Tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay: LUẬN VĂN:
Quản lý nhà nước đối với hoạt động du
lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội (KT-XH) phổ
biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc
gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, phát
triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích về KT-XH trong phát triển.
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc, thay đổi
diện mạo và từng bước khẳng định tầm vóc của ngành trong nền kinh tế quốc dân, góp
phần phát triển KT-XH, thúc đẩy giao lưu văn hóa làm cho nhân dân thế giới hiểu biết
thêm về đất nước con người Việt Nam, tranh thủ được sự thiện cảm và sự đồng tình ủng hộ
quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đóng góp tích cực hơn cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Hoạt động du lịch (HĐDL)tăng cả
bề rộng lẫn chiều...
118 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quản lý nhà nước đối với hoạt động du
lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội (KT-XH) phổ
biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc
gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, phát
triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích về KT-XH trong phát triển.
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc, thay đổi
diện mạo và từng bước khẳng định tầm vóc của ngành trong nền kinh tế quốc dân, góp
phần phát triển KT-XH, thúc đẩy giao lưu văn hóa làm cho nhân dân thế giới hiểu biết
thêm về đất nước con người Việt Nam, tranh thủ được sự thiện cảm và sự đồng tình ủng hộ
quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đóng góp tích cực hơn cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Hoạt động du lịch (HĐDL)tăng cả
bề rộng lẫn chiều sâu. Có thể nói rằng không có ngành kinh tế nào đi tắt đón đầu đuổi kịp
trình độ phát triển của các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về
kinh tế nhanh bằng ngành du lịch. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà nước ta có
sự quan tâm đặc biệt đến ngành "công nghiệp không khói" này. Công tác quản lý nhà nước
(QLNN) đối với ngành du lịch luôn được tăng cường, đổi mới, từng bước hoàn thiện để
phù hợp với điều kiện phát triển du lịch trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và
hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới.
Kiên Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, thuộc vùng đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL), có tiềm năng phát triển du lịch rất phong phú và đa dạng. Điều kiện
tự nhiên đã tạo cho Kiên Giang những cảnh quan thiên nhiên độc đáo, nhiều danh lam
thắng cảnh tuyệt đẹp về hang động, sông, suối, bãi biển, rừng nguyên sinh,... Bên cạnh đó,
Kiên Giang còn có các di tích văn hóa, lịch sử mang đậm nét đặc trưng của đất và người
Kiên Giang tập trung ở các địa bàn như: TP Rạch Giá, thị xã Hà Tiên, huyện Phú Quốc,
Kiên Lương, Hòn Đất và U Minh Thượng. Đặc biệt, Phú Quốc là một huyện đảo có nhiều
tiềm năng nhất để phát triển du lịch. Chính vì vậy, ngày 05-10-2004 Thủ tướng Chính phủ
đã ra Quyết định số 178/2004/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án phát triển tổng thể đảo Phú
Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”. Tại Điều 2 ghi rõ:
“...Từng bước xây dựng đảo Phú Quốc thành Trung tâm du lịch (du lịch sinh thái, nghỉ
dưỡng và du lịch biển) tầm cỡ khu vực và quốc tế với các hình thức dịch vụ chất lượng
cao, thu hút nhiều khách quốc tế và đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước” [50].
Mặt khác, các địa bàn bao gồm: huyện Phú Quốc, Kiên Hải, Hòn Đất, Kiên Lương, An
Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, thị xã Hà Tiên và TP Rạch Giá, tỉnh Kiên
Giang còn được tổ chức UNESCO Liên Hợp Quốc công nhận là Khu bảo tồn sinh quyển
thế giới vào ngày 27-10-2006, với tổng diện tích hơn 1,1 triệu ha, đây là điều kiện thuận
lợi to lớn cho việc phát triển du lịch sinh thái của tỉnh. Có thể nói, Kiên Giang là một tỉnh
có tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch hơn nhiều so với các địa phương khác ở vùng
ĐBSCL. Công tác QLNN đối với HĐDL được Đảng bộ và chính quyền tỉnh quan tâm
củng cố thường xuyên, từng bước hoàn thiện. Do đó, du lịch thời gian qua đã có nhiều
đóng góp tích cực cho sự phát triển KT-XH của tỉnh.
Tuy nhiên, QLNN đối với hoạt động này ở tỉnh Kiên Giang còn những hạn chế nhất
định. Đó là, mặc dù tầm quan trọng của du lịch trong kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh
đã được nâng lên một bước, nhưng trên thực tế, các ban, ngành và các cấp trong tỉnh chưa
quan tâm đúng mức tới việc tạo môi trường thuận lợi cho du lịch phát triển, chưa khơi dậy
được tiềm năng và chưa huy động được các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch;
chưa quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ và tôn tạo tài nguyên du lịch. Việc giáo dục du lịch
cho cán bộ và nhân dân trong tỉnh chưa tốt nên không phải ai cũng hiểu được vị trí, vai trò
của du lịch trong đời sống cộng đồng để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch trên quan
điểm phát triển du lịch bền vững. Cơ chế, chính sách về du lịch có mặt chưa đồng bộ và
nhất quán. Quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
(KCHT), cơ sở vật chất - kỹ thuật (CSVC-KT) du lịch còn nhiều bất cập, dẫn đến tình
trạng thừa, thiếu cục bộ ở nhiều khu, điểm du lịch.
Những hạn chế nêu trên là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc chưa tận
dụng được lợi thế, tiềm năng sẵn có của tỉnh để phát triển du lịch cũng như những bất cập
trong HĐDL ở tỉnh Kiên Giang thời gian qua.
Mặt khác, trước những yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay, nhất là sau khi Việt
Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
công tác QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang cần được đổi mới một cách toàn diện, để
vừa đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh, vừa góp phần tạo ra sự phát triển nhanh
và bền vững của ngành du lịch tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh
Kiên Giang hiện nay” làm luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý nhằm góp phần giải
quyết vấn đề thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề QLNN đối với HĐDL ở phạm vi cả nước nói chung và của từng địa phương
nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, các nhà lãnh đạo và quản lý
kinh tế. Một số công trình khoa học tiêu biểu như sau:
- Nguyễn Minh Đức (2007), “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du
lịch tỉnh Sơn La trong quá trình CNH, HĐH”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một công trình nghiên cứu QLNN đối với hoạt động
thương mại, du lịch ở một địa phương cụ thể. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận và thực
tiễn nhằm làm rõ chức năng, nhiệm vụ; đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm góp phần đổi
mới và nâng cao trình độ QLNN về thương mại, du lịch ở tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, tác giả
chỉ nghiên cứu QLNN đối với hoạt động thương mại, du lịch thuộc khu vực Tây Bắc Bộ,
bao gồm các tỉnh miền núi, trong đó có tỉnh Sơn La, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,
văn hóa, tiềm năng phát triển du lịch khác nhiều so với khu vực Tây Nam Bộ, trong đó có
tỉnh Kiên Giang.
- Nguyễn Thị Thanh Hiền (1995) “Quản lý nhà nước về du lịch trong giai đoạn
phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích đặc điểm, vai trò của ngành du
lịch trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam, đánh giá thực trạng
QLNN về du lịch nói chung và đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực
QLNN về du lịch. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu vấn đề QLNN về du lịch ở một địa
phương cụ thể.
- Huỳnh Vĩnh Lạc (2005), “Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận văn chủ yếu phân tích, đánh giá thực trạng tiềm năng phát triển du lịch và đề xuất
những giải pháp đẩy mạnh khai thác tiềm năng phát triển du lịch trong phạm vi của một
huyện, thuộc tỉnh Kiên Giang. Tác giả chưa nghiên cứu sâu vấn đề QLNN đối với HĐDL
nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng.
- Trịnh Đăng Thanh (2004) “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du
lịch ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh. Luận án đã đưa ra cơ sở lý luận về sự cần thiết phải QLNN bằng pháp luật đối với
HĐDL; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN
bằng pháp luật đối với HĐDL trước yêu cầu mới. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu toàn
diện vấn đề QLNN đối với HĐDL nói chung và ở từng địa phương nói riêng.
Ngoài ra, còn một số bài viết liên quan đến vấn đề phát triển du lịch và QLNN về
du lịch, cụ thể như:
- Trần Xuân Ảnh (2007), "Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị trường du
lịch", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 132.
- Nguyễn Văn Mạnh (2007), “Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững
sau khi gia nhập WTO”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 115.
- Vũ Khoan (2005), “Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào năm 2010”,
Tạp chí Du lịch, số 11.
- Trịnh Đăng Thanh (2004), “Một số suy nghĩ về công tác quản lý nhà nước đối với
ngành du lịch”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 98.
- Võ Thị Thắng (2001), "Tăng cường quản lý nhà nước để du lịch Việt Nam phát huy vai trò
ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 7(66).
- Hoàng Anh Tuấn (2007), “Du lịch Việt Nam - Thành tựu và phát triển”, Tạp chí
Quản lý nhà nước, số 133.
- Trần Nguyễn Tuyên (2005), “Du lịch Việt Nam phát triển theo hướng trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 114.
Như vậy, cho đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu sâu và toàn diện về quản lý
nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên
Giang nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển nhanh và bền vững, đóng góp tích cực vào
quá trình phát triển KT-XH chung của tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Phân tích về mặt lý luận đặc điểm, vai trò, ý nghĩa KT-XH của HĐDL và vai trò,
chức năng, nhiệm vụ QLNN đối với HĐDL nói chung và ở cấp tỉnh nói riêng.
- Nghiên cứu kinh nghiệm QLNN về du lịch của một số tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL
trong thời gian gần đây.
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang trong thời
gian qua. Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng, các giải pháp phù hợp, khả thi nhằm hoàn thiện QLNN
đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian từ nay đến năm 2010 và 2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở
tỉnh Kiên Giang.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở việc nghiên cứu công tác quản lý nhà
nước của chính quyền cấp tỉnh đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Thời
gian khảo sát thực trạng từ năm 2001 đến năm 2007; các giải pháp dự kiến đề xuất cho giai
đoạn từ nay đến năm 2010 và 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế và quản lý kinh tế, nhất là những
quan điểm được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX và X.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chung: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê,
so sánh, dự báo, phương pháp chuyên gia.
Ngoài ra, luận văn cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đã được công bố.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về QLNN đối với
HĐDL trên địa bàn cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang những
năm qua; chỉ ra được những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất được phương hướng và các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm hoàn thiện
QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động du lịch và các loại hình hoạt động
kinh doanh du lịch
1.1.1.1. Khái niệm du lịch và hoạt động du lịch
- Khái niệm du lịch:
Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Pháp: “Tour” nghĩa là đi vòng quanh,
cuộc dạo chơi, còn “touriste” là người đi dạo chơi. Trong tiếng Anh “to tour” có
nghĩa là đi dã ngoại đến một nơi nào đó. Mặt khác, “du lịch” là từ Hán-Việt, có thể
coi là từ ghép giữa “du” là đi chơi với “lịch” là sự lịch lãm, hiểu biết.
Vậy du lịch là gì?
Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch, đầu tiên du lịch được hiểu là việc
đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng
thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Ngày
nay, khi du lịch phát triển mạnh trở thành lĩnh vực không thể thiếu trong đời sống
con người (từ giữa thế kỷ XX đến nay), người ta đưa ra những khái niệm cụ thể hơn
về du lịch.
Có quan niệm cho rằng:
Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên
quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng
cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ
những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa [67, tr.15].
Tại Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa - Canada (6/1991) đã đưa
ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường
thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất định, mục đích của chuyến
đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”
[21].
Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới của Liên Hợp Quốc (UNWTO):
Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của những người du hành, tạm
trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục
đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích
khác nữa, trong thời gian liên tục không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống
định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch
cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư
[31].
Luật Du lịch do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005 đưa ra định nghĩa: “Du lịch là các
hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định” [36, tr.9].
Trên cơ sở các yếu tố hợp lý của các định nghĩa về du lịch nêu trên, khái
niệm du lịch sử dụng trong luận văn được hiểu là: Du lịch là bao gồm tất cả các mối
quan hệ, các hoạt động liên quan đến chuyến đi và lưu trú của con người ở ngoài
nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, khám phá, nghỉ
dưỡng, chữa bệnh, giải trí, phát triển thể chất và tinh thần kèm theo việc tiêu thụ
những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa trong một khoảng thời gian nhất định.
Như vậy, một mặt, du lịch mang ý nghĩa thông thường của từ: việc đi lại của
con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí... Mặt khác, du lịch được nhìn nhận dưới
góc độ một hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế (sản xuất, tiêu thụ) do
chính nó tạo ra.
Ở khía cạnh thứ nhất, trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt
động không thể thiếu được trong cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Ở các
chuyến du lịch trong và ngoài nước, con người không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi,
giải trí,... mà còn thỏa mãn cả những nhu cầu to lớn về mặt tinh thần.
Ở khía cạnh thứ hai, du lịch là một hiện tượng KT-XH thu hút hàng tỷ người
trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hóa phục
vụ việc thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của khách du lịch.
- Khái niệm hoạt động du lịch:
Cũng như khái niệm du lịch, cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau về hoạt
động du lịch. Trước đây, người ta chỉ quan niệm hoạt động du lịch là một hoạt động
mang tính chất văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí và những nhu cầu hiểu biết
của con người, hoạt động du lịch không được coi là hoạt động kinh tế, không mang
tính chất kinh doanh và ít được đầu tư phát triển. Ngày nay, khi du lịch được nhiều
quốc gia trên thế giới xem là một ngành kinh tế quan trọng thì quan niệm về hoạt động
du lịch được hiểu một cách đầy đủ hơn.
Trên cơ sở tổng hợp lý luận và thực tiễn hoạt động du lịch ở Việt Nam thời
gian một vài thập kỷ gần đây, Luật Du lịch do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005 đưa ra khái
niệm hoạt động du lịch như sau: "Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch,
tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan đến du lịch" [36, tr.9].
Với cách tiếp cận này, hoạt động du lịch được nhìn nhận ở ba khía cạnh: Thứ
nhất, “hoạt động của khách du lịch” nghĩa là việc di chuyển và lưu trú tạm thời của
người đi du lịch đến một nơi ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ để tham quan,
nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật... Thứ hai, “tổ chức, cá
nhân kinh doanh du lịch”, tức là những người hoạt động tổ chức lưu trú, phục vụ ăn
uống, hướng dẫn tham quan, vận chuyển đưa đón du khách, kinh doanh các hàng
hóa, dịch vụ khác... nhằm mục tiêu lợi nhuận. Thứ ba, “cộng đồng dân cư và cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan”, tức là cơ quan nhà nước và các tổ chức có
liên quan tại địa phương du lịch tổ chức quản lý, điều phối, phục vụ hoạt động của
“khách du lịch” và “tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh du lịch” nhằm đảm bảo
cho các đối tượng này thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia HĐDL
theo đúng luật định.
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động du lịch
Xuất phát từ các khái niệm về du lịch và HĐDL, có thể rút ra một số đặc
điểm chủ yếu của HĐDL như sau:
Một là, HĐDL mang tính chất của một ngành kinh tế dịch vụ.
Ngày nay, nền sản xuất xã hội cùng với khoa học - kỹ thuật và công nghệ
phát triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội,
làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như cuộc sống văn minh của con người.
Từ đó, hoạt động du lịch trở thành một ngành kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển
và đang phát triển, tỷ trọng du lịch trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên. Du
lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, bởi vậy sản phẩm của nó vừa mang những đặc
điểm chung của dịch vụ vừa mang những đặc điểm riêng mà các ngành dịch vụ
khác không có.
Hai là, HĐDL là loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh
thần cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch.
Dịch vụ du lịch khác với các ngành dịch vụ khác ở chỗ: dịch vụ du lịch chỉ
thỏa mãn nhu cầu cho khách du lịch chứ không thỏa mãn nhu cầu cho tất cả mọi
người dân. Dịch vụ du lịch là nhằm thỏa mãn những nhu cầu hàng hóa đặc thù của
du khách trong thời gian lưu trú bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ về ăn, ở, nghỉ
ngơi, đi lại, tham quan, vui chơi giải trí, thông tin về văn hóa, lịch sử, tập quán và
các nhu cầu khác. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ đời sống nhằm thỏa
mãn nhu cầu con người, làm cho con người sống ngày càng văn minh, hiện đại.
Thực tế hiện nay cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới, khi thu nhập của người dân
tăng lên, đủ ăn, đủ mặc thì du lịch trở thành không thể thiếu, bởi vì ngoài việc thỏa
mãn nhu cầu tình cảm và lý trí, du lịch còn là một hình thức nghỉ dưỡng tích cực,
nhằm tái tạo lại sức lao động của con người.
Ba là, việc tiêu dùng và cung ứng dịch vụ du lịch xảy ra trong cùng một thời
gian và không gian.
Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hóa (thức ăn, đồ uống chế biến tại
chỗ...) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản xuất ra chúng.
Trong du lịch, người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hóa đến cho
khách hàng, mà ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có dịch vụ, hàng hóa.
Chính vì vậy, vai trò của việc thông tin, xúc tiến quảng bá du lịch là hết sức quan
trọng, đồng thời việc quản lý thị trường du lịch cũng cần có những đặc thù riêng.
Bốn là, HĐDL mang lại lợi ích thiết thực về chính trị, kinh tế, xã hội cho
nước làm du lịch và người làm du lịch.
Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới du lịch không những đem lại lợi ích
thiết thực về kinh tế mà còn mang lại cả lợi ích về chính trị, văn hóa, xã hội... Tuy
nhiên, sự chi phối mạnh nhất đối với ngành du lịch vẫn là lợi ích kinh tế. Vì vậy, ở
nhiều nước đã đưa ngành du lịch phát triển với tốc độ cao và trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, mang lại nguồn thu nhập lớn trong tổng sản
phẩm xã hội. Do đó, dịch vụ du lịch ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao
của khách du lịch còn phải đảm bảo mang lại lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội cho quốc gia làm du lịch và cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động du lịch.
Năm là, HĐDL chỉ phát triển trong môi trường hòa bình và ổn định.
Du lịch là lĩnh vực rất nhạy cảm với những vấn đề chính trị và xã hội. Du
lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu nghị
giữa các dân tộc. Ngược lại, chiến tranh ngăn cản các hoạt động du lịch, tạo nên
tình trạng mất an ninh, đi lại khó khăn, phá hoại các công trình du lịch, làm tổn hại
đến cả môi trường tự nhiên. Hòa bình là đòn bẩy đẩy mạnh hoạt động du lịch.
Ngược lại, du lịch có tác dụng trở lại đến việc cùng tồn tại hòa bình. Thông qua du
lịch quốc tế con người thể hiện nguyện vọng nóng bỏng của mình là được sống, lao
động trong hòa bình và hữu nghị. Và hơn thế nữa, không cần phải có chiến tranh mà
chỉ cần có những biến động chính trị, xã hội ở một khu vực, một vùng, một quốc
gia, một địa phương với mức độ nhất định cũng làm cho du lịch bị giảm sút một
cách đột ngột và muốn khôi phục phải có thời gian. Ví dụ, vụ khủng bố 11/9 tại Mỹ,
khủng bố tại đảo Bali - Indonêxia, sự kiện ‘‘đảo chính’’ ở Thái Lan... đã làm cho
ngành du lịch các nước này lao đao có thể nhiều năm mới phục hồi. Mặt khác, tình
trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi trường... cũng là những nhân tố rất quan trọng tác
động đến khách du lịch.
1.1.1.3. Các loại hình hoạt động kinh doanh du lịch
Kinh doanh du lịch là quá trình tổ chức sản xuất, lưu thông, mua, bán hàng
hóa du lịch trên thị trường, là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình hoạt động du lịch hoặc thực hiện dịch vụ du lịch trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.
Kinh doanh du lịch bao gồm các loại hình:
- Kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế.
- Kinh doanh lưu trú du lịch.
- Kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
- Kinh doanh các khu du lịch, điểm du lịch.
- Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác.
1.1.2. Ý nghĩa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường của hoạt
động du lịch
Du lịch từ lâu đã được coi là là một ngành KT-XH tổng hợp, đóng góp tích
cực vào sự phát triển KT-XH của nhiều quốc gia trên thế giới. Ý nghĩa kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường của HĐDL thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, về kinh tế:
HĐDL có tác động tích cực đến nền kinh tế của một đất nước, một vùng, một
địa phương thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Thông qua tiêu dùng, du
lịch tác động mạnh lên lĩnh vực lưu thông và do đó gây ảnh hưởng lớn lên những
lĩnh vực khác của quá trình tái sản xuất xã hội. Đồng thời, thông qua lĩnh vực lưu
thông mà du lịch có ảnh hưởng tích cực lên sự phát triển của nhiều ngành công
nghiệp và nông nghiệp (như công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp
thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi...).
Du lịch luôn đòi hỏi hàng hóa có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật
và hình thức. Do đó, du lịch góp phần định hướng cho sự phát triển của các ngành
ấy trên các mặt: số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm và việc chuyên môn hóa
của các xí nghiệp trong sản xuất, kinh doanh.
Mặt khác, thị trường du lịch rất rộng lớn với nhu cầu hàng hóa, dịch vụ rất đa
dạng và khả năng thanh toán của khách hàng khá cao. Thị trường du lịch hoạt động
trong không gian lãnh thổ như thị trường nội địa, nhưng ở thị trường này lại có khả
năng “xuất khẩu tại chỗ” thu vào ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thực
hiện việc tái phân chia nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng,
miền, địa phương trong nước, tạo ra nhiều việc làm cho người dân, góp phần thúc
đẩy nền kinh tế của một quốc gia, một vùng, một địa phương phát triển nhanh.
Thứ hai, về chính trị:
Du lịch góp phần củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, tăng cường sự
hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử truyền thống dân tộc, về các mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội của các nước mà du khách đến thăm. Du lịch quốc tế làm cho con
người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Năm 1979, Đại
hội của UNWTO đã thông qua Hiến chương du lịch và chọn ngày 27/9 làm ngày du
lịch thế giới với các chủ đề cho từng năm, như “Du lịch không chỉ là quyền lợi, mà
còn là trách nhiệm của mỗi người”,“Du lịch là giấy thông hành của hòa bình”...,
kêu gọi hàng triệu triệu người quý trọng lịch sử, văn hóa và truyền thống của các
quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du
lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Thứ ba, về văn hóa, xã hội:
Du lịch là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội của con người, có vai
trò to lớn trong việc giữ gìn, hồi phục sức khỏe và tăng cường sức sống cho nhân
dân. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi
thọ và khả năng lao động của con người. Đồng thời, thông qua du lịch, con người
được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc mới, thỏa mãn được trí tò mò,
đồng thời mở mang kiến thức, đáp ứng lòng ham hiểu biết, do đó tạo cho du khách
nguồn cảm xúc mới, góp phần hình thành phương hướng đúng đắn trong ước mơ
sáng tạo, trong kế hoạch cho tương lai của con người.
Mặt khác, mỗi đất nước, mỗi dân tộc có những điều kiện sinh sống, những
đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất mang những sắc thái
riêng của mình và có địa bàn cư trú nhất định. Những đặc thù của từng dân tộc có
sức hấp dẫn riêng đối với khách du lịch. Và du lịch là một hình thức quan trọng để
các dân tộc giao lưu văn hóa với nhau. Thông qua HĐDL, đông đảo quần chúng có
điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hóa phong phú và lâu đời của các dân
tộc, từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp như lòng yêu lao động, tình bạn... Điều đó quyết định sự
phát triển cân đối về nhân cách của mỗi cá nhân trong toàn xã hội. Ngoài ra, sự phát
triển du lịch có ý nghĩa lớn đối với việc góp phần khai thác bảo tồn các di sản văn
hóa và dân tộc.
Thứ tư, về môi trường sinh thái:
Vai trò sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường
sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích
việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính
môi trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và các hoạt động của con người.
Mặt khác, việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những
vùng nhất định lại đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích
du lịch. Đến lượt mình, quá trình này kích thích việc tìm kiếm các hình thức bảo vệ
tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý.
Việc làm quen với các danh thắng và môi trường thiên nhiên bao quanh có ý
nghĩa không nhỏ đối với khách du lịch. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc
các tri thức về tự nhiên, hình thành quan niệm và thói quen bảo vệ tự nhiên, góp
phần giáo dục cho khách du lịch về mặt sinh thái học. Giữa xã hội và môi trường
trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt, xã hội cần đảm bảo sự
phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ môi trường tự nhiên
khỏi tác động phá hoại của dòng khách du lịch và của việc xây dựng cơ sở vật chất
phục vụ du lịch. Du lịch - bảo vệ môi trường là những hoạt động gần gũi và liên
quan với nhau.
1.1.3. Các yếu tố tác động tới hoạt động du lịch
1.1.3.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một vùng, một
địa phương
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một vùng, một địa
phương như địa hình, rừng, biển, khí hậu, nguồn nước, tài nguyên thực vật, động
vật... có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành các trung tâm, khu, điểm đến
du lịch và tính bền vững của các sản phẩm du lịch. Thực tiễn cho thấy, một quốc
gia, một vùng, một địa phương nếu có nhiều cảnh đẹp tự nhiên, có khí hậu ấm áp,
có rừng, biển, động vật, thực vật phong phú… cộng với nằm ở vị trí có hệ thống
giao thông thuận lợi thì ở nơi đó chắc chắn sẽ có sức hấp dẫn lớn thu hút khách du
lịch đến tham quan, nghiên cứu. Đồng thời, nơi đó cũng sẽ có khả năng đáp ứng các
yêu cầu của nhiều loại hình du lịch với các đối tượng khác nhau góp phần thúc đẩy
mạnh HĐDL phát triển.
1.1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của một quốc gia, một vùng, một địa
phương
- Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế:
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất
hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Không thể nói
tới nhu cầu hoặc HĐDL của xã hội nếu như lực lượng sản xuất xã hội còn ở trong
tình trạng thấp kém. Thực tế cho thấy ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển,
nhìn chung nhu cầu nghỉ ngơi du lịch còn rất hạn chế. Ngược lại, nhu cầu nghỉ ngơi
du lịch ở các nước kinh tế phát triển rất đa dạng. Sự phát triển của du lịch bị chi
phối bởi nền sản xuất xã hội. Để giải quyết nhu cầu ăn, ở, đi lại nghỉ ngơi du lịch của
con người, những cái thiết yếu nhất đối với khách du lịch như mạng lưới đường giao
thông, phương tiện giao thông, khách sạn, nhà hàng... khó có thể trông cậy vào một nền
kinh tế yếu kém.
Trong nền sản xuất xã hội nói chung, hoạt động của một số ngành như công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và cả giao thông có ý nghĩa quan trọng để phát triển
du lịch. Trước tiên, công nghiệp cùng với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và
công nghệ tạo nên những tiền đề nâng cao thu nhập của người lao động, đồng thời
tăng thêm khả năng đi du lịch. Công nghiệp phát triển cao, sản xuất ra những vật
liệu đa dạng để xây dựng các công trình du lịch và hàng tiêu dùng cho khách du
lịch. Sự tập trung dân cư trong các trung tâm công nghiệp lớn, bầu không khí bị các
xí nghiệp công nghiệp làm ô nhiễm, tình trạng căng thẳng và tiếng ồn làm ảnh
hưởng không tốt tới sức khỏe khiến cho con người phải tìm chỗ nghỉ và hồi phục
sức khỏe ngoài nơi sinh sống. Công nghiệp phát triển là sức hút đông đảo khách du
lịch trong và ngoài nước. Hai là, nông nghiệp có ý nghĩa rất lớn, vì du lịch không
thể phát triển được nếu như không đảm bảo việc ăn uống cho du khách. Nhiều du
khách đi tham quan các vùng khác nhau trong và ngoài nước vì nguồn hoa quả và
rau xanh có thể tìm được ở đó. Ba là, mạng lưới giao thông cũng là một trong
những tiền đề kinh tế quan trọng nhất để phát triển du lịch. Nhờ mạng lưới giao
thông hoàn thiện mà du lịch phát triển với tốc độ nhanh. Ngày nay con người có thể
di chuyển một cách nhanh chóng, thuận tiện bằng phương tiện giao thông hiện đại:
tàu hỏa, tàu biển, tàu sông cao tốc, tàu chạy trên đệm từ, máy bay phản lực,... Điều
đó làm giảm thời gian đi lại, tăng thời gian nghỉ ngơi và du lịch.
Ngoài ra, cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh
tế, cuộc các mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ là nhân tố trực tiếp làm nảy
sinh nhu cầu và hoạt động du lịch. Cuộc cách mạng này đã khuấy động mọi ngành
sản xuất, đem lại năng suất lao động và hiệu quả cao. Đó là tiền đề nâng cao thu
nhập của người lao động, tăng thêm khả năng thực tế tham gia hoạt động nghỉ ngơi
du lịch, hoàn thiện KCHT và tạo cho du lịch có bước phát triển nhanh và bền vững.
- Dân cư và lao động:
Dân cư là lực lượng sản xuất quan trọng của xã hội. Cùng với hoạt động lao
động, dân cư còn có nhu cầu nghỉ ngơi và du lịch. Số lượng lao động và học sinh
tăng lên sẽ làm gia tăng nhu cầu tham gia vào các loại hình du lịch khác nhau. Số
lượng lao động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của kinh tế du lịch. Số dân, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, cấu trúc,
sự phân bố và mật độ dân cư có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch. Nhu
cầu du lịch của con người tùy thuộc vào đặc điểm xã hội, nhân khẩu của dân cư.
Việc nghiên cứu, phân tích kết cấu dân cư theo nghề nghiệp, lứa tuổi để xác định
nhu cầu nghỉ ngơi du lịch có ý nghĩa quan trọng để phát triển du lịch.
- Điều kiện sống của dân cư:
Điều kiện sống của dân cư là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó
được hình thành nhờ việc tăng thu nhập thực tế và cải thiện điều kiện sinh hoạt,
nâng cao khẩu phần ăn uống, phát triển đầy đủ mạng lưới y tế, văn hóa, giáo dục...
Đồng thời, du lịch chỉ có thể phát triển khi mức sống (vật chất, tinh thần) của
con người đạt tới trình độ nhất định. Một trong những nhân tố then chốt là mức thu
nhập thực tế của mỗi người trong xã hội. Không có mức thu nhập (cả cá nhân và xã
hội) cao thì khó có thể nghĩ đến việc nghỉ ngơi du lịch. Cùng với việc tăng mức thu
nhập thực tế, các điều kiện sống khác cũng phải liên tục được cải thiện. Các phương
tiện đi lại của cá nhân tăng lên góp phần phát triển rộng rãi HĐDL. Nhìn chung, ở
những nước kinh tế phát triển, có mức thu nhập cao tính bình quân theo đầu người,
nhu cầu và hoạt động du lịch trên thực tế phát triển mạnh mẽ nhất.
- Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch:
Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không gian
trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra đời và
phát triển du lịch. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch có tính chất KT-XH và là sản phẩm
của sự phát triển xã hội. Nó được hình thành trong quá trình phát triển KT-XH dưới
tác động của các yếu tố khách quan thuộc môi trường bên ngoài, giữa điều kiện
sống hiện có với điều kiện sống cần có thông qua các dạng nghỉ ngơi khác nhau.
Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch đặc trưng cho một giai đoạn phát triển nhất định của xã
hội. Nó chỉ ra đời ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, là kết
quả tác động tổng hợp của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, tăng mật độ và
sự tập trung dân cư vào các thành phố, kéo dài tuổi thọ... Song chỉ trong điều kiện
cách mạng khoa học - kỹ thuật, nhu cầu mới trở thành hiện thực trên quy mô xã hội.
Điều đó giải thích ở chỗ, giống như bất kỳ hiện tượng xã hội nào, nhu cầu là sự
phản ánh chủ quan của các điều kiện khách quan tồn tại con người.
- Thời gian rỗi:
Du lịch trong nước và quốc tế không thể phát triển được nếu con người thiếu
thời gian rỗi. Nó thật sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy
HĐDL.
Thời gian rỗi (tự do) là thời gian cần thiết cho con người để nâng cao học
vấn, phát triển trí tuệ, hoàn thành các chức năng xã hội, tiếp xúc với bạn bè, vui
chơi giải trí…
Thời gian rỗi là phần thời gian ngoài giờ làm việc, trong đó diễn ra các hoạt động
nhằm hồi phục và phát triển thể lực, trí tuệ, tinh thần của con người.
Một cách đầy đủ nhất, có thể hiểu thời gian rỗi là thời gian cần thiết cho việc
hồi phục sức lực của con người đã bỏ ra để tạo nên sản phẩm nào đấy trong điều
kiện bình thường của sản xuất… và cả thời gian cần thiết cho việc phục hồi mở
rộng để đảm bảo tiếp tục nâng cao năng suất lao động.
Nguồn quan trọng nhất làm tăng thời gian rỗi là giảm độ dài của tuần làm
việc và giảm thời gian của công việc nội trợ. Nhiều nước đã thực hiện chế độ tuần
làm việc 5 ngày (trong đó có Việt Nam).
1.1.3.3. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa, lịch sử cùng các thành
phần của chúng được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất
dịch vụ du lịch nhằm góp phần khôi phục và phát triển thể lực và trí lực của con
người, khả năng lao động và sức khỏe của họ.
Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài
nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của ngành du lịch, đến việc
hình thành, chuyên môn hóa các vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của HĐDL.
Tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và những kết hợp khác nhau của
cảnh quan tự nhiên cùng cảnh quan nhân văn (văn hóa) có thể sử dụng cho dịch vụ
du lịch và thỏa mãn nhu cầu về chữa bệnh, nghỉ ngơi, tham quan hay du lịch. Về
thực chất, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên, các đối tượng văn hóa – lịch
sử đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả
năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch.
Xét về cơ cấu, tài nguyên du lịch có thể chia làm 2 nhóm: Tài nguyên thiên
nhiên và tài nguyên nhân văn.
Các tài nguyên thiên nhiên gồm: địa hình, khí hậu, suối nước khoáng, biển,
sông, hồ, thực vật, động vật, rừng, núi,... Tài nguyên nhân văn: các tượng đài kiến trúc,
công trình văn hóa (viện bảo tàng, triển lãm trưng bày nghệ thuật, nhà hát, thư viện...),
các di tích văn hóa, lịch sử, các loại hình văn hóa phi vật thể (lễ hội, âm nhạc cổ truyền,
nghệ thuật,...). Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hóa - thể
thao và hoạt động nhận thức khác... thường có sức hút lớn đối với khách du lịch và
chúng có ý nghĩa quan trọng đến chiến lược phát triển du lịch của một quốc gia, một
vùng, một địa phương.
Mặt khác, tài nguyên du lịch đa dạng, giàu bản sắc cả về thiên nhiên (bãi
biển, hang động, suối nước nóng, nước khoáng, đảo, lớp phủ thực vật và thế giới
động vật quý hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo điển hình...) lẫn nhân văn
(các di tích lịch sử, nghệ thuật kiến trúc, những phong tục tập quán, các làng nghề
và truyền thống văn hóa đặc sắc của các dân tộc...) tạo điều kiện cho chúng ta phát
triển nhiều loại hình du lịch phong phú hấp dẫn như: nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên
cứu khoa học, hội chợ, hội nghị, festival... dài ngày và ngắn ngày.
1.1.3.4. Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch
KCHT nói chung có vai trò đặc biệt đối với việc đẩy mạnh HĐDL. Về
phương diện này, mạng lưới và phương tiện giao thông là những nhân tố quan trọng
hàng đầu. Du lịch gắn với sự di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất
định. Nó phụ thuộc vào giao thông (mạng lưới đường sá và phương tiện giao
thông). Chỉ có thông qua mạng lưới giao thông thuận tiện, nhanh chóng thì HĐDL
mới được đẩy mạnh và trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội. Mặt khác, các hệ
thống thông tin liên lạc, điện, nước... cũng là một phần quan trọng không thể thiếu
trong KCHT phục vụ du lịch.
CSVC-KT du lịch gồm: tất cả các trang thiết bị kỹ thuật cần thiết để đón tiếp
và phục vụ khách du lịch về lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, các dịch vụ bổ sung
khác. CSVC-KT du lịch cũng rất quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản
phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác các tiềm năng du lịch nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch.
Nhìn chung, một quốc gia, một vùng, một địa phương sẽ không khai thác
được tiềm năng phát triển du lịch nếu như không có điều kiện về KCHT và CSVC-
KT du lịch thuận lợi.
1.1.3.5. Yếu tố thị trường
Thị trường là một phạm trù của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa, trong đó
phản ánh toàn bộ quan hệ giữa cung - cầu và các mối quan hệ như thông tin kinh tế,
kỹ thuật, nảy sinh từ các mối quan hệ đó.
Thị trường du lịch là một bộ phận cấu thành của thị trường chung, một phạm
trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du lịch. Các mối quan hệ và cơ chế
kinh tế này được hình thành trên cơ sở yêu cầu của các quy luật sản xuất và lưu
thông hàng hóa, tồn tại trong các hình thái KT-XH nhất định.
Ngày nay, thị trường du lịch đã mở rộng trên phạm vi toàn cầu, phát triển
năng động với tốc độ nhanh, hội tụ các yếu tố văn minh của nhân loại. Do đó, thị
trường du lịch có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế du lịch. Thực tế cho
thấy các quốc gia phát triển là các quốc gia có nền công nghiệp du lịch phát triển,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu nền kinh tế quốc dân hợp lý và
hiện đại.
1.1.3.6. Yếu tố quản lý nhà nước
Quá trình phát triển HĐDL chịu sự tác động của quy luật khách quan trong
nền sản xuất xã hội. Song, HĐDL không thể thiếu vắng sự quản lý của nhà nước.
Bởi vì, nhà nước là chủ thể đặc biệt trong các mối quan hệ xã hội, đảm bảo cho các
quan hệ xã hội được thực hiện theo hướng ngày một tự do, bình đẳng hơn. Khi nói
đến du lịch là nói đến con người đi tìm cái "chân, thiện, mỹ" để hưởng thụ, bảo vệ
và tái tạo những sản phẩm, tài nguyên du lịch. Để đảm bảo cho việc tìm kiếm,
hưởng thụ, bảo vệ và tái tạo những tài nguyên này, nhà nước phải điều phối các
thành viên, các nhóm xã hội khác nhau để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
khi tham gia HĐDL với tư cách là một chủ thể (người bán, người mua và người
trung gian).
Ngoài ra, bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về du lịch
cũng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển du lịch. Thực tiễn cho thấy, nếu một quốc
gia, một vùng, một địa phương nào đó xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý có
chuyên môn nghiệp vụ về du lịch, có trình độ ngoại ngữ tốt, am hiểu luật pháp quốc
tế về du lịch, sử dụng thành thạo các thiết bị thông tin, điện tử... cộng với tổ chức bộ
máy QLNN đối với HĐDL thống nhất, đồng bộ thì sẽ thúc đẩy du lịch phát triển
nhanh. Ngược lại, sẽ làm cho du lịch chậm phát triển, thậm chí không phát triển và
sử dụng lãng phí tài nguyên du lịch.
1.1.3.7. Các bên tham gia hoạt động du lịch
Các bên tham gia HĐDL bao gồm: khách du lịch; tổ chức, cá nhân kinh doanh du
lịch; cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. Các bên
tham gia HĐDL có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, không thể tách rời
nhau và là một trong những yếu tố ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển du lịch của
một quốc gia, một vùng, một địa phương. Muốn HĐDL phát triển, thì quốc gia đó, địa
phương đó phải tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia cùng phát triển, không
xem nhẹ bên nào. Bởi vì, nếu thiếu một trong những bên tham gia thì HĐDL sẽ không
hiệu quả, thậm chí không tồn tại. Ví dụ, không có khách du lịch thì sẽ không có hoạt
động du lịch, hoặc để hoạt động kinh doanh du lịch tự phát không có sự quản lý của
nhà nước sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực đối với thuần phong mỹ tục, an ninh quốc
gia,...
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA
CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
1.2.1. Quan niệm và đặc điểm của quản lí nhà nước đối với hoạt động du
lịch trong nền kinh tế thị trường
1.2.1.1. Quan niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp những điểm hợp lý của nhiều quan niệm
khác nhau về QLNN đối với HĐDL, có thể rút ra: "QLNN đối với HĐDL là
phương thức mà thông qua hệ thống các công cụ quản lý bao gồm pháp luật, chính
sách, quy hoạch, kế hoạch Nhà nước tác động vào đối tượng quản lý để định hướng
cho HĐDL vận động, phát triển đến mục tiêu đã đặt ra trên cơ sở sử dụng có hiệu
quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế".
Như vậy, nói đến QLNN đối với HĐDL là nói đến cơ chế quản lý. Cơ chế
đó, một mặt, phải tuân thủ các yêu cầu của quy luật kinh tế khách quan; mặt khác,
phải có một hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch... thích
hợp để quản lý HĐDL. Quan niệm này bao hàm những nội dung cơ bản như: các cơ
quan nhà nước có chức năng QLNN về du lịch từ trung ương đến địa phương là chủ
thể quản lý; các quan hệ xã hội vận động và phát triển trong lĩnh vực du lịch là đối
tượng quản lý và hệ thống pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch,... là công cụ để
Nhà nước thực hiện sự quản lý.
Với tư cách là đối tượng quản lý, HĐDL phải được tổ chức và vận động trên
cở sở các quy định của pháp luật và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Với tư cách là cơ sở và là công cụ để Nhà nước thực hiện sự quản lý, pháp
luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch,... phải được xây dựng trên cơ sở chính xác,
đầy đủ, thống nhất là những chuẩn mực để đối tượng quản lý dựa vào đó vận động,
phát triển và để chủ thể quản lý thực hiện sự kiểm tra, giám sát đối tượng quản lý.
QLNN đối với HĐDL là tạo môi trường thông thoáng, ổn định, định hướng,
hỗ trợ, thúc đẩy các HĐDL phát triển nhưng có trật tự nhằm giải quyết hài hòa các
lợi ích. Thực hiện kiểm tra, giám sát HĐDL nhằm đảm bảo trật tự, kỷ cương, uốn
nắn những hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật.
QLNN đối với HĐDL là hiện tượng phổ biến đối với tất cả các nước trên thế
giới, chứ không phải chỉ riêng ở Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ và yêu cầu quản lý ở
mỗi quốc gia có khác nhau và phụ thuộc vào sự phát triển của từng nước, trước hết
là sự phát triển của các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như trình
độ QLNN và trình độ dân trí của từng quốc gia.
1.2.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch
Một là, Nhà nước là người tổ chức và quản lý các HĐDL diễn ra trong nền
kinh tế thị trường.
Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường là tính phức tạp, năng động
và nhạy cảm. Vì vậy, HĐDL đòi hỏi phải có một chủ thể có tiềm lực về mọi mặt để
đứng ra tổ chức và điều hành, chủ thể ấy không ai khác chính là Nhà nước - vừa là
người quản lý, vừa là người tổ chức HĐDL. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Nhà
nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,... và sử
dụng các công cụ này để tổ chức và quản lý HĐDL.
Hai là, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch... phát triển du lịch là cơ sở, là những công cụ để Nhà nước tổ chức và
quản lý HĐDL.
Trong nền kinh tế thị trường, HĐDL diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng
về chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô hoạt động... Dù phức tạp thế nào đi
chăng nữa, sự quản lý của Nhà nước cũng phải bảo đảm cho HĐDL có tính tổ chức
cao, ổn định, công bằng và có tính định hướng rõ rệt. Do đó, Nhà nước phải ban hành
pháp luật, đề ra các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch... và
dùng các công cụ này tác động vào lĩnh vực du lịch.
Ba là, QLNN đối với HĐDL đòi hỏi phải có một bộ máy nhà nước mạnh, có
hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có trình độ, năng lực
thật sự.
QLNN đối với HĐDL phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị
trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi
cho mọi HĐDL phát triển. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy và đội
ngũ cán bộ QLNN không thể khác hơn là phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có
hiệu quả từ Trung ương đến địa phương.
Bốn là, QLNN đối với HĐDL còn xuất phát từ chính nhu cầu khách quan
của sự gia tăng vai trò của chính sách, pháp luật... trong nền kinh tế thị trường với
tư cách là công cụ quản lý.
Nền kinh tế thị trường với những quan hệ kinh tế rất đa dạng và năng động
đòi hỏi có một sân chơi an toàn và bình đẳng, đặc biệt khi vấn đề toàn cầu hoá kinh
tế, hội nhập kinh tế quốc tế là mục tiêu mà các quốc gia hướng tới. Trong bối cảnh
đó, phải có một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp không chỉ với
điều kiện ở trong nước mà còn với thông lệ và luật pháp quốc tế. Đây là sự thách
thức lớn đối với mỗi quốc gia. Bởi vì, mọi quan hệ hợp tác dù ở bất kỳ lĩnh vực nào
và với đối tác nào cũng cần có trình tự nhất định và chỉ có thể dựa trên cơ sở chính
sách, pháp luật.
1.2.2. Vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trong nền kinh
tế thị trường
Vai trò QLNN đối với HĐDL không nằm ngoài mục đích hỗ trợ và tạo điều
kiện cho du lịch phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, Nhà nước sử dụng tất cả
các biện pháp có thể để can thiệp vào HĐDL nhằm tạo ra môi trường du lịch lành
mạnh, phân bổ nguồn lực một cách tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển
xã hội một cách hài hòa, phù hợp với giá trị truyền thống và văn hóa của một quốc
gia, một vùng, một địa phương. Mặt khác, với tính chất là một ngành KT-XH mang
lại những hiệu quả tổng hợp, cũng như các ngành kinh tế khác, du lịch muốn phát
triển bền vững không thể đặt ngoài sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vai trò QLNN
đối với HĐDL được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, nếu không có sự quản lý của Nhà nước thì HĐDL sẽ vận động
theo hai hướng vừa tích cực, vừa tiêu cực. Đó là quy luật vận động của nền kinh tế
thị trường nói chung. Vai trò QLNN thể hiện ở chỗ, Nhà nước trên cơ sở nắm bắt
những quy luật vận động khách quan của nền kinh tế, định hướng cho HĐDL phát
triển theo hướng tích cực, hạn chế tiêu cực để nhanh chóng đạt được các mục tiêu
đã đề ra. Nhà nước tạo cơ sở pháp lý, có chính sách khuyến khích các tổ chức và cá
nhân tham gia HĐDL.
Thứ hai, trong quá trình tham gia HĐDL, các tổ chức và cá nhân không thể
tự giải quyết những vấn đề vượt quá khả năng của mình như các vấn đề về môi
trường, an ninh, an toàn cho du khách cũng như các vấn đề về hợp tác quốc tế và
vấn đề về thủ tục hành chính trong du lịch. Do đó, cần phải có sự quản lý của Nhà
nước nhằm tạo điều kiện cho HĐDL phát triển.
Thứ ba, du lịch là ngành có định hướng tài nguyên. Vì thế, trong quá trình
hoạt động, tổ chức và doanh nghiệp du lịch thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận
riêng của mình mà không quan tâm đến việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Do vậy, Nhà
nước phải tham gia vào việc phân phối và sử dụng tài nguyên bằng việc ban hành
các quy định về duy trì và bảo vệ tài nguyên du lịch.
Thứ tư, QLNN đối với HĐDL thực chất cũng là để Nhà nước bảo vệ lợi ích
của chính mình. Bởi vì bất cứ một hoạt động KT-XH nào cũng có một phần tài sản
của Nhà nước, đó là các doanh nghiệp du lịch của Nhà nước, KCHT, CSVC-KT của
Nhà nước đầu tư cho HĐDL.
Thứ năm, du lịch là một ngành KT-XH liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực khác. Để du lịch phát triển tốt, Nhà nước cần ban hành những quy định pháp
luật nhằm điều hòa lợi ích cũng như đảm bảo sự hỗ trợ phát triển giữa du lịch với
các ngành, lĩnh vực có liên quan.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch của chính
quyền cấp tỉnh
Tùy theo điều kiện của từng quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển mà xác
định nội dung QLNN về du lịch phù hợp. Đồng thời, nội dung QLNN đối với
HĐDL còn được quy định bằng pháp luật, nó mang tính pháp lý chặt chẽ buộc các
cấp chính quyền và các doanh nghiệp phải tuân thủ.
Ở Việt Nam, nội dung quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với
hoạt động du lịch hiện nay theo phân cấp quản lý cụ thể như sau:
1.2.3.1. Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật chung của Nhà nước
liên quan đến HĐDL và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách
phát triển du lịch mang tính đặc thù của địa phương thuộc thẩm quyền
Hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật đã khó, nhưng cái khó hơn là làm
thế nào để đưa nó đi vào đời sống thực tế. Bản thân chính sách, pháp luật đối với
nền kinh tế của một đất nước nói chung và trong lĩnh vực du lịch nói riêng mới chỉ
là những quy định của Nhà nước, là ý chí của Nhà nước bắt mọi chủ thể khác (trong
đó có chính bản thân Nhà nước) phải thực hiện. Vì vậy, để chính sách, pháp luật đi
vào cuộc sống các cơ quan nhà nước nói chung, chính quyền cấp tỉnh nói riêng phải
tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh. Chính quyền cấp tỉnh phải tổ chức tuyên truyền,
phổ biến chính sách, pháp luật về du lịch cho cán bộ, công nhân viên chức và nhân
dân trên địa bàn giúp họ nhận thức đúng đắn, từ đó có hành động đúng trong hoạt
động thực tiễn; đảm bảo sự tuân thủ, thi hành chính sách, pháp luật về du lịch một
cách nghiêm túc. Mặt khác, chính quyền cấp tỉnh phải tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật du lịch trên địa bàn tỉnh, xử lý nghiêm
mọi hành vi vi phạm pháp luật. Không tùy tiện thay đổi các chính sách của mình,
nhanh chóng xóa bỏ các văn bản cũ trái với các văn bản mới ban hành, giảm tối đa
sự trùng lắp, gây khó khăn cho HĐDL.
Bên cạnh đó, để phát triển du lịch trên cơ sở khai thác tiềm năng và lợi thế so
sánh của địa phương, chính quyền cấp tỉnh phải tích cực cải thiện môi trường pháp
lý, môi trường đầu tư và kinh doanh thông qua việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật chung của Nhà nước về phát triển du lịch phù hợp với điều
kiện ở địa phương. Đồng thời, nghiên cứu và ban hành các cơ chế, chính sách thuộc
thẩm quyền mang tính đặc thù ở địa phương như chính sách khuyến khích đầu tư,
chính sách ưu đãi tiền thuê đất, thời hạn thuê đất, chính sách ưu đãi tín dụng,...
nhằm tạo điều kiện thuận lợi, tạo sự an tâm, tin tưởng cho các tổ chức, cá nhân (kể
cả trong nước và ngoài nước) khi bỏ vốn đầu tư kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, việc
ban hành các cơ chế, chính sách của địa phương vừa phải bảo đảm theo đúng các
quy định của pháp luật và quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, vừa phải thông
thoáng trên cơ sở sử dụng nguồn lực của địa phương để khuyến khích phát triển,
đồng thời cũng phải đảm bảo tính ổn định và bình đẳng, tính nghiêm minh trong
quá trình thực thi. Bên cạnh đó, chính quyền cấp tỉnh cần tiếp tục thực hiện cải cách
hành chính ở địa phương theo hướng chuyên nghiệp và hiệu quả. Tiếp tục thực hiện
mô hình một cửa trong đăng ký đầu tư, đăng ký kinh doanh... Thực hiện chuẩn hóa
các thủ tục hành chính theo tinh thần triệt để tuân thủ pháp luật, công khai, minh
bạch, thuận tiện.
Mặt khác, hệ thống KCHT và CSVC-KT du lịch là một trong những điều
kiện quan trọng để phát triển du lịch, vì vậy chính quyền cấp tỉnh cần có chính sách
ưu tiên, hỗ trợ cho đầu tư xây dựng KCHT du lịch tại các khu, điểm du lịch như mở
đường giao thông, xây dựng hệ thống điện, cung cấp nước sạch, phát triển hệ thống
thông tin liên lạc, hỗ trợ trong việc tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử, các công
trình kiến trúc, cảnh quan du lịch... Ngoài ra, chính quyền cấp tỉnh cần phải đảm
bảo bình ổn giá cả tiêu dùng và thị trường du lịch, có chính sách điều tiết thu nhập
hợp lý và hướng các doanh nghiệp du lịch tham gia thực hiện các chính sách xã hội
ở địa phương. Để thực hiện điều này, chính quyền cấp tỉnh phải sử dụng linh hoạt
các công cụ quản lý để hạn chế tình trạng nâng giá, độc quyền trong hoạt động kinh
doanh du lịch ở địa phương. Du lịch là khâu đột phá kích thích sự phát triển của nhiều
ngành, lĩnh vực và cũng là lĩnh vực tạo ra lợi nhuận cao, vì vậy phải có chính sách hợp
lý để hướng các doanh nghiệp sử dụng nguồn lợi nhuận thu được tiếp tục đầu tư cho sự
phát triển lâu dài và bền vững, khai thác hợp lý tiềm năng du lịch sẵn có của địa
phương, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa có tiềm năng phát triển du lịch để góp
phần cải thiện cuộc sống vật chất và tinh thần cho người dân sở tại...
1.2.3.2. Xây dựng và công khai quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch ở
địa bàn để giúp các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch định hướng phát
triển
Xây dựng và công khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du
lịch là một trong những nội dung quản lý nhà nước có tính quyết định đối với sự
phát triển du lịch trên địa bàn của chính quyền cấp tỉnh. Nó giúp cho các cá nhân, tổ
chức (nhà đầu tư) an tâm khi quyết định đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực du lịch.
Trong hoạt động kinh doanh du lịch, mục tiêu cuối cùng của các đơn vị kinh
doanh là lợi nhuận. Do đó, nếu không được định hướng phát triển đúng sẽ gây ra
lãng phí, kém hiệu quả do không phù hợp với nhu cầu thị trường và thực tế phát
triển của địa phương, nhất là các hoạt động đầu tư xây dựng phát triển KCHT các
khu, điểm du lịch,... hoặc đầu tư xây dựng CSVC-KT như các nhà hàng, khách sạn,
nhà nghỉ... Vì thế, chính quyền cấp tỉnh phải hết sức quan tâm đến việc xây dựng và
công khai kịp thời các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch của địa
phương. Các mục tiêu, chỉ tiêu trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du
lịch phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển chung của cả nước. Đáp ứng
những yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới
gắn với tiến trình đẩy mạnh thực hiện CNH, HĐH đất nước. Có như vậy, mỗi đơn vị
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch mới có thể xây dựng chiến lược, kế hoạch
phát triển riêng phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển chung của địa phương.
1.2.3.3. Thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hoạt
động trong lĩnh vực du lịch do địa phương quản lý
Trong nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN ở nước ta, vai trò của kinh
tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong việc chi phối hoạt
động của thị trường, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đã được thực tế khẳng
định và nó càng trở nên quan trọng, nhất là đối với các địa phương vùng ĐBSCL.
Cùng với việc sử dụng và phát huy khả năng điều tiết, chi phối của kinh tế nhà
nước, chính quyền cấp tỉnh cần phải quan tâm đến chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn. Trước hết phải hoàn thành lộ trình đổi
mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực du lịch do địa
phương quản lý, theo hướng từng bước trở thành các doanh nghiệp kinh doanh hiện
đại, có sự liên kết với mạng lưới các hộ kinh doanh cá thể, có khả năng mở rộng các
HĐDL liên vùng, khu vực và kinh doanh lữ hành quốc tế. Mặt khác, cần có chương
trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp du lịch nhà nước với nhiều hình thức như đầu tư
vốn thông qua góp vốn cổ phần của các công ty nhà nước, tăng cường cán bộ có
năng lực, hỗ trợ một phần kinh phí quảng bá thương hiệu, xúc tiến đầu tư, quảng bá
du lịch và đào các bộ quản lý,...
1.2.3.4. Tạo lập sự gắn kết liên ngành, liên vùng, liên quốc gia trong hoạt
động du lịch; giữa địa phương và Trung ương trong quản lý nhà nước về du lịch
Nâng cao tính liên kết là một điều kiện tất yếu để phát triển bền vững ngành
du lịch trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm tính liên ngành, liên vùng,
liên quốc gia. Sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp du lịch, liên kết giữa
các doanh nghiệp và cơ quan QLNN cũng sẽ tạo nên một môi trường, cơ chế kinh
doanh thuận lợi, công bằng. Để đạt được điều này, một mặt, các cơ quan QLNN về
du lịch ở Trung ương và địa phương phải thống nhất và luôn giữ mối quan hệ chặt
chẽ, liên hệ mật thiết với nhau trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch;
thực hiện nguyên tắc và các cơ chế, chính sách phát triển du lịch của quốc gia nói
chung và ở địa phương nói riêng nhằm đảm bảo đạt hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác,
trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, để tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch ở địa phương, Chính quyền cấp tỉnh cần làm
tốt việc cung cấp thông tin, cập nhật chính sách mới về du lịch, tổ chức tập huấn
cho cán bộ QLNN và cán bộ quản trị doanh nghiệp để giúp họ hiểu rõ về các cam
kết, nghĩa vụ của Nhà nước và của doanh nghiệp theo luật pháp quốc tế và điều kiện
của WTO.
Chính quyền cấp tỉnh cần phải trở thành trung tâm gắn kết giữa các doanh
nghiệp du lịch trên địa bàn với thị trường liên vùng, khu vực và trên thế giới, nhất là
với các trung tâm kinh tế lớn. Một mặt, chính quyền cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ
tham gia hợp tác quốc tế về du lịch theo quy định của pháp luật, góp phần đẩy mạnh
liên kết và hội nhập dịch vụ du lịch với các nước trong khu vực và quốc tế. Mặt
khác, cần chủ động làm “đầu nối” thông qua việc tổ chức và thiết lập các điểm
thông tin, lựa chọn và công bố các địa chỉ giao dịch của các cơ quan, tổ chức và
doanh nghiệp có uy tín đang hoạt động tại các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực
và trên thế giới nhằm giúp các doanh nghiệp có những thông tin cần thiết để có thể
lựa chọn đối tác liên doanh, liên kết. Đồng thời, cũng cần đẩy mạnh các hoạt động
xúc tiến đầu tư xây dựng KCHT, CSVC-KT du lịch, xúc tiến quảng bá du lịch của
địa phương thông qua việc tổ chức các cuộc hội thảo, tổ chức các đoàn công tác kết
hợp tham quan trao đổi kinh nghiệm với các địa phương khác trong nước hoặc nước
ngoài...
1.2.3.5. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực cho hoạt động du lịch
Cũng như trong các lĩnh vực, ngành nghề khác, chất lượng nguồn nhân lực
trong HĐDL cũng ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của lĩnh vực này. Bởi vì,
từ cạnh tranh toàn cầu, cạnh tranh giữa các quốc gia, các ngành, các doanh nghiệp
cho đến cạnh tranh từng sản phẩm suy cho cùng là cạnh tranh bằng trí tuệ của nhà
quản lý và chất lượng của nguồn nhân lực. Để HĐDL của một quốc gia, một vùng,
một địa phương phát triển, việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo bồi
dưỡng nguồn nhân lực cho HĐDL cần được quan tâm thực hiện thường xuyên. Đặc
biệt, những địa phương có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch cần phải có chiến
lược, kế hoạch phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có như vậy mới khai
thác có hiệu quả tiềm năng du lịch góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển KT-XH của
địa phương.
1.2.3.6. Thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động du lịch và xử lý
vi phạm trong lĩnh vực du lịch
Sự phát triển nhanh của du lịch sẽ làm phát sinh các hành vi tiêu cực như
khai thác quá mức các công trình, khu, điểm du lịch, làm ô nhiễm môi trường sinh
thái, những hoạt động kinh doanh du lịch trái với bản sắc văn hóa của đất nước, của
địa phương... Do đó, chính quyền cấp tỉnh phải chỉ đạo thực hiện thường xuyên
công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với HĐDL để phòng ngừa hoặc ngăn
chặn kịp thời những hành vi tiêu cực có thể xảy ra. Để thực hiện tốt nội dung này,
chính quyền cấp tỉnh cần làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
và những quy định của tỉnh về đầu tư khai thác các khu, điểm du lịch trên địa bàn;
thực hiện việc đăng ký và hoạt động theo đăng ký kinh doanh, nhất là những hoạt
động kinh doanh có điều kiện như: kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành,...; đồng
thời cần xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về du lịch trên địa bàn.
1.2.4. Yêu cầu đối với quản lý nhà nước về hoạt động du lịch ở nước ta
hiện nay
Hiện nay, nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước, quá trình đó tạo ra những tiền đề quan trọng thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng cao, nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư, tác động mạnh đến sự phát
triển của ngành du lịch. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra ngày càng sâu rộng, xu thế hình thành các nền kinh tế tri thức đang trở
thành hiện thực dưới tác động mạnh mẽ của sự phát triển khoa học và công nghệ.
Đồng thời, sau hơn 11 năm nỗ lực đàm phán nước ta đã trở thành thành viên thứ
150 của WTO. Theo đó, nước ta cam kết mở cửa thị trường dịch vụ du lịch và dịch
vụ có liên quan theo “luật chơi” chung của WTO, như: dịch vụ xếp chỗ ở khách sạn
(CPC) 64110; dịch vụ cung cấp thức ăn (CPC) 642 và đồ uống (CPC) 643; dịch vụ
đại lý lữ hành và điều hành TOUR du lịch (CPC) 7471. Điều này đang mở cho nền
kinh tế Việt Nam nói chung, ngành du lịch nói riêng những cơ hội tiếp thu tri thức,
công nghệ và các nguồn lực khác từ bên ngoài để phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh
những cơ hội, nền kinh tế Việt Nam nói chung, ngành du lịch nói riêng phải đối mặt
với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong khi năng lực nội sinh để tiếp thu cơ hội từ
bên ngoài còn nhiều hạn chế, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước
trong khu vực và trên thế giới luôn hiện hữu...
Trong bối cảnh đó, để thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, đảm
bảo các mục tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, bảo vệ môi trường,... quản lý nhà nước về du lịch cần tuân thủ một số
yêu cầu chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát huy mạnh mẽ các nguồn nội lực để phát triển du lịch.
Để phát huy mạnh mẽ các nguồn nội lực, cần đảm bảo quyền kinh doanh du
lịch cho các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo
điều kiện và cơ hội để họ mở rộng thị trường, tiếp cận công nghệ hiện đại. Mặt
khác, cần tạo môi trường pháp lý thông thoáng, xây dựng và ban hành các cơ chế,
chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân kinh doanh du lịch
sắp xếp, đổi mới, phát huy lợi thế, nâng cao sức cạnh tranh hướng tới hiệu quả kinh
tế - xã hội thiết thực.
Thứ hai, bảo đảm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế.
Đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh, thu hút
nguồn khách bên ngoài, chủ động hội nhập du lịch quốc tế là một trong những chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trên tinh thần đó, QLNN về du lịch cần đề ra
chính sách thu hút khách du lịch quốc tế theo hướng: Xây dựng hệ thống cơ chế,
chính sách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh du lịch, đảm bảo tính khuyến
khích và khả năng cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Tiếp tục điều
chỉnh giảm giá và phí của các dịch vụ để thu hút du khách quốc tế; nâng cao năng
lực quản lý và sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực du lịch,
đơn giản hóa thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp nhằm tiết kiệm thời gian, chí
phí, tạo niềm tin cho du khách, mở rộng thẩm quyền và trách nhiệm của địa phương
nhằm giải quyết kịp thời các vướng mắc, hỗ trợ tốt nhất cho các hoạt động du lịch;
cải thiện KCHT, CSVC-KT du lịch như giao thông, hệ thống thông tin liên lạc...,
các dịch vụ ăn, nghỉ, đi lại... cũng như các dịch vụ tài chính, ngân hàng để tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh du lịch.
Thứ ba, đảm bảo xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý du lịch quốc tế
nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý trong nước, đồng thời phù hợp với thông lệ và luật
pháp quốc tế về du lịch.
QLNN về du lịch cần coi hoạt động của khách du lịch là đối tượng quản lý,
phải xác định rõ và đủ mọi hoạt động của khách du lịch để không bỏ sót các lĩnh
vực cần quản lý. Bảo vệ quyền và lợi ích của du khách chính là bảo vệ danh tiếng,
giữ gìn sự hấp dẫn du lịch, uy tín và thể diện của quốc gia. Bên cạnh đó, cần có
những yêu cầu và quy định đối với khách du lịch, xác định rõ nhiệm vụ mà họ phải
thực hiện khi đến du lịch ở nước ta. Vì vậy, thể chế quản lý du lịch không những
phải điều chỉnh quan hệ mua và bán dịch vụ mà còn hàm chứa cả việc quản lý các
hoạt động khác của du khách như thủ tục xuất nhập cảnh, quá cảnh, đi lại, tiếp xúc,
giao lưu... Do đó, hệ thống văn bản pháp luật về du lịch phải hết sức đồng bộ, nhất
quán giữa các cấp, các ngành, tránh dùng biện pháp hành chính máy móc. Trong
quản lý HĐDL quốc tế, thể chế quản lý phải thể hiện yêu cầu quản lý trong nước,
đồng thời phải phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế về du lịch.
Mặt khác, do đặc thù của hoạt động du lịch, người đứng đầu một doanh
nghiệp du lịch, một khách sạn, không thể không chịu trách nhiệm về an ninh chính
trị, về hướng dẫn khách tuân thủ pháp luật và tôn trọng phong tục Việt Nam. Như
vậy có thể nói, ở chừng mực nhất định, những người đứng đầu một doanh nghiệp
kinh doanh du lịch, trong hoạt động của mình thực hiện cả hai chức năng quản lý
nhà nước và quản trị kinh doanh. Do vậy, việc xây dựng thể chế quản lý du lịch cần
làm rõ hai chức năng này.
Thứ tư, gắn công tác quy hoạch phát triển du lịch với việc bảo tồn các tài
nguyên du lịch và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Hiện nay, yêu cầu của du khách, nhất là du khách đến từ các nước phát triển,
đối với sản phẩm du lịch rất cao, xuất phát từ sự đa dạng trong văn hóa, tín ngưỡng,
phong tục và kinh nghiệm đi du lịch. Vì vậy, để hấp dẫn và lưu giữ khách, cần phải
tôn tạo, nâng cấp các danh thắng, tài nguyên để khai thác lâu dài, bền vững. Vai trò
của quy hoạch trong xây dựng các điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch hết sức
quan trọng. Trong quy hoạch và xây dựng, phải hướng tới hiệu quả nhiều mặt,
không chỉ về kinh tế mà còn đảm bảo tính thẩm mỹ, văn hóa và giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc.
Thứ năm, đảm bảo sự phối hợp liên ngành trong quản lý HĐDL gắn với việc
thực hiện có hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại.
HĐDL đa dạng, mang tính liên ngành, liên vùng, liên quốc gia nên QLNN về
du lịch là quản lý liên ngành. Bộ máy QLNN về du lịch trong hoạt động của mình cũng
thể hiện tính liên ngành rõ rệt. Ngoài cơ quan đảm nhiệm trực tiếp chức năng QLNN
về du lịch, còn có những bộ phận của các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng quản
lý du lịch. Những hoạt động quản lý du lịch của tất cả các cơ quan này phải chịu sự
điều phối, chỉ đạo tập trung của một đầu mối.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, HĐDL của một đất
nước thường gắn chặt và tùy thuộc không ít vào mối quan hệ với các nước và các tổ
chức quốc tế về du lịch. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển du lịch cần thực hiện có hiệu
quả các hoạt động kinh tế đối ngoại.
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
DU LỊCH Ở MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ THUỘC ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO TỈNH KIÊN GIANG
Dưới tác động của công cuộc đổi mới và sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ
đối với HĐDL thời gian qua, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có nhiều
cố gắng, nỗ lực hoàn thiện công tác QLNN đối với HĐDL trên địa bàn nhằm khai
thác đạt hiệu quả cao nhất tiềm năng và thế mạnh trong phát triển du lịch của địa
phương mình, nhất là các tỉnh, thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần
Thơ, tỉnh Quảng Ninh, Quảng Nam... Tuy nhiên, luận văn chỉ nghiên cứu, tìm hiểu
kinh nghiệm QLNN đối với HĐDL của một số địa phương thuộc vùng ĐBSCL, có
điều kiện tự nhiên, xã hội khá tương đồng so với tỉnh Kiên Giang, đó là TP Cần Thơ
và tỉnh Cà Mau.
1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Cần Thơ
Cần Thơ là thành phố trực thuộc Trung ương, phía Bắc giáp tỉnh An Giang
và Đồng Tháp, phía Nam giáp tỉnh Sóc Trăng, phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Long, phía
Tây giáp tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang và Bạc Liêu. TP Cần Thơ có diện tích tự
nhiên là 138.959,99 ha và dân số khoảng 1,1 triệu người. Với vị trí trung tâm vùng
ĐBSCL, TP Cần Thơ có hệ thống giao thông thủy, bộ khá thuận tiện trong việc giao
lưu kinh tế, văn hóa với các tỉnh trong vùng; với địa bàn trọng điểm kinh tế phía
Nam và cả Phnompênh (Campuchia). Ngoài đặc trưng về địa lý là đầu mối giao
thông quan trọng giữa các tỉnh trong vùng ĐBSCL, TP Cần Thơ được ví như “đô
thị miền sông nước”. Cần Thơ có hệ thống sông ngòi chằng chịt, vườn cây ăn trái
bạt ngàn, đồng ruộng mênh mông. Các cù lao như: Tân Lộc, cồn Sơn, cồn Khương,
cồn Âu... trên sông Hậu hết sức độc đáo để phát triển loại hình du lịch sông nước.
Mới đây, TP Cần Thơ đã đăng cai tổ chức năm du lịch quốc gia 2008 với chủ đề
"Du lịch miệt vườn sông nước Cửu Long", năm du lịch quốc gia Mêkông - Cần Thơ
2008. Mêkông - Cần Thơ 2008 được khai mạc vào ngày 21/2/2008 tại TP Cần Thơ,
là lễ hội có quy mô mang tầm vóc quốc gia, với các tua, tuyến du lịch liên hoàn
giữa các lễ hội của 13 tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSCL, kể cả hợp tác và phát
triển với các nước thuộc tiểu vùng sông Mêkông.
Với tiềm năng và lợi thế sẵn có, TP Cần Thơ đã xác định du lịch là ngành
kinh tế quan trọng được ưu tiên phát triển. Trong những năm qua, công tác QLNN
đối với HĐDL của TP Cần Thơ đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, góp phần thúc đẩy sự
phát triển du lịch trên địa bàn. KCHT, CSVC-KT, doanh thu, số lượng du khách,...
năm sau luôn tăng hơn năm trước. Cụ thể, tổng số khách sạn năm 2005 là 97 với
2.355 phòng, có 21 khách sạn từ 1 đến 4 sao; năm 2006 là 115 khách sạn với 2.892
phòng, có 24 khách sạn từ 1 đến 4 sao; 2007 là 135 khách sạn với 3.269 phòng, có 25
khách sạn từ 1 đến 4 sao. Tổng số lượt khách du lịch năm 2005 là 462.141 lượt, trong
đó 104.841 lượt khách quốc tế; năm 2006 là 543.650 lượt, trong đó 121.221 lượt khách
quốc tế; năm 2007 là 693.055 lượt, trong đó 155.735 lượt khách quốc tế. Tổng doanh
thu năm 2005 là 231,2 tỷ đồng; năm 2006 là 270,9 tỷ đồng; năm 2007 là 365 tỷ đồng...
[29].
Để đạt được những kết quả tích cực nói trên về phát triển du lịch, TP Cần
Thơ đã thực hiện các biện pháp QLNN chủ yếu sau: xây dựng cơ chế, chính sách
thu hút đầu tư phát triển du lịch (với chính sách cởi mở và khuyến khích đầu tư, TP
Cần Thơ đã thu hút được nhiều dự án đầu tư phát triển các khu du lịch, đã hình
thành được nhiều khu, điểm du lịch mới tạo thành chuỗi các điểm du lịch thu hút
nhiều khách du lịch đến tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng...); bổ sung hoàn chỉnh quy
hoạch, kế hoạch phát triển du lịch cho từng giai đoạn phù hợp với xu thế phát triển
chung hiện nay và những năm tiếp theo, đó là coi du lịch miệt vườn sông nước Cửu
Long và du lịch văn hóa là hướng đột phá trong chiến lược phát triển du lịch của
thành phố; tập trung đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, tăng cường việc
liên doanh, liên kết trong và ngoài nước; ưu tiên hỗ trợ cho đầu tư xây dựng KCHT,
CSVC-KT du lịch; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo và đào tạo lại
đội ngũ cán bộ QLNN nói chung và cán bộ QLNN trong lĩnh vực du lịch nói riêng
nhằm đáp ứng yêu cầu mới [29].
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Cà Mau
Cà Mau là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, có 3 mặt giáp biển với 307 km bờ
biển. Phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đông Bắc giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Đông
và Đông Nam giáp Biển Đông, phía Tây và Tây Nam giáp vịnh Thái Lan. Có diện
tích tự nhiên là 5.331,7 km2; dân số khoảng 1,2 triệu người (năm 2006). Nơi đây
phát triển nhiều hồ nuôi tôm; có nhiều sông ngòi và kênh rạch chằng chịt nên đi lại
và vận chuyển bằng tàu, thuyền rất thuận tiện. Biển Cà Mau có đảo Hòn Khoai,
Hòn Chuối. TP Cà Mau (thuộc tỉnh Cà Mau) cách TP Cần Thơ 179 km, cách TP Hồ
Chí Minh 350 km; là một thành phố trẻ có tốc độ phát triển kinh tế nhanh trong những
năm gần đây. Các công trình trọng điểm như cảng biển quốc tế Năm Căn, các cảng cá,
sân bay Cà Mau, công trình siêu thị Cà Mau (một trung tâm thương mại lớn, có cửa
hàng siêu thị, khách sạn 3 sao và văn phòng cho thuê) đã và đang được đầu tư cải tạo,
nâng cấp... Cà Mau có 2 Vườn Quốc gia, đó là Vườn quốc gia Mũi Cà Mau với diện
tích tự nhiên 42.000 ha và Vườn quốc gia U Minh Hạ với diện tích 8.286 ha. Ở đây đã
quy hoạch và thực hiện đầu tư, kêu gọi đầu tư phát triển du lịch sinh thái. Mặt khác, Cà
Mau nằm trong hành lang phát triển kinh tế phía Nam của Chương trình hợp tác phát
triển các nước tiểu vùng sông Mê Kông (GMS), có điều kiện thuận lợi trong giao lưu
phát triển kinh tế với các nước ASEAN. Do vậy, hợp tác và hội nhập là chiến lược
quan trọng đối với du lịch Cà Mau.
Du lịch được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Cà Mau. Trong những
năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của các ngành, các cấp trong tỉnh, ngành
du lịch Cà Mau đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH, HĐH. Các sản phẩm du lịch ngày
càng đa dạng, phong phú hơn, nhiều điểm du lịch mới được đưa vào hoạt động như
khu du lịch Mũi Cà Mau, khu du lịch Hòn Đá Bạc, Vườn sưu tập động vật hệ sinh
thái rừng tràm lâm - ngư trường sông Trẹm, khu du lịch Lý Thanh Long, Vườn
chim trong lòng TP Cà Mau... Du lịch ở Cà Mau được tập trung phát triển theo
hướng du lịch sinh thái, đây được coi là hướng đột phá trong phát triển du lịch của
tỉnh. Theo chương trình phát triển tổng thể du lịch Cà Mau giai đoạn 2005-2010 và
định hướng đến năm 2020, tỉnh sẽ tập trung triển khai thực hiện các quy hoạch bảo
tồn, phát triển khu du lịch sinh thái Vườn quốc gia rừng ngập mặn Mũi Cà Mau;
Khu du lịch sinh thái Vườn quốc gia U Minh hạ; phát triển du lịch cụm đảo Hòn
Khoai; đầu tư xây dựng KCHT, CSVC-KT cần thiết cho ngành du lịch vận hành và
phát triển phù hợp với xu thế chung của khu vực và cả nước, trong đó tập trung bảo
vệ, tôn tạo tài nguyên môi trường và những giá trị văn hóa, sinh thái đặc thù của
tỉnh.
Để đạt được những kết quả tích cực nói trên về phát triển du lịch, tỉnh Cà
Mau đã chú trọng thực hiện các biện pháp chủ yếu sau: Thực hiện các biện pháp,
phương pháp thích hợp để nâng cao nhận thức của người dân về vị trí, vai trò của
du lịch đối với sự phát triển KT-XH của tỉnh; tăng cường tuyên truyền, giáo dục về
pháp luật du lịch nhằm giúp họ hiểu và nghiêm chỉnh chấp hành; xây dựng chiến
lược, quy hoạch phát triển du lịch tổng thể, lâu dài, hợp lý và các quy hoạch, kế
hoạch chi tiết cho từng giai đoạn phát triển trên cơ sở coi trọng bảo vệ môi trường;
đảm bảo an toàn cho du khách; có chính sách nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư
KCHT, CSVC-KT du lịch; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành. Bên cạnh
đó, chính quyền tỉnh luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi nhằm đưa công nghệ
thông tin hiện đại vào quản lý du lịch; đặt văn phòng xúc tiến du lịch tại các thị
trường trọng điểm, tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế để quảng bá du lịch của tỉnh. Thực
hiện các chương trình tuyên truyền, quảng bá theo chuyên đề, kết hợp những sự
kiện thể thao, văn hóa, lễ hội lớn trên phạm vi toàn quốc và tham gia hội chợ triển
lãm, hội thảo du lịch trong nước, quốc tế để giới thiệu rộng rãi tiềm năng du lịch
của tỉnh; xây dựng chiến lược thị trường, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản
phẩm du lịch; tăng cường việc liên kết, hợp tác với các địa phương khác trong phát
triển du lịch [28].
1.3.3. Bài học rút ra cho tỉnh Kiên Giang
Từ kinh nghiệm hoàn thiện QLNN đối với HĐDL ở các địa phương nêu trên,
có thể rút ra một số bài học cho tỉnh Kiên Giang như sau:
Một là, phải xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cho thời gian
dài, hợp lý; có chiến lược, kế hoạch và các chính sách khai thác tiềm năng thúc đẩy
du lịch phát triển.
Ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng
du lịch đã trở thành ngành kinh tế quan trọng hoặc là ngành kinh tế mũi nhọn, thúc
đẩy KT-XH của địa phương phát triển. Các tỉnh, thành phố này đều có quy hoạch
tổng thể, chiến lược, kế hoạch và các chính sách nhằm huy động các nguồn lực
trong và ngoài nước để phát triển du lịch. Quy hoạch tổng thể, chiến lược, kế hoạch
và các chính sách phát triển du lịch được xây dựng rất đồng bộ, thống nhất và có
các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn phát triển. Đồng thời, các tỉnh, thành phố
này cũng rất quan tâm đến việc đầu tư phát triển KCHT, CSVC-KT du lịch.
Hai là, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, đồng thời tạo ra được các sản
phẩm du lịch đặc thù của địa phương để thu hút du khách.
Xã hội càng văn minh, nhu cầu của khách du lịch càng phong phú, đa dạng. Vì
vậy, việc đa dạng hóa các sản phẩm du lịch và tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù của địa
phương để thu hút du khách là một tất yếu cần được thực hiện tốt.
Ba là, làm tốt công tác tuyên truyền, xúc tiến du lịch.
Mục đích của tuyên truyền, xúc tiến trong kinh doanh du lịch là nhằm giới
thiệu, hình thành và định hướng nhu cầu của du khách đối với các sản phẩm du lịch
của địa phương. Để làm tốt công tác này, cần bố trí nguồn kinh phí hợp lý. Theo
UNWTO, ngân sách về tuyên truyền, quảng bá du lịch càng tăng thì hiệu quả của nó
đem lại ngày càng lớn. Có thể nói, làm tốt công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch
là một trong những kinh nghiệm quan trọng đưa du lịch phát triển.
Bốn là, cần có sự liên kết, hợp tác giữa các địa phương, các vùng, các doanh
nghiệp với nhau để phát triển du lịch.
Trong bối cảnh Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, ngành
du lịch phải đối mặt với cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do vậy, liên kết, hợp tác
trong du lịch giữa các địa phương, các vùng, các doanh nghiệp du lịch với nhau để
cùng phát triển trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Việc liên kết, hợp tác có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các tua, tuyến du lịch và trong việc thực
hiện xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch,... để thu hút du khách, nhất là du khách quốc
tế.
Năm là, quan tâm đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành
du lịch của địa phương.
Du lịch là một ngành kinh tế - dịch vụ, có đối tượng phục vụ là con người.
Hơn nữa, con người ở đây không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một nước mà
còn bao gồm cả du khách quốc tế. Vì vậy, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
cho du lịch không giống với các ngành kinh tế và dịch vụ khác, nó phải mang tính
toàn diện, từ cán bộ quản lý đến nhân viên phục vụ đều phải được trang bị đầy đủ
kiến thức về du lịch để đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch ngày càng cao.
Sáu là, thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát đối với HĐDL,
bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường tự nhiên và xã hội của du lịch.
Việc phát triển du lịch đang đặt ra ngày càng nhiều vấn đề không thể xem
nhẹ, chẳng hạn, tình trạng gây tổn hại về môi trường, tài nguyên du lịch thiên nhiên,
thậm chí là xâm phạm cả vào các công trình văn hóa, lịch sử và kéo theo sự phát
triển của một số tệ nạn xã hội hoặc tình trạng cố tình vi phạm pháp luật của một số
tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch. Điều đó cho thấy, cần phải tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát nhằm ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong
kinh doanh du lịch, đồng thời làm tốt việc bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường tự
nhiên và xã hội của du lịch.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở TỈNH KIÊN GIANG
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở TỈNH KIÊN
GIANG GIAI ĐOẠN 2001-2007
2.1.1. Điều kiện, tiềm năng và thế mạnh của tỉnh Kiên Giang tác động
đến hoạt động du lịch
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch
- Điều kiện tự nhiên:
Tỉnh Kiên Giang nằm ở tận cùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc, là một
trong 13 tỉnh, thành phố thuộc vùng ĐBSCL. Toạ độ địa lý phần đất liền từ
9o22’51” - 10o32’12” vĩ độ Bắc và từ 104o26’44” - 105o32’36” kinh độ Đông, phần
biển và hải đảo từ 10o đến 10o27’ độ vĩ Bắc và từ 103o50’10” đến 104o50’ độ kinh
Đông. Địa giới tỉnh Kiên Giang về phía Đông và Đông Nam giáp các tỉnh An
Giang, Hậu Giang và TP Cần Thơ; phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau; phía
Tây giáp vịnh Thái Lan; phía Bắc giáp Campuchia, với đường biên giới đất liền dài
56,8 km và cửa khẩu quốc tế Xà Xía (thị xã Hà Tiên). Tại đây có khu kinh tế cửa
khẩu với nhiều hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, dịch vụ quá cảnh
hàng hóa, kho ngoại quan, hoạt động hội chợ triển lãm, chợ cửa khẩu... Ngoài ra,
còn có cửa khẩu quốc gia Giang Thành (huyện Kiên Lương).
Kiên Giang có tổng diện tích đất tự nhiên là 6.269 km2, trong đó, đất liền là
5.638 km2 và hải đảo là 631 km2 (riêng huyện đảo Phú Quốc 593 km2); có bờ biển
dài 200 km với 63.000 km2 ngư trường; có khoảng 105 hòn đảo lớn nhỏ; có địa hình
đa dạng, phần đất liền của tỉnh tương đối bằng phẳng có hướng thấp dần từ Đông
Bắc (độ cao trung bình từ 0,8 - 1,2m) xuống Tây Nam (độ cao trung bình từ 0,2 -
0,4m) so với mặt nước biển. Vùng hải đảo Phú Quốc, Kiên Hải có địa hình tương
đối phức tạp do có nhiều đồi núi.
Khí hậu ở tỉnh Kiên Giang là một trong những khí hậu tiêu biểu cho vùng
ĐBSCL, mang tính chất nhiệt đới, gió mùa, nóng, ẩm. Mặt khác, Kiên Giang là tỉnh
nằm sát biển nên khí hậu còn mang tính chất hải dương, hàng năm có hai mùa khí
hậu tương phản rõ rệt (mùa khô và mùa mưa). Nhiệt độ trung bình hàng năm là
27oC-27,5oC. Tổng lượng mưa trung bình năm là 1.600 - 2.000 mm ở đất liền và
2.400 - 2.800 mm ở đảo Phú Quốc.
Tỉnh Kiên Giang có nhiều tài nguyên phong phú, đa dạng.
Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất tự nhiên của Kiên Giang là 634.613 ha.
Trong đó: Đất nông nghiệp: 436.873 ha, chiếm 68,84%. Đất lâm nghiệp: 106.085
ha, chiếm 16,72%%. Đất nuôi trồng thủy sản: 33.378 ha, chiếm 5,26%. Đất chuyên
dùng: 20.689 ha (giao thông, thủy lợi...), chiếm 3,26%. Đất khu dân cư: 11.079 ha,
chiếm 1,74%. Đất khác 17.081 ha (đất tôn giáo, nghĩa trang, sông,...), chiếm 2,70%.
Đất chưa sử dụng: 9.428 ha, chiếm 1,48% [21]. Nhìn chung, đất đai của Kiên Giang
rất thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Tài nguyên rừng: Đây là một nguồn tài nguyên quý của tỉnh Kiên Giang.
Diện tích đất rừng toàn tỉnh là 106.085 ha. Trong đó, đất rừng sản xuất là 28.983 ha,
đất rừng phòng hộ là 37.541 ha, đất rừng đặc dụng là 39.589 ha. Về cơ cấu cây
rừng: Cây gỗ lớn chủ yếu trên đảo Phú Quốc; cây mắm, đước tập trung ở ven biển;
cây tràm ở vùng bán đảo Cà Mau; cây bạch đàn tập trung ở vùng tứ giác Long
Xuyên. Rừng ở tỉnh Kiên Giang có vai trò quan trọng trong việc giữ nguồn nước
ngọt cho đảo Phú Quốc, bảo vệ môi trường sinh thái cho bán đảo Cà Mau, có giá trị
lớn về mặt nghiên cứu động, thực vật tự nhiên, lập các khu bảo tồn và phát triển du
lịch sinh thái. Hiện nay, ở Kiên Giang có 02 Vườn Quốc gia là Vườn Quốc gia U
Minh Thượng (21.000 ha) và Vườn Quốc gia Phú Quốc (31.422 ha).
Tài nguyên nước: Nguồn nước mặt khá dồi dào. Toàn tỉnh có 3 con sông lớn
chảy qua là sông Cái Lớn (60km), Cái Bé (70km) và Giang Thành (27,5km), chủ yếu
để tiêu nước về mùa lũ, tưới nước về mùa khô và giao thông đi lại. Ngoài ra, tỉnh có hệ
thống kênh rạch, những kênh này có nhiệm vụ tiêu úng, sổ phèn, giao thông đi lại, bố
trí dân cư, đồng thời có tác dụng dẫn nước ngọt từ sông Hậu về vào mùa khô phục vụ
cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Tài nguyên biển: Vùng biển Kiên Giang là một bộ phận của biển Tây Nam
(Kiên Giang và Cà Mau), nằm trong vịnh Thái Lan và chiếm khoảng 21% diện tích
vịnh, tương đương 63.000 km2. Đây là vùng biển có nhiều tiềm năng phát triển. Hệ
sinh vật biển Kiên Giang mang đặc điểm chung của hệ sinh vật biển nhiệt đới: đa
dạng về loài, sinh trưởng nhanh, thành thục sớm, có sức sinh sản cao, diễn ra gần
như quanh năm. Vùng biển Kiên Giang được xác định là một ngư trường trọng
điểm. Theo tài liệu của FAO và Viện nghiên cứu biển Việt Nam, trữ lượng tôm cá ở
đây khoảng 464.660 tấn, trong đó vùng ven biển có độ sâu 20 - 50 m có trữ lượng
chiếm 56%, ở tầng nổi chiếm 51,5%, khả năng khai thác cho phép bằng 44% trữ
lượng, tức là hàng năm có thể khai thác trên 200.000 tấn. Ngoài các nguồn tôm, cá,
mực, vùng biển Tây Nam còn có nhiều đặc sản quý như: hải sâm, sò huyết, đồi mồi,
ngọc trai, nhiều loại rong biển dùng làm thực phẩm, dược phẩm...
Tài nguyên khoáng sản: Kiên Giang là tỉnh có nguồn khoáng sản khá dồi dào
so với các tỉnh, thành phố thuộc ĐBSCL. Qua thăm dò điều tra địa chất, đã xác
định được 152 điểm quặng và mỏ của 23 loại khoáng sản thuộc các nhóm như:
nhóm nhiên liệu (than Bùn), nhóm không kim loại (đá vôi, đá xây dựng, đất sét...),
nhóm kim loại (sắt, Latcrit sắt...), nhóm đá bán quý (huyền thạch anh, opal...), trong
đó chiếm chủ yếu là khoáng sản không kim loại dùng sản xuất vật liệu xây dựng, xi
măng. Riêng về đá vôi, Kiên Giang là tỉnh duy nhất ở ĐBSCL có nguồn đá vôi khá
phong phú, không những có giá trị về sản xuất vật liệu xây dựng mà còn tạo ra
những hang động và những thắng cảnh có ý nghĩa du lịch. Nguồn đá vôi Kiên
Giang bao gồm 20 ngọn núi, được phân bổ kéo dài 35 km dọc bờ biển từ thị xã Hà
Tiên đến huyện Kiên Lương, trữ lượng khoảng 440 triệu tấn, trong đó trữ lượng
khai thác công nghiệp khoảng 245 triệu tấn. Nguyên liệu này đủ để sản xuất 2,8-3
triệu tấn Clinker/năm trong thời gian trên 50 năm.
- Tài nguyên du lịch:
Kiên Giang là tỉnh có tài nguyên du lịch (kể cả tài nguyên thiên nhiên và tài
nguyên nhân văn) rất phong phú, đa dạng. Với nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú,
nhiều bãi biển đẹp, nhiều di tích văn hóa, lịch sử lâu đời..., vẻ đẹp của Kiên Giang
được thi sĩ Đông Hồ đúc kết:
Ở Kiên Giang kỳ thú thay, có một ít hang sâu, động hiểm của Lạng
Sơn, có ngọn núi chơi vơi giữa biển khơi của vịnh Hạ Long, có ít núi vôi
Ninh Bình, ít Thạch Thất Sơn Môn Hương Tích, có một ít Hương Giang
chùa chiềng Bắc Ninh, lăng tẩm Thuận Hóa và một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng,
Nha Trang, Vũng Tàu, Long Hải... [59, tr.120].
Về phương diện tài nguyên du lịch, có thể nói Kiên Giang như một nước
Việt Nam thu nhỏ.
Tài nguyên du lịch của Kiên Giang tập trung ở 4 khu vực đó là:
Thứ nhất, khu vực Hà Tiên - Kiên Lương:
Tính đến nay, vùng đất Hà Tiên có một nền văn hóa 300 năm (1708 - 2008)
với những trang sử dày về văn học - nghệ thuật như Tao đàn Chiêu Anh Các, làng
nghề truyền thống (đồi mồi, huyền phách...), các di tích kiến trúc nghệ thuật và là
nơi ghi dấu nhiều chiến công của ông cha ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Địa hình khu vực Hà Tiên - Kiên Lương có nhiều cảnh vật kỳ thú. Mặc dù
không to lớn như Ngũ Hành Sơn hay Hương Tích, song các hang động ở Hà Tiên -
Kiên Lương đủ để du khách cảm nhận được sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Ở đó, du
khách có thể hít thở không khí trong lành, có thể thấy được những sắc màu của
thạch nhũ, tiếng tí tách của giọt nước từ vách đá nhỏ xuống. Các đảo lớn nhỏ trong
vịnh Hà Tiên, chạy từ Hòn Chông đến quần đảo Hải Tặc như vịnh Hạ Long thu nhỏ.
Nơi đây tập trung nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, được Mạc Thiên Tích khái
quát trong 10 bài thơ chữ Hán:
1. Kim Dữ lan đào (Kim Dữ chắn sóng - Núi Pháo Đài).
2. Bình Sơn diệp thúy (Cây rậm Bình Sơn - Khu Lăng Mạc Cửu).
3. Tiêu Tự thần chung (Tiếng chuông chùa Tiêu Tự).
4. Giang Thành dạ cổ (Tiếng trống đêm ở Giang Thành).
5. Thạch Động thốn vân (Thạch Động nuốt mây).
6. Châu Nham lạc lộ (Cò đậu Châu Nham - Núi đá Dựng).
7. Đông Hồ ấn nguyệt (Trăng in Đông Hồ).
8. Nam Phố trừng ba (Sóng nước Nam Phố).
9. Lộc Trĩ thôn cư (Xóm làng Lộc Trĩ - Mũi Nai).
10. Lư Khê ngư bạc (Cảnh chài cá ở Lư Khê) [59, tr. 304].
Ngoài ra, hòn Chông, hòn Trẹm (huyện Kiên Lương) còn có các di tích văn
hóa, lịch sử gắn bó với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, như: chùa Hang -
căn cứ của nghĩa quân kháng Pháp vào cuối thế kỷ XIX do anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực lãnh đạo; Hang núi Moso - căn cứ địa cách mạng qua hai thời
kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược với nhiều chiến tích anh hùng.
Các tài nguyên du lịch ở khu vực này rất thích hợp cho phát triển các loại
hình du lịch danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa, du thuyền, câu cá trên
đảo, du khảo hang động, cắm trại, thể thao dưới nước, lướt ván, thả dù kéo canô,
nghỉ dưỡng, leo núi...
Thứ hai, khu vực TP Rạch Giá và vùng phụ cận:
Tp Rạch Giá là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh. Tại TP Rạch
Giá, ở một số nơi có thể lấn biển xây dựng đô thị mới kết hợp khu nghỉ dưỡng cao
cấp, các dịch vụ hoàn chỉnh phục vụ các chuyên gia, khách du lịch trong và ngoài
nước.
TP Rạch Giá có các di tích văn hóa, lịch sử và kiến trúc cổ, như: Đền thờ anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực; chùa Quan Đế; chùa Láng Cát, chùa Phật Lớn;
Chùa Tam Bảo; Nhà bảo tàng tỉnh có hiện vật văn hóa Óc Eo; mộ danh nhân Huỳnh
Mẫn Đạt, mộ cổ Hội đồng Suông... Ngoài ra, còn có khu công viên văn hóa An Hòa,
Trung tâm văn hóa tỉnh, Trung tâm Thương mại Rạch Giá, khu lấn biển Rạch Giá... với
đầy đủ các loại hình văn hóa - thể thao, nghệ thuật, ẩm thực. Ngoài ra, vùng phụ cận
TP Rạch Giá còn có khu di tích Hòn Đất, quê hương của anh hùng liệt sỹ tiêu biểu thời
kỳ chống đế quốc Mỹ, chị Phan Thị Ràng (nhân vật chị Sứ trong tác phẩm văn học
"Hòn Đất" của nhà văn Anh Đức); Hòn tre - huyện đảo Kiên Hải cách TP Rạch Giá 28
km, có bãi tắm biển, làng chài; Hòn Gái có núi đá cao... Khu vực TP Rạch Giá và vùng
phụ cận thích hợp cho việc phát triển các loại hình du lịch như: du lịch tham quan di
tích, du lịch vui chơi, giải trí, du lịch lễ hội, du lịch mua sắm, ẩm thực...
Thứ ba, khu vực bán đảo Cà Mau:
Bán đảo Cà Mau bao gồm 04 huyện An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận và U
Minh Thượng. Ở đây có rừng U Minh Thượng (trong đó có Vườn Quốc gia U Minh
Thượng với diện tích rừng nguyên sinh hơn 21.000 ha), một rừng tràm nước ngọt
quanh năm màu đỏ. Đây là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, và là nơi bảo tồn, bảo tàng di tích khu căn cứ cách mạng miền
Nam Việt Nam. Đây cũng là nguồn dự trữ khí quyển sinh thái nước ngọt. Ở đây, du
khách có thể đến tham quan, tìm hiểu lịch sử của người dân U Minh, thưởng thức
hương tràm, dạo cảnh rừng xanh, xem vườn chim thiên nhiên, thưởng thức những
món ăn đặc sản đồng quê U Minh như cá đồng, rắn, rùa...
Nhìn chung, so với các vùng khác, đây là nơi thuận lợi và thích hợp nhất để
phát triển du lịch sinh thái bền vững trên cơ sở tạo những khu bảo tồn, đa dạng sinh
học. Ở đây cũng có thể khai thác các tua du lịch với chủ đề du lịch về nguồn, du
lịch dã ngoại... trên cơ sở phát triển du lịch làng quê hạ lưu sông MêKông kết hợp
với tôn tạo di tích văn hóa, lịch sử U Minh.
Thứ tư, khu vực đảo Phú Quốc:
Phú Quốc có diện tích tự nhiên 593 km2, chiều dài 50 km theo hướng Bắc
Nam. Địa hình thiên nhiên thoai thoải chạy từ Nam đến Bắc với 99 ngọn đồi. Rừng
nhiệt đới có nhiều động vật, thực vật quý hiếm và chiếm hơn 60% diện tích toàn
đảo. Dân cư sống trên đảo khoảng 85 ngàn người (năm 2007). Phú Quốc là đảo lớn
nhất Việt Nam, nằm trong vịnh Thái Lan. Đảo Phú Quốc cách thành phố Rạch Giá 115
km và cách thị xã Hà Tiên 45 km. Đặc biệt, Phú Quốc chỉ cách vùng phát triển công
nghiệp và du lịch Đông Nam của Thái Lan khoảng 500 km, cách vùng phía Đông
Malaysia khoảng 700 km và cách Singapore khoảng 1.000 km. Phú Quốc còn nằm gần
kề với cửa ngõ Tây Nam của Vương quốc Campuchia, từ phía Bắc của đảo đến thành
phố du lịch Kép và thành phố cảng Sihanoukville của Vương quốc Campuchia tương đối
gần... Do đó, rất thuận lợi trong việc liên kết các tua, tuyến du lịch trong vùng Đông
Nam Á.
Về giao thông, hiện nay Phú Quốc được kết nối với TP Hồ Chí Minh bằng
đường hàng không, mỗi ngày có 5-6 chuyến bay, có lúc cao điểm đến 10-11
chuyến/ngày. Kết nối với TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang bằng đường hàng không và
đường biển, mỗi ngày có nhiều chuyến tàu cao tốc và chuyến bay đưa đón khách
vào ra Phú Quốc. Trong tương lai gần, sẽ xây dựng sân bay quốc tế tại Phú Quốc,
hàng ngày từ Phú Quốc sẽ có các chuyến bay đi nhiều nước trên thế giới.
Phú Quốc có lịch sử khai hoang, lập ấp khá sớm so với các vùng khác thuộc
lưu vực sông Cửu Long và cũng là nơi còn lưu lại những dấu tích của vua Gia Long
những năm trôi dạt, là căn cứ địa chống Pháp của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực và nhiều chiến tích hào hùng của những chiến sĩ cách mạng ở nhà lao cây
Dừa... Mặt khác, do nằm ở vị trí đặc biệt của vịnh Thái Lan, được che chắn bởi 03
bên, nên Phú Quốc ít bị thiên tai. Phú Quốc được mệnh danh là “Hòn đảo ngọc” bởi
sự giàu có của thiên nhiên, như nguồn tài nguyên biển, tài nguyên đất, tài nguyên
nước... cùng với những bãi biển tuyệt đẹp còn nguyên vẹn như chưa hề được khám
phá, như bãi Sao, bãi Khem, bãi Trường, bãi Vòng, bãi Thơm, bãi Dài... Đặc biệt,
bãi Dài được bình chọn là một trong năm bãi biển đẹp nhất thế giới - theo Hãng tin
ABC News công bố vào đầu năm 2008. Phú Quốc còn nổi tiếng với hai nghề truyền
thống, đó là trồng tiêu và làm nước mắm, hai sản phẩm này từ lâu đã có uy tín trên
thị trường trong nước và thế giới.
Với vị trí, địa hình, tài nguyên du lịch (tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên
nhân văn) phong phú, Phú Quốc có thể phát triển nhiều loại hình du lịch, như: du
lịch sinh thái chất lượng cao, du thuyền trên biển, trên sông, câu cá, thẻ mực, tắm
biển, ca nô lướt ván, thể thao trên biển, thám hiểm leo núi, du khảo, nghỉ dưỡng, du
lịch ven biển thưởng thức những món ăn hải sản tươi sống, bổ dưỡng... và một số
loại hình dịch vụ cao cấp không thua kém gì các khu du lịch của các nước trong khu
vực.
Như vậy, tỉnh Kiên Giang có vị trí thuận lợi, nằm trong vùng vịnh Thái Lan,
gần các nước ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Singapore... là những nước đang có
nhịp độ tăng trưởng kinh tế vào loại cao trên thế giới mà Kiên Giang có thể mở
rộng giao lưu, hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch. Kiên Giang còn là cầu nối
các tỉnh, thành phố thuộc miền Tây Nam Bộ, vùng ĐBSCL với bên ngoài. Với vị trí
địa lý như vậy và nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, khí hậu ấm áp, ít
thiên tai, Kiên Giang có điều kiện rất thuận lợi trong việc phát triển du lịch của tỉnh.
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế
Thực hiện đường lối đổi mới do ĐCSVN khởi xướng và lãnh đạo, hơn 20
năm qua, từ năm 1986 đến nay tỉnh Kiên Giang cũng hòa nhập với sự đổi mới
chung của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp qua hơn
4 nhiệm kỳ đại hội, cùng với sự nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng của người
dân, kinh tế của tỉnh đã có những bước tăng trưởng khá và toàn diện, các lĩnh vực
văn hóa, xã hội và đời sống của người dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện và
tiến bộ.
Thứ nhất, về tăng trưởng kinh tế:
Giai đoạn 1991-2007, kinh tế của tỉnh luôn có sự tăng trưởng khá, đời sống
vật chất và văn hóa tinh thần của người dân trong tỉnh từng bước được cải thiện rõ
nét. Năm 2007, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đã đạt 13.488 tỷ đồng (theo giá so
sánh 1994), tăng gần gấp 5 lần so với năm 1991 và tăng 0,132 lần so với năm 2006.
Tốc độ tăng GDP bình quân trong vòng 15 năm (1991-2005) là 9,9%, trong đó thời
kỳ 1991-1995 tăng 10,7%; thời kỳ 1996-2000 tăng 8% và thời kỳ 2001-2005 tăng
11,1% [14].
So với mức tăng trưởng chung của cả nước và vùng ĐBSCL, mức tăng
trưởng hàng năm của tỉnh Kiên Giang trong hơn 10 năm qua tương đối cao.
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của tỉnh Kiên Giang
so với vùng ĐBSCL và cả nước
ĐVT:%
1995 2000 2004 2005
B/q 5 năm
2001-2005
2007
Kiên Giang 14,41 8,45 12,20 12,77 11,10 13,20
Vùng ĐBSCL 11,01 7,93 11,38 11,38 10,45 13,00
Cả nước 9,54 6,7 7,30 8,4 7,51 8,50
Nguồn: Cục Thống kê Kiên Giang [14], [16].
Với GDP toàn tỉnh hàng năm tăng khá nên GDP bình quân đầu người của tỉnh
cũng tăng lên, từ 1,57 triệu đồng năm 1991 (theo giá thực tế) lên 4,6 triệu đồng năm
2000 và đạt 9,7 triệu đồng năm 2005. Nếu loại trừ yếu tố biến động giá thì GDP bình
quân đầu người năm 2005 đạt gần 6,5 triệu đồng, tăng 3 lần so với đầu thập niên 90.
Nếu tính theo giá đô la Mỹ (giá so sánh 10.971đ/USD) thì cũng tăng từ 143
USD/người/năm năm 1991 lên 592 USD năm 2005 (tăng gấp hơn 4 lần) và 713 USD
năm 2007 (tăng gấp hơn 5 lần) [14], [16].
Tốc độ tăng trưởng GDP của từng khu vực thời gian qua được thể hiện ở
bảng số liệu sau đây:
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP chia theo từng khu vực
ở tỉnh Kiên Giang
ĐVT: %
1991-
1995
1996-
2000
2001-
2005
15 năm
1991-
2005
2006 2007
TOÀN TỈNH
Chia ra:
- Nông, lâm , thủy sản
- Công nghiệp, xây dựng
- Dịch vụ
10,70
8,60
22,90
8,25
8,00
6,30
11,70
9,05
11,10
7,80
15,51
13,90
9,90
7,55
16,60
10,35
10,03
2,89
14,82
18,86
13,20
12,34
15,57
11,76
Nguồn: Cục Thống kê Kiên Giang [14], [15], [16],
Thứ hai, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu ngành kinh tế: Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh chuyển dịch tích cực
theo hướng phát huy tiềm năng và lợi thế của từng ngành: giảm dần tỷ trọng khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ.
Bảng 2.3: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Kiên Giang
ĐVT: %
1991 2001 2005 2006 2007
TỔNG SỐ
Chia ra:
- Nông, lâm, thủy sản
- Công nghiệp, xây dựng
- Dịch vụ
100
62,50
9,05
28,45
100
46,40
28,70
24,90
100
47,13
25,64
27,23
100
43,74
25,83
30,43
100
43,76
25,76
30,48
Nguồn: Cục Thống kê Kiên Giang [14], [15], [16]
Tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP năm 1991 là
62,5% (theo giá hiện hành), đến năm 2007 giảm xuống 43,76%; khu vực công
nghiệp, xây dựng từ 9,05% năm 1991 tăng lên 25,76% năm 2007; khu vực dị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.pdf