sản cộng
với các cơ chế chính sách thông thoáng hấp dẫn nên hiện nay đã có 9 quốc gia đầu tư vào
tỉnh như: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Pháp, Thụy Điển, Newsland, Vương quốc
Anh và Malaysia.
+ Kinh nghiệm tỉnh Chăm-pa-sắc
Chăm-pa-sắc là một trong bốn tỉnh miền Nam của Lào là: ắt-ta-pư, Xê-koong, Xa-
la-văn và Chăm-pa-sắc. Chăm-pa-sắc có địa hình phù hợp và thuận lợi với sự phát triển
kinh tế-thương mại, công nghiệp, nông nghiệp với dân số 642.651 người, 645 bản làng và
107.092 hộ gia đình, đứng hàng thứ 3 trong cả nước. Chăm-pa-sắc cũng là một tỉnh có
nhiều tiềm năng: vị trí địa lý thuận lợi, đa dạng về thổ nhưỡng, đặc biệt được thiên nhiên
ưu đãi về đất đỏ ba zan. Có nhiều di tích lịch sử và đặc sắc về văn hoá, phong phú và giàu
trữ lượng về tài nguyên khoáng sản. Ngoài ra, Chăm-pa-sắc có cơ sở hạ tầng tương đối
phát triển: có tuyến đường giao thông huyết mạch của Lào nối liền từ Bắc xuống Nam là
quốc lộ 13, có 2 cửa khẩu quốc tế thông thương sang Thái Lan và Campuchia và Chăm-
pa-sắc cũng là một trong ba tỉnh thuộc vùng tam giác kinh tế Ngọc Thạch (Việt Nam) -
Mo-la-kốt (Cămpuchia) và Chăm-pa-sắc. Đây cũng là một tỉnh nổi tiếng nhất của Lào về
phát triển kinh tế, thương mại - du lịch, nông nghiệp trồng trọt chăn nuôi và có lịch sử lâu
đời đó là vùng cao nguyên Pạc-xoòng - Bô-ly-ven.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cùng với cơ chế, chính sách đúng đắn đã tạo ra
nhiều ưu thế để Chăm-pa-sắc thu hút các dự án ĐTNN cho phát triển kinh tế-xã của tỉnh.
Chăm-pa-sắc đã và đang thực hiện nhiều biện pháp để thu hút và quản lý ĐTNN như:
+ Chính quyền tỉnh Chăm-pa-sắc đã quy định Cơ chế một cửa liên thông (One
stop servic) số 095/CPS, ngày 30-01-2007 Về quản lý đầu tư trong và ngoài nước.
+ Nhằm mục tiêu thu hút nhiều hơn về vốn FDI, Chăm-pa-sắc có chính sách ưu
đãi, khuyến khích nhà đầu tư bằng các công thức 2+3 hoặc 1+4 căn cứ vào các quy định
pháp quy và chính sách mà Chính phủ Lào đã đề ra. Ngoài Bộ luật Khuyến khích ĐTNN
ban hành ngày 22-10-2004, Nghị định số 300/TT-CP ngày 12-10-2005 Về tổ chức thực
hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Chỉ thị số 331/UBKH-ĐT ngày 29-03-2006
và Bộ luật quản lý địa phương số 03/QH, ngày 21-10-2003. Ngoài ra, tỉnh đã cử nhiều
đoàn đại biểu là cán bộ, chuyên viên là đại diện thuộc các cơ quan, ban, ngành của tỉnh
sang trao đổi rút kinh nghiệm việc thu hút và quản lý vốn đầu tư từ các nước láng giềng,
đặc biệt là của Việt Nam.
Với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, tài nguyên khoáng sản, cộng với cơ
chế chính sách đúng đắn, thông thoáng, hấp dẫn trong những năm qua, Chăm-pa-sắc đã
đạt được một số kết quả đáng kể sau
- Riêng trong trong 2 năm 2007-2008 có tới 94 dự án ĐTNN được cấp giấy phép
đầu tư với tổng số vốn là 276 triệu USD từ 6 nước đầu tư vào địa bàn tỉnh Chăm-pa-sắc,
chủ yếu là: Việt Nam (10 dự án, vốn đầu tư 42,1 triệu USD, chiếm 61% tổng số vốn
ĐTNN của Chăm-pa-sắc); Thái Lan (7 dự án, vốn đầu tư 12,4 triệu USD, chiếm 21%
tổng số vốn ĐTNN); Hàn Quốc (1 dự án, vốn đầu tư 4,7 triệu USD, chiếm 7% tổng số
vốn ĐTNN); Trung Quốc (3 dự án, vốn đầu tư 2 triệu USD, chiếm 3% tổng số vốn
ĐTNN); Canada (2 dự án, vốn đầu tư 5,8 triệu USD, chiếm 8% tổng số vốn ĐTNN);
Malaisia (1 dự án, (330.400 USD, chiếm 0,5% tổng số vốn ĐTNN) [118].
Tóm lại, hoạt động ĐTNN của tỉnh Chăm-pa-sắc tương đối tốt và đồng đều. Với
những giải pháp, cơ chế chính sách thu hút và quản lý ĐTNN như trên, tương lai không
xa, Chăm-pa-sắc cũng sẽ là một tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở hạ
tầng, xoá đói giảm nghèo cũng như thu hút ĐTNN tương tự như Thủ đô Viêng Chăn và
tỉnh Xa-vẳn-nạ-khệt.
1.3.4. Một số bài học tham khảo đối với Lào nói chung và đối với tỉnh ắt-ta-pư
nói riêng
So sánh về những đặc điểm tự nhiên và kinh tế-xã hội của một số nước trong khu
vực và trên thế giới, nhất là so với Việt Nam và Trung Quốc thì CHDCND Lào có nhiều
điểm tương đồng cơ bản về điều kiện phát triển và sự lựa chọn những mô hình kinh tế
chuyển đổi. Vì vậy, sẽ rất hữu ích để chúng ta có thể tham khảo một số kinh nghiệm từ
các nước đi trước và rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
(1) Nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, cải thiện các thủ tục hành chính
(nghiên cứu xây dựng và kiên quyết thực hiện cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo
hướng “một cửa, tại chỗ” ở trung ương hoặc địa phương), tạo ra một môi trường đầu tư
hấp dẫn. Cần thiết phải có chính sách ưu đãi đối với các nhà ĐTNN, có các chính sách
nới lỏng quy chế đầu tư để tăng sức cạnh tranh và đảm bảo tính bền vững, thông thoáng,
ổn định cho các nhà ĐTNN. Tới đây, chỉ nên có một Bộ Luật đầu tư duy nhất chung cho
cả đầu tư trong nước và ngoài nước.
(2) Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp QLNN và xây dựng cơ chế phối hợp một cách đồng
bộ trong lĩnh vực ĐTNN. Tuy nhiên cần lưu ý rút kinh nghiệm từ Việt Nam và Trung
Quốc khi thực hiện chế độ phân cấp ra quyết định và cấp GPĐT cho các tỉnh, thành phố
sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà ĐTNN về thời gian, chi phí trong việc làm các
thủ tục xin đầu tư, nhưng mặt trái của sự phân cấp này là dễ phát sinh mâu thuẫn giữa lợi
ích địa phương và lợi ích quốc gia, tạo nên nạn quan liêu, trì trệ, hối lộ, tham nhũng trong
hàng ngũ cán bộ QLNN về ĐTNN. Vì vậy, chúng ta cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả
của QLNN trong việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát mọi hoạt động liên quan đến ĐTNN,
tránh gây thua thiệt cho các doanh nghiệp có vốn FDI.
(3) Tiếp tục cải thiện kết cấu hạ tầng và từng bước hoàn chỉnh hệ thống đồng bộ
cung cấp các loại dịch vụ phục vụ cho hoạt động của các nhà ĐTNN nhằm làm tăng sức
hấp dẫn của Lào đối với ĐTNN. Cần liên tục giám sát và điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho
phù hợp với từng thời kỳ. Luôn cải tiến cơ chế thẩm định và cấp phép, cải tiến dịch vụ
chuyển ngoại tệ, thành lập và cải thiện thủ tục hành chính.
(4) Mở rộng lĩnh vực và địa bàn thu hút ĐTNN từng bước theo hoạch định chiến lược,
quy hoạch vùng và lĩnh vực thu hút FDI. Quy định rõ ràng hơn các lĩnh vực, khu vực khuyến
khích hoặc hạn chế đầu tư, đồng thời khuyến khích nhiều loại hình ĐTNN khác nhau vì vừa
dễ kiểm soát môi trường vừa dễ quy hoạch kinh tế vùng.
(5) Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức đầu tư và chủ đầu tư, mở rộng các lĩnh
vực đầu tư, nhưng cần phải nghiên cứu để tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Cần tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra,
kiểm toán trong các doanh nghiệp đó, phấn đấu tăng tỷ lệ đóng góp của đối tác phía Lào
để hạn chế các thua thiệt trong hoạt động ĐTNN.
Kết luận chương 1
Đầu tư và thu hút vốn đầu tư là hoạt động có tính quy luật khách quan do quá trình
quốc tế hóa LLSX nhằm tăng trưởng và phát triển nền kinh tế ở hầu khắp các quốc gia
trên thế giới.
Có nhiều dạng ĐTNN, mỗi dạng có những ưu nhược điểm khác nhau, bổ sung lẫn
nhau nhằm mục đích đưa lại lợi nhuận ngày càng nhiều cho người bỏ vốn. Trong cơ cấu
ĐTNN thì FDI là một trong những dạng đầu tư quan trọng trong đời sống kinh tế quốc tế
bởi những ưu điểm riêng có của nó. FDI đổ vào các nước chậm phát triển trong khu vực
như Lào đã có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế - xã hội theo chiều hướng tiến bộ hơn, giải quyết được nhiều việc làm, giảm
nhẹ gánh nặng thất nghiệp; thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Bài học kinh nghiệm thu hút ĐTNN Việt Nam, Trung quốc và các tỉnh Xá-vẳn-nạ-
khệt, Chăm-pa-săc cho thấy: thứ nhất, kiên trì mục tiêu thu hút ĐTNN trong chiến lược
kinh tế nói chung và chiến lược tạo vốn nói riêng cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, coi đó
là nhân tố quan trọng để xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, tự lực tự cường. Thứ hai,
kết hợp chặt chẽ, đồng bộ hai giải pháp chính trị và kinh tế, thúc đẩy quá trình hoàn thiện
môi trường ĐTNN, trong đó để phát triển ổn định, bền vững cần quan tâm đến xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Thứ ba, đa phương hóa, đa dạng hóa hoạt động ĐTNN,
xây dựng cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong thị trường đầu tư cả trong nước, khu vực và
thế giới, coi trong thông tin tư vấn đầu tư. Thứ tư, năng động sáng tạo trong quá trình thu
hút FDI; đồng thời phát huy lợi thế của người đi sau. Thứ năm, nâng cao năng lực của hệ
thống chính trị với hạt nhân là sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, tăng cường vai trò quản
lý của Nhà nước theo hướng vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết; bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhà đầu tư và lợi ích của toàn xã hội, hướng tới một nền kinh tế tăng trưởng.
Chương 2
Thực trạng quản Lý Nhà Nướcvề đầu tư Nước ngoài
Tại tỉnh ắt-ta-pư (CHDCND Lào) những năm qua
2.1. Đặc điểm tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội của tỉnh ắt-Ta-Pư
2.1.1. Đặc điểm về mặt tự nhiên
Vị trí địa lý và địa hình
- ắt-ta-pư là một tỉnh phía Đông Nam Lào giáp với hai nước là Việt Nam và
Cămpuchia, có tổng diện tích 10.320 km2, chiếm 4,32% tổng diện tích của nước
CHDCND Lào. Phía Bắc giáp với tỉnh Xê-koong, phía Tây giáp với tỉnh Chăm-pa-sắc,
phía Đông giáp với tỉnh Kon Tum của Việt Nam còn ở phía Nam giáp với tỉnh Ra-ta-ta-
ki-li và Xiêng-teng của Cămpuchia. ắt-ta-pư nằm ở vị trí giao thông thuận lợi với các tỉnh
trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường bộ ra biên giới và đường
thuỷ ra sông Xê-kông... đây là một trong những nhân tố thuận lợi để thu hút ĐTNN.
- ắt-ta-pư có độ cao trung bình so với mực nước biển khoảng 860-1200 m và nơi
thấp nhất là 78 m. Nơi cao nhất là 1.500 m ở huyện Xan-xay. Theo tính chất địa lý của
tỉnh có thể chia làm 3 vùng khác như sau:
+ Vùng miền núi: là dãy núi Phu Luổng (dãy Trường Sơn) có tổng diện tích
690.000 ha, có độ cao 800 - 1.500 m với độ dốc trung bình là 150.
+ Vùng trung du: vùng này có tổng diện tích khoảng 120.000 ha, có độ cao trung
bình 300-1000 m.
+ Vùng đồng bằng: có tổng diện tích khoảng 222.000 ha, có độ cao từ 78-300m
nằm giữa vùng dãy núi Phu Luổng và trung du, là một trong 7 đồng bằng của Lào và có 7
dòng sông chạy qua như: Xê-kông, Xê-ka-mản, Xê- piên, Xê-khăm-pho, Xê-năm-no, Xê-
sủ và Nặm-khoỏng.
Tài nguyên thiên nhiên
- Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất đai tự nhiên của tỉnh là 1.320.000 ha (đất đang sử dụng 250.000
ha, chiếm 24,22% đất tự nhiên của tỉnh) trong đó diện tích ruộng nước 21.600 ha, ruộng
thủy lợi 672 ha và diện tích vườn, nương, bãi 1.350 ha. Đất chưa sử dụng còn rất lớn.
Trong 250.000 ha đất chưa sử dụng có 227.000 ha đất đồng bằng dọc theo sông Xê-
koong - Xê-ka-mản... chiếm hơn 90% diện tích đất chưa sử dụng phân bố ở đồng bằng.
Là một tỉnh miền núi có đồng bằng ít, đất phù hợp với các loại cây trồng nông nghiệp và
cây công nghiệp như: điều, chè, cà phê, cao su, thầu dầu, quế, bạch đàn, ngô, các loại hoa
màu,... Hiện nay, toàn bộ diện tích đất đã được khảo sát là 50.000 ha.
- Rừng và đất rừng
ắt-ta-pư có nhiều tiềm năng về lâm nghiệp, đất rừng chiếm tới 70% diện tích tự
nhiên, là loại đất phù hợp với nhiều loại cây có điều kiện xây dựng hệ thống rừng phòng
hộ và tạo các vùng kinh tế hàng hoá có giá trị cao. Rừng ắt-ta-pư có nhiều loại gỗ quý
hiếm và có giá trị sử dụng cao như: tếch, hương, lim, trầm hoa, cẩm lai, sao, trắc, su mu,
táu, sến, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ... và các loại luồng tre, nứa lớn nhất toàn quốc. Có
diện tích khoảng 608.984,87 ha là đồng cỏ có thể sử dụng cho chăn nuôi đại gia súc.
- Tài nguyên nước ngọt
ắt-ta-pư có nguồn tài nguyên nước ngọt giàu về trữ lượng. Nguồn nước mặt do 7
dòng sông chính như đã nói ở trên có thể được ngăn để xây đập thủy điện với giá trị kinh
tế cao nhất của Lào. Ngoài ra, ắt-ta-pư còn có nhiều mạch nước ngầm chạy dưới lòng đất
có thể được khai thác và sử dụng đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội như: nông
nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải và phục vụ đời sống của người dân.
- Tài nguyên khoáng sản
ắt-ta-pư là một trong số ít tỉnh ở Lào có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú
và đa dạng. Trong đó, nhiều loại có trữ lượng lớn, chất lượng tốt như đá quý, vàng, thiếc,
bô-xít nhôm, bạc, than đá, đồng đỏ, đá vôi, muối ka-ly, đá xanh,... Nguồn khoáng sản này
là điều kiện rất tốt tạo nên sức hấp dẫn thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát
triển kinh tế - xã hội.
2.1.2. Đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội
Đặc điểm về mặt chính trị
- ắt-ta-pư là một tỉnh trong số 17 tỉnh của nước CHDCND Lào, với hệ thống chính
trị tương tự như ở Việt Nam và sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền duy nhất là Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào. Bộ máy tổ chức chính quyền từ trung ương xuống địa phương
là đồng nhất. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng NDCM Lào, trong suốt
một giai đoạn dài kể từ sau giải phóng đất nước, lập lại hoà bình cho đến nay, Lào vẫn
luôn luôn giữ được tình hình ổn định về chính trị-xã hội, quốc phòng an ninh được giữ
vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng, kinh tế dần dần phát triển theo mô hình và cơ chế
thị trường, có sự định hướng của Nhà nước theo định hướng XHCN và cả nước Lào đang
thực hiện công cuộc công nghiệp hoá đất nước, đẩy mạnh đổi mới toàn diện.
- Trong những năm qua, cùng với tập trung phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng
cường quốc phòng an ninh; xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, nâng cao năng lực
phòng thủ biên giới; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời có hiệu quả các loại tội
phạm, các hoạt động truyền đạo trái phép, buôn bán và sử dụng ma túy, từng bước tháo
gỡ những vấn đề bức xúc của xã hội. Quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh Tây Nguyên
và miền Trung của Việt Nam, các tổ chức quốc tế tiếp tục được tăng cường phù hợp với
đường lối đối ngoại của Đảng NDCM Lào.
Đặc điểm về kinh tế
+ Điều kiện phát triển kinh tế
- Qua hai mươi ba năm thực hiện đường lối đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng
trưởng GDP của tỉnh ắt-ta-pư mặc dù có cao hơn so với trước đây nhưng giá trị tuyệt đối và
giá trị GDP bình quân đầu người còn thấp (năm 1986, GDP bình quân đầu người 145
USD/người/năm, tới năm 2007 đạt 540 USD/người/năm). Nhìn chung vẫn là một trong
những tỉnh nghèo nhất cả nước.
- ắt-ta-pư có tuyến quốc lộ 18B nối từ thị xã ắt-ta-pư tới biên giới giữa Việt Nam
và Lào qua cửa khẩu quốc tế Phu-cưa của Lào và cửa khẩu quốc tế Bờ Y (thuộc tỉnh Kon
Tum của Việt Nam), nằm trong vùng tam giác kinh tế phát triển của 3 nước Việt Nam -
Lào - Cămpuchia. Quốc lộ 18B còn nối với đường 13 Nam Lào và đường 16A đi hai tỉnh
Xê-koong và Xả-la-văn.
Nhìn chung, có thể thấy được rằng: do thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu được đề ra
trong Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và các nghị quyết của Đảng bộ
tỉnh ắt-ta-pư, sự ổn định về chính trị, tăng trưởng và phát triển về kinh tế - xã hội, sản
xuất hàng hoá, dịch vụ được cải thiện, lượng thu hút vốn ĐTNN ngày càng tăng, đời sống
nhân dân từng bước được cải thiện, thu nhập được tăng lên, cụ thể là:
- Thu nhập bình quân GDP (2007-2008) tăng 7,88%/năm, trong đó:
+ Thu nhập từ nông - lâm nghiệp tăng 5,2%, chiếm 33,03% GDP.
+ Thu nhập từ công nghiệp tăng 8,46%, chiếm 44,36% GDP.
+ Thu nhập từ dịch vụ tăng 10,42%, chiếm 22,61% GDP.
- GDP tính bình quân đầu người năm 2007-2008 là 540 USD/năm so với năm
2006 tăng 15,3%.
- Tăng thu cho ngân sách mỗi năm chiếm 10-12% của GDP nhưng thâm hụt ngân
sách mỗi năm vẫn còn cao so với GDP bình quân đầu người [124].
+ Đặc điểm tình hình thu hút đầu tư nước ngoài:
- Được nhận hỗ trợ vốn giúp đỡ từ Chính phủ Việt Nam để thực hiện công tác phát
triển biên giới tăng cường hợp tác an ninh biên giới khu Văng-tắt tỉnh ắt-ta-pư gồm 14 dự
án, trong đó vốn viện trợ từ phía Chính phủ Việt Nam là 2.026,7 triệu Kíp. Ngoài ra tỉnh
còn có các dự án và nguồn vốn hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế khác là 6.881.914 USD
[124].
- Trong năm 2007-2008 chính quyền tỉnh đã cấp giấy phép kinh doanh cho các
công ty trong và ngoài nước gồm 13 dự án với tổng số vốn đầu tư 7.484.181 USD, trong
đó có 7 dự án đầu tư của nước ngoài gồm 7 công ty với tổng số vốn đầu tư 5.914.311
USD được phân bổ vào các lĩnh vực như: công nghiệp chế biến gỗ - thực phẩm và trồng
cây công nghiệp như: cao su, điều( hơn 50.000 ha) [124]. Trong những năm gần đây các
dự án khảo sát, thăm dò vàng ở Văng Tắt huyện Xan Xay; Dự án trồng cây công nghiệp
cao su chế biến gỗ xuất khẩu của Công ty Quang Minh Cao su Hoàng Anh - Gia Lai đã
và đang được triển khai và đã bước đầu đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội tương đối
khả quan. Ngoài ra Chính phủ còn cho phép các nhà đầu tư khảo sát thăm dò khai thác và
xây dựng thủy điện trên các con sông có tiềm năng như: Dự án Xê-ca-mản III, Nặm-
kông, Xê-piên, Xê-mặn-nọi. Ngoài các dự án có vốn đầu tư từ Việt Nam, ắt-ta-pư cũng
đã hợp tác thu hút vốn đầu tư từ các tổ chức quốc tế khác như: Ngân hàng thế giới (WB);
Ngân hàng phát triển châu á (ADB - Asia Development Bank); Quỹ phát triển nông
nghiệp quốc tế (IFAD); Tổ chức Liên hiệp quốc về lương thực - thực phẩm (FAO) và các
tổ chức khác như: thu hút được vốn tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, sửa chữa trường
học từ tổ chức Jica (Nhật Bản) với tổng số vốn 66.000 USD, từ Công ty Bu-Joong Hàn
Quốc 125.000 USD, từ tỉnh Bình Định của Việt Nam 500 triệu đồng để nhằm tạo điều
kiện củng cố và phát triển khá toàn diện ở các cấp học hệ thống các trường phổ thông,
trường dân tộc nội trú, trang thiết bị dạy học, đào tạo nghề được tăng cường. Đồng thời
với việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển: các cơ chế chính sách huy động
khai thác nội lực và thu hút đầu tư từng bước được điều chỉnh bổ sung và phát huy hiệu
quả.
- Để thực hiện theo Quy định số 300/QĐ-TTCP của Chính phủ về thực hiện Luật
khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Khuyến khích đầu tư FDI ban hành ngày 12-10-
2005. Ngày 30-01-2007, tỉnh ắt-ta-pư đã ban hành Quyết định số 57/CTT ngày tháng 6-
2007 về Chính sách thu hút đầu tư bằng cơ chế cải cách hành chính một cửa liên thông.
Tính đến hết năm 2008, ắt-ta-pư đã thu hút được 105 dự án đầu tư vào tỉnh với tổng vốn
đầu tư là 43.189,74 triệu Kíp chiếm 12,6% GDP trong đó vốn đầu tư trong nước là
12.000 triệu Kíp và vốn ĐTNN là 31.189,74 triệu Kíp [124].
Đặc điểm về giáo dục, văn hoá - xã hội
+ Giáo dục - đào tạo
- Được củng cố và phát triển khá toàn diện ở các cấp học, hệ thống trường học phổ
thông, dạy nghề, trường dân tộc nội trú. Trong năm 2007-2008, toàn tỉnh có 241 ngôi
trường học với 853 phòng học, 2.089 giáo viên, 25.931 học sinh - sinh viên. Hiện nay ắt-
ta-pư có 25 trường mầm non, 195 trường tiểu học, 18 trường trung học phổ thông, 1
trường trung cấp dạy nghề cấp cơ sở, 1 trường cao đẳng kinh tế dân lập. Hàng năm, lực
lượng lao động tiềm năng - sinh viên được bồi dưỡng dạy nghề và thi tốt nghiệp, hàng
trăm cán bộ được tập huấn về lý luận, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, đặc biệt đã tập
trung cao cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở [86], [124].
+ Y tế và công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ
- Toàn tỉnh ắt-ta-pư có 6 bệnh viện, trong đó 1 bệnh viện cấp tỉnh với hơn 70
giường bệnh, 1 bệnh viện thuộc Cục tham mưu Quân đội tỉnh, 4 bệnh viện huyện, 22
trạm y tế cấp cơ sở cấp bản với 192 giường bệnh, 3 phòng khám bệnh ngoài giờ của dân
lập, hơn 23 cửa tiệm bán thuốc, 118 quỹ cấp thuốc của các bản làng. Toàn tỉnh có 293
nhân viên y tế có thể phục vụ tại các trạm y tế cấp cơ sở [124], [130].
- Công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ, vận động bảo vệ phục hồi sức khoẻ đã đi
xuống cấp cơ sở 75 bản làng. Toàn tỉnh có 986 giếng nước sạch, có 79.063 nhà vệ sinh
đảm bảo tiêu chuẩn, chiếm 52% dân số sử dụng nhà vệ sinh và nước sạch [130].
+ Văn hoá - Thông tin
- Các hoạt động văn hoá, văn nghệ báo chí, phát thanh truyền thanh, phát triển cả
bề rộng lẫn chiều sâu, cuộc vận động xây dựng bản và cụm bản phát triển toàn diện theo
4 nội dung, 4 chỉ tiêu và vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được
triển khai tốt, các công tác quản lý hoạt động văn hoá thông tin không ngừng được đẩy
mạnh và tăng cường.
- Đến nay, ắt-ta-pư đã có 56 nhà văn hoá (một dạng trụ sở của người dân các bản
làng người bộ tộc ít người của Lào có kiểu dáng và tính chất sinh hoạt cộng đồng giống
như nhà rông của dân tộc Ê-đê, Tây Nguyên, Việt Nam), đã trao giấy chứng nhận cho
1.767 gia đình văn hoá và công nhận 2 loại văn hoá theo nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ
lần thứ VII.
+ Công tác xoá đói, giảm nghèo
- Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: đời sống
của tuyệt đại bộ phận người dân các bộ tộc sinh sống trên địa bàn của tỉnh, kể cả những
huyện, những bản và cụm bản ở các vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn về cơ sở hạ
tầng cũng đã được cải thiện khá rõ rệt. Trong năm tài khoá 2005-2006, số hộ gia đình của
toàn tỉnh còn nằm trong diện nghèo từ con số 5.352 hộ, tới năm tài khoá 2007-2008 giảm
xuống chỉ còn 3.881 hộ. Nguyên nhân một phần là nhờ sự tác động tích cực của việc triển
khai các dự án có vốn ĐTNN tập trung vào các huyện nghèo của tỉnh thông qua việc tạo
công ăn việc làm cho nông dân - những người chuyển từ nghề nông sang làm việc ở
những dự án ĐTNN và sự hình thành các loại hình dịch vụ khác nhau xung quanh các
khu triển khai dự án nước ngoài. Như vậy, công tác xoá đói giảm nghèo đã thực hiện tốt,
đúng theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước [123].
2.1.3. Những lợi thế và hạn chế để thu hút đầu tư nước ngoài của tỉnh ắt-ta-pư
2.1.3.1. Những lợi thế
Một là, nằm trên quốc lộ 18A và 18B - là trục giao thông đường bộ, huyết mạch
nối 4 tỉnh Nam Lào với 5 tỉnh Tây Nguyên, miền Trung Việt Nam và các tỉnh Đông Bắc
Campuchia và ắt-ta-pư cũng là một tỉnh có cửa khẩu quốc tế Phu-cưa (tam giác phát triển
của ba nước Việt Nam-Lào và Campuchia). ắt-ta-pư có điều kiện để vận chuyển hàng hoá
không chỉ phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của tỉnh mà còn có điều kiện để mở
rộng lưu thông hàng hoá với các tỉnh Nam Lào sang các vùng Tây Nguyên - miền Nam -
Trung của Việt Nam và các tỉnh Đông Bắc Campuchia. Từ năm 1991, Lào đã gia nhập
Cộng đồng các nước Đông Nam á (ASEAN) và đang nỗ lực tích cực chuẩn bị mọi điều
kiền cần thiết để xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tham gia Hiệp định
AFTA thì vấn đề mở cửa kinh tế và phát triển kinh tế cửa khẩu thu hút ĐTNN là cực kỳ
quan trọng.
Hai là, tỉnh ắt-ta-pư cũng có diện tích rộng hơn 10.320 km2, có dân số 117.796
người, với diện tích rừng hơn 608.984,87 ha và nhiều các loại gỗ quý như: trắc, lim, cẩm
lai, hương, sáo, cẩm lai... Với danh tiếng là một tỉnh "bán vàng để mua gà", phong phú
với nhiều mỏ khoáng sản, đá quý: vàng, thiếc, bo xít, đá vôi, đồng bạc sắt... mà có thể
khai thác chế biến sản xuất với giá trị kinh tế cao.
Với địa hình chủ đạo, ắt-ta-pư có hai cao nguyên, 3 đồng bằng, 7 dòng sông và
hơn một vạn con suối tự nhiên lớn nhỏ. Đây là điều kiện để phát triển trồng cây công
nghiệp, sản xuất lúa nước, rau, hoa màu, chăn nuôi đại gia súc. Riêng 7 con sông: Xê-ca-
mản, Xê-Kông, Xê Xư, Xê Nặm Nọy, Xê Piên, Xê Khăm Pho và nặm Kông đều là những
dòng sông lớn có đầy đủ điều kiện để có thể phát triển thủy điện lớn, có công suất hơn
5.000 MW/h. Với điều kiện địa hình tự nhiên là rất phù hợp và đặc điểm của một tiểu
vùng khí hậu ôn đới, 2 cao nguyên Phu Vông và Xan Xay và 3 đồng bằng Xay Xệt Thả,
Sá Mặc Khi Xay và Sá Nam Xay là một địa hình lý tưởng cho quy hoạch một khu du lịch
sinh thái rộng lớn, một đô thị nghỉ dưỡng tương tự như các tỉnh Đông Bắc Thái Lan
những sông ngòi, đồng bằng, cây xanh, hang động là một trọng điểm để phát triển dịch
vụ du lịch trung tâm thương mại, nhà hàng để phục vụ cho du khách đi du lịch tham quan
công tác làm việc từ Việt Nam sang Thái Lan (Đông Bắc Thái Lan) và từ Đông Bắc Thái
Lan sang Tây Nguyên các tỉnh miền Trung Việt Nam, các tỉnh Nam Lào trong tương lai
để thu hút nhà ĐTNN sang phát triển sản xuất ở Nam Lào.
Ba là, ắt-ta-pư là trung tâm cửa khẩu tam giác phát triển Việt Nam - Lào -
Cămpuchia, nơi cư trú nhiều bộ tộc anh em, có lịch sử truyền thống lâu đời chống giặc
ngoại xâm và cũng là nơi có nhiều nét văn hoá dân tộc đặc sắc. Chính vì vậy, khai thác
yếu tố tiềm năng lịch sử không thể thiếu trong việc thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế.
Do ảnh hưởng về địa hình có nhiều đồi núi chia cắt, sông ngòi, đồng bằng, cao
nguyên cùng với nhiều tiểu vùng khí hậu đã tạo ra các vùng nhiệt đới với thảm thực vật
nhiều tầng và các loài động vật da dạng phong phú, nhiều loại cá tôm nước ngọt, những
khu vực này đã tồn tại từ lâu và được bảo tồn với các loại động, thực vật quý hiếm.
2.1.3.2. Những hạn chế
- Thực trạng các tỉnh Nam Lào nói chung, tỉnh ắt-ta-pư nói riêng như: cơ sở hạ tầng,
kỹ thuật - xã hội còn yếu kém; kinh tế kém phát triển; thu nhập bình quân đầu người thấp;
sức mua kém, thị trường manh mún; cước phí vận chuyển cao; chi phí đầu tư sản xuất lớn;
thiếu nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, có tay nghề; điều kiện khí hậu tự nhiên khắc
nghiệt; nguồn cung cấp nguyên liệu và giá cả hàng hoá không ổn định, độ rủi ro cao; cách xa
các trung tâm kinh tế - tài chính - thương mại; thiếu thông tin một cách chính xác và kịp thời
về các thị trường trong nước và thị trường các nước trong khu vực v.v. là những bất lợi.
Ngoài ra, cơ chế, pháp luật, chính sách khuyến khích ưu đãi thu hút đầu tư của tỉnh chưa
đồng bộ, chưa bù đắp những chi phí hành chính, mất nhiều thời gian, những rủi ro v.v. là bất
lợi chủ yếu và chưa thể giải quyết dứt điểm ngày một, ngày hai mà nhà ĐTNN đang phải
gánh chịu khi triển khai các dự án ở đây.
- Việc các địa phương khác thuộc các vùng miền khác nhàu của Lào đua nhau
"trải chiếu hoa, trải thảm đỏ", đua nhau đưa ra những ưu đãi cao hơn những địa phương
lân cận và có điều kiện kinh tế-xã hội tương đồng là không phải là điều đáng ca ngợi.
Nhà đầu tư hiện nay có cách nghĩ khác xa so với cung cách đầu tư mà chúng ta áp dụng
trong những tháng năm dài thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kiểu bao cấp và vẫn còn rơi
rớt đến nay. Những ưu đãi về giá thuê đất, các phương tiện, thiết bị, công cụ nhập khẩu
để phục vụ sản xuất, ưu đãi về thuế suất, lệ phí... là những ưu đãi có thể tính bằng tiền
hầu như đã được các nơi khác tận dụng triệt để. Công tác kiểm soát, đánh giá giám sát
chức năng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư hài lòng hơn, thực ra đây là sự hy
sinh quyền lợi trước mắt để mời họ đến. Điều này chắc chắn sẽ gây ra những thiệt hại cho
lợi ích của đất nước, của người dân nhưng lại dễ làm vì chỉ cần các cấp được ban quyền
lực QLNN ban hành các văn bản pháp quy, quy định, quy chế, cơ chế hành chính phù
hợp, có nguồn lực đầy đủ là được. Đó cũng là những lợi thế mà các địa phương khác hay
triệt để vận dụng để tạo ra sự cạnh tranh thu hút đầu tư thiếu lành mạnh, gây ra những
khó khăn, bất lợi cho các đoạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh ắt-ta-pư, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay.pdf