Tài liệu Luận văn Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La: LUẬN VĂN:
Phòng, chống tham nhũng trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp
tỉnh ở Sơn La
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính
trị và ngoại giao,… được nhân dân tin tưởng, hưởng ứng. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang
phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức, một trong những nguy cơ cản trở công cuộc
đổi mới đất nước chính là tệ tham nhũng. Tham nhũng cùng với lãng phí đã gây thiệt hại
lớn về tài sản của Nhà nước, làm băng hoại đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên;
xâm hại trực tiếp công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, là nguy
cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta.
Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu quả nguy hại của tham nhũng.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm ngăn ngừa, phát
hiện và xử lý các hành vi tham nhũng và đã ...
107 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phòng, chống tham nhũng trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp
tỉnh ở Sơn La
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính
trị và ngoại giao,… được nhân dân tin tưởng, hưởng ứng. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang
phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức, một trong những nguy cơ cản trở công cuộc
đổi mới đất nước chính là tệ tham nhũng. Tham nhũng cùng với lãng phí đã gây thiệt hại
lớn về tài sản của Nhà nước, làm băng hoại đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên;
xâm hại trực tiếp công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, là nguy
cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta.
Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu quả nguy hại của tham nhũng.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm ngăn ngừa, phát
hiện và xử lý các hành vi tham nhũng và đã đạt được kết quả bước đầu. Tuy nhiên nạn
tham nhũng vẫn diễn ra hết sức phổ biến, ngày càng tinh vi, xảo quyệt ở nhiều cấp, nhiều
ngành. Thậm chí, tham nhũng đã ăn sâu vào tư duy và tác phong làm việc hàng ngày của
một số cán bộ, công chức, làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, gây bất bình
trong nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
nêu rõ: Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình
trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng; kỷ cương phép
nước trong nhiều việc, nhiều lúc chưa nghiêm… Đã đến lúc chúng ta phải nhận thức đầy
đủ tính chất, mức độ, những tác hại và biến quyết tâm chính trị thành những biện pháp cụ
thể để ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng.
Sơn La cũng chung tình trạng như cả nước. Hơn nữa, là một tỉnh miền núi khu
vực Tây Bắc Bộ, kinh tế chưa phát triển, ngân sách và đầu tư còn dựa chủ yếu vào chi viện
từ Trung ương thì tham nhũng càng đáng bị lên án. Trong những năm gần đây tham nhũng
ở Sơn La có những biểu hiện phức tạp, nhất là tham nhũng trong các cơ quan hành chính
của Nhà nước. Vì thế, nghiên cứu đề tài "Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La" mang tính cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phòng chống tham nhũng hiện nay
được đông đảo mọi người quan tâm vì nó mang tính thời sự và thực tiễn.
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về tham nhũng của nhiều học giả,
đặc biệt là các công trình nghiên cứu của tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency
International), Ngân hàng thế giới (World Bank). Ở Việt Nam đã nhiều học giả, nhà chính
trị quan tâm đến vấn đề nhạy cảm này và đã có nhiều bài viết trên các phương tiện thông
tin đại chúng như:
- "Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của Singapo", của Trần Anh Tuấn, Ban Nội
chính Trung ương, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007.
- "Tham nhũng cũng có sứ mệnh" của Nguyễn Sơn, Tuổi trẻ Online, 18/8/2006.
- "Truy tố 665 đảng viên vi phạm pháp luật", Thông tấn xã Việt Nam 8/2007.
- "Nguyên tắc xử lý tham nhũng", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày
21/8/2007, cập nhật lúc 14h56’.
- "Công chúc và tham nhũng - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới", của T.
Ngoai, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21/8/2007, cập nhật lúc 17h38’.
- "Chống tham nhũng xét từ góc độ quyền lực", của Vũ Quốc Tuấn, Báo Doanh
nhân Sài Gòn cuối tuần, ngày 28/9/2006.
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng,
chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra nhà nước theo Luật Phòng, chống tham
nhũng" do Tiến sĩ Trần Ngọc Liêm, Phó vụ trưởng Vụ IV, Thanh tra Chính phủ làm Chủ
nhiệm đề tài, nghiệm thu tháng 7/2007.
Trong các cơ sở đào tạo cũng đã có một số luận văn nghiên cứu về tham nhũng,
lãng phí như luận văn: "Một số giải pháp chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng
cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh ĐakLak", của Phạm Xuân
Lĩnh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006; luận văn: "Giải pháp phòng, chống
thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Thanh
Hóa", của Lê Văn Tuấn, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2008...
Riêng đề tài phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp
tỉnh tại Sơn La chưa được nghiên cứu một cách bài bản và hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
hiện tượng tham nhũng trong xã hội hiện nay. Đánh giá thực trạng phòng, chống tham
nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La từ đó đề xuất các giải pháp
thiết thực, hiệu quả, khả thi nhằm góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng
nói chung và trong cơ quan hành chính nhà nước tại Sơn La nói riêng.
Với mục đích trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu cách nhìn nhận của thế giới, quan điểm của Đảng ta về vấn đề tham
nhũng hiện nay. Quan niệm của C. Mác, V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tham ô lãng
phí, nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh chống tham nhũng ở một số nước, đặc biệt là bài
học kinh nghiệm của Singapo.
- Tập trung làm rõ những đặc điểm, tình hình, mức độ nghiêm trọng của tham
nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước hiện nay qua thực tiễn Sơn La.
- Nghiên cứu tính hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh xử lý một số vụ
tham nhũng của công chức trong những năm gần đây ở Sơn La.
- Đưa ra các giải pháp phòng ngừa đấu tranh chống tham nhũng hiện nay: trên cơ
sở định hướng chung của Nhà nước, đề tài kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác phòng chống tham nhũng tại Sơn La.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Các hình thức thủ đoạn tham nhũng; Công tác phòng,
chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La.
Phạm vi nghiên cứu: Các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La.
Đề tài nghiên cứu một số biện pháp phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành
chính nhà nước, thực trạng hiện nay về các hành vi tham nhũng phổ biến của cán bộ công
chức trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Sơn La.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2000 đến nay (tài liệu chủ yếu từ khi Luật Phòng,
chống tham nhũng có hiệu lực thi hành 01/6/2006).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tường Hồ Chí Minh; các phương pháp khoa học chủ yếu được vận dụng trong luận văn
gồm: Phương pháp phân tích tư duy, hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp chuyên gia.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong
các cơ quan hành chính nhà nước.
Chứng minh hiện tượng tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Sơn
La có diễn biến phức tạp do các nguyên nhân:
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện tốt công tác
phòng chống tham nhũng trong thời gian tới ở Sơn La.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Quan niệm về tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước
1.1.1.1. Quan niệm về tham nhũng
Tham nhũng là hiện tượng xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người được nhiều học
giả và các tổ chức quan tâm nghiên cứu.
Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguồn gốc sâu xa của tệ
tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: quyền lực công và lòng tham của cá nhân. C.
Mác cho rằng, để tồn tại và phát triển trong xã hội còn phân chia giai cấp xuất hiện những
cơ quan quyền lực có chức năng điều hòa những lợi ích của những nhóm người khác nhau,
thậm chí đối lập nhau để hình thành một trạng thái cân bằng chung. Tuy nhiên, quyền lực
của những cơ quan đó lại chỉ có thể hiện diện và được thực thi thông qua hành động của
những con người cụ thể nắm quyền lực trong các cơ quan đó. Trong khi đó mỗi con người
đều hành động dưới sự hướng dẫn của nhu cầu cá nhân mà nhu cầu cá nhân lại luôn lớn
hơn khả năng có thể tự thỏa mãn của họ. Vì thế, một số người nắm quyền lực nảy sinh
động cơ tận dụng đến mức cao nhất quyền lực do địa vị xã hội, chức vụ nhà nước giao để
thỏa mãn một cách không chính đáng nhu cầu của họ. C. Mác nói rằng: "Lịch sử loài
người là lịch sử của những con người hành động nhằm theo đuổi những mục đích của
mình, nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình". Sự lạm dụng quyền lực công cho để thỏa
mãn nhu cầu cá nhân là tham nhũng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần đề cập đến hiện tượng tham nhũng. Người
cho rằng, tham ô "là lấy của công làm của tư. Là gian lận tham lam", "tham ô là trộm
cướp". Theo Hồ Chí Minh, đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: ăn cắp của công làm
của tư; đục khoét của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của
chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô.
Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là "ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế" [18, tr.
488].
Điểm đặc trưng của hành vi tham ô theo Hồ Chủ tịch chính là việc biến "của công"
thành "của tư". "Của công" chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ
mục đích chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. "Của tư" không chỉ là tài sản
riêng của một cán bộ, công chức mà còn là tài sản chung của bộ phận nhưng không dành
phục vụ mục đích chung, chỉ dành làm của riêng, quỹ riêng cho một tập thể, một địa
phương.
Sâu sắc hơn nữa, Hồ Chủ tịch còn chỉ ra hình thức tham ô tinh vi, rất khó nhận
thấy trong cuộc sống đời thường, đó là "tham ô gián tiếp", tức hiện tượng cán bộ Chính
phủ, dù được nhân dân trả lương hàng tháng đều đặn, nhưng lại kém lòng trách nhiệm,
đứng núi này, trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân
[18, tr. 436].
Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham
nhũng thì "Tham nhũng - đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng" bao gồm
những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, trộm cắp tài sản của Nhà nước,
hoặc lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng thông qua việc sử dụng không chính thức địa
vị chính thức của mình, hoặc tạo ra xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với
xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi. Với cách xem xét như vậy, quan niệm của
Liên hợp quốc về tham nhũng đã vượt ra ngoài giới hạn của tệ hối lộ.
Ban Tổng thư ký Liên hợp quốc, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước
khác nhau, cho rằng, tham nhũng bao hàm trong các hành vi sau:
- Hành vi ăn cắp, tham ô và chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà chủ thể của hành
vi đó là những người có chức có quyền;
- Lạm dụng chức quyền để trục lợi bất hợp pháp thông qua việc sử dụng các qui
chế chính thức một cách không chính thức;
- Mâu thuẫn không cân đối giữa lợi ích chính đáng do thực hiện nghĩa vụ xã hội
với những món lợi tư riêng.
Theo quan niệm này, tham nhũng xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như
các cuộc vận động chính trị không minh bạch, đối xử thiên vị nhằm vụ lợi, chế độ bảo hộ
mậu dịch có lợi cho nhóm ủng hộ, bố trí lãnh tụ chính trị và quan chức nhà nước vào các
hãng tư nhân hoặc liên doanh, đầu tư cơ sở hạ tầng bằng ngân sách nhà nước hay bố trí
vốn vay của các tổ chức quốc tế có lợi cho nhóm hối lộ nhà nước, biến tấu tài sản của Nhà
nước thành tài sản của công ty cổ phần, làm tiền trên cơ sở nắm được thông tin về sự kết
cấu của các tổ chức, đơn vị phạm pháp, lợi dụng việc nắm rõ thông tin về chính sách của
Nhà nước để đầu cơ trục lợi…
Theo định nghĩa của Ban Nghiên cứu thuộc Hội đồng Châu Âu thì tham nhũng
bao gồm hành vi hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác của những người được giao thực
hiện một trách nhiệm nào đó trong khu vực nhà nước hoặc khu vực tư nhân, nhưng đã vi
phạm trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi ích bất hợp pháp nào đó cho cá nhân
hoặc cho người khác.
Trong cuốn "Poliical Corrupion: A han Book" (Oxford,1989) Giáo sư J. Nai quan
niệm rằng: Tham nhũng bao hàm trong nội dung của nó cả tệ nạn hối lộ (nấp dưới hình
thức "thù lao" để quyến rũ những người đang bị mắc nợ), tệ gia đình chủ nghĩa (sự ban ơn,
bao che trên cơ sở những quan hệ cá nhân) và sự chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản công
cộng để biến tài sản đó thành của riêng cá nhân.
Ở nước ta hiện nay thuật ngữ tham nhũng được sử dụng phổ biến trong đời sống
hàng ngày, nhưng vẫn chưa đạt tới sự thống nhất về quan niệm. Từ điển Tiếng Việt ghi
rằng, "tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của" [37]. Theo
quan niệm này tham nhũng gồm hai hành vi phối hợp với nhau: nhũng nhiễu của người có
quyền hành và thu lợi bất chính từ lạm dụng quyền hành đó.
Theo Luật Phòng, chống tham nhũng, "tham nhũng là hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì mục đích vụ lợi" [26, Điều 1 khoản 2].
Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người trong khu vực nhà nước (các cơ
quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà
nước).
Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau như vậy nhưng nhìn chung, có hai loại quan
niệm khá phổ biến về tham nhũng.
Quan niệm thứ nhất hiểu tham nhũng theo nghĩa rộng bao gồm mọi hành vi của
bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ thể của hành vi tham nhũng
có thể là cán bộ, công chức nhà nước, viên chức hoặc những người làm việc trong các tổ
chức chính trị, tổ chức xã hội và khu vực tư nhân.
Quan niệm thứ hai hiểu tham nhũng theo nghĩa hẹp, là hành vi sử dụng quyền lực
được Nhà nước hoặc tổ chức chính trị hưởng lương ngân sách nhà nước giao phó không
theo đúng mục đích đã đề ra, không vì lợi ích công mà vì lợi ích cá nhân hoặc nhóm cá
nhân có quan hệ lợi ích với nhau.
Việc xác định rõ ràng và có quan niệm đúng đắn về tham nhũng là một trong
những yếu tố quan trọng bảo đảm tính hiệu quả trong đấu tranh phòng và chống lại tệ nạn
này. Trong điều kiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta còn nhiều cam go, phức
tạp thì sự thống nhất trong quan niệm về tham nhũng là rất cần thiết.
Tiếp thu những điểm hợp lý trong những quan điểm trên, chúng tôi cho rằng, tham
nhũng hiện nay không chỉ trong phạm vi quyền lực công mà còn mở rộng đến khu vực tư
và về cơ bản một hành vi được coi là tham nhũng là hành vi sử dụng quyền lực của tổ
chức giao phó nhưng chủ thể được giao nhiệm vụ sử dụng nó như một công cụ để trục lợi
cho mình và cho người khác.
1.1.2. Một số hình thức tham nhũng chủ yếu trong cơ quan hành chính nhà
nước
1.1.2.1. Những hình thức tham nhũng trực tiếp trong cơ quan hành chính nhà
nước
Tham nhũng trực tiếp là loại tham nhũng thể hiện dưới hình thức công chức nhà
nước đẩy nhanh việc thực hiện một quyền cụ thể nhất định hoặc để giúp công dân hoặc tổ
chức nào đó đạt được một quyền xác định mà vốn dĩ họ có quyền được hưởng nhằm thu
lợi từ những người thụ hưởng quyền đó. Hình thức tham nhũng này thể hiện dưới nhiều
hình thái có sự biến tấu khác nhau.
- Công chức nhà nước nhận tiền để giúp công dân nào đó có được các loại giấy tờ
chứng nhận của Nhà nước mà anh ta có quyền được cấp, nghĩa là công dân đó có đủ điều
kiện để được cấp giấy chứng nhận, nhanh hơn thay vì để công dân đó chờ đợi, xếp hàng
theo đúng quy định. Đây là loại tham nhũng trực tiếp phổ biến và ít nguy hiểm nhất trong
các cơ quan hành chính nhà nước.
- Công chức phụ trách thụ lý giải quyết thủ tục cấp các loại giấy phép (xây dựng, hoàn
công, đăng ký kinh doanh, nhất là các ngành nghề nhạy cảm, v.v...) cố ý gây khó dễ, tạo ra
các khó khăn giả tạo như bắt "khổ chủ" đi lại xác nhận và chỉnh sửa hồ sơ nhiều lần, kéo
dài thời gian trả hồ sơ với lý do không chính đáng, đưa qua nhiều bộ phận, các bộ phận xử
lý tắc trách chồng chéo kéo dài thời gian gây phiền hà cho "khổ chủ". Tất cả những hành
vi đó là nhằm buộc "khổ chủ" phải "biết điều", tức phải kèm theo một bao thư (có tiền) để
"lót tay" cán bộ công chức khi nộp hồ sơ. Khi đó hồ sơ sẽ được giải quyết nhanh chóng tùy
theo số tiền trong bao thư nhiều hay ít. Đây là loại tham nhũng điển hình và khá lộ liễu
trong các cơ quan hành chính ở Việt Nam hiện nay. Khi xếp vào loại tham nhũng trực tiếp
người ta thường gọi loại tham nhũng này là nhũng nhiễu, gây phiến hà để vòi tiền. Cách
thức thực hiện tham nhũng là tạo ra các tiền lệ, các loại lệ thỏa thuận ngầm, không công
khai về "phí dịch vụ nhanh" mà cá nhân và pháp nhân khi đến cơ quan hành chính để giao
dịch phải tự hiểu, hoặc có "chân gỗ" hướng dẫn, chỉ bảo.
- Một loại tham nhũng phổ biến nữa trong cơ quan hành chính là thông qua thỏa
thuận giữa cá nhân hoặc pháp nhân với người trung gian thường gọi là "cò hành chính". Cá
nhân, pháp nhân phải chi một số tiền tùy theo thỏa thuận với "cò" để thực hiện các giao
dịch hành chính một cách thuận lợi. Đây là loại tham nhũng trực tiếp nhưng có sự tham gia
của người trung gian. Cũng có trường hợp cán bộ công chức trực tiếp thỏa thuận ngoài giờ
làm việc để kiếm thêm thu nhập mà lẽ ra trách nhiệm này anh ta phải thực hiện trong giờ
hành chính.
- Đáng báo động trong cơ quan hành chính hiện nay và có thể đưa vào tham nhũng
trực tiếp đó là tham nhũng trong việc "mua quan, bán chức", là mối quan hệ giữa cấp trên
với cấp dưới trong công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ lãnh đạo cấp trên sẽ thông tin lấp lửng
cho một vài cấp dưới biết, rằng hiện nay đang có nhu cầu bổ nhiệm một chức danh lãnh
đạo trong cơ quan, họ gợi ý cho một vài công chức biết và nói "tôi thấy cậu có thể đảm
đương được chức danh đó... hãy cố gắng lên nhé...". Thế là các công chức hám danh được
gợi ý đua nhau "chạy chọt" biếu "sếp" tiền, quà, "sếp" chỉ việc thu bổng lộc, ai nhiều hơn
sẽ là người chiến thắng. Đây cũng là loại tham nhũng trực tiếp nguy hiểm, là nguyên nhân
gây nên tình trạng thoái hóa cán bộ.
- Nhưng loại tham nhũng trực tiếp nguy hiểm nhất là vi phạm các quy định của
pháp luật, hoặc việc thực thi pháp luật mang nặng tính thiên vị một cách có tổ chức. Đây là
loại tham nhũng được nói nhiều nhất trong cơ quan hành chính. Loại tham nhũng này đòi
hỏi có sự hợp tác giữa cấp trên và cấp dưới vì hành vi tham nhũng phải do nhiều do công
chức tham gia mới thực hiện được (đòi hối lộ để vi phạm các quy định). Hậu quả trực tiếp
nghiêm trọng nhất của loại tham nhũng này là các luật, pháp lệnh, nghị định và chính sách
của nhà nước không được thực hiện một cách nghiêm túc.
Một cách tiếp cận mang tính biếm họa khác đối với vấn đề này là ở góc độ luật
pháp, chế độ sai chậm được sửa chữa nên đối với người dân và xã hội, tốt hơn là những
chính sách đó không nên thực hiện, vì thế tham nhũng để thực hiện sai lại được chấp nhận
khiến tệ nạn tham nhũng tràn lan mà không bị phê phán. Thừa nhận loại tham nhũng này
sẽ làm đảo lộn trật tự kỷ cương, pháp luật bị xem thường hoặc mất tác dụng.
Nói tóm lại, tham nhũng trực tiếp là hành vi công chức nhận tiền của người khác
để hoàn thành công việc thuộc trách nhiệm phải làm của họ, bất kể đó là việc làm sai quy
định hay làm công việc đó nhanh hơn thường lệ. Mức độ thường xuyên và phổ biến của
loại tham nhũng này là một bằng chứng chứng tỏ năng lực và mức độ hiệu quả trong cơ
quan hành chính của nhà nước thấp. Tham nhũng trực tiếp chỉ ra năng lực yếu kém hoặc
chất lượng phục vụ tồi trong cơ quan hành chính. Tệ hại hơn, công chức có thể tạo ra sự
khan hiếm dịch vụ hành chính giả tạo nhằm tăng "giá" dịch vụ thu lời và phân phối lại
bổng lộc thông qua đường dây của họ. Nói một cách khác, tham nhũng trực tiếp là loại
tham nhũng thông qua thỏa thuận (có thể bằng lời nói và gợi ý ngầm bằng hành động) để
trục lợi trong các giao dịch giữa công dân, pháp nhân với cơ quan công quyền.
1.1.2.2. Tham nhũng gián tiếp trong cơ quan hành chính nhà nước
Tham nhũng gián tiếp là loại tham nhũng không phổ biến như tham nhũng trực
tiếp nhưng gây thiệt hại rất lớn về công sản, tài nguyên, giá trị tinh thần, niềm tin của công
chúng vào Nhà nước, thậm chí có thể làm lung lay cả thể chế và chế độ chính trị. Tham
nhũng gián tiếp thường biểu hiện dưới các hình thức sau:
- "Bẻ cong pháp luật". Đây là hành vi cố tình thay đổi các quy định của pháp luật
có lợi của những kẻ tham nhũng. Ví dụ, một số công chức cấp cao có thể bằng các quy
định của pháp luật để ưu tiên phân cấp, xây dựng quy chế và quy hoạch cho một hòn đảo
hoang vu, một vùng đất khô cằn thành một quần thể du lịch, một nhà máy, hay một khu
công nghiệp sầm uất nhằm nâng giá trị đất đai lên gấp hàng trăm lần, qua đó nâng giá tài
sản của mình bằng cách tăng giá các lô đất đã mua của họ trong khu vực đó.
- Tác động đến nội dung chính sách nhà nước có lợi cho một số người nào đó. Ví
dụ, các chính khách nhận tiền của nhóm đầu cơ chính trị hoặc nhóm doanh nhân rất có
thế lực để hướng đại biểu Quốc hội thông qua các điều luật có lợi cho họ. Nói cách khác,
các chính khách này nhận tiền để lèo lái cơ quan nhà nước ban hành các chính sách phục
vụ một thiểu số những kẻ có thế lực và tiền chứ không phải phục vụ lợi ích của nhân
dân nói chung.
Việc ráo riết vận động hành lang Quốc hội là một hoạt động được coi là hợp pháp
và chính đáng ở nhiều nước. Tuy nhiên, nếu lợi dụng sự vận động đó để có được các chính
sách gây thiệt hại cho lợi ích xã hội, nhất là người được vận động lại nhận tiền, quà từ
người đi vận động thì đó là hành vi tham nhũng, hành vi xấu cần phải phòng ngừa.
Cả hai loại tham nhũng trực tiếp và gián tiếp trong cơ quan hành chính nhà nước ở
nhiều nước rất nghiêm trọng khiến công chúng phẫn nộ. Để xây dựng một nhà nước tốt,
trong sạch, chiếm được lòng tin của nhân dân, cần phải chống tham nhũng với quyết tâm
cao.
1.1.3. Nguyên nhân tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước
Dù có sự khác nhau trong cách lý giải về nguồn gốc tham nhũng, nhưng đa số các
nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng, tham nhũng là một hiện tượng có tính chất phổ biến
của mọi nhà nước, dưới mọi chế độ khác nhau, là căn bệnh bẩm sinh của quyền lực. Tham
nhũng là nơi gặp gỡ của lòng tham và quyền lực công, khi quyền lực công không được
kiểm soát chặt chẽ. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được một số nguyên nhân dẫn đến
tham nhũng trên khía cạnh sau:
* Nguyên nhân xuất phát từ mức sống thấp của công chức
Thực tế cho thấy một nghịch lý, ở những nước kém phát triển, mức sống của dân
cư thấp, thì nạn tham nhũng lại có biểu hiện trầm trọng hơn ở các nước phát triển. Lý giải
điều này nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, mức lương thấp là một trong những nguyên nhân
trực tiếp khiến công chức tham nhũng. Bởi vì, xét cho cùng công chức cũng là con người,
cũng có nhu cầu cá nhân, gia đình và các mối quan hệ xã hội khác. Làm việc trong bộ máy
hành chính của Nhà nước cũng là hành nghề và do đó cần có thu nhập. Khi trình độ phát
triển kinh tế thấp, ngân sách nhà nước quá eo hẹp, Nhà nước chỉ có thể trả mức lương cho
công chức không những thấp hơn khu vực tư nhân, mà còn thấp hơn mức cho phép người
công chức có cuộc sống ở mức trung bình cao của xã hội thì công chức có động cơ lợi
dụng chức quyền để tìm kiếm thêm thu nhập bổ sung.
Nếu đi cùng với mức lương thấp là kỷ luật công chức lỏng lẻo thì nạn tham nhũng
càng có cơ hội phát triển. Ngay cả khi mức trừng phạt công chức tham nhũng cao, vì cuộc
sống hàng ngày, nhất là các công chức gặp hoàn cảnh khó khăn, cần tiền, họ có thể đánh
đổi công danh, sự nghiệp lấy đồng tiền cung cấp cho gia đình.
Hơn nữa, với mức lương thấp, người công chức có thể còn coi việc sử dụng quyền
lực để có thu nhập thêm là một "bổng lộc" cho cương vị của họ.
Khi mức lương của công chức cao và ổn định hơn khu vực tư nhân và công chức
có cuộc sống khá giả nhờ đồng lương đó, đồng thời họ lại có địa vị xã hội do công việc
đem lại thì họ sẽ ngần ngại hơn khi tham nhũng vì sợ bị mất việc, mất địa vị xã hội.
* Trình độ quản lý thấp và kỷ luật lỏng lẻo của bộ máy quản lý nhà nước
Ở các nước có chế độ quản lý thấp, pháp luật chưa hoàn thiện thì công chức tham
nhũng ít có khả năng bị phát hiện và ít bị trừng phạt nên tham nhũng có cơ hội tồn tại và
phát triển. Tình trạng các cơ quan nhà nước buông lỏng kiểm tra, quan liêu, bất lực trong
xử lý sai sót của công chức sẽ dẫn đến tình trạng tham nhũng trở thành "lệ", mọi người
bàng quan với nạn tham nhũng, do đó nhóm người nắm quyền lực sẽ lợi dụng công vụ để
mưu cầu lợi ích cho riêng họ. Thậm chí, nếu Nhà nước bất lực trong việc thực thi pháp
luật, nhất là pháp luật trừng trị "quan tham" thì các nhóm lợi ích này sẽ thiết lập mạng lưới
thực hiện hành vi tham nhũng một cách hệ thống và có tổ chức nhằm lũng đoạn xã hội.
Thông qua sự dọa nạt đi đôi với hối lộ nhóm lợi ích này sẽ bao vây, phong tỏa công chức,
buộc công chức phải làm việc cho họ.
Ngoài ra, nếu kỷ luật trong cơ quan nhà nước lỏng lẻo, công chức, do không sợ bị
trừng phạt, dễ đồng lòng cùng kẻ hối lộ khiến tham nhũng nảy sinh.
* Quá trình chuyển đổi cơ chế, sự tồn tại và đan xen không rõ ràng giữa cái mới
và cái cũ cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tham nhũng
Quá trình chuyển đổi cơ chế sẽ dẫn đến sự mất dần đi của cái cũ và sự lớn dần lên
của cái mới. Tuy nhiên, khi các nhân tố mới còn yếu ớt, nhân tố cũ còn mạnh thì cuộc đấu
tranh cũ, mới sẽ rất khó khăn. Các công chức ủng hộ cái cũ sẽ nhân cơ hội mà thu hoạch
và vơ vét. Công chức ủng hộ cái mới còn chưa tạo dựng được cơ sở để nuôi quân mình nên
dễ làm cho những người ủng hộ hoang mang. Tình trạng "tranh tối tranh sáng" khiến cho
nhiều công chức tham lam, lợi dụng sự chưa rõ ràng của pháp luật để nghiêng về quyền lợi
của cá nhân, phường, hội và làm nảy sinh hành vi tham nhũng.
* Nguyên nhân xuất phát từ sức cám dỗ của các cơ hội có thể tham nhũng trong
nền kinh tế thị trường hiện đại
Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích cá nhân được coi trọng và động lực tìm kiếm
lợi nhuận tối đa của giới kinh doanh được ủng hộ. Trong bối cảnh đó, một số nhà kinh
doanh, vì muốn được Nhà nước trao cho cơ hội tốt hơn đối thủ cạnh tranh nên tìm mọi
cách mua chuộc, hối lộ công chức.
Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước tham gia sau vào điều
tiết, quản lý nền kinh tế. Thậm chí Nhà nước còn xuất hiện với tư cách người mua lớn,
người bán lớn. Nếu có được mối quan hệ thân thiện với các cơ quan nhà nước, các doanh
nghiệp sẽ có được lợi thế trong vận động chính sách cũng như trong chiếm lĩnh thị trường
nhà nước. Đây là cơ hội để công chức có thể sử dụng quyền lực ban hành chính sách hay
quyết định mua bán có lợi hay không có lợi cho một nhóm lợi ích nào đó. Để đảm bảo
chính sách của Nhà nước luôn có lợi cho mình, doanh nghiệp dùng tiền vận động hành
lang, công chức lợi dụng tác động của chính sách nghiêng về đâu để nhận tiền của doanh
nghiệp...
Ngoài ra, môi trường cạnh tranh khốc liệt, sự ngự trị của đồng tiền có thể làm cho
người sản xuất kinh doanh lóa mắt đi đến chỗ coi nhẹ các tiêu chuẩn đạo đức, tìm mọi
cách để tối đa hóa lợi nhuận do đó gia tăng áp lực hối lộ đối với công chức nhà nước. Sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, các giá trị xã hội bị đảo lộn, mọi người đều bị sức
ép của việc kiếm thật nhiều tiền, tâm lý mọi việc đều có thể mua bán.... cũng dễ đẩy công
chức vào con đường tham nhũng để có cuộc sống vật chất tốt hơn.
* Nguyên nhân do ảnh hưởng của tập quán văn hóa
Trong tâm lý xã hội của người Á Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng, có
rất nhiều khía cạnh khiến cho tệ tham nhũng mà biểu hiện tập trung nhất là nạn quà cáp hối
lộ có cơ sở tồn tại và phát triển. Chuyện biếu xén quà cáp khi có sự kiện quan trọng nào đó
xảy ra trọng cuộc sống của công chức như đám cưới, đám ma, ốm đau, làm nhà...được coi
là một nét văn hoá trong tình cảm của người Việt Nam có thể vượt giới hạn để biến thành
hối lộ. Trong dân gian cũng như trong hoạt động quan trường thì quà cáp cho công chức
dường như là điều được dễ dàng chấp nhận. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy có đến
41% số người dân được hỏi cho rằng việc đưa quà cáp chỉ là biểu hiện của sự biết ơn người
đã giúp đỡ mình giải quyết công việc chứ không nhằm bẻ cong pháp luật. Tuy nhiên, trong
thực tế, vì nhận biết được tình cảm của người đưa quà, nên theo đúng tập quán, công chức
phải có nghĩa vụ trả ơn. Nhiều khi sự trả ơn đó lại là một hành vi không đúng quy định, khi
đó quà và hành vi trả ơn của công chức có thể trở thành tham nhũng, hối lộ.
Trong tâm lý chung của người dân Việt Nam và Trung Quốc, việc học hành được
đồng nhất với điều kiện để làm quan. Vì học hành là quá trình gian khổ và tốn phí chưa
được bù đắp về phía người học, nên khi đỗ đạt được làm quan, công chức phải bù đắp chi
phí học hành bằng bổng lộc. Vì thế, tâm lý coi làm công chức phải có bổng, lộc ngoài
lương, tức thu nhập ngoài quy định, là bình thường. Đây cũng là cơ hội để hành vi nhận
bổng, lộc biến thành hành vi tham nhũng.
* Nguyên nhân từ cơ chế kiểm tra, giám sát của Nhà nước, của xã hội đối với công
chức
Về mặt lý thuyết quản lý, để tạo môi trường giảm cơ hội tham nhũng và gây sức ép
buộc công chức phải tự kiểm soát mình nhằm chống lại sự cám dỗ của tiền bạc, phải thiết lập
và vận hành hiệu quả hệ thống kiểm tra, giám sát công chức. Trong thực tế, kiểm tra, giám sát
công chức là việc làm phức tạp, nhiều cơ quan nhà nước có xu hướng buông lỏng. Khi không
bị giám sát, kiểm tra, nhắc nhở và xử phạt, công chức dễ sa ngã, dễ bị mua chuộc để đi vào
con đường tham nhũng. Hơn nữa, khi đã trót tham nhũng một lần, công chức có thể bị áp lực của
người đi hối lộ mà ngày càng dấn sâu thêm vào con đường tham nhũng.
Ở các nước mà hệ thống chính trị chậm được đổi mới, hoạt động kiểm tra, giám
sát của bộ máy nhà nước kém hiệu quả thì công chức khó bị kỷ luật, khó bị bãi miễn nên
dễ dàng đi vào tham nhũng hơn. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ máy kiểm tra nhà
nước tốt. Khi đó mọi lỗi lầm của công chức đều bị trừng phạt nên công chức sẽ tự kiềm
chế hơn trước các cơ hội tham nhũng.
* Nguyên nhân từ sự thiếu rèn luyện và trau dồi đạo đức của công chức
Phẩm chất đạo đức của công chức là biển chỉ đường giúp cho công chức không
đi chệch vào con đường tham nhũng. Tuy nhiên, nếu môi trường công tác trong cơ quan
nhà nước và môi trường đạo đức xã hội chung không coi trọng việc tuân thủ các nguyên
tắc đạo đức công chức thì người công chức sẽ sao nhãng việc rèn luyện và trau dồi đạo
đức làm xuất hiện các công chức thoái hóa. Đối với những công chức thoái hóa, tiêu
chuẩn đạo đức bị đảo ngược, họ coi quyền lực của Nhà nước là quyền lực của riêng họ,
coi mình đứng trên người khác, tự cho phép hành động theo suy nghĩ và nhu cầu của họ.
Hành vi của những người này gây nên tình trạng tham nhũng cố ý, rất nguy hiểm cho
Nhà nước và xã hội. Đồng thời với việc xuất hiện công chức cố ý tham nhũng, cũng xuất
hiện những kẻ a dua, vụ lợi ủng hộ, che giấucho công chức tham nhũng để cùng nhau
chia lợi. Đây là nguyên nhân không phổ biến, nhưng thường là nguyên nhân chính của
các vụ tham nhũng nghiêm trọng.
* Nguyên nhân từ công tác quản lý công chức
Công chức là một nghề đặc biệt, ở đó người công chức không hành động nhân
danh họ mà nhân danh Nhà nước, vì thế cần phải có chế độ chính sách và tiêu chuẩn hành
nghề riêng cho họ.
Trước hết, công tác tuyển chọn và đào tạo ban đầu phải được chú trọng để đảm
bảo có được các công chức dự bị đáp ứng tiêu chuẩn đạo đức, kỹ năng và kỷ luật làm việc.
Nếu công việc này bị xem nhẹ sẽ đưa vào cơ quan nhà nước các công chức có động cơ
tham nhũng ngay từ đầu thì việc sử dụng và quản lý họ sẽ vô cùng khó khăn.
Chính sách cán bộ đối với công chức phải được thiết kế sao cho công chức an tâm
và tận tụy, trung thành với nhà nước. Nếu không công chức sẽ tìm kiếm cơ hội lợi dụng
chức quyền vụ lợi cho họ.
Công tác quản lý, giáo dục, kiểm tra công chức phải được tiến hành thường xuyên
để tạo rào cản đối với hành vi tham nhũng. Nếu buông lỏng việc này tệ tham nhũng sẽ tự
do phát triển khi có cơ hội.
Việc sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ phải chú ý đến loại bỏ cơ hội tham
nhũng, nếu không sẽ lâm vào tình trạng công chức không tự vệ được trước sức tấn công
của tệ tham nhũng...
* Nguyên nhân từ bộ máy hành chính nhà nước
Trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước, quyền hạn được phân cấp tương xứng
với trách nhiệm thì sẽ ít cơ hội cho công chức tham nhũng vì khi sai sót xảy ra có thể truy
cứu người chịu trách nhiệm do đó công chức sẽ ít động cơ tham nhũng hơn. Tuy nhiên nếu
trách nhiệm không được phân định rõ ràng, quyền lực được giao một cách không hợp lý sẽ
dẫn đến tình trạng công chức làm sai không phải chịu trách nhiệm hoặc trốn được trách
nhiệm của mình. Khi đó tệ tham nhũng có điều kiện phát triển.
Tham nhũng dễ dàng nảy sinh trong lĩnh vực phân cấp quản lý giữa trung ương và
địa phương, giữa cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, ở các cơ quan nhà nước còn duy trì tình trạng thủ tục hành chính phức
tạp, khó tiếp cận thì công chức càng có cơ hội để vòi vĩnh công dân khi thực thi trách
nhiệm của họ.
* Nguyên nhân từ sự kiểm tra, giám sát của xã hội đối với công chức
Trong các xã hội thiếu dân chủ, công chức không phải thực thi trách nhiệm công
khai, minh bạch và giải trình trước công dân sẽ có môi trường an toàn khi tham nhũng vì
hành vi tham nhũng của họ khó được phát hiện. Việc kiểm soát và minh bạch hóa thu nhập
và tài sản của công chức nếu thiếu cơ chế thực hiện hiệu quả thì không hỗ trợ đủ mức cho
việc xử phạt công chức tham nhũng do đó không đủ mạnh để ngăn chặn tệ tham nhũng trong
công chức.
Ngoài ra, tình trạng yếu kém của các cơ quan ngôn luận, điều tra, xử án, thái độ
thờ ơ của dân chúng cũng là những chất xúc tác làm cho tệ tham nhũng khó bị loại trừ.
* Nguyên nhân từ quyết tâm chính trị của cá nhân và cơ quan chống tham nhũng
Tham nhũng là căn bệnh của chính nhà nước và công chức. Khi trị bệnh, có thể
dẫn tới suy giảm uy tín nhà nước cũng như ảnh hưởng tới đời sống của công chức. Do đó
nhiều cơ quan nhà nước và công chức ngại đấu tranh chống tham nhũng. Vì thế, nếu cơ
quan chống tham nhũng không đủ quyền lực, quyết tâm chính trị của cơ quan chống tham
nhũng không đủ mức thì tệ tham nhũng không được chữa trị kịp thời, ngược lại càng có cơ
hội tác oai, tác quái hơn.
1.2. PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
1.2.1. Tác hại của tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước
Tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm tiềm ẩn ngay trong cơ thể của Nhà nước, nếu
không được chữa trị kịp thời thì có thể gây rất nhiều tác hại mà một số tác hại chính là:
* Tham nhũng làm sai lệch hoạt động của cơ quan nhà nước dẫn đến nhiều hệ lụy
không tốt
- Tham nhũng có thể làm cho công chức không thực hiện đúng nhiệm vụ do nhà
nước giao. Ví dụ, để làm lợi cho ai đó, công chức có thể vạch chính sách, kế hoạch, quy
hoạch không hiệu quả dẫn đến lợi ích chung của xã hội bị suy giảm. Hoặc tham nhũng làm
cho cán bộ thuế đối xử không công bằng đối với người nộp thuế, vừa làm mất uy tín của
Nhà nước, vừa làm thất thu ngân sách nhà nước…
- Tham nhũng dẫn tới hậu quả nghiêm trọng như nghiệm thu cầu, đường không
đúng chất lượng gây đổ vỡ, tai nạn; tham nhũng làm mất tài sản nhà nước vào tay tư nhân
khi giao đất giá rẻ…
- Tham nhũng gây ách tắc công việc. Ví dụ việc cố tình trì hoãn làm thủ tục thông
quan hàng hóa làm chậm quá trình xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp; chậm làm thủ
tục hành chính gây mất thời gian chờ đợi của dân cư hoặc buộc dân cư phải mất thêm chi
phí nếu như không muốn mất thời gian chờ đợi…
* Tham nhũng làm hủy hoại khả năng quản lý hiệu quả và uy tín của Nhà nước
Công chức tham nhũng là mắt xích hỏng trong dây chuyền quản lý nhà nước.
Không những công chức tham nhũng làm hỏng công việc của họ mà còn gây tác hại xấu
tới các khâu công việc khác do làm chậm tiến độ, tạo ra lỗ hổng trong dây chuyền hoặc
làm cho khâu quản lý phía sau trở nên phi hiệu quả hoặc thậm chí vô ích. Chính vì tính
chất liên hệ dây chuyền giữa cơ quan, công chức nhà nước tham nhũng với cơ quan nhà
nước và công chức không tham nhũng nên người dân khó phát hiện đích danh ai, cơ quan
nào tham nhũng. Hệ quả là họ gán tình trạng tham nhũng cho cả bộ máy nhà nước và mất
lòng tin vào tất cả các cơ quan đó.
Khi dân chúng mất lòng tin vào công chức và cơ quan nhà nước thì hiệu quả quản
lý nhà nước sẽ thấp, các xu hướng chống đối gia tăng trong khi chi phí quản lý không
giảm. Đây là tình trạng xấu, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng của Nhà nước.
* Tham nhũng bào mòn sự tín nhiệm của nhân dân đối với Nhà nước
Nếu tình trạng tham nhũng kéo dài, trầm trọng và không có hy vọng có thể được
giải quyết dứt điểm thì người dân buộc phải thay đổi hành vi của họ để thích nghi. Một bộ
phận dân cư có tiền sẽ gia nhập đội ngũ những người đưa hối lộ để cải thiện tình trạng
pháp lý của họ và do đó làm cho tình hình xấu thêm. Một bộ phận dân cư không có tiền sẽ
phải chịu tình trạng pháp lý tồi tệ hơn do đó dễ nảy sinh tư tưởng chống đối, bạo loạn,
thậm chí lật đổ.
Trong bối cảnh đó các hành vi đạo đức tốt không được ủng hộ và duy trì, hành vi
xấu ngự trị càng làm tăng bất bình đẳng xã hội và tâm lý bất bình. Chính vì thế niềm tin
của nhân dân vào Nhà nước bị bào mòn và họ có xu hướng ủng hộ bất kỳ sự thay đổi nào
đó miễn là thay đổi cung cách hành động của nhà nước hiện tại.
* Tham nhũng làm tha hóa đội ngũ công chức
Về bản chất, công chức là những người đại diện cho dân chúng hoặc được dân
chúng thuê để làm các công việc có lợi cho xã hội. Nhưng khi tham nhũng công chức đã
không thực hiện đúng chức năng của mình, đã ăn cắp thời gian và quyền lực được ủy
quyền để làm lợi cho cá nhân hoặc bè nhóm. Do bản chất xấu của tham nhũng nên nó phải
bị loại trừ. Hay nói cách khác, tham nhũng là hành vi trái đạo đức của công chức.
Hơn nữa, nếu công chức tham nhũng không bị trừng phạt về mặt đạo đức và về mặt
luật pháp, vô hình chung mọi người đều coi hành vi tham nhũng đó là "bình thường". Khi đã
coi là bình thường thì nhiều công chức khác sẽ cho phép mình thực hiện. Tình trạng tham
nhũng phổ biến, vì thế, báo động tình trạng xuống cấp đạo đức nghiêm trọng của công
chức và cơ quan nhà nước.
* Tham nhũng làm giảm sức cạnh tranh của môi trường kinh doanh quốc gia
Công chức tham nhũng sẽ khiến các nhà đầu tư phải chi phí nhiều hơn mức cần
thiết cho hoạt động quản lý nhà nước. Điều này làm giảm khả năng thu hút đầu tư của môi
trường kinh doanh quốc gia. Hơn nữa, tình trạng tham nhũng phổ biến tiềm ẩn nguy cơ rủi
ro lớn cho nhà kinh doanh. Thứ nhất là rủi ro do sự thay đổi tỳ tiện của công chức tham
nhũng; thứ hai là rủi ro do thành quả của việc chống tham nhũng; thứ ba là rủi ro do đối
thủ cạnh tranh hối lộ nhiều hơn…
Nhìn chung, tham nhũng là yếu tố ảnh hưởng xấu đến hành vi kinh doanh lành
mạnh. Vì thế tình trạng tham nhũng cao là lý do đầy sức thuyết phục làm cho môi trượng
cạnh tranh quốc gia bị giảm cấp.
* Tham nhũng làm giảm uy tín và vị thế quốc gia trên trường quốc tế
Quan hệ quốc tế đa phương và song phương chỉ có hiệu quả nếu dựa trên tín
nhiệm và mức độ nghiêm túc khi thực hiện cam kết. Một quốc gia có nhiều cơ quan nhà
nước tham nhũng là mối e ngại cho quốc gia và tổ chức quốc tế muốn thiết lập quan hệ.
Hơn nữa, để quan hệ với các quốc gia có độ tham nhũng cao, các nước, các tổ chức quốc tế
thường tốn kém chi phí hơn cho việc thiết lập và thực thi các cam kết, đồng thời khó dự
đoán trước kết quả.
Ngày nay, thông tin về các quốc gia được cập nhật trên các phương tiện truyền
thông và mạng Internet nên các quốc gia tham nhũng thường mất điểm trong con mắt của
các cơ quan định mức tín nhiệm quốc tế và do đó thường chịu thua thiệt và mất vị thế
thuận lợi trong đàm phán.
* Tham nhũng cản trở phát triển kinh tế hiệu quả và công bằng
Tham nhũng không những khiến cho chi phí kinh doanh tăng lên mà còn làm sai
lệch so sánh tương đối giữa các tổ chức, ngành nghề, doanh nghiệp khiến quá trình phân
bổ nguồn lực cũng không đạt tới trạng thái hiệu quả. Hơn nữa, tham nhũng cản trở các quá
trình kinh tế diễn ra bình thường, dung dưỡng tầng lớp người dựa vào ưu thế của nhà nước
tiến hành kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh không sòng phẳng với nhóm người, ngành nghề
khác.
Tham nhũng cũng tạo điều kiện cho công chức tham nhũng và nhóm người hưởng
lợi bất chính có được thu nhập không dựa trên công sức đống góp có ích cho xã hội khiến
cho tình trạng phân phối không công bằng trong xã hội bị khoét sâu hơn.
1.2.2. Nguyên tắc phòng chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà
nước
Tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước là điểm gặp nhau của lợi dụng
quyền lực công và lòng tham nên khi nào còn có cơ hội cho hai tác nhân này gặp nhau thì
còn tham nhũng. Lòng tham của con người mang tính bản năng không thể triệt tiêu hoàn
toàn. Vì thế, để hạn chế tham nhũng phải có cơ chế kiềm chế lòng tham của con người
trong những phạm vi được xã hội chấp nhận. Quyền lực công là cần thiết nhưng cần phải
được giám sát chặt chẽ nhằm ngăn ngừa nguy cơ bị lạm dụng. Bản chất của tham nhũng
quy định rằng, muốn phòng và chống tham nhũng phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
* Nguyên tắc giới hạn chặt chẽ việc sử dụng quyền lực công bằng luật pháp
Quyền lực của cơ quan nhà nước là quyền mà công dân ủy quyền cho để phục vụ
xã hội công dân. Công chức chỉ được sử dụng quyền lực công để thực hiện các trách
nhiệm được giao phó. Tuy nhiên, xã hội công dân bao gồm nhiều nhóm người và bản thân
công chức cũng là công dân nên có thể có sự nhầm lẫn đối tượng phục vụ hoặc làm sai
trách nhiệm được giao phó. Do quyền và trách nhiệm của công chức có thể thay đổi theo
hoàn cảnh lịch sử nên quy định công chức được làm gì, được sai khiến ai là công việc càng
phức tạp hơn. Hơn nữa, sự giao phó quyền cho công chức là do cộng đồng dân cư tự
nguyện dưới hình thức một quyết nghị chung. Để công chức không lạm dụng quyền lực,
việc giao phó, ủy quyền đó phải thể chế thành luật càng cụ thể càng tốt. Khi đã có luật,
phạm vi sử dụng quyền của công chức là làm theo luật chứ không phải làm theo những gì
công chức muốn. Nếu không luật hóa phạm vi sử dụng quyền lực của công chức thì không
có cơ sở để xem xét công chức đó làm đúng hay sai.
Luật hóa phạm vi sử dụng quyền lực của công chức cũng là đưa ra một giới hạn phạm
vi mà công chức không thể vượt qua. Khi đó, hành vi của công chức là hành vi của luật pháp
đã có hiệu lực, nhân danh luật pháp chứ không phải nhân danh công chức. Bất cứ hành vi
nào của công chức không nhân danh luật pháp vì mục tiêu luật pháp đã chế định thì không
được coi là đúng.
* Nguyên tắc giám sát của người giao quyền hoặc ủy quyền
Mặc dù quyền lực công đã được giới hạn và giao phó cho từng cá nhân công chức
và cơ quan nhà nước, nhưng trong quá trình sử dụng vẫn có thể xuất hiện sự sai lạc nếu
công chức không chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Sự kiểm tra của người giao quyền
hoặc ủy quyền là cần thiết để một mặt tạo môi trường định hướng công chức, mặt khác tạo
áp lực và răn đe các công chức nào có ý định sử dụng quyền lực công không đúng mục
đích.
Hơn nữa, kiểm tra, giám sát còn để phát hiện kịp thời sai lệch nhằm điều chỉnh kịp
thời, ngăn ngừa công chức phạm sai lầm nghiêm trọng hoặc dấn quá sâu vào con đường
tham nhũng mà không bị phát hiện.
* Nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước
Sự công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước khiến công chức khó che
giấuđược hành vi không đúng của mình do đó giảm động cơ tham nhũng. Công khai, minh
bạch còn cung cấp cơ chế tự giám sát công chức của người dân và của đồng nghiệp nên
mỗi sai lầm của công chức đều được phát hiện nhanh và đề nghị sửa chữa, vì thế cơ hội
thực hiện tham nhũng giảm thiểu.
* Nguyên tắc giải trình
Công chức phải có nghĩa vụ giải trình hành động và kết quả hành động trước
những người thuê hoặc giao phó công việc cho họ. Trách nhiệm giải trình càng cao thì ý
thức tuân thủ nghĩa vụ càng lớn. Đây là lớp vỏ giúp công chức khó tiếp cận với các cơ hội
tham nhũng.
* Nguyên tắc về đạo đức công chức
Không tham nhũng phải được coi là tiêu chuẩn đạo đức hành nghề của công chức.
Hành vi tham nhũng có thể buộc công chức mãi mãi ra khỏi đội ngũ công chức hoặc bị
truy tố trước pháp luật.
Hơn nữa, với tư cách là người thay mặt Nhà nước thực hiện dịch vụ công, công
chức nhà nước phải tuân thủ một hệ thống các quy tắc, hành vi được coi là tiêu chuẩn đạo
đức công chức. Các tiêu chuẩn hành vi đó phải được xây dựng cụ thể, thiết thực, phù hợp
với công việc hành chính nhà nước và văn hóa, tập quán dân tộc. Cơ quan nhà nước phải
có bộ phận thường xuyên xây dựng, điều chỉnh, ban hành và theo dõi thực hiện đạo đức
công chức. Trong thực tế, với việc thực hiện nghiêm chỉnh đạo đức công chức, cơ hội để
tham nhũng được giảm thiểu rất nhiều.
* Nguyên tắc độc lập của bộ phận phụ trách công việc đấu tranh phòng chống
tham nhũng
Bộ phận phụ trách công việc đấu tranh phòng chống tham nhũng trong cơ quan
hành chính nhà nước cần có vị thế độc lập trong hệ thống phân cấp quyền lực của bộ máy
nhà nước để đảm bảo yêu cầu kiểm tra, xét xử nghiêm minh, khách quan các hành vi
tham nhũng của công chức. Hơn nữa bộ phận này phải nhận được sự bảo vệ an toàn đủ
mức của xã hội, Nhà nước để công chức chống tham nhũng không bị đe dọa, an tâm làm
công việc khó khăn của mình.
1.2.3. Phương thức phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà
nước
Về mặt lý thuyết có thể phòng, chống tham nhũng bằng cách khắc phục các
nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Song, nguyên nhân cuối cùng, hay nguồn gốc của
tham nhũng là sự kết hợp khăng khít giữa lạm dụng quyền lực công và lòng tham mang
tính bản năng của con người. Do đó không thể khắc phục triệt để tham nhũng, chỉ có thể
hạn chế tham nhũng đến mức có thể bằng cách ngăn ngừa và giảm thiểu cơ hội tham
nhũng của công chức. Có nhiều biện pháp thuộc diện như vậy, ở đây chỉ nêu một số biện
pháp cơ bản.
* Quy định quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng của từng công chức và thường xuyên
kiểm tra, giám sát hoạt động của công chức
Để công chức tốt có cơ sở thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của mình và
để công chức xấu không có cơ hội chối tội, trong các cơ quan nhà nước cần tiến hành phân
tích công việc, chuẩn hóa các chức danh và thực hiện tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán bộ
theo đúng các chức danh đó. Trong khung cảnh ai cũng có công việc rõ ràng, công việc
vừa đủ với năng lực và không có sự chồng chéo lẫn nhau, bản thân công chức buộc phải
làm đúng chức trách của mình, khó che giấusai lầm của mình cũng như không có thể đổ
trách nhiệm cho người khác.
Sau khi đã phân tích công việc và bố trí công chức một cách khoa học, cơ quan
nhà nước còn phải xây dựng các quy chế phối hợp để công việc thông suốt, hạn chế các
khâu ách tắc đáng tiếc. Khi toàn bộ công việc được thiết kế và thực hiện trôi chảy, hiệu
quả, bất cứ một sự chen ngang hoặc thay đổi quy trình có tính chất vụ lợi nào cũng sẽ bị
phát hiện và bị lên án bởi chính các công chức tốt và bởi công dân.
* Công khai các quy định pháp lý và quy trình thủ tục hành chính của cơ quan nhà
nước với người có liên quan
Công khai các quy định và thủ tục hành chính đến tận người dân khi họ có công
việc tiếp xúc với cơ quan hành chính nhà nước, nhằm cung cấp thông tin cho người dân để
họ tự quyết định cách ứng xử hợp lý cũng như để đa số người dân không có khả năng hối
lộ và tham gia kiểm soát công chức.
Nên đưa các quy định và thủ tục công khai ở những điểm tiếp xúc của công dân
với cơ quan hành chính. Cũng cần đưa thông tin công khai trên các phương tiện truyền
thông dễ tiếp cận của dân cư. Cải thiện khả năng tiếp cận của dân cư đến các loại thông tin
này thông qua thành lập các điểm lưu giữ thông tin có thể truy cập tự do, thông qua các tổ
chức tư vấn miễn phí.
Đồng thời với cung cấp thông tin về thủ tục và quy định nhà nước, cần thông tin
công khai về các công chức tốt và công chức xấu để nhân dân kiểm tra, đánh giá trực tiếp,
tăng áp lực phòng ngừa công chức tham nhũng.
* Xây dựng các chế tài đủ sức răn đe công chức
Dù có cách ly công chức khỏi các cơ hội tham nhũng đến đâu chăng nữa thì khi
công chức cố tình tham nhũng, cố tình tạo ra cơ hội tham nhũng cho mình thì các cơ chế
cách ly đều bị vô hiệu quả. Chính vì thế cần có chế tài đủ sức răn đe nhằm trừng phạt các
công chức tham nhũng, làm gương cho người khác.
Chế tài xử phạt tham nhũng cần được phân định thành nhiều thang bậc khác nhau
phù hợp với các dạng tham nhũng có thể xuất hiện trên thực tế trong các cơ quan hành
chính nhà nước. Sự phân định và mức xử phạt càng chính xác thì mức độ răn đe càng cao.
Nên xử phạt ở mức nặng khiến công chức thấy cái giá phải trả quá đắt để chùn tay khi có ý
định tham nhũng.
* Xây dựng chế độ đãi ngộ công chức hợp lý
Đi đôi với việc chế tài tham nhũng, cần xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý đối
với công chức. Ở một số nước, đi cùng với chế độ cấm công chức đình công là chế độ
lương bổng và bảo hiểm khá tốt để công chức yên lòng khi làm việc cho Nhà nước. Cũng
cần điều chỉnh mức tiền lương cho công chức tương xứng với mức lương trung bình ở khu
vực tư và tình trạng nền kinh tế để bảo đảm sự công bằng và tăng tính trách nhiệm của
công chức với kết quả vận hành đất nước.
Nhìn chung không được để công chức có mức lương không đủ sống trong điều
kiện một quốc gia cụ thể. Nên trả lương cho công chức ở mức độ trung bình cao so với thu
nhập xã hội, kết hợp với lựa chọn người có kỹ năng, trình độ thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao.
* Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức công chức và thường xuyên khuyến khích công
chức thực hiện
Tiêu chuẩn đạo đức công chức phải được thiết kế cụ thể về các phương diện mối liên
hệ với đối tượng quản lý, mối quan hệ lợi ích với những người gần gũi, tác phong, thái độ,
hành vi khi tiếp xúc với công chúng, quy định về giới hạn giá trị của món quà nhận từ đối
tượng quản lý, về nhận dịch vụ có liên quan đến đối tượng quản lý, về trách nhiệm với uy
tín của nhà nước từ hành vi cá nhân…
Bộ tiêu chuẩn đạo đức này phải được quán triệt đến từng công chức, phải được
công chức tuyên thệ khi nhận công việc trong cơ quan hành chính nhà nước và được
thường xuyên điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp.
Khi đánh giá công chức nhà nước cần dựa vào việc tuân thủ các tiêu chuẩn đạo
đức của công chúng, kết hợp với hiệu quả và chất lượng công việc hoàn thành.
* Tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội và công luận kiểm tra, giám sát đối với
hành vi của công chức
Hệ thống thanh tra, kiểm tra nội bộ của cơ quan nhà nước góp phần quan trọng
vào việc ngăn ngừa và chống tham nhũng. Tuy nhiên, nhiều khi bộ phận này không thể
giám sát đầy đủ công chức. Hơn nữa, có thể cán bộ thanh tra nhà nước thông đồng với
công chức để tham nhũng. Vì thế cần tăng cường kênh kiểm tra của xã hội, nhất là của cơ
quan ngôn luận và các tổ chức xã hội nhằm tăng cường giám sát khách quan hành vi của
công chức.
Để phát huy vai trò giám sát của các cơ quan này cần dân chủ hóa trong cung cấp
thông tin và dân chủ hóa ngôn luận.
* Thành lập cơ quan chống tham nhũng độc lập, chuyên trách
Thành lập cơ quan chuyên trách chống tham nhũng trong hệ thống các cơ quản lý
hành chính nhà nước là mô hình chống tham nhũng được một số nước vận dụng thành
công. Với ý tưởng rằng công chức làm nhiệm vụ chống tham nhũng phải có quyền lực độc
lập với các công chức có vị trí cao trong bộ máy nhà nước mới có thể chống tham nhũng
hiệu quả. Một số nước thành lập Ủy ban chống tham nhũng chịu sự chế định của Luật
chống tham nhũng và vị trí quyền lực cao nhất trong bộ máy hành chính. Công chức trong
cơ quan này có nghĩa vụ điều tra, đưa ra xét xử công chức tham nhũng khi đã thu thập đầy
đủ chứng cứ. Hoạt động thu thập chứng cứ được tiến hành một cách độc lập với hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước.
Thực tế cho thấy mô hình này hoạt động hiệu quả khi người đứng đầu Nhà nước
thực sự quyết tâm trong chống tham nhũng và tạo điều kiện cho cơ quan này hoạt động
hiệu quả. Nếu không được quản lý tốt, cơ quan này có thể hoạt động chệch khỏi mục tiêu
chống tham nhũng, khi đó hoạt động của nhà nước sẽ có nguy cơ bị chi phối bởi cơ quan
rất có quyền lực mà thiếu năng lực và đạo đức này.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phòng, chống tham nhũng trong cơ quan
hành chính nhà nước
* Nhóm các yếu tố thuộc chế độ chính trị
Các chế độ dân chủ tạo điều kiện thuận lợi cho phòng, chống tham nhũng hơn các
chế độ độc tài. Bởi vì trong chế độ dân chủ, thông tin được cung cấp tốt hơn, cơ quan nhà
nước hoạt động theo hướng công khai, minh bạch dựa trên luật pháp nhiều hơn. Còn trong
chế độ độc tài, luật pháp ít được tuân thủ một cách khách quan. Bản thân nhà độc tài
thường bưng bít thông tin để giữ quyền lực cho cá nhân mình. Hơn nữa các nhóm lợi ích
có nhiều cơ hội trong chế độ độc tài lung lạc ý chí của các công chức nhà nước nhằm bẻ
cong hành động của Nhà nước có lợi cho họ.
Trong các chế độ quyền lực thuộc về nhân dân và dân chủ thì các biện pháp chống
tham nhũng dễ dàng được dân chúng ủng hộ. Trong các chế độ mà quyền lực được chia sẻ
giữa các nhóm người khác nhau thì cơ quan nhà nước bị họ lũng đoạn để phục vụ cho lợi
ích của họ nên các phương tiện và cơ hội chống tham nhũng cũng ít hơn.
Ngoài ra, trong chế độ nhà nước pháp quyền, hoạt động phòng, chống tham nhũng
có cơ sở pháp lý, ủng hộ cả về phương diện mang tính rõ ràng, công khai của quyền lực và
sử dụng quyền lực nhà nước lẫn cơ sở pháp luật bảo vệ hành vi chống tham nhũng.
* Nhóm các yếu tố thuộc về tổ chức bộ máy nhà nước
Bộ máy tổ chức nhà nước được tổ chức hợp lý tạo nền tảng vững chắc cho phân
công, hợp tác lao động hợp lý giữa các công chức nên giảm thiểu nguy cơ lạm dụng để
tham nhũng.
Ngược lại, bộ máy quản lý nhà nước được quản lý không tốt dẫn đến tình trạng
chồng chéo, thiếu đồng bộ, thiếu cơ sở pháp lý để phân công công việc hiệu quả, thiếu căn
cứ để đánh giá cán bộ sẽ dẫn đến tình trạng ách tắc, trì trệ vừa là nguyên nhân gây ra tham
nhũng vừa làm cho công việc chống tham nhũng khó khăn do thiếu bằng chứng thuyết
phục.
Sự phân cấp quản lý nhà nước nếu không dựa trên nền tảng thông tin và hiệu quả
thực thi công vụ cũng sẽ gây khó khăn cho công tác phòng, chống tham nhũng trên giác độ
khó quy trách nhiệm.
* Nhóm các yếu tố thuộc về dân chúng
Trình độ dân trí cao và có ý thức tuân thủ pháp luật là hậu thuẫn vững chắc cho
công tác phòng chống tham nhũng. Ở các nước phát triển dân cư có khả năng và ý thức
tham gia quản lý xã hội nên họ thường xuyên quan tâm đến các thông tin về hoạt động của
Chính phủ. Nếu có thông tin về công chức tham nhũng họ cũng có cơ chế và ý thức đấu
tranh đòi xử lý thích đáng các công chức phạm lỗi. Vì công chức có cảm giác làm việc
trong môi trường trong suốt, mỗi hành vi của họ đều bị xã hội giám sát nên họ phải kiềm
chế hành vi tham nhũng của mình. Khi công chức tự nguyện không tham nhũng thì nạn
tham nhũng ít có cơ hội phát triển.
Ngược lại, ở các nước dân cư có trình độ dân trí thấp, không tự tổ chức thành các
tổ chức xã hội có khả năng tham gia quản lý, nhất là ở những nước dân cư bàng quan với
tình hình chính trị, chỉ quan tâm đến lợi ích ngắn hạn của bản thân họ thì công chức hầu
như không bị xã hội giám sát, chỉ chịu sự kiểm soát nội bộ. Trong bối cảnh đó công tác
phòng, chống tham nhũng sẽ rất khó khăn do người chống tham nhũng không được hậu
thuẫn của xã hội, thiếu phương tiện làm việc, còn công chức lại có điều kiện thuận lợi để
che giấu hành vi.
* Nhóm các yếu tố thuộc về điều kiện kinh tế
Điều kiện kinh tế quyết định động cơ tham nhũng của công chức và quy định các
phương tiện phòng chống tham nhũng. Nếu kinh tế phát triển, Nhà nước có khoản thu lớn
thì có điều kiện nâng cao thu nhập cho công chức, giảm thiểu áp lực thu nhập thấp khiến
công chức tham nhũng. Sức mạnh tài chính cũng cho phép Nhà nước thành lập cơ quan
độc lập chống tham nhũng và cung cấp phương tiện cho cơ quan này vận hành tốt.
Ngược lại, các nước nghèo thường gặp khó khăn mọi bề khi chống tham nhũng.
Nào là tình trạng bất lực trong việc nâng lương cho công chức, thiếu phương tiện kiểm tra,
giám sát công chức, nào là sự bất ổn trong cải tổ bộ máy nhằm chống tham nhũng…
1.3. KINH NGHIỆM PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.3.1. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng trong cơ quan nhà nước ở
Singapo
Trong bảng xếp hạng của Tổ chức Minh bạch thế giới, Singapo thường nằm trong
tốp các nước ít tham nhũng nhất thế giới (năm 2005, Singapo đứng thứ năm trong nhóm
nước trong sạch nhất, chỉ sau Iceland, Phần Lan, New Zealand và Đan Mạch).
Để có vị trí này, Singapo đã trải qua một quá trình chống tham nhũng không ít khó
khăn. Khi đảng Nhân dân hành động (PAP) của ông Lý Quang Diệu lên nắm quyền, họ nhận
thức rằng phải chống tham nhũng thì mới đạt được mục tiêu phát triển. Trong ba yếu tố tạo
nên tham nhũng, ban đầu Singapo chưa thể làm gì với yếu tố lương bổng vì năm 1960,
Singapo vẫn là nước nghèo với GDP trên đầu người chỉ là 443 USD. Vì vậy, Chính phủ tập
trung vào hai yếu tố gây tham nhũng còn lại: giảm thiểu cơ hội tham nhũng và tăng cường
hình phạt.
Một luật chống tham nhũng mới ra đời, với 32 phần (thay vì 12 như hồi năm
1937). Có một số sửa đổi quan trọng như án phạt tăng lên năm năm tù, người nhận hối lộ
phải trả lại hết tiền đã nhận. Cục điều tra hoạt động tham nhũng ra đời (có tên gọi là
Corruption Practices Investigation Bureau, viết tắt là CPIB) và được gia tăng quyền hạn.
Tổ chức này được giao nhiệm vụ đấu tranh với "mọi tài khoản ngân hàng" của những ai bị
nghi có hành vi phi pháp và thiếu minh bạch.
Theo luật của Singapo, một người có thể bị khép tội tham nhũng ngay cả khi
người đó chưa nhận tiền hối lộ, vì ý định phạm pháp đã đủ để khép tội người này. Công
dân Singapo phạm tội nhận hối lộ ở nước ngoài cũng bị xử như phạm pháp trong nước.
Khi bị cáo qua đời, để tránh tình trạng "hy sinh đời bố, củng cố đời con", tòa án có quyền
ra lệnh trưng thu tài sản có được từ tham nhũng cho đến khi nào đủ mới thôi.
Cho mãi tới thập niên 1980, khi kinh tế đã phát triển, Singapo mới đủ khả năng
làm nốt phần còn lại trong chiến lược chống tham nhũng là tăng lương cho nhân viên.
Tháng 3-1985, Thủ tướng Lý Quang Diệu tuyên bố các lãnh đạo chính trị cần được trả
lương thật cao để bảo đảm chính quyền trong sạch. Ông nói cách hay nhất chống tham
nhũng là "đi cùng thị trường", thay vì thói đạo đức giả đã tạo nên tham nhũng.
Theo giáo sư Jon S.T. Quah, khoa Chính trị học ở Đại học Quốc gia Singapo, kinh
nghiệm của Singapo không dễ lặp lại ở các nước vì hoàn cảnh đặc thù và vì những chi phí
chính trị và kinh tế của việc trả lương cao. Tuy nhiên, có bảy bài học có thể tham khảo:
Thứ nhất, bộ máy lãnh đạo phải thực tâm chống tham nhũng và trừng phạt bất cứ
ai có hành vi tham nhũng.
Thứ hai, phải có các biện pháp chống tham nhũng đầy đủ, không có lỗ hổng và
thường xuyên được xem lại để thay đổi, nếu thấy cần thiết.
Thứ ba, cơ quan chống tham nhũng phải trong sạch. Không nhất thiết phải có quá
nhiều nhân viên, và bất kỳ thanh tra nào tham nhũng cũng phải bị trừng phạt và đuổi ra
khỏi ngành.
Thứ tư, cơ quan chống tham nhũng phải tách khỏi bộ máy cảnh sát.
Thứ năm, để giảm cơ hội tham nhũng tại các ngành dễ sa ngã như hải quan, thuế
vụ, công an giao thông, các cơ quan này phải thường xuyên kiểm tra và thay đổi quy định
làm việc.
Thứ sáu, động cơ tham nhũng trong khối nhân viên nhà nước và quan chức có thể
giảm bớt nếu lương và phụ cấp cho họ có tính cạnh tranh với khu vực tư nhân.
Thứ bẩy, quyết tâm chống tham nhũng của các nhân vật cao cấp trong chính
quyền. Bởi vì mọi chiến lược đều trở thành công cốc nếu lãnh đạo chỉ nói suông và thiếu ý
chí chính trị để thực hiện.
1.3.2. Kinh nghiệm chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước
của Hồng Kông
Hồng Kông đã sớm thành lập Ủy ban độc lập chống tham nhũng (ICAC) vào năm
1974. Kể từ đó Hồng Kông đã đạt được những thành quả có thể xem là một cuộc cách
mạng làm biến đổi suy nghĩ và tình cảm của người dân trong nước và tạo nên những kết
quả đáng trân trọng.
Trước năm 1974, nạn tham nhũng ở Hồng Kông cũng khá trầm trọng. Với sự
truyền tải thông tin nhạy bén về tình trạng tham nhũng, các nhân vật cao cấp trong chính
quyền và nhân dân, nhất là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, nhận ra một điều rằng thành
quả của cả quá trình lao động cật lực, sự nhạy bén và chấp nhận các rủi ro trong kinh
doanh đã tạo ra mức sống và những lợi ích vật chất như ngày hôm nay của Hồng Kông sẽ
mất hết ý nghĩa nếu không cắt bỏ khối u tham nhũng. Với nhận thức đó, Hồng Kông đã đạt
được những bước tiến quan trọng trong công cuộc chống tham nhũng. Cụ thể là:
- Hồng Kông đã xây dựng hệ thống dịch vụ công cộng trong sạch hơn. Vào giữa
những năm 1970, hơn 80% trong các báo cáo tham nhũng của ICAC có liên quan tới khu
vực công cộng. Năm 1994 còn chưa tới một nửa (chưa tới 1800 báo cáo). Năm 1994, 45%
báo cáo tham nhũng liên quan tới cảnh sát; năm 2004 con số này giảm xuống còn 18%.
Trong cuộc điều tra dân ý đầu tiên vào năm 1977 có 38% số phiếu trả lời rằng tham nhũng
đã tràn lan trong hầu hết các bộ của chính phủ, trong cuộc điều tra năm 1994 thì con số này
giảm xuống còn 7,8%.
- Xây dựng thái độ chống tham nhũng của dân chúng. Từ chỗ bàng quan với nạn
tham nhũng, giờ đây quan điểm của đa số dân cư coi tham nhũng là xấu xa và có tính phá
hoại. Trong cuộc điều tra mới đây chưa đầy 2,9% tham gia nói rằng họ sẽ dung thứ cho
tham nhũng, và 63% nói rằng họ sẵn sàng tố cáo tình trạng tham nhũng nếu họ gặp phải.
Ngoài ra dân chúng cũng sẵn sàng hơn trong việc tố cáo hành vi tham nhũng: năm 1974
chỉ có một phần ba trong số những người báo cáo tham nhũng là được chuẩn bị để tự nhận
diện mình. Năm 1994 con số này là hai phần ba.
- Khu vực thương mại không những có ý thức về mối nguy hiểm của tham nhũng
mà còn không sẵn sàng làm một việc gì đó để tiếp tay cho tham nhũng. Con số các thương
nhân tìm kiếm sự hướng dẫn của ICAC trong việc cải tạo các hệ thống của họ nhằm ngăn
chặn tham nhũng đã liên tục tăng lên. Rõ ràng là dân chúng ngày nay có một niềm tin chắc
chắn hơn nhiều về công cuộc chống tham nhũng đang diễn ra hàng ngày hàng giờ của
Chính phủ.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm chống tham nhũng của Hồng Kông có thể rút ra một
số bài học thành công sau đây:
Thành tố đầu tiên và quan trọng nhất trong nỗ lực chống tham nhũng hữu hiệu là
nhận thức từ những quan chức cao cấp của Chính phủ về tính nghiêm trọng của vấn đề
chống tham nhũng và thừa nhận rằng nó chỉ có thể giải quyết tham nhũng một cách dài hạn.
Sáng lập tổ chức ICAC là Thủ tướng của Hồng Kông. Bằng việc thiết lập ICAC với tư cách
là một cơ quan độc lập dành riêng cho việc chống tham nhũng, cơ quan này không chịu sự
can thiệp chính trị, tách khỏi lực lượng cảnh sát và cơ quan này chịu sự chỉ đạo của Thủ
tướng chính phủ, Chính phủ đã tạo niềm tin cho dân chúng với tổ chức này. Mọi nguồn lực
chi phí cho tổ chức này hoạt động được Chính phủ đảm bảo một cách lâu dài và đầy đủ.
Điều này khác với các nước khác là các cuộc vận động chống tham nhũng trong thời gian
ngắn, bắt nguồn từ những vụ việc và các thủ đoạn chính trị, rất ít có cơ may thành công.
Chính các chiến dịch chống tham nhũng nông cạn hời hợt, thiếu trung thực khiến dân
chúng chán nản, thiếu niềm tin.
Thành tố thành công thứ hai là hiệu quả hoạt động cao của ICAC. Công chúng
được đảm bảo rằng cuộc chiến đấu chống tham nhũng nằm trong tay một tổ chức hoàn
toàn đáng tin cậy. Tổ chức được giao phó trọng trách này sẽ được điều hành hiệu quả.
ICAC (Ủy ban độc lập chống tham nhũng) có một đội ngũ nhân viên xuất sắc. Các
nhân viên này, ngoài việc có lý lịch trong sạch còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn lựa chọn
rất nghiêm ngặt và chỉ có những người có đầy đủ phẩm chất, tài năng mới được tuyển
dụng. Một khi được tin dùng họ phải tuân thủ một bộ quy tắc kỷ luật nghiệt ngã và các đợt
kiểm tra chống tham nhũng đều do một nhân viên của ICAC lãnh đạo nhóm giám sát nội
bộ tiến hành.
Chìa khóa thứ ba của sự thành công ở Hồng Kông là việc họ xây dựng được một
chiến lược lâu dài có cân nhắc thận trọng để tấn công vào tham nhũng. Các quan chức của
Hồng Kông nhận thức rằng, cuộc chiến đấu này không thể dành thắng lợi nếu chỉ nhờ vào
việc tập trung trừng phạt tham nhũng, cải thiện bộ máy quan liêu. Những thay đổi căn bản
trong thái độ của công chúng cũng rất cần thiết.
Chiến lược chống tham nhũng ở Hồng Kông là cuộc đấu tranh chống tham nhũng
trên ba mặt trận: Điều tra, ngăn chặn và giáo dục - Một cuộc tấn công có ba mũi. Mũi thứ
nhất mang tính phản ứng, ICAC có một phòng chuyên tiến hành đấu tranh tham nhũng sau
khi tiếp nhận đơn khiếu tố cáo. Mũi thứ hai thuộc về trách nhiệm của phòng ngăn ngừa
tham nhũng, liên quan tới việc xóa bỏ các cơ hội tham nhũng có hệ thống trong chính phủ
và trong các tổ chức thuộc khu vực tư nhân. Mũi thứ ba được sự góp sức của phòng các
quan hệ cộng đồng trong việc giáo dục công chúng về tác hại của tham nhũng và tìm kiếm
sự ủng hộ tích cực của công dân.
Phòng quan hệ cộng đồng có khoảng 200 nhân viên, được thành lập với tiêu chí là
chỉ có sự thay đổi trong thái độ của công chúng về nạn tham nhũng mới có thể tạo ra một
chuyển biến lâu dài trong cuộc chiến đấu với vấn đề đen tối này. Nhiệm vụ chủ yếu của
phòng này là tạo dựng sự ủng hộ và niềm tin của công chúng vào ICAC bằng cách giải
thích các luật chống hối lộ, giáo dục các thế hệ trẻ tại trường học, và khuyến khích cộng
đồng sử dụng những biện pháp ngăn ngừa tham nhũng và thông báo bất kỳ một nghi vấn
nào về những hành vi tham nhũng.
Để huy động được sự ủng hộ, phòng tiến hành phân mảng cộng đồng và triển khai
các chương trình cụ thể có liên quan phù hợp với nhu cầu của các nhóm khác nhau. Một
chiến lược dựa trên cơ sở cộng đồng như thế tạo được niềm tin vào tính hiệu quả và trung
thực của ICAC. Nó cũng đồng nghĩa với việc bản thân cộng đồng đã trở thành một lực
lượng đi đầu chống tham nhũng. Việc điều tra và xét xử thành công đã khích lệ cộng đồng
báo cáo tham nhũng, trợ sức cho Phòng các quan hệ cộng đồng trong việc giáo dục dân
chúng về những hiểm họa của tham nhũng, và giúp Phòng ngăn ngừa tham nhũng trong
việc khuyến khích cả hai khu vực tư nhân và công cộng suy nghĩ về các hệ thống của
mình.
Đến lượt mình, các hệ thống thẩm định tham nhũng, trong chừng mực nào đó có
thể thi hành được, sẽ làm cho khả năng phát hiện và buộc tội tham nhũng trở nên chắc
chắn hơn.
Ba cách tiếp cận mang tính chiến thuật của ICAC qua ba phòng chức năng là phụ
thuộc lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Để đạt được hiệu quả cao nhất thì mỗi phòng phụ thuộc
vào hoạt động của các phòng khác. Như vậy nhiệm vụ tổng thể là lớn hơn tổng các nhiệm
vụ cục bộ của nó.
Yếu tố quan trọng thứ tư trong đấu tranh có kết quả với tham nhũng là luôn luôn
duy trì được lòng tin của công chúng. Để tạo được lòng tin và khuyến khích nhân dân báo
cáo những nghi vấn của họ về các hành vi sai trái, cơ quan chống tham nhũng phải làm cho
công chúng thấm nhuần một niềm tin rằng tất cả mọi ý kiến tố giác mà có thể truy tìm, cho
dù nó nhỏ đến mức nào đi nữa, đều sẽ được điều tra. Đây là nguyên tắc căn bản của ICAC
và nó được biến thành hành động thực tế. Nếu cho rằng các quan chức của ICAC quan tâm
và đáp ứng những gì mình nói, thì một người nào đó chắc chắn sẽ lại thông báo tham
nhũng lần nữa.
Sự đánh giá cao của công chúng về ICAC được minh họa bằng sự tăng lên rõ rệt
số lượng các báo cáo tham nhũng có thể truy tìm mà ICAC nhận được kể từ khi bắt đầu
hoạt động. Những thông báo này được truy tìm đầy đủ thông tin để cho phép một cuộc
điều tra có thể bắt đầu. Thường là những thông tin về tham nhũng gửi đến từ những người
dân sẵn sàng nhận diện bản thân họ. Tỷ lệ phần trăm của những thông tin như thế đã tăng
từ 33% trong năm 1974 lên 71% năm 1994. Công chúng cũng thông tin về tất cả các loại
vấn đề chứ không chỉ riêng tham nhũng. Hơn nữa số thông tin được gửi tới ICAC kể từ
năm 1974 không liên quan gì tới tham nhũng như một tín hiệu về sự tin cậy của cộng đồng
và nhiệm vụ truyền dẫn những mối bất bình chung đối với các bộ khác nhau trong chính
phủ. ICAC cố gắng giúp đỡ bằng cách chuyển những khiếu nại không liên quan tới tham
nhũng này tới các bộ liên quan để xử lý và cho công chúng biết rằng họ đã làm như thế.
Yếu tố quan trọng thứ năm đối với thành công trong kiểm soát tham nhũng là bảo
đảm được tính chất tuyệt mật cho những người thông báo về những vi phạm. Phanh phui
tham nhũng thường cần tới sự can đảm thực sự. Những người báo cáo cho ICAC mong đợi
sự bảo mật tối đa, và họ đã không bị thất vọng. Cơ quan này thực hiện sự bảo vệ các nguồn
tin rất nghiêm túc. Máy tính nội bộ và các chế độ báo cáo của nó được giảm sát nghiêm
ngặt sao cho chỉ có những nhân viên nào "cần phải biết" mới được phép truy cập các thông
tin về bất kỳ ai đã gửi báo cáo. Các hồ sơ được thu thập và phân loại một cách có hệ thống
để loại bỏ những thông tin đã lỗi thời. Cuối cùng, luật pháp của Hồng Kông cấm việc tiết
lộ đặc điểm nhận dạng của bất kỳ nguồn thông tin nào tới ICAC.
Một điểm nữa là ICAC đã thành công nhờ một sự kết hợp các yếu tố cùng nhau
tạo ra một môi trường thuận lợi để chống tham nhũng. Đáng chú ý nhất là tính độc lập của
ICAC và các hệ thống được đưa vào hoạt động bảo đảm được tính chịu trách nhiệm từ bên
ngoài. Thủ tướng chỉ định Chủ tịch và Phó Chủ tịch của ICAC. Chủ tịch Ủy ban trực tiếp
báo cáo cho thủ tướng và bổ nhiệm tất cả các nhân viên khác. Những quy định này thực sự
ngăn chặn bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào can thiệp vào các cuộc điều tra của ICAC
đối với những trường hợp nghi là tham nhũng trong nội bộ cảnh sát.
Nếu là điều khá nhạy cảm thì Ủy ban này phải thương lượng với Chính phủ và cơ
quan lập pháp để có kinh phí, để có được sự thuận lợi về mặt thủ tục hành chính. Đội ngũ
nhân viên của ICAC nói chung phải chịu các điều kiện trưng dụng dịch vụ dân sự. Ngoài
những vấn đề này ra thì ICAC có được tư cách độc lập hoàn chỉnh trong hoạt động. Tuy
nhiên, mặc dù sự độc lập về hoạt động là chìa khóa để giành được và duy trì lòng tin của
công chúng, sự độc lập đó không thể là một thứ giấy phép không hạn chế.
Để giảm thiểu mọi khả năng lạm dụng quyền lực, ICAC phải chịu một hệ thống
kiểm tra kiểm soát nghiêm ngặt. Hoạt động của Ủy ban này được hướng dẫn bởi bốn tiểu
ban tư vấn mà tư cách thành viên này được lấy từ tất cả các khu vực của cộng đồng và do
Thủ tướng chỉ định. Tiểu ban thứ năm, bao gồm các thành viên của các Hội đồng Lập pháp
và Hành pháp của Hồng Kông xem xét những khiếu nại đối với ICAC. Mỗi một tiểu ban
trong số này không phải do ủy viên của ICAC mà do một thành viên tiểu ban làm chủ tịch,
với mục tiêu là nâng cao tính độc lập của hệ thống giám sát này.
Một điều kiện quan trọng nữa là một khuôn khổ pháp lý mạnh cho phép ICAC xử
lý vấn đề tham nhũng đặc biệt. Chủ tịch ủy ban được quyền ngăn không cho những người
trong diện bị nghi ngờ bán các tài sản của họ; tìm kiếm lệnh của tòa án không cho phép họ
rời khỏi Hồng Kông, kiểm tra các tài khoản ngân hàng và các két tiền gửi an toàn của họ,
yêu cầu họ cung cấp chi tiết về tình trạng tài chính của họ và lục soát cơ ngơi của họ.
Nếu trong một cuộc điều tra mà có những vi phạm khác liên quan tới tham nhũng
bị phát hiện, thì ICAC được trao quyền đấu tranh chống những vi phạm có liên quan đó để
bóc trần vụ việc tham nhũng nằm phía sau. Một trong những vũ khí hiệu nghiệm nhất che
chở cho luật pháp đã phát huy tác dụng khi một công chức nhà nước có những tài sản
không thể giải thích được hoặc duy trì một mức sống vượt quá mức tiền lương chính thức
của ông ta hay bà ta. Nếu ông ta hay bà ta không đưa ra được những lời giải thích thỏa
mãn trước tòa án về việc tiền hay tài sản đó đã có được bằng cách nào, thì vị công chức
này sẽ bị coi là phạm tội tham nhũng. Điều này là cực kỳ hữu hiệu trong việc giữ cho các
công chức nhà nước của Hồng Kông trung thực.
Năm 1997 chủ quyền của Hồng Kông được trả về cho Trung Quốc và thuộc địa cũ
này của Anh trở thành Khu vực Hành chính Đặc biệt (SAR) của nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa. Hồng Kông có bộ Luật cơ bản như là hiến pháp của mình bảo đảm cho sự tồn
tại tiếp tục của ICAC sau năm 1997 với tư cách là một tổ chức độc lập. ICAC tiếp tục đóng
vai trò quan trọng trong chính quyền SAR nhằm duy trì một Hồng Kông ổn định và thịnh
vượng.
1.3.3.Kinh nghiệm chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước
của Trung Quốc
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Chính phủ Trung Quốc đã thu được những
kết quả quan trọng giúp tăng tính minh bạch và cải thiện hình ảnh của chính phủ trong dân
chúng. Trong năm 2006, hàng trăm quan chức tham nhũng đã bị trừng phạt vì đã nhận hối
lộ, chiếm đoạt tài sản nhà nước hoặc xâm hại lợi ích của nhân dân.
Ban Thanh tra cũng đã điều tra nhiều vụ việc trực tiếp ảnh hưởng tới "túi tiền" của
người dân, đặc biệt là các loại lệ phí bất hợp pháp do các tổ chức giáo dục và y tế tự tiện
áp đặt.
Trong năm 2006, Ban Thanh tra Kỷ luật Trung ương và Bộ Giám sát đã điều tra
16 vụ việc lớn về thu lệ phí y tế và giáo dục trái phép, buộc các tổ chức vi phạm phải trả
lại hơn 200 triệu nhân dân tệ (25 triệu USD) cho các cá nhân đã nộp các loại lệ phí này.
Chiến dịch loại bỏ các loại lệ phí trái phép cũng đòi hỏi chính quyền địa phương
sửa đổi 382 điều quy định trái với các chính sách của Chính phủ về lệ phí giáo dục. Đến
nay, 1.448 khoản lệ phí trái phép đã bị xóa.
Do ngày càng có người lời phàn nàn về tình trạng ô nhiễm trong những năm gần
đây, Ban Thanh tra bảo vệ môi trường đã thu thập hồ sơ và điều tra hơn 400 vụ vi phạm và
các quy định về bảo vệ môi trường, đã xử phạt hơn 200 cá nhân.
Ban Thanh tra cũng cử 20 đoàn thanh tra tìm cách hạn chế tình trạng đầu tư liều
lĩnh, việc xây dựng "những dự án" lãng phí, không cần thiết và sự phát triển có hại cho
môi trường địa phương.
Ban Thanh tra cũng kiểm tra hiệu quả hoạt động của các chính quyền địa phương
và các doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm rằng các quan chức và các nhà quản lý doanh
nghiệp đã tạo ra sự minh bạch về quyền hạn quản lý cho người dân có thể giám sát.
Tính đến tháng 7-2006, Ban đã thanh tra các thủ tục, quy định và công việc quản
lý của 31 chính quyền cấp tỉnh, bốn công ty quản lý tài sản nhà nước và 9 ngân hàng do
Nhà nước kiểm soát.
Nhiều cơ quan Chính phủ đã lập các trang web thông báo chi tiết về những quy
định, quyền hạn và các kế hoạch phát triển của các cơ quan này.
Chính quyền Trung Quốc vừa quyết định thay thế người đứng đầu các cơ quan
chống tham nhũng của ba thành phố lớn Bắc Kinh, Thượng Hải và Thiên Tân...
1.3.4. Bài học rút ra cho Sơn La
Từ kinh nghiệm của Singapo, Hồng Kông và Trung Quốc có thể rút ra một số bài
học kinh nghiệm cho Sơn La:
Một là, làm cho công chức không dám tham nhũng. Ở Singapo, khi một người
được tuyển vào làm công chức, quan chức nhà nước thì hàng tháng phải trích một phần
tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Người có chức vụ cao, thì
phần trăm trích gửi tiết kiệm càng lớn, có thể lên đến vài chục phần trăm lương tháng. Số
tiền này do nhà nước quản lý. Bất kỳ công chức nào, quan chức nào phạm tội tham nhũng
dù nhẹ ở mức xử phạt ra khỏi ngạch công chức thì toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm bị trưng
thu xung công quỹ.
Hai là, làm cho công chức không thể tham nhũng. Chính phủ Singapo quy định và
thực hiện mỗi năm công chức, viên chức, quan chức phải khai báo một lần với nhà nước
về tài sản của bản thân hoặc của vợ (chồng) bao gồm: tiền thu nhập, tiền gửi tiết kiệm, tiền
cổ phiếu, đồ trang sức, ô tô, nhà cửa... Những tài sản tăng lên so với năm trước phải khai
rõ nguồn gốc, cái gì không rõ nguồn gốc được coi là tham ô, tham nhũng. Nhà nước có
quy định: Quan chức Chính phủ không được phép nợ nần, không được vay một khoản tiền
lớn vượt quá ba tháng lương.
Ba là, làm cho công chức không cần tham nhũng. Singapo có chế độ trả lương
chênh lệch khá cao giữa quan chức cấp cao với cấp thấp và với công chức, giữa công chức
với nhân viên, công nhân. Với mức lương cao, quan chức đủ sống và chu cấp cho gia đình
mà không cần tham nhũng. Hơn nữa cách trả lương như vậy khiến công chức và quan chức
luôn tự nhủ: Mình được trả lương cao hơn người lao động bình thường rất nhiều. Nếu
mình tham ô, tham nhũng nữa thì là kẻ vô đạo lý mất hết liêm sỉ.
Bốn là, làm cho công chức không muốn tham nhũng. Ở Singapo muốn tham nhũng
một thứ gì, dù rất nhỏ, cũng rất phiền hà. Ví dụ, khi khách nước ngoài đến, nếu họ muốn
tặng quà cho các quan chức nước chủ nhà để cảm ơn về sự đón tiếp nồng hậu và để thắt
chặt mối quan hệ thì món quà đó phải mang ý nghĩa văn hóa với giá trị tiền không nhiều.
Nếu nhận quà phải báo với lãnh đạo cơ quan xem xét. Giá trị của quà tặng lớn phải nộp
cho cơ quan quản lý quà biếu để xung công quỹ.
Thứ năm, thông qua chính sách truyền thông, Nhà nước làm cho các nhà chính trị và
quan chức cao cấp hình thành nên nhận thức về đạo đức rằng, mọi người sẽ không bao giờ tha
thứ cho tội tham nhũng, người có tội sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, trừng trị cả những ai bao che
dung túng người tham nhũng bất kể người đó là ai. Thói quen đạo đức này đã tạo ra ý chí rất
mạnh trong công tác phòng, chống tham nhũng. Do đó các cơ quan điều tra chống tham
nhũng không bao giờ bị ngăn cản trong quá trình điều tra những vụ án tham nhũng, và lại
cũng không có khái niệm "vùng cấm" trong đấu tranh chống tham nhũng.
Thứ sáu, đề cao quyết tâm chính trị của người đứng đầu chính trị thông qua sự ủng
hộ thành lập cơ quan chuyên trách chống tham nhũng có đủ sức mạnh. Đây là bài học rất
thành công ở cả Singapo và Hồng Kông. Đồng thời, việc nâng cao vai trò, trách nhiệm của
các cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, các đơn vị trong tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành động từ lãnh
đạo đến cán bộ, công chức, nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là
kinh nghiệm của cả ba nước trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chống tham nhũng.
Thứ bẩy, tập trung xử lý thông tin do nhân dân thông báo về hiện tượng tham
nhũng, giải quyết dứt điểm đơn thư tố cáo, nhất là đơn thư tố cáo hành vi tham nhũng, lãng
phí tồn đọng, kéo dài; kịp thời giải quyết các vụ việc phát sinh, không để xảy ra tình trạng
nhân dân mất lòng tin vào quyết tâm chống tham nhũng của nhà nước.
Thứ tám, thu hút các nhân viên xuất sắc vào công việc chống tham nhũng. Đồng
thời đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận, nâng cao chất
lượng công tác tham mưu và hiệu quả công tác cho đội ngũ cán bộ, công chức chống tham
nhũng. Tăng cường công tác bảo vệ hợp lý cán bộ và nhân dân tham gia chống tham
nhũng.
Thứ chín, tăng cường phối hợp hoạt động giữa Ban chỉ đạo phòng, chống tham
nhũng của Trung ương với các cơ quan chống tham nhũng của địa phương nhằm giám sát
phòng ngừa sai phạm; nâng cao chất lượng trong hoạt động kiểm tra, thanh tra và điều tra,
truy tố, xét xử các vụ tham nhũng theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ mười, tiếp tục chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật đối với các cơ quan quản lý nhà
nước, các cấp chính quyền trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao; thực
hiện nghiêm chế độ kiểm soát nội bộ trong các cơ quan hành chính; phân định rõ trách
nhiệm của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo các cấp; đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Thứ mười một, kịp thời khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân có thành tích
trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; kiên quyết xem xét, xử lý theo quy
định của pháp luật đối với các hành vi vi phạm các quy định về phòng, chống tham nhũng;
công báo công khai kết quả xử lý các đối tượng, vụ việc tham nhũng để tăng cường công tác
giáo dục, răn đe, phòng ngừa.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH Ở SƠN LA
2.1. THỰC TRẠNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH Ở SƠN LA
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La
2.1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của tỉnh Sơn La
Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên 14.174 km2.
Phía Bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Lai Châu; phía Đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình;
phía Tây giáp với tỉnh Điện Biên; phía Nam giáp với tỉnh Thanh Hóa và nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào; có đường biên giới Việt - Lào dài 250 km. Sơn La có độ cao trung
bình là 600-700m so với mặt biển, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực Sông Đà, Sông
Mã, có 2 cao nguyên là Mộc Châu và Nà Sản. Tỉnh Sơn La nằm trên trục quốc lộ 6 Hà Nội -
Sơn La - Điện Biên, cách Hà Nội 320 km, là một tỉnh nằm sâu trong lục địa, có 2 cửa khẩu
quốc gia với nước bạn Lào (Chiềng Khương, Pa Háng).
Đất đai chưa khai thác trên địa bàn tỉnh còn nhiều, độ phì tự nhiên khá cao, khả
năng tái sinh thảm thực vật lớn, thuận lợi cho việc gia tăng độ che phủ của rừng và sự phát
triển của các loại cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày.
Nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng, song có trữ lượng nhỏ, phân bố
rải rác, chưa được khai thác nhiều, có triển vọng cho phát triển công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng (xi măng, gạch, ngói), khai thác than, đồng, chì, vàng, ni ken...
Điều kiện thiên nhiên tạo cho Sơn La tiềm năng để phát triển một số sản phẩm
nông - lâm sản hàng hóa với quy mô lớn (như chè đặc sản chất lượng cao, chăn nuôi gia
súc, gia cầm, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa, bò thịt chất lượng cao), các loại cây ăn quả ôn
đới, nhiệt đới, Á nhiệt đới (với quy mô trên 30.000 ha)...
Sơn La có lợi thế rất lớn về tiềm năng thủy điện, đây là điều kiện tốt để Sơn La
phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, với điều kiện của một tỉnh miền núi, địa hình bị chia cắt, phức tạp, hệ
thống giao thông yếu kém, nhất là giao thông đến địa bàn các xã thuộc vùng dân tộc thiểu
số, biên giới, các hiện tượng thời tiết, khí hậu, thiên tai cực đoan như mưa lũ, hạn hán,
sương muối... diễn biến khó lường, làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội của
tỉnh Sơn La nói chung và công tác quản lý hành chính nhà nước nói riêng.
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Sơn La
Về xã hội: Sơn La là một tỉnh miền núi, có 11 đơn vị hành chính (1 thành phố, 10
huyện) với 12 dân tộc cùng sinh sống. Dân số của tỉnh, theo số liệu thống kê năm 2006, là
trên 1 triệu người. Trong đó, dân số ở khu vực nông thôn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng
88,7%; khu vực thành thị chiếm 11,3%. Dân số trong độ tuổi lao động khoảng 541 ngàn
người, chiếm 54% dân số toàn tỉnh. Lao động nông, lâm nghiệp chiếm gần 90% tổng số
lao động. Lao động công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và chế biến chiếm khoảng 10%.
Nhân dân các dân tộc Sơn La có truyền thống cách mạng, đoàn kết, yêu nước. Chính
trị, trật tự an ninh, quốc phòng trên địa bàn luôn được đảm bảo.
Trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề của lao động ở Sơn
La còn thấp so với yêu cầu phát triển. Cả tỉnh hiện nay chỉ có 01 trường đại học, 01 trường
cao đẳng, một số trường trung cấp và trung tâm đào tạo nghề. Do vậy, việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức và lao động ở tỉnh phụ thuộc chủ yếu vào các trường đại học, cao
đẳng ở Hà Nội và các tỉnh khác. Điều này cũng gây khó khăn cho quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh.
Về kinh tế: Trong những năm qua, với sự giúp đỡ nhiều mặt của Trung ương, sự
nỗ lực cao của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân
các dân tộc trong tỉnh, kinh tế của tỉnh Sơn La đã có những bước chuyển biến tích cực.
Tổng GDP của tỉnh (theo giá so sánh năm 1994) đã tăng đáng kể trong giai đoạn
2006-2008.
2.
61
4,
18
3.
02
2,
14
3.
42
1,
88
15,03
15,61
13,23
0,00
500,00
1.000,00
1.500,00
2.000,00
2.500,00
3.000,00
3.500,00
4.000,00
2006 2007 2008
G
D
P
, t
ỷ
đồ
n
g
12
12,5
13
13,5
14
14,5
15
15,5
16
Tă
n
g
tr
ư
ở
n
g
G
D
P
,
%
GDP, tỷ đồng Tăng trưởng GDP, %
Biểu đồ 2.1: GDP và tăng trưởng GDP của tỉnh Sơn La 2006-2008
(theo giá so sánh 1994)
Cơ cấu GDP chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị sản xuất công
nghiệp và thương mại, dịch vụ, giảm dần giá trị sản xuất nông nghiệp.
Bảng 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Sơn La, 2006 - 2008
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Nông, lâm, thủy sản 50,07 45,80 43,15
Công nghiệp, xây dựng 15,64 16,92 19,97
Dịch vụ 34,28 37, 28 36,88
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Sơn La, năm 2009.
Đặc biệt, từ khi Nhà nước phê duyệt xây dựng công trình thủy điện Sơn La, hàng
loạt các dự án giao thông như quốc lộ 6, cầu Tạ Khoa, quốc lộ 4G, Quốc lộ 279 được xây
dựng và nâng cấp đã tạo thêm nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế của tỉnh.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, nền kinh tế của tỉnh Sơn La vẫn chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp; công nghiệp, thương mại và dịch vụ kém phát triển. Kết cấu hạ tầng đang trong
thời kỳ đầu tư phát triển, thu nhập bình quân đầu người dân còn thấp và có sự phân hóa
giàu nghèo khá lớn giữa các tầng lớp dân cư, giữa khu vực nông thôn và thành thị. Nguồn
thu ngân sách nhỏ bé, tổng số thu ngân sách nhà nước tại địa phương năm 2008 chỉ đạt
487,02 tỷ đồng, mới đáp ứng được 15,97% tổng chi ngân sách của tỉnh.
Tổ chức hành chính của tỉnh Sơn La như sau:
Các Sở, Ban, Ngành:
- Văn phòng Hội đồng và Ủy ban nhân dân tỉnh,
- Sở Nội vụ;
- Sở Giáo dục và Đào tạo;
- Sở Lao động - Thương binh và xã hội;
- Sở Y tế;
- Sở Kế hoạch và Đầu tư;
- Sở Xây dựng;
- Sở Tài nguyên, Môi trường;
- Sở Tài chính,
- Sở Khoa học và Công nghệ;
- Sở Bưu chính viễn thông;
- Sở Giao thông;
- Sở Thương mại, Du lịch và Thể thao;
- Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn;
- Hải quan Sơn La;
- Cục thuế Sơn La;
- Ban Tôn giáo;
- Thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng tỉnh;
- Công an tỉnh;
- Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh;
- Bộ đội biên phòng;
- Thanh tra tỉnh;
- Cục Thống kê;
- Kho bạc nhà nước;
- Bưu điện tỉnh;
- Ngân hàng phát triển tỉnh.
Các huyện, thành phố:
- Thành phố Sơn La;
- Huyện Mai Sơn;
- Huyện Yên Châu;
- Huyện Mộc Châu;
- Huyện Mường La;
- Huyện Thuận Châu;
- Huyện Quỳnh Nhai;
- Huyện Bắc Yên;
- Huyện Phù Yên;
- Huyện Sông Mã;
- Huyện Sốp Cộp;
Triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện Trung ương Đảng,
Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngànhh Trung ương thực hiện các chủ trương, chính sách hỗ
trợ phát triển kinh tế xã hội miền núi, biên giới, đặc biệt là dự án đầu tư di dân tái định cư
Thủy điện Sơn La là cơ hội lớn để Sơn La phát triển toàn diện, kinh tế tăng trưởng khá, an
sinh xã hội được đảm bảo, an ninh quốc phòng được củng cố.
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La luôn giữ gìn và phát huy truyền
thống đoàn kết thống nhất, ý chí tự lực tự cường; quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách,
phấn đấu hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, đưa Sơn La
thoát khỏi tỉnh đặc biệt khó khăn. Cấp ủy, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên và nhân
dân trong tỉnh đồng tình ủng hộ các chủ trương, giải pháp của Đảng, Nhà nước trong công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm; tích cực tham gia giúp các cơ
quan chức năng phát hiện, đấu tranh, ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lãng phí.
Tuy nhiên nền kinh tế của tỉnh bị ảnh hưởng tác động bất lợi của nhiều yếu tố đối
với vùng núi Tây bắc như rét đậm, rét hại, bão, lũ, dịch bệnh... Tác động của mặt trái của
cơ chế thị trường; sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các bộ phận dân cư; một bộ
phận cán bộ công chức thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sống thực dụng, thiếu tinh thần trách
nhiệm trong thực thi công vụ, kỷ cương kỷ luật có lúc, có nơi bị buông lỏng. Năng lực
trình độ quản lý điều hành của một bộ phận cán bộ quản lý còn bất cập trong phạm vi, lĩnh
vực được giao, dân trí còn thấp và chưa đồng đều cũng làm ảnh hưởng đến việc triển khai
thực thi pháp luật nói chung cũng như công tác phòng, chống tham nhũng. Mô hình, cơ
chế hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh chủ yếu là kiêm nhiệm;
bộ máy chuyên trách giúp việc cho Ủy ban nhân tỉnh về công tác phòng, chống tham
nhũng còn thiếu về số lượng, yếu về kinh nghiệm và nghiệp vụ chuyên môn do đó việc
phát hiện và xử lý các vụ việc tham nhũng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.
2.1.2. Một số hình thức tham nhũng qua các vụ việc điển hình tại tỉnh Sơn La
Trước hết phải nói rằng, việc đánh giá về tình hình tham nhũng trong các lĩnh vực
thông qua các số liệu là vấn đề hết sức khó khăn. Bởi vì, nếu căn cứ vào các yếu tố cần và
đủ để xác định hành vi hay vụ việc tham nhũng thì tham nhũng phải có đủ yếu tố: lợi dụng
chức vụ, quyền hạn và vụ lợi. Trong nhiều lĩnh vực, tham nhũng gắn bó chặt chẽ với
những hành vi cố ý làm trái hoặc lãng phí mà nhiều trường hợp rất khó hoặc đã không
chứng minh được yếu tố vụ lợi, vì thế thường được nhận định chung là tình trạng gây thất
thoát hay sai phạm về kinh tế. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, đa số các trường hợp
thất thoát và sai phạm đó thường đi liền với tư lợi và tham nhũng. Để có một số liệu tương
đối chính xác về tham nhũng có lẽ chỉ có thể thông qua các bản án đã có hiệu lực pháp luật
với việc thống kê các tội danh thuộc nhóm tội tham nhũng. Nhưng đó chỉ là con số nhỏ so
với thực trạng tham nhũng bởi nhiều vụ việc không được đưa ra xử lý hình sự.
Chính vì vậy, để có một bức tranh tương đối toàn diện về tham nhũng ở các cơ
quan hành chính cấp tỉnh Sơn La phù hợp với nhận định của Đảng, Nhà nước ta cũng như
của xã hội, ở đây ta nêu ra những vụ việc và con số chính thức của cơ quan Thanh tra tỉnh
Sơn La, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La…, qua các phương tiện thông tin đại chúng có thể
tin cậy được.
2.1.2.1. Tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Tham nhũng xảy ra phổ biến trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản và gây thiệt
hại lớn tài sản của Nhà nước. Hầu hết các công trình xây dựng đều có biểu hiện thất thoát
tài sản do tham ô, cố ý làm trái và diễn ra ở tất cả các khâu, các giai đoạn, từ khâu lập và
phê duyệt dự án, khảo sát, thiết kế, duyệt kế hoạch vốn, đấu thầu, tư vấn giám sát, nghiệm
thu, thanh quyết toán công trình. Qua thanh tra 40 dự án, công trình có tổng mức đầu tư
103 tỷ đồng, phát hiện tổng số sai phạm về tài chính là 114.505 triệu đồng, chiếm 11,11%
tổng vốn đầu tư. Ở từng hạng mục công trình các dự án được thanh tra, kiểm tra đều có
mức độ sai phạm khác nhau:
- 16/40 dự án, công trình (chiếm 40%) vi phạm về khâu chuẩn bị đầu tư;
- 14/40 dự án, công trình (chiếm 35%) vi phạm về khâu thẩm định dự án;
- 15/40 dự án, công trình (chiếm 37,5%) vi phạm quy chế đấu thầu;
- 18/40 dự án, công trình (chiếm 45%) vi phạm khâu thiết kế kỹ thuật, thi công;
- 12/40 dự án, công trình (chiếm 30%) vi phạm quy định về nghiệm thu, thanh
quyết toán.
Qua các vụ việc đã được thanh tra cho thấy, tỷ lệ thất thoát trong đầu tư xây dựng
cơ bản trung bình từ 8 đến 14%, cá biệt có công trình thất thoát đến 20%. Chính vì vậy
nhiều công trình có chất lượng kém, thậm chí chưa nghiệm thu đã hư hỏng, chưa đưa vào
sử dụng hoặc ngay sau khi sử dụng đã xuống cấp như: Công trình trụ sở liên cơ tỉnh Sơn
La, công trình sân vận động tỉnh Sơn La, công trình Trung tâm văn hóa thông tin và triển
lãm tỉnh Sơn La… Vi phạm và tội phạm thường xảy ra ở những công trình hoàn thành
trong một thời gian ngắn để phục vụ yêu cầu chính trị, công trình chỉ định thầu hoặc đấu
thầu hạn chế, công trình bị chia cắt thành các gói thầu nhỏ, có nhiều nhà thầu phụ, công
trình phải bổ sung vốn bất thường, công trình kéo dài nhiều năm không quyết toán được,
công trình sử dụng vốn ODA…
Bảng 2.2. Tình hình sai phạm trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Sơn La
TT Năm
Số cuộc
thanh tra
Số dự án
công trình
Tổng vốn
đầu tư
(triệu đồng)
Phát hiện
sai phạm
(triệu đồng)
Tỷ lệ sai
phạm/ Tổng
vốn đầu tư
1 2006 10 11 138.950 19.453 14%
2 2007 15 15 792.290 87.152 11%
3 2008 8 14 98.760 79.080 8%
Tổng
số
33 40 1.030.000 114.505 11,11%
Nguồn: Số liệu của Thanh tra Nhà nước.
Mặc dù tất cả những sai phạm nêu trên trong các công trình bản chất đều là tham
nhũng do một phần không nhỏ là do các hành vi xà xẻo, rút ruột công trình, còn một phần
nữa thực chất là hối lộ để bỏ qua hành vi sai trái nhưng rất khó chứng minh nên các cơ
quan thanh tra quy về hành vi "thiếu tinh thần trách nhiệm" hoặc "cố ý làm trái".
2.1.2.2. Tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai
Đây cũng là lĩnh vực xảy ra nhiều tham nhũng và khiếu nại, tố cáo, số lượng tài
sản nhà nước bị mất là rất lớn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khi đất đai trở thành
hàng hóa có giá trị đặc biệt, với chế độ ở hữu toàn dân về đất đai ủy quyền cho cơ quan
nhà nước quản lý, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai sẽ có cơ hội phát
sinh và phát triển. Tùy theo mức độ khác nhau, nhưng không chỉ đất đai ở đô thị mà cả
vùng nông thôn đều bị lấn chiếm, cấp phát, mua bán, chuyển nhượng tùy tiện, trái phép. Vi
phạm và tham nhũng về đất đai thường qua các dạng chủ yếu: cấp đất trái thẩm quyền,
thông qua danh nghĩa các dự án để chia chác kiếm lời; hợp thức hóa đất lấn chiếm trái
phép; chuyển đổi mục đích sử dụng đất tùy tiện, không đúng quy hoạch, thu đất của dân,
đền bù giá rẻ, giao cho một doanh nghiệp sau đó san ủi mặt bằng để chia lô bán nền…đây
là hành vi đem lại siêu lợi nhuận cho một nhóm người.
Ngoài ra, còn có hành vi tham nhũng trong quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng
qua việc nâng giá đền bù, khai khống diện tích để rút tiền của ngân sách nhà nước. Năm
2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La ra Quyết định thanh tra về việc thực hiện chính sách
đền bù giải phóng mặt bằng dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 6 tại thành phố Sơn La. Qua
kết luận số 779/KL-CTUBND ngày 13/4/2007, thu hồi 16.033,37 triệu đồng tiền sai phạm
và chuyển hồ sơ thanh tra sang cơ quan điều tra Công an tỉnh tiếp tục điều tra, xác minh
làm rõ những sai phạm của tập thể, cá nhân trong việc thực hiện chính sách đền bù giải
phóng mặt bằng dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 6 tại thành phố Sơn La. Vừa qua Tòa án
nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 177/2008/HSST ngày
26/8/2008 đối với các bị cáo lợi dụng chức vụ quyền hạn, gây hậu quả nghiêm trọng trong
việc triển khai dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 6 với kết quả:
1. Cà Văn Lả, nguyên trưởng phòng Tài nguyên môi trường thành phố Sơn La,
tuyên phạt 9 năm tù,
2. Nguyễn Văn Minh, nguyên chuyên viên phòng Tài nguyên môi trường thành
phố Sơn La, tuyên phạt 4 năm tù,
3. Vũ Quang Huy, nguyên chuyên viên phòng Tài nguyên môi trường thành phố
Sơn La, tuyên phạt 4 năm tù,
4. Vũ Quang Huy, nguyên Phó phòng Tài nguyên môi trường thành phố Sơn La,
tuyên phạt 3 năm 6 tháng tù,
5. Lò Bình Trọng, nguyên đội trưởng đội thu thuế trước bạ và thu khác Chi cục
thuế thành phố Sơn La, tuyên phạt 2 năm tù,
6. Ông Nguyễn Thái Hải, nguyên chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Sơn La;
Chánh văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, tuyên phạt 2 năm tù cho hưởng án treo,
7. 8 bị cáo bao gồm các chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường, xã trên địa bàn thành
phố Sơn La bị thi hành kỷ luật hành chính.
2.1.2.3. Tham nhũng trong lĩnh vực tài chính, sử dụng ngân sách nhà nước
Cơ chế "xin - cho" và việc quản lý lỏng lẻo đã dẫn đến các vi phạm trong quản lý,
cấp phát vốn, sử dụng kinh phí ngân sách gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước. Tình
trạng "chạy" ngân sách, "chạy" dự án của nhiều cơ quan, địa phương thực chất là một loại
tham nhũng có tính chất tập thể. Chính ở đây diễn ra những hành vi quà cáp biếu xén, lại
quả với những khoản tiền rất lớn và là một loại tham nhũng rất khó bị phát hiện và xử lý.
Việc sử dụng ngân sách nhà nước hết sức bừa bãi và có nhiều biểu hiện tham
nhũng. Chẳng hạn trong năm 2008, qua thanh tra việc chấp hành chế độ thu, chi tài chính,
sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cho thấy tình trạng để ngoài sổ sách, thu sai quy định
và để tồn đọng các khoản thu là 24 tỷ 936 triệu đồng; chi sai chế độ, chính sách, chi thiếu
chứng từ, cho tạm ứng sai quy định là 4 tỷ đồng. Thanh tra đối với tổ chức tín dụng đã
phát hiện 2 vụ tiêu cực, tham nhũng với số tiền vi phạm trên 1 tỷ 773 triệu đồng. Đó chỉ là
những con số nhỏ so với những gì diễn ra trên thực tế. Trong các cơ quan nhà nước, hoạt
động mua sắm công là nơi thường xuyên xảy ra tình trạng mua đắt, bán rẻ, lợi dụng để
chia chác. Bên cạnh đó, các hành vi mua bán và sử dụng trái phép hóa đơn giá trị gia tăng
để hợp pháp hóa các chi phí khống trong đầu tư xây dựng cơ bản, nâng khống giá trong
mua sắm hàng hóa, tài sản của cơ quan doanh nghiệp nhà nước để tham ô cũng khá phổ
biến...
2.1.2.4. Tham nhũng bằng cách "gây khó khăn" trong giao dịch hành chính
Tình trạng nhũng nhiễu nhân dân khi có công việc tiếp xúc với chính quyền không
phải là hiếm ở Sơn La. Hình thức phổ biến ở các cấp thành phố, huyện, xã phường là công
dân muốn có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà nhanh chóng theo yêu cầu
thì cần phải đưa một số tiền lót tay nào đó cho nhân viên trực tiếp giải quyết hoặc người
quen của họ.
Một hình thức tham nhũng thường thấy và lộ liễu hơn ở Sơn La là cán bộ công
chức phụ trách thụ lý giải quyết thủ tục cấp các loại giấy phép như: xây dựng, hoàn công,
đăng ký kinh doanh (nhất là các ngành nghề nhạy cảm) v.v... thường cố ý gây khó dễ, tạo
ra các khó khăn giả tạo như không hướng dẫn để người dân lập hồ sơ đầy đủ ngay từ đầu,
cố tình kéo dài thời gian trả hồ sơ với lý do không chính đáng, chỉ dẫn nhân dân đi qua
nhiều bộ phận không cần thiết, câu kết với nhau để một số bộ phận xử lý nào đó kéo dài
thời gian nhằm vòi tiền.
Một loại tham nhũng cũng khá phổ biến ở Sơn La là nhờ vả người quen đưa quà
cáp để công chức giải quyết sự việc theo ý của thân chủ. Công chức sẽ viện dẫn nhiều lý
do như phải làm ngoài giờ, trường hợp ngoại lệ để hợp thức hóa thu nhập đối tác đem lại.
Một loại tham nhũng nữa cũng đang báo động trong quan hệ công tác nội bộ cơ
quan hành chính ở Sơn La là "mua quan, bán chức", là tạo dựng mối quan hệ cánh hẩu
giữa cấp trên với cấp dưới trong công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ lãnh đạo cấp trên sẽ ưu
tiên bổ nhiệm một chức danh lãnh đạo trong cơ quan cho ai có quan hệ cá nhân tốt với họ
chứ không phải có năng lực và phù hợp nhất với công việc cần giao.
2.2. HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH TẠI SƠN LA
2.2.1. Chủ trương của tỉnh
Để việc triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống
tham nhũng nghiêm túc có hiệu quả, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các chỉ thị, nghị
quyết, quyết định để triển khai, thực hiện, cụ thể:
- Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 25/3/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
về việc ban hành chương trình hành động thực hiện Quyết định số 25/2006/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
- Quyết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La.pdf