Tài liệu Luận văn Quản lý hoạt động đào tạo của trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh tại thành phố Hồ Chí Minh: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ CẨM
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO CỦA TRƯỜNG
TƯ THỤC NGOẠI NGỮ VIỆT ANH
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. BÙI NGỌC OÁNH
Thành Phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN
Với những tình cảm chân thành nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn:
Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học,
Khoa Tâm lý Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh.
Các Thầy, Cô giáo đã tận tình giảng dạy hướng dẫn, và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
Các giáo viên, nhân viên, và học viên của ba Trường Ngoại
Ngữ Việt Anh, Dương Minh và Nguyễn Du tại TPHCM, cùng
bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã quan tâm giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh đã tậ...
76 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quản lý hoạt động đào tạo của trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh tại thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ CẨM
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO CỦA TRƯỜNG
TƯ THỤC NGOẠI NGỮ VIỆT ANH
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. BÙI NGỌC OÁNH
Thành Phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN
Với những tình cảm chân thành nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn:
Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học,
Khoa Tâm lý Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh.
Các Thầy, Cô giáo đã tận tình giảng dạy hướng dẫn, và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
Các giáo viên, nhân viên, và học viên của ba Trường Ngoại
Ngữ Việt Anh, Dương Minh và Nguyễn Du tại TPHCM, cùng
bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã quan tâm giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo, giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Do điều kiện thời gian và năng lực, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính
mong nhận được sự chỉ dẫn của các Thầy, Cô, các đồng nghiệp và các bạn. Xin chân thành
cảm ơn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2007
Nguyễn Thị Cẩm
DANH MỤC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- CC : Chứng chỉ
- CCQG : Chứng chỉ quốc gia
- CNH : Công nghiệp hoá
- CNXH : Chủ nghĩa xã hội
- CSVC : Cơ sở vật chất
- ĐHKHXH-NV : Đại học Khoa học xã hội – Nhân văn
- ĐT : Đào tạo
- ĐG : Đánh giá
- HĐH : Hiện đại hoá
- GD : Giáo dục
- GD-ĐT : Gíáo dục- đào tạo
- GV : Giáo viên
- HV : Học viên
- KT-ĐG : Kiểm tra – đánh giá
- NNVA : Ngoại ngữ Việt Anh
- PP : Phương pháp
- QL : Quản lý
- QLTH : Quản lý trường học
-SGD-ĐT TPHCM : Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh
- & : và
- XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- XHH : Xã hội hoá
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: ĐG nhận thức về mục tiêu ĐT của GV ở trường NNVA --------40
Bảng 2.2: ĐG nhận thức về mục tiêu ĐT của GV ở các trường bạn------- 41
Bảng 2.3: ĐG chung về nội dung chương trình ĐT ở trường NNVA--------43
Bảng 2.4: ĐG chung về nội dung chương trình ĐT ở các trường bạn------44
Bảng 2.5: ĐG kết quả QL kế hoạch ĐT của trường NNVA------------------45
Bảng 2.6: ĐG kết quả QL việc chiêu sinh, tổ chức lớp ở trường NNVA---47
Bảng 2.7: ĐG kết quả QL việc chiêu sinh, tổ chức lớp ở các trường bạn--48
Bảng 2.8: ĐG kết quả QL việc thực hiện chương trình giảng dạy ở
trường NNVA-----------------------------------------------------------49
Bảng 2.9: ĐG kết quả QL việc thực hiện chương trình giảng dạy ở
các trường bạn---------------------------------------------------------50
Bảng 2.10: ĐG về PP giảng dạy của GV ở trường NNVA------------------- 52
Bảng 2.11: ĐG về QL nề nếp giảng dạy ở trường NNVA--------------------54
Bảng 2.12: ĐG về QL nề nếp giảng dạy ở các trường bạn------------------ 55
Bảng 2.13: ĐG về việc tổ chức kiểm tra, thi kết thúc cuối khoá của
trường NNVA-------------------------------------------------------- 58
Bảng 2.14: ĐG việc QL đánh giá kết quả học tập cuối khoá, cuối
cấp độ, và cấp phát CC cho HV ở trường NNVA-------------- 62
Bảng 2.15: ĐG quản lý về CSVC của trường NNVA ------------------------ 64
Bảng 2.16: Những phẩm chất cần có của một GV dạy tiếng Anh---------- 67
Bảng 2.17: ĐG mức độ những phẩm chất mà GV trường NNVA đạt được 69
Bảng 2.18: ĐG chung về môi trường làm việc ở trường NNVA------------ 71
Bảng 2.19: ĐG chung về môi trường học ở trường NNVA-------------------73
Bảng 2.20: Bảng thống kê số lượng HV của trường NNVA trong 03 năm- 75
Bảng 2.21: Bảng thống kê số lượng HV tham dự các kỳ thi CCQG do
SGD & ĐT TPHCM tổ chức trong 03 năm (2004, 2005,2006)-77
Bảng 2.22: ĐG tính đạt hiệu quả của việc ĐT tiếng Anh tại trường
NNVA qua kết quả các kỳ thi CCQG----------------------------- 79
Bảng 3.1: Ý kiến của GV về một số biện pháp QL để nâng cao hiệu
quả đào tạo của nhà trường-----------------------------------------84
Bảng 3.2: Ý kiến của HV về một số biện pháp để nâng cao hiệu
quả đào tạo của nhà trường ---------------------------------------- 85
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của thời đại, là đặc điểm kinh tế - xã hội của
nhân loại trong thế kỉ XXI. Nước ta đang tiến hành CNH và HĐH, trong xu thế hội
nhập với khu vực và thế giới ; nên hiện nay hơn lúc nào hết ngoại ngữ, đặc biệt là
tiếng Anh có vai trò rất quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển của đất
nước. Nó không chỉ là một công cụ giao tiếp, một phương tiện thông tin nhạy bén,
giúp cho người sử dụng nó tiếp thu các tư tưởng tiên tiến và những thành tựu khoa
học, mà còn được nâng lên như vai trò của một năng lực phẩm chất cần thiết trong sự
hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện đại, có đủ năng lực cạnh
tranh, để tạo lập những mối quan hệ cần thiết có tính quyết định cho sự thành công.
Hay nói cách khác, thì ngoại ngữ là phương tiện đặc biệt có giá trị, không thể thiếu
được đối với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập.
Toàn cầu hóa đã thúc đẩy giáo dục phát triển theo định hướng hội nhập và cạnh
tranh, chính vì thế tình hình dạy và học ngoại ngữ ngày càng đa dạng hơn và ngoại
ngữ chiếm ưu thế hiện nay là tiếng Anh. Thập niên 90 chứng kiến sự phát triển tột
bậc của tiếng Anh tại Việt Nam. Các trung tâm đào tạo lần lượt ra đời cùng với nhiều
chương trình, loại hình giảng dạy phong phú phục vụ cho nhiều đối tượng người học
khác nhau. Mở cửa đã góp phần đưa tiếng Anh lên một tầm cao mới, và ngược lại,
tiếng Anh đã giúp hội nhập và giao lưu quốc tế với một tốc độ nhanh chưa từng có,
nhất là qua mạng Internet trên khắp thế giới.
TPHCM là một trong hai trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lớn nhất
toàn quốc, lại là một TP có mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa sâu rộng với nhiều
nước trên thế giới, và là nơi có đội ngũ giảng dạy và số HV đông nhất nước, mà năng
lực ngoại ngữ của người sử dụng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất
nước như phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng….Theo số liệu của
Phòng Giáo dục thường xuyên, SGD-ĐT TPHCM, hiện có khoảng 380 trường ngoại
ngữ trực thuộc sự QL của SGD - ĐT TPHCM. Số lượng HV thì nhiều, nhưng chất
lượng đào tạo còn nhiều vấn đề phải suy nghĩ; mỗi trường QL hoạt động này theo
một cách riêng, còn nhiều thiếu sót và bất cập. Hậu quả là đại đa số HV sau khi đạt
được chứng chỉ ở các cấp độ A, B, C vẫn không đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu thị
trường lao động, học tập và công tác chuyên môn. Vì vậy việc đảm bảo hiệu quả đào
tạo, là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các đơn vị trường ngoài công lập trong sự
cạnh tranh gay gắt để tồn tại, và nhất là đối với các trường tư thục ngoại ngữ tại
TPHCM.
Trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh được thành lập theo chủ trương XHH và đa
dạng hoá sự nghiệp giáo dục của Nhà nước, trực thuộc sự quản lý của SGD-ĐT
TPHCM, đã được đánh giá là một trong những trường tốt, có sự tổ chức dạy và học
nghiêm túc, quan tâm đến việc đổi mới PP giảng dạy, có đội ngũ GV tốt, và thường
xuyên có HV giỏi, đạt kết quả cao trong các kỳ thi CCQG do SGD&ĐT TPHCM tổ
chức hàng tháng. Đặc biệt nhân kỉ niệm 30 năm ngày thống nhất đất nước
(30/4/1975 - 30/4/2005), SGD&ĐT TPHCM kết hợp cùng Viện Chiến lược &
Chương Trình Giáo Dục và Công ty Văn Hóa Thông Tin Đông Nam Á để xuất bản
lần đầu tiên tập sách chuyên đề ”Giáo Dục Và Đào Tạo TPHCM - 30 Năm Xây
Dựng Và Phát Triển”, Và trường ngoại ngữ Việt Anh đã vinh dự được Ban biên
soạn viết bài giới thiệu về trường - đơn vị có nhiều thành tích trong việc đào tạo
ngoại ngữ cho HV.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả nghiên cứu đề tài : “Quản lý hoạt động
đào tạo của trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh tại TPHCM” nhằm khắc phục
những khiếm khuyết trong hoạt động QL, và tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu
quả ĐT của nhà trường, để nhanh chóng góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho TP
theo xu hướng hội nhập và phát triển với khu vực và thế giới.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng hoạt động QL đào tạo của trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh, từ đó đề xuất một số biện pháp QL để nâng cao hiệu quả đào tạo ở
trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh tại TPHCM.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
_ Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý đào tạo ở trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh tại TPHCM.
_ Khách thể nghiên cứu: Việc quản lý hoạt động ĐT ở trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh, và hai trường tư thục ngoại ngữ Dương Minh và Nguyễn Du tại
TPHCM.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
_ Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
_ Thực trạng về hoạt động QLĐT ở trường tư thục NNVA tại TPHCM.
_ Những biện pháp để nâng cao hiệu quả ĐT tại trường tư thục NNVA
5. Giả thuyết khoa học
Việc QL hoạt động ĐT tại trường tư thục NNVA đã có một số hiệu quả bước
đầu, tuy nhiên vẫn còn một số nhược điểm ở khâu QL ĐT. Vì thế nếu xây dựng và
thực hiện được những biện pháp QL hữu hiệu theo một quy trình, thì sẽ nâng cao
được hiệu quả ĐT của nhà trường nhiều hơn nữa.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc QL hoạt động ĐT ở trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh tại TPHCM. Ngoài ra, trong quá trình đánh giá ở một số mặt QL đề tài
có sử dụng số liệu của hai trường bạn có cùng loại hình và chức năng ĐT trên địa bàn
để phân tích; còn các mặt QL mang tính chất riêng thì dữ liệu của hai trường bạn
được xem là phần tham khảo.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng PP thu thập các tài liệu, đọc
sách, phân tích, tổng hợp những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu: Sử dụng các mẫu phiếu tham khảo
nhằm thu thập số liệu, thông tin của HV & GV ở ba trường tư thục dạy ngoại ngữ tại
TPHCM. Số lượng tham gia gồm 04 cán bộ QL, 48 GV và 499 HV .
7.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết những thành tựu nghiên
cứu của các tác giả và hoạt động của các trường dạy ngoại ngữ về
lĩnh vực nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho đề tài
7.4. Phương pháp toán thống kê: Để xử lý số liệu.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới của đất nước, thì vấn đề ĐT
và quản lý ĐT là vấn đề rất quan trọng trong việc tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ
để hội nhập khu vực và quốc tế. Vì thế có thể nói cạnh tranh trong thời đại toàn cầu
hóa chính là cạnh tranh về giáo dục. Và yêu cầu bức thiết của thực tế là phải ĐT
nguồn nhân lực có đủ trình độ ngoại ngữ để hội nhập, nên việc triển khai chiến lược
dạy và học ngoại ngữ là khâu quan trọng không thể thiếu được trong chiến lược phát
triển giáo dục để hội nhập. Do vậy đã có nhiều đề tài nghiên cứu về thực trạng việc
dạy và học tiếng Anh, PP dạy và học ngoại ngữ nhanh và hiệu quả, cũng như các
biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý ĐT tại các trường phổ thông, cao đẳng, đại học,
và các trung tâm ngoại ngữ như:
_ Tìm hiểu thực trạng dạy và học tiếng Anh Tại các trung tâm ngoại ngữ khu
vực TPHCM nhằm đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo,
do Đỗ Huy Thịnh làm chủ nhiệm đề tài, năm 2003.
_ ĐG hiệu quả ĐT tiếng Anh như một ngoại ngữ tại các trường đại học trên địa
bàn TPHCM, do Sở Khoa học & Công nghệ TPHCM, giao cho nhóm nghiên cứu
thuộc trường ĐHKHXH – NV thực hiện 2001 – 2004.
_ Năng lực tiếng Anh của sinh viên các trường đại học trên địa bàn
TPHCM trước yêu cầu của một nền kinh tế tri thức: Thực trạng và những
giải pháp, của Vũ Thị Phương Anh & Nguyễn Bích Hạnh, năm 2004.
_ Đổi mới PP giảng dạy các kỹ năng giao tiếp tiếng Anh: Từ đường hướng lấy
người dạy làm trung tâm sang đường hướng lấy người học làm trung tâm, của Hoàng
Văn Vân, năm 2001.
_ Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành QLGD của Lê Văn Việt “ Thực trạng công
tác quản lý ĐT tại khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư phạm TPHCM và một số
giải pháp”, năm 2002.
_ Phương pháp học ngoại ngữ nhanh và hiệu quả, của nhà sư phạm Phạm Văn
Vĩnh, năm 2003.
_ Đánh giá thực trạng giao tiếp qua việc dạy và học tiếng Anh trong trường phổ
thông. Đề xuất phương án giải quyết bằng việc biên soạn tập tài liệu giảng dạy nhằm
nâng cao hiệu quả kỹ năng nghe nói cho học sinh, của Nguyễn Viết Ngoạn, năm
2003.
_ Dạy và học tiếng Anh trong trường đại học, chủ nhiệm đề tài là Vũ Thị
Phương Anh và nhóm thực hiện (ĐHKHXH-NV thuộc ĐHGQ TPHCM)
năm 2004.
Trên tạp chí nghiên cứu giáo dục, ngày càng xuất hiện nhiều bài viết về các
vấn đề của giáo dục ngoại ngữ, như bài: “ Giáo dục ngoại ngữ trong quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập” của Bùi Hiền đăng tải trên tạp chí giáo dục số 44/ 2002. Hay tại
các cuộc hội thảo khoa học, hội nghị giáo dục, hoặc qua mạng Internet cũng đã đề
cập đến nhiều vấn đề của việc quản lý dạy và học ngoại ngữ, nhiều nhất là dạy và
học tiếng Anh.
Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên vấn đề ĐT ngoại ngữ tại các
trường tư thục ngoại ngữ trực thuộc sự QL của SGD-ĐT TPHCM còn bỏ ngỏ, chưa
đánh giá hết được mức độ góp phần thúc đẩy nhanh chóng việc nâng cao trình độ dân
trí của người dân TPHCM nói riêng, và của cả nước nói chung nếu như có được
những giải pháp hợp lý và đồng bộ để nâng cao hiệu quả ĐT cho loại hình giáo dục
này. Nhìn chung vấn đề còn ít được quan tâm trong khi TPHCM là chiếc nôi dạy và
học tiếng Anh lớn nhất nước và các trường dạy ngoại ngữ mở ra mỗi ngày một nhiều
theo nhu cầu phát triển của xã hội.
Vì vậy, luận văn này đi sâu nghiên cứu thực trạng việc quản lý hoạt động đào
tạo, để tìm ra một số biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo ở trường
ngoại ngữ Việt Anh tại TPHCM.
1.2. Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
1.2.1. Quan điểm và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GD- ĐT
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam có nhiều chủ
trương, chính sách phát triển GD-ĐT. Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định GD-
ĐT thực hiện sự đổi mới, giữ vững định hướng XHCN, thích ứng với động thái của
kinh tế thị trường. Một trong những luận điểm quan trọng của đại hội lần thứ VII coi
nguồn lực con người là quí báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với nước ta
khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới, tại Đại hội lần thứ VII, Đảng đã khẳng định phát triển giáo dục và khoa học là
quốc sách hàng đầu. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã có
nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD-ĐT. Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh
phải lấy phát triển GD - ĐT và khoa học - công nghệ làm yếu tố cơ bản, coi là khâu
đột phá. Đảng ta khẳng định: Nguồn lực con người là người lao động có trí tuệ cao,
có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng, phát huy bởi
một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại. Giáo
dục phải làm tốt nhiệm vụ ĐT nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho
khoa học công nghệ.
Nghị quyết Hội nghị lần 2 khóa VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng đề
ra: “Nhanh chóng đưa GD-ĐT đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước, thực hiện mục
tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước”.
Tại kỳ họp này, định hướng chiến lược phát triển GD – ĐT trong thời kỳ CNH,
HĐH đã được nêu ra với bảy vấn đề cơ bản sau:
- Xác định mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và
thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH
- Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung, phương pháp GD - ĐT, trong chính
sách, nhất là chính sách công bằng xã hội, chống khuynh hướng” thương mại hóa”,
đề phòng khuynh hướng phi chính trị hóa GD - ĐT không truyền bá tôn giáo trong
trường học.
- Thực sự coi GD – ĐT là quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho GD là đầu tư phát
triển, thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với GD - ĐT.
- Coi GD – ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng và Nhà nước và của toàn dân, kết
hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội tạo nên môi trường
giáo dục lành mạnh ở mọi nơi , trong từng cộng đồng, từng tập thể.
- Xác định kế hoạch phát triển GD – ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã
hội, những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả
ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả, thực hiện giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học
đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học
hành.
- Giữ vai trò nòng cốt của trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình
GD - ĐT trên cơ sở nhà nước thống nhất QL từ nội dung chương trình, quy chế, thi
cử, văn bằng, tiêu chuẩn GV, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù
hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình.
Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định tiếp tục các luận điểm về GD – ĐT đã nêu
ra trong các kỳ đại hội trước, nhấn mạnh sự phát triển GD – ĐT là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện tiên quyết để phát
triển nguồn lực con người, làm cho kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, là yếu tố
quan trọng để phát huy dân chủ, bảo vệ quyền con người, tăng cường pháp chế, giữ
vững kỷ cương. Đại hội đã nêu ra những mục tiêu, biện pháp để thực hiện sự đổi mới
về nội dung, PP dạy & học, hệ thống trường lớp, hệ thống QLGD theo hướng chuẩn
hóa, HĐH, XHH, phục vụ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”[4, tr.167-169]
Như vậy, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả ĐT được Đảng và Nhà nước ta coi
là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển GD-ĐT; bởi vấn đề nhân lực
ngày càng trở thành yếu tố quyết định đối với sự phát triển và thịnh vượng của mỗi
quốc gia. Để có được một lực lượng lao động mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng,
vai trò của ngành Giáo dục được đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu. Nó đòi hỏi ngành
Giáo dục phải ĐT nên những con người thông minh, sáng tạo, nắm vững tri thức
khoa học, am hiểu thực tiễn, có trình độ ngoại ngữ để tiếp cận với sự hội nhập và phát
triển nhanh chóng của xã hội theo xu hướng toàn cầu hóa.
1.2.2. Vai trò của ngoại ngữ trong sự nghiệp GD-ĐT và trong sự phát triển của
đất nước
Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, bao hàm hầu hết các lĩnh vực, trong đó có
GD, vừa thúc đẩy hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh phức tạp để tăng sức ép cạnh
tranh. Bởi vậy, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ GD Việt Nam trở nên bức bách hơn bao
giờ hết để có thể hội nhập khu vực và thế giới. Điều kiện tiên quyết của hội nhập là
ngôn ngữ, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách nhằm tăng cường ĐT
ngoại ngữ trong hệ thống GD quốc dân với chủ trương XHH giáo dục, đa dạng hóa
các hình thức ĐT và hiện nay ngoại ngữ được coi là một trong những tiêu chí để
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Bên cạnh đó tốc độ tăng của lao động
xã hội ở nước ta tương đối nhanh, nhưng trình độ ngoại ngữ bị hạn chế nên gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận với các công nghệ tiên tiến, cũng như việc hợp tác trong
các ngành kinh tế có đầu tư nước ngoài và các công ty liên doanh. Do đó, việc ĐT
ngoại ngữ cho người lao động, cung cấp nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế, phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH, HĐH và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế là nhiệm vụ hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Vì thế
ngoại ngữ có một vị trí & vai trò rất quan trọng, từ một công cụ giao lưu quốc tế, đã
trở thành chiếc chìa khóa của sự tranh đua, tận dụng tối đa những tiến bộ nhanh
chóng về khoa học & công nghệ, một công cụ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Việc dạy và học ngoại ngữ từ nhiều năm nay đã được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm. Ngay từ những năm 1968 và 1972 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các
Chỉ thị số 43/Ttg ngày 11/4/1968 và Quyết định số 251/TTg ngày 07/9/1972 về cải
tiến và tăng cường công tác dạy và học ngoại ngữ trong các trường phổ thông, trung
học chuyên nghiệp và đại học cũng như trong đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, kinh
tế và trong công nhân kỹ thuật. Nếu lấy thời điểm 1987 làm mốc cho thời kỳ đổi mới,
thì đây cũng được xem như bắt đầu thời kỳ đổi mới trong chính sách ngoại ngữ của
Việt Nam, trong đó tiếng Anh đóng vai trò then chốt trong việc phát triển GD và kinh
tế xã hội, có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của đất nước. Nhiều văn bản đã được
ban hành cho các hoạt động này: văn bản số 15/ĐTTC, ngày 2/7/1990, số
3155/TCBT, ngày 29/6/199 và 1632/TCBT, ngày 30/3/1992.
Năm 1993, Bộ GD & ĐT, lần đầu tiên đã tiến hành thăm dò bằng thư
về” Nhu cầu dạy và học ngoại ngữ” trong cả nước. Đây là tiền đề để một nhóm
chuyên gia nghiên cứu và đề xuất “Chiến lược quốc gia về ĐT ngoại ngữ xuyến suốt
các bậc học” (1994). Đặc biệt, trong thời kỳ này, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ
thị 422/TTg ngày 15/8/1994, về việc tăng cường học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng
Anh, trong cán bộ, viên chức nhà nước. Chỉ thị qui định đối tượng học từ cấp thứ
trưởng trở xuống, thời gian học, ngân sách và việc sử dụng tiếng Anh trong công tác
và giao tiếp. Chưa bao giờ có một văn bản về dạy và học ngoại ngữ được ban hành ở
cấp lãnh đạo cao nhất như vậy. Tiếp sau đó là quyết định số 874/TTg ngày
20/11/1996, điều 2 của văn bản này ghi rõ: “Đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán
bộ, công chức Nhà nước để tăng cường khả năng giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước
ngoài trong lĩnh vực chuyên môn”. Điều này được coi là tiêu chuẩn và điều kiện để
xem xét đề bạt, nâng ngạch, cử đi công tác nước ngoài. Trong lịch sử cận đại của Việt
Nam chưa bao giờ việc học ngoại ngữ lại có nhiều văn bản pháp lệnh như thế. Điều
đó chứng tỏ ngoại ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nguồn
nhân lực và là thực tế khách quan cần thiết trong xu thế phát triển và hội nhập của đất
nước, và không thể không kể đến vai trò của tiếng Anh được xem như một công cụ
đắc lực để thu thập thông tin, kiến thức, là vũ khí không thể thiếu được trong cạnh
tranh và chiếm lĩnh thị trường.
Vì thế có thể nói trước yêu cầu phát triển của xã hội, việc dạy - học ngoại ngữ
không đơn giản chỉ vì mục đích nâng cao dân trí mà thưc sự nó đã trở thành một
“kênh” tham gia trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để phát triển
đất nước.
1.2.3. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.3.1. Quản lý
Có nhiều cách định nghĩa khái niệm quản lý khác nhau tùy theo cách tiếp cận
khác nhau:
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý
lên khách thể quản lý về mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục… bằng một
hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, nhằm tạo ra môi trường và điều
kiện cho sự phát triển của đối tượng.
- Quản lý là một hệ thống những tác động có chủ định, có định hướng của chủ
thể quản lý nhằm khai thác và vận dụng tối ưu những tiềm năng và cơ hội của tổ chức
để đạt đến mục tiêu quản lý với yêu cầu chất lượng cao trong môi trường luôn biến
động.
- Quản lý là sự tác động có mục đích của cán bộ quản lý đối với tập thể con
người nhằm làm cho hệ thống hoạt động bình thường, giải quyết được nhiệm vụ đề
ra.
Cho dù cách tiếp cận nào thì bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác
động (tổ chức, điều khiển, kiểm tra) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn
và đạt mục tiêu đã đề ra [24]. Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật
Quản lý là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức được hệ thống hóa và là đối
tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học phân loại kiến thức, giải
thích các mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, dự báo kết quả .
Quản lý là nghệ thuật bởi lẽ nó là hoạt động đặc biệt, trong đó quan hệ quan
trọng nhất là con người, đòi hỏi phải vận dụng hết sức khéo léo, linh hoạt những kinh
nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc kết. Nghệ thuật đó thể hiện ở
thái độ cư xử có văn hoá, khôn ngoan và tế nhị, trong việc vận dụng các nguyên tắc
chung vào từng con người cụ
thể. Nói cho cùng, nghệ thuật quản lý con người cũng là dựa trên các qui
luật tâm lý học .
Quản lý được tồn tại với tư cách là một hệ thống. Hệ thống quản lý và tác động
quản lý có thể được biểu diễn theo sơ đồ sau đây:
Mục tiêu
quản lý
Đối tượng quản lý
Chủ thể quản lý
Xác định
Tác
động
quản
lý
Tác
động
phản
Hồi
Thực hiện
Đặc điểm cơ bản của quản lý
Quản lý trước hết là hoạt động có mục đích, được xác định cấu trúc của tổ chức
để điều chỉnh các mối quan hệ.
Quản lý có những mối quan hệ của sự lựa chọn thành phần cụ thể tạo nên quá
trình điều khiển như một tổng thể. Nó có những quy định về mối liên hệ trên, dưới,
ngang, dọc, trong, ngoài.
Trong quá trình quản lý việc đưa ra quyết định và thực hiện quyết định được
tiến hành tuần tự theo các bước nhất định.
Chức năng cơ bản của quản lý
“Chức năng quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các
công việc của các thành viên trong tổ chức và của việc sử dụng tất cả các khả năng,
cách tổ chức để đạt được mục tiêu và tổ chức đã đề ra.” [24]
Như vậy quản lý có 4 chức năng cơ bản sau:
Lập kế hoạch: Là việc ra quyết định, nó gồm việc chọn lựa phương
hướng, đường lối, hành động mà tổ chức nào đó và các bộ phận
của nó phải tuân theo nhằm hoàn thành các mục tiêu của tổ chức.
Lập kế hoạch là công việc liên quan đến việc thiết lập các mục tiêu cần thiết cho
sự phấn đấu của tổ chức, là nền tảng của quản lý.
Tổ chức: Đó là việc xây dựng và duy trì cơ cấu nhất định về những vai trò,
nhiệm vụ và vị trí công tác trong tổ chức. Tổ chức bao gồm việc xác định một cơ cấu
định trước. Tổ chức là hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu, là công cụ của quản
lý.
Lãnh đạo, chỉ đạo: Là quá trình tác động đến con người, điều khiển họ,
làm cho họ tự giác phấn đấu đạt được mục tiêu đề ra của tổ chức
Kiểm tra: Là việc đánh giá kết quả, đo lường và điều chỉnh các hoạt động
của việc thực hiện các mục tiêu nhằm tìm ra những ưu, nhược điểm để phát huy hoặc
điều chỉnh việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo.
Trong các chức năng thì chức năng tổ chức là quan trọng nhất. Chúng ta có thể
mô tả chức năng của quản lý theo sơ đồ sau:
Tỗ chức
Lãnh đạo
Lập kế hoạch
Kiểm tra
Ý
tưởng
hoạt
động
thực tế
Thực
tế hoạt
động
quản lý
1.2.3.2. Quản lý trường học
Trường học: Trường học là cơ sở thực tế và thực tiễn của hoạt động giáo
dục của GV và hoạt động học tập của HV dưới sự QL của hiệu trưởng và với sự
cộng tác và phối hợp của gia đình HV và xã hội.
Trường học là một hệ thống các thành phần thuộc 3 loại :
- Những con người: HV, GV, hiệu trưởng, cán bộ,nhân viên
- Những phương tiện vật chất, kỹ thuật và tài chính: ngôi trường, sách giáo khoa,
đồ dùng để dạy và học, hồ sơ lưu trữ, ngân quỹ.
- Những tổ chức: Ban giám hiệu, các phòng hoặc ban chức năng, các Tổ chuyên
môn, các hội đồng, chi bộ Đảng Cộng Sản, Công Đoàn, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản,
Hội cha mẹ học sinh.
Quản lý trường học (QLTH):
QLTH là quản lý giáo dục trong một trường học cụ thể. “ QLTH là quản lí vi
mô, nó là một hệ thống con của quản lí vĩ mô: QLGD, QLTH có thể hiểu là một chuỗi
tác động hợp lí (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức - sư
phạm của chủ thể quản lí đến tập thể GV và học sinh, đến những lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào
mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu tới việc
hoàn thành những mục tiêu dự kiến” [25, tr. 16].
Thế nên nhà trường là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước, trực tiếp làm
công tác giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện mục
tiêu nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực , bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đồng thời
cũng là một tổ chức mang tính XH.
Trong nhà trường, hệ bị QL gồm có tập thể GV và tập thể học sinh, còn hệ QL
chỉ gồm có lãnh đạo trường. Hoạt động trung tâm của nhà trường là dạy và học. Mọi
hoạt động đa dạng và phức tạp khác đều xoay quanh hoạt động này. Vì vậy quản lý
nhà trường trước hết và chủ yếu là quản lý dạy và học, thực chất là quản lý quá trình
lao động sư phạm của thầy và lao động học tập của trò. Gồm bốn chức năng cơ bản
chủ yếu : Lập kế hoạch – tổ chức – chỉ đạo – kiểm tra và đánh giá.
Mục tiêu của quản lí giáo dục
“Mục tiêu là yếu tố cơ bản của hệ thống QL. Mục tiêu QL là trạng thái của hệ
thống mà ta muốn thu được. Trạng thái hay kết quả đó hiện chưa có hoặc đang có
nhưng ta muốn duy trì. Trạng thái hay kết quả chỉ đạt được thông qua các tác động
QL” [21]. Có nhiều loại mục tiêu QL:
- Mục tiêu lâu dài, mục tiêu trước mắt.
- Mục tiêu chung, mục tiêu bộ phận.
- Mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể.
_ Mục tiêu được phát triển một cách xác định - mục tiêu định lượng, mục tiêu
định tính. Trong việc xác định các mục tiêu phải biết phân biệt mục tiêu chủ yếu, mục
tiêu chính, mục tiêu phụ, các ưu tiên… Kèm theo việc xây dựng mục tiêu phải xác
định các tiêu chuẩn đánh giá việc thực hiện mục tiêu.
_ Trong giáo dục các mục tiêu phải được phân chia theo ngành học, cấp học,
theo vùng lãnh thổ, theo các mặt hoạt động giáo dục… Các loại mục tiêu giáo dục đã
được trình bày trong các văn kiện đại hội của Đảng và nhà nước, ghi trong chỉ thị
năm học hàng năm của Bộ GD-ĐT Việc xác định mục tiêu giáo dục phải dựa vào yêu
cầu khách quan của quy luật giáo dục. Quy luật giáo dục được chia làm hai loại:
- Quy luật phát triển nền học vấn và quy luật quá trình nâng cao văn hóa xã
hội, phổ cập giáo dục.
- Chi phối quá trình hình thành và phát triển nhân cách người học.
_ Việc đề ra các mục tiêu QL phải chú ý đến giai đoạn phát triển của
đối tượng, trình độ QL của chủ thể và những đặc trưng của thực tiễn QL.
Các nguyên tắc của quản lý giáo dục
“Nguyên tắc QL là những yêu cầu, những quy định chung nhằm chỉ đạo hoạt
động và tổ chức hệ thống QL. Nguyên tắc phải biểu hiện được mối quan hệ ổn định,
bền vững, tồn tại trong hệ thống QL .”[22]
_ Tính Đảng
Trước hết là làm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh mà Đảng ta đã cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương chính sách giáo dục trở
thành hệ tư tưởng và quan điểm chủ đạo duy nhất của toàn bộ công tác GD-ĐT,
nguyên tắc này coi việc giáo dục thế giới quan khoa học, nhân sinh quan và đạo đức
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình giáo dục.
_ Tính khoa học, tính thực tiễn.
Trong QL người quản lý phải nắm được cơ sở khoa học. Khoa học và QLGD
phải dựa vào thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau: Xã hội học, kinh tế học,
tâm lý học, luật học… Vì vậy tính khoa học trong QLGD trước hết đòi hỏi quan điểm
tổng hợp, hệ thống và quan điểm vận động (phát triển).
Tính khoa học trong QLGD đòi hỏi yêu cầu cụ thể và thực tiễn. Đối với giáo dục
là những nhân cách cụ thể. Do đó tính cụ thể trong quản lý đòi hỏi phải xem xét
người, sự vật, quá trình một cách cụ thể. Tính thực tiễn trong QLGD đòi hỏi người
quản lý biết đầy đủ, tường tận tình hình thực tế trong thời gian ở các không gian khác
nhau.
Các quá trình giáo dục thường diễn ra trong thời gian dài có nhiều lực lượng
cùng tham gia cùng một lúc, vì vậy QLGD luôn đòi hỏi tính khoa học cao. Kết hợp
các kế hoạch và chương trình dài hạn, ngắn hạn, toàn diện và từng mặt là yêu cầu
nghiêm ngặt của QLGD.
_ Tính tập trung dân chủ
Thực hiện nguyên tắc này là đảm bảo sự thống nhất tổ chức và trình độ cao của
hệ thống đồng thời đảm bảo phát huy cao độ các khả năng tiềm tàng, trí tuệ tập thể.
Nó thể hiện ở sự kết hợp chế độ thủ trưởng với chế độ dân chủ, tập thể trong QL.
Thực chất nguyên tắc rộng rãi này đảm bảo cho kỷ luật chặt chẽ. Do tính kỷ luật được
xây dựng trên cơ sở dân chủ rộng rãi, nên nó tạo nên sức mạnh trong tổ chức. Đây là
nguyên tắc rất quan trọng trong QL, xét về mặt tổ chức đây là nguyên tắc quan trọng
nhất.
_ Tính pháp chế
Đây là nguyên tắc cần thiết vì nó giúp điều hành và QL bằng pháp luật. Cả về
mặt tổ chức lẫn hoạt động. QL nhà nước về giáo dục đòi hỏi không những thực hiện
nghiêm luật pháp của nhà nước mà còn vận dụng kết hợp những quy phạm pháp luật
với những yếu tố đặc thù của ngành giáo dục để xây dựng & thực hiện một hệ thống
quy phạm giáo dục.
_ Tính hiệu quả
Chất lượng và hiệu quả giáo dục phụ thuộc vào hiệu quả tổ chức và QL. Muốn
đạt hiệu quả cao, người QL phải nắm được những thành tựu mới của KHKT, vận
dụng các PP khoa học vào quá trình QL.
_ Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ
Giáo dục được QL theo ngành dọc để đảm bảo tính thống nhất, tính
khoa học, tính chuyên môn của các hoạt động giáo dục và thực hiện nhất quán các
chính sách giáo dục trong cả nước là Bộ GD – ĐT.
Mặt khác, đời sống hằng ngày của nhà trường gắn bó với đời sống xã hội địa
phương, mà chỉ có chính quyền địa phương và các lực lượng xã hội
ở địa phương mới giải quyết một cách thích hợp, kịp thời và hiệu quả.
Các phương pháp quản lý giáo dục
_ Phương pháp tổ chức hành chính
Phương pháp này bao gồm các biện pháp tác động trực tiếp về mặt tổ chức hành
chính nhằm đảm bảo tính đồng bộ, nhịp nhàng và liên tục của các quá trình lao động
trong các tổ chức giáo dục. Nó thể hiện ở có tính chất bắt buộc đối với cấp dưới.
Phương pháp này tác động đến hai mặt:
+ Về mặt tổ chức xây dựng những hệ thống bị QL (đối tượng QL) xây dựng
những quan hệ QL để hoàn thành mục tiêu QL, đồng thời làm cho các bộ phận hoạt
động đồng bộ, có hiệu quả.
+ Về mặt hành chính nhằm cụ thể hóa bổ xung các hình thức tác động, về mặt
tổ chức, là cho tác động nói trên mang tính chất “tác chiến” cụ thể. Nó thể hiện ở các
quyết định (không mang tính ổn định, lâu dài mà áp dụng cho một tình hình cụ thể),
thông tư, chỉ thị v.v… trong đó xác định việc gì cần làm, yêu cầu cần làm, thời gian
làm, người phụ trách cụ thể.
- Tác động về mặt tổ chức càng chính xác, cụ thể thì tác động về mặt hành
chính - tác chiến càng bớt đi, người QL ít phải can thiệp vào quá trình quản lý thông
qua các chỉ thị, mệnh lệnh cụ thể khác.
- Hệ thống giáo dục là hệ thống rộng lớn. Để QL toàn bộ hệ thống ở các cấp
QL cấp cao (Bộ) các quyết định về mặt tác động tổ chức chiếm vị trí rất quan trọng.
Càng xuống dưới, ở các cấp QL thấp hơn, tỉ lệ các quyết định này giảm đi, nhưng các
quyết định mang tính chất hành chính - tác chiến lại tăng lên.
_ Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế tác động gián tiếp đến đối tượng QL trên cơ sở những cơ
chế kích thích tạo ra sự quan tâm nhất định về lợi ích vật chất để con người tự điều
chỉnh hành động nhằm hoàn thành nhiệm vụ cụ thể. Sự kết hợp đúng đắn các lợi ích
xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân là tác động gián tiếp mạnh mẽ làm cho con
người tích cực lao động, có thái độ tự giác đối với nhiệm vụ được giao.
Trong QLGD các phương pháp này thể hiện ở các chế độ, chính sách khuyến
khích, kích thích vật chất và thường được kết hợp với phương pháp hành chính tổ
chức trong việc xác định các định mức, tiêu chuẩn, chỉ tiêu (khoán thưởng chất
lượng).
_ Phương pháp tâm lý - xã hội:
Hệ giáo dục là một hệ xã hội . các quy luật xã hội giáo dục thuộc loại quy luật xã
hội. Hoạt động giáo dục sẽ không có kết quả nếu không có sự tham gia của con người
( GV, HV và những người liên quan). Vì vậy trong QLGD và những tình huống cụ
thể, PP tâm lý - xã hội nhằm động viên tinh thần chủ động, tích cực, tự giác của mọi
người đảm bảo mối quan hệ thân ái hợp tác cùng giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm
vụ, tạo ra sự thỏa mãn tinh thần trong từng người và trong tập thể sư phạm.
Người cán bộ QL giáo dục phải đi sâu nghiên cứu đặc điểm tâm lý - nhân cách
của GV & HV, những yêu cầu về đạo đức, nghề nghiệp, xu hướng hứng thú, các
phẩm chất ý chí thuộc các lứa tuổi khác nhau… để có những biện pháp tác động thích
hợp giúp GV trở thành tấm gương sáng cho HV và giúp đỡ HV trở thành những
nhân cách theo mục tiêu đã định.
_ Việc kết hợp các phương pháp quản lý (PPQL)
Giáo dục là một hiện tượng sư phạm - xã hội. Ở đây chứa đựng nhiều quy luật
thuộc các lĩnh vực khác nhau. Vì vậy việc áp dụng nhiều PPQL là điều dễ hiểu. Vấn
đề là không nên tuyệt đối hóa một PP nào, người QL cần tùy từng tình huống cụ thể
nắm vững và vận dụng ưu thế của những hạn chế tối đa nhược điểm của từng PP, kết
hợp vận dụng chúng một cách khéo léo nhằm đạt kết quả cao nhất.
Các PP kinh tế, tâm lí - xã hội thuộc loại tác động gián tiếp nhưng muốn có hiệu
lực, cần được “thể chế hóa” bằng các quyết định có tính chất pháp lí. Như vậy giữa
các PP không có sự tách rời, càng không có sự đối lập. Chúng điều tiết các mối quan
hệ hành chính, tổ chức, tâm lí, kinh tế xã hội. Tuy nhiên cũng cần thận trọng khi sử
dụng PP này để không dẫn tới tình trạng quan liêu giấy tờ.
_ Phương pháp mới trong quản lí:
PP ma trận MYTK ( chữ viết tắt của tiếng Anh là SWOT) M: mặt mạnh
(Strengths); Y: mặt yếu (Weaknesses) T: thời cơ, thuận lợi (Opportunities) và K:
nguy cơ, khó khăn (Threats). PP này người hiệu trưởng cần thực hiện các giai đoạn:
+ Làm sáng tỏ:
- Mặt bằng xuất phát: số lượng, chất lượng GV, tài chính, CSVC
- Các mục tiêu cần đạt tới (trong khoảng thời gian nhất định)
- Đặc trưng các nhân tố chủ quan (mặt mạnh yếu, khả năng chuyển yếu thành
mạnh và ngược lại … )
- Đặc trưng các nhân tố khách quan (thời cơ, nguy cơ, thuận lợi khó khăn, khả
năng biến khó khăn thành thuận lợi và ngược lại …)
+ Lập ma trận ( 3 hàng, 3 cột ) như hình sau:
MẶT BẰNG XUẤT PHÁT M Y
T Chiến lược MT Chiến lược YT
K Chiến lược MK Chiến lược YK
Như vậy bốn tình huống cơ bản: MT, YT, MK, YK. Ưng với mỗi tình huống cần
có một chiến lược bao gồm những giải pháp, biện pháp có tính hiện thực và khả thi.
Cần chú ý rằng PP ma trận trên đây có thể áp dụng cho một hoạt động nhằm
thực hiện một chủ trương cụ thể. Chẳng hạn như chủ trương giảng dạy thích hợp các
môn học yêu cầu người hiệu trưởng phải phân tích đầy đủ các nhân tố thuận lợi, khó
khăn, mặt mạnh, mặt yếu về phương diện chủ quan cũng như khách quan (lực lượng
GV, trình độ GV, đời sống GV, CSVC, điều kiện kinh tế -xã hội, trình độ quản lí…)
để từ đó thiết lập ma trận và chọn chiến lược thích hợp.
Các chức năng quản lý giáo dục
Hoạt động QL thường được chuyên môn hóa và gọi là chức năng QL. QLGD có
một số chức năng cơ bản sau:
- Kế hoạch hóa.
- Xác định mục tiêu và nhiệm vụ quản lý.
- Thông tin.
- Dự báo.
- Soạn thảo và ra quyết định.
- Công tác ngân sách kinh phí.
- Tổ chức thực hiện quyết định.
- Điều chỉnh phối hợp chỉ đạo hành chính.
- Kích thích (vật chất, tinh thần).
- Kiểm tra, kiểm kê.
- Tổng kết.
Các chức năng trên có vị trí khác nhau (kế hoạch hóa là chủ đạo, xác định mục
tiêu là tiền đề…) và được thực hiện hoặc đồng thời, hoặc trước sau. Cũng có thể đối
với một quá trình QL nào đó, không nhất thiết thực hiện đầy đủ các chức năng nói
trên.
Một dãy những chức năng QL kế tiếp nhau theo thời gian một cách lôgíc tạo
thành chu trình QL. Chu trình này bao gồm các chức năng sau:
+ Soạn thảo và ra quyết định
+ Tổ chức thực hiện quyết định
+ Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quyết định.
+ Tổng kết
Việc thực hiện chu trình QL tạo nên tính hoàn chỉnh trong hoạt động QL. Tuy
nhiên việc thực hiện chu trình đó không tách rời việc thực hiện chức năng khác.
Chẳng hạn thực hiện chu trình QL không tách khỏi chức năng kế hoạch hóa, xác định
mục tiêu và nhiệm vụ QL … Tùy từng đối tượng QL và tình huống cụ thể, việc thực
hiện chu trình quản lý kết hợp một cách hợp lý, đúng đắn có thể tạo nên “quy trình
công nghệ quản lý.”
”Vì thế QLTH là một PP khoa học vừa phức tạp, vừa tinh vi, tế nhị, đòi hỏi
mỗi người hiệu trưởng và tập thể ban lãnh đạo nhà trường phải hợp đồng chặt chẽ,
quán xuyến chung mọi mặt từ chương trình giáo dục về văn hoá, đạo đức, đến các
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kỹ thuật tổng hợp….từ nhận thức những chủ trương
đường lối của Đảng, Nhà nước về giáo dục, ban lãnh đạo nhà trường, chủ yếu là
hiệu trưởng sẽ biến thành những biện pháp chỉ đạo khoa học, thực tiễn và đầy sáng
tạo để tác động vào từng đối tượng của nhà trường là thầy, cô giáo, các cán bộ
QLGD, các em học sinh, khiến mọi người đều tự giác thực hiện mọi biện pháp để có
kết quả cụ thể bằng sự tiến bộ về mọi mặt - giảng dạy và học tập - của nhà
trường”[28]. Tất cả những điều đó đều đòi hỏi người lãnh đạo - QL không ngừng tự
rèn luyện bản thân mình về phẩm chất và năng lực cần thiết, để đạt được hiệu quả
trong hoạt động QL
1.2.3.3. Quản lý hoạt động đào tạo
Đào tạo
Là một quá trình dạy và học mang tính chuyên biệt nhằm trang bị, rèn luyện cho
người học các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo theo yêu cầu nghề nghiệp chuyên môn,
chuyên sâu. Quá trình ĐT nhằm chuẩn bị cho con người có khả năng lao động để góp
phần vào việc duy trì và phát triển cuộc sống trong cộng đồng xã hội.
Quản lý hoạt động đào tạo
_ Quản lý ĐT là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, vì vậy nó cần được tổ
chức và QL để đảm bảo cho quá trình ĐT vận hành đúng mục tiêu ĐT đã định. Quản
lý hoạt động ĐT nghĩa là thông qua các chức năng QL mà tác động vào các thành tố
của quá trình ĐT.
Quản lý đào tạo có hai chức năng cơ bản sau:
+ Duy trì, ổn định quá trình đào tạo nhằm đảm bảo chất lượng, sản phẩm ĐT
đạt được các chuẩn mực đã xác định trước.
+ Đổi mới, phát triển quá trình đào tạo, đón đầu xu hướng phát triển kinh tế -
xã hội.
_ QL đào tạo bao gồm các lĩnh vực QL: mục tiêu, nội dung chương trình, kế
hoạch ĐT, qui trình tổ chức giảng dạy như: chiêu sinh, tổ chức lớp, thực hiện chương
trình giảng dạy, PP giảng dạy, nề nếp dạy- học, tổ chức kiểm tra & thi kết thúc khoá,
ĐG kết quả học tập, CSVC phục vụ dạy-học, kiểm soát các chuẩn mực đảm bảo chất
lượng. Chất lượng ĐT quyết định sự tồn vong của cơ sở ĐT, vì vậy QLĐTchính là
QL chất lượng.
Tổ chức ĐT một cách hợp lý có ảnh hưởng lớn đến năng suất của hoạt động
ĐT. Điểm then chốt của việc tổ chức ĐT là làm sao hoàn thành được mọi nhiệm vụ
và đạt được mục tiêu ĐT đã đề ra.
Việc tổ chức ĐT xuất phát từ nhiệm vụ, mục tiêu ĐT và căn cứ vào đặc điểm
tình hình đội ngũ cán bộ, GV và các điều kiện hoạt động của nhà trường.
Thực chất tổ chức ĐT một cách khoa học là tìm ra một phương án tối ưu của
hệ thống các hoạt động ĐT trên cơ sở giải quyết tổng hợp, đồng
bộ các nhiệm vụ, mục tiêu ĐT, các vấn đề về xã hội học, tâm lý học, giáo
dục học và điều khiển học.
Mục tiêu đào tạo
Mục tiêu ĐT là những gì mà HV phải có được về tri thức, kỹ năng và kỹ xão
sau một quá trình học tập. Vì vậy, việc xác định mục tiêu giáo dục có một ý nghĩa to
lớn đối với việc nâng cao hiệu quả của quá trình ĐT. Nó giúp cho GV xác định phải
dạy gì, đến mức độ nào để từ đó lựa chọn được PP giảng dạy thích hợp, đánh giá
được khách quan, đúng đắn kết quả học tập của HV về kết quả giảng dạy của bản
thân. Nó giúp cho HV biết mình phải học những gì để có thể làm được những việc gì
sau khi học xong.
Mục tiêu ĐT của trường NNVA theo qui định chung của Bộ và SGD & ĐT
TPHCM là giảng dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ bằng hình thức học tại chức đáp ứng
nhu cầu đa dạng của đông đảo cán bộ, nhân dân lao động, có mục đích phổ cập hoặc
đạt được chứng chỉ ở trình độ A, B, C. Chủ yếu là dùng trong giao tiếp và thực hành
ngoại ngữ.
Nội dung đào tạo
Nội dung ĐT là chất liệu biến đầu vào thành đầu ra. QL nội dung ĐT là xác
định khối lượng tri thức mà Người dạy cần phải chuyển giao cho Người học trong
một thời gian có giới hạn, nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Nội dung chương trình ĐT của trường NNVA là theo quy định của chương trình
học môn tiếng Anh (hệ tại chức), được ban hành theo quyết định của Bộ trưởng Bộ
GD- ĐT số 177(QĐ – TCBT vào ngày 30/01/1993). Việc dạy và học tiếng Anh theo
phương thức tại chức là một quy trình liên tục, bao gồm 3 trình độ. Mỗi trình độ là
một hệ thống độc lập nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau:
- Trình độ A (Elementary level)
- Trình độ B (intermediate level)
- Trình độ C (Advanced level)
Sách giáo khoa dùng cho chương trình học là một bộ sách chính gồm sách bài
học và sách bài tập dùng để luyện tổng hợp các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết như bộ
sách Streamline English gồm bốn quyển được phân chia trong chương trình học ở cả
ba cấp độ A, B, C và một giáo trình dạy kỹ năng nghe hoặc đọc như : Start with
listening, English Knowhow.
Kế hoạch đào tạo
Kế hoạch là sự dự kiến các bước thực hiện công việc một cách có hệ thống trong
một thời hạn nhất định, căn cứ vào những điều kiện, những phương tiện cho phép,
nhằm đạt được mục tiêu đã xác định. Việc xây dựng kế hoạch & tổ chức thực hiện tốt
các kế hoạch là một yêu cầu quan trọng khẳng định tính hiệu quả của các hoạt động
xã hội, đặc biệt là ở công tác QL , kể cả ở tầng vĩ mô lẫn vi mô.
Trường NNVA căn cứ vào chương trình các cấp độ A, B, C do Bộ GD-ĐT ban
hành và hướng dẫn để vạch kế hoạch học tập của mỗi khoá ngoại ngữ. Mỗi trình độ
A, B thực hiện trong 400 (bốn trăm) tiết × 45 phút, và trình độ C là 450 tiết × 45 phút
thực học trên lớp.
Phương pháp đào tạo (PP ĐT)
PPĐT bao gồm các cách thức tiến hành hoạt động dạy và học nhằm ĐT được
những con người theo đúng mục tiêu đã xác định. Nói cách khác, PPĐT là cách thức
hoạt động của GV trong việc chỉ đạo, tổ chức hoạt động của HV nhằm đạt mục tiêu
ĐT
Quan hệ giữa PPĐT với các thành tố khác của quá trình ĐT : quá trình ĐT -
hiểu theo nghĩa tiếp cận hệ thống - gồm 6 thành tố cơ bản ( mục tiêu, nội dung, PP,
phương tiện, tổ chức, đánh giá ) tương tác với nhau thành một chỉnh thể, vận hành
trong môi trường giáo dục của nhà trường và môi trường kinh tế - xã hội của cộng
đồng.
Quản lý nhân sự
Hoạt động QL nhân sự chỉ nảy sinh khi cần có sự phối hợp hoạt động của nhiều
người, có nghĩa là cần phải có tổ chức, nhằm mục đích đạt được hiệu quả cao hơn.
Vì vậy, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của công tác QL giáo dục chính là
việc tổ chức nhân sự, bởi vì hoạt động giảng dạy là hoạt động tương tác giữa người
với người.
_ Giáo viên (GV)
Đối với một cơ sở ĐT, đội ngũ GV có vai trò rất quan trọng, là lực lượng quyết
định chất lượng ĐT. Mỗi trường học phải có một lượng GV đủ về số lượng, đạt
chuẩn về chất lượng, có cơ cấu đồng bộ mới có điều kiện nâng cao hiệu quả ĐT.
_ Học viên (HV)
Đó là những người đang học tập rèn luyện, phấn đấu để đạt mục tiêu ĐT của nhà
trường. Muốn đạt hiệu quả ĐT thì HV phải xác định rõ động cơ, thái độ học tập, phải
có sự quyết tâm trong học tập để tiếp thu tốt nhất những gì GV truyền đạt trong quá
trình ĐT.
Kiểm tra và đánh giá (KT - ĐG)
KT- ĐG là khâu then chốt không thể thiếu trong quy trình ĐT, là khâu kết thúc
của một chu trình QL, nó có chức năng ĐG và thẩm định chất lượng ĐT. Việc KT -
ĐG nhằm mục đích :
_ Thu thập kịp thời các mối liên hệ ngược về các hoạt động học tập, nghiên cứu
của người học, phát hiện kịp thời những thiếu sót của người dạy và người học, để
điều chỉnh và hoàn thiện quá trình ĐT.
KT- ĐG có ảnh hưởng hai mặt. Nó có thể cản trở cho sự phát triển giáo dục nếu
KT- ĐG chệch với mục tiêu ĐT và sử dụng những loại hình không phù hợp với mục
đích của KT. Vì vậy để thực hiện tốt quy trình ĐT nhà trường cần chú ý đến việc KT
- ĐG tri thức, kỹ năng kỹ xão trong quá trình ĐT để qua đó có thể ĐG được chất
lượng giảng dạy của trường.
Cơ sở vật chất phục vụ dạy và học
CSVC là điều kiện không thể thiếu được, đảm bảo hiệu quả quá trình
ĐT và thực hiện được mục tiêu ĐT. Có CSVC, thiết bị đầy đủ, hiện đại mới có thể
thực hiện tốt nội dung ĐT.
CSVC trường học được hiểu là hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ thuật
khác nhau được sử dụng để phục vụ việc giảng dạy trong nhà trường. CSVC bao
gồm các nội dung chính là:
- Trường, lớp học, bàn ghế, ánh sáng… bảo đảm yêu cầu sư phạm.
- Phương tiện, thiết bị phục vụ dạy - học. Có ảnh hưởng lớn đến PP giảng dạy
của GV, là một yếu tố cấu thành quá trình ĐT.
- Giáo trình, tài liệu, băng đĩa là phương tiện vô cùng quan trọng trong hoạt
động giảng dạy & học tập, phải có đầy đủ & nội dung đáp ứng được
yêu cầu ĐT trong việc cung cấp tri thức cho GV & HV.
- Sách báo cũng là công cụ phương tiện của GV & HV. Đặc biệt là những sách
báo nghiệp vụ của GV rất cần thiết cho công tác ĐT.
Hiệu quả đào tạo
Người ta quan niệm rằng: “ Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm
mang lại”[24].
Tính hiệu quả, theo quan niệm phổ quát, thể hiện mối quan hệ chung nhất giữa
sự đầu tư công sức, nhân lực, vật lực và kết quả đạt được sau một giai đoạn nhất định
xét theo mục tiêu trong những điều kiện cụ thể.
Căn cứ vào đây, có thể hiểu: hiệu quả ĐT là kết quả lao động QL giáo dục của
chủ thể QL mang lại, có tác dụng trong toàn bộ quá trình QL.
Quan niệm này thể hiện các dấu hiệu đặc trưng cơ bản sau:
- Hiệu quả phải theo mục tiêu QLĐT.
- Hiệu quả bao hàm chất lượng lao động QL.
- Hiệu quả có tác động đến quá trình QL và đối tượng bị QL.
Đánh giá hiệu quả ĐT là so sánh kết quả của các hoạt động ĐT đã thu được với
mục tiêu ĐT đã xác định. Mục tiêu của việc ĐG hiệu quả ĐT cũng là mục tiêu của
quá trình ĐT. ĐG hiệu quả ĐT là khẳng định sự tồn tại của sản phẩm - mục tiêu ĐT
trong các đối tượng được ĐT, là xác định mức độ đạt được của mục tiêu ĐT thể hiện
qua sản phẩm ĐT, là khẳng định tính nhân quả giữa quá trình ĐT & sản phẩm ĐT.
Vì thế ĐG hiệu quả ĐT phải theo các yêu cầu sau:
- ĐG phải căn cứ vào mục tiêu quản lý ĐT đã đề ra.
- Phải xét hiệu quả QLĐT trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
` - ĐG hiệu quả QLĐT phải theo quan điểm toàn diện, tổng hợp, và tiêu chuẩn
ĐG phải đầy đủ, gọn và dễ vận dụng. Chuẩn ĐG là căn cứ khách quan để khắc phục
chủ quan, tùy tiện trong ĐG.
Như vậy, hiệu quả bao giờ cũng đi đôi với chất lượng. Hiệu quả ĐT thể hiện sự
năng động, sáng tạo, thể hiện tính khoa học trong hoạt động ĐT. Vì thế việc QL hoạt
động ĐT giữ vai trò vô cùng quan trọng trong nhiệm vụ QL của người hiệu trưởng,
có tính quyết định hiệu quả ĐT của nhà trường.
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
ĐÀO TẠO TẠI TRƯỜNG TƯ THỤC NGOẠI NGỮ VIỆT ANH
2.1. Vài nét về trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh (NNVA)
2.1.1. Sự thành lập
Hưởng ứng chủ trương XHH và đa dạng hoá sự nghiệp giáo dục của Nhà nước,
trường ngoại ngữ Việt Anh (Vietnamese English Language School - VELS) đã được
thành lập vào ngày 10/04/1997, để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và bồi
dưỡng ngoại ngữ, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của đông đảo cán bộ, nhân dân lao
động, có mục đích phổ cập hoặc đạt được những chứng chỉ nhất định, chủ yếu là
dùng trong giao tiếp và thực hành ngoại ngữ.
Trường NNVA hoạt động với sự lãnh đạo và QL của SGD-ĐT TPHCM theo
các quy định của Bộ GD - ĐT. Mục tiêu của nhà trường là tạo một môi trường dạy và
học mang tính sư phạm cao, giúp người học thực hành và sử dụng tiếng Anh tùy theo
mục đích của từng cá nhân trong môi trường học tập thoải mái nhưng nghiêm túc,
nâng cao lòng tin cho HV khi giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày. Với tiêu chí hoạt
động: “Lấy chất lượng giảng dạy của GV và hiệu quả học tập của HV làm trọng điểm
phấn đấu hàng đầu”, trường NNVA đã tuyển chọn và ĐT cho mình một đội ngũ GV
đạt trình độ, có kỹ năng sư phạm, kinh nghiệm, tận tâm và năng động. Bên cạnh đó là
đội ngũ nhân viên hành chánh luôn ân cần, niềm nở hướng dẫn và tư vấn một cách
chu đáo cho HV qua việc kiểm tra xếp lớp, chuyển đổi lớp học, giờ học phù hợp với
yêu cầu của HV. Ngoài ra nhà trường cũng luôn quan tâm đến việc xây dựng mô hình
giảng dạy và học tập sinh động, nên bên cạnh chương trình học chính khoá là các
hoạt động ngoại khoá như: câu lạc bộ, hội thi đố vui, học tiếng Anh qua âm nhạc, liên
hoan tất niên theo chủ đề gắn liền với việc thực hành ngôn ngữ ….với mục đích tạo
sân chơi lành mạnh, sinh động, và đa dạng nhằm thu hút HV vào các hoạt động để
tạo điều kiện cho HV củng cố, thực hành, và hoàn thiện kiến thức đã học. Về cơ sở hạ
tầng nhà trường luôn đảm bảo tốt môi trường sư phạm.“Bảng danh dự - Bảng vàng
thành tích” ghi tên những HV có kết quả học tập tốt một cách trang trọng, từ đó kích
thích tinh thần học tập của HV và nâng cao chất lượng các buổi học. Việc QL chất
lượng dạy – học được nhà trường áp dụng một cách nghiêm túc với việc giảng dạy
của GV và học tập của HV. HV phải bảo đảm đủ 80% tổng số giờ học trên lớp và
phải hoàn tất bài tập ở nhà có sự kiểm tra và sửa bài của GV . Đối với HV các lớp
thiếu nhi nhà trường thường xuyên liên hệ với phụ huynh nhằm giúp các em học tập
đạt kết quả.
Do vậy nên nhà trường vẫn luôn nhận được sự tín nhiệm cao đối với phụ huynh
và HV. Nhà trường đã liên tục tạo được những kết quả hết sức khả quan cho HV, là
một trong những trường có tỷ lệ HV thi đậu cao và thường xuyên có HV đạt loại giỏi
trong các kỳ thi CCQG do SGD -ĐT TPHCM tổ chức ở các cấp độ A,B,C hàng
tháng. Nếu như khoá học đầu tiên trường chỉ có 11 lớp với 205 HV trong một khoá,
thì nay sau 57 khoá, số lớp của trường đã tăng lên từ 44 đến 51 lớp và số HV tương
ứng từ 1475 đến 1740 HV cho mỗi khoá học.
2.1.2. Chức năng & nhiệm vụ của Trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh
Chức năng
Trường tư thục NNVA là cơ sở dạy ngoại ngữ chủ yếu mang tính chất phục vụ,
nhằm giảng dạy, bồi dưỡng ngoại ngữ bằng hình thức học tại chức, đáp ứng nhu cầu
đa dạng của đông đảo cán bộ, nhân dân lao động có mục đích phổ cập hoặc đạt được
chứng chỉ ở những trình độ nhất định, chủ yếu là dùng trong giao tiếp và thực hành
ngoại ngữ.
Nhiệm vụ của trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh tại TPHCM.
Tổ chức giảng dạy, quản lý các lớp ngoại ngữ.
- Chiêu sinh, tổ chức các lớp: Có thể thu nhận tất cả các công dân ở mọi lứa
tuổi, không phân biệt nghề nghiệp, thành phần kinh tế, xã hội v.v… miễn là họ tự
nguyện và tuân theo các quy định của nhà trường. Khi sắp xếp lớp học cần chú ý bố
trí sao cho hợp lý ( ví dụ: tương đối giống nhau về mục đích học, về trình độ, về lứa
tuổi…) Các lớp đều được bầu lớp trưởng để tự quản và quan hệ với nhà trường.
- Căn cứ vào các chương trình các cấp độ A, B, C do Bộ GD-ĐT ban hành để
vạch kế hoạch học tập của mỗi khoá học ngoại ngữ.
-Tổ chức giảng dạy: Nếu cơ sở giáo dục không có đủ GV chuyên trách thì phải
xây dựng đội ngũ GV thỉnh giảng hoặc GV kiêm chức đủ chuẩn và tương đối ổn định
để bảo đảm kế hoạch và chất lượng giảng dạy.
- Tổ chức thi, kiểm tra cuối khoá, từng giai đoạn, từng cấp độ.
- ĐG kết quả học tập, SGD & ĐT cấp CC theo qui định của Bộ.
Tài chính.
Thu, chi học phí theo đúng các qui định của nhà nước về chế độ quản
lý tài chính đối với các đơn vị ngoài công lập. Sử dụng quản lý tốt các CSVC, trang
thiết bị, đồ dùng dạy học của nhà trường.
Những qui định của tổ chức thi cuối khóa, cuối cấp độ.
Sau mỗi khoá học, nhà trường KT - ĐG trình độ của HV tại trường. Khi kết thúc
một cấp độ (A, B, C) thì tổ chức tham dự thi theo qui định của
SGD - ĐT TPHCM. Môn thi và mức độ đề thi do Bộ GD - ĐT quy định tại các
chương trình và SGD - ĐT TPHCM tổ chức ra đề thi.
2.1.3. Cơ cấu nhân sự
Cơ cấu nhân sự của nhà trường theo quy định cần gọn nhẹ, gồm một hiệu
trưởng, một phụ tá hiệu trưởng, một bộ phận giúp việc về giáo vụ, tài vụ, hành chánh
quản trị, và đội ngũ giảng dạy. Tổng số nhân sự trường là 22 vị, trong đó có 7 nam và
15 nữ. Về trình độ thì có 01 phổ thông, 01 trung cấp, 02 cao đẳng, 17 cử nhân đại
học và 01 sau đại học. Về độ tuổi thì cao nhất là 51 tuổi, và thấp nhất là 24 tuổi. Về
kinh nghiệm thì nhiều nhất là 25 năm và ít nhất là 3 năm. Về nguồn gốc ĐT là từ
nhiều nguồn khác nhau, và được tuyển chọn, phân công theo đúng nghiệp vụ chuyên
môn và sở trường của mình để đáp ứng được yêu cầu công việc.
Nhân sự trường được bố trí đủ ở các bộ phận theo cơ cấu như sau:
_ Nhân sự phục vụ hành chính ( văn thư, học vụ, phục vụ & bảo vệ)
_ Nhân sự phục vụ tài chính, tài sản ( kế toán, thủ quỹ )
_ Nhân sự phục vụ giảng dạy: GV gồm 3 khối: GV chuyên dạy chương trình
thiếu nhi & phổ thông, GV chuyên dạy trình độ A, B, C & GV
chuyên luyện thi các CCQG và các CC của Đại học Cambridge (ESOL).
2.1.4 Đối tượng đào tạo của trường ngoại ngữ Việt Anh
Đối tượng HV của nhà trường thật đa dạng, từ những em học sinh nhỏ tuổi, đến
các tầng lớp thanh niên, sinh viên, các cán bộ công nhân viên, người lớn tuổi,… Từ
thực tế đó cho ta thấy người học trình độ không đồng đều, nhu cầu và mục đích theo
đuổi việc học cũng rất khác nhau.
Đối với sinh viên và học sinh phổ thông:
Ngoại ngữ là môn học chính và là môn thi bắt buộc. Bằng cảm tính, người ta
thường nghĩ học sinh phổ thông ngày nay rất kém, nên động cơ học tập là để đạt được
mục tiêu học tập tại trường phổ thông, và là phương tiện cho việc du học nước ngoài,
hay có điều kiện kiếm việc làm tốt hơn.
Đối với cán bộ công nhân viên:
Ngoại ngữ là nhu cầu giao tiếp trong làm ăn sinh sống, đối tượng quan tâm của
tầng lớp này là những nam nữ thanh niên trẻ làm trong các doanh nghiệp nhỏ tư nhân,
cửa hàng, tiệm ăn, nhà khách và các dịch vụ khác, yêu cầu về ngoại ngữ của họ
không cao song về số lượng lại rất lớn và đang có xu thế tăng nhanh.
Bên cạnh đó, ngoại ngữ có vai trò rất quan trọng trong hỗ trợ cho một số nghề
nghiệp như quản lý nhà nước, công sở và xí nghiệp, doanh nghiệp và đông đảo đội
ngủ cán bộ khoa học và kỹ thuật. Đối với đối tượng này về cơ bản yêu cầu về ngoại
ngữ của họ hiện nay không cao lắm chỉ ở mức giao tiếp thông thường về chuyên môn
nghiệp vụ và chủ yếu là tiếp thu thông tin. Song một bộ phận trong số họ có cơ hội đi
nước ngoài tham quan, bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ, tham gia các hội nghị…
cho nên họ đòi hỏi ngày càng hoàn thiện khả năng sử dụng ngoại ngữ của mình.
Đối với những người chuẩn bị tìm việc làm:
Ngoại ngữ là điều kiện tiên quyết để có được việc làm phù hợp với nguyện vọng.
Đối với những người này, định hướng về nghề nghiệp tương đối rõ ràng, động cơ học
tập tương đối cao. Họ cũng có những nhược điểm nhất định về năng lực tiếp thu, tuy
nhiên cũng có nhiều thuận lợi hơn vì tuổi còn trẻ điều kiện hoàn thiện ngoại ngữ
còn thuận lợi.
Đối với một số người khác ( không lớn lắm)
Một số học ngoại ngữ là để chuẩn bị xuất cảnh, học có mục đích, học không cần
nhiều, chỉ là những giao tiếp thông thường. Một số thì theo sự đua đòi hoặc đơn giản
chỉ đến lớp học ngoại ngữ để kiếm “ý trung nhân”. Nói chung người học ngoại ngữ
như là “trăm hoa đua nở”. Ngoại ngữ vừa là phương tiện, vừa là công cụ, vừa là
chiếc cầu nối để chúng ta hòa nhập với cộng đồng thế giới.
2.2. Thực trạng việc quản lý hoạt động đào tạo ở trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh tại TPHCM
Để khảo sát thực trạng hoạt động ĐT này, chúng tôi đã lấy ý kiến qua phiếu
tham khảo của GV và HV ở ba trường tư thục ngoại ngữ: Việt Anh, Dương Minh,
và Nguyễn Du tại TPHCM.
_ Tổng số khách thể nghiên cứu: 551
Giáo viên, cán bộ quản lý: 52
Học viên: 499
_ Kết quả nghiên cứu này nhằm làm rõ việc QL hoạt động ĐT tại trường tư thục
NNVA, nên có những vấn đề đặc thù và vì thời gian không cho phép chúng tôi chỉ
xin phân tích kết quả thu được ở trường NNVA.
_ Chữ viết tắt trong bảng kết quả:
- TB: Trung bình
- ĐLTC: Độ lệch tiêu chuẩn
- F: Trị số kiểm nghiệm F
- P: Mức xác suất. Khi P < 0,05 thì sự khác biệt có ý nghĩa và khi
P > 0,05 thì không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê.
2.2.1. Quản lý mục tiêu đào tạo
Chức năng chủ yếu của các trường dạy ngoại ngữ tại chức mang tính chất phục
vụ, nhằm giảng dạy, bồi dưỡng ngoại ngữ bằng hình thức học tại chức, đáp ứng nhu
cầu đa dạng của đông đảo cán bộ, nhân dân lao động có mục đích phổ cập hoặc đạt
được CC ở những trình độ nhất định, chủ yếu là dùng trong giao tiếp và thực hành
ngoại ngữ. Vì vậy mục tiêu chủ yếu của nhà trường là ĐT tiếng Anh theo một quy
trình liên tục, gồm 3 trình độ. Mỗi trình độ là một hệ thống độc lập nhưng gắn bó
chặt chẽ với nhau: trình độ A (Elementary level), trình độ B (Intermediate level), và
trình độ C (Advanced level). Mục tiêu ĐT ở mỗi trình độ là thực hiện theo sự hướng
dẫn trong chương trình học môn tiếng Anh (hệ tại chức) được ban hành theo quyết
định của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT số 177/QĐ-TCBT ngày 30/01/1993. Việc dạy và học
tiếng Anh theo phương thức tại chức phải đảm bảo cho người học có thể giao tiếp ở
mức bình thường với những người nói tiếng Anh, và phải chú ý rèn luyện đầy đủ cả
4 kỹ năng.
Chúng tôi đã xây dựng bảng câu hỏi để tìm hiểu xem sự nhận thức về mục tiêu
ĐT của GV dạy ở trường NNVA và các trường bạn như thế nào với 4 mức độ để
đánh giá: rất tốt, tốt, trung bình và yếu. Kết quả cho thấy như sau:
Bảng 2.1: Đánh giá nhận thức về mục tiêu đào tạo của GV ở trườngNNVA
Giáo viên Học viên Mức độ
N Tỷ lệ % N Tỷ lệ %
Rất tốt 16 69,60 71 24,60
Tốt 7 30,40 195 67,50
Trung bình 0 00,00 17 5,90
Yếu 0 00,00 0 0,00
Không ghi 0 00,00 6 2,10
Kết quả của bảng 2.1 cho thấy: Xét về tổng số có 69,60% số ý kiến của GV cho
rằng họ đã nhận thức rất tốt về mục tiêu ĐT, và có 30,40% là ở mức độ tốt. Không có
ý kiến đánh giá ở loại trung bình hay yếu. Tuy nhiên về phía HV đánh giá thì chỉ có
24,60% số GV nhận thức rất tốt về mục tiêu ĐT, 67,50% số ý kiến là ở mức độ
tốt, 5,90% số ý kiến là ở mức độ trung bình, không có ý kiến ở mức độ yếu, và ở
phần này có 2,10% không ghi nhận phần trả lời.
Sự đánh giá này buộc chúng ta phải suy nghĩ ở đây là số GV có ý kiến đánh
giá nhận thức về mục tiêu ĐT ở mức độ “rất tốt” là 69,60% và mức độ “ tốt” là 30,40
% phải chăng là theo cách nhận thức về mục tiêu ĐT chủ quan của chính bản thân họ.
Vì trong thực tế bên cạnh những nhân tố tích cực, vẫn còn có GV lúng túng trong
việc thực hiện chương trình, vận dụng các PP dạy học đã làm cho tiết học nặng nề,
gượng ép, đôi khi đến lớp học buông xuôi, gây phản ánh từ phía HV. Điều này có thể
nghĩ rằng, từ việc nhận thức mục tiêu ĐT còn mơ hồ, chung chung chắc chắn sẽ có
ảnh hưởng nhất định trong quá trình thực hiện chương trình và PP giảng dạy. Đây
cũng là một vấn đề cần phải suy nghĩ thêm.
Bảng 2.2: Đánh giá nhận thức về mục tiêu đào tạo của GV ở các trường
bạn theo tình hình chung:
Giáo viên Học viên Mức độ
N Tỷ lệ % N Tỷ lệ %
Rất tốt 0 0 0 0
Tốt 1 1,9 40 8,0
Trung bình 37 71,2 316 63,3
Yếu 12 23,1 128 25,7
Không ghi 2 3,8 15 3,0
Kết quả của bảng 2.2 cho thấy:
Theo ý kiến nhận xét ĐG của GV thì việc nhận thức về mục tiêu ĐT
của GV không đạt ở mức độ “ rất tốt”, chỉ có 1,9 % là tốt , 71,2% là trung bình,
23,1% là yếu, và có 3,8% ở phần này không ghi nhận phần trả lời. Về phía HV thì sự
ĐG nhận thức về mục tiêu ĐT không có cách biệt lắm so với sự nhận xét của GV,
trong đó 8% số ý kiến là ở mức độ tốt, 63,3 % số ý kiến là ở mức độ trung bình,
25,7 % là ở mức độ yếu, và 3 % ở phần này không ghi nhận phần trả lời.
Qua số liệu khảo sát trên, ta thấy việc nhận thức về mục tiêu ĐT của GV ở
các trường bạn theo tình hình chung là chưa đạt, cần phải tiếp tục bồi dưỡng cho GV
nhận thức đúng hơn nữa về mục tiêu ĐT; Bởi lẽ, GV có nhận thức tốt được mục
tiêu ĐT thì mới thực hiện nội dung và
chương trình đúng yêu cầu ĐT. Từ đó họ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn
về vị trí và vai trò của họ trong qui trình ĐT của nhà trường.
2.2.2. Quản lý nội dung chương trình đào tạo
Về nội dung chương trình ĐT, trường NNVA căn cứ theo yêu cầu chung của Bộ
quy định trong chương trình học môn tiếng Anh (hệ tại chức), về những mục tiêu cần
đạt được của các kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết để xây dựng nội dung chương trình
theo một quy trình liên tục bao gồm 3 trình độ. Mỗi trình độ là một hệ thống độc lập
nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau, và phân chia nội dung đó theo từng cấp lớp một
cách hợp lý. Sự rèn luyện các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ phải có định hướng giao
tiếp. Đồng thời phải trang bị cho người học những kiến thức về đất nước, con người,
văn hoá, văn minh, phong tục tập quán của nước Anh. Đối với cả ba trình độ A, B, C
đều không yêu cầu người học đi vào lý thuyết, mà chỉ dừng lại ở mức độ thực hành.
Đạt trình độ A (Elementary level), người học có thể giao tiếp thông thường xung
quanh những vấn đề sơ đẳng của cuộc sống hàng ngày.Trình độ B (intermediate
level) cho phép người học giao tiếp ít khó khăn lúng túng hơn về những vấn đề đời
sống hàng ngày. Ngữ liệu trong hai trình độ này phải đảm bảo thỏa mãn hai nhu cầu
trên. Trình độ C (Advanced level) tiếp tục củng cố nhằm hoàn thiện các kỹ năng ngôn
ngữ đã hình thành ở hai trình độ A và B, để xây dựng khả năng thực hành ở mức độ
cao hơn và ở trình độ trôi chảy hơn. Trình độ C cũng là bước chuẩn bị cuối cùng nếu
như người học muốn đi sâu vào tiếng Anh chuyên ngành, hoặc tiếp tục tham dự
những lớp chuyên môn hơn nhằm hoàn thiện khả năng giao tiếp.
Các giáo trình hiện đang được sử dụng tại trường là: Primary color,
Connect, Movers,Streamline English, English Knowhow, New Interchange,
Automatic English Speaking Step by Step, A job interview, Adio-Visual và sách
tiếng Anh ở trường phổ thông.
Để không chủ quan và ĐG được về việc thực hiện nội dung chương trình ĐT
của nhà trường, chúng tôi đã xây dựng bảng câu hỏi với 4 tiêu chí và ĐG ở 4 mức độ:
tốt, khá, trung bình ,yếu. Kết quả thu được như sau:
Bảng 2.3: Đánh giá chung về nội dung chương trình ĐT ở trường NNVA.
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Đảm bảo tri thức có
hệ thống
3,272 0,631 4 3,392 0,630 3 0,741 0,390
- Việc thực hiện
chương trình đào
tạo
3,818 0,394 1 3,532 0,586 2 5,020 0,026
- Truyền thụ tri thức
gắn liền với
tạo kỹ năng
3,363 0,581 3 3,295 0,713 4 0,190 0,664
- Cung cấp đủ tài
liệu, giáo trình
3,727 0,455 2 3,577 0,651 1 1,123 0,290
Qua kết quả bảng 2.3 cho thấy:
_ GV và HV đều ĐG các nội dung trên là tốt, tuy nhiên chưa có sự thống nhất ở
việc xếp các thứ bậc: việc thực hiện chương trình ĐT (GV xếp thứ bậc 1, còn HV thì
xếp thứ bậc 2 ), cung cấp đủ tài liệu giáo trình (GV xếp thứ bậc 2, còn HV là ở bậc
1), truyền thụ tri thức gắn liền với tạo kỹ năng (GV xếp thứ bậc 3, còn HV là ở bậc
4), đảm bảo tri thức có hệ thống ( GV xếp ở thứ bậc 4, còn HV thì xếp ở thứ bậc 3).
_ So sánh đánh giá giữa GV và HV thì có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thực
hiện chương trình ĐT ( F: 5,020 & P: 0,026), và không có sự khác biệt có ý nghĩa ở
mặt thống kê về ba nội dung còn lại.
Bảng 2.4: Đánh giá chung về nội dung chương trình ĐT ở các trường bạn
theo tình hình chung
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Đảm bảo tri thức có
hệ thống
3,288 0,626 3 3,375 0,653 3 0,732 0,393
- Việc thực hiện
chương trình đào
tạo
3,617 0,533 1 3,465 0,642 2 2,427 0,120
- Truyền thụ tri thức
gắn liền với
tạo kỹ năng
3,250 0,635 4 3,329 0,709 4 0,488 0,485
- Cung cấp đủ tài
liệu, giáo trình
3,489 0,655 2 3,494 0,711 1 0,002 0,961
Qua kết quả bảng 2.4 cho thấy:
_ GV và HV cũng ĐG các nội dung trên là tốt như kết quả ở trường NNVA, tuy
nhiên thứ bậc được hoán chuyển như sau: việc thực hiện chương trình đào tạo (GV
xếp thứ bậc 1, còn HV thì xếp thứ bậc 2), cung cấp đủ tài liệu giáo trình (GV xếp thứ
bậc 2, còn HV là ở bậc 1), đảm bảo tri thức có hệ thống (đồng xếp thứ bậc 3) và
truyền thụ tri thức gắn liền với tạo kỹ năng (đồng xếp thứ bậc 4). Điều này không có
sự khác biệt có ý nghĩa ở mặt thống kê (căn cứ vào F và có P > 0,05).
Kết quả ở bảng 2.3 và 2.4 đã thể hiện rõ, GV và HV chỉ quan tâm chủ yếu
đến việc thực hiện chương trình ĐT và việc cung cấp đủ tài liệu, giáo trình. Đây cũng
là điều đặc trưng hiện nay, bởi GV nói hầu hết thời gian trên lớp để thực hiện hoàn tất
chương trình, mà chưa thực sự đầu tư vào việc truyền thụ tri thức một cách có hệ
thống và gắn liền với tạo kỹ năng thực hành ngôn ngữ giao tiếp. Điều này hết sức cần
thiết và phải mang tính thường xuyên.
2.2.3. Quản lý kế hoạch đào tạo
Căn cứ vào yêu cầu chung của Bộ về những mục tiêu cần đạt được của các kỹ
năng Nghe, Nói, Đọc, Viết ở cả 3 cấp độ A, B & C trường NNVA đã lập kế hoạch tổ
chức giảng dạy theo từng khóa học để hoàn thành từng cấp độ. Thời gian của mỗi
khóa học là 10 tuần, với 60 tiết thực học trên lớp, mỗi tiết là 45 phút. Để đảm bảo
được chất lượng học tập, đáp ứng được yêu cầu của chương trình, nhà trường đã thiết
kế chương trình giảng dạy ở mỗi trình độ là 08 khóa học, và phân chia nội dung
chương trình giảng dạy là tương ứng với 08 lớp học cho mỗi trình độ. Sau đây là các
tiêu chí được HV & GV ĐG về việc QL kế hoạch ĐT của nhà trường.
Bảng 2.5: Đánh giá kết quả quản lý kế hoạch ĐT của trường NNVA
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Thực hiện tốt kế
hoạch giảng dạy
3,826 0,387 1 3,586 0,593 1 3,624 0,058
- Đảm bảo tính
khoa học
3,227 0,685 4 3,223 0,656 4 0,001 0,979
-Đáp ứng được nhu
cầu học tập của HV
3,434 0,589 3 3,339 0,659 3 0,454 0,501
- Chú trọng chất
lượng dạy và học
3,826 0,387 1 3,571 0,598 2 4,003 0,046
Qua kết quả bảng 2.5 cho thấy:
_ GV và HV đánh giá các nội dung trên là tốt và sắp xếp theo các thứ bậc khá
thống nhất: thực hiện tốt kế hoạch giảng dạy và chú trọng chất lượng dạy và học (GV
xếp đồng thứ bậc 1, còn HV xếp thứ bậc 1 và 2), đáp ứng được nhu cầu học tập của
HV (thứ bậc 3), đảm bảo tính khoa học (thứ bậc 4). Chỉ có một nội dung: chú
trọng chất lượng dạy và học, là có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê
(F: 4,003 & P: 0,046).
Vậy có thể nói GV đã xác định rất rõ việc thực hiện tốt kế hoạch giảng dạy là
có sự chú trọng đến chất lượng dạy và học, và việc phấn đấu để đạt được chất lượng
dạy và học là tiêu chí hoạt động của trường NNVA.
2.2.4. Quản lý việc tổ chức giảng dạy:
Tổ chức việc giảng dạy là khâu rất quan trọng trong chu trình QL ở nhà trường.
Đây là một chuỗi các hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu ĐT đề ra, gồm việc QL
các mặt hoạt động như : chiêu sinh, tổ chức lớp học; thực hiện chương trình giảng
dạy, PP giảng dạy; nề nếp giảng dạy; tổ chức kiểm tra, thi kết thúc cuối khóa; đánh
giá kết quả học tập cuối khóa, cuối cấp độ và cấp phát CC; CSVC phục vụ việc dạy
- học.
2.2.4.1. Quản lý việc chiêu sinh, tổ chức lớp học:
Nhà trường chiêu sinh và thu nhận tất cả các công dân ở mọi lứa tuổi, không
phân biệt nghề nghiệp, thành phần kinh tế, xã hội v.v… miễn là họ tự nguyện và tuân
thủ theo các qui định của nhà trường. Từ những em học sinh nhỏ tuổi, đến các tầng
lớp thanh niên, sinh viên, các cán bộ công nhân viên, người lớn tuổi, đối tượng khác
nhau có những yêu cầu cụ thể khác nhau nên việc tổ chức lớp gặp nhiều khó khăn
trong việc sắp xếp, bố trí sao cho hợp lý tương đối giống nhau về: mục đích học, trình
độ, lứa tuổi, thời gian …. Các lớp học được tổ chức theo khóa học và khai giảng lớp
mới liên tục, nối tiếp với thời gian bế giảng khóa học cũ. Các lớp đều bầu lớp trưởng
để tự quản và quan hệ với nhà trường.
Dưới đây là ĐG kết quả QL việc chiêu sinh và tổ chức lớp của GV và HV
trường NNVA.
Bảng 2.6: ĐG kết quả QL việc chiêu sinh, tổ chức lớp ở trường NNVA.
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Các mặt quản lý
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Kế hoạch chiêu 3,913 0,288 1 3,449 0,609 1 13,037 0,000
sinh
- Sắp xếp trình độ
học viên
3,136 0,639 3 3,165 0,727 2 0,033 0,856
- Phân chia các lớp 3,500 0,511 2 3,089 0,732 3 6,623 0,011
Kết quả nghiên cứu thể hiện ở bảng 2.6 cho thấy:
_ GV đánh giá kết quả QL việc chiêu sinh, tổ chức lớp của trường NNVA là rất
tốt ở 2 mặt: kế hoạch chiêu sinh (thứ bậc 1), phân chia các lớp (thứ bậc 2), và mặt sắp
xếp trình độ HV là tốt (thứ bậc 3); Trong khi đó HV chỉ ĐG là tốt cho cả 03 mặt QL
nầy và được sắp xếp theo thứ tự như sau: kế hoạch chiêu sinh (thứ bậc 1), sắp xếp
trình độ HV (thứ bậc 2), phân chia các lớp (thứ bậc 3).
_ So sánh ĐG giữa GV và HV, ta thấy sự khác biệt có ý nghĩa ở 02 mặt: kế
hoạch chiêu sinh (F: 13,037 & P: 0,000) và phân chia các lớp (F: 6,623 & P: 0,011);
còn việc sắp xếp trình độ HV thì không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê
(F: 0,033 & P: 0,856).
Bảng 2.7 : Đánh giá kết quả QL việc chiêu sinh, tổ chức lớp ở các trường
bạn theo tình hình chung.
Điểm trung bình: 2,5
GIáo viên Học viên Các mặt quản lý
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Kế hoạch chiêu
sinh
3,560 0,674 1 3,380 0,673 1 3,229 0,073
- Sắp xếp trình độ
học viên
3,104 0,592 3 3,192 0,727 2 0,667 0,415
- Phân chia các lớp 3,291 0,581 2 3,097 0,744 3 3,085 0,080
Kết quả nghiên cứu thể hiện ở bảng 2.7 cho thấy:
_ GV và HV ở các trường bạn cũng có sự ĐG tương đồng như kết quả ở trường
NNVA, nhưng cả ba nội dung trên đều không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt
thống kê( căn cứ vào F và có P > 0,05).
Qua kết quả ở bảng 2.6 và 2.7 có thể nói rằng HV không quan tâm đến việc
xếp lớp đầu vào bằng một bài trắc nghiệm xếp lớp để sự chênh lệch về trình độ giữa
các HV trong cùng một lớp không quá cách biệt, nhưng đối với GV thì đây là vấn đề
có ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy cũng như việc duy trì sĩ số HV ở mỗi lớp
học, vì khi cùng một trình độ thì GV sẽ dễ dàng kết hợp và thay đổi PP giảng dạy sao
cho thích hợp với HV. Do đối tượng HV của nhà trường rất đa dạng, có những yêu
cầu rất khác nhau nên việc tổ chức lớp cũng gặp rất nhiều khó khăn.
2.2.4.2. Quản lý việc thực hiện chương trình giảng dạy
Căn cứ vào mục tiêu, nội dung và kế hoạch ĐT, trường NNVA đã thiết kế
chương trình giảng dạy cụ thể ở từng lớp học của từng cấp độ. Quy
định rõ về thời lượng, số lượng và khối lượng đơn vị bài học, cũng như yêu
cầu cần đạt cho từng kỹ năng ngôn ngữ chủ yếu của từng cấp độ.
Hiện nay, trường NNVA đang cung cấp cho HV các chương trình giảng dạy
như: Anh ngữ dành cho thiếu nhi, Anh ngữ dành cho học sinh phổ thông từ lớp 6 đến
lớp 9, Anh ngữ luyện thi CCQG A, B, C, Anh ngữ giao tiếp trong nhiều lĩnh vực như
văn phòng, kinh doanh, tài xế, và các lớp luyện thi các CC của Đại học Cambridge
(ESOL) …
Điều tra về việc thực hiện chương trình giảng dạy ở trường NNVA, chúng tôi đã
thu được kết quả thể hiện ở 4 tiêu chí sau:
Bảng 2.8: Đánh giá kết quả QL việc thực hiện chương trình giảng dạy ở
trường NNVA.
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
-Thực hiện đúng
chương trình
giảng dạy
3,826 0,387 1 3,706 0,540 1 1,083 0,299
-Đảm bảo hoạt động
thực hành trên lớp
3,409 0,666 3 3,245 0,787 4 0,897 0,344
- Có phấn đấu để
đạt hiệu quả cao
3,590 0,503 2 3,447 0,656 3 1,003 0,317
- Học viên có đầy
đủ giáo trình thích
hợp
3,391 0,656 4 3,643 0,573 2 4,027 0,046
Qua kết quả bảng 2.8 cho thấy:
_ GV và HV cùng ĐG các nội dung trên là tốt, và sắp xếp các thứ bậc như sau:
thực hiện đúng chương trình giảng dạy (đồng xếp thứ bậc 1), có phấn đấu để đạt hiệu
quả cao ( GV xếp thứ bậc 2, còn HV xếp thứ bậc 3), đảm bảo hoạt động thực hành
trên lớp (GV xếp thứ bậc 3, còn HV xếp thứ bậc 4 ), HV có đầy đủ giáo trình thích
hợp (GV xếp thứ bậc 4, còn HV xếp thứ bậc 2).
_ So sánh ĐG giữa GV và HV thì có sự khác biệt có ý nghĩa ở nội dung: HV có
đầy đủ giáo trình thích hợp (F: 4,027 & P: 0,046), và không có sự khác biệt có ý
nghĩa ở mặt thống kê về ba nội dung còn lại (căn cứ vào F & có P> 0,05). Điều này
cho thấy, nhà trường đã đáp ứng được nhu cầu của HV về giáo trình, vì một trong
những yếu tố quan trọng để đạt được kết quả dạy - học là HV phải có đủ giáo trình để
tiếp cận với kiến thức.
Bảng 2.9: Đánh giá kết quả QL việc thực hiện chương trình giảng dạy ở
các trường bạn theo tình hình chung
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
-Thực hiện đúng
chương trình giảng dạy
3,604 0,643 1 3,639 0,620 1 0,137 0,711
-Đảm bảo hoạt động
thực hành trên lớp
3,170 0,669 4 3,295 0,774 4 1,145 0,285
- Có phấn đấu để
đạt hiệu quả cao
3,500 0,547 2 3,438 0,669 3 0,370 0,543
- Học viên có đầy
đủ giáo trình
thích hợp
3,395 0,609 3 3,595 0,619 2 4,533 0,034
Qua kết quả bảng 2.9 cho thấy:
_ GV và HV cũng ĐG các nội dung trên là tốt như kết quả của trường NNVA,
tuy nhiên có sự hoán chuyển thứ bậc ở hai nội dung: Có phấn đấu để đạt hiệu quả cao
(GV xếp thứ bậc 2, còn HV xếp thứ bậc 3 ), HV có đầy đủ giáo trình thích hợp ( GV
xếp thứ bậc 3, còn HV thì xếp thứ bậc 2), và đây là nội dung có sự khác biệt có ý
nghĩa về mặt thống kê (F: 4,533 & P: 0,034).
Kết quả ở bảng 2.8 và 2.9 đã phản ánh đúng thực tế, GV luôn nghĩ khi thực
hiện đúng và đủ chương trình là đã tròn trách nhiệm của mình đối với sự cam kết theo
qui định của nhà trường, hơn nữa đó cũng là điều thể hiện sự phấn đấu để đạt hiệu
quả, nên toàn bộ thời lượng họ dành cho việc thực hiện đúng chương trình. Điều này
cũng có thể hiểu là việc đảm bảo thực hành trên lớp đương nhiên là bị hạn chế; chứ
họ không nghĩ rằng trình độ kiến thức của người GV và PP giảng dạy của họ chính là
yếu tố quyết định cho việc thực hiện khối lượng và chất lượng trong thời lượng giảng
dạy của họ đạt hiệu quả. Tất nhiên đây cũng là điều cần phải suy nghĩ thêm, bởi lẽ
việc phải đảm bảo hoạt động thực hành trên lớp tốt hơn nữa là một nhu cầu chính
đáng của HV, và là yếu tố bắt buộc trong việc dạy và học ngoại ngữ “ Practice makes
perfect”.
2.2.4.3. Quản lý việc thực hiện phương pháp giảng dạy
Trường NNVA đã thay đổi từ một giáo trình dạy cho toàn khóa đến việc bổ sung
nhiều giáo trình dạy cùng một lúc. GV chỉ sử dụng giáo trình chuyên ngữ Anh, và đề
nghị HV không sử dụng giáo trình song ngữ Anh-Việt. Việc sử dụng các giáo trình
bổ sung cho nhau, sẽ giúp tăng cường khả năng học tập ở HV và là yếu tố quyết định
PP giảng dạy của GV.
PP giảng dạy cũng rất đa dạng, nhà trường đã chọn PP dạy học theo hướng giao
tiếp CLT (Communicative Language Teaching) là PP chủ đạo của trường. PP này tạo
được cho HV kỹ năng thực hành ngôn ngữ, người học là trung tâm hoạt động trên
lớp, giúp HV trau dồi đầy đủ các kỹ năng nghe - nói - đọc - viết ngay tại lớp để đạt
được hiệu quả dạy - học. Để ĐG về việc thực hiện PP giảng dạy, chúng tôi đã xây
dựng bảng hỏi với bảy tiêu chí sau đây, và vì là PP được chọn áp dụng ở trường
NNVA, nên chúng tôi chỉ phân tích kết quả nghiên cứu thu được từ trường NNVA.
Bảng 2.10: Đánh giá về phương pháp giảng dạy của GV ở trường NNVA
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Thực hiện tốt
phương pháp chủ
đạo (CLT)
3,608 0,499 3 3,559 0,547 2 0,175 0,676
- Việc vận dụng các
PP giảng dạy
3,545 0,595 4 3,389 0,664 4 1,133 0,288
- Giáo viên tích cực
cải tiến PP
3,500 0,597 5 3,351 0,652 5 1,070 0,302
-Nghiêm túc trong
giảng dạy
3,956 0,208 1 3,679 0,530 1 6,181 0,013
- Phát huy tính tích
cực học tập của học
viên
3,409 0,590 6 3,163 0,739 7 2,307 0,130
- Tổ chức, tập huấn
sinh hoạt chuyên
môn cho
giáo viên
3,272 0,455 7 3,295 0,728 6 0,021 0,885
-Hiệu quả giảng dạy 3,869 0,344 2 3,451 0,597 3 10,949 0,001
Qua kết quả bảng 2.10 cho thấy:
_ GV & HV đều ĐG các tiêu chí trên là tốt. Sự xếp thứ bậc cũng không có sai
lệch nhiều, tuy nhiên có sự khác biệt có ý nghĩa ở mặt thống
kê về hai tiêu chí: nghiêm túc trong giảng dạy(đồng xếp thứ bậc 1,F: 6,181 & P:
0,013), và hiệu quả giảng dạy ( GV xếp ở thứ bậc 2, còn HV thì xếp ở thứ bậc 3, F:
10,949 & P: 0,001).
Từ kết quả trên có thể hiểu PP chủ đạo CLT chưa thực sự được vận dụng hết
đặc trưng tối ưu của nó, nên tiêu chí “ phát huy tính tích cực học tập của HV” được
xếp ở thứ bậc 6 đối với GV & là thứ bậc 7 đối với HV. Có nghĩa là HV mong mõi
được GV quan tâm nhiều hơn ở điều này. Đây cũng là điều phù hợp với thực tế, vì
cũng còn có ít GV chọn lựa các PP khác, còn truyền thụ một chiều, hoạt động trên
lớp học chưa có sự tương tác giữa thầy và trò. GV phải thực sự xem người học là
trung tâm hoạt động trên lớp, phải dành sự ưu tiên tối đa cho hoạt động ngôn ngữ của
người học. Điều này có lẽ cần tập trung trang bị kiến thức, thông tin mới về PP giảng
dạy cho GV nhiều hơn nữa qua việc tổ chức tập huấn & sinh hoạt chuyên môn
thường xuyên, để trao đổi kinh nghiệm & cải tiến PP.
2.2.4.4. Quản lý nề nếp giảng dạy:
Việc QL nề nếp giảng dạy của GV, học tập của HV là một trong những khâu
quan trọng của việc QL, góp phần nâng cao hiệu quả ĐT. Vì thế tại trường NNVA
việc QL này được nhân viên bộ phận giáo vụ, và người quản lý thực hiện nghiêm
chỉnh việc theo dõi giờ lên lớp, kiểm tra sĩ số HV, hoạt động lớp học trong giờ dạy
của GV để kịp thời chấn chỉnh. Thông qua hệ thống sổ theo dõi giảng dạy, lớp
trưởng, HV, nhà trường luôn nắm được thông tin về nề nếp giảng dạy & luôn được
duy trì tốt.
Khi tiến hành nghiên cứu về việc QL nề nếp giảng dạy, chúng tôi thu được kết
quả như sau:
Bảng 2.11: Đánh giá về việc quản lý nề nếp giảng dạy ở trường NNVA.
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Có tính kỷ luật
cao trong giảng
dạy
3,869 0,344 1 3,378 0,674 5 11,904 0,001
- Tinh thần trách
nhiệm cao
3,695 0,558 3 3,547 0,601 2 1,308 0,254
- Đúng giờ giấc
qui định
3,869 0,457 1 3,662 0,574 1 2,859 0,092
- Kiểm tra chặt chẽ
chuyên cần của HV
3,521 0,593 5 3,325 0,732 6 1,573 0,211
- Quan hệ tốt với
Học viên
3,590 0,590 4 3,457 0,636 3 0,904 0,343
- Mang tính chuyên
nghiệp trong giảng
dạy
3,454 0,509 6 3,381 0,659 4 0,256 0,613
Qua kết quả của bảng 2.11 cho thấy:
_ GV và HV cùng ĐG các nội dung trên là tốt , tuy nhiên sự sắp xếp các thứ bậc
thì chỉ có nội dung” đúng giờ giấc qui định” là đồng xếp thứ bậc 1, còn các nội dung
khác là không giống nhau. Nhưng chỉ có nội dung: có tính kỷ luật cao trong giảng
dạy (GV thì xếp ớ thứ bậc1, trong khi HV thì xếp ở thứ bậc 5) là có sự khác biệt có ý
nghĩa về mặt thống kê (F: 11,904 & P: 0,001). Vậy cũng thể hiểu GV nghĩ
rằng việc thực hiện đúng giờ giấc qui định cũng chính là đã thể hiện tính kỹ luật cao
trong giảng dạy; còn HV cho rằng tính kỷ luật cao trong giảng dạy còn thể hiện ở nội
dung có kiểm tra chặt chẽ chuyên cần của HV ( xếp thứ bậc 6 ).
Điều này cũng rất phù hợp với thực tế, bởi lẽ việc xây dựng, củng
cố nề nếp, ý thức học tập cho toàn thể HV luôn được nhà trường quan tâm
đúng mức. Tuy nhiên do đối tượng HV của trường, từ những em học sinh nhỏ tuổi,
đến các tầng lớp thanh niên, các cán bộ công nhân viên, người lớn tuổi ở ngành nghề
kinh doanh tự do…., nên việc QL này chưa được đảm bảo một cách đầy đủ, việc
chuyên cần và ra vào lớp không đúng được giờ giấc học tập đã qui định. Bên cạnh đó
vẫn còn những HV ý thức học tập chưa cao, còn hiện tượng bỏ học, bỏ thi cuối khóa
không ĐG được kết quả học tập. Đây vẫn là vấn đề cần quan tâm, cải tiến để việc QL
này tốt hơn.
Bảng 2.12: Đánh giá về QL nề nếp giảng dạy ở các trường bạn theo tình
tình chung.
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Có tính kỷ luật
cao trong giảng dạy
3,574 0,580 2 3,362 0,677 5 4,301 0,039
- Tinh thần trách
nhiệm cao
3,562 0,615 3 3,535 0,632 2 0,080 0,777
- Đúng giờ giấc qui
định
3,604 0,643 1 3,582 0,629 1 0,053 0,819
- Kiểm tra chặt chẽ
chuyên cần của HV
3,234 0,698 6 3,317 0,725 6 0,570 0,451
-Quan hệ tốt vớiHV 3,468 0,654 4 3,464 0,652 3 0,711 0,971
- Mang tính chuyên
nghiệp trong giảng
dạy
3,400 0,539 5 3,382 0,676 4 0,028 0,867
Qua kết quả của bảng 2.12 cho thấy:
_ GV và HV cũng ĐG các nội dung trên là tốt, và cùng xếp thứ bậc giống nhau
ở hai nội dung: đúng giờ giấc qui định (đồng xếp thứ bậc 1), kiểm tra chặt chẽ
chuyên cần của HV (đồng xếp thứ bậc 6); còn khác nhau về thứ bậc ở các nội dung
còn lại, tuy nhiên sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa về mặt thống kê ở nội dung: có tính
kỷ luật cao trong giảng dạy (GV thì xếp ở thứ bậc 2, trong khi HV thì xếp ở thứ bậc
5, F: 4,301 & P: 0,039).
Như vậy, có thể nói việc xây dựng nề nếp giảng dạy luôn được các GV quan
tâm tuân thủ theo những qui định về giờ giấc và nội quy của trường một cách chặt
chẽ. Từ đó cũng giáo dục ý thức học tập cho HV được tốt hơn nữa.
2.2.4.5. Quản lý việc tổ chức kiểm tra từng giai đoạn và thi kết thúc
cuối khoá
Trường NNVA đã thực hiện việc QL tổ chức kiểm tra từng giai đoạn và thi kết
thúc cuối khoá như sau:
Việc kiểm tra đầu vào là một vấn đề cần thiết để xếp lớp đúng trình độ cho HV,
nên trước khi đăng ký tham gia vào khóa học, HV sẽ được đề nghị kiểm tra trình độ
qua một bài viết để có cơ sở xếp lớp phù hợp. Nhưng thực tế, đa số HV vào học đều
yêu cầu được xếp lớp theo nhu cầu riêng của mình. Hơn nữa số lượng HV đăng ký
còn rời rạc, không trùng thời điểm nên nhà trường cũng khó tổ chức kiểm tra xếp lớp
đầu vào như là một yêu cầu bắt buộc khi tham gia khóa học. Điều này gây khó khăn
không ít cho GV trong việc truyền đạt kiến thức vì trình độ HV trong lớp không đồng
đều. Vì thế nhà trường đã xây dựng một hệ thống kiểm tra theo một kế hoạch thống
nhất chung để ĐG sự tiến bộ trong học tập của HV như sau:
_ kiểm tra kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của HV ngay trong từng buổi học với các
hình thức khác nhau, HV đôi khi không nhận ra đã kiểm tra vì GV kiểm tra bài cũ
song song với dạy bài mới, để có thể điều chỉnh khi HV phát âm sai, hiểu sai, sử
dụng sai tình huống, sai mẫu câu, sai từ vựng….Việc này còn cho GV thấy được sự
phản hồi của HV, nâng cao tính tích cực sáng tạo của HV chứ không chỉ truyền thụ
một chiều.
_ Kiểm tra kỹ năng viết theo thông báo định kỳ vào tuần lễ thứ ba và tuần lễ thứ
sáu của khóa học, thông qua việc HV phải hoàn tất các bài tập ở nhà (Homework) có
phần kiểm tra, sửa bài của GV phụ trách lớp, và bài kiểm tra 1 tiết tại lớp. Tất cả các
hoạt động kiểm tra này đều có sự kiểm duyệt và ĐG của bộ phận giáo vụ và chuyên
môn nhà trường, để tuyên dương hoặc rút kinh nghiệm cho GV ở từng lớp .
_ Vào cuối khóa học ở tuần lễ thứ 10, HV sẽ qua ba bài thi để ĐG ba kỹ năng
nghe, viết và nói nhằm ĐG mức tiến bộ của HV bằng điểm số, và xác định được
năng lực sử dụng ngôn ngữ của HV sau mỗi khóa học, qua đó phát hiện kịp thời
những hạn chế cần bổ khuyết nhằm đạt kết quả tốt trong việc học tập.
Với kiểm tra kỹ năng nói, thì yêu cầu HV phải phát âm đúng, phản ứng nhanh,
có khả năng giao tiếp tốt, không e ngại và thụ động. Yêu cầu bài kiểm tra nói sẽ buộc
GV phải chú trọng rèn luyện kỹ năng này cho HV trong suốt khóa học. Với kiểm tra
môn nghe thì yêu cầu người QL là phải chuẩn bị tốt máy cassette và băng đĩa để
tránh được những sự cố kỹ thuật.
Đề bài kiểm tra thống nhất cho từng khối lớp do hiệu trưởng và 2 GV giỏi có đủ
trình độ chuyên môn và dạy xuyên suốt các chương trình của nhà trường ra đề bài, để
có thể dễ dàng kiểm tra xem GV có thực hiện đúng và có chất lượng trong giảng dạy
không. Nội dung và hình thức đề bài phải đảm bảo được việc ĐG cả hai bình diện:
kiến thức ngôn ngữ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ. Ngoài ra GV cũng có thể tự ra đề
kiểm tra theo kế hoạch riêng để tạo sự linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy, nhưng
hoạt động này cũng rất rời rạc.
Để ĐG thực trạng về hoạt động này, chúng tôi đưa ra bảng hỏi với 7 nội dung ở
4 mức độ: tốt, khá, trung bình, kém. Kết quả nghiên cứu thu được từ trường NNVA
như sau:
Bảng 2.13: Đánh giá về việc tổ chức kiểm tra, thi kết thúc cuối khoá của
trường NNVA.
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Đề thi, đề kiểm tra
sát với chương trình
3,782 0,421 1 3,653 0,546 2 1,221 0,270
- Tăng cường thời
gian kiểm tra kỹ
năng của học viên
3,181 0,664 6 3,018 0,840 6 0,795 0,373
- Rút được kinh
nghiệm để nângcao
chất lượng dạy học
3,608 0,499 3 3,454 0,646 4 1,250 0,264
- Thường xuyên cập
nhật đề kiểm tra,đề
thi cho các cấp lớp
3,391 0,499 5 3,389 0,714 5 0,000 0,989
- Quy định ngày
kiểm tra và ngày thi
hợp lý so với thời
gian học trong khóa
3,695 0,558 2 3,720 0,561 1 0,043 0,836
- Số lượng HV dự
thi cuối khóa
3,136 0,560 7 2,978 0,704 7 1,052 0,306
- Tổ chức nghiêm túc
các buổi kiểm tra và
3,565 0,506 4 3,484 0,660 3 0,331 0,565
thi cuối khóa
Qua kết quả bảng 2.13 cho thấy
_ Sự ĐG của GV và HV về 7 nội dung trên đều là tốt, nhưng sự sắp xếp thứ bậc
thì không giống nhau ở các nội dung sau: đề thi, đề kiểm tra sát với chương trình (
GV xếp thứ bậc 1, còn HV thì ở thứ bậc 2), quy định ngày kiểm tra và ngày thi hợp lý
so với thời gian học trong khóa (GV xếp thứ bậc 2, còn HV là thứ bậc1), rút được
kinh nghiệm để nâng cao chất lượng dạy học (GV xếp thứ bậc 3, HV thì xếp thứ bậc
4 ), tổ chức nghiêm túc các buổi kiểm tra và thi cuối khóa ( GV xếp ở thứ bậc 4, còn
HV thì xếp thứ bậc 3), tuy nhiên sự khác nhau này không có sự khác biệt có ý nghĩa
về mặt thống kê (căn cứ vào F và có P > 0,05). Còn 3 nội dung còn lại đồng xếp thứ
bậc như nhau: thường xuyên cập nhật đề kiểm tra, đề thi cho các cấp lớp (thứ bậc 5),
tăng cường thời gian kiểm tra kỹ năng của HV (thứ bậc 6), số lượng HV dự thi cuối
khóa (thứ bậc 7).
Điều này có thể khẳng định trường NNVA đã có nhận thức tốt và đúng đắn
trong hoạt động QL việc tổ chức kiểm tra từng giai đoạn và thi kết thúc cuối khóa.
Tuy nhiên qua đó ta cũng thấy đối với những GV thiếu nhiệt tình, việc tăng cường
kiểm tra đôi khi để họ phải dạy chứ không có mục đích để điều chỉnh hoạt động dạy
và học có hiệu quả hơn. Vì thế GV cần được bồi dưỡng để cải tiến PP giảng dạy
nhằm tăng cường thời gian kiểm tra kỹ năng của HV, nhằm tạo thói quen thực hành
ngôn ngữ, đây cũng là đặc trưng của việc dạy và học ngoại ngữ. Đồng thời cần phải
quan tâm tìm ra biện pháp để thu hút HV tham dự đầy đủ các bài thi cuối khóa.
2.2.4.6. Quản lý việc đánh giá kết quả học tập cuối khoá, cuối cấp
độ và cấp phát chứng chỉ ở trường NNVA.
Trường NNVA căn cứ vào yêu cầu của Bộ GD - ĐT về trình độ ở mỗi cấp độ A,
B, C để xây dựng kế hoạch và chuẩn đánh giá kết quả học tập cuối khoá và cuối cấp
độ bằng điểm số, thống nhất về các yêu cầu cần đạt được của người học qua các tiêu
chuẩn cụ thể, rõ ràng, khách quan theo thang điểm đối với đề thi, đề kiểm tra nhằm
ĐG đúng trình độ nắm vững các kỹ năng hoạt động giao tiếp của HV.
Để ĐG được kết quả học tập sau mỗi khóa học, HV sẽ phải tham dự ba bài thi
kết thúc cuối khóa thông qua 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc và viết. Nội dung các bài thi
phải bám sát các tiêu chí đã đề ra trong chương trình đối với cả ba trình độ A, B, C
để đảm bảo được việc ĐG đúng năng lực sử dụng ngôn ngữ của HV. Những tiêu
chuẩn chủ yếu để ĐG 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết đã được thống nhất cụ thể như
sau:
_ Về kỹ năng nghe: Chuẩn ĐG là độ chính xác trong việc hiểu nội dung và độ
nhanh nhạy trong việc nghe lời nói thường. Các yêu cầu cụ thể ở mỗi trình độ như
sau:
+ Trình độ A: HV phải có khả năng hiểu được những câu nói nêu thông tin
ngắn và nhận diện được những thông tin cần thiết, có khả năng hiểu được ý nghĩa của
một cuộc hội thoại đơn giản về những chủ đề quy định trong chương trình.
+ Trình độ B: Trên cơ sở ở trình độ A, HV được yêu cầu cao hơn là người
nghe phải hiểu được những thông báo, những công bố đơn giản. Người nghe nhiều
khi phải yêu cầu người nói nhắc lại.
+ Trình độ C: HV phải có khả năng hiểu được những cuộc hội thoại trực
diện, ở tốc độ khoảng 150 từ/ phút.
_ Về kỹ năng nói : Chuẩn ĐG là độ chính xác về nội dung diễn đạt, phong phú
về ngôn ngữ, nói lưu loát, đúng ngữ điệu, phát âm chính xác.
+ Trình độ A: HV phải có khả năng tự biểu đạt ý mình muốn nói trong quá
trình giao tiếp: hiểu câu hỏi và tạo ra những hồi đáp thích hợp.
+Trình độ B: HV phải có khả năng hình thành câu hỏi cần thiết trong giao tiếp
bằng lời nói, những cuộc hội thoại về những chủ đề đã học.
+ Trình độ C: HV phải có khả năng đáp ứng những nhu cầu xã hội thông
thường & đáp ứng một cách còn hạn chế các yêu cầu về công việc.
_ Về kỹ năng đọc: Chuẩn ĐG là độ chính xác và đầy đủ trong việc hiểu nội
dung, phát âm chính xác, đúng ngữ điệu.
+Trình độ A: HV phải có khả năng đọc hiểu được những yết thị, ký hiệu, ngôn
ngữ nói về thời gian, không gian, sở hữu, những tài liệu cung cấp thông tin đơn giản
trong những chủ đề đã quy định.
+ Trình độ B: HV phải có khả năng đọc hiểu được những bài viết đơn giản phục
vụ cho việc nắm bắt thông tin, quảng cáo, bài báo. Có khả năng phán đoán nghĩa từ,
câu trong văn cảnh cụ thể.
+ Trình độ C: HV có khả năng đọc hiểu được hầu hết thông tin, nhưng chưa có
khả năng phát hiện giá trị và thái độ của tác giả bài viết.
_ Về kỹ năng viết : Chuẩn ĐG là độ chính xác và sâu rộng về nội dung bài viết,
phong phú về từ vựng, đúng cấu trúc ngữ pháp.
+Trình độ A: HV phải có khả năng viết thư đơn giản, lời hỏi thăm, chúc tụng
bằng bưu ảnh, miêu tả người , nơi chốn, vật thể, kể lại sự kiện.
+Trình độ B: HV phải có khả năng viết một đoạn ngắn khoảng 80 -120 từ về
những chủ đề quen thuộc: ăn ở, nhà cửa, du lịch …. Có khả năng viết thư hoặc một
bưu thiếp.
+Trình độ C: HV phải có khả năng viết một cách hạn chế về những sự kiện xẩy
ra trong xã hội, tự diễn đạt ý tưởng và sự quan sát của mình.
Kết thúc ở mỗi cấp độ A, B, C HV sẽ được tổ chức tham dự các kỳ thi CCQG
theo lịch thi do SGD & ĐTTPHCM tổ chức và cấp CC để ĐG trình độ, thường kỳ
mỗi tháng một lần và luân phiên cho các cấp độ. Việc này rất quan trọng vì hầu hết
HV khi theo học đều muốn có CC chứng nhận khả năng và trình độ ngoại ngữ của
họ, do đó các nhà QL thường tập trung cao độ vào việc này.
Tiến hành khảo sát thực trạng QL việc ĐG kết quả học tập cuối khoá, cuối cấp
độ và cấp phát CC chúng tôi đã đưa ra 6 tiêu chí và ĐG ở 4 mức độ, kết quả thu
được như sau:
Bảng 2.14: Đánh giá việc QL đánh giá kết quả học tập cuối khoá, cuối
cấp độ, và cấp phát chứng chỉ cho HV ở trường NNVA.
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Đánh giá đúng chất
lượng học tập của
học viên
3,391 0,656 3 3,376 0,636 4 0,011 0,916
- Đánh giá được kỹ
năng nghe
3,136 0,639 6 3,144 0,755 6 0,003 0,959
- Đánh giá được kỹ
năng nói
3,409 0,666 2 3,293 0,699 5 0,560 0,455
- Đánh giá được kỹ
năng đọc
3,227 0,611 5 3,398 0,639 3 1,475 0,226
- Đánh giá được kỹ
năng viết
3,272 0,631 4 3,452 0,651 2 1,563 0,212
- Quản lý việc phát
chứng chỉ do SGD-
ĐT cấp
3,869 0,344 1 3,740 0,487 1 1,540 0,216
Qua kết quả bảng 2.14 cho ta thấy:
_ GV và HV cùng ĐG 6 nội dung trên là tốt, sự sắp xếp thứ bậc có sự lệch nhau
nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (căn cứ vào F & có P >
0,05): QL việc phát CC do SGD-ĐT cấp (đồng xếp thứ bậc 1), ĐG được kỹ năng nói
(GV xếp thứ bậc 2, còn HV xếp thứ bậc 5), ĐG đúng chất lượng học tập của HV (GV
xếp thứ bậc 3, còn HV xếp thứ bậc 4), ĐG được kỹ năng viết (GV xếp thứ bậc 4, còn
HV xếp thứ bậc 2), ĐG được kỹ năng đọc (GV xếp thứ bậc 5, còn HV xếp thứ bậc 3),
ĐG được kỹ năng nghe (đồng xếp thứ bậc 6).
Như vậy GV và HV đều thống nhất “đánh giá được kỹ năng nghe” là ở thứ
bậc 6, điều này cũng có nghĩa là kỹ năng nghe là kỹ năng yếu nhất của HV. Sự yếu
kém này có nhiều nguyên nhân, tuy nhiên vẫn còn tình trạng một số GV chưa nghiêm
túc trong lúc coi thi, chấm bài còn qua loa, không làm hết bổn phận. Việc ĐG, nhận
xét còn sơ sài ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của HV. Họ thật sự chưa
nhận thức được việc ĐG kết quả thiếu chính xác sẽ tạo nên sản phẩm là những HV
không đủ trình độ, thiếu năng lực. Hay nói cách khác, việc ĐG kết quả học tập của
HV chính là cái mốc mà người học cũng như người dạy phải cùng nhau vượt qua để
đi tới một mốc cao hơn, khó hơn. Đó cũng là một chuẩn để người học từ đó xây
dựng cho mình một kế hoạch tự học tối ưu. Nên cũng cần phải suy nghĩ thêm để có
biện pháp cải tiến về điều này.
2.2.4.7. Quản lý cơ sở vật chất phục vụ dạy và học
CSVC phục vụ dạy và học là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo cho quá trình
dạy học đạt kết quả, phải chú ý bảo quản tốt, bố trí khoa học và có kế hoạch sử
dụng tốt đồ dùng dạy học. CSVC phục vụ dạy và học bao gồm nhiều loại: phòng học,
bàn ghế, bảng, băng đĩa, và các trang thiết bị kỹ thuật, sách báo tư liệu, đồ dùng dạy
học…. Trường NNVA gồm có 07 phòng học, khu vực hành chính, phòng hiệu
trưởng, GV và khu vực gửi xe. Ưu điểm lớn của nhà trường là luôn chú ý đến việc
cung cấp đầy đủ các thiết bị phục vụ cho việc dạy và học như: máy photocopy, máy
cassette, máy vi tính, máy in, máy chiếu, máy ghi âm, băng đĩa, băng video, tài liệu
tham khảo, sách hướng dẫn cho GV đầy đủ. Phòng học đảm bảo tốt về bàn ghế, ánh
sáng, vệ sinh và môi trường sư phạm. Để ĐG về thực trạng quản lý CSVC, chúng tôi
đã xây dựng bảng câu hỏi với những nội dung liên quan, và bảng thống kê sau đây
thể hiện kết quả ĐG của GV và HV ở trường NNVA.
Bảng 2.15: Đánh giá quản lý về cơ sở vật chất của trường NNVA.
Điểm trung bình: 2,5
Giáo viên Học viên Nội dung đánh giá
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
Trung
bình
Độ lệch
TC
Thứ
bậc
F P
- Chú trọng trang bị
cơ sở vật chất
3,652 0,487 1 3,205 0,710 4 8,728 0,003
- Thiết bị phục vụ cho
việc dạy và học
3,347 0,487 4 3,310 0,703 2 0,062 0,804
- Băng từ, tài liệu
tham khảo,sách
hướng dẫn cho giáo
viên đầy đủ
3,652 0,487 1 3,512 0,731 1 0,804 0,371
- Phòng học đảm
bảo tốt về bàn ghế,
ánh sáng,vệ sinh,
môi trường sư phạm.
3,652 0,487 1 3,310 0,757 2 4,516 0,034
Bảng 2.15 cho thấy:
_ GV và HV cùng ĐG các nội dung trên là tốt. Nhưng GV xếp đồng thứ bậc 1
cho cả 3 nội dung sau: chú trọng trang bị CSVC ( HV xếp thứ bậc 4); băng từ, tài liệu
tham khảo,sách hướng dẫn cho giáo viên đầy đủ ( HV cũng xếp ở thứ bậc 1); và
phòng học đảm bảo tốt về bàn ghế, ánh sáng,vệ sinh, môi trường sư phạm ( HV xếp ở
thứ bậc 2); còn nội dung: thiết bị phục vụ cho việc dạy - học thì ở thứ bậc 4 (trong
khi HV xếp ở thứ bậc 2).
So sánh đánh giá giữa GV và HV ta thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt
thống kê ở hai nội dung: chú trọng trang bị CSVC (F:8,728 & P: 0,003), và phòng
học đảm bảo tốt về bàn ghế, ánh sáng, vệ sinh, môi trường sư phạm (F: 4,516 & P: 0,
034). Không có sự khác biệt có ý nghĩa ở hai nội dung còn lại (căn cứ vào F và có P
> 0,05). Từ kết quả trên có thể nói, mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của nhà trường
trong việc đầu tư CSVC để có thể phục vụ tốt việc dạy và học, thì so với nhu cầu
thực tế vẫn chưa đá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVQLGD012.pdf