Tài liệu Luận văn Phương thức giải quyết các tranh chấp trong thương mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay: Luận văn: Giải quyết các tranh chấp trong thương mại
Quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Giải quyết các tranh chấp trong thương
mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay
CHƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƠNG MẠI BẰNG THỦ TỤC TRỌNG TÀI
1.1. TRANH CHẤP THƠNG MẠI
1.1.1. Tranh chấp kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm
Ngay từ xa xa, khi Nhà nớc còn cha hình thành thì mọi ngời đã tiến hành các hoạt
động sản xuất và trao đổi sản phẩm hàng hoá theo các phơng thức giản đơn khác nhau.
Hay nói một cách khác, lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế có từ rất lâu trớc khi Nhà
nớc xuất hiện và đa ra nx chế định để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội cùng với sự ra
đời và phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội, tranh chấp cũng phát sinh và đặt ra nhu
cầu đợc giải quyết sao cho công bằng và hợp lý nhất trong bối cảnh kinh tế - chính trị - xã
hội đó.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung đợc hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi
và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liê...
68 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phương thức giải quyết các tranh chấp trong thương mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Giải quyết các tranh chấp trong thương mại
Quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Giải quyết các tranh chấp trong thương
mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay
CHƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƠNG MẠI BẰNG THỦ TỤC TRỌNG TÀI
1.1. TRANH CHẤP THƠNG MẠI
1.1.1. Tranh chấp kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm
Ngay từ xa xa, khi Nhà nớc còn cha hình thành thì mọi ngời đã tiến hành các hoạt
động sản xuất và trao đổi sản phẩm hàng hoá theo các phơng thức giản đơn khác nhau.
Hay nói một cách khác, lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế có từ rất lâu trớc khi Nhà
nớc xuất hiện và đa ra nx chế định để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội cùng với sự ra
đời và phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội, tranh chấp cũng phát sinh và đặt ra nhu
cầu đợc giải quyết sao cho công bằng và hợp lý nhất trong bối cảnh kinh tế - chính trị - xã
hội đó.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung đợc hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi
và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn này có thể phát
sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng đợc gọi theo
ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lơng giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động
đợc gọi là tranh chấp lao động. Tơng tự nh vậy, tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai ...
những tranh chấp rõ là có liên quan đến lợi ích kinh tế của các bên. Do đó chúng có thể
đợc gọi là tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc trng của các tranh chấp kinh tế theo
nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ này không nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận.
Trong phạm vi hẹp, quan hệ kinh tế là quan hệ giã các chủ thể kinh doanh trong lĩnh
vực kinh tế. Kể từ khi nớc ta có pháp luật về hợp đồng kinh tế, những tranh chấp phát sinh
từ quan hệ hợp đồng kinh tế gọi là tranh chấp kinh tế, đó là sự bất đồng quan điểm của các
bên về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng kinh tế. Song trong
nền kinh tế thị trờng mở cửa và nhiều thành phần kinh tế hiện nay, tranh chấp kinh tế
không chỉ đơn thuần là tranh chấp hợp đồng kinh tế, mà còn nhiều loại tranh chấp khác,
phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh nh: tranh chấp giã công ty và các thành
viên công ty; giữa các thành viên công ty với nhau, các tranh chấp liên quan đến việc mua
bán cổ phiếu, trái phiếu...
Tóm lại: "tranh chấp kinh tế là tranh chấp trong quan hệ kinh doanh " Kinh doanh nh
quy định tại Khoản 2 - Điều 3 - Luật doanh nghiệp "Là việc thực hiện một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu t, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh lời" Chủ thể của các hoạt động kinh doanh là
các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, vì thế có thể có một khái niệm về tranh chấp kinh tế
nh sau: "Tranh chấp kinh tế là những bất đồng, xung đột, mâu thuẫn xảy ra ở các doanh
nghiệp, đơn vị kinh tế trong quá trình thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể doanh
nghiệp".
1.1.1.2. Phân loại tranh chấp kinh tế
Trong nền kinh tế thị trờng mở, nhiều thành phần các quan hệ kinh doanh rất đa
dạng và phức tạp. Tranh chấp kinh tế cũng vì vậy mà phức tạp không kém. Việc phân loại
tranh chấp kinh tế giúp chúng ta đơn giản hoá đợc chúng và có cách xa phù hợp.
* Theo mối quan hệ giữa các chủ thể thì tranh chấp kinh tế có thể là:
- Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với
cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Tranh chấp giữa các công ty với các thành viên công ty hoặc giữa các thành viên
công ty liên quan đến việc thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật
* Tranh chấp trong hợp đồng kinh tế và tranh chấp ngoài hợp đồng kinh tế.
* Tranh chấp kinh tế trong nớc và tranh chấp kinh tế có yếu tố nớc ngoài.
* Theo lĩnh vực kinh doanh thì gồm: tranh chấp thơng mại, tranh chấp về tài chính,
tranh chấp đầu t, tranh chấp về bảo hiểm, tranh chấp về vận chuyển hàng hoá...
* Theo thẩm quyền giải quyền thì gồm có tranh chấp do Toà án giải quyết và tranh
chấp do các tổ chức khác giải quyết.
* Theo số lợng đơng sự trong tranh chấp gồm có tranh chấp liên quan đến hai bên và
tranh chấp liên quan đến nhiều bên.
1.1.2. Tranh chấp thơng mại
1.1.2.1. Khái niệm
Một cách đơn giản có thể hiểu tranh chấp thơng mại là tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực thơng mại. Điều 238 Luật thơng mại Việt Nam nêu ra khái niệm về tranh chấp
thơng mại "là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hợp đồng trong hoạt đồng thơng mại".
Tại Khoản 2 - Điều 5 cũng quy định "hoạt động thơng mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thơng mại của thơng nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch
vụ thơng mại và các hoạt động xúc tiến thơng mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm
thực hiện các chính sách kinh tế xã hội".
Tuy nhiên, hành vi thơng mại gồm những hành vi nào là điều đáng quan tâm hơn cả.
Hiện nay trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về hành vi thơng mại:
Ở Việt Nam, Điều 45 Luật thơng mại quy định các loại hành vi thơng mại gồm:
1. Mua bán hàng hoá
2. Đại diện cho thơng nhân
3. Môi giới thơng mại
4. Uỷ thác mua bán hàng hoá
5. Đại lý mua bán hàng hoá
6. Gia công trong thơng mại
7. Đấu giá hàng hoá
8. Dịch vụ giao nhận hàng hoá
9. Đấu thầu hàng hoá
10. Dịch vụ giám định hàng hoá
11. Khuyến mại
12. Quảng cáo thơng mại
13. Trng bày giới thiệu hàng hoá
14. Hội chợ, triển lãm thơng mại
Tuy vậy, ngoại diên của khái niệm hành vi thơng mại ở các nớc có nền kinh tế thị
trờng phát triển có phạm vi rộng hơn nhiều. Ở Anh nói riêng và cộng đồng Anh ngữ nói
chung thuật ngữ "Commerce" không đồng nhất với "trade", mà nó bao gồm cả "trade",
"bank", "insurrance" , "transport", ... hay nói một cách khác thơng mại bao gồm cả việc
mua, bán, các sản phẩm vô hình có tính chất đặc thù khác. Tác động thơng mại là hoạt
động "thờng xuyên, độc lập và mu cầu lợi nhuận", và theo luật thơng mại của Pháp, hoạt
động thơng mại bao gồm:
1. Mua bán động sản với mục đích bán lại để kiếm lời
2. Hoạt động trung gian trong việc mua bán động sản và bất động sản.
3. Cho thuê động sản và bất động sản.
4. Chế tạo và chuyên chở
5. Hoạt động đổi tiền và ngân hàng
6. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Và tranh chấp thơng mại là tranh chấp trong các hoạt động trên. Trong giới hạn của
bài viết ở đây chỉ làm rõ tranh chấp trong hoạt động thơng mại đã đợc quy định tại luật
thơng mại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/1998.
1.1.2.2. Phân loại tranh chấp thơng mại
Tranh chấp thơng mại cũng là một tranh chấp kinh tế, do đó tranh chấp thơng mại có
thể là:
* Theo phạm vi lãnh thổ: Tranh chấp thơng mại trong nớc và tranh chấp thơng mại
quốc tế.
* Tranh chấp hai bên và tranh chấp nhiều bên
* Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên
- Tranh chấp do ngời mua không thực hiện hay thực hiện không đúng theo quy định
của hợp đồng.
- Tranh chấp do ngời bán không thực hiện hay thực hiện không đúng theo quy định
hợp đồng.
* Tranh chấp hiện tại và tranh chấp tơng lai. Tranh chấp hiện tại là tranh chấp đã xảy
ra đang cần đợc giải quyết. Tranh chấp tơng lai đợc hiểu là tranh chấp có thể xảy ra và
việc giải quyết đợc dự liệu trong một điều khoản của hợp đồng.
* Theo nghiệp vụ giao dịch
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến viêc thanh toán
* Theo tính pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý và hiệu lực của hợp đồng)
- Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng
Vi phạm nguyên tắc ký kết
Căn cứ ký kết không hợp pháp
Chủ thể ký kết hợp đồng không hợp pháp, hợp lệ
- Tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp đồng
- Tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng
* Theo tiến trình thực hiện hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng
+ Do ngời bán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình
nh đã thoả thuận trong hợp đồng (liên quan đến nghĩa vụ giao hàng, cung cấp chứng từ
hàng hoá, thông qua kiểm định...).
+ Do ngời mua không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình
trong hợp đồng (không mở L/C đúng hạn, thanh toán chậm hay không thanh toán, không
hoặc trì hoãn việc nhận hàng).
1.1.2.3. Tranh chấp thơng mại.
* Tranh chấp thơng mại là tranh chấp phát sinh từ những quan hệ có do ngành luật
thơng mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trng khác biệt so với tranh chấp dân sự,
tranh chấp lao động.
Thứ nhất, tranh chấp thơng mại thờng là nguyên nhân phát sinh thiệt hại về vật chất
đối với các bên khi các bên có sự thoả thuận thông nhất một cách giải quyết có lợi nhất
cho cả hai bên. Khác với các tranh chấp khác, tranh chấp thơng mại thờng có giá trị lớn
đợc phát sinh trong việc đầu t vốn, tài sản nhằm thu lợi nhuận. Tranh chấp nảy sinh sẽ ảnh
hởng đến hoạt động kinh tế của không những các đơng sự mà còn ảnh hởng đến các chủ
thể kinh doanh khác.
Thứ hai, quan hệ thơng mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thơng mại là
điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Hoạt động thơng mại của doanh nghiệp là
hoạt động thiết lập một mạng lới các hành vi thơng mại, mà mục tiêu của các bên khi tham
gia vào các quan hệ này là lợi nhuận. Các bên tuy hợp tác, song vẫn canh tranh nhau để
thu về đợc lợi ích nhiều nhất. Chính vì thế sẽ không tránh khỏi những mâu thuẫn bất đồng
trong việc giải thích về quyền và nghĩa vụ, cũng nh quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ
đó của các bên - đó chính là những tranh chấp thơng mại.
Thứ ba, tranh chấp thơng mại là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể đợc Nhà nớc
thừa nhận quyền doanh nghiệp có chức năng kinh doanh đó là các doanh nghiệp. Vì vậy
không phải tranh chấp nào phát sinh từ hoạt động kinh doanh cũng là tranh chấp thơng mại.
Là tranh chấp thơng mại khi các đơn vị kinh tế có đăng ký kinh doanh thuộc tất cả các
thành phần kinh tế (các doanh nghiệp Nhà nớc, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Doanh
nghiệp t nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, hộ kinh doanh cá thể ).
Thứ t, tranh chấp thơng mại có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh chấp này có thể
dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị trờng. Mặt khác, mua bán trao đổi là hoạt
động diễn ra thờng xuyên, liên tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối
quan hệ kinh tế khiến cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan
đến nhau khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến tranh chấp
trong mối quan hệ khác. Chẳng hạn doanh nghiệp A vay tiền của ngân hàng để mua nguyên
vật liệu của doanh nghiệp B và bán sản phẩm cho doanh nghiệp C theo các hợp đồng đã ký.
Nếu doanh nghiệp B không cung cấp đúng nguyên vật liệu nh đã thoả thuận thì doanh nghiệp
A cũng sẽ không giao đợc hàng cho bên C nh trong hợp đồng và không thu hồi đợc vốn đầu
t để trả cho ngân hàng. Tranh chấp phát sinh giữa doanh nghiệp A và doanh nghiệp B;
doanh nghiệp A và doanh nghiệp C; doanh nghiệp A và ngân hàng.
1.1.2.4. Tính tất yếu tồn tại tranh chấp thơng mại trong nền kinh tế thị trờng.
Kinh tế thị trờng là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, sản phẩm đợc sản xuất ra để bán,
trao đổi trên thị trờng, mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều là đối tợng tự do mua bán trên thị
trờng kể cả sản phẩm chất xám. Kinh tế thị trờng là nền kinh tế tiền tệ hoá rất cao, mục
đích của các chủ thể khi tham gia vào kinh tế thị trờng là lợi nhuận, lợi nhuận càng cao
càng tốt.
Trong cơ chế thị trờng, các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ rất cao và họ có toàn
quyền quyết định việc thiết lập các quan hệ kinh tế - thơng mại của mình miễn là không
trái với quy định của pháp luật. Chính vì vậy các quan hệ thơng mại trong nền kinh tế rất
đa dạng và phức tạp. Tính phức tạp và chồng chéo đan xen của các quan hệ thơng mại ẩn
chứa một nguy cơ cao phát sinh tranh chấp. Chỉ một trục trặc nhỏ trong "mắt xích" sẽ làm
kéo theo hàng loạt các trục trặc khác và làm nảy sinh tranh chấp.
Các chủ thể kinh kế khi tham gia vào những quan hệ thơng mại mà họ cho là có lợi,
có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất và khi mà mục đích có nguy cơ không đạt đợc
cũng sẽ làm phát sinh tranh chấp. Trong quan hệ thơng mại, quyền lợi của bên này cũng
tơng ứng với một nghĩa vụ của bên kia, điều đó khiến cho xung đột lợi ích sẽ phát sinh nếu
các bên không đi đến một thoả thuận thống nhất dung hoà đợc quyền lợi và nghĩa vụ của
họ. Đảm bảo nguyền tắc cùng có lợi trong quan hệ thơng mại.
Đặc biệt trong thơng mại quốc thế sự khác nhau về tập quán kinh doanh cũng là một
lý do quan trọng dẫn đến tranh chấp. Tập quán kinh doanh ở đây đợc hiểu là toàn bộ các
quyết định luật pháp, quy tắc thực hành, thông lệ... trong hoạt động thơng mại ở mỗi quốc
gia, mỗi khu vực kinh tế. Một hành vi đợc coi là hợp pháp ở quốc gia này nhng rất có thể
là hành vi vi phạm pháp luật ở nớc khác. Chẳng hạn theo quy định nhập khẩu của Trung
Quốc, hàng hoá nhập khẩu vào Trung Quốc bắt buộc phải in mã số mã vạch trên bao bì,
nhãn hiệu hàng hoá. Các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trờng Trung Quốc nếu không tìm
hiểu rõ quy định này và xuất hàng cha đăng ký và in mã số, mã vạch thì sẽ không đợc
thông qua nhập khẩu và thế là tranh chấp phát sinh. Hay nh quy định về hạn ngạch dệt
may của Mỹ khác với quy định của EU là ở loại hạn ngạch tính theo số lợng nhập khẩu....
Các rủi ro khách quan nh: sự thay đổi pháp luật, cấm vận, chiến tranh, bạo loạt, đình
công... ảnh hởng đến việc thực hiện hợp đồng của các bên làm phát sinh tranh chấp. Mặc
dù đó có thể là những trờng hợp bất khả kháng, song việc giải quyết hậu quả, phân định mức
thiệt hại cho mỗi bên cũng có thể phát sinh tranh chấp. Tranh chấp còn phát sinh khi một bên
cho rằng rủi ro không nằm trong các trờng hợp đợc miễn trách.
Trong nền kinh tế thị trờng đạo đức kinh doanh không phải lúc nào cũng đợc các bên
tôn trong, đặc biệt là việc giữ chữ tín với bạn hàng. Vì lợi nhuận họ sẵn sàng có những
hành động cố tình vi phạm hợp đồng, hoặc lừa đào khách hàng... làm thiệt hại cho đối tác.
Bản thân mục tiêu lợi nhuận không mang tính đạo đức nhng cách thức để đạt đợc lợi
nhuận thì có và tranh chấp phát sinh, trong trờng hợp này thuộc về lý do chủ quan. Rõ
ràng trong nền kinh tế thị trờng quan hệ kinh tế trở lên sống động, đa dạng và phức tạp.
Mục đích nhằm tối đa hoá lợi nhuận trở thành động lực trực tiếp của các bên tham gia
quan hệ kinh tế thơng mại. Trong điều kiện đó, tranh chấp là một vấn đề tất yếu, không thể
tránh khỏi, đòi hỏi phải có sự quan tâm giải quyết một cách thoả đáng. Điều này vừa là
một yêu cầu nghiêm ngặt của nguyên tắc pháp chế vừa là một đòi hỏi bức xúc của quan hệ
kinh tế nói chung và quan hệ thơng mại nói riêng.
1.1.3. Giải quyết tranh chấp thơng mại trong nền kinh tế thị trờng
Cùng với sự phát triển của kinh tế, tính đa dạng và phức tạp trong quan hệ thơng mại
làm cho tranh chấp thơng mại cũng trở lên phức tạp về nội dung, gay gắt về mức độ tranh
chấp và phong phú hơn nhiều về chủng loại xuất phát từ lợi nhuận của các bên và sự hấp
dẫn của nền kinh tế, việc giải quyết tranh chấp là hết sức quan trong và cần thiết.
1.1.3.1. ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả.
Khi bắt đầu một thơng vụ, các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp xảy ra bởi
tranh chấp đồng nghĩa với sự ảnh hởng đến hoạt động kinh doanh của họ, làm gián đoạn
quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi phí và công sức để giải quyết tranh chấp. Không
những thế còn liên quan đến chủ thể khác có quan hệ với các bên tranh chấp, uy tín của
chủ thể trên thơng trờng có thể bị ảnh hởng, cũng nh các yếu tố khác thuộc về bí mật kinh
doanh có thể bị tiết lộ hoặc bị lợi dụng...
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn chế đến mức
tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng nh đặt ở mức chi phí thấp nhất. Song,
quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các
bên khi tham gia vào kinh tế thơng mại.
Giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Muốn có
một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ kinh tế thơng mại
nói riêng phải đợc điều chỉnh bằng pháp luật, phải đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên
là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra bằng cách đặt ra các chế định và chế tài tạo thành
một "sân chơi" lành mạnh và công bằng. Khi tranh chấp xảy ra phải có các thủ tục, biện
pháp để giải quyết, nếu không giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây da kéo dài và thiệt hại
rất lớn. Điều đó không những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền kinh tế mà còn gây nên
một khuyết điểm lớn của môi trờng kinh doanh, các chủ thể sau tranh chấp có thể "quay
lng" lại với nhau đố kỵ và không tin tởng lẫn nhau. Một tâm lý yên tâm làm ăn kinh tế,
mạnh dạn đầu t sẽ góp phần cải thiện nền kinh tế.
Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực kỳ quan trong việc quản
lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiập, vừa góp phần tạo
môi trờng pháp lý có kỷ cơng. Trong sản xuất kinh doanh tạo niềm tin, thực hiện công
bằng và bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nớc và ngoài nớc. Thực hiện sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
Tính hiệu quả đợc xét ở hai góc độ hiệu quả chuyên môn và hiệu quả kinh tế. Muốn
vậy trong khi tiến hành một hình thức giải quyết tranh chấp nào cũng phải tuân thủ một số
nguyên tắc.
1.1.3.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
Dựa trên cơ sở tự do và tự chủ trong kinh doanh, bình đẳng trớc pháp luật, việc giải
quyết tranh chấp phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự định đoạt: Theo nguyên tắc này thể hiện trớc hết là ở chỗ các bên có
quyền thoả thuận phơng thức giải quyết tranh chấp có lợi nhật có thể là tự thơng lợng,
hoặc thông qua trung gian hoà giải, hoặc thông qua một hình thức tài phán. Sau đó các bên
có thể không nhất thiết phải tham gia tố tụng mà có thể uỷ quyền cho ngời khác tham gia
tố tụng, có quyền nhờ luật s hoặc ngời khác bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cuối cùng
khi đã đa tranh chấp ra trọng tài hoặc toà án các bên có quyền hoà giải hoặc thay đổi nội
dung đơn kiện hoặc rút đơn kiện.
- Nguyên tắc bình đẳng trớc pháp luật: Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của các bên không phân biệt thành phần kinh tế, số vốn, tài sản.
- Nguyên tắc hoà giải: Trớc hết các bên phải tiến hành tự hoà giải, chỉ khi nào không
hoà giải đợc mới nhờ đến các cơ quan tài phán giải quyết. Khi thụ lý vụ án các cơ quan tài
phán cũng tiến hành các biện pháp hoà giải và công nhận hoà giải trớc khi xét xử. (Quy
định tại Điều 35 pháp lệnh giải quyết vụ án tranh chấp kinh tế, Điều 35 quy tắc tố tụng
trọng tài trong nớc và Điều 35 quy tắc tố tụng của trung tâm trong tài quốc tế Việt Nam).
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, đảm bảo hạn chế gián
đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh đợc thực hiện theo chu trình
sản xuất khép kín, vì vậy ở bất kỳ một công đoạn nào xảy ra trục trặc đều dẫn đến ảnh
hởng toàn bộ quá trình kinh doanh. Giải quyết tranh chấp không đợc tiến hành một cách
nhanh chóng kịp thời sẽ ảnh hởng tới sự tồn tại và phát triển vững mạnh của chủ thể kinh
doanh. Nhanh chóng, kịp thời nhng phải dứt điểm, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ
lợi ích hợp pháp của các bên.
Ngoài ra, xuất phát từ mức độ lợi ích của doanh nghiệp, việc giải quyết tranh chấp
phải quan tâm đến một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, là giải quyết đớc tranh chấp với chi phí thấp nhất về tiền bạc và thời gian chi
phí để bỏ ra giải quyết tranh chấp cũng là chi phí kinh doanh, vì vậy khi phát sinh tranh chấp
là nảy sinh thêm chi phí. Đặt ra yêu cầu phải hạn chế ở mức thấp nhất các chi phí không mang
lại hiệu quả kinh doanh này. Các bên nên lựa chọn giải quyết với chi phí thấp nhất, đồng thời
các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng phải tính đến yêu cầu này để đặt ra nhng quy định phù
hợp, tạo niềm tin cho ngời kinh doanh.
Thứ hai, phải bảo vệ đợc uy tín của các bên trong thơng trờng. Trong quá trình giải
quyết tranh chấp, không bên nào đợc đa ra bất kỳ một thông tin nào ngoài phạm vi giải
quyết tranh chấp, nhằm hạ uy tín hay ảnh hởng tiêu cực đến hình ảnh của đối phơng trên
thơng trờng, trớc công luận, hay trớc tổ chức giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp phải bảo đảm các yếu tố bí mật trong kinh doanh trong
hoạt động kinh doanh để có đợc thành công thì các chủ thể đều có những bí quyết riêng
của mình vì vậy họ không muốn đề ngời khác biết. Khi mà quyền kinh doanh đợc coi là
hợp pháp thì quyền giữ bí mật trong kinh doanh cũng đợc pháp luật bảo hộ.
Trong các phơng thức giải quyết tranh chấp chỉ có thông qua toà án là xét xử công
khai nhng ngay cả trong trờng hợp các bên kiện ra toà, thì yêu cầu về tính bảo mật và uy
tín cũng đợc tôn trọng nh quy định ở Điều 7 pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế: "Các vụ án kinh tế đợc xét xử công khai trừ trờng hợp cần giữ bí mật Nhà nớc hoặc giữ
bí mật của đơng sự theo yêu cầu chính đáng của họ".
Trong nền kinh tế, có nhiều phơng thức và loại hình giải quyết tranh chấp khác nhau,
tất cả đều nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất, quyền và lợi ích của các bên đều
đợc bảo đảm. Các khả năng, hình thức và biện pháp giải quyết tranh chấp đợc quy định
trong pháp luật của mỗi quốc gia thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Đó là việc giải quyết tranh chấp thông qua một cơ quan tài phán có đơn kiện, hoặc giải
quyết tranh chấp thông qua thủ tục đơn kiện.
1.1.3.3. Các biện pháp giải quyết tranh chấp.
a. Giải quyết tranh chấp bằng thơng lợng.
Đây là biện pháp các bên áp dụng trớc khi đi kiện khi pháp sinh tranh chấp. Các bên
sẽ đa ra trao đổi bàn bạc các biện pháp để đi đến thống nhất chung cho việc giải quyết
tranh chấp. Các bên có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện gặp nhau đàm phán để giải
quyết những vấn đề phát sinh. Đại diện củ7a mỗi bên có thể là giám đốc, là ngời đợc giám
đốc uỷ quyền hoặc luật s thay mặt doanh nghiệp đó tham gia vào quá trình thơng lợng. Việc
thơng lợng có thể tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các hình thức trao đổi thông tin.
Trong hình thức thơng lợng, các bên có quyền tự do ý trí, bình đẳng, cùng nhau xem
xét vấn đề trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành. Nếu các bên đạt đợc sự thoả
thuận thì coi nh tranh chấp đợc giải quyết.
Biện pháp thơng lợng là biện pháp giải quyết đơn giản, tiết kiệm đợc thời gian và
chi phí đối với mỗi bên. Việc thơng lợng còn thể hiện sự thiện chí thơng lợng của các bên
trong việc giải quyết tranh chấp, sau khi đã thoả thuận thống nhất các bên vẫn giữ đợc mối
quan hệ tốt với nhau trong các thơng vụ sau này, cũng nh giữ đợc uy tín và bảo vệ đợc bí
mất kinh doanh.
Tuy vậy biện pháp này thờng chỉ thành công khi các bên cùng có thiện chí trong việc
giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên tỏ ra quá nóng vội, khiêu khích thì quá trình
thơng lợng coi nh thất bại. Mặt khác, nếu mâu thuẫn quá phức tạp các bên không giữ đợc
cách đánh giá khách quan thì rất khó thoả hiệp. Hoặc nếu tranh chấp liên quan đến nhiều
bên, tranh chấp mà việc giải quyết nó nằm ngoài khả năng của các bên thì phải có một bên
thứ ba hoặc một cơ quan hoà giải mới giải quyết đợc chứ thơng lợng không giúp ích gì
nhiều.
b. Giải quyết tranh chấp bằng trung gian hoà giải.
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên thông qua một ngời thứ ba
gọi là hoà giải viên. Hoà giải viên đợc các đơng sự chọn có nghĩa vụ "trung lập" tạo điều
kiện giúp đỡ các bên tranh chấp đạt đợc một giải pháp để điều hoà lợi ích khắc phục mâu
thuẫn bất đồng đã phát sinh.
Hoà giải viên sẽ tiến hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả hai bên
để tìm hiểu kỹ nội dung tranh chấp, đa ra những lý giải, phân tích cho các bên thấy rõ lợi
ích của mình và của bên kia để cùng tìm ra một giải pháp thống nhất giải quyết tranh chấp
hợp tình hợp lý. Hoà giải viên không có quyền hạn gì để ra quyết định hoặc áp đặt một
giải pháp nào đối với các bên, cũng nh không thể đa ra các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp mang tính chất tự nguyện, nó mang đầy
đủ những u điểm của thơng lợng. Ngoài ra, hoà giải còn có những u điểm khiến không giải
quyết tranh chấp dễ dàng hơn. Chẳng hạn hoà giải viên thờng là những chuyên gia am hiểu
về vấn đề đang tranh chấp, họ lại có một đánh giá sự việc khách quan hơn, hoà giải viên có
thể đa ra giải quyết cho cả hai bên cùng tham khảo, họ thờng có những phân tích chính xác,
rõ ràng các vấn đề thực tế trong tranh chấp, từng bớc gỡ từng bớc "mút" bất đồng.
Hoà giải cũng chỉ thành công khi hai bên có thiện chí giải quyết tranh chấp và nhìn
chung thể thức này không có giá trị bắt buộc trừ khi các bên đạt đợc sự thoả thuận. Nếu
các bên cứ khăng khăng bảo thủ thì tranh chấp cũng không giải quyết đợc vì hoà giải viên
không đa ra những quyết định buộc các bên phải thi hành.
Ngời trung gian hoà giải đợc chọn thông qua sự thống nhất thoả thuận của các bên.
Đó có thể là các tranh chấp trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Trong hoạt động kinh tế
đối ngoại, đặc biệt trong thơng mại quốc tế trung gian hoà giải có thể là một tổ chức Chính
phủ nh đại sứ quán các trung tâm xúc tiến thơng mại... hoặc là các tổ chức phi Chính phủ .
Hai phơng thức trên có giải quyết tranh chấp thành công hay không đều phụ thuộc
rất lớn vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên. Thiếu những yếu tố đó việc giải quyết
tranh chấp sẽ thất bại. Do đó cần giải quyết bằng những phơng thức khác, quyết định của
cơ quan giải quyết tranh chấp phải đợc tuân thủ. Ngời có quyền lợi bị vi phạm sau khi
không thành công trong việc áp dụng của các biện pháp trên (hoặc bỏ qua) có thể kiện ra
toà án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền lợi của mình.
c. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục toà án.
Điều 1 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã quy định về quyền yêu cầu Toà
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nh sau "cá nhân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật
quy định, có quyền khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu toàn án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình''.
Tranh chấp kinh tế nói chung và tranh chấp thơng mại nói riêng đợc kiện đối và xét
xử ở toà kinh tế. Toà án có thẩm quyền xét xử các tranh chấp pháp sinh từ tất cả các mối
quan hệ kinh tế trong nớc kể cả thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Thẩm quyền giải quyết của toà án đợc phân cấp, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn
của nguyên đơn.
+ Thẩm quyền theo cấp:
Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp
đồng kinh tế mà giá trị thấp dới 50 triệu, trừ những tranh chấp có yếu tố nớc ngoài.
Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án kinh tế thuộc
thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện.
Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm các vụ
án kinh tế.
Toà án phúc thẩm Toà án nhân dân tối cac xét xử phúc thẩm các bản án sơ thẩm của
toà án kinh tế Toà án nhân dân cấp huyện.
+ Thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ: Toà án cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là
Toà án nơi bị đơn có trụ sở hoặc c trú. Nếu vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì toà án
có nơi có bất động sản giải quyết.
+ Theo yêu cầu giải quyết của nguyên đơn: Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án
để yêu cầu giải quyết trong các trờng hợp sau: Toà án an có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi
c trú của bị đơn hoặc chi nhánh của bị đơn.
Toà án nơi thực hiện hợp đồng kinh tế nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi c trú khác
nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi c trú hoặc có trụ sở của một trong các bị
đơn giải quyết vụ án.
Nếu vụ án có liên quan đến bất động sản thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi
có bất động sản hoặc nơi c trú của bị đơn giải quyết, hoặc chọn một trong các nơi nếu liên
quan đến bất động sản ở nhiều nơi.
Đối với tranh chấp có yếu tố nớc ngoài xảy ra ở Việt Nam, Toà án cũng có thẩm
quyền xét xử, trừ trờng hợp điều ớc quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký
kết hoặc tham gia có quy định khác.
Muốn đa tranh chấp ra kiện ở Toà án nguyên đơn phải có đơn và tài liệu chứng minh
cho yêu cầu của mình, đồng thời phải tạm ứng án phí. Trớc khi xét xử Toà sẽ tiến hành
hoà giải. Nếu hoà giải thành thì thẩm phán lập biên bản hòa giải thành và coi đây nh là
quyết định của Toà án, bằng không cũng lập biên bản hoà giải không thành và tiếp tục xét xử.
Việc xét xử gồm xét xử sơ thẩm và phúc thẩm (nếu có). Sau phiên sơ thẩm, nếu không nhất trí
với quyết định của Toà thì các đơng sự vẫn có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, trong
thời gian 10 ngày, lên Toà án trên một cấp. Bản án phúc thẩm sau khi tuyên thì có hiệu lực
pháp luật ngay và không đợc quyền kháng cáo.
Trong một số trờng hợp đặc biệt sau khi thi hành án, có thể có những phiên giám đốc
thẩm và tái thẩm.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại Toà án thờng là giải pháp cuối cùng
của các bên bởi quyết định của Toà án có tính cỡng chế rất cao vì đợc đảm bảo bằng bộ
máy thi hành và giám sát thi hành án của Nhà nớc. Ngoài ra trong quá trình thụ lý và xét
xử , Toà án có thể đa ra những "biện pháp khẩn cấp tạm thời" nh tạm giữ tài sản, phong
toả tài khoản... để bảo vệ bằng chứng, bảo đảm việc thi hành án.
Tuy nhiên, tranh chấp kinh tế trên thế giới thờng ít đợc kiện ra Toà án vị nhiều lý do.
Trớc hết đó là trong thủ tục Toà án, quyền tự quyết của các đơng sự ở mức thấp nhất so
với các phơng thức khác, pháp luật can thiệp trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp.
Các bên sẽ phải tuân thủ theo những thủ tục cứng nhắc, bắt buộc, phức tạp và kéo dài, án
phí lại thờng cao. Thứ hai, một khi đã đa tranh chấp ra Toà thì những bí mật kinh doanh
cũng nh uy tín của doanh nghiệp sẽ không đợc bảo toàn, cho dù doanh nghiệp là bên thắng
kiện. Thứ ba, khi đã kiện tụng trớc Toàn thì quan hệ hợp tác giữa hai bên khó có thể duy
trì, doanh nghiệp sẽ mất một đối tác, một bạn hàng nghĩa là mất nguồn lợi do quan hệ kinh
tế đem lại.
d. Giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục trọng tài
Tranh chấp thơng mại có thể đợc giải quyết thông qua trọng tài kinh tế. Đây là một
phơng thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thoả thuận lập ra nhằm giải quyết dứt điểm
các vụ tranh chấp. Trọng tài kinh tế tồn tại từ rất lâu và phát triển mạnh mẽ trên thế giới nh
ngày nay vì tố tụng của nó đã mang lại những lợi ích thiết thực cho các nhà doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở Việt Nam trọng tài phi Chính phủ vẫn còn cha quen thuộc với đa số các nhà
doanh nghiệp. Phần tiềp theo, ngời viết sẽ tập trung vào phơng pháp giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, đặc biệt trong lĩnh vực thơng mại quốc tế.
1.2. TRONG TÀI KINH TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG THỦ TỤC
TRONG TÀI.
1.2.1. Trọng tài.
1.2.1.1. Khái niệm.
Theo từ điển luật học của Black's "Trọng tài là cơ quan xét xử do các bên đơng sự
thoả thuận thành lập để giải quyết tranh chấp giữa chính các bên đơng sự đó. Thành phần
của trong tài do các bên đơng sự thoả thuận giải quyết định "
Theo Điều 1, Nghị định 116/CP về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế quy
đinh: "Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty và các thành viên công ty; giữa các
thành viên của công ty với nhau; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái
phiếu.
Ở Việt Nam và các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây còn có hệ thống trọng tài kinh tế
của Nhà nớc, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ trởng hoặc Uỷ ban nhân dân
cùng cấp và chịu sự chỉ đạo, giám sát của trọng tài kinh tế cấp trên. Các cơ quan trọng tài
này hoạt động nh một cơ quan Nhà nớc có chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh tế và
xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế.
1.2.1.2. Các hình thức trọng tài kinh tế.
Đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp vốn đa dạng và phức tạp, tạo điều kiện cho
các bên tranh chấp thực hiện quyền lựa chọn của mình đối với các hình thức trọng tài kinh
tế trong nền kinh tế thị trờng có thể đợc phần ra theo những tiêu thức sau:
a. Căn cứ vào quy chế tổ chức gồm trọng tài vụ việc (trọng tài AD -HOC) và trọng
tài thờng trực
Trọng tài AD-HOC: Là loại hình trọng tài không có cơ quan thờng trực do các bên
tranh chấp lập ra để giải quyết vấn đề mà họ yêu cầu. Trọng tài AD - HOC không có quy
chế hoạt động riêng và chỉ giải quyết vấn đề xong thì giải tán.
Khi áp dụng hình thức trọng tài AD - HOC, các bên phải tự thoả thuận và lập ra
quy tắc tố tụng, lựa chọn trọng tài viên và địa điểm xét xử. Về cơ bản các bên không
bị ràng buộc bởi các quy định pháp lý về tố tụng khi mà họ vẫn đảm bảo đợc nguyên
tắc khách quan trong quá trình xét xử trờng hợp của họ.
Giải quyết bằng trọng tài AD - HOC khá đơn giản, nhanh chóng và tiết kiệm đợc chi
phí do không phải trả phí cho bộ máy hành chính. Đây là biện pháp giải quyết tranh chấp
mềm dẻo, linh hoạt, phán quyết của trọng tài AD - HOC vẫn đợc công nhận có giá trị
chung thẩm và đợc thi hành.
Để thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp thì khi lựa chọn trọng tài vụ việc,
các bên nên thoả thuận quy tắc tố tụng trong hợp đồng để khi muốn áp dụng thì chỉ cần dẫn
chiếu. Trong trờng hợp cần thiết, các bên có thể sửa đổi, bổ sung một số chi tiết cho phù hợp
với tính chất từng vụ việc. Việc áp dụng các quy tắc này không đòi hỏi các bên phải trả thêm
bất kỳ một khoản lệ phí nào mà lại có thể mang lại cho các bên một cách thức giải quyết
nhanh.
Tuy nhiên trọng tài vụ việc còn có nhợc điểm là tính hiệu quả của nó phụ thuộc vào
tinh thần hợp tác toàn diện của các bên tranh chấp và cần có sự hỗ trợ của một hệ thống
pháp luật kinh tế hoàn chỉnh. Nguyên tắc "tự do lựa chọn" sẽ chỉ là hình thức nếu các bên
không có thiện chí với nhau. Trình tự xét xử dễ bị trì hoãn nếu các bên không thống nhất
đợc thủ tục giải quyết hoặc trở ngại trong việc lựa chọn trong tài viên.
Trọng tài vụ việc trên thực tế chỉ thích hợp với những tranh chấp nhỏ, khi các đơng
sự có sự am hiểu về pháp luật, dày dạn trên thơng trờng và có kinh nghiệp tranh tụng.
Trọng tài thờng trực: bên cạnh loại hình trọng tài AD - HOC, còn có loại hình trọng
tài hoạt động thờng xuyên, theo thông lệ quốc tế đợc gọi là trọng tài thờng trực hay trọng
tài quy chế. Trọng tài thờng trực có điều lệ riêng và quy chế hoạt động cụ thể. Mỗi tổ chức
trọng tài quy chế đều đa ra một bản quy tắc tố tụng hớng dẫn trình tự tiến hành thủ tục giải
quyết tranh chấp. Các trung tâm trọng tài này đơc gọi dới các tên nh Toà án trọng tài (Ví
dụ Toà án trọng tài quốc tế, Toà án trọng tài Luân Đôn); Trung tâm trọng tài (Ví dụ Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế Hông kông...); hay Hiệp hội
trọng tài (Hiệp hội trọng tài Mỹ...). Các Trung tâm trọng tài đợc tổ chức dới dạng công ty
hoặc Hiệp hội.
Về cơ cấu tổ chức, mỗi tổ chức trọng tài quy chế gồm một bộ phận thờng trực hoặc
ban th ký nhằm cung cấp các dịch vụ hành chính và giám sát việc áp dụng các quy tắc
trọng tài. Thành phần thứ hai không thể thiếu ở các tổ chức trọng tài qui chế là các trọng
tài viên, họ là các luật s, các chuyên gia giỏi, giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực thơng mại,
hàng hải, bảo hiểm...
Trọng tài thờng trực là hình thức trung gian giữa Toà án và Trọng tài vụ việc, Trọng
tài thờng trực giống trọng tài AD - HOC ở khả năng lựa chọn trọng tài viên, tuy có hạn
chế hơn (vì phải chọn một hoặc tất cả trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên có sẵn
của Trung tâm trọng tài). Mặt khác, trong tố tụng trọng tài thờng trực, các bên đơng sự
buộc phải tuân theo các quy chế xét xử của từng Trung tâm trọng tài, bất luận nó có phức
tạp hoặc không hợp lý đến mức nào. Tuy nhiên, trên thực tế điều này là rất hãn hữu, vì để
tồn tại và phát triển, bên cạnh chất lợng của đội ngũ trọng tài viên thì quy chế tố tụng của
từng Trung tâm trọng tài phải rất linh hoạt, có khả năng đáp ứng đòi hỏi của các nhà kinh
doanh trong việc giải quyết tranh chấp.
Lợi thế lớn nhất của trọng tài thờng trực là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng tài và
các bên đơng sự chỉ cần thoả thuận áp dụng quy tắc là đủ mà không cần phải tốn công tạo
ra một bộ quy tắc mới. Các bản quy tắc trọng tài cũng đợc bổ sung thờng xuyên, điều
chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của môi trờng kinh doanh. Những điều này rất thuận lợi
cho các doanh nghiệp mới bớc vào nghề, hoặc không am hiểu nhiều về luật pháp, về thủ
tục kiện tụng. Nếu họ không muốn có điều gì bất lợi cho mình thì họ chọn trọng tài thờng
trực với bộ quy tắc có sẵn để giải quyết tranh chấp. Hơn nữa trọng tài quy chế hoạt động
thờng xuyên, có tổ chức chặt chẽ tạo điều kiện cho các bên dễ dàng quy định một thoả
thuận trọng tài riêng. Một u điểm khác của trọng tài quy chế là vấn đề lựa chọn trọng tài
viên. Trong trờng hợp vụ việc tranh chấp bị một bên gây căng thẳng làm cản trở việc lựa
chọn trọng tài viên thì sự chỉ định của Chủ tịch Trung tâm trọng tài là hết sức cần thiết.
Các trọng tài Trung tâm là những ngời đợc tuyển chọn kỹ càng, và các bên hoàn toàn có
thể đặt niềm tin vào trình độ chuyền môn cũng nh sự khách quan của họ. Ngoài ra còn
phải kể đến vai trò của ban th ký đối với quá trình giải quyết tranh chấp, họ có nhiệmvụ
theo dõi, giám sát việc giải quyết tranh chấp làm cho quá trình thụ lý và xét xử không bị
gián đoạn.
Bên cạnh những u điểm trên thì trọng tài quy chế cũng có những hạn chế nhất định
nh chi phí trọng tài cao hơn so với trọng tài AD - HOC. Ngoài chi phí trọng tài, các tổ
chức trọng tài còn thu thêm phí hành chính. Và cũng do bộ máy hành chính nên đôi khi
quá trình tố tụng trọng tài quy chế kéo dài vì phải tuân thủ những thủ tục trong quy tắc tố
tụng một cách tuần tự và nghiêm chỉnh. Nguyên tắc "tự do lựa chọn" của các bên thực chất
đã bị hạn chế trong quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài.
Theo kinh nghiệm, khi phải giải quyết những vụ tranh chấp phức tạp, có giá trị kinh
tế cao thì nên kiện ra trong trọng tài quy chế.
b. Căn cứ theo vị trí trọng tì trong hệ thống tổ chức gồm:
Trọng tài Nhà nớc: (hay còn gọi là trọng tài Chính phủ): Là cơ quan thuộc hệ thống
cơ quan chấp hành và điều hành Nhà nớc, có chức năng quản lý Nhà nớc đối với công tác
hợp đồng kinh tế. Hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế cũng
chính là phơng tiện để đạt đợc mục đích là trực tiếp tham gia việc điều hành, tổ chức các
quan hệ kinh tế.
Trọng tài kinh tế Nhà nớc tồn tại ở các nớc có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nh
ở các nớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu và ở Việt Nam trớc đây (từ những năm 1960 cho đến
tận đầu thập kỷ 90). Và hiện nay khi chuyển sang cơ chế thị trờng, các quốc gia này cũng
tiến hành đổi mới cách thức tổ chức giải quyết tranh chấp.
Trọng tài phi Chính phủ: là một tổ chức độc lập, không phụ thuộc hệ thống các cơ quan
Nhà nớc. Nó có thể đợc thành lập ở dạng công ty hoặc Hiệp hội trọng tài. Mô hình này phổ
biến ở nớc có nền kinh tế thị trờng.
c. Căn cứ vào mô hình tổ chức:
- Trọng tài độc lập: ví dụ nh: Hiệp hội trọng tài Mỹ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản,
Toà án trọng tài quốc tế Luân Đôn.
- Trọng tài bên cạnh phòng thơng mại: ví dụ: Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh
phòng thơng mại quốc tế, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng thơng
mại và chủ nghĩa Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore.
d. Căn cứ vào thẩm quyền giải quyết vụ việc: gồm trọng tài chuyên ngành và trọng
tài tổng hợp.
e. Căn cứ theo đặc điểm thành lập: Trọng tài quốc tế, trọng tài quốc gia.
1.2.2. Thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
Theo pháp luật và thực tiễn trọng tài của các nớc trọng tài thì có thẩm quyền xét xử
khi các bên đơng sự thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu các bên trớc và
sau khi phát sinh tranh chấp không thống nhất giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì
tranh chấp đợc giải quyết bằng Toà án. Tuy nhiên, việc thoả thuận giải quyết tranh chấp
phải đợc thực hiện trong khuôn khổ do pháp luật quy đinh.
Theo mục một, Thông t 02 - PLDSKT ngày 03/01/1995 hớng dẫn thi hành về thẩm
quyền của trọng tài kinh tế đợc quy định tại Nghị định 116/CP về tổ chức và hoạt động của
trọng tài kinh tế, "trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sau đây, không phụ thuộc vào
quốc tịch của các bên tranh chấp.
Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với
doanh nghiệp t nhân, giữa doanh nghiệp t nhân với doanh nghiệp t nhân và giữa pháp nhân,
doanh nghiệp t nhân với cá nhân kinh doanh...
Vấn đề thoả thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp còn đợc quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Ví dụ Mục 3 Điều 239 Luật Thơng mại quy
định: "Trong trờng hợp thơng lợng hoặc hoà giải không đạt kết quả thì tranh chấp thơng mại
tại trọng tài, Toà án đợc tiến hành theo các thủ tục tố tụng của trọng tài, Toà án mà các bên
lựa chọn". Điều 21b Điều lệ mua bán licent, Điều 241 Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Khoản 2
Điều 30 Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Điều 38 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế,
Điều 24 Luật đầu t nớc ngoài... cũng có những quy định tơng tự.
1.2.3. Nguyên tắc của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Quy tắc tố tụng là khung pháp lý mà Uỷ ban trọng tài và các bên đơng sự phải tuân
theo. Do trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp đợc hình thành trên cơ sở tự nguyện của
các trọng tài viên, theo quy định của Pháp luật; hoặc trên cơ sở lựa chọn của các đơng sự
(trọng tài AD - HOC), nên không tồn tại một tố tụng thống nhất. Tuy vậy, thủ tục giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài của tất cả các tổ chức, hình thức trọng tài phải đảm bảo các
nguyên tắc sau mà nếu vi phạm các nguyên tắc này sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý rất phức
tạp.
+ Nguyên tắc tự nguyện: Là nguyên tắc cốt lõi trong vấn đề trọng tài vì trọng tài đợc
hình thành là do ý chí tự nguyện của các bên đơng sự và trong quá trình giải quyết tranh
chấp, trọng tài đều nhân danh ý chí tối cao của các bên đơng sự. Họ có thể thoả thuận chọn
hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, trọng tài viên, địa điểm mà họ thấy thuận tiện và
thậm chí là cả quy tắc tố tụng áp dụng trong vụ kiện. Trong quá trình tranh tụng, nếu các
bên đạt đợc sự thống nhất trên cơ sở thơng lợng hoặc hoà giải thì trọng tài phải tôn trọng
sự thoả thuận đó và chấm dứt việc giải quyết vụ việc.
+ Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp: Trong mọi việc: từ lựa chọn hay
bãi miễn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm tố tụng, trong việc đa đơn yêu cầu hay đơn biện
minh trong việc nhận thông tin từ trọng tài và phía bên kia. Mọi tài liệu thông tin cho trọng
tài đều phải thông báo cho bên kia, mọi biện pháp, quyết định của trọng tài đều phải đảm
bảo sự bình đẳng giữa các bên tranh chấp.
+ Nguyên tắc độc lập của các trọng tài viên trong khi giải quyết tranh chấp trong quá
trình giải quyết tranh chấp, không ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên.
Các trọng tài viên bình đẳng với nhau và xét xử độc lập căn cứ vào những Điều khoản của
hợp đồng và pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, với t cách là những ngời hoàn toàn độc lập
trong xét xử tranh chấp, trọng tài phải đảm bảo thái độ khách quan, vô t nếu không muốn
bị các bên khớc từ hoặc phải tự khớc từ.
+ Nguyên tắc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp: đây là nguyên tắc xuất phát từ
mong muốn và lợi ích của các doanh nghiệp. Theo đó, các buổi họp xét xử của trọng tài
trên cơ sở sự thoả thuận của các trọng tài viên sẽ đợc tiến hành tại nơi mà ngoài trọng tài
viên và các đơng sự thì những ngời không có trách nhiệm hoặc không liên quan thì không
đợc có mặt. Trọng tài viên có trách nhiệm phải đảm bảo bí mật mọi vấn đề mà mình biết
khi tiến hành giải quyết vụ việc, kể cả phán quyết cuối cùng trừ khi đợc sự đồng ý của các
đơng sự.
+ Quyết định của trọng tài có giá trị bắt buộc với các bên và không thể bị kháng cáo.
1.2.4. Các vấn đề khi đa tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài.
1.2.4.1. Thoả thuận trọng tài.
Nh trên đã đề cập, để giải quyết tranh chấp kinh tế, thơng mại bằng trọng tài thì điều
kiện cần là phải có tranh chấp phát sinh và điều kiện đủ là phải có một thoả thuận giữa các
bên thống nhất đa ra tranh chấp ra giải quyết ở trọng tài.
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận của các bên có liên quan đa ra tranh chấp đã xảy
ra hoặc có thể xảy ra để giải quyết thông qua thủ tục trọng tài.
Thoả thuận trọng tài có giữa các bên đồng nghĩa với việc các bên đã gián tiếp thoả
thuận khớc từ thẩm quyền xét xử của Toà án quốc gia. Nếu không có thoả thuận sẽ không
có trọng tài, hoặc nếu trọng tài không đợc tiến hành dựa trên cơ sở thoả thuận thì trọng tài
này bị pháp luật coi là vô hiệu khi đã thoả thuận, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh
từ thoả thuận này. Nếu một bên vi phạm thoả thuận trọng tài, bên kia có quyền yêu cầu
Toà án can thiệp buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ thoả thuận trọng tài không dẫn
đến các chế tài phạt nh trong chế tài phát hợp đồng. Thay cho chế tài buộc thực hiện hợp
đồng phạt hoặc bồi thờng thiệt hại trong hợp đồng, thông thờng là quy định của pháp luật
đảm bảo cho thoả thuận trọng tài đợc thực hiện mà không phụ thuộc vào ý chí của các bên
liên quan.
Thoả thuận trọng tài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Đó chính là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ hoạt động của trong tài: từ lúc
đa tranh chấp ra trọng tài nào, chọn trọng tài viên ra sao... cho đến cách thức thủ tục giải
quyết tranh chấp.
Thoả thuận trọng tài tồn tại dới hai dạng đó là Điều khoản trọng tài trong hợp đồng
và thoả thuận trong tài riêng biệt. Điều khoản trọng tài trong hợp đồng là thoả thuận giữa
cá bên hợp đồng chon trọng tài để giải quyết tranh chấp có thể xảy ra trong tơng lai. Điều
khoản này nằm ở phần cuối hợp đồng, không phải là do nó không quan trọng bằng các
điều khoản khác mà là do trình tự đàm phán. Sau khi các bên đã thoả thuận xong phần lớn
điều khoản chủ yếu khác rồi mới thoả thuận điều khoản này. Nó còn đợc gọi một cách
hình ảnh là "Điều khoản nửa đêm" (midnight clause). Do tranh chấp hợp đồng cha xảy ra
và có thể không bao giờ xảy ra nên Điều khoản trọng tài thờng rất ngắn gọn, đôi khi quá
đơn giản, ví dụ "trọng tài: theo quy tắc của ICC; Luật áp dụng; Luật Việt Nam; nơi xét xử
Singapore". Tuy vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn có thể tiến hành đợc.
Thoả thuận trọng tài riêng biệt đợc lập khi giữa các bên đã có tranh chấp xảy ra. Do các
bên đã biết rõ về loại tranh chấp nên thoả thuận trọng tài trong trờng hợp này thờng đợc
các bên soạn thảo một cách chi tiết, cụ thể và do vậy thờng hiệu quả hơn. Tuy vậy, đàm
phán cho thoả thuận trọng tài riêng biệt thờng khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều so với
điều khoản trọng tài vì không phải lúc nào bên vi phạp cũng có thiện ý giải quyết tranh
chấp, họ thờng lảng tránh hoặc cố tình kéo dài thời gian đàm phán để chiếm dụng vốn
hoặc làm mất thời hiệu khởi kiện.
Theo pháp luật trọng tài của phần lớn các nớc trên thế giới thì thoả thuận trọng tài
phải đợc lập bằng văn bản. Văn bản có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng thoả
thuận trọng tài riêng biệt hoặc thoả thuận trọng tài đợc lập thông qua các hình thức trao đổi
th từ, công văn, qua các phơng tiện thông tin điện tử nh Telex, Fax...
Trong thoả thuận trọng tài, một trong những nội dung cơ bản là các bên phải thoả thuận
đa tranh chấp ra trọng tài giải quyết. Tên cơ quan trọng tài có thẩm quyền giải quyết, luật áp
dụng cho hợp đồng, luật áp dụng cho thủ thục tố tụng, giá trị của phán quyết, chi phí trọng tài,
địa điểm trọng tài, ngôn ngữ xét xử, thời hiệu khởi kiện, nội dung tranh chấp đợc giải quyết
bằng trọng tài.
Chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài cũng là một vấn đề quan trọng. Những ngời có
quyền ký kết hợp đồng thì cũng có nghĩa là họ có quyền ký thoả thuận trọng tài. Năng lực
chủ thể ký kết hợp đồng đợc pháp luật các quốc gia quy định khác nhau. Nếu là cá nhân
thì phụ thuộc vào quốc tịch hoặc nơi cá nhân này thờng trú. Nếu là doanh nghiệp thì phụ
thuộc vào nơi tiến hành hợp đồng kinh doanh hoặc là nơi thành lập. Vì không đủ năng lực
chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài, phán quyết trọng tài có thể bị từ chối công nhận và thi
hành theo quy định tại Mục a, Khoản 1 Điều V Công ớc NewYork 1958.
Thoả thuận trọng tài hoàn chỉnh sẽ giúp các bên hạn chế tổn thất khi xảy ra tranh
chấp. Sự chặt chẽ, cụ thể của thoả thuận trọng tài sẽ phần nào hạn chế vi phạm thoả thuận
trọng tài của các bên.
1.2.4.2. Luật áp dụng trong hợp đồng - cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp.
Luật áp dụng để xét xử tranh chấp là luật mà trọng tài dùng để xem xét việc thực
hiện nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật này đợc gọi
là luật áp dụng cho hợp đồng.
Đối với các tranh chấp thơng mại nội địa, đơng nhiên, luật áp dụng trong hợp đồng
là luật quốc gia, chẳng hạn nh ở Việt Nam thì căn cứ vào luật thơng mại, pháp lênh hợp
đồng kinh tế, luật đất đai...Vấn đề chọn luật áp dụng trong hợp đồng không đặt ra với các
hợp đồng nội.
Trong thơng mại quốc tế, luật của rất nhiều nớc liên quan đến quan hệ của các bên
trong hợp đồng và cùng có khả năng điều chỉnh hợp đồng ngang nhau. Giữa các nguồn
luật đó luôn tồn tài hiện tợng xung đột luật, vì thế khi đa tranh chấp ra trong tài, các bên
đơng sự phải thoả thuận thống nhất về luật áp dụng trong hợp đồng. Các nguồn luật áp
dụng trong thơng mại quốc tế bao gồm: Các điều ớc quốc tế, các tập quán thơng mại quốc
tế và luật quốc gia.
+ Điều ớc quốc tế: là những văn bản có chứa những quy phạm pháp luật đợc các
quốc gia và các chủ thể khác xây dựng, ký kết, công nhận và có hiệu lực pháp lý đối với
chủ thể của các quốc gia thành viên. Nó có thể là: Hiệp ớc, Hiệp định, Nghị định th, công
hàm trao đổi... khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhng không đợc quy định hoặc quy
định không đầy đủ thì các bên có thể đa điều ớc quốc tế vào để xử lý vấn đề đó. Các điều
ớc này không có giá trị bắt buộc đối với các quan hệ thơng mại quốc tế nếu nh nó cha đợc
quốc gia đó phê chuẩn. Khi quốc gia đã phê chuẩn, tất cả những trờng hợp mà hợp đồng
không dẫn chiếu thì điều ớc đó vẫn đơng nhiên đợc áp dụng.
Có hai loại điều ớc quốc tế trong lĩnh vực mua bán hàng hoá: Thứ nhất, loại điều ớc
quốc tế đề ra những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thơng mại, nó
không điều chỉnh trực tiếp các vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các bên
tham gia hợp đồng mà chỉ đề ra các nguyên tắc pháp lý có tính chất định hớng, chỉ đạo: ví
dụ nh Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU, Hiệp định thơng mại Việt Nam -
Mỹ; Hiệp định cắt giảm thuế quan với ASEAN... Thứ hai, là loại điều ớc quốc tế trực tiếp
điều chỉnh đến các vấn đề có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của các
bên trong ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây chính là nguồn quy phạm pháp luật dùng để
giải quyết tranh chấp, thờng đợc các bên và cơ quan tiến hành tố tụng viện dẫn trong quá
trình giải quyết tranh chấp. Loại điều ớc này điển hình có Công ớc Brussel 1964 về chuyên
chở hàng hoá, Công ớc viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế.
+ Tập quán thơng mại: là những quy tắc xử sự có hệ thống, những thói quen thơng
mại phổ biến đợc áp dụng một cách thờng xuyên, liên tục trong một thời gian dài và phải
có nội dung rõ ràng mà qua đó có thể xác định đợc quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Các
tập quán thơng mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lý và có hiệu lực bắt buộc đối với các chủ
thể ký kết khi nó đợc quy định hoặc dẫn chiếu vào hợp đồng. Điều 135 quy tắc ICC về trọng
tài quy định "Các trọng tài không chỉ áp dụng luật áp dụng mà còn phải dùng tới các điều khoản
trong hợp đồng và những "Tập quán thơng mại" thích hợp để giải quyết vụ việc". Trong những
luật trọng tài của các quốc gia cũng quy định nh vậy.
Một ví dụ về tập quán thơng mại quốc tế thông dụng đợc phòng thơng mại quốc tế
soạn thảo và ban hành đó là các bản Incoterm: quy định về điều kiện cơ sở giao hàng. Hay
là quy tắc thống nhất và thực hành tín dụng chứng từ - UCP cũng tỏ ra rất hữu dụng trong
việc hớng dẫn đến một chuẩn mực quốc tế duy nhất cho quyền và nghĩa vụ của các bên.
Ngoài ra, đối với các quốc gia theo hệ thống "common low" còn có các án lệ là các quy
tắc xét xử đợc hình thành từ thực tiễn xét xử. Khi lựa chọn luật của các quốc gia này, các chủ
thể cần để ý đến những án lệ này.
+ Luật quốc gia: trong thực tiễn và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tê,
bên cạnh các điều ớc quốc tế, các tập quán thơng mại quốc tế và án lệ, luật quốc gia cũng
đóng một vai trò khá quan trọng và trong nhiều trờng hợp là nguồn luật điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên luật quốc gia chỉ trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế trong các trờng hợp sau:
- Khi các bên ký kết hợp đồng thoả thuận trong điều khoản luật áp dụng của hợp
đồng việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế không đợc
quy định trong các điều ớc quốc tế liên quan, luật quốc gia đơng nhiên trở thành luật áp
dụng cho hợp đồng đó.
Nói đến luật quốc gia nh một nguồn luật của thơng mại quốc tế không có nghĩa là tất
cả các luật đều đợc áp dụng mà chỉ có một số luật, văn bản pháp luật có liên quan đến
thơng mại quốc tế đợc áp dụng, bởi vì luật quốc gia không chỉ điều chỉnh các quan hệ
thơng mại quốc tế mà nó còn điều chỉnh rất nhiều mối quan hệ khác.
Luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá thông thờng là luật của nớc
nào có quan hệ gần nhất với hợp đồng, tuy theo cách xác định, nhng phải là luật đặc trng,
thờng là luật của nớc bên bán, luật của nớc nơi hợp đồng đợc ký kết, nhng cũng có thể là
luật của bên mua, có thể là luật của nớc thứ ba, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ của hợp
đồng đợc thực hiện...
Trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế điều khoản luật áp
dụng thờng đợc ghi một cách rõ ràng trong hợp đồng để tránh tình trạng khó xác đinh luật
quốc gia điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Việc thoả thuận luật quốc gia áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một vấn đề phức tạp, cho nên các chủ thể ký kết không
những phải thông thạo luật của nớc mình mà còn phải tìm hiểu kỹ luật của nớc khác quan
hệ với hợp đồng để đảm bảo quyền lợi của mình, tránh đợc những thiệt thòi do sự thiếu
hiểu biết pháp luật gây ra.
Tuy nhiên việc áp dụng luật của quốc gia nào để giải quyết tranh chấp trong hợp
đồng đôi khi không chỉ phụ thuộc vào ý chỉ chủ quan của một chủ thể mà thờng bị chi
phối bởi nhiều yếu tố khác nh: tơng quan lực lợn giữa các bên tham gia hợp đồng, do điều
kiện đặc thù khi triển khai hợp đồng đó... Trờng hợp phải áp dụng luật của nớc thứ ba, ít
nhất phải hiểu đợc luật của nớc đó có tiện cho ngời mua hay ngời bán, liên quan đến hợp
đồng đã ký kết nh thế nào, những điểm gì kiêng kị cần tránh...
Đôi khi các bên thoả thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng sau khi hợp đồng đã
đợc ký kết. Trờng hợp này thờng xảy ra khi ký kết hợp đồng, vì một lý do khách quan nào
đó, các bên tiến hành rất nhanh chóng (để chớp thời cơ...) nên cha kịp nêu điều khoản luật
áp dụng trong hợp đồng.
Tại Việt Nam, Luật thơng mại đã đợc Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1998. Đây là nguồn luật
quan trọng để các thơng nhân Việt Nam nắm vững, áp dụng trong đàm phán ký kế hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Luật thơng mại Việt Nam ra đời đã tạo một trờng pháp lý
vô cùng thuận lợi cho các thơng nhân Việt Nam, đó là công cụ pháp lý quan trọng, là chỗ
dựa pháp lý rất tin cậy cho các thơng nhân Việt Nam tiến hành các hoạt động thơng mại
trong kinh doanh quốc tế. Do đó, trong trờng hợp mặc dù hợp đồng thơng mại đã đợc thực
hiện hoặc bị vi phạm, thậm chí bị vô hiệu thì điều khoản về thoả thuận trọng tài của hợp
đồng vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý.
1.2.4.3. Luật tố tụng của trọng tài.
Việc xác định luật áp dụng trong tố tụng trọng tài thơng mại quốc tế bị chi phối bởi
nguyên tắc tự do thoả thuận của các bên và nguyên tắc nơi toạ lạc của trọng tài.
Thứ nhất, tôn trọng nguyên tắc tự do thoả thuận của các bên. Nguyên tắc thoả thuận của
các bên chủ thể trong hợp đồng thơng mại quốc tế không những chi phối việc chọn luật để
điều chỉnh nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng mà nó còn chi phố cả việc
thành lập hoặc chọn trọng tài trong đó bao gồm cả việc đa ra các nguyên tắc xét xử hoặc
chọn luật tố tụng cho quá trình xét xử của trọng tài.
Trên thực tế, khi thoả thuận về trọng tài để xét xử tranh chấp, các bên có thể chỉ định
một hội đồng trọng tài thờng trực (trọng tài thiết chế) hoặc cũng có thể thoả thuận thành
lập trọng tài AD - HOC (trọng tài vụ việc). Trong mỗi trờng hợp chọn hình thức trọng tài
thì việc chọn luật áp dụng cho tố tụng trọng tài cũng khác nhau đó là: Trong trờng hợp các
bên thoả thuận chọn trọng tài thờng trực cụ thể để xét xử tranh chấp của mình thì đã đồng
nghĩa với viẹc các bên thoả thuận chọn luật tố tụng để áp dụng cho trọng tài đó. Bởi vì cơ
quan trọng tài sẽ áp dụng thủ tục tố tụng của mình để tiến hành xét xử . Theo Bản quy tắc
trọng tài UNCITRAL thì các tranh chấp này sẽ đợc giải quyết bằng bản quy tắc đó. Điều
15 của Bản quy tắc này chỉ rõ: "Trọng tài có thể tiến hành thủ tục tố tụng trọng tài theo
cách thức mà trọng tài cho là thích hợp nhng phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên và
đảm bảo cho mỗi bên có đủ cơ hội trình bày vụ việc của mình ở bất cứ giai đoạn nào của
quá trình tố tụng". Tơng tự nh vậy, Điều 8 quy định về hoà giải và trọng tài của Phòng
thơng mại quốc tế (ICC) đã đợc sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực từ ngày 01/01/1988 ghi
nhận: "Khi các bên thoả thuận nhờ đến trọng tài cảu phòng thơng mại quốc tế thì họ qua
đó phục tùng quy đinh này." hoặc Điều 22 quy định này ghi nhận: "Các nguyên tắc áp
dụng trong tố tụng trớc trong tài viên là các nguyên tắc xuất phát từ quy định này và trong
trờng hợp quy định này không đề cấp thì áp dụng các nguyên tắc mà các bên đã xác định
và trong trờng hợp các bên không xác định thì trọng tài viên xác định bằng cách dựa bào
hoặc không dựa vào một luật quốc gia về tố tụng áp dụng cho trọng tài". Trong trờng hợp
các bên thoả thuận thành lập trọng tài AD - HOC thì việc xác định luật áp dụng cho tố
tụng trọng tài sẽ do các bên tự quyết định. Các bên có thể thoả thuận xây dựng nên các
nguyên tắc một cách độc lập và cũng có thể chọn các quy định về tố tụng của một tổ chức
trọngt ài quy định về tố tụng của một tổ chức trọng tài thờng trực nào đó để áp dụng cho
trọng tài mà các bên đã lập ra. Trong trờng hợp các bên lựa chọn các quy định của tổ chức
trọng tài thờng trực nào đó thì các quy định này có thể đợc các bên thoả thuận giữ nguyên
hoặc sửa đổi, bổ sung trớc khi áp dụng cơ chế giám sát thực hiện hoạt động tố tụng của
trọng tài AD - HOC không chặt chẽ bằng trọng tài thờng trực.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc nơi toạ lạc của trọng tài theo học thuyết nơi toạ lạc thì
trọng tài tiến hành xét xử ở đâu thì sẽ áp dụng luật tố tụng trọng tài ở nơi đó. Thuyết này
đợc áp dụng để xác định luật tố tụng cho trọng tài trong trờng hợp nếu các bên không thoả
thuận chọn luật tố tụng việc áp dụng thuyết này để xác định luật áp dụng cho tố tụng trọng
tài quốc tế thờng xảy ra trong trờng hợp các bên thànhlập trọng tài AD - HOC. Thuyết
"nơi toạ lạc của trọng tài" không những đợc áp dụng trên thực tế mà nội dung của thuyết
này còn đợc ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng nh: Công ớc
NewYork năm 1958 về việc công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nớc ngoài tại
Điều 3 và Điều 6 (1.d) và tại Điều 16 của Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL.
Cách thức chọn trọng tài viên là khác nhau tại các tổ chức trọng tài khác nhau trên
thế giới. Chẳng hạn theo quy chế của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam thì trọng tài
viên phải có tên trong danh sách. Trong khi tại nhiều tổ chức trọng tài (nh Toà án trọng tài
quốc tế bên cạnh phòng thơng mại quốc tế hay Toà án trọng tài LuânĐôn) danh sách các
trọng tài viên chỉ mang tính chất khuyến nghị mà không bắt buộc. Hoặc quy định ngời có
thẩm quyền chỉ định trọng tài viên trong trờng hợp các bên không chỉ định hoặc thống
nhất chỉ định ở Toà án trọng tài quốc tế là Toà án trọng tài, đối Trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam là Chủ tịch Trung tâm trọng tài; đối với Toà án trọng tài Luân Đôn là Chủ tịch
hoặc Phó chủ tịch toà... trong quy chế chỉ định trọng tài viên của Toà án trọng tài quốc tế
bên cạnh phòng thơng mại quốc tế còn có các uỷ ban quốc gia hỗ trợ việc chỉ định trọng
tài viên của Toà.
Số lợng trọng tài viên thông thờng là một số lẻ gồm một hoặc ba trọng tài viên tuỳ
theo sự thoả thuận trớc của các bên. Trong trờng hợp gồm nhiều trọng tài viên, đợc gọi là
Uỷ ban trọng tài, sẽ có một trọng tài viên là Chủ tịch Uỷ ban trọng tài. Chủ tịch Uỷ ban
trọng tài do hai trọng tài viên thống nhất chỉ định, bằng không cũng sẽ do cơ quan ngời có
thẩm quyền chỉ định. Theo thông lệ quốc tế, trọng tài viên duy nhất hoặc Chủ tịch Uỷ ban
trọng tài không đợc cùng một quốc tịch của một bên nào, trừ khi các bên có thoả thuận
khác.
Các trọng tài viên không nhất thiết phải là luật s mà có thể là một chuyên gia trong
các lĩnh vực khác nhau trong thơng mại quốc tế, tinh thông nghề nghiệp chuyên môn. Song
phẩm chất bắt buộc đối với trọng tài viên là phải vô t khách quan khi xét xử và không có
những quan hệ nhất định (quan hệ gia đình, quan hệ vật chất...) với các bên trong vụ kiện.
Các đơng sự có quyền khớc từ trọng tài viên do mình chỉ định, Chủ tịch Uỷ ban trọng
tài hoặc trọng tài viên duy nhất nếu nghi ngờ về sự vô t của trọng tài viên nhất là khi họ cho
rằng trọng tài viên có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vụ tranh chấp các trọng tài viên,
trong tài viên duy nhất hay Chủ tịch Uỷ ban trọng tài cũng có quyền khớc từ vai trò của mình.
Các yêu cầu bãi miễn, khớc từ trọng tài viên phải làm thành văn bản và Toà án hoặc Chủ tịch
Trung tâm trọng tài sẽ quyết định chung thẩm về việc chỉ định, xác nhận, bãi miễn hoặc
thay thế các trọng tài viên.
Quy tắc về chỉ định trọng tài viên đợc quy định tại Điều 2 quy tắc trọng tài của Toà
án trọng tài quốc tế; Điều 8 - Điều 12 quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam; Điều 3 trong quy tắc của Toà án quốc tế Luân Đôn; Điều 6,7 quy tắc trọng tài
Uncitral...
1.2.4.5. Địa điểm và ngôn ngữ trọng tài.
* Địa điểm trọng tài là nơi công việc giải quyết tranh chấp đợc tiến hành là địa điểm
tiến hành phiên họp xét xử và tiến hành các thủ tục tố tụng khác có sự tham gia của một
hoặc các bên nhân chứng.
* Ngôn ngữ trọng tài là tiếng nói, chữ viết đợc sử dụng trong quá trình tố tụng.
Trong đơn yêu cầu, đơn biên minh và bất kỳ vấn đề nào trình bày bằng văn bản hoặc bằng
lời trong phiên họp xét xử, các buổi nghe trình bày.
Về nguyên tắc, ngôn ngữ trọng tài và địa điểm trọng tài do các bên thoả thuận Uỷ
ban trọng tài, trọng tài viên chỉ định quyết định khi các bên không có thoả thuận hoặc
không thoả thuận đợc.
Ở nớc ta, theo quy định tài Khoản 1 Điều 24, Nghị định 116/CP quy định tiếng nói, chữ
viết dùng trong quá trình giải quyết tranh chấp là tiếng Việt - là một hạn chế khi các đơng sự
không mang quốc tịch Việt Nam.
Địa điểm trọng tài là một vấn đề quan trọng đối với các bên vì nó ảnh hởng đến chi
phí theo đuổi việc giải quyết tranh chấp. Ngôn ngữ trọng tài ảnh hởng đến khả năng các
bên đa ra những lý lẽ để biện minh hoặc các buộc cũng nh việc theo dõi quá trình xét xử
vụ việc của đơng sự. Chính vì vậy, các bên cần xác định một cách cụ thể, càng cụ thể càng
tốt.
1.2.4.6. Giới thiệu sơ bộ về trình tự chung của thủ tục trọng tài trên thế giới.
Phơng pháp giải quyết tranh chấp thơng mại bằng trọng tài theo thông lệ quốc tế
thờng đợc tiến hành theo trình tự nh sau:
a. Đa đơn kiện.
b. Thành lập Uỷ ban trọng tài.
Căn cứ vào thoả thuận trọng tài vên nguyên đơn gửi đơn kiện tới tổ chức trọng tài có
thẩm quyền, trong đó nêu tóm tắt nội dung vụ việc, tên, địa chỉ của các bên tranh chấp.
Cách thức thành lập Uỷ ban trọng tài đợc tiến hành nh sau:
1. Hai bên nhất trí chọn một trọng tài viên duy nhất
2. Mỗi bên chọn một trọng tài viên và trọng tài viên của các bên chọn ra trọng tài
viên thứ ba làm Chủ tịch ban trọng tài là ngời ra quyết định cuối cùng của phiên họp phân
xử. Nếu trọng tài việ của các bên không thống nhất trọn đợc trọng tài viên thứ ba thì Chủ
tịch Trung tâm trọng tài sẽ chỉ định (đối với trọng tài thờng trực) hoặc Toà án chỉ định (đối
với AD - HOC).
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc lựa chọn trọng tài viên các tổ chức
trọng tài quy chế thờng đa ra bản danh sách các trọng tài viên có thể tham gia xét xử. Ban
th ký của tổ chức trọng tài có chức năng hớng dẫn, t vấn cho các bên trong việc lựa chọn
trong tài viên nếu các bên yêu cầu.
Sau khi đã lựa chọn đợc các trọng tài viên để thành lập Uỷ ban trọng tài trong qúa trình
tố tụng, nếu các bên có sự nghi ngờ về tính vô t và độc lập của trọng tài viên thì có quyền bãi
miễn trọng tài viên. Các quy tắc tố tụng của các tổ chức trọng tài, nói chung, đều quy định
vấn đề này.
Nh vậy, thủ tục tố tụng trọng tài về cơ bản tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh có
thể tự do lựa chọn trọng tài viên theo yêu cầu của mình. Khi lựa chọn các viên có điều
kiện cần nhắc các yếu tố nh trình độ chuyên môn, khả năng xét xử và đạo đức của trọng tài
viên để lựa chọn đợc trọng tài viên mà mình tin cậy nhất để trao cho họ quyền quyết định
cuối cùng về vấn đề đang tranh chấp.
c. Hoà giải trớc Uỷ ban trọng tài .
Sau khi các bên lựa chọn đợc các trọng tài viên đê thành lập Uỷ ban trọng tài, các
trọng tài viên sẽ tiến hành nghiên cứu hồ sơ, thu thập và xác minh chứng cứ trên cơ sở
chứng từ, tài liệu các bên tự nguyện cung cấp. Trong những trờng hợp cần thiết, Uỷ ban
trọng tài có thể nhờ Toà án giúp đỡ trong việc thu thập chứng cứ.
Luật trọng tài các nớc quy định rằng trớc khi mở phiên họp xét xử, các trọng tài viên
đợc lựa chọn trớc hết phải đề xuất, vận động các bên giải quyết tranh chấp bằng con đờng
hoà giải. Tuy vậy, Uỷ ban trọng tài chỉ có thể thực hiện vai trò là hoà giải viên khi các bên
đồng ý. Thực tiễn giải quyết tranh chấp của các tổ chức trọng tài quốc tế, đặc biệt ở khu
vực Châu á cho thấy các trọng tài viên trên cơ sở phân tích hồ sơ vụ việc có thể đề nghị
các bên tiến hành hoà giải. Nếu các bên đồng ý hoà giải thành công trớc khi công bố phán
quyết hoặc ngay tại phiên họp xét xử đầu tiên thì Uỷ ban trong tài sẽ kết thúc vụ việc.
Theo yêu cầu của các bên, Uỷ ban trọng tài sẽ ghi nhận thoả thuận hoà giải thành phán
quyết trọng tài. Khi đó, các bên tranh chấp sẽ tiết kiệm thời gian đi kiện và chi phí trọng
tài. Nếu các bên không chấp nhận hoà giải hoặc hoà giải không thành thì Uỷ ban trọng tài
sẽ tiến hành tổ chức xét xử.
d. Tổ chức xét xử.
Sau khi các bên không hoà giải đợc thì Uỷ ban trọng tài quyết định tiến hành phiên
họp xét xử vụ tranh chấp. Uỷ ban trọng tài sẽ thông báo cho các bên biết về thời gian, địa
điểm tiến hành phiên họp xét xử. Thông thờng phiên họp xét xử đợc tiến hành theo nguyên
tắc xét xử kín, không công khai. Tham gia phiên xét xử ngoài các trọng tài viên là thành
viên của Uỷ ban trọng tài, đại diện của các bên tranh chấp, các luật s của các bên, th ký
phiên họp. Những ngời ngoài cuộc chỉ có mặt khi các bên đồng ý. Thủ tục xét xử đợc Uỷ
ban trọng tài tuân thủ quy tăcss tố tụng trọng tài, còn nội dung vụ việc sẽ đợc phân xử theo
luật thực chất áp dụng cho hợp đồng.
Trong phiên họp xét xử Uỷ ban trọng tài sẽ dành cơ hội cho các bên trình bày quan
điểm của minh về nội dung tranh chấp, đồng thời khuyến khích các bên bổ sung các chứng
cứ đã có.
e. Ra phán quyết.
Sau khi các bên trình bày quan điểm của mình, trên cơ sở luật thực chất áp dụng cho
vụ việc Uỷ ban trọng tài sẽ phân tích những điểm đúng sai của mỗi bên và đa ra quyết định
cuối cùng về vụ tranh chấp gọi là phán quyết trọng tài. Việc ra phán quyết dựa trên các căn
cứ luật áp dụng, các điều khoản hợp đồng, tập quán và thông lệ thơng mại quốc tế. Phán
quyết đợc hoàn thành trong một thời hạn nhất định và đợc gởi cho các bên để đảm bảo tính
nhanh chóng, dứt điểm của thủ tục trọng tài.
1.2.4.7. Công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài.
Phán quyết của trọng tài là quyết định cuối cùng của Uỷ ban trọng tài hoặc của trọng
tài viên duy nhất. Nếu là phán quyết của Uỷ ban trọng tài thì phán quyết đó phải đợc biểu
quyết theo đa số. Quyết định của trọng tài phải đợc lập thành văn bản và phải có chữ ký
của tất cả các trọng tài viên.
Các bên có trách nhiệm thực hiện ngay các quyết định của trọng tài phán quyết của
trọng tài là chung thẩm.
Tuy nhiên, do trọng tài không nằm trong hệ thống các cơ quan Nhà nớc, không nhằm
thực hiện quyền lực của Nhà nớc nên không có những biện pháp cỡng chế Nhà nớc. Vì
vậy khi bên thua kiện không tự nguyện thực hiện phán quyết của trọng tài thì theo thông lệ
quốc tế, bên thắng kiện có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định công nhận làm căn cứ cho
việc cỡng chế thi hành. Sau khi Toà án kiểm tra tính hợp pháp của quyết định trọng tài,
Toà sẽ ra quyết định cỡng chế thi hành án và lúc đó phán quyết của trọng tài có hiệu lực
thi hành nh một quyết định hoặc bản án của Toà án.
Chỉ trong trờng hợp Toà án xem xét việc ra quyết định cũng nh quá trình tố tụng vi
phạm các quy định có tính nguyên tắc của tố tụng trọng tài và khi đó các bên có quyền yêu
cầu một Uỷ ban trọng tài khác hoặc mở lại thủ tục tại toà án từ đầu.
Trên đây là những vấn đề cơ bản của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trên
thế giới. Song ở Việt Nam, với những đặc thù của một nớc XHCN, bớc đầu mở cửa hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, tranh chấp thơng mại cũng nh thủ tục giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài có nhiều tính riêng biệt
CHƠNG 2
TRANH CHẤP THƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Ở TRUNG
TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM
2.1. TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM.
2.1.1. Vài nét về Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
a. Hội đồng trọng tài Ngoại thơng và Hội đồng trọng tài Hàng Hải:
Vào những năm đầu của thập kỷ 60, ngoài toà án, thì Hội đồng trọng tài Ngoại
thơng (30/4/1963) và Hội đồng trọng tài Hàng Hải (5/10/1964) là những tổ chức chính
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh Quốc tế ở nớc ta. Hội đồng trọng tài Ngoại
thơng và Hội đồng trọng tài Hàng Hải đợc gia nhập vào phòng TM & CN Việt Nam.
Phòng TM & CN Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ bao gồm các thành viên ở các
thành phần kinh tế của Việt Nam. Nhng Hội đồng trọng tài Ngoại thơng và Hội đồng trọng
tài Hàng Hải lại hoạt động theo những điều lệ do Nhà nớc phê chuẩn và chịu sự giám sát
của Nhà nớc.
Hội đồng trọng tài Ngoại thơng giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài đối với
những tranh chấp pháp sinh từ các hợp động kinh tế, thơng mại giữa các tổ chức Việt Nam
và pháp nhân, thể nhân nớc ngoài.
Hội đồng trọng tài Hàng Hải giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến vận
chuyển bằng đờng biển nh: thuê tàu chuyến, vận chuyển hàng hoá Quốc tế, giao nhận hàng
hoá, cứu hộ, đâm va tàu biển hoặc giữa tầu biển và tầu sông ở các quốc gia khác nhau và
bảo hiểm hàng hoá.
Hội đồng trọng tài Ngoại thơng và Hội đồng trọng tài Hàng Hải không giải quyết
các tranh chấp dân sự hay các tranh chấp kinh tế trong nớc.
Các Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài Ngoại thơng và Hội đồng trọng tài Hàng
Hải do phòng Công nghiệp chọn và phải là công dân Việt Nam. Các Trọng tài viên đợc
chọn là những ngời thông hiểu về pháp luật Việt Nam và Quốc tế cũng nh hiểu biết về
kinh nghiệm về các lĩnh vực nh thơng mại, vận chuyển hàng hoá, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm và quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong thời gian đó, vì nhiều lý do khác nhau, mà các tranh chấp đa đến trọng tài giải
quyết còn hạn chế, số vụ đợc giải quyết ra phán quyết còn ít hơn. Các hoạt động khác nói
chung và hoạt động hoà giải nói riêng, cho đến tận giữa những năm 1980 chủ yếu vẫn là
với các nớc Xã Hội Chủ Nghĩa giới hạn trong lĩnh vực viện trợ thơng mại và viện trợ phát
triển.
Từ giữa thập kỷ 80, số vụ tranh chấp đa ra trọng tài tăng nhanh, trung bình là 20
vụ/năm trong giai đoạn 1988 - 1992 với khoảng 85% tranh chấp liên quan đến các hợp
đồng thơng mại Quốc tế, bảo hiểm và các vấn đề liên quan đến vận tải Quốc tế.
Cả Hội đồng trọng tài Ngoại thơng và Hội đồng trọng tài Hàng Hải đều rất ít tham
gia và liên hệ với các cuộc hội thảo với các tổ chức trọng tài nớc ngoài, chẳng hạn nh Toà
án Trung tâm Quốc tế bên cạnh phòng Thơng mại Quốc tế hay TTTT Quốc tế Singapore.
Hội đồng trọng tài Ngoại thơng và Hội đồng trọng tài Hàng Hải là hai tổ chức tiền
thân của TTTT quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng TM & CN Việt Nam. Những hạn chế
trên dần trở thành những trở ngại và phát sinh những mặt bất cập trong việc giải quyết các
tranh chấp Quốc tế. Chính vì thế sự tồn tại duy nhất một TTTT Quốc tế ở Việt Nam với
quy chế hoạt động mới là điều cần thiết.
b. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam:
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ đợc thành lập
bên cạnh phòng TM & CN Việt Nam theo Quyết định số 204/TTg của Thủ tớng Chính
phủ ngày 28/4/1993 trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài Ngoại thơng và Hội đồng trọng
tài Hàng Hải.
Sự tồn tại một Trung tâm trọng tài quốc tế duy nhất ở Việt Nam nhằm tránh những
vấn đề mâu thuẫn rắc rối trong xét xử thỉng thoảng xảy ra giữa Hội đồng trọng tài Ngoại
thơng và Hội đồng trọng tài Hàng Hải cũng nh để thống nhất điều hành bổ sung đội ngũ
trọng tài Quốc tế của Việt Nam.
Trong tình hình mới của nền kinh tế đất nớc mở cửa và hội nhập với thế giới, Trung
tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam đã đợc phép mở rộng và cập nhật quy tắc hoạt động trọng
tài cho phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam và các quy tắc trọng tài Quốc tế đang phổ biến
trên thế giới. Hoạt động xét xử của TTTT Quốc tế Việt Nam không chỉ giới hạn những
tranh chấp trong lĩnh vực thơng mại và vận tải quốc tế mà đợc mở rộng sang cả các lĩnh
vực khác nh: đầu t nớc ngoài, du lịch, tín dụng, ngân hàng, chuyển giao công nghệ, bảo
hiểm, các vấn đề kinh doanh quốc tế và thơng mại quốc tế khác
Khác với Hội đồng trọng tài Ngoại thơng và Hội đồng trọng tài Hàng Hải, TTTT
quốc tế Việt Nam có quan hệ khá rộng rãi với các hiệp hội, tổ chức kinh tế trên thế giới,
đẩy mạnh một bớc trong hợp tác quốc tế. TTTT quốc tế Việt Nam tham gia vào nhiều hội
thảo quốc tế về trọng tài nh hội thảo thờng niên của đoàn luật s Châu Á Thái Bình Dơng ở
Singapore năm 1994, ở Hoa Kỳ năm 1995, hội thảo Quốc tế của Trung tâm giải quyết
tranh chấp về đầu t- thơng mại Quốc tế, hội thảo của Toà án trọng tài Quốc tế bên cạnh
phòng Thơng mại Quốc tế, và hội thảo của Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ. Đặc biệt TTTT
quốc tế Việt Nam còn thiết lập quan hệ đợc với một số luật s hàng đầu về lĩnh vực trọng
tài trên thế giới.
Sự phát triển trên đã đem lại một thế giới mới cho TTTT quốc tế Việt Nam có
thêm kiến thức và kinh nghiệm trong thực tế từ các tổ chức trọng tài Quốc tế khác nhằm
tạo khả năng cho Trung tâm trong việc giải quyết những tranh chấp ngày một phức tạp khi
nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển mạnh.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh đến tiềm lực nội bộ của Trung tâm: đó là đội
ngũ trọng tài viên trong nớc và cả Quốc tế cùng với một cơ cấu tổ chức hiệu quả.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của TTTT quốc tế Việt Nam.
TTTT quốc tế Việt Nam có Chủ tịch và hai Phó chủ tịch do các trọng tài viên của
Trung tâm bầu ra. Chủ tịch và Phó chủ tịch Trung tâm có nhiệm kỳ 4 năm.
Th ký thờng trực của Trung tâm (do Chủ tịch chỉ định).
Các trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm. Các trọng tài viên
cũng có nhiệm kỳ 4 năm và sau đó có thể đợc bầu lại. Các trọng tài viên do Uỷ ban thờng
trực của Phòng TM & CN Việt Nam lựa chọn,họ là những ngời có kiến thức và kinh
nghiệm trong các lĩnh vực pháp luật, ngoại thơng , đầu t, tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo
hiểm... Các trọng tài viên cũng có nhiệm kỳ 4 năm, và sau đó cũng có thể đợc bầu lại. Các
trọng tài viên nớc ngoài cũng có thể đợc chọn vào là trọng tài viên của trung tâm. Hiện nay
Trung tâm đã có 30 trọng tài viên và cha có trọng tài viên nớc ngoài.
2.1.1.3. Các hoạt động của TTTT quốc tế Việt Nam.
TTTT Quốc tế Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ hoạt động với những nhiệm
vụ chính là tiến hành hoà giải các tranh chấp thuộc thẩm quyền theo quy chế riêng của
Trung tâm. Song, TTTT Quốc tế Việt Nam - một tổ chức tập hợp những chuyên gia hàng
đầu về kinh tế và thơng mại Quốc tế của Việt Nam đã không dừng lại ở đây, mà đã tham
gia tích cực vào nhiều hoạt động khác. Mục đích là dần nâng cao đợc chất lợng xét xử,
đóng góp vào việc cải thiện môi trờng pháp luật và hành lang pháp lý của nớc ta, hỗ trợ
cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào kinh doanh Quốc tế…. Để thực hiện
mục đích đó, TTTT quốc tế Việt Nam đã và đang tham gia vào những hoạt động sau:
a. Hoạt động góp ý xây dựng chính sách và pháp luật :
TTTT quốc tế Việt Nam với t cách là tổ chức trọng tài đầu tiên và trong một thời
gian dài là tổ chức trọng tài phi Chính phủ duy nhất ở Việt Nam đã tham gia tích cực vào
hoạt động xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế thông qua hai hình thức là: trực tiếp
góp ý trực tiếp và góp ý gián tiếp thông qua phòng TM & CN Việt Nam, hoặc bằng các
hoạt động độc lập của các trọng tài viên.
Mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa TTTT Quốc tế Việt Nam với các tổ chức, cơ
quan nghiên cứu và hoạch định chính sách, các luật s trong và ngoài nớc cũng nh xuất phát
từ hoạt động kinh tế của TTTT quốc tế Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào chất lợng
những ý kiến của TTTT quốc tế Việt Nam đa ra. TTTT quốc tế Việt Nam có một hồi đồng
nghiên cứu khoa học pháp lý luôn tích cực nghiên cứu nhằm nâng cao kiên thức, chất lợng
các góp ý của Trung tâm.
Trung tâm đã góp ý, kiến nghị về môi trờng hoạt động của trọng tài nh nghiên cứu
kiến nghị với các cơ quan Nhà nớc để Việt Nam tham gia Công ớc New York - 1958,
Pháp lệnh công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nớc ngoài tại Việt Nam; Nghị
định 116/CP của Chính phủ qui định hoạt động của các TTTT kinh tế; tham gia góp ý vào
những dự án luật liên quan đến hoạt động kinh doanh. Và sắp tới, TTTT quốc tế Việt
Nam sẽ tham gia với t cách là thành viên của Ban soạn thảo liên ngành pháp lệnh trọng
tài do Hội luật gia Việt Nam chủ trì.
b. Hoạt động hợp tác với các tổ chức trong nớc và Quốc tế.
Trung tâm có sự hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành, các trờng đại học và các Viện
nghiên cứu, không chỉ trong hoạt động chuyên ngành mà còn cả trong hoạt động nghiên
cứu khoa học và trao đổi thông tin: đặc biệt với các cơ quan nh Bộ T Pháp, Toà án nhân
dân tối cao, Hội luật gia Việt Nam, Trờng đại học Tổng hợp Hà Nội (khoa Luật).. Qua đó
đã từng bớc tạo đợc sự kết hợp hoạt động thực tiễn với hoạt động xây dựng chính sách
pháp luật.
Hợp tác Quốc tế của TTTT quốc tế Việt Nam đã và đang giúp hoạt động trọng tài ở
Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Trung tâm đã ký ba thoả thuận hợp tác với các
tổ chức trọng tài của hợp Hàn Quốc, Singapore, Verssaile (Pháp) cùng phối hợp với đoàn
luật sự Châu á Thái Bình Dơng để tổ chức hội thảo Quốc tế lớn về trọng tài tại thành phố
Hồ Chí Minh, tham gia nhiều hội thảo chuyên ngành của các nớc và Quốc tế; nhiều khóa
học về trọng tài trong và ngoài nớc.
c. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin pháp lý:
Các trọng tài viên và các chuyên gia của Trung tâm đã tham gia và làm diễn giải tại
nhiều hội thảo, qua đó cung cấp thông tin cho hàng ngàn đối tợng khác nhau từ sinh viên,
các nhà kinh doanh đến các nhà nghiên cứu về hoạt động của Trung tâm cũng nh các bài
học rút ra từ thực tiễn. Một số chuyên viên, trọng tài viên của Trung tâm còn tham gia viết
giáo trình và các bài giảng cho các doanh nghiệp; viết bài đăng báo cho các tạp chí trong
và ngoài nớc, qua đó giới thiệu về sự phát triển của pháp luật Việt Nam, về hoạt động của
Trung tâm, đồng thời chỉ ra những bất cập hiện hành, kiến nghị với Nhà nớc để có những
sửa đổi bổ sung. Điều này đã góp phần hạn chế những sơ xuất trong quá trình ký kết và
thực hiện hợp đồng, hạn chế những tổn thất hoặc giúp cho việc giải quyết tranh chấp một
cách nhanh chóng.
Khả năng chuyên môn cao của các trọng tài viên, cộng tác viên của các trung tâm
còn đợc sử dụng vào việc t vấn pháp lý, giúp cho các doanh nghiệp trong và ngoài nớc
thực hiện đúng pháp luật, bảo vệ đợc quyền lợi và lợi ích của họ; giúp họ giải quyết nhanh
chóng, tiết kiệm khi phát sinh tranh chấp.
d. Về hoạt động giải quyết tranh chấp của TTTT Quốc tế Việt Nam:
Vì đây là hoạt động quan trọng nhất của Trung tâm, đó cũng làm nhiệm vụ cơ bản
nhất của TTTT Quốc tế Việt Nam, nên sẽ đợc đề cập chi tiết hơn ngay trong phần sau về
quy chế, các trọng tài viên, phí trọng tài…. là những yếu tố cần thiết để trung tâm thực
hiện nhiệm vụ này.
2.1.1.4. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam .
Điều 3, Điều lệ của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam quy định thẩm quyền của
trung tâm là giải quyết bất kỳ tranh chấp nào khi:
* Một trong các bên tranh chấp là thể nhất hoặc pháp nhân nớc ngoài hoặc tất cả các
bên là thể nhân hoặc pháp nhân nớc ngoài và:
* Khi trớc hoặc sau khi tranh chấp phát sinh các bên thoả thuận đa tranh chấp ra
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, hoặc khi theo một Hiệp định quốc tế họ có nghĩa vụ
phải làm nh vậy.
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam không chỉ giải quyết các tranh chấp về hợp
đồng ngoại thơng và hàng hải thơng mại quốc tê nh Hội đồng trọng tài hàng hải và Hội
đồng trọng tài ngoại thơng trớc đây, mà còn các tranh chấp pháp sinh từ các hợp đồng về
đầu t, du lịch, vận tải quốc tế, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán
quốc tế.
Trong quá trình hoạt động đã phát sinh nhu cầu của các doanh nghiệp trong nớc
muốn đa tranh chấp từ các hợp đồng nội ra yêu cầu Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
giải quyết. Để đáp ứng nhu cầu đó, Thủ tớng Chính phủ ra Quyết định số 114/TTg ngày
16/02/1996 cho phép mở rộng thẩm quyền giải quyết của Trung tâm giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ các quan hệ kinh doanh trong nớc.
Trên đây là những cơ sở pháp lý để Trung tâm xây dựng quy tắc tố tụng trọng tài
trong nớc và quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế. Nhìn chung, hai bộ quy tắc này là tơng tự
nhau, chỉ khác nhau ở một vài điểm do tính đặc thù của các quan hệ quốc tế.
Là một nhà kinh doanh khi đa tranh chấp ra giải quyết ở một Trung tâm trọng tài nào
đó, nhất thiết phải quan tâm, tìm hiểu về quy tắc giải quyết tranh chấp của Trung tâm đó.
Nguyên tắc thoả thuận trong giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục trọng tài đảm bảo cho
các bên quyền tự do lựa chọn Trung tâm trọng tài cũng nh thủ tục giải quyết tranh chấp.
2.1.2. Quy chế giải quyết tranh chấp ởTrung tâm trọng tài quốc tếViệt Nam
2.1.2.1. Đơn yêu cầu trọng tài
Theo Điều 4 của quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, thủ
tục tố tụng trọng tài bắt đầu bằng một đơn kiện do nguyên đơn nộp cho Trung tâm. đơn phải
bao hàm các nội dung dới đây:
a. Họ tên và địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn.
b. Các yêu cầu của nguyên đơn, có trình bày sự việc kèm theo bằng chứng.
c. Những căn cứ pháp lý mà nguyên đơn dựa vào đó để đi kiện.
d. Trị giá vụ kiện.
e. Trọng tài viên mà nguyên đơn chọn trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm
hoặc đề nghị của nguyên đơn với Chủ tịch Trung tâm chỉ định trọng tài viên cho mình.
Đơn kiện và các giấy tờ kèm theo phải nộp bải chính và một số bản sao đủ để gửi
cho các trọng tài viên và cho bị đơn, mỗi ngời một bản. Đơn kiện trong một vụ tranh chấp
quốc tế bằng tiếng nớc ngoài thì viết bằng một thứ tiếng nớc ngoài thì viết bằng một thứ
tiếng đợc sử dụng rộng rãi trong giao dịch quốc tế nh tiếng Anh, Pháp, Nga.
Khi gửi đơn kiện nguyên đơn phải ứng trớc toàn bộ dự phí trọng tài tính theo biểu
phí trọng tài, phí tổn trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
Khi nguyên đơn đã nộp dự phí, vụ kiện sẽ đợc đa ra giải quyết.
2.1.2.2. Bản tự bào chữa của bị đơn.
Sau khi nhận đợc đơn yêu cầu trọng tài, th ký của Trung tâm phải thông báo cho bị
đơn và gửi cho bị đơn bản sao đơnkiện và các tài liệu kèm theo cùng với bản quy tắc tố
tụng, biểu phí trọng tài và danh sách trọng tài viên của Trung tâm. Đồng thời, bị đơn đợc
yêu cầu gửi cho Trung tâm bản tự bào chữa của mình kèm theo các bằng chứng trong vòng
45 ngày đối với tranh chấp trong nớc và 60 ngày đối với tranh chấp quốc tế kể từ ngày
nhận đợc bản sao đơn kiện của nguyên đơn.
2.1.2.3. Lựa chọn và chỉ định của trọng tài viên.
Khi tranh chấp đa ra Trung tâm, tranh chấp có thể do một trọng tài viên duy nhất
hoặc một hội đồng gồm ba trọng tài viên giải quyết tuỳ theo thoả thuận của các bên.
Trờng hợp tranh chấp do một trọng tài viên giải quyết, thì các bên có thể cùng nhau
chọn trọng tài viên duy nhất đó. Nếu không nhất trí đợc với nhau thì các bên tranh chấp có
thể yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định một trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên
của Trung tâm.
Trờng hợp tranh chấp do một Hội đòng trọng tài gồm ba trọng tài viên giải quyết,
mỗi bên tranh chấp có quyền chọn hoặc yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định cho minh
một trọng tài viên trong danh sách các trọng tài viên của Trung tâm. Khi vụ kiện có nhiều
nguyên đơn hoặc bị đơn, các nguyên đơn hay các bị đơn này phải thoả thuận với nhau và
thống nhất chọn một trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm hoặc yêu
cầu Chủ tịch trung tâm chon trọng tài viên cho họ. Hai trọng tài viên đã đợc bên nguyên và
bên bị chỉ định sẽ chọn một trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch hội đồng trọng tài giải quyết
vụ kiện. Nếu hai trọng tài viên đã đợc chọn không nhất trí với nhau về việc chọn trọng tài
viên thứ ba thì Chủ tịch Trung tâm sẽ chỉ định trọng tài viên thứ ba đó trong bản danh sách
trọng tài viên của Trung tâm. Điều tơng tự cũng đợc áp dụng đối với trờng hợp khi một
bên hoặc các bên không chọn đợc cho mình một trọng tài viên, thì Chủ tịch Trung tâm
cũng sẽ chỉ định trọng tài viên đó theo yêu cầu của một bên hoặc các bên.
Theo Điều 11, quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, mỗi bên
tranh chấp tham gia trọng tài có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài viên hoặc Chủ tịch Hội
đồng trọng tài nếu xét thấy có sự nghi ngờ về việc thiên vị, nhất là khi trọng tài viên đó có
thể trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến tranh chấp. Mỗi bên tranh chấp tham gia trọng tài
chỉ có quyền khớc từ t rọng tài viên do chính mình chỉ định trên cơ sở có những lý do biết
đợc sau khi chỉ định. Tuy nhiên, hiện nay có một vài quan điểm có xu hớng để cho các bên
có khả năng có quyền khớc từ không chỉ chính trọng tài viên do bên đó chỉ định mà có thể
bất kỳ trọng tài viên nào. Chủ tịch Uỷ ban trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất cũng có
quyền tự khớc từ với những lý do trên. Việc khớc từ này sẽ do những trọng tài viên khác
trong Uỷ ban trọng tài xem xét và quyết định. Trờng hợp, các trọng tài viên không nhất trí
với nhau hoặc trọng tài viên duy nhất bị khớc từ thì Chủ tịch Trung tâm sẽ xem xét và
quyết định.
Trờng hợp việc khớc từ đợc công nhận, trọng tài viên, Chủ tịch Uỷ ban trọng tài
hoặc trọng tài viên duy nhất mới sẽ đợc chỉ định lại theo thủ tục giống nh việc chỉ định lần
trớc.
Nếu trong quá trình trọng tài, Chủ tịch Uỷ ban trọng tài, trọng tài viên hoặc trọng tài
viên duy nhất vì lý do nào đó mà không thể tiếp tục tham gia trọng tài thì Chủ tịch Uỷ ban
trọng tài, trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất mới thay thế sẽ hoặc do các bên lựa
chọn hoặc do Chủ tịch Trung tâm chỉ định theo thủ tục quy định tại Điều 12. Đó là các
trờng hợp khi các trọng tài viên không có đủ khả năng thực hiện chức năng của mình hoặc
vì các lý do khác mà không thể làm trọng tài viên đợc. Trong trờng hợp đó, Uỷ ban trọng
tài mới sau khi đã tham khảo ý kiến các bên, có thể tiến hành xem xét lại các vấn đề đã
đợc đặt ra trong các phiên họp giải quyết trớc đây.
2.1.2.4. Đơn kiện ngợc.
Điều 13 quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam quy định rằng
trong thời hạn không quá 60 ngày kể từ ngày nhận đợc bản sao đơn kiện đối với tranh
chấp trong nớc và trớc khi Uỷ ban trọng tài họp phiên xét xử đầu tiên đối với tranh chấp
quốc tế bị đơn có thể kiện lại. Đơn kiện lại phải theo thể thức quy định của quy tắc tố tụng
của Trung tâm. Trong vòng 30 ngày đối với tranh chấp trong nớc và 60 ngày đối với tranh
chấp nớc ngoài kể từ ngày nhận đợc bản sao đơn kiện lại, bị đơn hay nguyên đơn của vụ
kiện chính phải giử văn bản cho biết ý kiến của mình cho Uỷ ban trọng tài. Vụ kiện lại sẽ
đợc xét xử cùng với vụ kiện chính và do cùng Uỷ ban trọng tài giải quyết.
2.1.2.5. Điều tra trớc khi tiến hành trọng tài.
Trớc hết cần phải lu ý rằng Việt Nam chịu ảnh hởng của truyền thống của hệ thống
pháp luật dân sự "nặng" về công tác điều tra, theo đó thẩm phán cũng nh trọng tài viên
đóng vai trò chủ động trong quá trình xét xử, nhất là trong quá trình điều tra và thu thập
chứng cứ.
Theo Điều 13 của quy tắc trọng tài của Trung tâm sau khi đã đợc chọn hoặc chỉ định
một cách hợp pháp trọng tài viên tiến hành nghiên cứu hồ sơ và công tác điều tra bằng mọi
biện pháp thích hợp. Trọng tài viên có thể trực tiếp gặp các bên tham gia trọng tài để nghe
trình bày ý kiến, dù là thể theo yêu cầu của một hoặc các bên hoặc theo ý kiến của mình.
Tiếp đó trọng tài viên có quyền gặp những ngời khác để tìm hiểu sự việc trớc mặt các bên
đơng sự hoặc sau khi đã thông báo cho các bên biết. Ngoài ra, trọng tài viên có quyền mời
một hoặc một số giám định viên giúp để làm sáng tổ vụ việc. Khi xét thấy cần thiết, trọng
tài viên cũng có thể tiến hành các biện pháp nh yêu cầu các bên cung cấp thêm chứng cú
bổ sung, các văn bản tài liệu có liên quan (Điều 15, Điều 16 quy tắc giải quyết tranh chấp
trong nớc) . Sau khi mọi biện pháp chuẩn bị liên quan đến việc trọng tài đựoc cọi là đã
xong, trọng tài viên duy nhất hoặc Uỷ ban trọng tài sẽ quyết định trong nớc thời hạn tiến
hành trọng tài (Điều 17).
2.1.2.6. Phiên họp trọng tài.
Chủ tịch Uỷ ban trọng tài quyết định ngày tiến hành trọng tài. Phiên họp xét xử sẽ
đợc tổ chức ở Hà Nội hoặc ở thành phố Hồ Chí Minh hoặc ở một địa điểm khác thể theo
yêu cầu của các bên (Điều 18). Hiện nay, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có văn
phòng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Văn phòng tại Hà Nội có quyền quyết định
liệu tranh chấp sẽ đợc giải quyết ở Hà Nội hay ở một địa điểm khác. Trên thực tế, hầu hết
các tranh chấp đợc giải quyết ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Các bên tranh chấp sẽ đợc triệu tập đến phiên họp ít nhất là 15 đối vơi tranh chấp
trong nớc và 30 ngày đối với tranh chấp quốc tế ngày trớc ngày mở phiên họp giải quyết.
Các bên có thể trực tiếp tham gia vào quá trình trong tài hoặc có thể uỷ quyền cho ngời đại
diện để bảo vệ quyền lợi cho ngời đại diện bảo vệ quyền lợi cho mình. Ngời đại diện có
thể có thể là ngời Việt Nam hoặc ngời nớc ngoài. Trờng hợp, một bên hoặc các bên vắng
mặt mà không có lý do chính đáng, thì Uỷ ban trong tài hoặc Trọng tài viên duy nhất có
thể mở phiên họp giải quyết trên cơ sở những tài liệu và chứng cứ đã có. Theo yêu cầu
hoặc đợc sự nhất trí của các bên, trọng tài viên duy nhất hoặc Uỷ ban trọng tài cũng có thể
quyết định vụ việc mà không cần sự có mặt của các bên (Điều 19, Điều 20).
Trọng tài viên duy nhất hoặc Uỷ ban trọng tài giải quyết tranh chấp trên cơ sơ các
điều khoản của hợp đồng nếu vụ việc phát sinh từ quan hệ hợp đồng vào luật áp dụng
trong tranh chấp là luật Việt Nam nếu là tranh chấp trong nớc và luật do các bên thoả
thuận nếu là tranh chấp quốc tế vào các điều ớc quốc tế có liên quan và có tính đến tập
quán thơng mại và thông lệ quốc tế (Điều 23).
Các bên tranh chấp cũng có thể thoả thuận việc lựa chọn luật áp dụng để giải quyết
tranh chấp quốc tế. Nếu tranh chấp xuất phát từ hợp đồng thì theo yêu cầu của quy tắc của
Trung tâm trọng tài viên duy nhất hoặc Uỷ ban trọng tài phải giải quyết tranh chấp theo
luật áp dụng vào hợp đồng đã đợc ký kết và với bất kỳ Hiệp định quốc tế nào có liên quán
có tính đến tập quán thơng mại và thông lệ quốc tế.
Trừ khi các bên có thoả thuận khác, còn thì tất cả các tranh chấp sẽ đợc giải quyết
kín đáo bảo đảm bí mật cho các bên đơng sự. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức đợc dùng
trong quá trình trọng tài. Các bên có thể yêu cầu Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
mời phiên dịch nhng phải trả chi phí phiên dịch (Điều 22).
2.1.2.7. Quyết định trọng tài.
Thủ tục trọng tài kết thúc bằng việc ra một quyết định gọi là quyết định hay phán
quyết của trọng tài viên duy nhất hoặc của Uỷ ban trọng tài (sau đây gọi chung là trọng tài
viên). Trọng tài viên có thể ra quyết định bổ sung nếu thấy rằng một số điểm của quyết
định bổ sung nếu thấy rằng một số điểm của quyết định chính cha rõ hoặc cha đợc giải
quyết. Quyết định trọng tài hoặc quyết định bổ sung đợc đa ra theo nguyên tắc đa số. Nếu
không đạt đợc đa số, Chủ tịch Uỷ ban trọng tài sẽ quyết định với t cách là trọng tài viên
duy nhất. Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam không quy định thời
hạn để cho trọng tài viên ra quyết định giải quyết.
Nội dung của quyết định trọng tài bao gồm các vấn đề sau:
- TênTrung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
- Địa điểm và ngày ra quyết định
- Họ và tên trọng tài viên
- Tóm tắt nội dung tranh chấp
- Quyết định về việc giải quyết tranh chấp và phí trọng tài cũng nh các chi phí khác
có liên quan.
- Lý do của quyết định
- Chữ ký của tất cả trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp và của th ký phiên
họp.
Nếu một trọng tài viên không có điều kiện ký vào biên bản Chủ tịch Uỷ ban trọng tài
sẽ xác nhận việc này bằng cách ký vào quyết định và nêu rõ nguyên nhân (Điều 28).
Quyết định trọng tài phải đợc gửi cho các bên trong vòng 30 ngày kể từ ngày kết
thúc phiên họp cuối cùng. Trong trờng hợp ngoại lệ, thời gian đó có thể kéo dài hơn.
Quyết định trọng tài là cuối cùng và không thể kháng cáo trớc bất kỳ toà án hoặc tổ
chức nào. Các bên đơng sự phải tự nguyện thi hành quyết định trọng tài trong phạm vi một
thời hạn đợc xác định ở trong quyết định trọng tài. Nếu trong vòng thời hạn đó, quyết định
trọng tài không đợc tự nguyện thi hành thì sẽ áp dụng biện pháp cỡng chế theo luật pháp
của nớc nơi đợc yêu cầu thi hành quyết định và theo Hiệp định quốc tế áp dụng đối với vụ
kiện (Điều 31 quy tắc tố tụng trong quốc tế,và Điều 31 quy tắc tố tụng trong nớc).
Trong qúa trình trọng tài, trọng tài viên duy nhất hoặc Uỷ ban trọng tài có thể kết
thúc thủ tục trọng tài.
- Khi nguyên đơn rút đơn kịên
- Khi các bên đạt đợc thoả thuận hoà giải thông qua thơng lợng trực tiếp
- Khi thiếu những điều kiện cần thiết để xem xét và giải quyết vụ kiện, kể cả trờng
hợp nguyên đơn không làm gì để cho vụ kiện tiến triển trong thời hạn 6 tháng.
Cũng giống nh thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế trong nớc, quy tắc
của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có quy định về hoà giải là một trong những biện
pháp giải quyết tranh chấp đã trở thành truyền thống ở Việt Nam. Theo Điều 31, trong qúa
trình trọng tài của Trung tâm nếu các bên đạt đợc thoả thuận bằng thơng lợng trực tiếp, thì
Uỷ ban trọng tài sẽ ngng việc trọng tài. Thể theo yêu cầu của các bên. Chủ tịch Trung tâm
công nhận sự thoả thuận bằng văn bản. Văn bản này có hiệu lực thi hành giống nh quyết
định trọng tài.
Lệ phí trọng tài và các chi phí khác phải giải đợc các bên thanh toán ngay sau khi
nhận đợc quyết định trọng tài. Các chi phí này gồm phí trọng tài, phí tổn của Trung tâm và
chi phí của các bên sẽ đợc tính trên cơ sở biểu phí của Trung tâm.
Phí trọng tài để trang trải chi phí hành chính và nghiệp vụ của Trung tâm. Phí tổn
của Trung tâm bao gồm chi phí liên quan đến việc trọng tài nh thù lao cho giám định viên,
nhân chứng, chi phí ăn ở, đi lại của trọng tài viên và nhân viên của Trung tâm...
Chi phí của các bên chỉ hạn chế trong các chi phí để các bên bảo vệ quyền lợi của họ
trớc Trung tâm nh chi phí đi lại, tiền thuê luật s, phiên dịch...
Các chi phí trên sẽ do bên thua kiện trả nếu các bên không có thoả thuận gì khác.
2.2. THỰC TRẠNG TRANH CHẤP THƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƠNG MẠI Ở TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM.
2.2.1. Các yếu tố chi phối đến tranh chấp và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở
Việt Nam.
Tranh chấp là một tất yếu trong nền kinh tế và giải quyết tranh chấp trong nền kinh
tế là hoạt động có ảnh hởng đến sự phát triển của các quan hệ kinh tế, đến sự ổn định của
nền kinh tế. Ngợc lại, chính các cơ chế của nền kinh tế, các chính sách của Nhà nớc cũng
sẽ tác động mạnh mẽ nên việc phát sinh tranh chấp, cũng nh cách thức giải quyết tranh
chấp. Chính vì vậy, không thể không quan tâm đến những điều kiện chính trị, kinh tế, xã
hội trong và ngoài nớc ảnh hởng đến tình hình tranh chấp và giải quyết tranh chấp.
Nền kinh tế thế giới hiện nay đang là một nền kinh tế mở, hình thành nhiều khu vực
kinh tế nhiều trục kinh tế, với lợng giao dịch khổng lồ. Các tổ chức kinh tế và thơng mại
gồm nhiều quốc gia thành viên tham gia ICC, APEC, OPEC, WTO... tạo nên một thị trờng
toàn cầu trong đó các chủ thể kinh doanh đa dạng hơn bao giờ hết. Toàn cầu hoá hội nhập
vào nền kinh tế thế giới đang là xu hớng phát triển hiện nay, kéo theo đó là việc thống nhất
tạo ra những quy tắc chung, quy định chung điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Châu Á - Thái Bình Dơng trong đó có các nớc Đông Nam Á đợc coi là khu vực kinh
tế năng động nhất, có sức tăng trởng cao. Các quan hệ kinh tế với các quốc gia trong khu
vực này, và giữa khu vực này với các khu vực khác sẽ phát triển rất mạnh.
Việt Nam đã và đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng, thừa nhận và đảm bảo
quyền tự do kinh doanh; thực hiện chính sách mở cửa, sẽ là một bộ phận không tách rời
của nền kinh tế khu vực và quốc tế. Trong cơ chế thị trờng có một lợng lớn doanh nghiệp
giao dịch thơng mại dựa trên lợi ích kinh tế, lợi nhuận là thớc đo là sự sống của doanh
nghiệp thì bất đồng và tranh chấp cũng có bản chất khác so với trong cơ chế cũ đặc biệt là
số lợng tranh chấp sẽ tăng một cách đáng kể. Các chủ thể tranh chấp thuộc tất cả các thành
phần kinh tế không chỉ ở trong nớc mà còn ở nớc ngoài, các tranh chấp không đơn lẻ mà
liên quan đến nhiều bên, nhiều mối quan hệ khác...
Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm cả quyền lựa chọn hình thức giải
quyết tranh chấp. Xuất phát từ lợi ích của chính doanh nghiệp, toà án không còn là nơi thu
hút các bên giải quyết tranh chấp, mà các doanh nghiệp thờng sử dụng các hình thức nh
hoà giải hay trọng tài. Cơ chế thị trờng đã làm nảy sinh các tranh chấp, nhng chính nó
cũng đặt ra yêu cầu về những hình thức giải quyết tranh chấp mềm dẻo linh động, đảm bảo
lợi ích của các bên.
Việt Nam là một nớc xã hội chủ nghĩa, và có một hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Nó khác nhiều so với hệ thống pháp luật án lệ (common law) hay dân sự truyền
thống (civil law); và nó cũng khác so với các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây. Quá trình toàn
cầu hoá đòi hỏi hệ thống pháp luật này không những phải phù hợp với đặc điểm chính trị
trong nớc mà việc hoàn thiện phải tính đến sự tơng thích ở một mức độ nào đó với các hệ
thống luật pháp khác; trong đó có các chế định về tranh chấp. Hệ thống pháp luật ở Việt
Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện và bổ sung còn nhiều bất cập chồng chéo ảnh
hởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh nói chung đến tranh chấp và giải quyết tranh
chấp nói riêng. Chẳng hạn, trên thế giới hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã
rất phát triển, đặc biệt là ở các nớc Phơng Tây, chính vì thế trong xu hớn hội nhập Việt Nam
cần điều chỉnh trọng tài theo xu hớn chung của trọng tài quốc tế quá trình thành lập, quy tắc tố
tụng, luật điều chỉnh cần đợc dựa trên sự tham khảo kinh nghiệm của các nớc đi trớc.
Là một nớc Châu Á Việt Nam chịu ảnh hởng sâu sắc bởi t tởng của khổng giáo đề
cao quyền lực tuyệt đối của nhà vua đối với toàn xã hội, sự thống trị của quyền lợi cộng
đồng đối với quyền lợi cá nhân... tạo nên sự lãnh đạm đối với việc giải quyết tranh chấp
bằng con đờng tranh tụng. Biện pháp thông thờng hơn cả mà các thơng gia chấp nhận là
tích cực thơng lợng hoặc hoà giải qua trung gian. Mặt khác trình độ dân trí ở nớc ta cha
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải quyết các tranh chấp trong thương mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay.pdf