Luận văn Quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Tài liệu Luận văn Quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi: LUẬN VĂN: Quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử phát triển của các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) luôn luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp (DN) có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại càng được chú trọng. ở nước ta, DNVVN cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc dân, do tiềm năng còn lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Trong 16 năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ, tăng trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài,... Kết quả đó có sự đóng góp của các DNVVN. Vì vậy, ...

pdf115 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1097 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử phát triển của các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) luôn luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp (DN) có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại càng được chú trọng. ở nước ta, DNVVN cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc dân, do tiềm năng còn lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Trong 16 năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ, tăng trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài,... Kết quả đó có sự đóng góp của các DNVVN. Vì vậy, DNVVN ngày càng được coi trọng. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa chỉ rõ: "Chú trọng phát triển các DNVVN...". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 cũng nhấn mạnh: "Phát triển mạnh các DNVVN... ". Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ năm 1989 sau gần 14 năm hợp nhất với tỉnh Bình Định (từ 11/1975 đến 7/1989), là một tỉnh nghèo, với gần 90% dân số sống ở nông thôn, lại chủ yếu sống bằng nghề nông và ở mức sống thấp, lao động nhàn rỗi và dư thừa nhiều (tỷ lệ thất nghiệp chung khoảng 2,64%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị: 5,74%)... Song bên cạnh đó Quảng Ngãi lại có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế: về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền thống, có khu công nghiệp Dung Quất, có nhiều nhà máy lớn, có lực lượng lao động dồi dào,... Vì vậy, việc phát triển và phát huy tiềm lực của các DNVVN trên địa bàn tỉnh là rất cần thiết bởi nó sẽ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh. Muốn vậy, đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh để từ đó tìm ra định hướng, giải pháp phát triển DNVVN trên địa bàn, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi trong những năm tới. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm gần đây, những vấn đề liên quan đến mô hình DNVVN luôn được nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Điều đó có thể thấy rõ qua khối lượng các tài liệu về chuyên đề này rất dồi dào, đa dạng được công bố hầu như hàng ngày, hàng tuần, từ các luật lệ của Chính phủ, các chiến lược, chương trình phát triển DNVVN của quốc gia, đến các sách hướng dẫn, các công trình nghiên cứu và các bài báo về DNVVN. Có thể nêu một số công trình và tài liệu chủ yếu như sau: - Định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. - Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Dự án US/VIE/95/007 "Hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" do UNIDO tài trợ. - Dự án "Chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Cúc - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ dự án. - PGS.TS Nguyễn Cúc (chủ biên), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - Vương Liêm - Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội, 2000. - Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hà, Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2001 v.v... Tuy vậy, vấn đề DNVVN đối với cả nước ta và đối với tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn là vấn đề mới, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 - 2010 và thực hiện đường lối CNH, HĐH do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra thì việc nghiên cứu DNVVN vẫn là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đối với địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chưa có tác giả, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu về DNVVN. Đây là vấn đề lớn, mới mẻ và có ý nghĩa thiết thực đối với tỉnh, đang đòi hỏi cần có những đầu tư nghiên cứu cụ thể, có hệ thống. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn đi sâu nghiên cứu, học hỏi những vấn đề về lý luận, đồng thời tiến hành tổng hợp số liệu kết hợp với quá trình khảo sát thực tiễn trên địa bàn, để từ đó đề xuất ý kiến của mình về phát triển DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu - Mục đích: Luận văn hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển của DNVVN, cũng như luận giải rõ vai trò của DNVVN trong nền kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát triển DNVVN có hiệu quả, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. - Nhiệm vụ: Thứ nhất, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, phân tích thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Thứ ba, nêu những quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. - Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề DNVVN là vấn đề rộng và phức tạp, tồn tại trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung chủ yếu phân tích thực trạng của các DNVVN trong công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn tỉnh, từ đó đề xuất các giải pháp để phát triển DNVVN trên địa bàn. Luận văn không đề xuất các giải pháp để phát triển DNVVN trong từng ngành cụ thể cũng như trong từng DN cụ thể. Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1996 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kế thừa một cách có chọn lọc, hợp lý các công trình nghiên cứu có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,... để phân tích đối tượng nhằm đạt được mục đích luận văn đề ra. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận của DNVVN, trên cơ sở phân tích rõ thực trạng của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở nhiều khía cạnh, luận văn sẽ mang lại một bức tranh tổng quát, toàn diện về DNVVN trên địa bàn, về những kết quả đạt được, về những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Từ đó đề xuất được các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển DNVVN trong quá trình CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các cơ quan nghiên cứu, các ban ngành liên quan của tỉnh Quảng Ngãi tham khảo để hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn trong việc khuyến khích phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo và các lớp tập huấn cho cán bộ quản lý kinh tế của tỉnh. 7. Kết cấu luận văn Ngoài ra mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1. Sự phát triển lý luận và quan điểm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 1.1.1. Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam - Tính tất yếu khách quan của sự phát triển của DNVVN ở Việt Nam Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, DNVVN ra đời sớm hơn DN lớn. Tiền thân của các DNVVN là các hộ gia đình sản xuất tự cung tự cấp. DNVVN không chỉ là một phạm trù phản ánh độ lớn của DN mà là một phạm trù bao hàm nội dung tổng hợp về kinh tế tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tiến bộ khoa học - công nghệ. DNVVN tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan phù hợp với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ, tính chất phát triển của lực lượng sản xuất. Lịch sử ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa gắn với sự hình thành và phát triển của các DN. Nền sản xuất hàng hóa xuất hiện khi sự phân công lao động đạt đến một trình độ nhất định, cùng với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được xác lập. Trong giai đoạn tiền sử (Các Mác gọi là sản xuất hàng hóa giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và giới thợ. Người sản xuất hàng hóa vừa là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của mình (gia đình mình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi thị trường. Đó là loại DN cá thể, DN gia đình. Trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD), có một số người gặp một số vận may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, biết cách điều hành tổ chức công việc,... để thành đạt, ngày càng giàu lên, tích lũy vốn, mở rộng được quy mô SXKD và do đó cần phải thuê thêm người làm và trở thành ông chủ. Ngược lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hóa nhỏ khác thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu sản xuất, đi làm thuê cho người khác. Theo các nhà kinh tế học hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Bắt đầu sự nghiệp với số vốn ít ỏi của mình phần lớn họ đều thành lập DN nhỏ chỉ của riêng mình, tự SXKD. Trong quá trình kinh doanh của mình, một số người thành đạt đã phát triển DN của mình bằng cách mở rộng quy mô SXKD và như vậy, nhu cầu về vốn đòi hỏi sẽ nhiều hơn. Từ đó, thôi thúc các nhà DN hoặc là vài ba người cùng nhau góp vốn liên doanh thành lập xí nghiệp liên doanh, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần (CTCP), bằng cách thành lập "liên kết dọc", "liên kết ngang"... để phát triển DN. Các DN lớn ra đời phát triển từ các DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các DN lớn, nhỏ tạo thành. Ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão và tác động sâu sắc tới sự thay đổi của sản xuất, quản lý và đời sống thì DNVVN cũng có sự thay đổi về chất so với DNVVN của các thế kỷ trước: có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao,.. DNVVN không phát triển rời rạc mà gắn bó và "nấp dưới bóng" của các DN lớn. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, mô hình DNVVN ngày càng được mở rộng và phổ biến không chỉ ở các nước công nghiệp phát triển mà cả ở những nước đang phát triển và kém phát triển. Vì thế, dù mang cái tên rất khiêm tốn "vừa và nhỏ" song sức sống và vai trò của nó thật sự không nhỏ. - Sự ra đời của các DNVVN ở Việt Nam Theo các tài liệu lịch sử, DNVVN ở Việt Nam đã được hình thành cùng với quá trình ra đời nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn. Những nghề và làng nghề thủ công truyền thống quan trọng, nổi tiếng phần lớn đã ra đời từ rất lâu, vài trăm đến hàng nghìn năm ở đồng bằng sông Hồng rồi sau đó lan ra cả nước. Hình thành tổ chức SXKD của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa, vừa mang tính chất sáng tạo nghệ thuật. Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, nghề thủ công truyền thống vẫn được tiếp tục tồn tại và phát triển. Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa (TBCN), các DNVVN đã được hình thành. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và đất nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, các DNVVN vẫn phát triển. Vùng bị tạm chiếm, nhiều chủ DN chủ yếu ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn... bỏ vốn ra kinh doanh. Trong vùng tự do, chính quyền cách mạng thành lập các DN để sản xuất các mặt hàng phục vụ kháng chiến và đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đồng thời khuyến khích nhân dân lập xưởng sản xuất sản phẩm phục vụ tiêu dùng. Các DNVVN ở vùng tự do đã có tác dụng to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bộ đội, nhân dân và phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đến thắng lợi vẻ vang. Từ năm 1954 đến năm 1975, các DNVVN ở hai miền Bắc - Nam phát triển theo hai đường lối, cơ chế khác nhau. ở miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), hàng loạt xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn ra đời, đồng thời các xí nghiệp quốc doanh của cấp huyện được phát triển mạnh, còn DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xóa bỏ. ở miền Nam, một mặt các cơ sở công nghiệp lớn, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Đà Nẵng, Sài Gòn,... được phát triển, mặt khác các DNVVN chủ yếu thuộc sở hữu tư nhân cũng ra đời và phát triển mạnh. Từ năm 1975 - 1985, các DNVVN ở miền Nam hoặc là bị quốc hữu hóa, hoặc được cải tạo, xóa bỏ. DNVVN ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển, phải hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác xã (HTX), công tư hợp doanh,... Nói chung, ở thời kỳ này các DNVVN ở hai miền được phát triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, số lượng DNVVN chưa nhiều và tồn tại dưới hai loại hình: xí nghiệp quốc doanh, HTX. Sau năm 1986, nhờ tác động của các chủ trương và chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại và lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình ra đời, phát triển. - Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam Nhìn lại quá khứ, chúng ta nhận thấy, trên thực tế các DNVVN ở nước ta đã ra đời, tồn tại cách đây hàng trăm, nghìn năm. Song trước đây do chúng ta quan niệm và vận dụng máy móc chế độ sở hữu, chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, coi nhẹ việc sử dụng kinh tế ngoài quốc doanh, muốn xóa bỏ nhanh kinh tế tư nhân, cá thể (hầu hết là DNVVN) nên Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp nhằm hạn chế tối đa sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Có thể nói, về mặt nhận thức, chúng ta không chính thức thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Từ đó làm cho bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh phát triển rất thấp, không tương xứng với tiềm năng của nó trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế Việt Nam liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng trầm trọng. Để khắc phục khủng hoảng kinh tế, bắt nguồn từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trên phạm vi toàn quốc, trong đó đổi mới kinh tế được chú trọng đặc biệt, sự đổi mới kinh tế này đã tạo ra những cơ sở pháp lý, chính trị và kinh tế cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam, bao gồm khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân). Nhờ đó, hàng loạt các DN (chủ yếu là DNVVN) đã được hình thành, phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế thì DNVVN còn gặp nhiều khó khăn trong SXKD, chưa phát huy được hết tiềm năng của mình bởi nhiều nguyên nhân: do bản thân của các DN, do hiểu biết về loại hình DN này còn nhiều hạn chế,... Mặt khác, các chuyên gia cùng nhận định, khu vực DNVVN ở Việt Nam sẽ trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Chính vì vậy, đòi hỏi cần phải tiến hành nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về DNVVN, để từ đó tạo điều kiện cho các DNVVN phát huy hết khả năng của mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Việc nghiên cứu loại hình DNVVN đã được Nhà nước quan tâm và được các tổ chức của nhiều nước trên thế giới ủng hộ, hỗ trợ. Nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa phương đã tiến hành nghiên cứu về DNVVN: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng Liên minh các HTX Việt Nam, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO), Trung tâm kinh tế châu á - Thái Bình Dương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh... Ngay từ những năm 1990, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã tiến hành hai cuộc hội thảo về DNVVN có sự tài trợ của Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó tiến hành khảo sát 135 DNVVN ở tỉnh Hà Bắc. Năm 1991, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) cùng với Trung tâm xúc tiến việc làm châu á (ARTEP- ILO) và các cộng tác của trường Đại học kinh tế Stockholm (Thụy Điển) đã tiến hành khảo sát điều tra 1.000 DN nhỏ ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú, Quảng Ninh, Long An (theo chương trình của dự án VIE 90/MO). Năm 1993, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội phối hợp với Viện Khoa học lao động Nhật Bản thực hiện cuộc khảo sát 300 DNVVN ở Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam - Đà Nẵng... Việc nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam cũng được thuận lợi bởi Việt Nam trong những năm qua liên tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế. Trước hết, Việt Nam tiếp nhận nhiều dự án phát triển DNVVN của Liên Hợp Quốc như dự án VIE/86- 054 về đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho các DNVVN, Liên minh châu Âu (EU) - Việt Nam xây dựng "Quỹ phát triển các DNVVN", năm 1996 Viện FRIEDRICH EBERT của Cộng hòa Liên bang Đức hợp tác với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tài trợ cho dự án: "Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam", năm 1997 Công ty Tài chính quốc tế chuyên trách khu vực tư nhân thuộc Ngân hàng Thế giới xây dựng "Chương trình dự án Mê Kông MPDF" nhằm thành lập và phát triển DNVVN khu vực tư nhân cho ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Các nước Vương quốc Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... đã cử chuyên gia, giúp tư vấn cũng như tài trợ về vốn cho khảo sát, lập quỹ bảo lãnh tín dụng,... để nghiên cứu và phát triển DNVVN ở Việt Nam. Có thể nói, mặc dù thời gian nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam chưa nhiều song được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trên thế giới, quá trình nghiên cứu này đã thu hút được nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia trong nước và ngoài nước tham gia, do đó hàng loạt các tài liệu, các sách hướng dẫn, các bài báo, các công trình nghiên cứu về DNVVN được công bố. Các vấn đề về lý luận và thực tế liên quan đến DNVVN đều được đưa ra nghiên cứu và ngày càng sáng tỏ: khái niệm, tiêu chí xác định, ý nghĩa của DNVVN ở Việt Nam, các chính sách liên quan đến DNVVN,... Song vì đây là vấn đề nghiên cứu rất rộng và phức tạp, nên quá trình nghiên cứu về DNVVN vẫn luôn là vấn đề cấp thiết, luôn cần sự quan tâm của các nhà khoa học để từng bước tháo gỡ những vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển, khai thác tốt tiềm năng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. 1.1.2. Những vấn đề lý luận đã đạt được về DNVVN ở Việt Nam Như đã trình bày phần trên, việc nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam mặc dù chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn so với thực tế tồn tại DNVVN ở Việt Nam, song kết quả đạt được rất lớn, hàng loạt các vấn đề về DNVVN ở Việt Nam đã được làm sáng tỏ. Cụ thể: - Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu đã hình thành khái niệm DNVVN, thuật ngữ DNVVN bước đầu đã đi vào cuộc sống, đi vào các tài liệu khoa học, các văn kiện của Đảng và Nhà nước. - Từng bước hoàn chỉnh định nghĩa về DNVVN. Mỗi cơ quan nghiên cứu đều đưa ra định nghĩa về DNVVN. Trên cơ sở những định nghĩa đó, trong Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa DNVVN ở Việt Nam: DNVVN là các cơ sở SXKD, đã ĐKKD theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa thì DNVVN ở Việt Nam bao gồm: + Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DN. + Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DNNN. + Các HTX thành lập và hoạt động theo Luật HTX. + Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh (ĐKKD). - Khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. - Phân tích làm rõ những ưu thế, hạn chế cũng như khuyết điểm của các DNVVN. - Xác định những điều kiện kinh tế - xã hội cũng như vai trò quản lý của Nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ đối với sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả của các DNVVN. - Nghiên cứu hình thành và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô cũng như các chính sách hỗ trợ để phát triển DNVVN. Với kết quả đạt được của quá trình nghiên cứu, đặc biệt là với sự ra đời của Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN đã làm thay đổi quan niệm của các cấp ủy Đảng và Nhà nước cũng như nhận thức của mọi người nói chung về loại hình DNVVN, từ chỗ không chấp nhận sự tồn tại, phân biệt đối xử, kỳ thị,... đến chỗ thừa nhận, khuyến khích hỗ trợ DNVVN phát triển. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhiều kiến nghị, giải pháp được trình bày cho các nhà hoạch định chính sách, cho Chính phủ, tạo cơ sở ban hành những chính sách nhằm khuyến khích phát triển DNVVN. Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đứng trước tình hình biến đổi phức tạp và sôi động của đời sống kinh tế - xã hội nhiều vấn đề mới đối với DNVVN tiếp tục phát sinh, đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH. 1.1.3. Những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về DNVVN Trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, các DN có quy mô vừa và nhỏ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, song trong từng giai đoạn khác nhau sự quan tâm, tạo điều kiện cũng khác nhau bởi sự khác nhau về quan điểm đối với loại hình DN này. - Giai đoạn từ 1986 trở về trước Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta quan niệm về chế độ sở hữu XHCN gồm hai bộ phận quốc doanh và tập thể, còn kinh tế tư nhân thuộc diện cải tạo. Xét về quy mô, cả quốc doanh và tập thể đều là loại vừa và nhỏ, nhất là các HTX tiểu thủ công nghiệp, nhưng chưa có khái niệm về DNVVN. - Giai đoạn từ 1986 đến nay Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết Đại hội VI khẳng định: cùng với việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cần sử dụng khả năng tích cực của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, mở rộng nhiều hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi và bình đẳng trước pháp luật. Đường lối này lại được củng cố thêm ở Đại hội Đảng VII, VIII, IX, các văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội này đều nêu rõ chủ trương xuyên suốt là thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là các bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó các DN thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào kinh doanh đúng pháp luật, theo định hướng chung của Nhà nước đều được khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ DNVVN bắt đầu du nhập vào nước ta, cũng có ý kiến cho rằng, đây là loại hình kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Nhưng qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng, sự tồn tại của DNVVN là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Từ đó, đã tác động lớn đến quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với DNVVN. DNVVN không còn coi là phụ trợ như trước, mà giờ đây là công cụ hữu hiệu, là nhà thầu phụ quan trọng cho các DN lớn góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nhấn mạnh: "Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả" [10, tr. 28]. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa" [12, tr. 27]. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để từng bước hình thành hệ thống thể chế chính sách khuyến khích phát triển DNVVN. Có thể kể ra đây những văn bản quan trọng như: + Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo quy định của pháp luật, công nhận quyền được đối xử của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. + Nghị định 66-HĐBT ngày 2-3-1992 của Hội đồng Bộ trưởng về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn mức vốn pháp định quy định trong Nghị định 221- HĐBT ngày 23-7-1991 + Luật Công ty và Luật DN tư nhân 1990 quy định khung pháp luật cho các DN này hoạt động, tham gia thị trường trong nước và ngoài nước. + Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và năm 2001 đã quy định các DN có quyền hợp pháp về sử dụng đất, có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất. + Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 quy định rõ những chính sách ưu đãi cho các dự án kinh doanh thuộc các ngành nghề, các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn cần được ưu đãi. + Luật HTX năm 1996 nhằm để phát huy vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX. + Nghị định số 15/CP-1997 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển HTX. + Luật Thuế thu nhập DN năm 1997 đơn giản hóa và thực hiện thống nhất một sắc thuế thu nhập cho các loại hình kinh doanh trong nước. + Luật Thuế giá trị gia tăng - một sắc thuế giản đơn, công bằng thay thế Luật Thuế doanh thu. + Luật Thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại của các DN. + Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và Nghị định số 51 (7/1999) cụ thể hóa việc thực hiện luật đó, đã đề ra khá nhiều chính sách cụ thể áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức SXKD, kể cả cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT (nay là Nghị định 02/2000/QĐ-TTg ngày 03-02-2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh). + Luật DN năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2000) quy định việc tổ chức hoạt động của bốn loại hình DN: công ty TNHH, CTCP, DNTN, công ty hợp danh, trên cơ sở hợp nhất Luật Công ty và Luật DNTN trước kia. + Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. + Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về xuất, nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một cơ chế 5 năm thay cho cơ chế hàng năm trước đây, giảm bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế. + Các chính sách về tín dụng ngân hàng cho đầu tư phát triển như Quyết định 67/1997/QĐ-TTh, Nghị định 43/1999/NĐ-CP... + Đặc biệt là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN. Rõ ràng là, trải qua 16 năm đổi mới của Đảng, thể chế kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ thống các chính sách theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành, tuy chưa thật sự hoàn chỉnh, song hệ thống chính sách hiện hành này đã bao quát hầu hết các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của DNVVN như: chính sách về hành nghề và tạo lập DN, chính sách về thuế, chính sách về vốn và tín dụng, chính sách thương mại, chính sách đất đai, chính sách công nghệ,... Nhờ hệ thống chính sách này mà kinh tế dân doanh bước đầu bùng nổ, mọi lực lượng sản xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của nền kinh tế nước ta, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Một ví dụ nổi bật, là từ khi Luật DN có hiệu lực thi hành, chỉ riêng năm 2000 đã có thêm 13.891 DN mới ĐKKD, năm 2001 thêm 22.945 DN, 6 tháng đầu năm 2002 thêm khoảng 11.000DN nhưng đáng chú ý nhất là số DN mới này đã giải quyết được thêm 1 triệu lao động mới có việc làm (khoảng 30% số lao động mới) (chưa kể hơn 300.000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký thu hút khá nhiều lao động) [21, tr. 62]. Song, như trên đã trình bày, đây là hệ thống chính sách chung cho DN chứ chưa phải là hệ thống chính sách riêng đối với DNVVN (trừ Nghị định 90), vì thế mà cơ chế, chính sách đối với DNVVN còn nhiều sơ hở, chồng chéo, thậm chí thiếu nhất quán. Trong hệ thống chính sách đã đưa ra các quan điểm bình đẳng nhưng trong thực tế điều hành thì vẫn còn có sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các loại hình DN. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu và ban hành các chính sách phù hợp với đặc điểm DNVVN, nhất là trong tình hình hiện nay. 1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta 1.2.1. Tình hình phát triển DNVVN trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam Trước năm 1986, DNVVN ngoài quốc doanh nói chung, DNTN, cá thể nói riêng chưa thật sự được quan tâm khuyến khích phát triển, do vậy họ phải tổ chức hoạt động núp bóng dưới các hình thức như tổ hợp, hộ gia đình, HTX, xí nghiệp công tư hợp doanh... Từ năm 1986 đến nay, quan điểm, đường lối, chủ trương mới về chính sách cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý dẫn đến sự thay đổi cơ bản hệ thống DN trong nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế được chính thức thừa nhận và khuyến khích phát triển. Từ đó hàng loạt các DN, nhất là các DN ngoài quốc doanh (trong đó phần lớn là DNVVN) đã ồ ạt ra đời và phát triển. Trong thời kỳ đổi mới số lượng DN của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn: số lượng DNNN giảm liên tục, từ 12.300 DN năm 1990 sau ba đợt sắp xếp, đổi mới đã giảm xuống còn 5.655 DN (tháng 5/2001), giảm 55% về số lượng, chủ yếu là các DN nhỏ và do địa phương quản lý, số lượng DNVVN thuộc DNNN giảm từ 90% xuống còn 75% trong tổng số DNNN [2, tr. 7]. Trong khi đó thì số lượng DN trong khu vực kinh tế tư nhân tăng mạnh, nếu như năm 1991 chỉ có 123 DN (bao gồm DNTN, công ty TNHH, CTCP) đăng ký theo Luật, thì đến năm 1992 có 4.347 DN, năm 1993 là 12.131 DN, năm 1994 có 18.412 DN, năm 1998 có 28.708 DN, năm 1999 có 37.557 DN, đặc biệt từ khi Luật DN ra đời (01/01/2000) số lượng DN khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về tốc độ và vốn ĐKKD, năm 2000 có 51.448 DN (tăng 36,9%), năm 2001 có 74.393 DN (tăng 44,6%) và tính đến cuối tháng 6/2002 tổng số DN thuộc khu vực này đã lên đến 85.393 DN với số vốn ĐKKD bình quân là 970 triệu đồng/DN (năm 2000), 1,25 tỷ đồng/DN (năm 2001), 1,5 tỷ đồng/DN (6 tháng đầu năm 2002) [30, tr. 91] [21, tr. 62]. Hiện nay, qua các cuộc điều tra cho thấy DNVVN chiếm đến 95-98% số DN cả nước. DNVVN có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân, trong đó phần lớn tập trung vào các lĩnh vực chính: thương mại, dịch vụ sửa chữa, vận tải, công nghiệp chế biến, xây dựng,... và được phân bổ rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, thành thị đến vùng nông thôn. Hiện nay, DNNN đang trong giai đoạn tiếp tục xử lý, củng cố lại và tiến hành cổ phần hóa, cho thuê, bán cho các thành phần kinh tế khác theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX), đồng thời thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về việc tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, DNVVN sẽ có xu hướng và điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa. 1.2.2. Vai trò của các DNVVN trong thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta Về tiêu chí phân loại DNVVN, có những ý kiến khác nhau nhưng trong đánh giá về vai trò của DNVVN có thể nói là khá tập trung và thống nhất: DNVVN có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thể hiện qua các mặt sau đây: - Đóng góp vào việc tăng trưởng nền kinh tế Theo số liệu thống kê và đánh giá của các chuyên gia thì mỗi năm DNVVN đóng góp 25% - 26% GDP của cả nước [41]. Song trong những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của loại hình DNVVN này khả năng đóng góp vào GDP của cả nước ngày càng tăng. Trong năm 2000, tỷ trọng của khu vực kinh tế tập thể trong GDP là 8,5%, khu vực kinh tế tư nhân 32%, khu vực kinh tế hỗn hợp 3,9%, như vậy tổng của 3 khu vực trên chiếm khoảng 44,2% GDP của cả nước (mà đây là các khu vực DN tồn tại chủ yếu là DNVVN) [12, tr. 229]. Theo Tổng cục thống kê, năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân nộp Ngân sách 11.003 tỷ đồng, năm 2001 là 11.075 tỷ đồng, chiếm 14,8% tổng thu Ngân sách [21, tr. 62]. Do số lượng DNVVN tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xã hội. DNVVN góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế, đặc biệt trong việc phát triển ngành nghề truyền thống, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Việc phát triển DNVVN trong các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà hiện đang có xu hướng mai một dần, thu hút lao động nông thôn, phát huy lợi thế từng vùng để phát triển kinh tế, đồng thời đang là một thế mạnh của ta trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. - Tạo việc làm cho người lao động Khu vực DNVVN thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút một lượng lao động khá lớn, chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và bằng 22,5% lực lượng lao động cả nước, nhưng so với các nước trong khu vực (chiếm 50-60%) thì còn quá thấp [3, tr. 6]. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2000, cả nước có tới 1.447.000 người đang trong độ tuổi lao động không có việc làm, trong đó khu vực thành thị có 692.000 người, chiếm 48% và khu vực nông thôn có 755.000 người, chiếm 52%. Theo dự báo, từ năm 2000 đến năm 2010, mặc dù dân số có thể tăng chậm lại (từ 1,43% năm 1999 xuống 1,17% năm 2010) [48, tr. 247], nhưng nguồn lao động của nước ta vẫn tăng (đến năm 2010 có khoảng 56,8 triệu người trong độ tuổi lao động, tăng 11 triệu người so với năm 2000) [12, tr. 210]. Đây là cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng là thách thức rất lớn về giải quyết việc làm. Các DNVVN đang là nơi có triển vọng thu hút lao động rất lớn, là nơi có nhiều thuận lợi để tiếp nhận số lao động, nhất là lao động ở nông thôn tăng thêm mỗi năm, vì vậy, để thực hiện mục tiêu giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp đến năm 2010 còn 50% thì phải phát triển mạnh DNVVN. Đồng thời, DNVVN còn là nơi tiếp nhận số lao động từ các DNNN và DN có vốn đầu tư nước ngoài. Sở dĩ DNVVN có khả năng thu hút lao động lớn là vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở DNVVN thấp hơn rất nhiều so với DN lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. - Nâng cao thu nhập cho dân cư. Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp, do nền kinh tế phát triển chậm. Thu nhập của dân cư nông thôn (chiếm trên 80% tổng dân số) lại chủ yếu phụ thuộc vào nền nông nghiệp thuần nông, mà trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh nhưng nếu không có công nghiệp chế biến thì không thể làm giàu. Kết quả điều tra của các nhà nghiên cứu cho thấy, thu nhập của vùng dân cư có các DN phát triển gấp 4 lần thu nhập của các vùng dân cư thuần nông; thu nhập bình quân của lao động trong các DNVVN là 300.000đ - 400.000đ/tháng so với thu nhập của lao động nông thôn thuần nông là 100.000đ - 200.000đ/tháng. Do đó việc phát triển DNVVN là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hóa thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp ở các vùng trong nước. - Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn. Với sự góp mặt của các DNVVN làm cho số lượng các DN trong nền kinh tế tăng lên rất lớn, kéo theo sự tăng lên về chủng loại, mặt hàng, dịch vụ, phương thức phục vụ,... quá trình này làm tăng thêm mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế, người tiêu dùng được hưởng phần sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt hơn, giá cả rẻ hơn, phương thức phục vụ văn minh, tiện lợi hơn. Với quy mô nhỏ, vốn ít, sự thích nghi nhanh, các DNVVN có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, đổi mới công nghệ,... làm cho nền kinh tế năng động hơn. Ngoài ra các DNVVN còn có tác dụng hỗ trợ, làm chân rết cho các DN lớn kinh doanh có hiệu quả thông qua các hoạt động như làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp vật tư đầu vào, thâm nhập vào hết các ngóc ngách của thương trường mà các DN lớn không với tới được. - Thu hút vốn. Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình SXKD, nó có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng DN. Nhưng thực tế hiện nay đang có một nghịch lý là hầu hết các DN của ta đang thiếu vốn trầm trọng trong khi đó vốn nhàn rỗi trong dân cư còn rất lớn nhưng không thể huy động được cho SXKD. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường kinh doanh chưa ổn định, tính pháp lý chưa cao. Trong tình hình đó, chính các DNVVN với đặc điểm hình thành của nó gắn liền với các điều kiện thực tế của các dân cư nên dễ tiếp xúc trực tiếp với các nguồn vốn này để huy động vốn hoặc chính người chủ sở hữu vốn đầu tư vốn để trực tiếp kinh doanh. Thực tế cho thấy, các DNVVN đã huy động ngày càng nhiều vốn trong xã hội đầu tư vào SXKD. Năm 2000, chỉ tính riêng khu vực kinh tế tư nhân, vốn ĐKKD tăng gấp hơn 4,5 lần so với năm 1995, vốn đầu tư tăng 13% so với năm 1999, chiếm khoảng 24,3% tổng số vốn đầu tư xã hội. Tính đến tháng 3/2002 vốn đăng ký của khu vực kinh tế tư nhân đã lên tới 55.000 - 60.000 tỷ đồng, tương ứng 4 tỷ USD. - Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH Các DNVVN có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNVVN ở thành thị cũng góp phần làm cho tỷ trọng dịch vụ tăng thêm và làm cho tỷ trọng khu vực nông nghiệp thu hẹp lại trong cơ cấu kinh tế quốc dân, làm dịch chuyển từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ thuần nông sang một nền kinh tế đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại, thể hiện trên các mặt: + Cơ cấu thành phần kinh tế: Chuyển hướng theo đúng các quy luật của cơ cấu kinh tế hàng hóa theo định hướng XHCN, các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, phát huy được tiềm năng cho tăng trưởng đất nước, các DNNN được sắp xếp, củng cố lại, kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. + Cơ cấu ngành: Phát triển nhiều ngành, nghề đa dạng và phong phú theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Thực tế qua 16 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế ở nước ta thay đổi theo hướng tiến bộ, tỷ trọng giá trị nông nghiệp giảm liên tục, còn tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng lên, trong đó có sự đóng góp của DNVVN. + Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Các DN được phân bổ rộng khắp trên mọi vùng lãnh thổ: cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay, các DNVVN vẫn chủ yếu tập trung ở thành thị. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính sách. - Góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh nhân mới trong kinh tế thị trường Các DNVVN là nơi đào tạo, rèn luyện cho các nhà quản lý DN. Với quy mô vừa và nhỏ là môi trường thuận lợi cho các nhà quản lý DN làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ đây một số nhà quản lý DN đã trưởng thành lên những nhà quản lý DN lớn, tài ba, biết đưa DN của mình nhanh chóng phát triển. Đây là vấn đề rất quan trọng bởi ở Việt Nam trong nhiều năm đội ngũ các nhà quản lý DN gắn liền với cơ chế bao cấp nên chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường. Tóm lại, DNVVN có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước và vai trò này ngày càng được tăng lên cùng với quá trình CNH, HĐH, bởi DNVVN đang là động lực cho phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, huy động vốn trong nước, chuyển dịch cơ sở kinh tế,... Do tầm quan trọng của các DNVVN đang ngày càng tăng và tiềm năng của DNVVN trong nền kinh tế, nên quyết định của Chính phủ về xây dựng chiến lược phát triển cho các DNVVN, theo Công văn số 681/CP-KTH và Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN, rõ ràng là những quyết định kịp thời. 1.2.3. Khái quát những vướng mắc và hạn chế của DNVVN Bên cạnh những ưu thế vốn có của bản thân DNVVN, những thuận lợi do chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự phát triển của các DNVVN đang gặp phải những hạn chế và vướng mắc sau: - Quan điểm của xã hội về DNVVN Cho đến nay, tư duy cũ của cơ chế kế hoạch hóa tập trung không công nhận thị trường, không công nhận kinh tế dân doanh vẫn đang còn là rào cản khá lớn để đưa doanh nhân thời kinh tế thị trường trở về với vị trí của họ, vẫn còn sự kỳ thị phân biệt đối xử đối với doanh nhân, nhất là doanh nhân trong khu vực ngoài quốc doanh kể cả trong cán bộ, công chức nhà nước (mà DNVVN chủ yếu là khu vực ngoài quốc doanh). Nhiều người vẫn còn thích làm việc trong các DNNN hơn, bởi họ quan niệm làm việc trong DNNN mới được coi là có việc làm, có trong biên chế. Hơn nữa, trong khu vực tư nhân bảo hiểm xã hội và những vấn đề phúc lợi xã hội khác chưa được đảm bảo đầy đủ. - Vốn và tín dụng. Hiện nay, 75% số DNVVN có số vốn dưới 50 triệu đồng, thiếu vốn đang là khó khăn phổ biến, nhưng số DNVVN được vay vốn của ngân hàng rất ít. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc thực hiện cấp tín dụng từ quỹ trợ giúp đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước từ 1/12/1999 đến 30/6/2000, đã có 164 dự án với tổng số vốn vay ưu đãi 424 tỷ đồng, trong đó 61 dự án thuộc khu vực quốc doanh (39% tổng dự án) được vay 294 tỷ đồng (69% tổng giá trị khoản tín dụng ưu đãi); có 103 dự án thuộc khu vực dân doanh được vay ưu đãi 130 tỷ đồng. Nếu nghiên cứu sâu hơn nữa, phần lớn tín dụng tập trung chủ yếu vào các DNTN lớn, chứ không phải là các DNVVN [41, tr. 102]. Do vậy để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNVVN thường phải vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi chính thức, cụ thể là từ thân nhân và bạn bè, với lãi suất đôi khi cao gấp 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các khoản tín dụng từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Mặt khác, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNVVN. Lý do: thủ tục vay phức tạp, chi phí giao dịch cao, việc phải trả hoa hồng là phổ biến, những quy định khắt khe về tài sản thế chấp,... - Đất đai. Hiện nay, hầu hết các DNVVN đều thiếu đất đai làm mặt bằng SXKD, để lập cơ sở mới hoặc mở rộng SXKD. Đó là do các quy định về quyền sử dụng đất đai thường không rõ ràng, các quyền mua bán, thế chấp, chuyển nhượng đất công nghiệp vẫn chưa được thừa nhận. - Trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ. Phần lớn công nghệ các DNVVN sử dụng đã trở nên lạc hậu. Do DN thiếu vốn, do thiếu thông tin về thị trường công nghệ lại không được tiếp cận đầy đủ với những dịch vụ tư vấn để có sự hỗ trợ, việc chuyển giao công nghệ còn gặp nhiều khó khăn và tốn kém,... - Sức cạnh tranh và khả năng tiếp cận với thị trường thế giới. Thị trường của DNVVN đang bị thu hẹp bởi sức mua quá thấp của nông dân, do hàng hóa nhập lậu qua biên giới không thể nào kiểm soát được, do khả năng cạnh tranh của hàng hóa của DN này càng yếu nên lại càng khó khăn hơn khi xuất khẩu. Ngoài ra sức cạnh tranh trên thị trường trong nước của DNVVN bị suy giảm còn bởi do phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng như nhãn hiệu, bản quyền... chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa có luật cạnh tranh, nạn tham nhũng, vụ lợi của một số cán bộ quản lý thị trường chưa được ngăn chặn triệt để,... - Trình độ tay nghề của lao động và đội ngũ quản lý thấp. Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo. Đội ngũ các nhà quản lý DN có trình độ và khả năng quản trị kinh doanh yếu so với nhu cầu, do đó rất lúng túng trước sự biến động của thị trường. Số liệu điều tra cho thấy có đến 48,4% số chủ DN ngoài quốc doanh không có bằng cấp chuyên môn. Sở dĩ các DNVVN có những hạn chế và vướng mắc đối với sự phát triển như trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể khái quát thành ba nguyên nhân chính: - Do bản thân DN: Do quy mô vừa và nhỏ nên vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề kém, trình độ quản lý kinh doanh hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật và đạo đức trong kinh doanh còn nhiều yếu kém. - Môi trường kinh doanh: Thị trường còn sơ khai, chưa đầy đủ lại thiếu ổn định và lành mạnh; cơ chế chính sách và cả luật pháp chưa thật thuận lợi cho sự hoạt động và phát triển của DNVVN. - Tác động quản lý của Nhà nước: Ngoài cơ chế chính sách còn nhiều vướng mắc thì quản lý nhà nước đối với DNVVN còn nhiều hạn chế: chưa có chiến lược rõ ràng, chưa có hệ thống chính sách riêng áp dụng cho DNVVN, thủ tục phiền hà, quan liêu còn nặng nề gây khó khăn cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của DNVVN. Cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của DNVVN, việc xác định được những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế vướng mắc mà DNVVN gặp phải, Nhà nước, các cơ quan chức năng có liên quan và cả bản thân các DNVVN sẽ sớm có những giải pháp thích hợp để khắc phục, tạo điều kiện thuận lợi để các DNVVN phát triển theo đúng tiềm năng sẵn có của mình. 1.3. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.3.1. Kinh nghiệm một số nước về phát triển DNVVN ở hầu hết các nước trên thế giới, dù là nước phát triển cũng như đang phát triển, họ đều dành sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt cho loại hình DNVVN. Loại hình DN này được đánh giá là những "hạt nhân" của những hoạt động có tính chất đổi mới và đóng vai trò quan trọng trong một cơ cấu kinh tế năng động. Chính vì vậy, các chính sách và biện pháp của Nhà nước đều nhằm vào thúc đẩy quá trình ra đời và phát triển loại hình DN này. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm thành công của một số nước trên thế giới. 1.3.1.1. Cộng hòa Liên bang Đức ở CHLB Đức, DNVVN tập trung chủ yếu trong ngành tiểu thủ công nghiệp có truyền thống lâu đời, hiện nay có khoảng 700.000 DN, tổng số lao động khoảng 4,8 triệu người, tạo ra giá trị tổng sản phẩm bằng khoảng 10% GDP của cả nước [5, tr. 36]. Mặc dầu CHLB Đức đã có một nền công nghiệp phát triển mạnh, với nhiều DN lớn nhưng DNVVN vẫn có vai trò quan trọng như góp phần tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp; bảo vệ và phát huy các ngành nghề thủ công truyền thống… Mặc dù có vai trò không nhỏ nhưng các DNVVN gặp không ít khó khăn và bất lợi cho chính qui mô nhỏ gây ra. Do đó DNVVN cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Sự hỗ trợ các DNVVN ở CHLB Đức được quan tâm từ rất lâu, thể hiện từ các mặt: Thứ nhất, Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho DNVVN hoạt động. Do DNVVN ở Cộng hòa liên bang Đức chủ yếu thuộc ngành tiểu thủ công nghiệp, nên năm 1953 Quốc hội CHLB Đức đã thông qua quy chế tiểu thủ công nghiệp, quy định về mặt pháp lý từ khái niệm, nội dung hoạt động, các điều khoản liên quan quy định những ngành nghề gì được coi là tiểu thủ công nghiệp. Năm 1976, Chính phủ Đức đã thông qua "Các nguyên tắc trong chính sách cơ cấu đối với kinh doanh vừa và nhỏ". Năm 1980, một số văn bản pháp quy cho phép DNVVN được hưởng hơn 180 loại ưu đãi ra đời,.... Thứ hai, tổ chức hoạt động tư vấn cho DNVVN như tư vấn về quản lý kinh doanh, tư vấn về pháp lý, tư vấn về thuế, về đào tạo nghề, về kỹ thuật,... Thứ ba, hỗ trợ về tài chính, Nhà nước giúp DNVVN bằng chính sách tài chính thông qua con đường tín dụng và trợ cấp; hình thành hoạt động bảo lãnh vay tín dụng; hỗ trợ kinh phí cho tư vấn và đào tạo; áp dụng ưu đãi về thuế,... để tạo cho các DNVVN tự chủ tài chính. Thứ tư, hỗ trợ về đào tạo, ở CHLB Đức có hệ thống dạy nghề dưới hình thức liên doanh nhà máy với trường học. Các DN có chức năng và nghĩa vụ đào tạo miễn phí cho công nhân. Kinh phí cho dạy nghề một phần nhỏ do Ngân sách của Chính phủ liên bang chi, phần lớn do các DN đóng góp. 1.3.1.2. Đài Loan Đài Loan được coi là vương quốc của các DNVVN. Sự tăng trưởng kinh tế siêu tốc của Đài Loan trong những thập kỷ vừa qua gắn liền với những đóng góp to lớn về mọi mặt của DNVVN, đặc biệt trong lĩnh vực tạo việc làm và xuất khẩu. Với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, các DNVVN ở Đài Loan luôn được sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước để phát triển. Các cơ quan, tổ chức hỗ trợ phát triển được thành lập như: Thiết lập các cơ cấu chuyên trách để thúc đẩy sự phát triển của DNVVN (1954); thành lập các ngân hàng chuyên nghiệp cung cấp vốn và tín dụng cho các DNVVN (1964); thành lập Bộ Kinh tế của các DNVVN (1970), thành lập Trung tâm dịch vụ DNVVN ở các địa phương, Trung tâm giải pháp nhanh, Trung tâm đào tạo DNVVN,... Qua gần nửa thế kỷ đến nay, Đài Loan đã hình thành được một hệ thống chính sách và biện pháp trợ giúp DNVVN tương đối ổn định và có tính ổn định cao. Hệ thống này đã được thể chế hóa bởi văn bản "Đại cương các chính sách và biện pháp nhằm vào các DNVVN" do Cục quản lý DNVVN phát hành. Theo văn bản này, khuôn khổ chính sách và biện pháp trợ giúp DNVVN của Đài Loan tập trung vào ba nhóm lớn. Đó là: - Xây dựng môi trường kinh doanh tối ưu: Duy trì sự cạnh tranh công bằng hợp lý, cải thiện hệ thống tài chính, giúp DNVVN cải thiện điều kiện lao động và môi trường,.... - Thúc đẩy sự hợp tác giữa các DNVVN và giữa các DNVVN với các DN lớn. - Thúc đẩy sự tăng trưởng độc lập của DN: Trợ giúp các DN tối ưu hóa quản lý, thành lập DN mới, thúc đẩy các hãng hoạt động ở nước ngoài,... Mỗi chính sách lớn trên đều được thực hiện bởi nhiều biện pháp cụ thể. Một số biện pháp nổi bật đang được Chính phủ Đài Loan thực hiện để trợ giúp các DNVVN hiện hành là: + Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý trợ giúp cho sự phát triển của các DNVVN, thành lập "Nhóm đặc trách thúc đẩy DNVVN" có chức năng soát xét và kiến nghị sửa đổi luật lệ để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các DNVVN,... + Thành lập các quỹ trợ giúp tài chính cho các DNVVN gồm Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, Quỹ bảo lãnh tương hỗ, Quỹ phát triển DNVVN và tập đoàn phát triển DNVVN. Ngoài ra các DNVVN còn được nhận các khoản vay đặc biệt nhằm vào các mục đích như giảm ô nhiễm, giảm chi phí hoạt động,... thông qua nhiều quỹ đặc biệt của Chính phủ. + Hình thành hệ thống tư vấn DN cho các DNVVN, bao gồm: Hệ thống hướng dẫn tài chính và tín dụng, hệ thống hướng dẫn quản lý,… Với bối cảnh mới của nền kinh tế Đài Loan hiện nay đang dần chuyển sang một giai đoạn phát triển dựa trên các ngành sử dụng nhiều vốn và tri thức, tầm quan trọng tương đối của các DNVVN trong nền kinh tế Đài Loan có phần suy giảm, sức mạnh cạnh tranh giảm. Song với tính chất linh hoạt, cùng với hệ thống chính sách trợ giúp thích hợp của Chính phủ, các DNVVN Đài Loan hoàn toàn có khả năng thính ứng và tiếp tục phát triển. 1.3.1.3. Nhật Bản Hình thức tổ chức DN của Nhật Bản ra đời cách đây 100 năm với hai loại chính: Hình thức tổ chức kiểu "cái ô" và hình thức tổ chức "mắt xích". Cả hai hình thức tổ chức DN này rất phù hợp với loại hình DNVVN. Do vậy loại hình này phát triển rất sớm ở Nhật Bản và đã khẳng định được vai trò của mình trong đời sống kinh tế - xã hội Nhật Bản. Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế, Nhà nước Nhật Bản đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển DNVVN. Có thể phân chia chính sách phát triển DNVVN thành hai nhóm chính: Một là, hỗ trợ để tăng cường năng lực kinh doanh của DNVVN: cho vay vốn qua tín dụng nhà nước, cải thiện về vốn qua các CTCP, định thuế ưu đãi,... Hai là, hỗ trợ thay đổi cơ cấu, bao gồm các biện pháp hỗ trợ cho việc tạo ra kinh doanh mới; hỗ trợ phát triển kỹ thuật;... Toàn bộ việc thực hiện các chính sách giúp đỡ DNVVN được thực hiện bởi hoạt động của Liên đoàn các DN nhỏ của Nhật Bản (JSBC). Từ đầu năm 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào suy thoái. Đặc biệt gần đây, với sự phát triển nhanh của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, sự phát triển kinh tế tri thức,... đã làm cho DNVVN gặp không ít khó khăn, song khu vực DN này với những ưu việt vốn có cộng với các chính sách trợ giúp của Chính phủ sẽ tiếp tục phát triển mạnh và sẽ trở thành một nguồn lực năng động tạo đà cho sự phục hồi và tăng trưởng mới của nền kinh tế Nhật Bản. 1.3.2. Kinh nghiệm một số địa phương về phát triển DNVVN 1.3.2.1. Tỉnh Bình Dương Bình Dương là một tỉnh ở miền Đông Nam Bộ, là một trong những tỉnh có tăng trưởng kinh tế cao vào loại bậc nhất của cả nước; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1991-1995 là 17,52%, giai đoạn 1996-2000 là 13,5%. Những thành tựu Bình Dương đạt được là nhờ sự đóng góp đáng kể của loại hình DNVVN (chiếm trên 98% tổng số DN của cả tỉnh). Tác động to lớn của các DNVVN đối với kinh tế - xã hội của tỉnh được thể hiện: + Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH, HĐH, giảm mạnh tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; + Phát huy mọi tiềm năng về đất đai, lao động, ngành nghề truyền thống và nguồn vốn trong dân để phát triển kinh tế của tỉnh: thu hút được 813,83 tỷ đồng, chiếm 37% tổng số vốn đầu tư kinh doanh của tỉnh (năm 2000); các DNVVN trong công nghiệp, dịch vụ đã tạo việc làm cho hơn 73.000 người (tính đến cuối năm 1999); năm 1999, lực lượng kinh tế ngoài quốc doanh trong nước, trong đó chủ yếu là các DNVVN đóng góp khoảng 50% GDP của tỉnh; đóng góp vào ngân sách nhà nước 156,3 tỷ đồng. + DNVVN góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người năm 1997 đạt 5,6 triệu đồng thì năm 2000 đạt 8 triệu đồng; năm 1997 còn 8% số hộ nghèo thì năm 2000 còn 6% hộ nghèo, không có hộ đói. Mặc dù có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhưng các DNVVN ở Bình Dương cũng gặp không ít khó khăn như hoạt động tự phát, phân tán, sức cạnh tranh yếu nên khó thích ứng với sự biến động của thị trường; thiết bị công nghệ còn lạc hậu vừa gây hạn chế chất lượng sản phẩm, vừa gây ô nhiễm môi trường, tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ chưa quá 15% doanh thu; trình độ quản lý kinh doanh của các chủ DN nhìn chung còn nhiều hạn chế, có đến 32% chủ DN chưa qua đào tạo hoặc chỉ qua một lớp học quản lý ngắn hạn;... Nhận thấy được tầm quan trọng của DNVVN cũng như những khó khăn mà các DNVVN gặp phải, lãnh đạo tỉnh Bình Dương đã có sự quan tâm thích đáng đối với sự phát triển của DNVVN: + Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã có nhiều chủ trương và chính sách thông thoáng nhằm phát huy nội lực, thu hút ngoại lực để phục vụ chiến lược phát triển của tỉnh với khẩu hiệu "Trải thảm đỏ mời khách đầu tư" như xây dựng các khu công nghiệp tập trung để kêu gọi đầu tư; tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo mô hình"một cửa", tập trung đầu mối xét và cấp giấy phép đầu tư cho Sở Kế hoạch và Đầu tư với thủ tục nhanh, gọn; tạo điều kiện thuận lợi để các DN được tiếp xúc dễ dàng với các nhà lãnh đạo chủ chốt của tỉnh để trình bày các khó khăn trong quá trình đầu tư và nhờ đó khó khăn được tháo gỡ kịp thời. + Từ những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của lãnh đạo tỉnh, các sở, ban ngành đã cụ thể hóa nội dung quản lý của mình để thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển DNVVN thông qua các chính sách đất đai, tín dụng, khoa học - công nghệ... như tiến hành cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân và các DN (đến cuối năm 2000 đã hoàn thành thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được 90% và cấp đến tay người dân được 77%); thực hiện chủ trương "đổi đất lấy kết cấu hạ tầng" vừa thu hút được vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, vừa sử dụng đất có hiệu quả; hoạt động tín dụng thực hiện nhiều biện pháp tích cực để thu hút tiền gửi của các tổ chức kinh tế và của dân cư, kịp thời cung ứng vốn cho các thành phần kinh tế để phát triển SXKD; hệ thống ngân hàng hướng vào phục vụ hoạt động kinh doanh của các DN, trong đó có DNVVN; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển ưu tiên cho vay DNVVN ở nông thôn để sản xuất gốm, sứ, hàng mỹ nghệ, cho vay dự án sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, hỗ trợ di dời các DN ra khỏi khu dân cư; hoạt động của ngành thuế với mục tiêu không chỉ tăng nguồn thu ngân sách nhà nước mà quan trọng hơn là kích thích phát triển SXKD của các DN, đặc biệt là DNVVN;... 1.3.2.2. Tỉnh Bắc Ninh Cũng như nhiều địa phương khác, DNVVN ở Bắc Ninh chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số DN của tỉnh, gần 97% số DN và Công ty tư nhân, 93% DNNN địa phương, 100% HTX... thuộc loại DNVVN và có mặt trong nhiều ngành, nghề khác nhau. Vai trò của các DNVVN thể hiện trên các mặt: + Tạo thêm nhiều việc cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, trên cơ sở đó góp phần tăng thu nhập dân cư, đa dạng hóa các nguồn thu nhập. + Thu hút vốn vào SXKD: Theo số liệu của tỉnh, vốn đầu tư của các DNVVN ngoài quốc doanh và đầu tư của dân cư năm 1999 chiếm 58,2% tổng số vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh. + Các DNVVN đóng góp không nhỏ vào GDP, tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Chỉ tính riêng trong công nghiệp, các DNVVN chiếm trên 40% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Các cơ sở sản xuất trong các làng nghề của tỉnh hàng năm đã tạo ra của cải trị giá trên 200 tỷ đồng. + Các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế của tỉnh, trong những năm qua, các cấp chính quyền từ tỉnh đến các huyện, xã đã có nhiều nỗ lực nhằm tạo điều kiện cho các DN nói chung, đặc biệt là các DNVVN khắc phục khó khăn và phát triển. Những nỗ lực đó thể hiện trên nhiều mặt: + Trên cơ sở các luật và chính sách có liên quan đến hoạt động của các DN nói chung, DNVVN nói riêng được ban hành từ Trung ương như chính sách đất đai, chính sách vốn - tín dụng, chính sách thuế, chính sách đào tạo,... các cơ quan chức năng của tỉnh đã triển khai thực hiện tốt, tạo ra điều kiện, cơ hội thuận lợi nhất cho các DN phát triển như tạo điều kiện để các DN tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn, đất đai, mặt bằng sản xuất như cấp đất và cho thuê đất một cách thuận lợi cho các DN, xây dựng các khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng các khu tập trung cho các làng nghề, thực hiện cơ chế giá cả đền bù và cho thuê đất tương đối thông thoáng, chẳng hạn thực hiện phương châm "đền bù thì áp dụng giá cao, cho thuê thì áp dụng giá tối thiểu"; hỗ trợ về vốn cho các DN dưới nhiều hình thức trong đó chú ý tới vấn đề tích tụ và tập trung vốn cho DN;… + Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ DNVVN của Hội đồng liên minh HTX: hình thành trung tâm tư vấn cung cấp thông tin và dịch vụ tư vấn cho các DN, đào tạo nghề cho các DN, tổ chức hội thảo, tổ chức các đoàn đi nghiên cứu kinh nghiệm và tìm thị trường... Bên cạnh những thuận lợi, những kết quả đạt được, trong quá trình phát triển các DNVVN còn gặp phải nhiều khó khăn trở ngại. Ngoài những khó khăn, trở ngại từ phía bản thân, các DNVVN còn gặp phải khó khăn, trở ngại từ phía môi trường, từ phía các cơ quan nhà nước như chưa thật sự bình đẳng giữa các DN; việc cung cấp thông tin cho các DNVVN chưa được chú trọng; việc quy hoạch các khu công nghiệp chưa tính đến vấn đề môi trường trong dài hạn nên có thể xảy ra tình trạng ô nhiễm; việc định hướng, hướng dẫn các DN của một số cơ quan chức năng còn lúng túng và còn yếu; sự hỗ trợ cho các DNVVN từ phía các cấp chính quyền có lúc, có nơi còn chưa được chú trọng đúng mức; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý chưa ăn khớp;... Do đó, để thúc đẩy phát triển DNVVN tỉnh Bắc Ninh, các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành của tỉnh đã quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) tiếp tục đổi mới chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát triển. Chương 2 thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh quảng ngãi 2.1. Những đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi 2.1.1. Khái quát chung về tình hình tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Quảng Ngãi Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ tháng 7/1989 từ tỉnh Nghĩa Bình cũ. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Quảng Ngãi tiếp giáp với tỉnh Quảng Nam ở phía Bắc, tỉnh Bình Định ở phía Nam, phía Tây Nam ngăn cách với tỉnh Kon Tum bởi chi nhánh của dãy núi Trường Sơn, phía Đông giáp Biển Đông với 130 km bờ biển. Trung tâm của tỉnh là thị xã Quảng Ngãi. Về hành chính, hiện tại tỉnh có 1 thị xã, 5 huyện miền núi, 6 huyện đồng bằng ven biển và huyện đảo Lý Sơn. Diện tích tự nhiên của Quảng Ngãi là 5.131,51 km², bằng 1,52% diện tích cả nước, với gần 2/3 diện tích là núi rừng và đồi trọc. Địa hình nghiêng từ Tây sang Đông, chia làm 4 khu vực: đồng bằng, trung du, miền núi, hải đảo. Đồng bằng có độ cao 8 độ so với mực nước biển. Quảng Ngãi nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, nền nhiệt độ cao và ít biến động (trung bình 25,70 C). Lượng mưa trung bình năm là 2504 mm, cực đại lên đến 3500 mm. Độ ẩm tương đối trung bình 86%. Tổng lượng bức xạ trung bình năm là 143,3 Kcal/cm2 [7, tr. 10]. Với lượng bức xạ lớn rất thuận lợi về phơi sấy, sử dụng năng lượng mặt trời trong công nghệ chế biến nông lâm sản, hải sản, làm muối và sản xuất điện năng. Trong lòng đất Quảng Ngãi có nhiều tích tụ khoáng sản như: Graphic trữ lượng khoảng 4 triệu tấn, hàm lượng cacbon trung bình 20%, siliminat trữ lượng 1 triệu tấn, than bùn trữ lượng 476 nghìn m³, cao lanh trữ lượng khoảng 4 triệu tấn... Nơi đây còn nhiều vùng đất của những chứng tích văn hóa lâu đời như khu di chỉ văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chàm; có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Ba Tơ, Sơn Mỹ, Vạn Tường; nhiều cảnh đẹp như Thiên ấn - Niêm Hà, bãi biển Mỹ Khê... là điều kiện để phát triển du lịch [6, tr. 12]. Dân số Quảng Ngãi đến cuối năm 2000 là 1.223.390 người, trong đó gần 90% sống ở nông thôn. Lực lượng lao động của Quảng Ngãi tính đến tháng 7/2001 có 571.650 người trong đó 556.568 người có việc làm chiếm 97,36% lực lượng lao động (trong đó có 67,83% đủ việc làm và 37,17% thiếu việc làm). Lực lượng lao động có việc làm được cơ cấu theo ngành kinh tế: nông - lâm - ngư nghiệp - 71,65%, công nghiệp - xây dựng - 8,9%, thương mại - dịch vụ - 19,45%, lao động không có việc làm thường xuyên là 15.082 người, chiếm 2,64% lực lượng lao động, lao động thất nghiệp khu vực thành thị thời điểm tháng 7/2001 là 5,74%. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp, chỉ đạt 13,15% lực lượng lao động (bình quân cả nước là 20%). Cơ cấu tỷ lệ đào tạo: 1 - 1,11 - 2,63 (trong khi đó cơ cấu hợp lý là 1 - 4 - 10). Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh là 1,4%. Hệ thống giáo dục tương đối phát triển, toàn tỉnh đã hoàn thành xóa mù chữ và phổ cập tiểu học (10/1997), 90/179 xã phổ cập trung học cơ sở. Về y tế, đến nay toàn tỉnh có 177/179 xã, phường có trạm y tế. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 50% (1995) xuống còn 39,8% (2001). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên, số hộ giàu, hộ khá tăng; số hộ nghèo, hộ đói giảm từ 37,53% năm 1995 xuống còn 15,6% năm 2000, trong đó hộ đói còn 3,4% và hộ nghèo còn 12,2%. GDP bình quân đầu người tăng từ 140USD năm 1996 lên 192USD năm 2001 [13, tr. 14]. 2.1.1.2. Đặc điểm và tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi Lịch sử phát triển kinh tế của Quảng Ngãi gắn liền lịch sử phát triển kinh tế của Duyên hải miền Trung nói riêng và cả nước nói chung, cho tới nay hoạt động chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Chiến tranh đi qua để lại cho Quảng Ngãi một nền kinh tế nghèo nàn, kết cấu hạ tầng yếu kém, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu. Một thời gian dài của cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã để lại cho Quảng Ngãi một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Từ ngày tách tỉnh đến nay, Quảng Ngãi luôn là một trong những tỉnh nghèo của cả nước. Tuy còn nhiều khó khăn trắc trở phải vượt qua, nhưng dưới sự chỉ đạo đúng đắn của các cấp ủy Đảng, Nhà nước và tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân dân trong tỉnh, những năm gần đây, nền kinh tế của tỉnh đã có những bước tăng trưởng khá rõ rệt, thể hiện giá trị tổng sản phẩm tăng liên tục. Bảng 2.1: Giá trị tổng sản phẩm và tốc độ tăng GDP 1996-2000 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng sản phẩm: - Theo giá thực tế (tr. đ) 2.184.05 3 2.430.03 8 2.748.42 1 2.920.17 9 3.229.74 5 - Theo giá so sánh 1994 (tr. đ) 1.701.74 9 1.855.48 5 2.004.98 6 2.141.38 4 2.323.21 0 Tốc độ tăng GDP (%) 12,5 9 8,1 6,8 8,5 GDP bình quân đầu người (tr. đ) 1,875 2,066 2,315 2,414 2,640 Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Ngãi 1996-2000. Như vậy trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đã tiệm cận hoặc cao hơn mức tăng trưởng bình quân chung cả nước. Đây thật sự là tín hiệu vui thể hiện những bước chuyển mình đầu tiên của kinh tế Quảng Ngãi, nếu biết rằng từ 1993 trở về trước, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Quảng Ngãi rất thấp so với tốc độ tăng trưởng của cả nước. Cùng với sự tăng trưởng là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, song vẫn chưa rõ nét và thiếu ổn định. Khu vực nông - lâm - thủy sản vẫn còn chiếm tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế của tỉnh. Tỷ trọng của sản xuất công nghiệp - xây dựng tuy đã được nâng lên dần nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với tỷ trọng bình quân của cả nước. Bảng 2.2: Tỷ trọng GDP theo khu vực kinh tế 1996-2000 Đơn vị tính: 100% 1996 1997 1998 1999 2000 Cả nước Quản g Ngãi Cả nước Quản g Ngãi Cả nước Quản g Ngãi Cả nước Quản g Ngãi Cả nước Quản g Ngãi Nông - lâm - thủy sản Công nghiệp - xây dựng Thương mại - dịch vụ 27,8 29,7 42,5 47,9 16,7 35,5 25,8 32,1 42,1 43,7 18,1 38,2 25,8 32,5 41,7 44,4 18,6 37 25,4 34,5 40,1 43,2 20,2 36,6 24,5 36,8 38,7 40,2 23 36,8 Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Ngãi 1996-2000. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2000 đạt 1.283.699 triệu đồng (theo giá cố định 1994). Trồng trọt là ngành chủ yếu, chiếm 71,3% giá trị sản xuất nông nghiệp. Trong trồng trọt, cây lương thực chiếm tới 63,6%, cây công nghiệp chiếm 20,4%. Ngành chăn nuôi chiếm 24%. Các hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất thấp, chỉ đạt 4,7%. Sản xuất công nghiệp đã có bước khởi sắc, đã từng bước đổi mới cơ chế quản lý, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ mới để nâng cao chất lượng. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 12,5% năm 1990 lên 21,5% năm 2000, đạt 1.098.026 triệu đồng (theo giá cố định 1994). Trong đó chủ yếu là công nghiệp chế biến chiếm 94,8%. Nhiều nhà máy, xí nghiệp chế biến ra đời và hoạt động có hiệu quả. Các ngành nghề truyền thống như sản xuất gạch ngói, đồ gỗ, chế biến thực phẩm,... được phục hồi và phát triển. Sự phát triển công nghiệp đã tạo ra nhiều cơ hội cho các DNVVN trong nông thôn phát triển. Tuy vậy, công nghiệp Quảng Ngãi quy mô còn nhỏ, MMTB còn lạc hậu nên hiệu quả thấp, khả năng cạnh tranh yếu,.... Ngành xây dựng cơ bản, vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm qua không ngừng tăng lên, bình quân trong giai đoạn 1995-2000, mỗi năm tăng 37,2%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm qua khoảng 5.075 tỷ đồng, gấp 4 lần thời kỳ 1991-1995. Đặc biệt, trong 2 năm 1998 và 1999, do nhà máy lọc dầu số I và các công trình kết cấu hạ tầng của khu công nghiệp Dung Quất được khởi công xây dựng nên vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng lên khá cao (chỉ riêng phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong hai năm đã là 2.535,8 tỷ đồng) [6, tr. 102]. Tuy nhiên, mức vốn đầu tư của Quảng Ngãi so với cả nước hiện nay vẫn còn thấp (thường chỉ chiếm 0,48% tổng vốn đầu tư của cả nước, đến nay chiếm khoảng 1%). Nhìn chung các DN xây dựng đều có quy mô vừa và nhỏ nên chủ yếu chỉ xây dựng các công trình nhỏ hoặc nhận lại hạng mục công trình từ các công ty lớn nên cơ cấu ngành xây dựng chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP của tỉnh (cao nhất là năm 2000 nhưng cũng chỉ chiếm 8,57%). Thương mại - dịch vụ phát triển đa dạng trong các thành phần kinh tế, đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Giá trị ngành thương mại - dịch vụ năm 2000 đạt 1.911tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994, gấp 1,67 lần năm 1995). Các dịch vụ ngân hàng, bưu chính viễn thông phát triển có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các dịch vụ vận tải, sửa chữa phát triển thu hút nhiều lao động. Về kinh doanh ngoại thương của Quảng Ngãi còn khá nhỏ bé so với cả nước. Năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Quảng Ngãi là 8,283 triệu USD, tổng kim ngạch nhập khẩu là 9,72 triệu USD [6, tr. 102]. Về kết cấu hạ tầng kinh tế, Quảng Ngãi có hệ thống giao thông khá thuận lợi với nhiều tuyến giao thông quốc gia đi qua quốc lộ 1A, quốc lộ 24,... Có 7 tuyến đường tỉnh lộ với tổng chiều dài 149 km và cùng với 891 tuyến đường liên xã với tổng chiều dài 247,9 km đã tạo điều kiện cho việc thông thương giao lưu văn hóa giữa các địa phương trong tỉnh cũng như với các tỉnh lân cận. Đến nay đã có 177/179 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, đạt 98,88% [13, tr. 22]. Tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy song song với quốc lộ 1A qua địa phận Quảng Ngãi dài 96 km. Ngoài ra, phía Đông của tỉnh là bờ biển dài 130 km, về phía Đông có vịnh Dung Quất với tổng diện tích khoảng 30 km², có độ sâu 13- 20 m, khá kín gió đang được đầu tư xây dựng một hệ thống cảng biển sâu có quy mô lớn tầm cỡ quốc tế. Về điện, hoàn thành quy hoạch cải tạo lưới điện Quảng Ngãi đến năm 2005, xây dựng mới các trạm biến áp 35 kv ở hầu hết các huyện, mạng lưới điện nông thôn phát triển. Toàn tỉnh có 131/179 xã có lưới điện (73,2%), mức tiêu thụ điện bình quân là 127 kwh/người/năm. 2.1.2. Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi - Những thuận lợi ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Quảng Ngãi + Nằm ở vị trí trung độ cả nước, trên trục đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam, nằm trên trục quốc lộ 24 nối thị xã Quảng Ngãi với Tây Nguyên và trong tương lai quốc lộ 24 nối với Lào - Đông bắc Thái Lan. Vị trí như trên tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế hàng hóa và giao lưu quốc tế. + Có vịnh nước sâu Dung Quất gắn với bờ là vùng đất có diện tích mặt bằng rộng, dân cư thưa thớt, gần sân bay Chu Lai, gần đường sắt, đường bộ và đường điện quốc gia, lại không xa nguồn nước ngọt. Nơi đây hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển cảng nước sâu quốc gia: Xây dựng khu công nghiệp lọc dầu, khu công nghiệp tập trung mà mở đầu là Nhà máy lọc dầu số I - Trung tâm lọc hóa dầu đầu tiên của cả nước, đã được xây dựng và sau đó sẽ là hàng loạt các công trình khác được nối liền xây dựng sẽ ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Quảng Ngãi và sự phát triển đối với cả khu vực miền Trung. + Có tài nguyên tổng hợp về biển, khoáng sản, rừng để phát triển du lịch, thủy sản, công nghiệp đường, khai thác khoảng sản,... nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. + Đã hình thành một hệ thống đô thị như thị xã Quảng Ngãi, các thị trấn, hình thành các khu công nghiệp và kết cấu hạ tầng khác. Từ đó hình thành các trung tâm kinh tế có sức lan tỏa và thu hút phát triển kinh tế của tỉnh. + Con người Quảng Ngãi năng động sáng tạo, cần cù, chịu khó, có truyền thống cách mạng, nếu được đào tạo và có chính sách sử dụng tốt sẽ là động lực lớn đến sự phát triển của tỉnh. Nguồn lao động của tỉnh dồi dào, giá cả lao động rẻ là điểm đáng quan tâm của các nhà đầu tư. - Những hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Quảng Ngãi + Là một trong những tỉnh kinh tế chậm phát triển, nền kinh tế chưa có tích lũy, cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm và chưa dựa trên nền sản xuất ổn định; kết cấu hạ tầng còn yếu và chưa đồng bộ. + Đời sống của đại bộ phận dân cư còn thấp, nhất là dân cư vùng nông thôn và các dân tộc ít người ở miền núi, sức mua của 80% dân cư nông thôn quá thấp chưa trở thành thị trường kích thích sản xuất phát triển. Chưa có thị trường ổn định trong việc tiêu thụ sản phẩm, công nghiệp chế biến chưa theo kịp yêu cầu của việc phát triển vùng nguyên liệu. + Thời tiết khắc nghiệt, bão lũ, hạn hán thường xuyên xảy ra, môi trường diễn biến theo xu thế ngày một xấu đi. + Đại bộ phận dân cư còn nặng về tập quán sản xuất tự túc, chưa thích ứng cơ chế thị trường. Tính bảo thủ trì trệ trong một bộ phận cán bộ và người lao động còn nặng - là một cản trở lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. + Cơ chế quản lý chưa thích ứng với kinh tế thị trường, chưa tạo được môi trường thuận lợi và hấp dẫn để phát huy các thành phần kinh tế trong tỉnh và đầu tư nước ngoài. Các chính sách thu hút nhân tài, tạo lập môi trường thông thoáng cho đầu tư chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức. + Bước sang thế kỷ XXI, có nhiều điều kiện phát triển nhưng cũng đứng trước nguy cơ tụt hậu nếu không có sự thích ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra từ thực tiễn. Đây thật sự là một thách thức to lớn không chỉ đối với kinh tế Quảng Ngãi mà cả nền kinh tế Việt Nam nói chung [45, tr. 31]. 2.2. Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 2.2.1. Quá trình lịch sử phát triển DNVVN tỉnh Quảng Ngãi Theo các tài liệu lịch sử, DNVVN ở Quảng Ngãi được hình thành cùng với các làng nghề truyền thống. Người dân Quảng Ngãi ngoài nghề trồng lúa còn có nghề làm đường phèn, đường phổi rất công phu và tinh xảo. Các cơ sở chế biến đường có mặt khắp mọi nơi trong tỉnh. Các huyện trong tỉnh đều có các làng nghề truyền thống như nghề dệt ở Chánh Lộ, ở làng Thạch Bi, nghề làm đồ gốm ở Bình Sơn, Sơn Tịnh, nghề thợ đúc ở Mộ Đức, nghề thợ mộc ở Tư Nghĩa, nghề làm ngói ở Sông Vệ,... Hình thức tổ chức SXKD của nghề thủ công và làng nghề trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên gia đình. Công nghệ phần lớn là công nghệ thủ công trong gia đình. Sản phẩm làm ra tiêu thụ chủ yếu ở địa phương trong tỉnh (chỉ có đường được xuất tiêu thụ ngoài tỉnh). ở thời kỳ trước giải phóng, cũng như các tỉnh khác trong vùng duyên hải miền Trung, Quảng Ngãi gần như không được chú trọng để phát triển kinh tế nên hầu hết các cơ sở chỉ sản xuất cầm chừng không phát triển. Sau ngày giải phóng, chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được một vài cơ sở sản xuất công nghiệp, còn một số nhỏ hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp tiếp tục hoạt động kinh doanh. Trước thời kỳ đổi mới, Quảng Ngãi xây dựng được một số xí nghiệp quốc doanh. Do hạn chế về vốn nên các xí nghiệp này chỉ có quy mô nhỏ và chủ yếu do huyện quản lý (51%). Các HTX tiểu thủ công nghiệp, HTX mua bán,... được hình thành nhanh chóng và được hưởng nhiều ưu đãi. Đối với các DNVVN thuộc kinh tế tư nhân hầu như không phát triển do tâm lý "trọng nông, ức thương" của xã hội tiểu nông gắn với tâm lý "ghét nhà giàu" đã thực sự gieo vào xã hội những định kiến nặng nề về kinh tế tư nhân; do cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương chưa phù hợp nên không khuyến khích các tầng lớp nhân dân bỏ vốn vào SXKD. Đến năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt các cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình ra đời và phát triển. Đồng thời khi chuyển sang cơ chế thị trường, hầu hết các xí nghiệp quốc doanh, các HTX đều không thích nghi được với cơ chế mới, làm ăn thua lỗ nên dần dần tan rã, giải thể. Chỉ tính riêng ngành công nghiệp, năm 1990 toàn tỉnh có 43 cơ sở công nghiệp quốc doanh, 419 cơ sở công nghiệp tập thể, 6 cơ sở tư nhân và 7.648 cơ sở công nghiệp cá thể thì đến năm 2000 toàn tỉnh có 17DNNN, 9HTX, 30DNTN, 11 công ty TNHH và CTCP và 11.887 hộ kinh doanh cá thể [6, tr. 74]. So sánh số liệu qua 10 năm (năm 2000 so với năm 1990) của ngành công nghiệp ta thấy xí nghiệp quốc doanh giảm 26 xí nghiệp, tỷ lệ giảm 60%; hợp tác xã giảm 410 cơ sở, tỷ lệ giảm 97,8%; cơ sở tư nhân tăng 35 cơ sở, tỷ lệ tăng 583%; hộ kinh doanh cá thể tăng 4.239 hộ, tỷ lệ tăng 55,4%. Như vậy từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể giảm mạnh, đồng thời kinh tế tư nhân có những bước phát triển nhảy vọt, các DNVVN ngoài quốc doanh được phát triển mạnh. Sau khi có Luật Công ty và Luật DNTN (1991), đặc biệt là khi có Luật DN (1999) DNVVN ngoài quốc doanh tăng nhanh về số lượng, mở rộng ngành nghề, quy mô ngày càng lớn. Bảng 2.3: Sự phát triển của DNVVN (DNTN, CTTNHH, CTCP) trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi (số liệu từ năm 1996 đến 2001) Đến năm Tổng cộng D.N tư nhân Công ty TNHH Công ty cổ phần Số DN Mức tăng trưởng (%) Vốn đăng ký (tr. đồng) Số DN Vốn đăng ký (tr. đồng) Số DN Vốn đăng ký (tr. đồng) Số DN Vốn đăng ký (tr. đồng) 199 6 87 26,1 37.367,7 71 26.664,7 16 10.703 199 7 10 4 19,5 107.445, 7 83 29.638,7 20 28.807 1 49.000 199 8 11 3 8,65 121.609, 7 87 31.274,7 24 40.460 2 49.875 199 9 13 7 21,24 144.045, 8 10 1 39.662,5 33 53.807,3 3 50.576 200 0 19 0 38,69 209.769, 8 13 8 65.124,5 46 89.223,3 6 55.422 200 1 28 4 49,47 322.307 19 6 120.932 81 134.165 7 67.210 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi. Với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, với sự ra đời của Nghị định 90/2001/NĐ-CP, Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Quảng Ngãi lần thứ XVI, các DNVVN Quảng Ngãi sẽ có xu hướng và điều kiện phát triển mạnh hơn nữa. 2.2.2. Thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay 2.2.2.1. Số lượng và phân bổ ngành nghề, địa bàn hoạt động - Về số lượng doanh nghiệp Căn cứ vào định nghĩa về DNVVN theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP thì đến thời điểm cuối năm 2001 toàn tỉnh Quảng Ngãi có 15.509 DN thuộc loại hình DNVVN. Trong đó: + 8 DNNN Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh, chiếm tỷ lệ 72,7% tổng DNNN Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh. + 37 DNNN địa phương, chiếm tỷ lệ 94,87% tổng DNNN địa phương. + 49 HTX phi nông nghiệp, chiếm tỷ lệ 100% HTX phi nông nghiệp. + 196 DNTN, chiếm tỷ lệ 100% DNTN. + 81 Công ty TNHH, chiếm tỷ lệ 97,6% tổng Công ty TNHH. + 7 CTCP, chiếm tỷ lệ 87,5% tổng CTCP. + 15.131 hộ kinh doanh cá thể. Các DNVVN thuộc kinh tế ngoài quốc doanh như: DNTN, Công ty TNHH, CTCP có xu hướng tăng dần qua các năm về mặt số lượng cơ sở, quy mô kinh doanh, ngành nghề kinh doanh ngày càng đa dạng, thị trường tiêu thụ vươn ra ngoài tỉnh, ngoài nước (năm 1992: 19 DN, năm 1996: 87 DN đến năm 1999: 137 DN). Đặc biệt, qua tác động của Luật DN có hiệu lực từ ngày 01-01-2000 số lượng DN năm 2000 tăng so với năm 1999 là 53 DN (mức tăng trưởng: 38,69%), vốn đăng ký tăng so với năm 1999 là 45,63%; Năm 2001 tăng so với năm 2000: 94 DN (mức tăng trưởng: 49,47%), vốn đăng ký tăng so với năm 2000 là 53,65% (xem bảng 2.3). Bên cạnh đó DNVVN thuộc DNNN thì hầu như không có sự biến động đáng kể về số lượng song có sự thay đổi về chất. Trước sự tác động của cơ chế thị trường một loạt các DN bị phá sản, giải thể như: XN xay xát 15 tấn/ ca, XN mộc dân dụng Đức Phổ, Nhà máy sứ,... Đồng thời một loạt các DN mới được xây dựng với dây chuyền công nghệ tiên tiến, tạo nên những sản phẩm mới có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của thị trường như Nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu, nhà máy sản xuất tinh bột mì Tịnh Phong,... - Về phân bố ngành nghề và địa bàn hoạt động Theo Luật DNTN, Luật Công ty (1990), Luật DN (1999) quy định DN được phát triển đa ngành nghề tùy theo khả năng của DN (trừ những ngành nghề bị pháp luật cấm). Các DNVVN ở Quảng Ngãi được mở ra với các ngành nghề tương đối đa dạng trong các lĩnh vực xây dựng, chế biến nông lâm thủy sản, vận tải, y dược, may mặc, dịch vụ khách sạn, du lịch, tin học, xăng dầu,...đã góp phần đáp ứng nhu cầu SXKD, nhu cầu tiêu dùng cho nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Cụ thể: Bảng 2.4: Phân bổ DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo ngành nghề hoạt động năm 2001 Loại hình doanh nghiệp Tổng số Công nghiệp, khai thác chế biến lâm hải sản Xây dựng Thương mại Dịch vụ Số lượn g % Số lượn g % Số lượn g % Số lượn g % Số lượn g % Tổng số 15.50 9 100 5.047 32,54 134 0,86 5.879 37,91 4.449 28,69 DNNNTW 8 100 4 50 2 25 2 25 DNNNĐP 37 100 15 40,54 3 8,1 7 18,9 12 32,46 Hợp tác xã 49 100 12 24,49 3 6,12 1 2,04 33 67,65 DN tư nhân 196 100 44 15,49 126 44,37 78 27,46 36 12,68 C. ty TNHH 81 100 CTCP 7 100 Hộ KD cá thể 15.13 1 100 4.972 32,86 5.793 38,29 4.366 28,85 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi. Nhìn chung các DNVVN chủ yếu đầu tư vào các ngành thương mại - dịch vụ, chế biến, xây dựng dân dụng. Đó là những lĩnh vực giàu tiềm năng về tài nguyên khai thác hay các ngành nghề truyền thống hoặc các ngành ít vốn, sinh lời khá cao, khả năng thu hồi vốn nhanh. Về địa bàn hoạt động, DNVVN Quảng Ngãi phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các trung tâm hoặc các nơi có đường quốc lộ đi qua và các khu công nghiệp đang triển khai như thị xã Quảng Ngãi: 3.421 cơ sở, Sơn Tịnh: 2.389 cơ sở, trong khi đó ở huyện Sơn Tây chỉ có 27 cơ sở, huyện Lý Sơn: 224 cơ sở. So sánh về số cơ sở giữa nơi đông nhất và nơi thấp nhất gấp nhau 126 lần. Hầu hết các DNNN, các HTX đều tập trung ở thị xã Quảng Ngãi (7/8 DNNN Trung ương, 27/37 DNNN địa phương, 19/49HTX). Bảng 2.5: Phân bổ DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo địa bàn hoạt động năm 2001 ST T Địa bàn hoạt động Tổng số Công nghiệp, khai thác chế biến lâm hải sản Xây dựng Thươn g mại Dịch vụ 1 Thị xã Quảng Ngãi 3.421 413 76 1.596 1.336 2 Huyện Đức Phổ 2.075 914 11 614 536 3 Huyện Mộ Đức 1.355 458 8 457 432 4 Huyện Tư Nghĩa 1.722 927 10 501 284 5 Huyện Sơn Tịnh 2.389 831 12 825 721 6 Huyện Bình Sơn 2.097 717 7 868 505 7 Huyện Nghĩa Hành 940 285 2 456 197 8 Huyện Ba Tơ 251 67 2 76 106 9 Huyện Minh Long 120 57 1 32 30 10 Huyện Trà Bồng 296 51 1 138 106 11 Huyện Sơn Hà 592 212 4 228 148 12 Huyện Sơn Tây 27 5 13 9 13 Huyện Lý Sơn 224 110 75 39 Tổng số 15.50 5.047 134 5.879 4.449 9 Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Quảng Ngãi. Với sự phân bố này nhận thấy, trong những năm qua các DNVVN thường được hình thành một cách tự phát, thường tập trung trong nội thị, đan xen vào các khu dân cư, từ đó đã gây ra những bất hợp lý về quy hoạch ngành nghề, về vận tải, về tiêu thụ và gây ô nhiễm môi trường. Việc di dời các DN này ra các vùng ngoại thị cần được đặt ra một cách khẩn trương. Việc bố trí lại DN trên địa bàn lãnh thổ không chỉ là để tránh gây ô nhiễm môi trường mà quan trọng hơn là để tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong tỉnh, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 2.2.2.2. Tiềm lực DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi - Vốn. Tiềm lực về vốn của một DN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của DN. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, nếu tiềm lực vốn DN càng lớn thì DN càng có khả năng cạnh tranh trên thương trường. Trong điều kiện một tỉnh mới được chia tách, ngân sách tỉnh có nhiều khó khăn, vốn đầu tư của các DN ở mức quá thấp. Tại thời điểm năm 1995 tỷ lệ DNNN địa phương không đủ vốn pháp định là 76%, năm 1998: 62,79% đến năm 2001 tỷ lệ DN không đủ vốn pháp định đã giảm xuống còn 33%, quy mô DN từ khi sắp xếp đổi mới đến nay đã tăng lên rõ rệt, vốn bình quân 1 DN từ 1,8 tỷ đồng năm 1995 đã tăng lên 3 tỷ đồng năm 2001. Song số DN có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 60%, thậm chí có DN vốn dưới 500 triệu đồng [27, tr. 10]. Đối với DN thuộc kinh tế tư nhân, với sự thông thoáng của môi trường pháp lý, với cơ chế chính sách phù hợp, khu vực kinh tế này đã thu hút một lượng vốn lớn trong dân cư để đầu tư vào SXKD, số cơ sở SXKD, quy mô vốn đầu tư ngày càng tăng lên. So với thời điểm năm 1996, năm 2001 vốn ĐKKD bình quân 1 DN tăng gấp 2,6 lần. Bảng 2.6: Tổng số vốn kinh doanh của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2001 Loại hình doanh nghiệp Tổng số Công nghiệp, khai thác chế biến lâm hải sản Xây dựng Thương mại Dịch vụ Số DN Số tiền (tr.đ) Vốn bình quân (tr.đ/ DN) Số DN Số tiền (tr.đ) Số DN Số tiền (tr.đ) Số DN Số tiền (tr.đ) Số DN Số tiền (tr.đ) Tổng số 15.5 09 5.047 134 5.87 9 4.44 9 DNNN TƯ 8 37.48 9 4.686 4 15.096 2 14.57 5 2 7.818 DNNN ĐP 37 108.9 88 2.945, 6 15 41.713 3 20.93 3 7 13.56 8 12 32.774 HTX 49 26.65 0 543,9 12 5.461 3 600 1 575 33 20.014 DNTN 196 120.9 32 617 44 41.190 126 148.2 61 78 56.79 2 36 76.064 CT TNHH 81 134.1 65 1.656, 4 CTCP 7 67.21 0 9.601, 4 Hộ KD cá thể 15.1 31 329.8 56 21,8 4.972 5.79 3 4.36 6 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi. Mặc dù có sự tăng lên đáng kể về luợng vốn được đầu tư và kinh doanh so với nhu cầu vốn thực tế cần thiết để đơn vị có đủ điều kiện mua sắm trang thiết bị hiện đại, cải tiến công nghệ... thì lượng vốn như trên còn quá thấp. Trong khu vực kinh tế tư nhân có đến gần 50% DN có số vốn dưới 500 triệu đồng, 70% DN có số vốn dưới 1 tỷ đồng. Nguyên nhân: + Đối với các DNTN bất lợi nhất và trước hết là chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của cá nhân chủ sở hữu tài sản. Có nghĩa là, tài sản cá nhân của các chủ sở hữu tài sản không đầu tư vào kinh doanh đều có thể bị bên thứ ba thu giữ để thực hiện nghĩa vụ cam kết. Điều đó làm cho DN sợ đầu tư mở rộng để phát triển DN với quy mô lớn hơn. + Khi chủ DNTN bị ốm hoặc mất khả năng làm việc thì DN hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, có thể bị giải thể hoặc xảy ra phá sản. Nếu chủ DNTN bị chết thì sự tồn tại của DN cũng chấm dứt; sự bất ổn này cũng là yếu tố gây khó khăn trong việc vay, mượn tiền từ nhiều người khác. + Là một tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người rất thấp (khoảng 192 USD/người/năm) nên tiềm lực vốn nhàn rỗi trong dân cư không lớn. + Khả năng tiếp cận các nguồn vốn của DNTN rất hạn chế, ngoài nguồn vốn tự có, kinh tế tư nhân trong tỉnh chủ yếu là vay tín dụng qua ngân hàng để đầu tư vào sản xuất và mở rộng SXKD. Đối với các nguồn vốn như: vốn vay ưu đãy từ Quỹ hỗ trợ phát triển, các dự án Chính phủ, các nguồn vốn từ nước ngoài,... chưa được tiếp cận. + Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ chủ DN chưa qua đào tạo đầy đủ nên khả năng liên doanh, liên kết trong kinh doanh còn nhiều hạn chế. + Do khả năng kinh doanh thấp, lợi nhuận thấp nên tích lũy vốn của các DNVVN còn hạn chế. - Về trình độ công nghệ. Đối với các DNVVN là DNNN, nhìn chung từ khi thực hiện Nghị định 388/NĐ- CP, các DN làm ăn kém hiệu quả đã bị giải thể hoặc sát nhập, những DN còn lại trong quá trình sắp xếp lại đã bắt đầu quan tâm đến việc đầu tư đổi mới thiết bị bằng nhiều nguồn vốn khác. Đồng thời một số DN mới xây dựng đã đầu tư dây chuyền công nghệ tiên tiến, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao. Song do hạn chế thông tin về công nghệ nên hầu hết các dây chuyền sản xuất mới đầu tư xây dựng đều khá lạc hậu so với công nghệ tiên tiến hiện thời của thế giới. Mặt khác, do kinh doanh kém hiệu quả, khả năng tích lũy chưa có nên nguồn vốn đầu tư, cải tiến trang thiết bị còn rất hạn chế, nhìn chung MMTB và công nghệ ở các DN còn lạc hậu, chậm đổi mới. Qua kết quả khảo sát về thực trạng công nghệ, MMTB của các DNNN thuộc tỉnh quản lý (năm 2000) chỉ có 1/28 DN có công nghệ tiên tiến, 25/28 DN có công nghệ trung bình và 2/28 DN có công nghệ lạc hậu. Hệ số đổi mới thiết bị bình quân của các DN là 27,8%, thậm chí có đến 10/28 DN không hề đổi mới thiết bị, công nghệ mặc dù MMTB đã lạc hậu, TSCĐ đã cũ. Đối với các DNVVN ngoài quốc doanh, phần lớn các DN này trước khi thành lập thiếu sự chuẩn bị về kiến thức kinh doanh, công nghệ, thị trường cộng thêm vào là số vốn ít ỏi nên trang thiết bị sản xuất hầu hết là sản xuất trong nước, mà trước hết là mua lại trang thiết bị của các DNNN. Song với tính linh hoạt, nhanh nhẹn của thành phần kinh tế này, để đáp ứng nhu cầu của kinh doanh trong cơ chế thị trường, các DN đã tìm mọi cách xoay xở để đổi mới, cải tạo trang thiết bị phục vụ sản xuất, song tuyệt đại đa số cũng chỉ ở trình độ công nghệ trung bình. Năm 2000 trong 190 DN có 6 DN (3,2%) có trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, trung bình có 177 DN (93,2%), lạc hậu có 7 DN (68%). Bảng 2.7: Trình độ kỹ thuật và công nghệ của các DNVVN (DNTN, CT TNHH, CTCP) trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2000 TT Loại hình doanh nghiệp Tổng số Trình độ kỹ thuật và công nghệ Số lượng % Tiên tiến Trung bình Lạc hậu Số lượng % Số lượng % Số lượng % 1 DN tư nhân 138 100 3 2,17 129 93,48 6 4,35 2 Công ty TNHH 46 100 3 6,52 43 93,48 3 Công ty cổ phần 6 100 5 83,3 1 16,6 Tổng cộng 190 100 6 3,2 177 93,2 7 3,68 Nguồn: Cục Thống kê Quảng Ngãi. Nhận thức được sự cần thiết của vấn đề, các DN càng đặc biệt quan tâm đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường, nhất là các DN chế biến thủy sản và lâm sản xuất khẩu. Qua kết quả khảo sát kinh tế tư nhân trong tỉnh (khảo sát ở 27 DN vào thời điểm cuối năm 2001), bản thân các chủ DN tự đánh giá về trình độ công nghệ sản xuất của DN mình vào thời điểm năm 2000: khá: 7, trung bình: 19, kém: 1, nhưng đến tháng 6/2001 thì khá: 9, trung bình: 18 (xem phụ lục 3). DN khu vực sản xuất cá thể, hầu hết MMTB, công nghệ lạc hậu, lao động thủ công là chủ yếu. Giá trị MMTB chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của cơ sở sản xuất. Điều đó dẫn đến năng suất lao động thấp, mẫu mã sản phẩm xấu, giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường là rất yếu. - Về nhân lực Về số lượng, tổng số lao động trong các DNVVN tính đến thời điểm ngày 31/12/2001 là 104.176 người, chiếm 18,24% lực lượng lao động, bằng 14,92% nguồn nhân lực của cả tỉnh. Với 15.131 hộ kinh doanh cá thể và 284 DN tư nhân và 49 HTX đã thu hút gần 100.000 lao động thuộc các ngành nghề khác. Các DNNN thuộc loại hình vừa và nhỏ do tỉnh quản lý có 37 đơn vị và số lao động là 2.915 người. DNVVN do Trung ương quản lý có 8 đơn vị và số lượng lao động là 1.686 người (xem phụ lục 1). Đó là số lao động thường xuyên trong các DN. Ngoài ra số lao động thời vụ có đến hàng ngàn, đặc biệt là các DN của ngành xây lắp. Phương pháp tuyển dụng lao động ở các DN này chủ yếu thông qua giới thiệu của bạn bè, người thân và qua tiếp xúc cá nhân. Việc đào tạo lao động trong DN chưa được chú trọng, trình độ lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, trình độ văn hóa thấp, thiếu kỹ năng lao động (xem phụ lục 2). Số lao động qua đào tạo bình quân chỉ đạt 12% tổng số lao động nhưng chủ yếu là trong các DNNN, CTCP, TNHH hoặc DNTN, còn trong các hộ kinh doanh cá thể thì hầu hết lao động chưa qua đào tạo [15, tr. 2]. Về việc ký kết hợp đồng lao động và thực hiện chế độ bảo hiểm cho người lao động, mặc dù trong năm qua đã được chủ DN quan tâm song chiếm tỷ lệ còn khá khiêm tốn. Qua kết quả khảo sát tình hình SXKD của 27 DN cho thấy: số người có ký hợp đồng lao động tính đến tháng 6/2001 là 174/813 chiếm tỷ lệ 21,4% (tăng 5,4% so với thời điểm năm 2000). Số người có bảo hiểm xã hội là 94/813 chiếm tỷ lệ 11,57% (tăng 4,47% so với thời điểm năm 2000) (xem phụ lục 3). - Về trình độ quản lý SXKD Trong nền kinh tế thị trường, thiết yếu đòi hỏi cần phải có một đội ngũ những người quản lý DN có kinh nghiệm, có bản lĩnh đồng thời phải nắm vững lý thuyết quản trị DN, hiểu biết luật pháp,... Nhận thức được sự cần thiết đó những năm qua tỉnh đã chú trọng trong việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ quản lý DN, nhất là đối với DNNN. Đến nay thực trạng trình độ chuyên môn của đội ngũ quản lý DNVVN trên địa bàn Quảng Ngãi như sau: Giám đốc các DNNN Trung ương 100% có trình độ đại học, giám đốc các DNNN địa phương 100% có trình độ trung cấp trở lên. Trong các HTX, trình độ chuyên môn của đội ngũ quản lý: Đại học, cao đẳng chỉ có 8 người (5,4%), trung cấp: 41 người (27,89%), sơ cấp: 20 người (13,6%), chưa qua đào tạo: 78 người (53,06%) (xem phụ lục 4). Rất nhiều DNTN, công ty TNHH, CTCP được hình thành trên cơ sở sắp xếp lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý DNNN và HTX nên nhiều chủ DN là CBCNV nhà nước do vậy số có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 24,7%, song cũng còn đến 64,75% chủ DN chưa có bằng cấp (xem phụ lục 5). Đối với chủ cơ sở sản xuất cá thể, phần lớn các chủ cơ sở sản xuất này được kèm cặp qua thực tế, được gia đình truyền nghề, tự học hoặc nâng cao kiến thức qua các lớp bồi dưỡng ngắn,... Nhìn chung có thể nói, phần lớn các chủ DNVVN rất ít được trang bị kiến thức quản lý một cách hệ thống, nhiều chủ DN chưa qua đào tạo, kiến thức quản lý thông qua kinh nghiệm là chủ yếu. Chính vì vậy mà khả năng quản lý kinh doanh còn nhiều hạn chế, tiếp cận thị trường chưa được mở rộng, khả năng liên doanh, liên kết chưa được mạnh dạn. Thêm vào đó tình trạng khá phổ biến trong các DNVVN là các chủ DN ít hiểu biết về pháp luật, chính sách kinh tế, chế độ kế toán,... đó là những trở ngại không nhỏ đối với DNVVN trong hoạt động SXKD trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 2.2.2.3. Thị trường và sức cạnh tranh của DNVVN Cùng với sự phát triển về số lượng DN, ngành nghề kinh doanh ngày càng đa dạng, các sản phẩm, dịch vụ do các DNVVN thực hiện ngày càng tăng về số lượng, đa dạng về chủng loại, làm phong phú thêm thị trường. Một số DN đã có một số loại sản phẩm đạt chất lượng được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận như sản phẩm đặc sản (đường phổi, đường phèn,...), các sản phẩm đông lạnh xuất khẩu: mực, tôm, cá,... Trong một số lĩnh vực như xây dựng, làm đường giao thông quy mô vừa và nhỏ, chế biến nông lâm sản thực phẩm,... các DN ngoài quốc doanh đã từng bước chiếm lĩnh được thị trường, khẳng định vị trí của mình nhờ cơ chế quản lý linh hoạt, mềm dẻo, chủ động tìm và khai thác thị trường, huy động vốn nhanh, chủ động, giữ chữ tín trong kinh doanh. Song do kỹ thuật công nghệ lạc hậu cùng với trình độ quản lý và khả năng tài chính hạn chế nên nhìn chung các DNVVN gặp khó khăn về thị trường, hạn hẹp thị phần, sản phẩm chủ yếu chỉ tiêu thụ tại địa phương, sức cạnh tranh kém. Theo số liệu năm 2000 chỉ có khoảng 26,32% DN có ưu thế chiếm lĩnh thị trường, 62,1% DN kinh doanh trong thế chưa vững chắc và 11,58% không có khả năng cạnh tranh để có thị trường trong nước (xem phụ lục 6). Về khả năng xuất khẩu thì dự đoán chỉ có khoảng 18% DN có triển vọng xuất khẩu trong những năm tới. 2.2.2.4. Hiệu quả kinh doanh của các DNVVN Với quy mô vừa và nhỏ, các DNVVN dễ dàng phát huy những lợi thế của mình: tính linh hoạt cao, thích ứng với sự biến động của thị trường, khả năng thay đổi mặt hàng, mẫu mã nhanh theo thị hiếu của khách hàng, sử dụng nguyên liệu, vật liệu sẵn có ở địa phương,... để từ đó dẫn đến hoạt động SXKD đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với DN thuộc kinh tế tư nhân, xét trên giác độ quản lý cá nhân chủ DN có toàn quyền quyết định độc lập, do đó có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, mọi hoạt động SXKD tiến hành một cách linh hoạt ứng phó nhanh và có hiệu quả thiết thực. Cá nhân chủ sở hữu được quyền hưởng tất cả lợi nhuận tạo ra, điều đó thúc đẩy và tạo động lực cho người chủ làm việc chăm chỉ, cần cù hơn. Phần lớn DNTN đều có quy mô nhỏ, giữa người chủ và người thợ có mối quan hệ bà con, họ hàng, bạn bè, quen biết tin cậy nhau, có thiên hướng tạo ra sự hòa hợp trong DN. Vì vậy đa số các DN đều có những điều kiện thuận lợi để kinh doanh có hiệu quả, tốc độ chu chuyển của vốn nhanh, điển hình như DN Kim Chung trong năm 2001 có doanh thu 17.107 triệu đồng tương ứng với số vốn đầu tư: 600 triệu đồng, Công ty tư vấn cầu đường có doanh thu 2.134 triệu đồng trong khi vốn đầu tư chỉ có 198 triệu đồng... Gần đây, một số DNTN ngành thủy sản và chế biến lâm sản đã tham gia làm hàng xuất khẩu, tạo hướng đi mới, nhằm khai thác lợi thế, góp phần tăng trưởng kinh tế địa phương. Song với thực trạng khó khăn hiện tại (vốn, công nghệ, trình độ lao động, quản lý kinh doanh...) nên hầu hết các đơn vị mới chỉ có khả năng tồn tại được trong thị trường cạnh tranh, số lãi đạt được ở từng DN còn thấp, hiệu quả sinh lời của đồng vốn chưa cao. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục thuế Quảng Ngãi, trong số 200/284 DN kinh tế tư nhân gửi báo cáo năm 2001, tổng số doanh thu thuần các DN đạt được là 557.690 triệu đồng, số DN hoạt động hòa vốn và có lãi là 161/200 DN với số lãi 5.957 triệu đồng, số DN hoạt động còn bị lỗ là 39/200 DN với số lỗ là 1.552 triệu đồng, hiệu suất sinh lời của đồng vốn là 0,0269. Đối với HTX, theo báo cáo của Hội đồng Liên minh các HTX Quảng Ngãi trong năm 2001 toàn tỉnh có 21/49 HTX loại khá (là HTX hoạt động SXKD có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi ròng hàng năm đạt từ 50 triệu đồng trở lên); có 25/49 HTX loại trung bình (là HTX hoạt động SXKD không ổn định, phương án SXKD vẫn như trước khi chuyển đổi, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước chưa đầy đủ và lãi ròng hàng năm đạt dưới 50 triệu đồng); 3/49 HTX yếu kém (là HTX trong hoạt động SXKD còn gặp nhiều khó khăn, các nguyên tắc của HTX và nghĩa vụ đối với Nhà nước không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, thu nhập của HTX chỉ đủ nuôi bộ máy quản lý). Tổng doanh thu các HTX phi nông nghiệp thực hiện được trong năm 2001 là 25.940 triệu đồng, tổng số lãi thực hiện là 1.534 triệu đồng, tổng số lỗ là 12 triệu đồng [18, tr. 3]. Đối với các DNNN, qua sắp xếp, đổi mới phần lớn các DN đã khai thông được bế tắc trong SXKD, hoạt động có hiệu quả hơn, lợi nhuận và nộp ngân sách đều tăng hơn trước. Số DN kinh doanh có hiệu quả từ 17% (năm 1995) tăng lên 54% năm 2001, số kinh doanh thua lỗ từ 30% (năm 1995) giảm còn 20% (năm 2001). Số DN hoạt động cầm chừng tuy có lãi nhưng không đáng kể còn chiếm 26% tổng số DNNN địa phương [46, tr. 2]. Về khả năng đóng góp vào ngân sách nhà nước của các DNVVN thì chỉ tính đóng góp của DNVVN thuộc DNNN địa phương trong những năm qua (1996-2000) có xu hướng giảm: năm 1996 là 15,389 tỷ đồng; 1997 là 12,599 tỷ đồng; 1998 là 9,849 tỷ đồng; 1999 là 9,245 tỷ đồng; 2000 là 11,829 tỷ đồng nhưng số thu thuế công thương ngoài quốc doanh có xu thế tăng lên: 1996 là 33,101 tỷ đồng; 1997 là 28,901 tỷ đồng; 1998 là 30,095 tỷ đồng; 1999 là 32,538 tỷ đồng; 2000 là 48,594 tỷ đồng; 2001 là 42,609 tỷ đồng. So với số thu cả tỉnh chỉ tính riêng số thuế của kinh tế tư nhân thì năm 2001 đã chiếm gần 25% tổng thu thuế trên địa bàn. 2.2.2.5. Tác động đối với kinh tế - xã hội của tỉnh DNVVN có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt là đối với tỉnh Quảng Ngãi khi việc đầu tư hình thành các DN quy mô lớn đang có nhiều hạn chế về vốn, về kết cấu hạ tầng, về trình độ công nghệ, trình độ quản lý,... thì việc phát triển DNVVN có ý nghĩa quyết định để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế năng động và bền vững. Thực tế đã kiểm nghiệm điều đó, nền kinh tế Quảng Ngãi từ khi đổi mới

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.pdf
Tài liệu liên quan