Luận văn Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La

Tài liệu Luận văn Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La: LUẬN VĂN: Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị và ngoại giao,… được nhân dân tin tưởng, hưởng ứng. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức, một trong những nguy cơ cản trở công cuộc đổi mới đất nước chính là tệ tham nhũng. Tham nhũng cùng với lãng phí đã gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, làm băng hoại đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xâm hại trực tiếp công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, là nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu quả nguy hại của tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng và đã ...

pdf107 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị và ngoại giao,… được nhân dân tin tưởng, hưởng ứng. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức, một trong những nguy cơ cản trở công cuộc đổi mới đất nước chính là tệ tham nhũng. Tham nhũng cùng với lãng phí đã gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, làm băng hoại đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xâm hại trực tiếp công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, là nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu quả nguy hại của tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng và đã đạt được kết quả bước đầu. Tuy nhiên nạn tham nhũng vẫn diễn ra hết sức phổ biến, ngày càng tinh vi, xảo quyệt ở nhiều cấp, nhiều ngành. Thậm chí, tham nhũng đã ăn sâu vào tư duy và tác phong làm việc hàng ngày của một số cán bộ, công chức, làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, gây bất bình trong nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nêu rõ: Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng; kỷ cương phép nước trong nhiều việc, nhiều lúc chưa nghiêm… Đã đến lúc chúng ta phải nhận thức đầy đủ tính chất, mức độ, những tác hại và biến quyết tâm chính trị thành những biện pháp cụ thể để ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng. Sơn La cũng chung tình trạng như cả nước. Hơn nữa, là một tỉnh miền núi khu vực Tây Bắc Bộ, kinh tế chưa phát triển, ngân sách và đầu tư còn dựa chủ yếu vào chi viện từ Trung ương thì tham nhũng càng đáng bị lên án. Trong những năm gần đây tham nhũng ở Sơn La có những biểu hiện phức tạp, nhất là tham nhũng trong các cơ quan hành chính của Nhà nước. Vì thế, nghiên cứu đề tài "Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La" mang tính cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phòng chống tham nhũng hiện nay được đông đảo mọi người quan tâm vì nó mang tính thời sự và thực tiễn. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về tham nhũng của nhiều học giả, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International), Ngân hàng thế giới (World Bank). Ở Việt Nam đã nhiều học giả, nhà chính trị quan tâm đến vấn đề nhạy cảm này và đã có nhiều bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng như: - "Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của Singapo", của Trần Anh Tuấn, Ban Nội chính Trung ương, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007. - "Tham nhũng cũng có sứ mệnh" của Nguyễn Sơn, Tuổi trẻ Online, 18/8/2006. - "Truy tố 665 đảng viên vi phạm pháp luật", Thông tấn xã Việt Nam 8/2007. - "Nguyên tắc xử lý tham nhũng", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21/8/2007, cập nhật lúc 14h56’. - "Công chúc và tham nhũng - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới", của T. Ngoai, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21/8/2007, cập nhật lúc 17h38’. - "Chống tham nhũng xét từ góc độ quyền lực", của Vũ Quốc Tuấn, Báo Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần, ngày 28/9/2006. Đề tài khoa học cấp Bộ: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra nhà nước theo Luật Phòng, chống tham nhũng" do Tiến sĩ Trần Ngọc Liêm, Phó vụ trưởng Vụ IV, Thanh tra Chính phủ làm Chủ nhiệm đề tài, nghiệm thu tháng 7/2007. Trong các cơ sở đào tạo cũng đã có một số luận văn nghiên cứu về tham nhũng, lãng phí như luận văn: "Một số giải pháp chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh ĐakLak", của Phạm Xuân Lĩnh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006; luận văn: "Giải pháp phòng, chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hóa", của Lê Văn Tuấn, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2008... Riêng đề tài phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La chưa được nghiên cứu một cách bài bản và hệ thống. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hiện tượng tham nhũng trong xã hội hiện nay. Đánh giá thực trạng phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực, hiệu quả, khả thi nhằm góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung và trong cơ quan hành chính nhà nước tại Sơn La nói riêng. Với mục đích trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Nghiên cứu cách nhìn nhận của thế giới, quan điểm của Đảng ta về vấn đề tham nhũng hiện nay. Quan niệm của C. Mác, V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tham ô lãng phí, nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh chống tham nhũng ở một số nước, đặc biệt là bài học kinh nghiệm của Singapo. - Tập trung làm rõ những đặc điểm, tình hình, mức độ nghiêm trọng của tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước hiện nay qua thực tiễn Sơn La. - Nghiên cứu tính hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh xử lý một số vụ tham nhũng của công chức trong những năm gần đây ở Sơn La. - Đưa ra các giải pháp phòng ngừa đấu tranh chống tham nhũng hiện nay: trên cơ sở định hướng chung của Nhà nước, đề tài kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng tại Sơn La. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu: Các hình thức thủ đoạn tham nhũng; Công tác phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La. Phạm vi nghiên cứu: Các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La. Đề tài nghiên cứu một số biện pháp phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước, thực trạng hiện nay về các hành vi tham nhũng phổ biến của cán bộ công chức trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2000 đến nay (tài liệu chủ yếu từ khi Luật Phòng, chống tham nhũng có hiệu lực thi hành 01/6/2006). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tường Hồ Chí Minh; các phương pháp khoa học chủ yếu được vận dụng trong luận văn gồm: Phương pháp phân tích tư duy, hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp chuyên gia. 6. Đóng góp khoa học của luận văn Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước. Chứng minh hiện tượng tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Sơn La có diễn biến phức tạp do các nguyên nhân: Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện tốt công tác phòng chống tham nhũng trong thời gian tới ở Sơn La. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.1. THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.1.1. Quan niệm về tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước 1.1.1.1. Quan niệm về tham nhũng Tham nhũng là hiện tượng xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người được nhiều học giả và các tổ chức quan tâm nghiên cứu. Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: quyền lực công và lòng tham của cá nhân. C. Mác cho rằng, để tồn tại và phát triển trong xã hội còn phân chia giai cấp xuất hiện những cơ quan quyền lực có chức năng điều hòa những lợi ích của những nhóm người khác nhau, thậm chí đối lập nhau để hình thành một trạng thái cân bằng chung. Tuy nhiên, quyền lực của những cơ quan đó lại chỉ có thể hiện diện và được thực thi thông qua hành động của những con người cụ thể nắm quyền lực trong các cơ quan đó. Trong khi đó mỗi con người đều hành động dưới sự hướng dẫn của nhu cầu cá nhân mà nhu cầu cá nhân lại luôn lớn hơn khả năng có thể tự thỏa mãn của họ. Vì thế, một số người nắm quyền lực nảy sinh động cơ tận dụng đến mức cao nhất quyền lực do địa vị xã hội, chức vụ nhà nước giao để thỏa mãn một cách không chính đáng nhu cầu của họ. C. Mác nói rằng: "Lịch sử loài người là lịch sử của những con người hành động nhằm theo đuổi những mục đích của mình, nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình". Sự lạm dụng quyền lực công cho để thỏa mãn nhu cầu cá nhân là tham nhũng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần đề cập đến hiện tượng tham nhũng. Người cho rằng, tham ô "là lấy của công làm của tư. Là gian lận tham lam", "tham ô là trộm cướp". Theo Hồ Chí Minh, đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: ăn cắp của công làm của tư; đục khoét của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là "ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế" [18, tr. 488]. Điểm đặc trưng của hành vi tham ô theo Hồ Chủ tịch chính là việc biến "của công" thành "của tư". "Của công" chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ mục đích chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. "Của tư" không chỉ là tài sản riêng của một cán bộ, công chức mà còn là tài sản chung của bộ phận nhưng không dành phục vụ mục đích chung, chỉ dành làm của riêng, quỹ riêng cho một tập thể, một địa phương. Sâu sắc hơn nữa, Hồ Chủ tịch còn chỉ ra hình thức tham ô tinh vi, rất khó nhận thấy trong cuộc sống đời thường, đó là "tham ô gián tiếp", tức hiện tượng cán bộ Chính phủ, dù được nhân dân trả lương hàng tháng đều đặn, nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này, trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân [18, tr. 436]. Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng thì "Tham nhũng - đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng" bao gồm những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, trộm cắp tài sản của Nhà nước, hoặc lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng thông qua việc sử dụng không chính thức địa vị chính thức của mình, hoặc tạo ra xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi. Với cách xem xét như vậy, quan niệm của Liên hợp quốc về tham nhũng đã vượt ra ngoài giới hạn của tệ hối lộ. Ban Tổng thư ký Liên hợp quốc, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác nhau, cho rằng, tham nhũng bao hàm trong các hành vi sau: - Hành vi ăn cắp, tham ô và chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà chủ thể của hành vi đó là những người có chức có quyền; - Lạm dụng chức quyền để trục lợi bất hợp pháp thông qua việc sử dụng các qui chế chính thức một cách không chính thức; - Mâu thuẫn không cân đối giữa lợi ích chính đáng do thực hiện nghĩa vụ xã hội với những món lợi tư riêng. Theo quan niệm này, tham nhũng xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như các cuộc vận động chính trị không minh bạch, đối xử thiên vị nhằm vụ lợi, chế độ bảo hộ mậu dịch có lợi cho nhóm ủng hộ, bố trí lãnh tụ chính trị và quan chức nhà nước vào các hãng tư nhân hoặc liên doanh, đầu tư cơ sở hạ tầng bằng ngân sách nhà nước hay bố trí vốn vay của các tổ chức quốc tế có lợi cho nhóm hối lộ nhà nước, biến tấu tài sản của Nhà nước thành tài sản của công ty cổ phần, làm tiền trên cơ sở nắm được thông tin về sự kết cấu của các tổ chức, đơn vị phạm pháp, lợi dụng việc nắm rõ thông tin về chính sách của Nhà nước để đầu cơ trục lợi… Theo định nghĩa của Ban Nghiên cứu thuộc Hội đồng Châu Âu thì tham nhũng bao gồm hành vi hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác của những người được giao thực hiện một trách nhiệm nào đó trong khu vực nhà nước hoặc khu vực tư nhân, nhưng đã vi phạm trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi ích bất hợp pháp nào đó cho cá nhân hoặc cho người khác. Trong cuốn "Poliical Corrupion: A han Book" (Oxford,1989) Giáo sư J. Nai quan niệm rằng: Tham nhũng bao hàm trong nội dung của nó cả tệ nạn hối lộ (nấp dưới hình thức "thù lao" để quyến rũ những người đang bị mắc nợ), tệ gia đình chủ nghĩa (sự ban ơn, bao che trên cơ sở những quan hệ cá nhân) và sự chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản công cộng để biến tài sản đó thành của riêng cá nhân. Ở nước ta hiện nay thuật ngữ tham nhũng được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày, nhưng vẫn chưa đạt tới sự thống nhất về quan niệm. Từ điển Tiếng Việt ghi rằng, "tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của" [37]. Theo quan niệm này tham nhũng gồm hai hành vi phối hợp với nhau: nhũng nhiễu của người có quyền hành và thu lợi bất chính từ lạm dụng quyền hành đó. Theo Luật Phòng, chống tham nhũng, "tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì mục đích vụ lợi" [26, Điều 1 khoản 2]. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người trong khu vực nhà nước (các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước). Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau như vậy nhưng nhìn chung, có hai loại quan niệm khá phổ biến về tham nhũng. Quan niệm thứ nhất hiểu tham nhũng theo nghĩa rộng bao gồm mọi hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ thể của hành vi tham nhũng có thể là cán bộ, công chức nhà nước, viên chức hoặc những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và khu vực tư nhân. Quan niệm thứ hai hiểu tham nhũng theo nghĩa hẹp, là hành vi sử dụng quyền lực được Nhà nước hoặc tổ chức chính trị hưởng lương ngân sách nhà nước giao phó không theo đúng mục đích đã đề ra, không vì lợi ích công mà vì lợi ích cá nhân hoặc nhóm cá nhân có quan hệ lợi ích với nhau. Việc xác định rõ ràng và có quan niệm đúng đắn về tham nhũng là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm tính hiệu quả trong đấu tranh phòng và chống lại tệ nạn này. Trong điều kiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta còn nhiều cam go, phức tạp thì sự thống nhất trong quan niệm về tham nhũng là rất cần thiết. Tiếp thu những điểm hợp lý trong những quan điểm trên, chúng tôi cho rằng, tham nhũng hiện nay không chỉ trong phạm vi quyền lực công mà còn mở rộng đến khu vực tư và về cơ bản một hành vi được coi là tham nhũng là hành vi sử dụng quyền lực của tổ chức giao phó nhưng chủ thể được giao nhiệm vụ sử dụng nó như một công cụ để trục lợi cho mình và cho người khác. 1.1.2. Một số hình thức tham nhũng chủ yếu trong cơ quan hành chính nhà nước 1.1.2.1. Những hình thức tham nhũng trực tiếp trong cơ quan hành chính nhà nước Tham nhũng trực tiếp là loại tham nhũng thể hiện dưới hình thức công chức nhà nước đẩy nhanh việc thực hiện một quyền cụ thể nhất định hoặc để giúp công dân hoặc tổ chức nào đó đạt được một quyền xác định mà vốn dĩ họ có quyền được hưởng nhằm thu lợi từ những người thụ hưởng quyền đó. Hình thức tham nhũng này thể hiện dưới nhiều hình thái có sự biến tấu khác nhau. - Công chức nhà nước nhận tiền để giúp công dân nào đó có được các loại giấy tờ chứng nhận của Nhà nước mà anh ta có quyền được cấp, nghĩa là công dân đó có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận, nhanh hơn thay vì để công dân đó chờ đợi, xếp hàng theo đúng quy định. Đây là loại tham nhũng trực tiếp phổ biến và ít nguy hiểm nhất trong các cơ quan hành chính nhà nước. - Công chức phụ trách thụ lý giải quyết thủ tục cấp các loại giấy phép (xây dựng, hoàn công, đăng ký kinh doanh, nhất là các ngành nghề nhạy cảm, v.v...) cố ý gây khó dễ, tạo ra các khó khăn giả tạo như bắt "khổ chủ" đi lại xác nhận và chỉnh sửa hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời gian trả hồ sơ với lý do không chính đáng, đưa qua nhiều bộ phận, các bộ phận xử lý tắc trách chồng chéo kéo dài thời gian gây phiền hà cho "khổ chủ". Tất cả những hành vi đó là nhằm buộc "khổ chủ" phải "biết điều", tức phải kèm theo một bao thư (có tiền) để "lót tay" cán bộ công chức khi nộp hồ sơ. Khi đó hồ sơ sẽ được giải quyết nhanh chóng tùy theo số tiền trong bao thư nhiều hay ít. Đây là loại tham nhũng điển hình và khá lộ liễu trong các cơ quan hành chính ở Việt Nam hiện nay. Khi xếp vào loại tham nhũng trực tiếp người ta thường gọi loại tham nhũng này là nhũng nhiễu, gây phiến hà để vòi tiền. Cách thức thực hiện tham nhũng là tạo ra các tiền lệ, các loại lệ thỏa thuận ngầm, không công khai về "phí dịch vụ nhanh" mà cá nhân và pháp nhân khi đến cơ quan hành chính để giao dịch phải tự hiểu, hoặc có "chân gỗ" hướng dẫn, chỉ bảo. - Một loại tham nhũng phổ biến nữa trong cơ quan hành chính là thông qua thỏa thuận giữa cá nhân hoặc pháp nhân với người trung gian thường gọi là "cò hành chính". Cá nhân, pháp nhân phải chi một số tiền tùy theo thỏa thuận với "cò" để thực hiện các giao dịch hành chính một cách thuận lợi. Đây là loại tham nhũng trực tiếp nhưng có sự tham gia của người trung gian. Cũng có trường hợp cán bộ công chức trực tiếp thỏa thuận ngoài giờ làm việc để kiếm thêm thu nhập mà lẽ ra trách nhiệm này anh ta phải thực hiện trong giờ hành chính. - Đáng báo động trong cơ quan hành chính hiện nay và có thể đưa vào tham nhũng trực tiếp đó là tham nhũng trong việc "mua quan, bán chức", là mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới trong công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ lãnh đạo cấp trên sẽ thông tin lấp lửng cho một vài cấp dưới biết, rằng hiện nay đang có nhu cầu bổ nhiệm một chức danh lãnh đạo trong cơ quan, họ gợi ý cho một vài công chức biết và nói "tôi thấy cậu có thể đảm đương được chức danh đó... hãy cố gắng lên nhé...". Thế là các công chức hám danh được gợi ý đua nhau "chạy chọt" biếu "sếp" tiền, quà, "sếp" chỉ việc thu bổng lộc, ai nhiều hơn sẽ là người chiến thắng. Đây cũng là loại tham nhũng trực tiếp nguy hiểm, là nguyên nhân gây nên tình trạng thoái hóa cán bộ. - Nhưng loại tham nhũng trực tiếp nguy hiểm nhất là vi phạm các quy định của pháp luật, hoặc việc thực thi pháp luật mang nặng tính thiên vị một cách có tổ chức. Đây là loại tham nhũng được nói nhiều nhất trong cơ quan hành chính. Loại tham nhũng này đòi hỏi có sự hợp tác giữa cấp trên và cấp dưới vì hành vi tham nhũng phải do nhiều do công chức tham gia mới thực hiện được (đòi hối lộ để vi phạm các quy định). Hậu quả trực tiếp nghiêm trọng nhất của loại tham nhũng này là các luật, pháp lệnh, nghị định và chính sách của nhà nước không được thực hiện một cách nghiêm túc. Một cách tiếp cận mang tính biếm họa khác đối với vấn đề này là ở góc độ luật pháp, chế độ sai chậm được sửa chữa nên đối với người dân và xã hội, tốt hơn là những chính sách đó không nên thực hiện, vì thế tham nhũng để thực hiện sai lại được chấp nhận khiến tệ nạn tham nhũng tràn lan mà không bị phê phán. Thừa nhận loại tham nhũng này sẽ làm đảo lộn trật tự kỷ cương, pháp luật bị xem thường hoặc mất tác dụng. Nói tóm lại, tham nhũng trực tiếp là hành vi công chức nhận tiền của người khác để hoàn thành công việc thuộc trách nhiệm phải làm của họ, bất kể đó là việc làm sai quy định hay làm công việc đó nhanh hơn thường lệ. Mức độ thường xuyên và phổ biến của loại tham nhũng này là một bằng chứng chứng tỏ năng lực và mức độ hiệu quả trong cơ quan hành chính của nhà nước thấp. Tham nhũng trực tiếp chỉ ra năng lực yếu kém hoặc chất lượng phục vụ tồi trong cơ quan hành chính. Tệ hại hơn, công chức có thể tạo ra sự khan hiếm dịch vụ hành chính giả tạo nhằm tăng "giá" dịch vụ thu lời và phân phối lại bổng lộc thông qua đường dây của họ. Nói một cách khác, tham nhũng trực tiếp là loại tham nhũng thông qua thỏa thuận (có thể bằng lời nói và gợi ý ngầm bằng hành động) để trục lợi trong các giao dịch giữa công dân, pháp nhân với cơ quan công quyền. 1.1.2.2. Tham nhũng gián tiếp trong cơ quan hành chính nhà nước Tham nhũng gián tiếp là loại tham nhũng không phổ biến như tham nhũng trực tiếp nhưng gây thiệt hại rất lớn về công sản, tài nguyên, giá trị tinh thần, niềm tin của công chúng vào Nhà nước, thậm chí có thể làm lung lay cả thể chế và chế độ chính trị. Tham nhũng gián tiếp thường biểu hiện dưới các hình thức sau: - "Bẻ cong pháp luật". Đây là hành vi cố tình thay đổi các quy định của pháp luật có lợi của những kẻ tham nhũng. Ví dụ, một số công chức cấp cao có thể bằng các quy định của pháp luật để ưu tiên phân cấp, xây dựng quy chế và quy hoạch cho một hòn đảo hoang vu, một vùng đất khô cằn thành một quần thể du lịch, một nhà máy, hay một khu công nghiệp sầm uất nhằm nâng giá trị đất đai lên gấp hàng trăm lần, qua đó nâng giá tài sản của mình bằng cách tăng giá các lô đất đã mua của họ trong khu vực đó. - Tác động đến nội dung chính sách nhà nước có lợi cho một số người nào đó. Ví dụ, các chính khách nhận tiền của nhóm đầu cơ chính trị hoặc nhóm doanh nhân rất có thế lực để hướng đại biểu Quốc hội thông qua các điều luật có lợi cho họ. Nói cách khác, các chính khách này nhận tiền để lèo lái cơ quan nhà nước ban hành các chính sách phục vụ một thiểu số những kẻ có thế lực và tiền chứ không phải phục vụ lợi ích của nhân dân nói chung. Việc ráo riết vận động hành lang Quốc hội là một hoạt động được coi là hợp pháp và chính đáng ở nhiều nước. Tuy nhiên, nếu lợi dụng sự vận động đó để có được các chính sách gây thiệt hại cho lợi ích xã hội, nhất là người được vận động lại nhận tiền, quà từ người đi vận động thì đó là hành vi tham nhũng, hành vi xấu cần phải phòng ngừa. Cả hai loại tham nhũng trực tiếp và gián tiếp trong cơ quan hành chính nhà nước ở nhiều nước rất nghiêm trọng khiến công chúng phẫn nộ. Để xây dựng một nhà nước tốt, trong sạch, chiếm được lòng tin của nhân dân, cần phải chống tham nhũng với quyết tâm cao. 1.1.3. Nguyên nhân tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước Dù có sự khác nhau trong cách lý giải về nguồn gốc tham nhũng, nhưng đa số các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng, tham nhũng là một hiện tượng có tính chất phổ biến của mọi nhà nước, dưới mọi chế độ khác nhau, là căn bệnh bẩm sinh của quyền lực. Tham nhũng là nơi gặp gỡ của lòng tham và quyền lực công, khi quyền lực công không được kiểm soát chặt chẽ. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được một số nguyên nhân dẫn đến tham nhũng trên khía cạnh sau: * Nguyên nhân xuất phát từ mức sống thấp của công chức Thực tế cho thấy một nghịch lý, ở những nước kém phát triển, mức sống của dân cư thấp, thì nạn tham nhũng lại có biểu hiện trầm trọng hơn ở các nước phát triển. Lý giải điều này nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, mức lương thấp là một trong những nguyên nhân trực tiếp khiến công chức tham nhũng. Bởi vì, xét cho cùng công chức cũng là con người, cũng có nhu cầu cá nhân, gia đình và các mối quan hệ xã hội khác. Làm việc trong bộ máy hành chính của Nhà nước cũng là hành nghề và do đó cần có thu nhập. Khi trình độ phát triển kinh tế thấp, ngân sách nhà nước quá eo hẹp, Nhà nước chỉ có thể trả mức lương cho công chức không những thấp hơn khu vực tư nhân, mà còn thấp hơn mức cho phép người công chức có cuộc sống ở mức trung bình cao của xã hội thì công chức có động cơ lợi dụng chức quyền để tìm kiếm thêm thu nhập bổ sung. Nếu đi cùng với mức lương thấp là kỷ luật công chức lỏng lẻo thì nạn tham nhũng càng có cơ hội phát triển. Ngay cả khi mức trừng phạt công chức tham nhũng cao, vì cuộc sống hàng ngày, nhất là các công chức gặp hoàn cảnh khó khăn, cần tiền, họ có thể đánh đổi công danh, sự nghiệp lấy đồng tiền cung cấp cho gia đình. Hơn nữa, với mức lương thấp, người công chức có thể còn coi việc sử dụng quyền lực để có thu nhập thêm là một "bổng lộc" cho cương vị của họ. Khi mức lương của công chức cao và ổn định hơn khu vực tư nhân và công chức có cuộc sống khá giả nhờ đồng lương đó, đồng thời họ lại có địa vị xã hội do công việc đem lại thì họ sẽ ngần ngại hơn khi tham nhũng vì sợ bị mất việc, mất địa vị xã hội. * Trình độ quản lý thấp và kỷ luật lỏng lẻo của bộ máy quản lý nhà nước Ở các nước có chế độ quản lý thấp, pháp luật chưa hoàn thiện thì công chức tham nhũng ít có khả năng bị phát hiện và ít bị trừng phạt nên tham nhũng có cơ hội tồn tại và phát triển. Tình trạng các cơ quan nhà nước buông lỏng kiểm tra, quan liêu, bất lực trong xử lý sai sót của công chức sẽ dẫn đến tình trạng tham nhũng trở thành "lệ", mọi người bàng quan với nạn tham nhũng, do đó nhóm người nắm quyền lực sẽ lợi dụng công vụ để mưu cầu lợi ích cho riêng họ. Thậm chí, nếu Nhà nước bất lực trong việc thực thi pháp luật, nhất là pháp luật trừng trị "quan tham" thì các nhóm lợi ích này sẽ thiết lập mạng lưới thực hiện hành vi tham nhũng một cách hệ thống và có tổ chức nhằm lũng đoạn xã hội. Thông qua sự dọa nạt đi đôi với hối lộ nhóm lợi ích này sẽ bao vây, phong tỏa công chức, buộc công chức phải làm việc cho họ. Ngoài ra, nếu kỷ luật trong cơ quan nhà nước lỏng lẻo, công chức, do không sợ bị trừng phạt, dễ đồng lòng cùng kẻ hối lộ khiến tham nhũng nảy sinh. * Quá trình chuyển đổi cơ chế, sự tồn tại và đan xen không rõ ràng giữa cái mới và cái cũ cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tham nhũng Quá trình chuyển đổi cơ chế sẽ dẫn đến sự mất dần đi của cái cũ và sự lớn dần lên của cái mới. Tuy nhiên, khi các nhân tố mới còn yếu ớt, nhân tố cũ còn mạnh thì cuộc đấu tranh cũ, mới sẽ rất khó khăn. Các công chức ủng hộ cái cũ sẽ nhân cơ hội mà thu hoạch và vơ vét. Công chức ủng hộ cái mới còn chưa tạo dựng được cơ sở để nuôi quân mình nên dễ làm cho những người ủng hộ hoang mang. Tình trạng "tranh tối tranh sáng" khiến cho nhiều công chức tham lam, lợi dụng sự chưa rõ ràng của pháp luật để nghiêng về quyền lợi của cá nhân, phường, hội và làm nảy sinh hành vi tham nhũng. * Nguyên nhân xuất phát từ sức cám dỗ của các cơ hội có thể tham nhũng trong nền kinh tế thị trường hiện đại Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích cá nhân được coi trọng và động lực tìm kiếm lợi nhuận tối đa của giới kinh doanh được ủng hộ. Trong bối cảnh đó, một số nhà kinh doanh, vì muốn được Nhà nước trao cho cơ hội tốt hơn đối thủ cạnh tranh nên tìm mọi cách mua chuộc, hối lộ công chức. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước tham gia sau vào điều tiết, quản lý nền kinh tế. Thậm chí Nhà nước còn xuất hiện với tư cách người mua lớn, người bán lớn. Nếu có được mối quan hệ thân thiện với các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp sẽ có được lợi thế trong vận động chính sách cũng như trong chiếm lĩnh thị trường nhà nước. Đây là cơ hội để công chức có thể sử dụng quyền lực ban hành chính sách hay quyết định mua bán có lợi hay không có lợi cho một nhóm lợi ích nào đó. Để đảm bảo chính sách của Nhà nước luôn có lợi cho mình, doanh nghiệp dùng tiền vận động hành lang, công chức lợi dụng tác động của chính sách nghiêng về đâu để nhận tiền của doanh nghiệp... Ngoài ra, môi trường cạnh tranh khốc liệt, sự ngự trị của đồng tiền có thể làm cho người sản xuất kinh doanh lóa mắt đi đến chỗ coi nhẹ các tiêu chuẩn đạo đức, tìm mọi cách để tối đa hóa lợi nhuận do đó gia tăng áp lực hối lộ đối với công chức nhà nước. Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, các giá trị xã hội bị đảo lộn, mọi người đều bị sức ép của việc kiếm thật nhiều tiền, tâm lý mọi việc đều có thể mua bán.... cũng dễ đẩy công chức vào con đường tham nhũng để có cuộc sống vật chất tốt hơn. * Nguyên nhân do ảnh hưởng của tập quán văn hóa Trong tâm lý xã hội của người Á Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng, có rất nhiều khía cạnh khiến cho tệ tham nhũng mà biểu hiện tập trung nhất là nạn quà cáp hối lộ có cơ sở tồn tại và phát triển. Chuyện biếu xén quà cáp khi có sự kiện quan trọng nào đó xảy ra trọng cuộc sống của công chức như đám cưới, đám ma, ốm đau, làm nhà...được coi là một nét văn hoá trong tình cảm của người Việt Nam có thể vượt giới hạn để biến thành hối lộ. Trong dân gian cũng như trong hoạt động quan trường thì quà cáp cho công chức dường như là điều được dễ dàng chấp nhận. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy có đến 41% số người dân được hỏi cho rằng việc đưa quà cáp chỉ là biểu hiện của sự biết ơn người đã giúp đỡ mình giải quyết công việc chứ không nhằm bẻ cong pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế, vì nhận biết được tình cảm của người đưa quà, nên theo đúng tập quán, công chức phải có nghĩa vụ trả ơn. Nhiều khi sự trả ơn đó lại là một hành vi không đúng quy định, khi đó quà và hành vi trả ơn của công chức có thể trở thành tham nhũng, hối lộ. Trong tâm lý chung của người dân Việt Nam và Trung Quốc, việc học hành được đồng nhất với điều kiện để làm quan. Vì học hành là quá trình gian khổ và tốn phí chưa được bù đắp về phía người học, nên khi đỗ đạt được làm quan, công chức phải bù đắp chi phí học hành bằng bổng lộc. Vì thế, tâm lý coi làm công chức phải có bổng, lộc ngoài lương, tức thu nhập ngoài quy định, là bình thường. Đây cũng là cơ hội để hành vi nhận bổng, lộc biến thành hành vi tham nhũng. * Nguyên nhân từ cơ chế kiểm tra, giám sát của Nhà nước, của xã hội đối với công chức Về mặt lý thuyết quản lý, để tạo môi trường giảm cơ hội tham nhũng và gây sức ép buộc công chức phải tự kiểm soát mình nhằm chống lại sự cám dỗ của tiền bạc, phải thiết lập và vận hành hiệu quả hệ thống kiểm tra, giám sát công chức. Trong thực tế, kiểm tra, giám sát công chức là việc làm phức tạp, nhiều cơ quan nhà nước có xu hướng buông lỏng. Khi không bị giám sát, kiểm tra, nhắc nhở và xử phạt, công chức dễ sa ngã, dễ bị mua chuộc để đi vào con đường tham nhũng. Hơn nữa, khi đã trót tham nhũng một lần, công chức có thể bị áp lực của người đi hối lộ mà ngày càng dấn sâu thêm vào con đường tham nhũng. Ở các nước mà hệ thống chính trị chậm được đổi mới, hoạt động kiểm tra, giám sát của bộ máy nhà nước kém hiệu quả thì công chức khó bị kỷ luật, khó bị bãi miễn nên dễ dàng đi vào tham nhũng hơn. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ máy kiểm tra nhà nước tốt. Khi đó mọi lỗi lầm của công chức đều bị trừng phạt nên công chức sẽ tự kiềm chế hơn trước các cơ hội tham nhũng. * Nguyên nhân từ sự thiếu rèn luyện và trau dồi đạo đức của công chức Phẩm chất đạo đức của công chức là biển chỉ đường giúp cho công chức không đi chệch vào con đường tham nhũng. Tuy nhiên, nếu môi trường công tác trong cơ quan nhà nước và môi trường đạo đức xã hội chung không coi trọng việc tuân thủ các nguyên tắc đạo đức công chức thì người công chức sẽ sao nhãng việc rèn luyện và trau dồi đạo đức làm xuất hiện các công chức thoái hóa. Đối với những công chức thoái hóa, tiêu chuẩn đạo đức bị đảo ngược, họ coi quyền lực của Nhà nước là quyền lực của riêng họ, coi mình đứng trên người khác, tự cho phép hành động theo suy nghĩ và nhu cầu của họ. Hành vi của những người này gây nên tình trạng tham nhũng cố ý, rất nguy hiểm cho Nhà nước và xã hội. Đồng thời với việc xuất hiện công chức cố ý tham nhũng, cũng xuất hiện những kẻ a dua, vụ lợi ủng hộ, che giấucho công chức tham nhũng để cùng nhau chia lợi. Đây là nguyên nhân không phổ biến, nhưng thường là nguyên nhân chính của các vụ tham nhũng nghiêm trọng. * Nguyên nhân từ công tác quản lý công chức Công chức là một nghề đặc biệt, ở đó người công chức không hành động nhân danh họ mà nhân danh Nhà nước, vì thế cần phải có chế độ chính sách và tiêu chuẩn hành nghề riêng cho họ. Trước hết, công tác tuyển chọn và đào tạo ban đầu phải được chú trọng để đảm bảo có được các công chức dự bị đáp ứng tiêu chuẩn đạo đức, kỹ năng và kỷ luật làm việc. Nếu công việc này bị xem nhẹ sẽ đưa vào cơ quan nhà nước các công chức có động cơ tham nhũng ngay từ đầu thì việc sử dụng và quản lý họ sẽ vô cùng khó khăn. Chính sách cán bộ đối với công chức phải được thiết kế sao cho công chức an tâm và tận tụy, trung thành với nhà nước. Nếu không công chức sẽ tìm kiếm cơ hội lợi dụng chức quyền vụ lợi cho họ. Công tác quản lý, giáo dục, kiểm tra công chức phải được tiến hành thường xuyên để tạo rào cản đối với hành vi tham nhũng. Nếu buông lỏng việc này tệ tham nhũng sẽ tự do phát triển khi có cơ hội. Việc sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ phải chú ý đến loại bỏ cơ hội tham nhũng, nếu không sẽ lâm vào tình trạng công chức không tự vệ được trước sức tấn công của tệ tham nhũng... * Nguyên nhân từ bộ máy hành chính nhà nước Trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước, quyền hạn được phân cấp tương xứng với trách nhiệm thì sẽ ít cơ hội cho công chức tham nhũng vì khi sai sót xảy ra có thể truy cứu người chịu trách nhiệm do đó công chức sẽ ít động cơ tham nhũng hơn. Tuy nhiên nếu trách nhiệm không được phân định rõ ràng, quyền lực được giao một cách không hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng công chức làm sai không phải chịu trách nhiệm hoặc trốn được trách nhiệm của mình. Khi đó tệ tham nhũng có điều kiện phát triển. Tham nhũng dễ dàng nảy sinh trong lĩnh vực phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, ở các cơ quan nhà nước còn duy trì tình trạng thủ tục hành chính phức tạp, khó tiếp cận thì công chức càng có cơ hội để vòi vĩnh công dân khi thực thi trách nhiệm của họ. * Nguyên nhân từ sự kiểm tra, giám sát của xã hội đối với công chức Trong các xã hội thiếu dân chủ, công chức không phải thực thi trách nhiệm công khai, minh bạch và giải trình trước công dân sẽ có môi trường an toàn khi tham nhũng vì hành vi tham nhũng của họ khó được phát hiện. Việc kiểm soát và minh bạch hóa thu nhập và tài sản của công chức nếu thiếu cơ chế thực hiện hiệu quả thì không hỗ trợ đủ mức cho việc xử phạt công chức tham nhũng do đó không đủ mạnh để ngăn chặn tệ tham nhũng trong công chức. Ngoài ra, tình trạng yếu kém của các cơ quan ngôn luận, điều tra, xử án, thái độ thờ ơ của dân chúng cũng là những chất xúc tác làm cho tệ tham nhũng khó bị loại trừ. * Nguyên nhân từ quyết tâm chính trị của cá nhân và cơ quan chống tham nhũng Tham nhũng là căn bệnh của chính nhà nước và công chức. Khi trị bệnh, có thể dẫn tới suy giảm uy tín nhà nước cũng như ảnh hưởng tới đời sống của công chức. Do đó nhiều cơ quan nhà nước và công chức ngại đấu tranh chống tham nhũng. Vì thế, nếu cơ quan chống tham nhũng không đủ quyền lực, quyết tâm chính trị của cơ quan chống tham nhũng không đủ mức thì tệ tham nhũng không được chữa trị kịp thời, ngược lại càng có cơ hội tác oai, tác quái hơn. 1.2. PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.2.1. Tác hại của tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước Tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm tiềm ẩn ngay trong cơ thể của Nhà nước, nếu không được chữa trị kịp thời thì có thể gây rất nhiều tác hại mà một số tác hại chính là: * Tham nhũng làm sai lệch hoạt động của cơ quan nhà nước dẫn đến nhiều hệ lụy không tốt - Tham nhũng có thể làm cho công chức không thực hiện đúng nhiệm vụ do nhà nước giao. Ví dụ, để làm lợi cho ai đó, công chức có thể vạch chính sách, kế hoạch, quy hoạch không hiệu quả dẫn đến lợi ích chung của xã hội bị suy giảm. Hoặc tham nhũng làm cho cán bộ thuế đối xử không công bằng đối với người nộp thuế, vừa làm mất uy tín của Nhà nước, vừa làm thất thu ngân sách nhà nước… - Tham nhũng dẫn tới hậu quả nghiêm trọng như nghiệm thu cầu, đường không đúng chất lượng gây đổ vỡ, tai nạn; tham nhũng làm mất tài sản nhà nước vào tay tư nhân khi giao đất giá rẻ… - Tham nhũng gây ách tắc công việc. Ví dụ việc cố tình trì hoãn làm thủ tục thông quan hàng hóa làm chậm quá trình xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp; chậm làm thủ tục hành chính gây mất thời gian chờ đợi của dân cư hoặc buộc dân cư phải mất thêm chi phí nếu như không muốn mất thời gian chờ đợi… * Tham nhũng làm hủy hoại khả năng quản lý hiệu quả và uy tín của Nhà nước Công chức tham nhũng là mắt xích hỏng trong dây chuyền quản lý nhà nước. Không những công chức tham nhũng làm hỏng công việc của họ mà còn gây tác hại xấu tới các khâu công việc khác do làm chậm tiến độ, tạo ra lỗ hổng trong dây chuyền hoặc làm cho khâu quản lý phía sau trở nên phi hiệu quả hoặc thậm chí vô ích. Chính vì tính chất liên hệ dây chuyền giữa cơ quan, công chức nhà nước tham nhũng với cơ quan nhà nước và công chức không tham nhũng nên người dân khó phát hiện đích danh ai, cơ quan nào tham nhũng. Hệ quả là họ gán tình trạng tham nhũng cho cả bộ máy nhà nước và mất lòng tin vào tất cả các cơ quan đó. Khi dân chúng mất lòng tin vào công chức và cơ quan nhà nước thì hiệu quả quản lý nhà nước sẽ thấp, các xu hướng chống đối gia tăng trong khi chi phí quản lý không giảm. Đây là tình trạng xấu, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng của Nhà nước. * Tham nhũng bào mòn sự tín nhiệm của nhân dân đối với Nhà nước Nếu tình trạng tham nhũng kéo dài, trầm trọng và không có hy vọng có thể được giải quyết dứt điểm thì người dân buộc phải thay đổi hành vi của họ để thích nghi. Một bộ phận dân cư có tiền sẽ gia nhập đội ngũ những người đưa hối lộ để cải thiện tình trạng pháp lý của họ và do đó làm cho tình hình xấu thêm. Một bộ phận dân cư không có tiền sẽ phải chịu tình trạng pháp lý tồi tệ hơn do đó dễ nảy sinh tư tưởng chống đối, bạo loạn, thậm chí lật đổ. Trong bối cảnh đó các hành vi đạo đức tốt không được ủng hộ và duy trì, hành vi xấu ngự trị càng làm tăng bất bình đẳng xã hội và tâm lý bất bình. Chính vì thế niềm tin của nhân dân vào Nhà nước bị bào mòn và họ có xu hướng ủng hộ bất kỳ sự thay đổi nào đó miễn là thay đổi cung cách hành động của nhà nước hiện tại. * Tham nhũng làm tha hóa đội ngũ công chức Về bản chất, công chức là những người đại diện cho dân chúng hoặc được dân chúng thuê để làm các công việc có lợi cho xã hội. Nhưng khi tham nhũng công chức đã không thực hiện đúng chức năng của mình, đã ăn cắp thời gian và quyền lực được ủy quyền để làm lợi cho cá nhân hoặc bè nhóm. Do bản chất xấu của tham nhũng nên nó phải bị loại trừ. Hay nói cách khác, tham nhũng là hành vi trái đạo đức của công chức. Hơn nữa, nếu công chức tham nhũng không bị trừng phạt về mặt đạo đức và về mặt luật pháp, vô hình chung mọi người đều coi hành vi tham nhũng đó là "bình thường". Khi đã coi là bình thường thì nhiều công chức khác sẽ cho phép mình thực hiện. Tình trạng tham nhũng phổ biến, vì thế, báo động tình trạng xuống cấp đạo đức nghiêm trọng của công chức và cơ quan nhà nước. * Tham nhũng làm giảm sức cạnh tranh của môi trường kinh doanh quốc gia Công chức tham nhũng sẽ khiến các nhà đầu tư phải chi phí nhiều hơn mức cần thiết cho hoạt động quản lý nhà nước. Điều này làm giảm khả năng thu hút đầu tư của môi trường kinh doanh quốc gia. Hơn nữa, tình trạng tham nhũng phổ biến tiềm ẩn nguy cơ rủi ro lớn cho nhà kinh doanh. Thứ nhất là rủi ro do sự thay đổi tỳ tiện của công chức tham nhũng; thứ hai là rủi ro do thành quả của việc chống tham nhũng; thứ ba là rủi ro do đối thủ cạnh tranh hối lộ nhiều hơn… Nhìn chung, tham nhũng là yếu tố ảnh hưởng xấu đến hành vi kinh doanh lành mạnh. Vì thế tình trạng tham nhũng cao là lý do đầy sức thuyết phục làm cho môi trượng cạnh tranh quốc gia bị giảm cấp. * Tham nhũng làm giảm uy tín và vị thế quốc gia trên trường quốc tế Quan hệ quốc tế đa phương và song phương chỉ có hiệu quả nếu dựa trên tín nhiệm và mức độ nghiêm túc khi thực hiện cam kết. Một quốc gia có nhiều cơ quan nhà nước tham nhũng là mối e ngại cho quốc gia và tổ chức quốc tế muốn thiết lập quan hệ. Hơn nữa, để quan hệ với các quốc gia có độ tham nhũng cao, các nước, các tổ chức quốc tế thường tốn kém chi phí hơn cho việc thiết lập và thực thi các cam kết, đồng thời khó dự đoán trước kết quả. Ngày nay, thông tin về các quốc gia được cập nhật trên các phương tiện truyền thông và mạng Internet nên các quốc gia tham nhũng thường mất điểm trong con mắt của các cơ quan định mức tín nhiệm quốc tế và do đó thường chịu thua thiệt và mất vị thế thuận lợi trong đàm phán. * Tham nhũng cản trở phát triển kinh tế hiệu quả và công bằng Tham nhũng không những khiến cho chi phí kinh doanh tăng lên mà còn làm sai lệch so sánh tương đối giữa các tổ chức, ngành nghề, doanh nghiệp khiến quá trình phân bổ nguồn lực cũng không đạt tới trạng thái hiệu quả. Hơn nữa, tham nhũng cản trở các quá trình kinh tế diễn ra bình thường, dung dưỡng tầng lớp người dựa vào ưu thế của nhà nước tiến hành kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh không sòng phẳng với nhóm người, ngành nghề khác. Tham nhũng cũng tạo điều kiện cho công chức tham nhũng và nhóm người hưởng lợi bất chính có được thu nhập không dựa trên công sức đống góp có ích cho xã hội khiến cho tình trạng phân phối không công bằng trong xã hội bị khoét sâu hơn. 1.2.2. Nguyên tắc phòng chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước Tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước là điểm gặp nhau của lợi dụng quyền lực công và lòng tham nên khi nào còn có cơ hội cho hai tác nhân này gặp nhau thì còn tham nhũng. Lòng tham của con người mang tính bản năng không thể triệt tiêu hoàn toàn. Vì thế, để hạn chế tham nhũng phải có cơ chế kiềm chế lòng tham của con người trong những phạm vi được xã hội chấp nhận. Quyền lực công là cần thiết nhưng cần phải được giám sát chặt chẽ nhằm ngăn ngừa nguy cơ bị lạm dụng. Bản chất của tham nhũng quy định rằng, muốn phòng và chống tham nhũng phải tuân thủ những nguyên tắc sau: * Nguyên tắc giới hạn chặt chẽ việc sử dụng quyền lực công bằng luật pháp Quyền lực của cơ quan nhà nước là quyền mà công dân ủy quyền cho để phục vụ xã hội công dân. Công chức chỉ được sử dụng quyền lực công để thực hiện các trách nhiệm được giao phó. Tuy nhiên, xã hội công dân bao gồm nhiều nhóm người và bản thân công chức cũng là công dân nên có thể có sự nhầm lẫn đối tượng phục vụ hoặc làm sai trách nhiệm được giao phó. Do quyền và trách nhiệm của công chức có thể thay đổi theo hoàn cảnh lịch sử nên quy định công chức được làm gì, được sai khiến ai là công việc càng phức tạp hơn. Hơn nữa, sự giao phó quyền cho công chức là do cộng đồng dân cư tự nguyện dưới hình thức một quyết nghị chung. Để công chức không lạm dụng quyền lực, việc giao phó, ủy quyền đó phải thể chế thành luật càng cụ thể càng tốt. Khi đã có luật, phạm vi sử dụng quyền của công chức là làm theo luật chứ không phải làm theo những gì công chức muốn. Nếu không luật hóa phạm vi sử dụng quyền lực của công chức thì không có cơ sở để xem xét công chức đó làm đúng hay sai. Luật hóa phạm vi sử dụng quyền lực của công chức cũng là đưa ra một giới hạn phạm vi mà công chức không thể vượt qua. Khi đó, hành vi của công chức là hành vi của luật pháp đã có hiệu lực, nhân danh luật pháp chứ không phải nhân danh công chức. Bất cứ hành vi nào của công chức không nhân danh luật pháp vì mục tiêu luật pháp đã chế định thì không được coi là đúng. * Nguyên tắc giám sát của người giao quyền hoặc ủy quyền Mặc dù quyền lực công đã được giới hạn và giao phó cho từng cá nhân công chức và cơ quan nhà nước, nhưng trong quá trình sử dụng vẫn có thể xuất hiện sự sai lạc nếu công chức không chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Sự kiểm tra của người giao quyền hoặc ủy quyền là cần thiết để một mặt tạo môi trường định hướng công chức, mặt khác tạo áp lực và răn đe các công chức nào có ý định sử dụng quyền lực công không đúng mục đích. Hơn nữa, kiểm tra, giám sát còn để phát hiện kịp thời sai lệch nhằm điều chỉnh kịp thời, ngăn ngừa công chức phạm sai lầm nghiêm trọng hoặc dấn quá sâu vào con đường tham nhũng mà không bị phát hiện. * Nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước Sự công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước khiến công chức khó che giấuđược hành vi không đúng của mình do đó giảm động cơ tham nhũng. Công khai, minh bạch còn cung cấp cơ chế tự giám sát công chức của người dân và của đồng nghiệp nên mỗi sai lầm của công chức đều được phát hiện nhanh và đề nghị sửa chữa, vì thế cơ hội thực hiện tham nhũng giảm thiểu. * Nguyên tắc giải trình Công chức phải có nghĩa vụ giải trình hành động và kết quả hành động trước những người thuê hoặc giao phó công việc cho họ. Trách nhiệm giải trình càng cao thì ý thức tuân thủ nghĩa vụ càng lớn. Đây là lớp vỏ giúp công chức khó tiếp cận với các cơ hội tham nhũng. * Nguyên tắc về đạo đức công chức Không tham nhũng phải được coi là tiêu chuẩn đạo đức hành nghề của công chức. Hành vi tham nhũng có thể buộc công chức mãi mãi ra khỏi đội ngũ công chức hoặc bị truy tố trước pháp luật. Hơn nữa, với tư cách là người thay mặt Nhà nước thực hiện dịch vụ công, công chức nhà nước phải tuân thủ một hệ thống các quy tắc, hành vi được coi là tiêu chuẩn đạo đức công chức. Các tiêu chuẩn hành vi đó phải được xây dựng cụ thể, thiết thực, phù hợp với công việc hành chính nhà nước và văn hóa, tập quán dân tộc. Cơ quan nhà nước phải có bộ phận thường xuyên xây dựng, điều chỉnh, ban hành và theo dõi thực hiện đạo đức công chức. Trong thực tế, với việc thực hiện nghiêm chỉnh đạo đức công chức, cơ hội để tham nhũng được giảm thiểu rất nhiều. * Nguyên tắc độc lập của bộ phận phụ trách công việc đấu tranh phòng chống tham nhũng Bộ phận phụ trách công việc đấu tranh phòng chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cần có vị thế độc lập trong hệ thống phân cấp quyền lực của bộ máy nhà nước để đảm bảo yêu cầu kiểm tra, xét xử nghiêm minh, khách quan các hành vi tham nhũng của công chức. Hơn nữa bộ phận này phải nhận được sự bảo vệ an toàn đủ mức của xã hội, Nhà nước để công chức chống tham nhũng không bị đe dọa, an tâm làm công việc khó khăn của mình. 1.2.3. Phương thức phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước Về mặt lý thuyết có thể phòng, chống tham nhũng bằng cách khắc phục các nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Song, nguyên nhân cuối cùng, hay nguồn gốc của tham nhũng là sự kết hợp khăng khít giữa lạm dụng quyền lực công và lòng tham mang tính bản năng của con người. Do đó không thể khắc phục triệt để tham nhũng, chỉ có thể hạn chế tham nhũng đến mức có thể bằng cách ngăn ngừa và giảm thiểu cơ hội tham nhũng của công chức. Có nhiều biện pháp thuộc diện như vậy, ở đây chỉ nêu một số biện pháp cơ bản. * Quy định quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng của từng công chức và thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của công chức Để công chức tốt có cơ sở thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của mình và để công chức xấu không có cơ hội chối tội, trong các cơ quan nhà nước cần tiến hành phân tích công việc, chuẩn hóa các chức danh và thực hiện tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán bộ theo đúng các chức danh đó. Trong khung cảnh ai cũng có công việc rõ ràng, công việc vừa đủ với năng lực và không có sự chồng chéo lẫn nhau, bản thân công chức buộc phải làm đúng chức trách của mình, khó che giấusai lầm của mình cũng như không có thể đổ trách nhiệm cho người khác. Sau khi đã phân tích công việc và bố trí công chức một cách khoa học, cơ quan nhà nước còn phải xây dựng các quy chế phối hợp để công việc thông suốt, hạn chế các khâu ách tắc đáng tiếc. Khi toàn bộ công việc được thiết kế và thực hiện trôi chảy, hiệu quả, bất cứ một sự chen ngang hoặc thay đổi quy trình có tính chất vụ lợi nào cũng sẽ bị phát hiện và bị lên án bởi chính các công chức tốt và bởi công dân. * Công khai các quy định pháp lý và quy trình thủ tục hành chính của cơ quan nhà nước với người có liên quan Công khai các quy định và thủ tục hành chính đến tận người dân khi họ có công việc tiếp xúc với cơ quan hành chính nhà nước, nhằm cung cấp thông tin cho người dân để họ tự quyết định cách ứng xử hợp lý cũng như để đa số người dân không có khả năng hối lộ và tham gia kiểm soát công chức. Nên đưa các quy định và thủ tục công khai ở những điểm tiếp xúc của công dân với cơ quan hành chính. Cũng cần đưa thông tin công khai trên các phương tiện truyền thông dễ tiếp cận của dân cư. Cải thiện khả năng tiếp cận của dân cư đến các loại thông tin này thông qua thành lập các điểm lưu giữ thông tin có thể truy cập tự do, thông qua các tổ chức tư vấn miễn phí. Đồng thời với cung cấp thông tin về thủ tục và quy định nhà nước, cần thông tin công khai về các công chức tốt và công chức xấu để nhân dân kiểm tra, đánh giá trực tiếp, tăng áp lực phòng ngừa công chức tham nhũng. * Xây dựng các chế tài đủ sức răn đe công chức Dù có cách ly công chức khỏi các cơ hội tham nhũng đến đâu chăng nữa thì khi công chức cố tình tham nhũng, cố tình tạo ra cơ hội tham nhũng cho mình thì các cơ chế cách ly đều bị vô hiệu quả. Chính vì thế cần có chế tài đủ sức răn đe nhằm trừng phạt các công chức tham nhũng, làm gương cho người khác. Chế tài xử phạt tham nhũng cần được phân định thành nhiều thang bậc khác nhau phù hợp với các dạng tham nhũng có thể xuất hiện trên thực tế trong các cơ quan hành chính nhà nước. Sự phân định và mức xử phạt càng chính xác thì mức độ răn đe càng cao. Nên xử phạt ở mức nặng khiến công chức thấy cái giá phải trả quá đắt để chùn tay khi có ý định tham nhũng. * Xây dựng chế độ đãi ngộ công chức hợp lý Đi đôi với việc chế tài tham nhũng, cần xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý đối với công chức. Ở một số nước, đi cùng với chế độ cấm công chức đình công là chế độ lương bổng và bảo hiểm khá tốt để công chức yên lòng khi làm việc cho Nhà nước. Cũng cần điều chỉnh mức tiền lương cho công chức tương xứng với mức lương trung bình ở khu vực tư và tình trạng nền kinh tế để bảo đảm sự công bằng và tăng tính trách nhiệm của công chức với kết quả vận hành đất nước. Nhìn chung không được để công chức có mức lương không đủ sống trong điều kiện một quốc gia cụ thể. Nên trả lương cho công chức ở mức độ trung bình cao so với thu nhập xã hội, kết hợp với lựa chọn người có kỹ năng, trình độ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. * Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức công chức và thường xuyên khuyến khích công chức thực hiện Tiêu chuẩn đạo đức công chức phải được thiết kế cụ thể về các phương diện mối liên hệ với đối tượng quản lý, mối quan hệ lợi ích với những người gần gũi, tác phong, thái độ, hành vi khi tiếp xúc với công chúng, quy định về giới hạn giá trị của món quà nhận từ đối tượng quản lý, về nhận dịch vụ có liên quan đến đối tượng quản lý, về trách nhiệm với uy tín của nhà nước từ hành vi cá nhân… Bộ tiêu chuẩn đạo đức này phải được quán triệt đến từng công chức, phải được công chức tuyên thệ khi nhận công việc trong cơ quan hành chính nhà nước và được thường xuyên điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp. Khi đánh giá công chức nhà nước cần dựa vào việc tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức của công chúng, kết hợp với hiệu quả và chất lượng công việc hoàn thành. * Tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội và công luận kiểm tra, giám sát đối với hành vi của công chức Hệ thống thanh tra, kiểm tra nội bộ của cơ quan nhà nước góp phần quan trọng vào việc ngăn ngừa và chống tham nhũng. Tuy nhiên, nhiều khi bộ phận này không thể giám sát đầy đủ công chức. Hơn nữa, có thể cán bộ thanh tra nhà nước thông đồng với công chức để tham nhũng. Vì thế cần tăng cường kênh kiểm tra của xã hội, nhất là của cơ quan ngôn luận và các tổ chức xã hội nhằm tăng cường giám sát khách quan hành vi của công chức. Để phát huy vai trò giám sát của các cơ quan này cần dân chủ hóa trong cung cấp thông tin và dân chủ hóa ngôn luận. * Thành lập cơ quan chống tham nhũng độc lập, chuyên trách Thành lập cơ quan chuyên trách chống tham nhũng trong hệ thống các cơ quản lý hành chính nhà nước là mô hình chống tham nhũng được một số nước vận dụng thành công. Với ý tưởng rằng công chức làm nhiệm vụ chống tham nhũng phải có quyền lực độc lập với các công chức có vị trí cao trong bộ máy nhà nước mới có thể chống tham nhũng hiệu quả. Một số nước thành lập Ủy ban chống tham nhũng chịu sự chế định của Luật chống tham nhũng và vị trí quyền lực cao nhất trong bộ máy hành chính. Công chức trong cơ quan này có nghĩa vụ điều tra, đưa ra xét xử công chức tham nhũng khi đã thu thập đầy đủ chứng cứ. Hoạt động thu thập chứng cứ được tiến hành một cách độc lập với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Thực tế cho thấy mô hình này hoạt động hiệu quả khi người đứng đầu Nhà nước thực sự quyết tâm trong chống tham nhũng và tạo điều kiện cho cơ quan này hoạt động hiệu quả. Nếu không được quản lý tốt, cơ quan này có thể hoạt động chệch khỏi mục tiêu chống tham nhũng, khi đó hoạt động của nhà nước sẽ có nguy cơ bị chi phối bởi cơ quan rất có quyền lực mà thiếu năng lực và đạo đức này. 1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước * Nhóm các yếu tố thuộc chế độ chính trị Các chế độ dân chủ tạo điều kiện thuận lợi cho phòng, chống tham nhũng hơn các chế độ độc tài. Bởi vì trong chế độ dân chủ, thông tin được cung cấp tốt hơn, cơ quan nhà nước hoạt động theo hướng công khai, minh bạch dựa trên luật pháp nhiều hơn. Còn trong chế độ độc tài, luật pháp ít được tuân thủ một cách khách quan. Bản thân nhà độc tài thường bưng bít thông tin để giữ quyền lực cho cá nhân mình. Hơn nữa các nhóm lợi ích có nhiều cơ hội trong chế độ độc tài lung lạc ý chí của các công chức nhà nước nhằm bẻ cong hành động của Nhà nước có lợi cho họ. Trong các chế độ quyền lực thuộc về nhân dân và dân chủ thì các biện pháp chống tham nhũng dễ dàng được dân chúng ủng hộ. Trong các chế độ mà quyền lực được chia sẻ giữa các nhóm người khác nhau thì cơ quan nhà nước bị họ lũng đoạn để phục vụ cho lợi ích của họ nên các phương tiện và cơ hội chống tham nhũng cũng ít hơn. Ngoài ra, trong chế độ nhà nước pháp quyền, hoạt động phòng, chống tham nhũng có cơ sở pháp lý, ủng hộ cả về phương diện mang tính rõ ràng, công khai của quyền lực và sử dụng quyền lực nhà nước lẫn cơ sở pháp luật bảo vệ hành vi chống tham nhũng. * Nhóm các yếu tố thuộc về tổ chức bộ máy nhà nước Bộ máy tổ chức nhà nước được tổ chức hợp lý tạo nền tảng vững chắc cho phân công, hợp tác lao động hợp lý giữa các công chức nên giảm thiểu nguy cơ lạm dụng để tham nhũng. Ngược lại, bộ máy quản lý nhà nước được quản lý không tốt dẫn đến tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ, thiếu cơ sở pháp lý để phân công công việc hiệu quả, thiếu căn cứ để đánh giá cán bộ sẽ dẫn đến tình trạng ách tắc, trì trệ vừa là nguyên nhân gây ra tham nhũng vừa làm cho công việc chống tham nhũng khó khăn do thiếu bằng chứng thuyết phục. Sự phân cấp quản lý nhà nước nếu không dựa trên nền tảng thông tin và hiệu quả thực thi công vụ cũng sẽ gây khó khăn cho công tác phòng, chống tham nhũng trên giác độ khó quy trách nhiệm. * Nhóm các yếu tố thuộc về dân chúng Trình độ dân trí cao và có ý thức tuân thủ pháp luật là hậu thuẫn vững chắc cho công tác phòng chống tham nhũng. Ở các nước phát triển dân cư có khả năng và ý thức tham gia quản lý xã hội nên họ thường xuyên quan tâm đến các thông tin về hoạt động của Chính phủ. Nếu có thông tin về công chức tham nhũng họ cũng có cơ chế và ý thức đấu tranh đòi xử lý thích đáng các công chức phạm lỗi. Vì công chức có cảm giác làm việc trong môi trường trong suốt, mỗi hành vi của họ đều bị xã hội giám sát nên họ phải kiềm chế hành vi tham nhũng của mình. Khi công chức tự nguyện không tham nhũng thì nạn tham nhũng ít có cơ hội phát triển. Ngược lại, ở các nước dân cư có trình độ dân trí thấp, không tự tổ chức thành các tổ chức xã hội có khả năng tham gia quản lý, nhất là ở những nước dân cư bàng quan với tình hình chính trị, chỉ quan tâm đến lợi ích ngắn hạn của bản thân họ thì công chức hầu như không bị xã hội giám sát, chỉ chịu sự kiểm soát nội bộ. Trong bối cảnh đó công tác phòng, chống tham nhũng sẽ rất khó khăn do người chống tham nhũng không được hậu thuẫn của xã hội, thiếu phương tiện làm việc, còn công chức lại có điều kiện thuận lợi để che giấu hành vi. * Nhóm các yếu tố thuộc về điều kiện kinh tế Điều kiện kinh tế quyết định động cơ tham nhũng của công chức và quy định các phương tiện phòng chống tham nhũng. Nếu kinh tế phát triển, Nhà nước có khoản thu lớn thì có điều kiện nâng cao thu nhập cho công chức, giảm thiểu áp lực thu nhập thấp khiến công chức tham nhũng. Sức mạnh tài chính cũng cho phép Nhà nước thành lập cơ quan độc lập chống tham nhũng và cung cấp phương tiện cho cơ quan này vận hành tốt. Ngược lại, các nước nghèo thường gặp khó khăn mọi bề khi chống tham nhũng. Nào là tình trạng bất lực trong việc nâng lương cho công chức, thiếu phương tiện kiểm tra, giám sát công chức, nào là sự bất ổn trong cải tổ bộ máy nhằm chống tham nhũng… 1.3. KINH NGHIỆM PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.3.1. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng trong cơ quan nhà nước ở Singapo Trong bảng xếp hạng của Tổ chức Minh bạch thế giới, Singapo thường nằm trong tốp các nước ít tham nhũng nhất thế giới (năm 2005, Singapo đứng thứ năm trong nhóm nước trong sạch nhất, chỉ sau Iceland, Phần Lan, New Zealand và Đan Mạch). Để có vị trí này, Singapo đã trải qua một quá trình chống tham nhũng không ít khó khăn. Khi đảng Nhân dân hành động (PAP) của ông Lý Quang Diệu lên nắm quyền, họ nhận thức rằng phải chống tham nhũng thì mới đạt được mục tiêu phát triển. Trong ba yếu tố tạo nên tham nhũng, ban đầu Singapo chưa thể làm gì với yếu tố lương bổng vì năm 1960, Singapo vẫn là nước nghèo với GDP trên đầu người chỉ là 443 USD. Vì vậy, Chính phủ tập trung vào hai yếu tố gây tham nhũng còn lại: giảm thiểu cơ hội tham nhũng và tăng cường hình phạt. Một luật chống tham nhũng mới ra đời, với 32 phần (thay vì 12 như hồi năm 1937). Có một số sửa đổi quan trọng như án phạt tăng lên năm năm tù, người nhận hối lộ phải trả lại hết tiền đã nhận. Cục điều tra hoạt động tham nhũng ra đời (có tên gọi là Corruption Practices Investigation Bureau, viết tắt là CPIB) và được gia tăng quyền hạn. Tổ chức này được giao nhiệm vụ đấu tranh với "mọi tài khoản ngân hàng" của những ai bị nghi có hành vi phi pháp và thiếu minh bạch. Theo luật của Singapo, một người có thể bị khép tội tham nhũng ngay cả khi người đó chưa nhận tiền hối lộ, vì ý định phạm pháp đã đủ để khép tội người này. Công dân Singapo phạm tội nhận hối lộ ở nước ngoài cũng bị xử như phạm pháp trong nước. Khi bị cáo qua đời, để tránh tình trạng "hy sinh đời bố, củng cố đời con", tòa án có quyền ra lệnh trưng thu tài sản có được từ tham nhũng cho đến khi nào đủ mới thôi. Cho mãi tới thập niên 1980, khi kinh tế đã phát triển, Singapo mới đủ khả năng làm nốt phần còn lại trong chiến lược chống tham nhũng là tăng lương cho nhân viên. Tháng 3-1985, Thủ tướng Lý Quang Diệu tuyên bố các lãnh đạo chính trị cần được trả lương thật cao để bảo đảm chính quyền trong sạch. Ông nói cách hay nhất chống tham nhũng là "đi cùng thị trường", thay vì thói đạo đức giả đã tạo nên tham nhũng. Theo giáo sư Jon S.T. Quah, khoa Chính trị học ở Đại học Quốc gia Singapo, kinh nghiệm của Singapo không dễ lặp lại ở các nước vì hoàn cảnh đặc thù và vì những chi phí chính trị và kinh tế của việc trả lương cao. Tuy nhiên, có bảy bài học có thể tham khảo: Thứ nhất, bộ máy lãnh đạo phải thực tâm chống tham nhũng và trừng phạt bất cứ ai có hành vi tham nhũng. Thứ hai, phải có các biện pháp chống tham nhũng đầy đủ, không có lỗ hổng và thường xuyên được xem lại để thay đổi, nếu thấy cần thiết. Thứ ba, cơ quan chống tham nhũng phải trong sạch. Không nhất thiết phải có quá nhiều nhân viên, và bất kỳ thanh tra nào tham nhũng cũng phải bị trừng phạt và đuổi ra khỏi ngành. Thứ tư, cơ quan chống tham nhũng phải tách khỏi bộ máy cảnh sát. Thứ năm, để giảm cơ hội tham nhũng tại các ngành dễ sa ngã như hải quan, thuế vụ, công an giao thông, các cơ quan này phải thường xuyên kiểm tra và thay đổi quy định làm việc. Thứ sáu, động cơ tham nhũng trong khối nhân viên nhà nước và quan chức có thể giảm bớt nếu lương và phụ cấp cho họ có tính cạnh tranh với khu vực tư nhân. Thứ bẩy, quyết tâm chống tham nhũng của các nhân vật cao cấp trong chính quyền. Bởi vì mọi chiến lược đều trở thành công cốc nếu lãnh đạo chỉ nói suông và thiếu ý chí chính trị để thực hiện. 1.3.2. Kinh nghiệm chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước của Hồng Kông Hồng Kông đã sớm thành lập Ủy ban độc lập chống tham nhũng (ICAC) vào năm 1974. Kể từ đó Hồng Kông đã đạt được những thành quả có thể xem là một cuộc cách mạng làm biến đổi suy nghĩ và tình cảm của người dân trong nước và tạo nên những kết quả đáng trân trọng. Trước năm 1974, nạn tham nhũng ở Hồng Kông cũng khá trầm trọng. Với sự truyền tải thông tin nhạy bén về tình trạng tham nhũng, các nhân vật cao cấp trong chính quyền và nhân dân, nhất là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, nhận ra một điều rằng thành quả của cả quá trình lao động cật lực, sự nhạy bén và chấp nhận các rủi ro trong kinh doanh đã tạo ra mức sống và những lợi ích vật chất như ngày hôm nay của Hồng Kông sẽ mất hết ý nghĩa nếu không cắt bỏ khối u tham nhũng. Với nhận thức đó, Hồng Kông đã đạt được những bước tiến quan trọng trong công cuộc chống tham nhũng. Cụ thể là: - Hồng Kông đã xây dựng hệ thống dịch vụ công cộng trong sạch hơn. Vào giữa những năm 1970, hơn 80% trong các báo cáo tham nhũng của ICAC có liên quan tới khu vực công cộng. Năm 1994 còn chưa tới một nửa (chưa tới 1800 báo cáo). Năm 1994, 45% báo cáo tham nhũng liên quan tới cảnh sát; năm 2004 con số này giảm xuống còn 18%. Trong cuộc điều tra dân ý đầu tiên vào năm 1977 có 38% số phiếu trả lời rằng tham nhũng đã tràn lan trong hầu hết các bộ của chính phủ, trong cuộc điều tra năm 1994 thì con số này giảm xuống còn 7,8%. - Xây dựng thái độ chống tham nhũng của dân chúng. Từ chỗ bàng quan với nạn tham nhũng, giờ đây quan điểm của đa số dân cư coi tham nhũng là xấu xa và có tính phá hoại. Trong cuộc điều tra mới đây chưa đầy 2,9% tham gia nói rằng họ sẽ dung thứ cho tham nhũng, và 63% nói rằng họ sẵn sàng tố cáo tình trạng tham nhũng nếu họ gặp phải. Ngoài ra dân chúng cũng sẵn sàng hơn trong việc tố cáo hành vi tham nhũng: năm 1974 chỉ có một phần ba trong số những người báo cáo tham nhũng là được chuẩn bị để tự nhận diện mình. Năm 1994 con số này là hai phần ba. - Khu vực thương mại không những có ý thức về mối nguy hiểm của tham nhũng mà còn không sẵn sàng làm một việc gì đó để tiếp tay cho tham nhũng. Con số các thương nhân tìm kiếm sự hướng dẫn của ICAC trong việc cải tạo các hệ thống của họ nhằm ngăn chặn tham nhũng đã liên tục tăng lên. Rõ ràng là dân chúng ngày nay có một niềm tin chắc chắn hơn nhiều về công cuộc chống tham nhũng đang diễn ra hàng ngày hàng giờ của Chính phủ. Qua nghiên cứu kinh nghiệm chống tham nhũng của Hồng Kông có thể rút ra một số bài học thành công sau đây: Thành tố đầu tiên và quan trọng nhất trong nỗ lực chống tham nhũng hữu hiệu là nhận thức từ những quan chức cao cấp của Chính phủ về tính nghiêm trọng của vấn đề chống tham nhũng và thừa nhận rằng nó chỉ có thể giải quyết tham nhũng một cách dài hạn. Sáng lập tổ chức ICAC là Thủ tướng của Hồng Kông. Bằng việc thiết lập ICAC với tư cách là một cơ quan độc lập dành riêng cho việc chống tham nhũng, cơ quan này không chịu sự can thiệp chính trị, tách khỏi lực lượng cảnh sát và cơ quan này chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ, Chính phủ đã tạo niềm tin cho dân chúng với tổ chức này. Mọi nguồn lực chi phí cho tổ chức này hoạt động được Chính phủ đảm bảo một cách lâu dài và đầy đủ. Điều này khác với các nước khác là các cuộc vận động chống tham nhũng trong thời gian ngắn, bắt nguồn từ những vụ việc và các thủ đoạn chính trị, rất ít có cơ may thành công. Chính các chiến dịch chống tham nhũng nông cạn hời hợt, thiếu trung thực khiến dân chúng chán nản, thiếu niềm tin. Thành tố thành công thứ hai là hiệu quả hoạt động cao của ICAC. Công chúng được đảm bảo rằng cuộc chiến đấu chống tham nhũng nằm trong tay một tổ chức hoàn toàn đáng tin cậy. Tổ chức được giao phó trọng trách này sẽ được điều hành hiệu quả. ICAC (Ủy ban độc lập chống tham nhũng) có một đội ngũ nhân viên xuất sắc. Các nhân viên này, ngoài việc có lý lịch trong sạch còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn lựa chọn rất nghiêm ngặt và chỉ có những người có đầy đủ phẩm chất, tài năng mới được tuyển dụng. Một khi được tin dùng họ phải tuân thủ một bộ quy tắc kỷ luật nghiệt ngã và các đợt kiểm tra chống tham nhũng đều do một nhân viên của ICAC lãnh đạo nhóm giám sát nội bộ tiến hành. Chìa khóa thứ ba của sự thành công ở Hồng Kông là việc họ xây dựng được một chiến lược lâu dài có cân nhắc thận trọng để tấn công vào tham nhũng. Các quan chức của Hồng Kông nhận thức rằng, cuộc chiến đấu này không thể dành thắng lợi nếu chỉ nhờ vào việc tập trung trừng phạt tham nhũng, cải thiện bộ máy quan liêu. Những thay đổi căn bản trong thái độ của công chúng cũng rất cần thiết. Chiến lược chống tham nhũng ở Hồng Kông là cuộc đấu tranh chống tham nhũng trên ba mặt trận: Điều tra, ngăn chặn và giáo dục - Một cuộc tấn công có ba mũi. Mũi thứ nhất mang tính phản ứng, ICAC có một phòng chuyên tiến hành đấu tranh tham nhũng sau khi tiếp nhận đơn khiếu tố cáo. Mũi thứ hai thuộc về trách nhiệm của phòng ngăn ngừa tham nhũng, liên quan tới việc xóa bỏ các cơ hội tham nhũng có hệ thống trong chính phủ và trong các tổ chức thuộc khu vực tư nhân. Mũi thứ ba được sự góp sức của phòng các quan hệ cộng đồng trong việc giáo dục công chúng về tác hại của tham nhũng và tìm kiếm sự ủng hộ tích cực của công dân. Phòng quan hệ cộng đồng có khoảng 200 nhân viên, được thành lập với tiêu chí là chỉ có sự thay đổi trong thái độ của công chúng về nạn tham nhũng mới có thể tạo ra một chuyển biến lâu dài trong cuộc chiến đấu với vấn đề đen tối này. Nhiệm vụ chủ yếu của phòng này là tạo dựng sự ủng hộ và niềm tin của công chúng vào ICAC bằng cách giải thích các luật chống hối lộ, giáo dục các thế hệ trẻ tại trường học, và khuyến khích cộng đồng sử dụng những biện pháp ngăn ngừa tham nhũng và thông báo bất kỳ một nghi vấn nào về những hành vi tham nhũng. Để huy động được sự ủng hộ, phòng tiến hành phân mảng cộng đồng và triển khai các chương trình cụ thể có liên quan phù hợp với nhu cầu của các nhóm khác nhau. Một chiến lược dựa trên cơ sở cộng đồng như thế tạo được niềm tin vào tính hiệu quả và trung thực của ICAC. Nó cũng đồng nghĩa với việc bản thân cộng đồng đã trở thành một lực lượng đi đầu chống tham nhũng. Việc điều tra và xét xử thành công đã khích lệ cộng đồng báo cáo tham nhũng, trợ sức cho Phòng các quan hệ cộng đồng trong việc giáo dục dân chúng về những hiểm họa của tham nhũng, và giúp Phòng ngăn ngừa tham nhũng trong việc khuyến khích cả hai khu vực tư nhân và công cộng suy nghĩ về các hệ thống của mình. Đến lượt mình, các hệ thống thẩm định tham nhũng, trong chừng mực nào đó có thể thi hành được, sẽ làm cho khả năng phát hiện và buộc tội tham nhũng trở nên chắc chắn hơn. Ba cách tiếp cận mang tính chiến thuật của ICAC qua ba phòng chức năng là phụ thuộc lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Để đạt được hiệu quả cao nhất thì mỗi phòng phụ thuộc vào hoạt động của các phòng khác. Như vậy nhiệm vụ tổng thể là lớn hơn tổng các nhiệm vụ cục bộ của nó. Yếu tố quan trọng thứ tư trong đấu tranh có kết quả với tham nhũng là luôn luôn duy trì được lòng tin của công chúng. Để tạo được lòng tin và khuyến khích nhân dân báo cáo những nghi vấn của họ về các hành vi sai trái, cơ quan chống tham nhũng phải làm cho công chúng thấm nhuần một niềm tin rằng tất cả mọi ý kiến tố giác mà có thể truy tìm, cho dù nó nhỏ đến mức nào đi nữa, đều sẽ được điều tra. Đây là nguyên tắc căn bản của ICAC và nó được biến thành hành động thực tế. Nếu cho rằng các quan chức của ICAC quan tâm và đáp ứng những gì mình nói, thì một người nào đó chắc chắn sẽ lại thông báo tham nhũng lần nữa. Sự đánh giá cao của công chúng về ICAC được minh họa bằng sự tăng lên rõ rệt số lượng các báo cáo tham nhũng có thể truy tìm mà ICAC nhận được kể từ khi bắt đầu hoạt động. Những thông báo này được truy tìm đầy đủ thông tin để cho phép một cuộc điều tra có thể bắt đầu. Thường là những thông tin về tham nhũng gửi đến từ những người dân sẵn sàng nhận diện bản thân họ. Tỷ lệ phần trăm của những thông tin như thế đã tăng từ 33% trong năm 1974 lên 71% năm 1994. Công chúng cũng thông tin về tất cả các loại vấn đề chứ không chỉ riêng tham nhũng. Hơn nữa số thông tin được gửi tới ICAC kể từ năm 1974 không liên quan gì tới tham nhũng như một tín hiệu về sự tin cậy của cộng đồng và nhiệm vụ truyền dẫn những mối bất bình chung đối với các bộ khác nhau trong chính phủ. ICAC cố gắng giúp đỡ bằng cách chuyển những khiếu nại không liên quan tới tham nhũng này tới các bộ liên quan để xử lý và cho công chúng biết rằng họ đã làm như thế. Yếu tố quan trọng thứ năm đối với thành công trong kiểm soát tham nhũng là bảo đảm được tính chất tuyệt mật cho những người thông báo về những vi phạm. Phanh phui tham nhũng thường cần tới sự can đảm thực sự. Những người báo cáo cho ICAC mong đợi sự bảo mật tối đa, và họ đã không bị thất vọng. Cơ quan này thực hiện sự bảo vệ các nguồn tin rất nghiêm túc. Máy tính nội bộ và các chế độ báo cáo của nó được giảm sát nghiêm ngặt sao cho chỉ có những nhân viên nào "cần phải biết" mới được phép truy cập các thông tin về bất kỳ ai đã gửi báo cáo. Các hồ sơ được thu thập và phân loại một cách có hệ thống để loại bỏ những thông tin đã lỗi thời. Cuối cùng, luật pháp của Hồng Kông cấm việc tiết lộ đặc điểm nhận dạng của bất kỳ nguồn thông tin nào tới ICAC. Một điểm nữa là ICAC đã thành công nhờ một sự kết hợp các yếu tố cùng nhau tạo ra một môi trường thuận lợi để chống tham nhũng. Đáng chú ý nhất là tính độc lập của ICAC và các hệ thống được đưa vào hoạt động bảo đảm được tính chịu trách nhiệm từ bên ngoài. Thủ tướng chỉ định Chủ tịch và Phó Chủ tịch của ICAC. Chủ tịch Ủy ban trực tiếp báo cáo cho thủ tướng và bổ nhiệm tất cả các nhân viên khác. Những quy định này thực sự ngăn chặn bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào can thiệp vào các cuộc điều tra của ICAC đối với những trường hợp nghi là tham nhũng trong nội bộ cảnh sát. Nếu là điều khá nhạy cảm thì Ủy ban này phải thương lượng với Chính phủ và cơ quan lập pháp để có kinh phí, để có được sự thuận lợi về mặt thủ tục hành chính. Đội ngũ nhân viên của ICAC nói chung phải chịu các điều kiện trưng dụng dịch vụ dân sự. Ngoài những vấn đề này ra thì ICAC có được tư cách độc lập hoàn chỉnh trong hoạt động. Tuy nhiên, mặc dù sự độc lập về hoạt động là chìa khóa để giành được và duy trì lòng tin của công chúng, sự độc lập đó không thể là một thứ giấy phép không hạn chế. Để giảm thiểu mọi khả năng lạm dụng quyền lực, ICAC phải chịu một hệ thống kiểm tra kiểm soát nghiêm ngặt. Hoạt động của Ủy ban này được hướng dẫn bởi bốn tiểu ban tư vấn mà tư cách thành viên này được lấy từ tất cả các khu vực của cộng đồng và do Thủ tướng chỉ định. Tiểu ban thứ năm, bao gồm các thành viên của các Hội đồng Lập pháp và Hành pháp của Hồng Kông xem xét những khiếu nại đối với ICAC. Mỗi một tiểu ban trong số này không phải do ủy viên của ICAC mà do một thành viên tiểu ban làm chủ tịch, với mục tiêu là nâng cao tính độc lập của hệ thống giám sát này. Một điều kiện quan trọng nữa là một khuôn khổ pháp lý mạnh cho phép ICAC xử lý vấn đề tham nhũng đặc biệt. Chủ tịch ủy ban được quyền ngăn không cho những người trong diện bị nghi ngờ bán các tài sản của họ; tìm kiếm lệnh của tòa án không cho phép họ rời khỏi Hồng Kông, kiểm tra các tài khoản ngân hàng và các két tiền gửi an toàn của họ, yêu cầu họ cung cấp chi tiết về tình trạng tài chính của họ và lục soát cơ ngơi của họ. Nếu trong một cuộc điều tra mà có những vi phạm khác liên quan tới tham nhũng bị phát hiện, thì ICAC được trao quyền đấu tranh chống những vi phạm có liên quan đó để bóc trần vụ việc tham nhũng nằm phía sau. Một trong những vũ khí hiệu nghiệm nhất che chở cho luật pháp đã phát huy tác dụng khi một công chức nhà nước có những tài sản không thể giải thích được hoặc duy trì một mức sống vượt quá mức tiền lương chính thức của ông ta hay bà ta. Nếu ông ta hay bà ta không đưa ra được những lời giải thích thỏa mãn trước tòa án về việc tiền hay tài sản đó đã có được bằng cách nào, thì vị công chức này sẽ bị coi là phạm tội tham nhũng. Điều này là cực kỳ hữu hiệu trong việc giữ cho các công chức nhà nước của Hồng Kông trung thực. Năm 1997 chủ quyền của Hồng Kông được trả về cho Trung Quốc và thuộc địa cũ này của Anh trở thành Khu vực Hành chính Đặc biệt (SAR) của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hồng Kông có bộ Luật cơ bản như là hiến pháp của mình bảo đảm cho sự tồn tại tiếp tục của ICAC sau năm 1997 với tư cách là một tổ chức độc lập. ICAC tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong chính quyền SAR nhằm duy trì một Hồng Kông ổn định và thịnh vượng. 1.3.3.Kinh nghiệm chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước của Trung Quốc Cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Chính phủ Trung Quốc đã thu được những kết quả quan trọng giúp tăng tính minh bạch và cải thiện hình ảnh của chính phủ trong dân chúng. Trong năm 2006, hàng trăm quan chức tham nhũng đã bị trừng phạt vì đã nhận hối lộ, chiếm đoạt tài sản nhà nước hoặc xâm hại lợi ích của nhân dân. Ban Thanh tra cũng đã điều tra nhiều vụ việc trực tiếp ảnh hưởng tới "túi tiền" của người dân, đặc biệt là các loại lệ phí bất hợp pháp do các tổ chức giáo dục và y tế tự tiện áp đặt. Trong năm 2006, Ban Thanh tra Kỷ luật Trung ương và Bộ Giám sát đã điều tra 16 vụ việc lớn về thu lệ phí y tế và giáo dục trái phép, buộc các tổ chức vi phạm phải trả lại hơn 200 triệu nhân dân tệ (25 triệu USD) cho các cá nhân đã nộp các loại lệ phí này. Chiến dịch loại bỏ các loại lệ phí trái phép cũng đòi hỏi chính quyền địa phương sửa đổi 382 điều quy định trái với các chính sách của Chính phủ về lệ phí giáo dục. Đến nay, 1.448 khoản lệ phí trái phép đã bị xóa. Do ngày càng có người lời phàn nàn về tình trạng ô nhiễm trong những năm gần đây, Ban Thanh tra bảo vệ môi trường đã thu thập hồ sơ và điều tra hơn 400 vụ vi phạm và các quy định về bảo vệ môi trường, đã xử phạt hơn 200 cá nhân. Ban Thanh tra cũng cử 20 đoàn thanh tra tìm cách hạn chế tình trạng đầu tư liều lĩnh, việc xây dựng "những dự án" lãng phí, không cần thiết và sự phát triển có hại cho môi trường địa phương. Ban Thanh tra cũng kiểm tra hiệu quả hoạt động của các chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm rằng các quan chức và các nhà quản lý doanh nghiệp đã tạo ra sự minh bạch về quyền hạn quản lý cho người dân có thể giám sát. Tính đến tháng 7-2006, Ban đã thanh tra các thủ tục, quy định và công việc quản lý của 31 chính quyền cấp tỉnh, bốn công ty quản lý tài sản nhà nước và 9 ngân hàng do Nhà nước kiểm soát. Nhiều cơ quan Chính phủ đã lập các trang web thông báo chi tiết về những quy định, quyền hạn và các kế hoạch phát triển của các cơ quan này. Chính quyền Trung Quốc vừa quyết định thay thế người đứng đầu các cơ quan chống tham nhũng của ba thành phố lớn Bắc Kinh, Thượng Hải và Thiên Tân... 1.3.4. Bài học rút ra cho Sơn La Từ kinh nghiệm của Singapo, Hồng Kông và Trung Quốc có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Sơn La: Một là, làm cho công chức không dám tham nhũng. Ở Singapo, khi một người được tuyển vào làm công chức, quan chức nhà nước thì hàng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Người có chức vụ cao, thì phần trăm trích gửi tiết kiệm càng lớn, có thể lên đến vài chục phần trăm lương tháng. Số tiền này do nhà nước quản lý. Bất kỳ công chức nào, quan chức nào phạm tội tham nhũng dù nhẹ ở mức xử phạt ra khỏi ngạch công chức thì toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm bị trưng thu xung công quỹ. Hai là, làm cho công chức không thể tham nhũng. Chính phủ Singapo quy định và thực hiện mỗi năm công chức, viên chức, quan chức phải khai báo một lần với nhà nước về tài sản của bản thân hoặc của vợ (chồng) bao gồm: tiền thu nhập, tiền gửi tiết kiệm, tiền cổ phiếu, đồ trang sức, ô tô, nhà cửa... Những tài sản tăng lên so với năm trước phải khai rõ nguồn gốc, cái gì không rõ nguồn gốc được coi là tham ô, tham nhũng. Nhà nước có quy định: Quan chức Chính phủ không được phép nợ nần, không được vay một khoản tiền lớn vượt quá ba tháng lương. Ba là, làm cho công chức không cần tham nhũng. Singapo có chế độ trả lương chênh lệch khá cao giữa quan chức cấp cao với cấp thấp và với công chức, giữa công chức với nhân viên, công nhân. Với mức lương cao, quan chức đủ sống và chu cấp cho gia đình mà không cần tham nhũng. Hơn nữa cách trả lương như vậy khiến công chức và quan chức luôn tự nhủ: Mình được trả lương cao hơn người lao động bình thường rất nhiều. Nếu mình tham ô, tham nhũng nữa thì là kẻ vô đạo lý mất hết liêm sỉ. Bốn là, làm cho công chức không muốn tham nhũng. Ở Singapo muốn tham nhũng một thứ gì, dù rất nhỏ, cũng rất phiền hà. Ví dụ, khi khách nước ngoài đến, nếu họ muốn tặng quà cho các quan chức nước chủ nhà để cảm ơn về sự đón tiếp nồng hậu và để thắt chặt mối quan hệ thì món quà đó phải mang ý nghĩa văn hóa với giá trị tiền không nhiều. Nếu nhận quà phải báo với lãnh đạo cơ quan xem xét. Giá trị của quà tặng lớn phải nộp cho cơ quan quản lý quà biếu để xung công quỹ. Thứ năm, thông qua chính sách truyền thông, Nhà nước làm cho các nhà chính trị và quan chức cao cấp hình thành nên nhận thức về đạo đức rằng, mọi người sẽ không bao giờ tha thứ cho tội tham nhũng, người có tội sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, trừng trị cả những ai bao che dung túng người tham nhũng bất kể người đó là ai. Thói quen đạo đức này đã tạo ra ý chí rất mạnh trong công tác phòng, chống tham nhũng. Do đó các cơ quan điều tra chống tham nhũng không bao giờ bị ngăn cản trong quá trình điều tra những vụ án tham nhũng, và lại cũng không có khái niệm "vùng cấm" trong đấu tranh chống tham nhũng. Thứ sáu, đề cao quyết tâm chính trị của người đứng đầu chính trị thông qua sự ủng hộ thành lập cơ quan chuyên trách chống tham nhũng có đủ sức mạnh. Đây là bài học rất thành công ở cả Singapo và Hồng Kông. Đồng thời, việc nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, các đơn vị trong tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành động từ lãnh đạo đến cán bộ, công chức, nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là kinh nghiệm của cả ba nước trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chống tham nhũng. Thứ bẩy, tập trung xử lý thông tin do nhân dân thông báo về hiện tượng tham nhũng, giải quyết dứt điểm đơn thư tố cáo, nhất là đơn thư tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí tồn đọng, kéo dài; kịp thời giải quyết các vụ việc phát sinh, không để xảy ra tình trạng nhân dân mất lòng tin vào quyết tâm chống tham nhũng của nhà nước. Thứ tám, thu hút các nhân viên xuất sắc vào công việc chống tham nhũng. Đồng thời đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận, nâng cao chất lượng công tác tham mưu và hiệu quả công tác cho đội ngũ cán bộ, công chức chống tham nhũng. Tăng cường công tác bảo vệ hợp lý cán bộ và nhân dân tham gia chống tham nhũng. Thứ chín, tăng cường phối hợp hoạt động giữa Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng của Trung ương với các cơ quan chống tham nhũng của địa phương nhằm giám sát phòng ngừa sai phạm; nâng cao chất lượng trong hoạt động kiểm tra, thanh tra và điều tra, truy tố, xét xử các vụ tham nhũng theo đúng quy định của pháp luật. Thứ mười, tiếp tục chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp chính quyền trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao; thực hiện nghiêm chế độ kiểm soát nội bộ trong các cơ quan hành chính; phân định rõ trách nhiệm của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo các cấp; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Thứ mười một, kịp thời khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; kiên quyết xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật đối với các hành vi vi phạm các quy định về phòng, chống tham nhũng; công báo công khai kết quả xử lý các đối tượng, vụ việc tham nhũng để tăng cường công tác giáo dục, răn đe, phòng ngừa. Chương 2 THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH Ở SƠN LA 2.1. THỰC TRẠNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH Ở SƠN LA 2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La 2.1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của tỉnh Sơn La Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên 14.174 km2. Phía Bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Lai Châu; phía Đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình; phía Tây giáp với tỉnh Điện Biên; phía Nam giáp với tỉnh Thanh Hóa và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; có đường biên giới Việt - Lào dài 250 km. Sơn La có độ cao trung bình là 600-700m so với mặt biển, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực Sông Đà, Sông Mã, có 2 cao nguyên là Mộc Châu và Nà Sản. Tỉnh Sơn La nằm trên trục quốc lộ 6 Hà Nội - Sơn La - Điện Biên, cách Hà Nội 320 km, là một tỉnh nằm sâu trong lục địa, có 2 cửa khẩu quốc gia với nước bạn Lào (Chiềng Khương, Pa Háng). Đất đai chưa khai thác trên địa bàn tỉnh còn nhiều, độ phì tự nhiên khá cao, khả năng tái sinh thảm thực vật lớn, thuận lợi cho việc gia tăng độ che phủ của rừng và sự phát triển của các loại cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày. Nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng, song có trữ lượng nhỏ, phân bố rải rác, chưa được khai thác nhiều, có triển vọng cho phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng, gạch, ngói), khai thác than, đồng, chì, vàng, ni ken... Điều kiện thiên nhiên tạo cho Sơn La tiềm năng để phát triển một số sản phẩm nông - lâm sản hàng hóa với quy mô lớn (như chè đặc sản chất lượng cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa, bò thịt chất lượng cao), các loại cây ăn quả ôn đới, nhiệt đới, Á nhiệt đới (với quy mô trên 30.000 ha)... Sơn La có lợi thế rất lớn về tiềm năng thủy điện, đây là điều kiện tốt để Sơn La phát triển kinh tế. Tuy nhiên, với điều kiện của một tỉnh miền núi, địa hình bị chia cắt, phức tạp, hệ thống giao thông yếu kém, nhất là giao thông đến địa bàn các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số, biên giới, các hiện tượng thời tiết, khí hậu, thiên tai cực đoan như mưa lũ, hạn hán, sương muối... diễn biến khó lường, làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Sơn La nói chung và công tác quản lý hành chính nhà nước nói riêng. 2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Sơn La Về xã hội: Sơn La là một tỉnh miền núi, có 11 đơn vị hành chính (1 thành phố, 10 huyện) với 12 dân tộc cùng sinh sống. Dân số của tỉnh, theo số liệu thống kê năm 2006, là trên 1 triệu người. Trong đó, dân số ở khu vực nông thôn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng 88,7%; khu vực thành thị chiếm 11,3%. Dân số trong độ tuổi lao động khoảng 541 ngàn người, chiếm 54% dân số toàn tỉnh. Lao động nông, lâm nghiệp chiếm gần 90% tổng số lao động. Lao động công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và chế biến chiếm khoảng 10%. Nhân dân các dân tộc Sơn La có truyền thống cách mạng, đoàn kết, yêu nước. Chính trị, trật tự an ninh, quốc phòng trên địa bàn luôn được đảm bảo. Trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề của lao động ở Sơn La còn thấp so với yêu cầu phát triển. Cả tỉnh hiện nay chỉ có 01 trường đại học, 01 trường cao đẳng, một số trường trung cấp và trung tâm đào tạo nghề. Do vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức và lao động ở tỉnh phụ thuộc chủ yếu vào các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội và các tỉnh khác. Điều này cũng gây khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Về kinh tế: Trong những năm qua, với sự giúp đỡ nhiều mặt của Trung ương, sự nỗ lực cao của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, kinh tế của tỉnh Sơn La đã có những bước chuyển biến tích cực. Tổng GDP của tỉnh (theo giá so sánh năm 1994) đã tăng đáng kể trong giai đoạn 2006-2008. 2. 61 4, 18 3. 02 2, 14 3. 42 1, 88 15,03 15,61 13,23 0,00 500,00 1.000,00 1.500,00 2.000,00 2.500,00 3.000,00 3.500,00 4.000,00 2006 2007 2008 G D P , t ỷ đồ n g 12 12,5 13 13,5 14 14,5 15 15,5 16 Tă n g tr ư ở n g G D P , % GDP, tỷ đồng Tăng trưởng GDP, % Biểu đồ 2.1: GDP và tăng trưởng GDP của tỉnh Sơn La 2006-2008 (theo giá so sánh 1994) Cơ cấu GDP chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và thương mại, dịch vụ, giảm dần giá trị sản xuất nông nghiệp. Bảng 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Sơn La, 2006 - 2008 Đơn vị tính: % Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Nông, lâm, thủy sản 50,07 45,80 43,15 Công nghiệp, xây dựng 15,64 16,92 19,97 Dịch vụ 34,28 37, 28 36,88 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Sơn La, năm 2009. Đặc biệt, từ khi Nhà nước phê duyệt xây dựng công trình thủy điện Sơn La, hàng loạt các dự án giao thông như quốc lộ 6, cầu Tạ Khoa, quốc lộ 4G, Quốc lộ 279 được xây dựng và nâng cấp đã tạo thêm nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, nền kinh tế của tỉnh Sơn La vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp; công nghiệp, thương mại và dịch vụ kém phát triển. Kết cấu hạ tầng đang trong thời kỳ đầu tư phát triển, thu nhập bình quân đầu người dân còn thấp và có sự phân hóa giàu nghèo khá lớn giữa các tầng lớp dân cư, giữa khu vực nông thôn và thành thị. Nguồn thu ngân sách nhỏ bé, tổng số thu ngân sách nhà nước tại địa phương năm 2008 chỉ đạt 487,02 tỷ đồng, mới đáp ứng được 15,97% tổng chi ngân sách của tỉnh. Tổ chức hành chính của tỉnh Sơn La như sau: Các Sở, Ban, Ngành: - Văn phòng Hội đồng và Ủy ban nhân dân tỉnh, - Sở Nội vụ; - Sở Giáo dục và Đào tạo; - Sở Lao động - Thương binh và xã hội; - Sở Y tế; - Sở Kế hoạch và Đầu tư; - Sở Xây dựng; - Sở Tài nguyên, Môi trường; - Sở Tài chính, - Sở Khoa học và Công nghệ; - Sở Bưu chính viễn thông; - Sở Giao thông; - Sở Thương mại, Du lịch và Thể thao; - Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; - Hải quan Sơn La; - Cục thuế Sơn La; - Ban Tôn giáo; - Thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng tỉnh; - Công an tỉnh; - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh; - Bộ đội biên phòng; - Thanh tra tỉnh; - Cục Thống kê; - Kho bạc nhà nước; - Bưu điện tỉnh; - Ngân hàng phát triển tỉnh. Các huyện, thành phố: - Thành phố Sơn La; - Huyện Mai Sơn; - Huyện Yên Châu; - Huyện Mộc Châu; - Huyện Mường La; - Huyện Thuận Châu; - Huyện Quỳnh Nhai; - Huyện Bắc Yên; - Huyện Phù Yên; - Huyện Sông Mã; - Huyện Sốp Cộp; Triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngànhh Trung ương thực hiện các chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội miền núi, biên giới, đặc biệt là dự án đầu tư di dân tái định cư Thủy điện Sơn La là cơ hội lớn để Sơn La phát triển toàn diện, kinh tế tăng trưởng khá, an sinh xã hội được đảm bảo, an ninh quốc phòng được củng cố. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La luôn giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất, ý chí tự lực tự cường; quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách, phấn đấu hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, đưa Sơn La thoát khỏi tỉnh đặc biệt khó khăn. Cấp ủy, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh đồng tình ủng hộ các chủ trương, giải pháp của Đảng, Nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm; tích cực tham gia giúp các cơ quan chức năng phát hiện, đấu tranh, ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lãng phí. Tuy nhiên nền kinh tế của tỉnh bị ảnh hưởng tác động bất lợi của nhiều yếu tố đối với vùng núi Tây bắc như rét đậm, rét hại, bão, lũ, dịch bệnh... Tác động của mặt trái của cơ chế thị trường; sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các bộ phận dân cư; một bộ phận cán bộ công chức thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sống thực dụng, thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ, kỷ cương kỷ luật có lúc, có nơi bị buông lỏng. Năng lực trình độ quản lý điều hành của một bộ phận cán bộ quản lý còn bất cập trong phạm vi, lĩnh vực được giao, dân trí còn thấp và chưa đồng đều cũng làm ảnh hưởng đến việc triển khai thực thi pháp luật nói chung cũng như công tác phòng, chống tham nhũng. Mô hình, cơ chế hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh chủ yếu là kiêm nhiệm; bộ máy chuyên trách giúp việc cho Ủy ban nhân tỉnh về công tác phòng, chống tham nhũng còn thiếu về số lượng, yếu về kinh nghiệm và nghiệp vụ chuyên môn do đó việc phát hiện và xử lý các vụ việc tham nhũng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. 2.1.2. Một số hình thức tham nhũng qua các vụ việc điển hình tại tỉnh Sơn La Trước hết phải nói rằng, việc đánh giá về tình hình tham nhũng trong các lĩnh vực thông qua các số liệu là vấn đề hết sức khó khăn. Bởi vì, nếu căn cứ vào các yếu tố cần và đủ để xác định hành vi hay vụ việc tham nhũng thì tham nhũng phải có đủ yếu tố: lợi dụng chức vụ, quyền hạn và vụ lợi. Trong nhiều lĩnh vực, tham nhũng gắn bó chặt chẽ với những hành vi cố ý làm trái hoặc lãng phí mà nhiều trường hợp rất khó hoặc đã không chứng minh được yếu tố vụ lợi, vì thế thường được nhận định chung là tình trạng gây thất thoát hay sai phạm về kinh tế. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, đa số các trường hợp thất thoát và sai phạm đó thường đi liền với tư lợi và tham nhũng. Để có một số liệu tương đối chính xác về tham nhũng có lẽ chỉ có thể thông qua các bản án đã có hiệu lực pháp luật với việc thống kê các tội danh thuộc nhóm tội tham nhũng. Nhưng đó chỉ là con số nhỏ so với thực trạng tham nhũng bởi nhiều vụ việc không được đưa ra xử lý hình sự. Chính vì vậy, để có một bức tranh tương đối toàn diện về tham nhũng ở các cơ quan hành chính cấp tỉnh Sơn La phù hợp với nhận định của Đảng, Nhà nước ta cũng như của xã hội, ở đây ta nêu ra những vụ việc và con số chính thức của cơ quan Thanh tra tỉnh Sơn La, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La…, qua các phương tiện thông tin đại chúng có thể tin cậy được. 2.1.2.1. Tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản Tham nhũng xảy ra phổ biến trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản và gây thiệt hại lớn tài sản của Nhà nước. Hầu hết các công trình xây dựng đều có biểu hiện thất thoát tài sản do tham ô, cố ý làm trái và diễn ra ở tất cả các khâu, các giai đoạn, từ khâu lập và phê duyệt dự án, khảo sát, thiết kế, duyệt kế hoạch vốn, đấu thầu, tư vấn giám sát, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình. Qua thanh tra 40 dự án, công trình có tổng mức đầu tư 103 tỷ đồng, phát hiện tổng số sai phạm về tài chính là 114.505 triệu đồng, chiếm 11,11% tổng vốn đầu tư. Ở từng hạng mục công trình các dự án được thanh tra, kiểm tra đều có mức độ sai phạm khác nhau: - 16/40 dự án, công trình (chiếm 40%) vi phạm về khâu chuẩn bị đầu tư; - 14/40 dự án, công trình (chiếm 35%) vi phạm về khâu thẩm định dự án; - 15/40 dự án, công trình (chiếm 37,5%) vi phạm quy chế đấu thầu; - 18/40 dự án, công trình (chiếm 45%) vi phạm khâu thiết kế kỹ thuật, thi công; - 12/40 dự án, công trình (chiếm 30%) vi phạm quy định về nghiệm thu, thanh quyết toán. Qua các vụ việc đã được thanh tra cho thấy, tỷ lệ thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản trung bình từ 8 đến 14%, cá biệt có công trình thất thoát đến 20%. Chính vì vậy nhiều công trình có chất lượng kém, thậm chí chưa nghiệm thu đã hư hỏng, chưa đưa vào sử dụng hoặc ngay sau khi sử dụng đã xuống cấp như: Công trình trụ sở liên cơ tỉnh Sơn La, công trình sân vận động tỉnh Sơn La, công trình Trung tâm văn hóa thông tin và triển lãm tỉnh Sơn La… Vi phạm và tội phạm thường xảy ra ở những công trình hoàn thành trong một thời gian ngắn để phục vụ yêu cầu chính trị, công trình chỉ định thầu hoặc đấu thầu hạn chế, công trình bị chia cắt thành các gói thầu nhỏ, có nhiều nhà thầu phụ, công trình phải bổ sung vốn bất thường, công trình kéo dài nhiều năm không quyết toán được, công trình sử dụng vốn ODA… Bảng 2.2. Tình hình sai phạm trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Sơn La TT Năm Số cuộc thanh tra Số dự án công trình Tổng vốn đầu tư (triệu đồng) Phát hiện sai phạm (triệu đồng) Tỷ lệ sai phạm/ Tổng vốn đầu tư 1 2006 10 11 138.950 19.453 14% 2 2007 15 15 792.290 87.152 11% 3 2008 8 14 98.760 79.080 8% Tổng số 33 40 1.030.000 114.505 11,11% Nguồn: Số liệu của Thanh tra Nhà nước. Mặc dù tất cả những sai phạm nêu trên trong các công trình bản chất đều là tham nhũng do một phần không nhỏ là do các hành vi xà xẻo, rút ruột công trình, còn một phần nữa thực chất là hối lộ để bỏ qua hành vi sai trái nhưng rất khó chứng minh nên các cơ quan thanh tra quy về hành vi "thiếu tinh thần trách nhiệm" hoặc "cố ý làm trái". 2.1.2.2. Tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai Đây cũng là lĩnh vực xảy ra nhiều tham nhũng và khiếu nại, tố cáo, số lượng tài sản nhà nước bị mất là rất lớn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khi đất đai trở thành hàng hóa có giá trị đặc biệt, với chế độ ở hữu toàn dân về đất đai ủy quyền cho cơ quan nhà nước quản lý, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai sẽ có cơ hội phát sinh và phát triển. Tùy theo mức độ khác nhau, nhưng không chỉ đất đai ở đô thị mà cả vùng nông thôn đều bị lấn chiếm, cấp phát, mua bán, chuyển nhượng tùy tiện, trái phép. Vi phạm và tham nhũng về đất đai thường qua các dạng chủ yếu: cấp đất trái thẩm quyền, thông qua danh nghĩa các dự án để chia chác kiếm lời; hợp thức hóa đất lấn chiếm trái phép; chuyển đổi mục đích sử dụng đất tùy tiện, không đúng quy hoạch, thu đất của dân, đền bù giá rẻ, giao cho một doanh nghiệp sau đó san ủi mặt bằng để chia lô bán nền…đây là hành vi đem lại siêu lợi nhuận cho một nhóm người. Ngoài ra, còn có hành vi tham nhũng trong quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng qua việc nâng giá đền bù, khai khống diện tích để rút tiền của ngân sách nhà nước. Năm 2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La ra Quyết định thanh tra về việc thực hiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 6 tại thành phố Sơn La. Qua kết luận số 779/KL-CTUBND ngày 13/4/2007, thu hồi 16.033,37 triệu đồng tiền sai phạm và chuyển hồ sơ thanh tra sang cơ quan điều tra Công an tỉnh tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ những sai phạm của tập thể, cá nhân trong việc thực hiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 6 tại thành phố Sơn La. Vừa qua Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 177/2008/HSST ngày 26/8/2008 đối với các bị cáo lợi dụng chức vụ quyền hạn, gây hậu quả nghiêm trọng trong việc triển khai dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 6 với kết quả: 1. Cà Văn Lả, nguyên trưởng phòng Tài nguyên môi trường thành phố Sơn La, tuyên phạt 9 năm tù, 2. Nguyễn Văn Minh, nguyên chuyên viên phòng Tài nguyên môi trường thành phố Sơn La, tuyên phạt 4 năm tù, 3. Vũ Quang Huy, nguyên chuyên viên phòng Tài nguyên môi trường thành phố Sơn La, tuyên phạt 4 năm tù, 4. Vũ Quang Huy, nguyên Phó phòng Tài nguyên môi trường thành phố Sơn La, tuyên phạt 3 năm 6 tháng tù, 5. Lò Bình Trọng, nguyên đội trưởng đội thu thuế trước bạ và thu khác Chi cục thuế thành phố Sơn La, tuyên phạt 2 năm tù, 6. Ông Nguyễn Thái Hải, nguyên chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Sơn La; Chánh văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, tuyên phạt 2 năm tù cho hưởng án treo, 7. 8 bị cáo bao gồm các chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường, xã trên địa bàn thành phố Sơn La bị thi hành kỷ luật hành chính. 2.1.2.3. Tham nhũng trong lĩnh vực tài chính, sử dụng ngân sách nhà nước Cơ chế "xin - cho" và việc quản lý lỏng lẻo đã dẫn đến các vi phạm trong quản lý, cấp phát vốn, sử dụng kinh phí ngân sách gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước. Tình trạng "chạy" ngân sách, "chạy" dự án của nhiều cơ quan, địa phương thực chất là một loại tham nhũng có tính chất tập thể. Chính ở đây diễn ra những hành vi quà cáp biếu xén, lại quả với những khoản tiền rất lớn và là một loại tham nhũng rất khó bị phát hiện và xử lý. Việc sử dụng ngân sách nhà nước hết sức bừa bãi và có nhiều biểu hiện tham nhũng. Chẳng hạn trong năm 2008, qua thanh tra việc chấp hành chế độ thu, chi tài chính, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cho thấy tình trạng để ngoài sổ sách, thu sai quy định và để tồn đọng các khoản thu là 24 tỷ 936 triệu đồng; chi sai chế độ, chính sách, chi thiếu chứng từ, cho tạm ứng sai quy định là 4 tỷ đồng. Thanh tra đối với tổ chức tín dụng đã phát hiện 2 vụ tiêu cực, tham nhũng với số tiền vi phạm trên 1 tỷ 773 triệu đồng. Đó chỉ là những con số nhỏ so với những gì diễn ra trên thực tế. Trong các cơ quan nhà nước, hoạt động mua sắm công là nơi thường xuyên xảy ra tình trạng mua đắt, bán rẻ, lợi dụng để chia chác. Bên cạnh đó, các hành vi mua bán và sử dụng trái phép hóa đơn giá trị gia tăng để hợp pháp hóa các chi phí khống trong đầu tư xây dựng cơ bản, nâng khống giá trong mua sắm hàng hóa, tài sản của cơ quan doanh nghiệp nhà nước để tham ô cũng khá phổ biến... 2.1.2.4. Tham nhũng bằng cách "gây khó khăn" trong giao dịch hành chính Tình trạng nhũng nhiễu nhân dân khi có công việc tiếp xúc với chính quyền không phải là hiếm ở Sơn La. Hình thức phổ biến ở các cấp thành phố, huyện, xã phường là công dân muốn có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà nhanh chóng theo yêu cầu thì cần phải đưa một số tiền lót tay nào đó cho nhân viên trực tiếp giải quyết hoặc người quen của họ. Một hình thức tham nhũng thường thấy và lộ liễu hơn ở Sơn La là cán bộ công chức phụ trách thụ lý giải quyết thủ tục cấp các loại giấy phép như: xây dựng, hoàn công, đăng ký kinh doanh (nhất là các ngành nghề nhạy cảm) v.v... thường cố ý gây khó dễ, tạo ra các khó khăn giả tạo như không hướng dẫn để người dân lập hồ sơ đầy đủ ngay từ đầu, cố tình kéo dài thời gian trả hồ sơ với lý do không chính đáng, chỉ dẫn nhân dân đi qua nhiều bộ phận không cần thiết, câu kết với nhau để một số bộ phận xử lý nào đó kéo dài thời gian nhằm vòi tiền. Một loại tham nhũng cũng khá phổ biến ở Sơn La là nhờ vả người quen đưa quà cáp để công chức giải quyết sự việc theo ý của thân chủ. Công chức sẽ viện dẫn nhiều lý do như phải làm ngoài giờ, trường hợp ngoại lệ để hợp thức hóa thu nhập đối tác đem lại. Một loại tham nhũng nữa cũng đang báo động trong quan hệ công tác nội bộ cơ quan hành chính ở Sơn La là "mua quan, bán chức", là tạo dựng mối quan hệ cánh hẩu giữa cấp trên với cấp dưới trong công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ lãnh đạo cấp trên sẽ ưu tiên bổ nhiệm một chức danh lãnh đạo trong cơ quan cho ai có quan hệ cá nhân tốt với họ chứ không phải có năng lực và phù hợp nhất với công việc cần giao. 2.2. HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH TẠI SƠN LA 2.2.1. Chủ trương của tỉnh Để việc triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng nghiêm túc có hiệu quả, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các chỉ thị, nghị quyết, quyết định để triển khai, thực hiện, cụ thể: - Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 25/3/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La về việc ban hành chương trình hành động thực hiện Quyết định số 25/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; - Quyết

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La.pdf
Tài liệu liên quan