Tài liệu Luận văn Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh với học viên ở Học viện Chính trị – Quân sự hiện nay: LUẬN VĂN:
Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh với học
viên ở Học viện Chính trị – Quân sự hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị vĩ đại, đồng thời là nhà quân sự
xuất sắc của dân tộc ta. Trong toàn bộ di sản quân sự của Người, phong cách tư duy
quân sự có nội dung to lớn và giữ một vị trí hết sức trọng yếu.
Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận trong phong cách tư
duy của Người, có những đặc điểm riêng và gắn liền với thực tiễn quân sự cách
mạng Việt Nam. Đó là phong cách tư duy luôn luôn xem xét vấn đề quân sự gắn với
yêu cầu, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng vì độc lập dân tộc và CNXH; tính biện
chứng trong nhận thức và giải quyết vấn đề quân sự; bám sát thực tiễn quân sự Việt
Nam; không ngừng phát huy sức mạnh tổng hợp và thể hiện quyết tâm lớn, sáng tạo
cao trong các tình huống quân sự. Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng ta lãnh đạo quá
trình khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, giành độc lập...
111 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh với học viên ở Học viện Chính trị – Quân sự hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh với học
viên ở Học viện Chính trị – Quân sự hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị vĩ đại, đồng thời là nhà quân sự
xuất sắc của dân tộc ta. Trong toàn bộ di sản quân sự của Người, phong cách tư duy
quân sự có nội dung to lớn và giữ một vị trí hết sức trọng yếu.
Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận trong phong cách tư
duy của Người, có những đặc điểm riêng và gắn liền với thực tiễn quân sự cách
mạng Việt Nam. Đó là phong cách tư duy luôn luôn xem xét vấn đề quân sự gắn với
yêu cầu, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng vì độc lập dân tộc và CNXH; tính biện
chứng trong nhận thức và giải quyết vấn đề quân sự; bám sát thực tiễn quân sự Việt
Nam; không ngừng phát huy sức mạnh tổng hợp và thể hiện quyết tâm lớn, sáng tạo
cao trong các tình huống quân sự. Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng ta lãnh đạo quá
trình khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, giành độc lập, thống nhất Tổ quốc gần
nửa thế kỷ qua. Quá trình đấu tranh thắng lợi đó đã khẳng định sự hình thành và
phát triển phong cách tư duy, trong đó có phong cách tư duy quân sự của Người.
Đội ngũ cán bộ, sĩ quan quân đội trưởng thành, chỉ huy bộ đội đánh thắng mọi kẻ
thù xâm lược, giải quyết các tình huống quân sự một cách sáng tạo, là do lĩnh hội
được tư tưởng quân sự và nhất là được rèn luyện theo phong cách tư duy quân sự
của Người. Vì vậy, nghiên cứu phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh để góp
phần hiểu rõ hơn tư tưởng quân sự của Người và xây dựng phong cách tư duy quân
sự cho đội ngũ cán bộ quân đội nói chung, cho đội ngũ học viên ở HVCTQS nói
riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đặc biệt đối
với quá trình xây dựng Quân đội ta trở thành quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại là một việc làm cần thiết.
Hiện nay, thế giới đang diễn ra quá trình chuyển biến mạnh mẽ từ loại hình
quân sự của thời đại công nghiệp sang loại hình quân sự của thời đại thông tin, mà
yêu cầu của sự chuyển biến tư duy quân sự là tiền đề, là cốt lõi của quá trình đó. Vì
vậy, Quân đội ta cần được xây dựng vững mạnh, sẵn sàng đối phó với những cuộc
chiến tranh trong tương lai có thể xảy ra với tính chất phức tạp, quy mô rộng lớn, chiến
tranh vũ khí công nghệ cao trong mọi tình huống. Tình hình đó đặt ra yêu cầu nâng cao
trình độ mọi mặt, đặc biệt là phong cách tư duy quân sự cho đội ngũ cán bộ, sĩ quan,
trong đó có học viên HVCTQS.
Nhìn chung, thực trạng phong cách tư duy quân sự của học viên HVCTQS
trong những năm qua về cơ bản đã bám sát thực tiễn quân sự Việt Nam, thể hiện
tinh thần tích cực nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, có ý chí rèn luyện để trở thành
người chính trị viên – bí thư cấp uỷ theo yêu cầu mục tiêu đào tạo. Tuy nhiên phong
cách tư duy quân sự ở đội ngũ này còn hạn chế nhiều mặt, nhất là về phương pháp
phân tích, giải quyết mâu thuẫn, giải quyết những vấn đề thực tiễn. Bởi vậy, việc xây
dựng, rèn luyện theo phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cho học viên HVCTQS
là vấn đề cấp thiết trước mắt, đồng thời là vấn đề cơ bản lâu dài, góp phần làm cho đội
ngũ cán bộ chính trị trưởng thành, đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến đấu trong mọi
tình huống.
Với những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài “Phong cách tư duy quân sự Hồ
Chí Minh với học viên ở Học viện Chính trị – Quân sự hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ
khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy quân sự nói
riêng, là một bộ phận quan trọng trong di sản tư tưởng của Người, nhưng còn ít
được nghiên cứu. Tuy nhiên, đến nay đã có một số nghiên cứu, bước đầu về vấn đề
này ở những góc độ khác nhau.
Mở đầu tác giả Cao Thái có bài “Những nét đặc sắc trong phong cách tư duy
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học số 2 – 1980, bước đầu phác thảo những nét lớn
trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Đó là tư duy vượt lên mọi thành kiến tư
tưởng; có sự thống nhất giữa tình cảm cách mạng và lý trí khoa học, gắn lý luận với
thực tiễn; tổng kết kinh nghiệm để làm giàu tri thức; mọi suy nghĩ đều hướng tới
hành động cải tạo và xây dựng xã hội; luôn luôn coi trọng điều kiện khách quan,
phát huy tối đa nỗ lực chủ quan và tính tự giác cách mạng. Tác giả kết luận: đứng
trước những nhiệm vụ cách mạng mới mẻ, chúng ta không có con đường nào khác
ngoài con đường nâng cao phương pháp tư duy lý luận – mà phương pháp tư duy
Hồ Chí Minh là một mẫu mực.
Tiếp đó trong sách “Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời
đại”, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1990, Cố vấn Phạm Văn Đồng đã đề cập phong cách tư
duy Hồ Chí Minh ở một số nét tiêu biểu như: gắn lý luận cách mạng với thực tiễn
cách mạng, tính hệ thống, diễn đạt giản đơn, dễ hiểu, dễ nhớ, có sức thuyết phục
mạnh mẽ.
Tác phẩm “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” của nhiều nhà khoa
học, do Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, đã nhận
định rằng: nét đặc trưng của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là độc lập, tự chủ,
sáng tạo. Đặc trưng này đã có trong phong cách tư duy của Người từ rất sớm, lúc
còn thiếu thời và bước vào tuổi thanh niên. Tính độc lập, tự chủ của tư duy đã sớm
giúp Người đi đến những nhận định mới mẻ, không thụ động trong suy nghĩ và
trong hành động. Nhưng độc lập, tự chủ của tư duy Hồ Chí Minh thực sự có bước
phát triển nhảy vọt khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin và làm cho tính độc lập,
tự chủ có nét sáng tạo. Các tác giả còn nhận định rằng, chủ nghĩa Mác Lênin đã đưa
tư duy của Hồ Chí Minh đến độ chín để đối chiếu, so sánh, lựa chọn, chắt lọc và
tổng hợp những cứ liệu mà thực tiễn Việt Nam và thế giới cung cấp, những kinh
nghiệm mà cuộc sống mang lại, những tư tưởng của người đi trước được gợi mở, để
từ đó đi đến những kết luận mới, tư duy mới. Lý giải vì sao phong cách tư duy Hồ
Chí Minh lại có nét đặc trưng đó, các tác giả cho rằng: mọi suy nghĩ của Người luôn
luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam; Người thực hiện rộng mở tư duy, nghiên cứu mọi
tư tưởng, học thuyết đã có và hướng tầm nhìn ra thế giới; đồng thời không ngừng học tập
nâng cao trình độ văn hóa, làm giàu trí tuệ của mình.
Tác phẩm “Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh” của nhiều nhà khoa
học, do Trần Văn Phòng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, cũng bàn
về nét đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh và cho đó là phong cách tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Nét đặc
trưng đó không chỉ trong tư duy mà cả trong hành động cách mạng, trong kháng
chiến cũng như trong xây dựng đất nước, là nét đặc trưng rất Hồ Chí Minh. Bàn về
cơ sở hình thành phong cách tư duy của Người, các tác giả cho rằng: đó chính là
phong cách tư duy phương Đông; là chủ nghĩa Mác Lênin mà đặc biệt là phương
pháp biện chứng duy vật; là bản sắc cá nhân của chính tư duy Hồ Chí Minh. Tác
phẩm còn giành một phần bàn đến việc xây dựng phong cách tư duy cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
Về tư duy quân sự và phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cũng đã được
một số nhà khoa học, nhà quân sự bước đầu nghiên cứu.
Bài: “Tính biện chứng trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh” của Hoàng
Minh Thảo, Tạp chí Cộng sản số 4 – 1990 đã bước đầu gợi ý một số đặc điểm lớn
về phong cách tư duy quân sự của Người như: kế thừa với tư tưởng sáng tạo để sáng
tạo; năng động chủ quan trong việc giải quyết mâu thuẫn trong quân sự; không có
quân sự đơn thuần, nó vận động gắn liền với các hoạt động khác. Tác giả đã nêu rõ sự
xuyên suốt của tính biện chứng trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là đặt quân sự
trong mối quan hệ tổng thể, thống nhất, toàn diện với các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, tư tưởng… đồng thời đặt các mối quan hệ đó trong từng thời điểm lịch sử cụ
thể để giải quyết các vấn đề quân sự.
Bài “Tư duy quân sự Hồ Chí Minh, tiếp cận từ góc độ văn hoá” của Quang
Cận, Tạp chí QPTD số 5 – 2000 đề cập một số nội dung cụ thể về tư duy quân sự
Hồ Chí Minh, đó là: xác định mục đích của chiến tranh cách mạng nhằm mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH; về xây dựng lực lượng cách mạng là khối đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh công nông; phát động và tổ chức toàn dân đánh giặc,
lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt; phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ
thuật đánh giặc toàn diện: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao... Tác giả
còn đề cập đến chủ nghĩa nhân văn trong tư duy quân sự Hồ Chí Minh về sự quan
tâm đối với con người, nhất là đối với nhân dân và các lực lượng vũ trang. Người
chăm lo bồi dưỡng sức dân, đẩy mạnh xây dựng chế độ mới ngay trong kháng
chiến. Đối với tù, hàng binh và những người lầm lỗi Người hết sức khoan dung…
Tư duy quân sự Hồ Chí Minh đã được thể hiện trong chiến lược, sách lược của
Đảng trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, vì độc lập dân tộc và CNXH. Tác
giả kết luận: tư duy quân sự Hồ Chí Minh, giúp chúng ta hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung, tư duy chính trị – quân sự Hồ Chí Minh nói riêng để xử lý theo
góc độ văn hóa những vấn đề quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số bài viết nghiên cứu vận dụng học tập, rèn
luyện phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ chính trị như: cuốn sách “Sửa
đổi lối làm việc. Giá trị lịch sử và hiện thực” của HVCTQS, Nxb QĐND, Hà Nội
2002 tập hợp bài viết của nhiều nhà khoa học quân sự về đổi mới phong cách, tác
phong làm việc theo tư tưởng Hồ Chí Minh; “Xây dựng phong cách làm việc của
cán bộ chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Nguyễn Tiến Huân, in trong sách
“Xây dựng quân đội về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới”,
Nxb QĐND, Hà Nội 2004...; “Tác phong của chính uỷ, chính trị viên” của Phạm
Hồng Cư, Tạp chí Thanh niên quân đội số 41 – 2007; “Góp phần tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về tư cách và phương pháp, tác phong công tác của chính uỷ, chính
trị viên trong QĐND Việt Nam” của Vũ Minh Thực, Tạp chí QPTD số 2 – 2007.
Những bài viết nêu trên tuy chưa đề cập trực tiếp đến phong cách tư duy quân sự,
nhưng là chất liệu tốt để đề tài xây dựng các giải pháp đồng bộ trong học tập và rèn
luyện của học viên đào tạo cán bộ chính trị tại các học viện, nhà trường quân đội.
Trong những năm gần đây luận án, luận văn của nghiên cứu sinh và học viên
cao học, nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và phong cách Hồ Chí Minh ngày
một nhiều hơn. Tuy vậy, các luận án, luận văn liên quan đến phong cách tư duy
quân sự Hồ Chí Minh còn rất ít.
Trong số luận văn tốt nghiệp các lớp đào tạo giảng viên tư tưởng Hồ Chí
Minh, đáng chú ý luận văn “Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh” của Trương
Quang Đãn, khoá III, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2002. Luận
văn trình bày bản chất, đặc trưng phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh và xây
dựng phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cho người chỉ huy quân sự hiện nay.
Tuy vậy, trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp khoá đào tạo giảng viên, thời gian có
hạn, nên tác giả mới đặt ra một số nội dung cơ bản, mà chưa có điều kiện đi sâu,
nhất là việc xác định khái niệm, cơ sở hình thành, đặc điểm phong cách tư duy quân
sự Hồ Chí Minh. Luận văn sẽ kế thừa và coi đó như một hướng nghiên cứu cần
tham khảo và học tập.
Nhìn chung, nghiên cứu về phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh còn ít
được bàn đến, kết quả nghiên cứu chưa nhiều, thành tựu được kế thừa còn rất hạn
chế. Song kết quả bước đầu đó là những gợi ý rất quý báu về các ý tưởng và phương
pháp nghiên cứu để tác giả hoàn thành Luận văn của mình. Vì vậy, đề tài học viên
lựa chọn nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu nghiên cứu phong cách tư duy quân sự
Hồ Chí Minh hiện nay và không trùng với các công trình khoa học đã được công
bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích
Làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản của phong cách tư duy quân sự Hồ Chí
Minh, trên cơ sở đó góp phần xây dựng, rèn luyện phong cách tư duy quân sự cho
học viên đào tạo cán bộ chính trị ở HVCTQS, giúp họ ra trường có bản lĩnh chính
trị vững vàng, phẩm chất, năng lực, phong cách tốt (nhất là phong cách tư duy quân
sự), hoàn thành được chức trách chính trị viên, làm cơ sở tiếp tục phát triển ở cương
vị cao hơn.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm, cơ sở hình thành và đặc điểm phong cách tư duy quân sự
Hồ Chí Minh.
- Làm rõ thực trạng về phong cách tư duy quân sự của đội ngũ học viên đào
tạo cán bộ chính trị phân đội, trước yêu cầu, mục tiêu đào tạo trong tình hình mới,
nhiệm vụ mới.
- Nêu lên một số giải pháp chủ yếu xây dựng, rèn luyện theo phong cách tư
duy quân sự Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo ở HVCTQS.
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh và vận dụng
vào đào tạo huấn luyện ở HVCTQS theo phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận:
- Lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng quân sự Hồ
Chí Minh.
- Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là đường lối
quân sự, quốc phòng của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu:
- Trên cơ sở phương pháp luận Triết học Mác Lênin, luận văn vận dụng
phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic, đồng thời sử dụng một số
phương pháp khác như phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh...
- Nghiên cứu các bài nói, bài viết, của Hồ Chí Minh bàn về quân sự. Nghiên
cứu sự chỉ đạo trực tiếp của Người với các nhà lãnh đạo, các tướng lĩnh chỉ huy
quân đội.
- Điều tra, khảo sát thực tiễn học viên về nhận thức và rèn luyện theo phong
cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh, để đề xuất giải pháp phù hợp.
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ khái niệm, cơ sở hình thành, đặc điểm nổi bật phong cách tư duy
quân sự Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp xây dựng, rèn luyện phong cách tư duy quân sự
cho học viên đào tạo cán bộ chính trị phân đội theo phong cách tư duy quân sự Hồ
Chí Minh làm cơ sở để họ tiếp tục phát huy trong quá trình thực hiện chức trách
chính uỷ, chính trị viên.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào nghiên cứu di sản quân sự Hồ Chí Minh, trực tiếp
là phong cách và phong cách tư duy quân sự của Người, từ đó vận dụng vào việc
rèn luyện phong cách tư duy quân sự cho học viên ở HVCTQS, thiết thực hưởng
ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, do Bộ
Chính trị phát động.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo giáo dục, rèn luyện theo
phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh trong các đơn vị và nhà trường quân sự.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn có hai chương (sáu tiết), danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh
1.1. Khái niệm phong cách và phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh
Phong cách, thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh là Stylus, tiếng Hy Lạp
là Stylos. Đến nay, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
phong cách.
ở nước Nga, Từ điển Triết học [70, tr.10] ấn hành năm 1974, khái niệm
phong cách chỉ được hiểu chủ yếu trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Từ điển
Tiếng Nga [70, tr.10] ấn hành 1984, phong cách lại có các nghĩa sau đây:
1. Là tổng thể các dấu hiệu đặc trưng nghệ thuật của một thời đại, một xu
hướng hoặc một bút pháp cá nhân của người nghệ sĩ; hoặc tổng thể các dấu hiệu đặc
trưng, đặc biệt, những thuộc tính riêng của ai đó khác với người khác.
2. Là tổng thể các phương pháp sử dụng công cụ ngôn ngữ đặc trưng của một
nhà văn, một tác phẩm nào đó.
3. Thể hiện nét đặc sắc có tính chất chức năng của ngôn ngữ, nghệ thuật.
4. Là cách thức thể hiện những biện pháp riêng của mình.
5. Là cách thức thể hiện mình như cách nói, cách mặc...
Từ điển tiếng Pháp La Rousse, xuất bản ở Pari 1994 cũng đề cập đến nội
hàm của phong cách theo nhiều nghĩa khác nhau:
1. Cách đặc biệt để biểu lộ suy nghĩ, cảm xúc, tình cảm.
2. Thể ngôn ngữ riêng cho một người, một nhóm xã hội.
3. Cách cá nhân khi tham gia thể thao hay nghệ thuật, được xác định bởi một
tập hợp của các đặc tính riêng.
4.Cách đặc biệt về một thể loại, một thời kỳ, nhất là trong lĩnh vực nghệ
thuật, được xác định bởi một tập hợp của các đặc tính rõ ràng.
5. Toàn bộ sở thích, cách sống của một người nào đó; cách riêng về ăn, mặc,
ứng xử, hoạt động của một người.
6. Phẩm chất của một vật, một người, biểu lộ một đặc điểm thẩm mỹ độc
đáo.
Như vậy, trên thế giới phong cách có thể hiểu theo hai phạm vi khác nhau:
theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
Nước ta cũng có tình hình như thế. Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản
2003 [67, tr.782] chỉ đề cập đến phong cách phạm vi hẹp ở lĩnh vực ngôn ngữ, văn
học,nghệ thuật. Trong khi đó các Từ điển khác đưa ra khái niệm phạm vi rộng với
những nghĩa sau đây:
“1. Là những lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự, tạo
nên cái riêng của một người hay một loại người nào đó.
2. Những đặc điểm có tính chất hệ thống về tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện
trong sáng tác của một nghệ sĩ hay trong các sáng tác nói chung thuộc cùng một thể
loại.
3. Dạng ngôn ngữ sử dụng trong những hoàn cảnh điển hình nào đó” [69,
tr.372].
Các tác giả của công trình “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” cũng
cho rằng, phong cách không chỉ hiểu trong phạm vi hẹp, giới hạn trong một lĩnh vực
nào đó, mà còn cần phải hiểu theo phạm vi rộng. Theo đó, phong cách “là lề lối, cung
cách, cách thức, phong thái, phong độ, phẩm cách...đã trở thành nề nếp ổn định của
một người hoặc một lớp người được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao
động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết)... tạo nên những giá trị, những
nét riêng biệt của chủ thể đó” [28, tr.154].
Những khái niệm nêu trên tuy còn khác nhau ở quan niệm phạm vi rộng hay
hẹp, nhưng rõ ràng khái niệm phong cách theo phạm vi rộng nhiều lĩnh vực là phản
ánh đúng tình hình thực tế. Ngày nay trong xã hội hiện đại, người ta đã bàn đến
phong cách quân nhân, phong cách kinh doanh, phong cách người tiêu dùng v.v...
mà không dừng lại trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật nữa. Do đó, nghiên cứu
phong cách Hồ Chí Minh theo nghĩa rộng, với một hệ thống hoàn chỉnh từ tư duy
đến hành động như các nhà khoa học đã tiến hành là đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của
thực tiễn cách mạng và xã hội hiện nay.
Phong cách đối với người cách mạng và cán bộ, đảng viên có vai trò rất
quan trọng, bởi phong cách có quan hệ với tư tưởng, đường lối và phương pháp
cách mạng, có quan hệ chặt chẽ với đạo đức cách mạng.
Tư tưởng, đường lối là phương hướng mục tiêu, còn phương pháp là cách
thức có tính nguyên tắc để đưa đường lối vào cuộc sống. Phương pháp được thực
hiện thông qua những con người cụ thể với trình độ năng lực và phong cách khác
nhau. Vì vậy có tình hình là cùng được quán triệt đường lối, cũng quyết tâm tổ chức
thực hiện, nhưng phương pháp lại không giống nhau và do đó kết quả cũng khác
nhau. Đó là do phong cách ở mỗi người, mỗi địa phương không đồng nhất. Điều đó
cho thấy, phong cách quan trọng biết nhường nào trong việc hình thành, phát triển
đường lối và tổ chức thực hiện đường lối. Vì vậy, phải xuất phát từ tư tưởng đường
lối để đề ra những yêu cầu về phong cách, bởi phong cách, nhất là phong cách làm
việc, phong cách tư duy “có thể là góp phần thực hiện hợp lý và có hiệu quả các
mục tiêu, nhiêm vụ đề ra, hoặc là góp phần làm chậm trễ việc thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ đó” [67, tr.474].
Đạo đức cách mạng cũng có quan hệ chặt chẽ tới phong cách của cán bộ,
đảng viên. Nếu phong cách là người, thì đạo đức cũng thể hiện ra qua phong cách.
Trong thực tiễn đấu tranh, những người cách mạng đều có những phẩm chất chung
về đạo đức, nhưng lại thể hiện ra không giống nhau, bởi đạo đức đã thông qua
những phong cách khác nhau. Vì vậy, đạo đức cách mạng tốt làm cho phong cách
phù hợp với yêu cầu cách mạng và ngược lại, cán bộ, đảng viên có phong cách tốt
làm cho đạo đức cách mạng được phát huy, thúc đẩy hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Phong cách còn gắn với truyền thống, tập quán, thói quen. Vì vậy, để có
phong cách tốt cần coi trọng giáo dục truyền thống tốt đẹp, xây dựng môi trường
sống, xây dựng phong cách mới. Tiến hành được những việc này góp phần đáng kể
vào việc rèn luyện, xây dựng phong cách đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Phong cách tuy mang dấu ấn cá nhân nhưng đồng thời phong cách cũng có
những ảnh hưởng, có sự lan toả rất lớn. Vì vậy, học tập và rèn luyện theo phong
cách tiên tiến, phấn đấu trở thành cán bộ, đảng viên gương mẫu về mọi mặt là một
yêu cầu trong xây dựng đảng cầm quyền hiện nay. Đó thực sự là yêu cầu khách
quan về xây dựng phong cách của đảng cầm quyền, của cán bộ, đảng viên. Rất vinh
dự và tự hào cho Đảng ta, dân tộc ta có được tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại cả về tư tưởng, đạo đức và phong cách. Đảng ta đã kiên trì phát động và kêu gọi
toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo tấm gương của Người.
Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, bắt đầu từ suy nghĩ đến hoạt động
thực tiễn và sinh hoạt hàng ngày. Như vậy, phong cách Hồ Chí Minh có phạm vi
rộng lớn tổng hợp của nhiều mặt: phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong
cách diễn đạt, phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt. Phong cách đó thể hiện
rõ nét con người, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã viết:“Những tư tưởng lớn và tình cảm lớn luôn luôn
thể hiện một cách rõ nét trong phong cách của Hồ Chí Minh, trong mọi cử
chỉ và hành động, trong sự ứng xử đối với những công việc cực kỳ trọng đại
của nước, của dân cũng như trong cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ với
mọi người... từ cách nói, cách viết ở những giờ phút quan trọng bậc nhất
cũng như trong lúc bình thường” [19, tr.37]. Theo đó,
nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết
hiện nay.
Phong cách tư duy quân sự bắt nguồn từ tư duy và phong cách tư duy, do
vậy để có được phong cách tư duy quân sự đúng phải có tư duy sâu sắc và phong
cách tư duy đúng đắn. “Tư duy – sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức
một cách đặc biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới quan trong các
khái niệm, phán đoán, suy luận” [70, tr.634, 635], đó là quá trình từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, con đường biện
chứng của nhận thức trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự. Tư
duy là cơ sở, điều kiện để hình thành và phát triển phong cách tư duy. Do đó mà
trong thực tiễn đã nảy sinh những phong cách tư duy khác nhau, người thì đạt tới
phong cách tư duy biện chứng, nhưng cũng có người rơi vào duy tâm, siêu hình. Vì
vậy, nhờ có phong cách tư duy đúng đắn mà con người phản ánh đúng tình hình
thực tế khách quan, xử lý sáng tạo có hiệu quả những vấn đề đặt ra. Theo Trần Văn
Phòng “Phong cách tư duy là những đặc điểm riêng, có tính hệ thống, ổn định trên
cơ sở của một cách thức thực hiện phương pháp tư duy của riêng cá nhân nào đó”
[47, tr.12]. Khái niệm này đã phản ánh phong cách tư duy là một mặt của phong
cách con người, là sự thống nhất giữa cách thức thực hiện phương pháp tư duy và
nội dung, kết quả tư duy. Xét trong mối quan hệ tổng thể của hệ thống phong cách
con người, thì phong cách tư duy quân sự chịu ảnh hưởng lớn của phong cách và
phong cách tư duy chung đó.
Phong cách tư duy quân sự là một bộ phận của phong cách tư duy . Phong
cách này được hình thành trên cơ sở tư duy quân sự và phương pháp nhận thức quân
sự. Tư duy quân sự là một vòng khâu của quá trình nhận thức quân sự, là sự phản
ánh hoạt động thực tiễn quân sự của con người thông qua các khái niệm, phán đoán,
suy luận. Tư duy quân sự là quá trình nhận thức lý tính nhằm phản ánh gián tiếp và
khái quát các thuộc tính bản chất quy luật của sự vật, hiện tượng trong lĩnh vực
quân sự khi chúng trực tiếp tác động vào bộ não người trên cơ sở những tài liệu
nhận thức cảm tính. Nhờ các tính chất đó của tư duy quân sự mà con người nắm
được thuộc tính bản chất, mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng quân sự, tìm ra các
qui luật khách quan, giải quyết các vấn đề quân sự có hiệu quả. Do mối quan hệ của
lĩnh vực quân sự với toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, nên tư duy quân sự
có ngoại diên rất rộng rãi “Phương pháp nhận thức quân sự là hệ thống, cách thức,
thủ pháp để tìm hiểu, nhận biết những hiện tượng, sự kiện, hoạt động quân sự” [68,
tr.641]. Từ đó có thể rút ra định nghĩa: Phong cách tư duy quân sự là những đặc
điểm riêng có tính hệ thống, ổn định trên cơ sở tư duy quân sự và cách thức
thực hiện phương pháp nhận thức quân sự của một cá nhân hoặc một lớp
người. Theo đó phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh hình thành và phát triển
trên cơ sở tư duy quân sự và phong cách tư duy của Người. Vì vậy, phong cách tư
duy quân sự Hồ Chí Minh có những nét đặc trưng chung của phong cách tư duy
“độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực...” [47, tr.13], đồng thời bao gồm những đặc
điểm riêng có tính hệ thống, ổn định được xây dựng trên cơ sở tư duy quân sự và
cách thức thực hiện phương pháp nhận thức quân sự.
Trong lĩnh vực quân sự, phong cách tư duy quân sự quan hệ chặt chẽ với
hàng loạt các yếu tố khác như lý luận, đường lối quân sự, nghệ thuật quân sự, tác
phong quân sự, với việc tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang... Lý luận, đường lối
quân sự là phương hướng hình thành, định hướng phát triển phong cách tư duy quân
sự và đến lượt nó, phong cách tư duy quân sự lại góp phần tích cực vào phát triển lý
luận đường lối quân sự và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối quân sự. Cần nhấn
mạnh rằng hình thành, phát triển đường lối quân sự không phải chỉ do tư duy quân
sự và phong cách tư duy quân sự mà là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, nhưng
trong đó chủ yếu là tư duy quân sự và phong cách tư duy quân sự. Phong cách tư
duy quân sự còn là cơ sở, điều kiện để hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự,
nó đòi hỏi phải cân nhắc, tính toán trên mọi phương diện như tổ chức, xây dựng lực
lượng vũ trang, đến sự phát triển nghệ thuật chiến thuật, chiến dịch, chiến lược, đến
việc sử dụng binh lực, kỹ thuật chiến đấu, đến việc thực nghiệm ở thao trường và
diễn tập cơ quan chỉ huy v.v. Phong cách tư duy quân sự cũng đòi hỏi tác phong
quân sự phải biến đổi tương ứng như kiên quyết, quyết đoán, khẩn trương, năng
động, sáng tạo... phù hợp với yêu cầu hoạt động quân sự. Ngược lại, tác phong quân
sự tác động trở lại làm cho những đặc điểm riêng trong phong cách tư duy quân sự
trở thành rõ nét có tính hệ thống và ổn định ở một con người, một đơn vị. Như vậy,
phong cách tư duy quân sự, lý luận, đường lối quân sự, nghệ thuật quân sự, tác
phong quân sự, tổ chức lực lượng quân sự... là những vấn đề quan hệ chặt chẽ với
nhau và có tác động lẫn nhau. Vì vậy, xây dựng phong cách tư duy quân sự đúng
đắn, có tầm quan trọng đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ quân sự. Do đó việc nghiên
cứu, học tập phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh vừa là nhiệm vụ lâu dài đồng
thời mang tính cấp thiết trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, góp phần nghiên
cứu Hồ Chí Minh một cách toàn diện cả về sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức và phong
cách.
1.2 Cơ sở hình thành Phong cách tư duy quân sự Hồ chí minh
Một là, tư duy quân sự truyền thống Việt Nam ảnh hưởng sâu sắc đến phong
cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta là kiên cường, bất khuất,
dũng cảm, thông minh, sáng tạo... những yếu tố đó được đúc kết qua mấy ngàn năm
chống ngoại xâm, từ tổ tiên đến các thế hệ ngày nay. Truyền thống đó chứng tỏ dân
tộc Việt Nam “thượng võ”, nhưng không phải là hiếu chiến mà là dân tộc yêu
chuộng hoà bình, luôn luôn mong muốn đất nước hoà bình. Phải dụng binh, cầm
súng chiến đấu là vì nhân nghĩa, để cứu dân, cứu nước, đó là yêu cầu khách quan,
không có con đường nào khác. Đất nước ta không rộng, người không đông, lại sống
bên cạnh nước láng giềng luôn luôn có tư tưởng bành trướng, thì việc sẵn sàng tự
vệ, giữ yên bờ cõi phải được đặt ra thường xuyên là đúng đắn. Hơn nữa, với vị trí
chiến lược “đầu cầu lục địa và hải cảng giao tiếp” vô cùng quan trọng ở Đông
Dương và Đông Nam á, đã tạo cho nước ta nhiều lợi thế trong phát triển, giao lưu
kinh tế, văn hoá, xã hội. Nhưng cũng chính vị thế đó mà Tổ quốc ta cũng luôn luôn
đứng trước sự nhòm ngó, thôn tính, chia cắt, đồng hoá kéo dài thường xuyên của
các kẻ thù. Hoàn cảnh đó cũng làm nổi bật sự kiên định bảo vệ mục tiêu sống còn là
độc lập và tự do của dân tộc ta. Khác với một số quốc gia trên thế giới, nhân dân ta
coi việc bảo vệ độc lập, tự do là động lực lớn nhất, quyết tâm trụ vững với tinh thần
“một tấc không đi, một ly không rời”. Tinh thần đó xuyên suốt chiều dài lịch sử,
nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng giành thắng lợi, mà có lúc đã phải chịu
thất bại. An Dương Vương để mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà (179 tr CN); Hồ
Quý Ly thua nhà Minh để mất Đại Ngu (1407); triều đình nhà Nguyễn để mất Đại
Nam (1884) dẫn đến sự đô hộ của thực dân Pháp v.v. Trước những sự kiện đó, dân
ta coi là một nỗi đau, nỗi nhục mất nước và trăn trở rút ra những bài học kinh
nghiệm, khơi dậy tinh thần yêu nước, quyết giành lại giang sơn đã bị rơi vào tay kẻ
thù. Điều đó cho thấy, dân tộc Việt Nam có ý chí, nghị lực phi thường, thắng không
kiêu, bại không nản, khí phách hiên ngang, không bi luỵ, luôn luôn có tư tưởng
vươn lên vượt mọi khó khăn, thử thách.
Quá trình đánh giặc giữ nước cũng là quá trình từng bước hình thành và phát
triển nghệ thuật quân sự Việt Nam cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Nghệ
thuật đó ra đời trong điều kiện nhân dân ta luôn luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược
mạnh hơn mình nhiều lần. Trước đây chống kẻ thù cùng chế độ phong kiến cũng thế
và khi chuyển sang chống xâm lược của các nước đế quốc, thì so sánh lực lượng
càng chênh lệch hơn về binh lực, trang bị và vũ khí... Thực tế khách quan đòi hỏi
phải xây dựng nền nghệ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu đánh thắng kẻ thù xâm lược
phù hợp với thực lực và tính cách con người Việt Nam. Đáp ứng yêu cầu đó, chiến
lược toàn dân đánh giặc đã ra đời, các đội du kích chống xâm lược Tần (214 - 208 tr
CN), phòng ngự bằng thành luỹ của An Dương Vương (thế kỷ thứ II tr CN) và khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng (40 - 43)... đã chứng tỏ điều đó. Trải qua thời gian, nghệ
thuật quân sự Việt Nam phát triển ngày càng phong phú. Thế kỷ thứ XI, trong cuộc
kháng chiến chống Tống lần hai, Lý Thường Kiệt đã chủ động động bất ngờ tiến
công địch ngay tại căn cứ chuẩn bị của chúng trên đất chúng, tạo điều kiện giành
thắng lợi trận “quyết chiến chiến lược” trên sông Như Nguyệt. Ba lần chống
Nguyên Mông thời Trần (1258, 1285, 1287 – 1288) đã “lấy đoản binh thắng trường
trận”, thực hiện toàn dân đánh giặc trên cơ sở nòng cốt của ba thứ quân, (quân triều
đình, quân các lộ, hương binh và thổ binh). Nhà Trần đã giải quyết chiến tranh bằng
hàng loạt trận đánh qua các giai đoạn: rút lui chiến lược, phản công, tiến công để
tiêu diệt quân xâm lược. Lê Lợi – Nguyễn Trãi chống quân Minh (1418 – 1427) đã
xây dựng lực lượng từ nhỏ đến lớn, vừa kháng chiến, vừa xây dựng, mở rộng căn cứ
địa, kết hợp tác chiến với địch vận, lấy ít đánh nhiều... Bước sang thế kỷ XVIII,
Nguyễn Huệ đã có công phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam lên một bước mới.
Các binh chủng (thủy binh, pháo binh, tượng binh) được tăng cường và có sự phối
hợp tác chiến với bộ binh. Trên chiến trường xuất hiện nhiều trận tiến công thần tốc,
táo bạo, bất ngờ... Tiếp theo là cuộc chiến đấu chống các nước đế quốc xâm lược đã
phát triển và hoàn thiện nghệ thuật quân sự Việt Nam, nhất là từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng. Như vậy, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã
từng bước được hình thành và phát triển qua nhiều thế hệ trong quá trình dựng nước
và giữ nước. Đến thời đại Hồ Chí Minh, nghệ thuật đó đã bao hàm những nội dung
chủ yếu sau đây: “Toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt; quán
triệt tư tưởng tiến công; giành giữ quyền chủ động; phát huy sức mạnh tổng hợp của
chiến tranh nhân dân; lấy ít địch nhiều, nhỏ đánh lớn, đồng thời biết tập trung lực
lượng khi cần thiết, luôn luôn đánh địch trên thế mạnh; dùng sức mạnh cả lực và
thế, phát huy cao nhất khả năng của thế trong việc kết hợp với lực tạo sức mạnh
lớn...” [68, tr.545].
Nghệ thuật quân sự thể hiện quyết tâm và tư duy đánh giặc, giữ nước của dân
tộc. Là người Việt Nam yêu nước ai cũng được thừa hưởng tư duy quân sự truyền
thống của các thế hệ trước truyền lại, tuy với mức độ khác nhau. Hồ Chí Minh là
một người chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất và có công nâng tư duy truyền thống quân
sự, truyền thống đánh giặc giữ nước, nghệ thuật quân sự Việt Nam lên tầm cao mới,
với chất lượng mới. Nhận định điều này không phải là võ đoán mà từ quá trình hình
thành tư tưởng quân sự, phong cách tư duy quân sự của Người, qua sự chỉ đạo các
cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc, qua sự chỉ dẫn của
Người đối với cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các tướng lĩnh của Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Năm 1922, khi vua Khải Định sang nước Pháp, Người đã lên án ông này bán
nước cầu vinh, cam tâm làm tay sai cho giặc, phản bội dân tộc đồng thời nêu lên
truyền thống oanh liệt của dân tộc. Người viết: “Giở sử đất nước
ra mà xem, mi sẽ thấy tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm,
chí khí và tự tôn. Lý Bôn (544) với một dúm nghĩa sĩ, đã nổi dậy và bẻ gẫy
ách đô hộ của Hán tộc. Ngô Quyền (938) đã phá tan đạo quân nước ngoài
kéo vào đánh chiếm đất đai Tổ quốc ta... Lê Đại Hành đã dũng cảm không
chịu khuất phục trước yêu sách của nước láng giềng hùng mạnh hơn mình
gấp bội, Ông đã đánh thắng địch, giết chết tướng địch, do đó giải thoát được
đồng bào khỏi nạn nô dịch. Quân Mông Cổ đi đến đâu phá sạch đến đấy, đã
bị nhà Trần vẻ vang của ta đánh bại. Lê Lợi đã anh hùng đứng ra lãnh đạo
cách mạng nước Nam, đập tan chế độ tàn bạo, hạch sách mà những kẻ thù tự
xưng là bảo hộ ta, bắt ta phải chịu... Năm 1407, Tầu đánh nhau với ta, nhờ ý
chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông, sức mạnh, nước
Nam đã thắng...” [37, tr.79, 80]. Đọc những dòng nêu trên, viết cách đây
80
năm ta không chỉ thấy Người lên án một ông vua bù nhìn đã mất hết tác dụng đối
với dân tộc, mà còn như thấy Người tổng kết lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước
và nêu lên tư duy quân sự truyền thống của dân tộc. Khi trở thành lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, Người lại càng quan tâm phát triển những kết quả tổng kết này và vận
dụng trong hoạch định đường lối quân sự và chỉ đạo hoạt động quân sự. Võ Nguyên
Giáp, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lĩnh vực quân sự , đã
nhiều năm làm việc trực tiếp với Người nêu rõ “di sản quân sự oanh liệt độc đáo và
phong phú của dân tộc ta, trải qua các cuộc khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng và
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mang tính nhân dân suốt hơn 2000 năm: chống phong
kiến phương Bắc xâm lược đã được Người kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo
trong điều kiện mới” [24, tr.191]. Thực tiễn chiến tranh cách mạng ở nước ta đã
chứng tỏ phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những tinh hoa
quân sự Việt Nam. Hoàng Minh Thảo viết: “Người kế thừa truyền thống đấu tranh
giữ nước của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa quân sự Đông – Tây kim
cổ để tìm ra cách đánh phù hợp, giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh cách mạng
của dân tộc”[54, tr.10]. Đó cũng là quan điểm chung của các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu quân sự ở nước ta hiện nay.
Hai là, Học thuyết quân sự và phong cách tư duy quân sự mácxít, cơ sở chủ yếu
hình thành tư duy quân sự và, phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
Học thuyết quân sự vô sản, hệ tư tưởng lý luận và những nguyên tắc căn bản
về quân sự được C.Mác, Ph ăng ghen sáng lập, V.I Lênin nâng lên trình độ mới
bằng bổ sung những kết luận khoa học về chiến tranh và quân đội, về bảo vệ Tổ
quốc sau cách mạng tháng Mười Nga. Học thuyết quân sự xác định đối tượng tác
chiến, mục đích chiến tranh, nghệ thuật lãnh đạo và chỉ đạo quân sự, phương thức
tiến hành chiến tranh, nghệ thuật quân sự, phương hướng xây dựng lực lượng vũ
trang... Học thuyết quân sự vô sản thể hiện ở học thuyết về chiến tranh và quân đội
và học thuyết về bảo vệ tổ quốc.
Học thuyết về chiến tranh và quân đội, là hệ thống lý luận, quan điểm của
chủ nghĩa Mác Lênin về những vấn đề cơ bản của chiến tranh và quân đội. Học
thuyết đó xác định chiến tranh là kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực và quân
đội là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng chính trị, một bộ phận đặc thù của nhà
nước, công cụ chủ yếu của đấu tranh vũ trang và chiến tranh; lý giải khoa học về
nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất, tính chất của chiến tranh, mối quan hệ của chiến
tranh với chính trị, xã hội...; vạch rõ nguồn gốc, bản chất chính trị và chức năng của
quân đội và nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản; khẳng định
vai trò của Đảng Cộng sản lãnh đạo chiến tranh và quân đội.
Trên cơ sở học thuyết về chiến tranh và quân đội, Lênin đã hình thành Học
thuyết bảo vệ Tổ quốc Xô viết sau cách mạng tháng Mười. Người nêu rõ bảo vệ tổ
quốc XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
như một qui luật của cách mạng XHCN. Vì vậy, sau khi đã giành được chính quyền,
giai cấp công nhân phải vũ trang bảo vệ tổ quốc, chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt quân
sự, xây dựng quân đội kiểu mới; bảo vệ tổ quốc bằng một hệ thống biện pháp quân
sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao...; xây dựng liên minh công nhân với nông dân
vững chắc; kết hợp đúng đắn nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế; xây dựng
CNXH về mọi mặt là điều kiện cơ bản đảm bảo cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và
xây dựng Đảng cộng sản vững mạnh đủ sức lãnh đạo sự nghiệp âý.
Học thuyết quân sự làm nổi bật đặc điểm phong cách tư duy quân sự của các
nhà kinh điển Mác Lênin độc lập, sáng tạo, gắn với thực tiễn lịch sử và yêu cầu
chiến đấu của giai cấp vô sản. Ph ăng ghen với những tác phẩm chủ yếu “Thất bại
của người Piêmông” (1849), “Triển vọng của chiến tranh” (1859), “Vai trò của bạo
lực trong lịch sử” (1888)... C. Mác, với những tác phẩm: “Quá trình phát triển chiến
sự” (1854), “Những bài học của chiến tranh Mỹ” (1861), “Bàn về sự kiện chiến
trường” (1885)... là lý luận quân sự được tổng kết từ thực tiễn các cuộc chiến tranh
dân tộc chưa bước sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. V.I Lênin kế thừa phong cách tư
duy quân sự đó đã phát triển lý luận về chiến tranh quân đội, về bảo vệ tổ quốc, bảo
vệ thành quả cách mạng, thông qua thực tiễn cách mạng tháng Mười Nga. Những
tác phẩm chủ yếu: “Chủ nghĩa xã hội và chiến tranh” (1915), “Cương lĩnh quân sự
của cách mạng vô sản” (1916), “Chiến tranh và cách mạng” (1917), “Nhiệm vụ chủ
yếu của thời đại chúng ta” (1918), “Báo cáo về chính sách kinh tế mới” (1921) ... đã
nói rõ điều đó.
Tư tưởng, lý luận và phong cách tư duy quân sự nêu trên của các nhà kinh
điển đã được Hồ Chí Minh tiếp thu cùng với quá trình nghiên cứu, học tập Học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, đặc biệt trong thời kỳ Người học ở
“Trường Quốc tế Lênin” (1934) và nghiên cứu sinh Ban sử “Viện nghiên cứu các
vấn đề dân tộc phương Đông” (1935 – 1938). Đối với Hồ Chí Minh, nghiên cứu tiếp
thu lý luận quân sự mácxít không mục đích trở thành nhà quân sự, mà vì yêu cầu
của cuộc đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của dân tộc Người,
đó là một bộ phận không thể thiếu trong học thuyết cách mạng của giai cấp vô sản
để chỉ dẫn phương pháp đấu tranh, phương pháp giành thắng lợi trong giành và giữ
chính quyền, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Cần nhấn mạnh rằng, Hồ
Chí Minh luôn luôn trung thành, coi trọng, kính yêu các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác Lênin và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng quân sự và phong cách tư duy quân
sự của các nhà kinh điển, đặc biệt là Lênin. Những vấn đề này biểu hiện trong các
bài nói, bài viết, qua việc huấn luyện cán bộ và chỉ đạo hoạt động quân sự của
Người.
Huấn luyện “Đường cách mệnh” cho những lớp cán bộ cách mạng đầu tiên,
Hồ Chí Minh quan tâm truyền đạt đến họ tinh thần cơ bản của Học thuyết quân sự
vô sản một cách cụ thể, thiết thực, sáng tạo, gắn liền với hoàn cảnh lịch sử. Giải
thích vì sao nước ta phải tiến hành “Dân tộc cách mệnh” và con đường cách mạng
bạo lực là tất yếu của cuộc cách mạng này, Người nói là do “bọn cường quyền này
bắt dân tộc kia làm nô lệ, như Pháp với An Nam. Đến khi dân nô lệ âý chịu không
nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ,
đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi” [38, tr.265]. Người đánh giá dân
chúng có sức mạnh rất to lớn, nhưng muốn đạt được điều đó “phải đoàn kết dân
chúng, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người, giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan là
được” [38, tr.276]. Người chỉ dẫn cho cán bộ ta phải cảnh giác không nên rơi vào
quan điểm “vũ khí luận” của giai cấp tư sản, “dân khí mạnh, thì quân lính nào, súng
ống nào cũng không chống lại được” [38, tr.274]. Để khắc phục quan điểm sai lầm
này phải coi trọng công tác dân vận, ra sức tập hợp lực lượng và tổ chức dân chúng
lại. Cách làm đó rất phù hợp với so sánh lực lượng địch ta, nhất là trong thời kỳ
chuẩn bị khởi nghĩa. Phương pháp huấn luyện quân sự của Hồ Chí Minh tạo cho
cán bộ ta dễ nhớ, dễ hiểu và hiểu sâu sắc, bởi mỗi luận điểm tư tưởng, lý luận đều
được gắn với hoàn cảnh lịch sử nhất định và với mỗi quốc gia. Từ cuộc cách mạng
Mỹ (1776), Người chỉ rõ nhân dân ta đã làm cách mạng thì phải làm đến nơi chứ
đừng như cách mạng Mỹ; khi chính quyền giành được thì phải giao cho dân chúng
số nhiều, thế mới không phải làm lại cách mạng lần nữa. Bàn về cách mạng Pháp
(1789), Người đánh giá cao vai trò quần chúng nhân dân, trong đó công nông là gốc
của sức mạnh âý. Tuy vậy, muốn thành công thì phải có tổ chức rất vững bền.
Người đúc rút kinh nghiệm ở cách mạng vô sản Nga (1917) trên nhiều lĩnh vực: tổ
chức lực lượng; thời cơ khởi nghĩa; nghệ thuật tấn công và những yêu cầu về xây
dựng Đảng để lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang.
Chuyên đề quân sự đầu tiên Hồ Chí Minh trình bày là “Công tác quân sự của
Đảng trong nông dân” tại trường quân sự của những người cộng sản Đức ở Mátcơva
năm 1927 [38, tr.428]. Trong chuyên đề này, Người nêu vai trò của Đảng trong tổ
chức du kích và lãnh đạo chiến tranh du kích, thực chất là những quan điểm quân sự
vô sản trong chiến tranh du kích. Những luận điểm về khởi nghĩa toàn dân; tổ chức
du kích ở khắp các địa phương; các điều kiện căn bản để lập đội du kích; chỉ huy
các đội du kích... được Người nêu lên đều gắn với một hoàn cảnh, một địa danh
nhất định nên sinh động và có sức thuyết phục cao. Người tổng kết kinh nghiệm du
kích Nga, Bungari, ấn Độ... nhưng nhiều nhất là phong trào du kích Trung Quốc.
Quá trình giới thiệu những quan điểm quân sự cho các đồng chí của mình, Hồ Chí
Minh rất chú ý khuyến khích tư duy linh hoạt, sáng tạo, đề phòng máy móc, giáo
điều, dẫn đến hỏng việc. Người nói: những nguyên tắc, lý luận về du kích và chiến
tranh du kích phải đặt trong hoàn cảnh cụ thể, “phải tính đến những nét đặc thù của
từng nước, mục tiêu của phong trào ở từng thời kỳ, vũ khí hiện có (hoặc có thể có
trong quá trình chiến đấu” [38, tr.428]. Như vậy, một lần nữa chứng tỏ Hồ Chí
Minh luôn luôn gắn chặt tư tưởng, lý luận quân sự vào các hoạt động cụ thể, khiến
cho người học hình thành phong cách tư duy uyển chuyển, linh hoạt, sáng tạo.
Tiếp thu Học thuyết quân sự Mácxít và học tập phong cách tư duy quân sự
của các nhà kinh điển Mác Lênin, Người đã viết các tác phẩm: “Con đường giải
phóng” (1940); “Cách đánh du kích” (4 tập 1941 – 1944); “Kinh nghiệm du kích
Tầu”; “Kinh nghiệm du kích Nga”; dịch và giới thiệu “Binh pháp của ông Tôn Tử”
(1945)... làm tài liệu huấn luyện cán bộ. Tư duy quân sự và phong cách tư duy quân
sự còn được thể hiện trong thực tiễn chỉ đạo khởi nghĩa và chiến tranh, ở sự hoạt
động phong phú, sáng tạo của những học trò của Người trong hoạt động quân sự. Sự
chỉ dẫn của Người đối với Tổng tư lệnh quân đội và Người cho những ý kiến để
Tổng Bí thư Trường Chinh viết tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”... đã
chứng tỏ điều đó.
Nhìn lại phương pháp và nội dung huấn luyện quân sự, các tác phẩm quân sự
của Người viết và dịch, sự chỉ dẫn của Người về lãnh đạo, chỉ huy quân sự cho cán
bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội, ta thấy Hồ Chí Minh có sự kế thừa rõ nét tư duy
quân sự và phong cách tư duy quân sự của các nhà mácxít. Những đặc điểm về
phong cách tư duy quân sự của các Ông như: Tư duy quân sự và giải quyết những
vấn đề quân sự luôn luôn hướng tới thực hiện mục tiêu cách mạng; quán triệt tư duy
biện chứng trong lĩnh vực quân sự; lý luận quân sự không tách rời thực tiễn; quyết
tâm lớn, sáng tạo cao trong giải quyết các tình huống quân sự... được Hồ Chí Minh
kế thừa và nâng lên tầm cao mới, phù hợp với phong cách tư duy quân sự phương
Đông và Việt Nam. Nhận định về mối quan hệ tư tưởng quân sự của chủ nghĩa Mác
Lênin với tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp viết: “Đó là tư tưởng
quân sự của chủ nghĩa Mác Lênin đã được Người vận dụng trong lĩnh vực quân sự”
[24, tr.191]. Nếu phương pháp và phong cách thể hiện một cách tập trung ở hệ tư
tưởng thì phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cũng là phong cách tư duy quân
sự kiểu mácxít.
Ba là, phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trên
cơ sở tiếp thu tinh hoa quân sự của thế giới.
Sống ở Pháp thời gian tương đối dài, Người đã chăm chú nghiên cứu nền
quân sự Pháp, kẻ thực dân đang thống trị nước ta. Người đặc biệt quan tâm đến thời
kỳ lịch sử 1792 – 1804 là lúc thành lập nước Pháp Cộng hoà lần thứ nhất, quan tâm
đến Công xã Pari, đến danh tướng Napôlêông LuiBônapác (1769 – 1821).
Người ca ngợi dân tộc Pháp có tinh thần ái quốc. “Dân Pháp tuy lương thực
ít, súng ống thiếu, nhưng nhờ gan cách mệnh mà trong dẹp nội loạn, ngoài
phá cường quyền. Hồi âý lính cách mệnh gọi là “lính không quần” (không
được trang bị quần ngắn như quân đội quý tộc), người không có nón, kẻ
không có giày, áo quần rách tua, mặt gầy bụng đói. Thế mà lính ấy đến đâu,
thì lính ngơại quốc thua đấy, vì họ gan liều hy sinh quá, không ai chống nổi”
[38, tr.272].
Với Công xã Pari, Người ca ngợi sự dũng cảm của giai cấp công nhân nhưng
đồng thời cũng chỉ rõ nguyên nhân vì sao lại thất bại. “Dân can đảm nhiều nhưng trí
thức ít, cho nên để tư bản nó lợi dụng...”, khi thắng lợi rồi nó lại thay phong kiến áp
bức dân chúng; tổ chức không khéo và không liên lạc được với dân cày...
Napôlêông vị hoàng đế Pháp (1804 – 1814; 1815) đồng thời là một danh
tướng nổi tiếng thế giới về tài thao lược và tiếm quyền nhanh. Từ thiếu uý pháo
binh (1785) đến năm 1799, sau cuộc đảo chính, Ông đã nắm quyền chỉ huy cao nhất
quân đội và năm 1804 lên ngôi hoàng đế. Đội quân của ông đã từng chiến thắng
châu Âu, vào được Matxcơva. Tuy có lúc cũng bị thất bại (trận Lai xích 1813)
nhưng ông vẫn không từ bỏ ý chí bành trướng. Chỉ sau thất bại trận Oatéclô (18 – 6
– 1815), bị Anh bắt cầm tù ở đảo Xanh Elen thì sự nghiệp quân sự của Ông mới
chấm dứt.
Nghiên cứu viên tướng này, Hồ Chí Minh có thái độ rõ ràng, Người đánh
giá: “Napoléon là vị tướng có đại tài, đánh đâu thắng đó. Từ địa vị một
người quân nhân thường, làm đến Tổng thống. Từ tổng thống nhảy lên làm
Hoàng đế. Làm Hoàng đế vẫn chưa đủ, còn muốn làm chúa tể cả thế giới.
Các nước hợp sức lại đánh. Kết quả ông Napoléon bị thua. Thua một trận thì
tan tành hết cả...” và Người đi đến kết luận: “Nếu ông Napoléon mà biết dè
dặt, không tham muốn quá chừng thì chắc nước Pháp lúc đó không đến nỗi
vì chiến tranh mà chết người, hại của. Mà ông Napoléon cũng giữ được địa
vị Thiên tử trong một nước giàu mạnh ở Âu châu. Nhưng ông Napoléon đã
làm con giời lại muốn làm cả giời, kết quả bị rơi xuống đất”. Hồ Chí Minh
còn chỉ rõ: tư tưởng bành trướng xâm lược đó, không phải chỉ có ở
Napoléon. “Xưa nay đã nhiều người vì không “tri túc” (chừng mực) mà thất
bại. Vậy mà người sau vẫn không biết nhớ những kinh nghiệm của đời xưa”.
[40, tr.357, 358].
Điều đó, chứng tỏ Hồ Chí Minh nghiên cứu khá kỹ về Napôlêông và nền quân sự
Pháp. Với phong cách tư duy quân sự “gạn đục, khơi trong”, Hồ Chí Minh nhìn
thấy tài thao lược quân sự và sức mạnh chiến đấu của viên tướng này. Nhưng tài
năng và sức mạnh đó chỉ được phát huy tác dụng khi bảo vệ Tổ quốc mình, không
đi xâm lược nước khác, không có tư tưởng bành trướng. Người còn nhấn mạnh,
người đời sau phải nhớ kỹ bài học này.
Khác với ở Pháp, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nền quân sự Xô viết với tính
cách nghiên cứu Học thuyết quân sự để giành được thắng lợi của giai cấp vô sản.
Với cách mạng tháng Mười, Người nghiên cứu kỹ nguyên nhân nổ ra,
phương pháp lãnh đạo của Lênin và Đảng Bônsêvic Nga, quá trình từ cách mạng
1905 đến cách mạng tháng Hai và cách mạng tháng Mười năm 1917... Qua đó,
Người đã đúc rút những vấn đề cốt tử có quan hệ đến khởi nghĩa ở Việt Nam như:
phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải
hy sinh, phải thống nhất. Người đặc biệt lưu ý đến thời cơ khởi nghĩa, đó là một thời
gian rất ngắn, thậm chí là một ngày. Khởi nghĩa không được nổ ra sớm, cũng không
thể muộn được, không làm như vậy thì sẽ thất bại.
Phong trào du kích Nga cũng được Người chú ý tổng kết. Năm 1941, do yêu
cầu chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở nước ta, Người đã viết “Kinh nghiệm du kích
Nga”. Đó là kết quả quá trình tích luỹ của Người về chiến tranh du kích. Đề cập đến
tác dụng của cuốn sách, Võ Nguyên Giáp viết: Do “vấn đề quân sự trở nên cấp
thiết, nhưng cán bộ thì rất thiếu, đồng chí nào biết chút ít vấn đề quân sự đều phải đi
huấn luyện cả. ở Cao Bằng, thời kỳ này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biên soạn một số
tác phẩm trong đó có cuốn “Kinh nghiệm du kích Nga”. Cuốn sách là tài liệu quý
giá, bổ ích cho các đội vũ trang đầu tiên của ta và hội viên cứu quốc các giới” [22,
tr.50].
Sống ở Trung Quốc nhiều năm, qua nhiều thời kỳ chính trị khác nhau, đầy
những biến động phức tạp, Hồ Chí Minh không chỉ coi Trung Quốc như là một căn
cứ địa, hậu phương của cách mạng nước ta, mà Người còn tích cực tham gia thực sự
vào cách mạng Trung Quốc và chăm chú tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo, kinh
nghiệm chiến đấu của đất nước này.
Hồ Chí Minh sớm nhận ra Trung Quốc có vị trí thuận lợi, chỗ dựa vững chắc
trong việc chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam. Trung Quốc với ta không chỉ có điều
kiện địa lý thuận lợi “núi liền núi, sông liền sông”, tiến thoái thuận tiện, mà tình
hình chính trị, cơ chế quản lý của Trung Quốc thời trước cũng làm cho những nhà
yêu nước cách mạng của ta hoạt động, xây dựng cơ sở rất thuận tiện. Việc thành lập
Đảng ta và thành công cách mạng tháng Tám – 1945 đã chứng tỏ tầm nhìn
chiến lược và tư duy sắc sảo đó. Tuy vậy, cũng không nên nghĩ rằng, cán bộ ta chỉ
dựa vào cách mạng Trung Quốc, mà còn trực tiếp tham gia vào các phong trào yêu
nước chống Nhật của nhân dân nước này. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có trực tiếp lăn
lộn với phong trào, cán bộ ta mới trưởng thành được, mới hiểu biết sâu sắc lý tưởng,
mục tiêu cách mạng và đó cũng là nghĩa vụ quốc tế của những người cộng sản.
Người yêu cầu cán bộ ta tham gia cách mạng bạn và chính Người đã thực hiện điều
đó, kể cả tham gia Bát lộ quân. Báo cáo gửi Ban chấp hành Quốc tế cộng sản (7 –
1939) Người viết: “... tôi đến làm việc phiên dịch các tin tức thế giới (nghe đài
thu
thanh) ở Bát lộ quân, làm bí thư chi bộ, chủ nhiệm câu lạc bộ và hiện nay, uỷ
viên uỷ ban câu lạc bộ. Đồng thời tôi đã viết một cuốn sách nói về “Khu vực
đặc biệt” và một số bài báo phản ánh những biến cố chính trị và quân sự, sự
tàn ác của bọn Nhật Bản, tinh thần anh dũng của các chiến sĩ Trung Quốc,
cuộc đấu tranh chống bọn Tờrốtxkit... để tuyên truyền quốc tế” [39, tr.140].
Chính vì đi sâu vào quần chúng nhân dân,
lăn lộn với phong trào (có thời kỳ phải tù đày, trải qua rất nhiều nhà lao) nên Người
hiểu về Trung Quốc sâu sắc một cách kỳ lạ. Trong lĩnh vực quân sự Người rất am hiểu
binh pháp Tôn Tử, Khổng Minh..., về du kích, về Bát lộ quân...
Tôn Tử là cách xưng tên Tôn Vũ, nhà quân sự lớn sống ở cuối thế kỷ VI (tr
CN), tướng nước Ngô dưới triều vua Hạp Lư thời Xuân Thu (722 – 481
tr CN). Trong 30 năm phục vụ nước Ngô, Ông đã làm cho Ngô từ một nước nhỏ
phá được nước Sở lớn mạnh, uy hiếp các nước Tề, Tấn và bắt nước Việt thuần
phục. Tác phẩm nổi tiếng “Binh pháp Tôn Tử” của Ông, bộ binh thư sớm nhất thế
giới đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tôn Vũ soạn Binh pháp này khoảng từ năm
496 – 453 (tr CN) với nội dung hết sức cô đọng. Ông cho rằng nhận thức đúng đắn
về chiến tranh rất quan trọng, đó là việc lớn nhất của quốc gia, có quan hệ đến sự
sống chết của nhân dân, sự mất còn của đất nước. Những nhân tố quyết định của
chiến tranh là: đạo đức chính trị, trời, đất, tướng, pháp và điều kiện kinh tế. Tư
tưởng chiến lược chiến thuật cơ bản là: không đánh mà thắng là tốt nhất; có đủ điều
kiện thắng mới giao chiến; phải biết người, biết ta; biết thiên thời địa lợi; điều động
địch mà không để địch điều động mình; đánh vào nơi địch sơ hở, không phòng bị;
ra quân lúc địch không ngờ; tránh “thực” đánh “hư”... Binh pháp đề cập toàn diện
đến mọi phương pháp , mọi lĩnh vực của người chỉ huy đúng như tiêu đề Ông đặt
cho nó. Hồ Chí Minh đã thấy ở Binh pháp Tôn Tử những tác dụng lớn đối với cán
bộ và nhân dân ta, Người đã giành thời gian để dịch và Mặt trận Việt Minh xuất bản
lần đầu vào tháng 2 năm 1945. Trong tình hình đối phó với âm mưu của Tưởng và
xâm lược của thực dân Pháp năm 1946, Người lại viết những bài ngắn đăng trên báo
Cứu quốc tới 17 số (từ 17/5 – 15/11/1946) ở nhiều phương diện, chiến lược, chiến
thuật khác nhau, dưới dạng các binh pháp của ông Tôn Tử, nhưng có bình luận và
chú thích, hướng dẫn nội dung vận dụng. Người dịch “Binh pháp của ông Tôn Tử”
không chỉ vì ông là danh tướng nổi tiếng, mà chính vì tác dụng rất thiết thực với cán
bộ và cách mạng nước ta. Người viết: “Ông Tôn Tử là một người quân sự có tiếng
nhất ở Trung Quốc... Ngày nay chẳng những trường học Trung Quốc, mà những
trường học quân sự các nước cũng lấy phép này làm gốc và ra sức nghiên cứu. Vì
phép của ông Tôn Tử tuy đã lâu đời, nhưng nguyên tắc đến nay vẫn còn rất đúng”.
Người còn nhấn mạnh: “Nguyên tắc của Tôn Tử chẳng những dùng trong quân sự
đúng mà dùng về chính trị cũng rất hay. Cách ông Tôn Tử nói rất giản đơn, vắn tắt,
chữ ít mà nghĩa nhiều”. Người chỉ dẫn: “Mong các đồng chí ra sức nghiên cứu hiểu
rõ nguyên tắc đó và dùng nó trong công tác chính trị và quân sự của mình” [39,
tr.513]. Qua bản dịch và hướng dẫn nghiên cứu của Người, cán bộ cách mạng nước
ta đã vận dụng sáng tạo “Binh pháp Tôn Tử”, phù hợp với thực tiễn nước ta, góp
phần làm nên chiến thắng lẫy lừng trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng.
Những địa danh Pháp, Nga, Trung Quốc, những sự kiện quân sự, những danh
tướng nổi tiếng nêu trên, chưa phải tất cả những gì về quân sự mà Hồ Chí Minh
nghiên cứu. Nhưng thông qua những vấn đề đó, chứng tỏ Người sớm có ý thức làm
giàu kiến thức quân sự và tạo nên phong cách tư duy quân sự của mình, trên cơ sở
chọn lọc những gì phù hợp với con người Việt Nam, phù hợp với mục tiêu cách
mạng mà Người đang theo đuổi.
Bốn là, trí thông minh, sáng tạo – một yếu tố quyết định hình thành và phát
triển phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
Tư duy quân sự truyền thống, nghệ thuật đánh giặc giữ nước; Học thuyết
quân sự Mác Lênin; tinh hoa quân sự cổ, kim, Đông, Tây là những yếu tố quan
trọng góp phần hình thành phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh. Nhưng sẽ thiếu
đi một yếu tố – mà là yếu tố quyết định nhất nếu không nói đến, đó là tư chất thông
minh sáng tạo cùng với chí căm thù quân xâm lược, quyết tâm giải phóng đồng bào
ở Người. Yếu tố này xuất hiện rất sớm và phát triển theo thời gian từng trải của
Người.
Thuở niên thiếu Hồ Chí Minh đã có những nhận xét về con đường cứu nước
chống Pháp của các bậc cha, anh. Dựa vào Pháp chống phong kiến, nhờ Nhật đánh
Pháp, để có tự do, hạnh phúc, theo Người là ảo tưởng, là xin giặc rủ lòng thương, là
“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Tuy ngay lúc đó, Người chưa đưa ra được
con đường cứu nước nào khác, nhưng phải nhận thấy rằng, trí tuệ thông minh đến
nhường nào và tinh thần cứu nước nung nấu đến tột cùng mới có thể có những nhận
xét sắc sảo như thế. Tư duy đó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy Người tìm con đường
cứu nước đúng đắn.
Ra nước ngoài ở tuổi thanh niên với biết bao thiếu thốn, khó khăn, gian khổ,
có thể sẵn sàng hy sinh bất cứ lúc nào, nhưng không làm Người chùn bước. Lòng
dũng cảm, trí thông minh với một tấm lòng kiên trung, quyết giải phóng đồng bào,
giải phóng Tổ quốc khỏi ách nô lệ đã giúp Người tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn, khác con đường các bậc cha, anh đã và đang đi. Đó là con đường cách
mạng chứ không thể là cải lương, là dùng sức mạnh quần chúng nhân dân để lật đổ
ách thống trị chứ không phải là khủng bố hoặc một âm mưu, thủ đoạn nhất thời, con
đường đó phải chiến đấu quyết liệt, một mất, một còn với kẻ thù, nhưng khi thắng
lợi sẽ đảm bảo cho Tổ quốc độc lập tự do và mang lại hạnh phúc cho muôn đời con,
cháu. Theo đó phải tiến hành khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng để đè bẹp
kẻ thù, làm tan rã ý chí xâm lược của chúng.
Trở về nước, Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng
Tám – 1945 và hai cuộc chiến tranh cách mạng chống Pháp, chống Mỹ. Người đã
dồn hết trí tuệ và năng lực cho hoạch định đường lối quân sự và chỉ đạo công cuộc
giải phóng Tổ quốc. Dưới sự chỉ đạo của Người, nền quân sự Việt Nam phát triển
vượt bậc được thế giới ca ngợi, kẻ thù kính nể trước tài thao lược quân sự của một
dân tộc anh hùng. Từ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo đó, cùng với thực tiễn chiến đấu
giành và giữ vững nền độc lập Tổ quốc của nhân dân ta mà phong cách tư duy quân
sự Hồ Chí Minh không ngừng rèn luyện và phát triển.
Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh tạo nên bởi nhiều nguồn nêu trên,
nhưng không phải là con số cộng, góp nhặt ở mỗi nguồn một ít, mà là những tinh
hoa quân sự được chắt lọc, lựa chọn phù hợp với yêu cầu chiến đấu, với mục tiêu
cách mạng, với tính cách con người Việt Nam và tính cách Hồ Chí Minh. Vì vậy,
nghiên cứu phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh ta như thấy ở trong đó phong
cách tư duy quân sự của người Việt Nam, người phương Đông; lại thấy phong cách
tư duy quân sự cách mạng kiểu Lênin; thấy mưu kế, tài thao lược, của các danh
tướng quân sự..., nhưng lại rất đậm nét Hồ Chí Minh với những đặc điểm của phong
cách tư duy quân sự rõ ràng.
1.3 đặc điểm phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh
1.3.1. Suy nghĩ, xem xét vấn đề quân sự gắn với yêu cầu, mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Mục tiêu cách mạng phải đạt tới như Hồ Chí Minh chỉ rõ: nhân dân ta phải
giành lấy độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, tiến lên CNXH, để có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc. Hướng theo mục tiêu đó, Người không ngừng nghiên cứu lý luận,
thực tiễn để hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, đánh đuổi
quân xâm lược, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, bóc lột. Người nói: một ngày
mà Tổ quốc chưa độc lập, thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn
không ngon, ngủ không yên. Đó là sự trăn trở tư duy của Người làm sao dân tộc ta
thoát khỏi ách ngoại xâm, Tổ quốc ta được thống nhất, nhân dân ta yên vui xây
dựng chế độ mới. Rõ ràng tư duy quân sự đó của Người xuất phát từ mục tiêu cách
mạng và vì thế Người luôn luôn suy nghĩ, xem xét vấn đề quân sự trong phương
hướng thực hiện mục tiêu cách mạng.
Tư duy quân sự Hồ Chí Minh hướng tới thực hiện mục tiêu cách mạng, thể
hiện ở xác định mục đích quân sự, mục đích chiến tranh. Theo Người, phải dùng
bạo lực cách mạng, tiến hành khởi nghĩa, chiến tranh đánh đuổi kẻ thù xâm lược là
tất yếu, không có con đường nào khác, đó là phương tiện để nhân dân ta tiến đến
mục tiêu của mình là độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Vì thế, Người đã đưa khởi
nghĩa và chiến tranh cách mạng ở nước ta có sự phát triển mới về chất so với các
thời kỳ trước. Cứu nước gắn liền với cứu dân; giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động, đem lại tự do, hạnh phúc cho mọi
người, mọi nhà. Người dân chiến đấu vì lợi ích của Tổ quốc, đồng thời vì lợi ích của
chính bản thân mình. Tinh thần yêu nước trở thành động lực mạnh mẽ nhất của
hàng triệu người, quyết xả thân vì nền độc lập tự do của Tổ quốc. Cả nước một
lòng, toàn dân đánh giặc, các lực lượng vũ trang làm nòng cốt... là đường lối quân
sự trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh thống nhất đất
nước. Điều đó cho thấy, tư duy quân sự xuất phát từ mục tiêu cách mạng khác hẳn
với tư duy của các cuộc chiến tranh xâm lược tiến hành bằng quân đội nhà nghề,
dựa vào vũ khí trang bị hiện đại.
Tư duy quân sự Hồ Chí Minh đặt trong phương hướng thực hiện mục tiêu
cách mạng là nguồn gốc phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, bởi mục tiêu cách
mạng có sự hấp dẫn kỳ lạ, không những thu hút được toàn dân lên trận tuyến đấu
tranh, toàn dân đánh giặc mà còn làm nảy nở tinh thần chiến đấu kiên cường, mưu
trí, sáng tạo trong phương thức tiêu diệt kẻ thù. Tấn công địch toàn diện cả quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao...; đánh địch khắp mọi nơi: nông thôn và
thành thị; đánh địch bằng mọi thứ vũ khí tự tạo và vũ khí hiện đại; đánh địch đóng
quân tại chỗ cũng như lúc hành quân; gặp địch là đánh, bám thắt lưng địch mà đánh,
một người cũng tiến công... làm cho kẻ thù ăn không ngon, ngủ không yên, ngày
đêm lo sợ, giảm sút ý chí chiến đấu. Nhằm thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí
Minh chủ trương đánh lâu dài cho đến khi thực hiện được mục tiêu đề ra mới ngừng
chiến đấu. Tinh thần kiên quyết đó theo Người, ta càng đánh địch càng suy yếu, bởi
cuộc chiến tranh của chúng là phi nghĩa, lực lượng ngày càng mỏng, còn ta càng
đánh ngày càng mạnh lên, bởi lực lượng ngày càng đông, tổ chức chiến đấu dày
thêm kinh nghiệm, nhân dân ta ngày càng thấm nhuần sâu sắc mục đích chiến đấu.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Người khéo tổ chức lực lượng chiến đấu, đó là sự
phối hợp chặt chẽ các mũi tiến công của toàn dân, của dân quân du kích, bộ đội địa
phương với các binh đoàn chủ lực. Theo Người, phải có nổi dậy, chiến đấu của toàn
dân, nhưng nhất thiết phải có quả đấm mạnh là các binh đoàn chủ lực mới thực hiện
đánh tiêu diệt để kết thúc chiến tranh. Thực hiện chỉ đạo của Người, hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ giành thắng lợi trên cơ sở toàn dân đều tham gia
chiến đấu, các binh đoàn chủ lực tập trung vào dứt điểm các trận quyết chiến chiến
lược. Như vậy, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
có nguồn gốc từ mục đích khởi nghĩa và chiến tranh, mục tiêu cách mạng. Vì thế
nghệ thuật quân sự cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong chiến tranh cũng
khác hẳn với nghệ thuật quân sự của các nước đế quốc xâm lược.
Hồ Chí Minh xem xét các vấn đề quân sự trong thực hiện mục tiêu cách
mạng, nên Người không chờ kết thúc chiến tranh mới chăm lo sức dân, mà ngay
trong khởi nghĩa, chiến tranh đã thực hiện “kháng chiến đi đôi với kiến quốc”, bồi
dưỡng sức dân trong quá trình chiến tranh. Với tư duy đó, vừa chiến đấu vừa xây
dựng lực lượng và giữ gìn lực lượng, hạn chế hy sinh về người, giảm thiểu thiệt hại
về của. Điều đó xuất phát từ tính nhân văn cao cả, nhưng đồng thời có giữ gìn được
lực lượng mới kháng chiến được lâu dài, mới có nguồn sinh lực để xây dựng chế độ
mới. Đầu cuộc chiến tranh chống Pháp, lực ta còn yếu, để ngăn cản bước tiến quân
giặc, Người kêu gọi nhân dân phá hoại, nhưng vào cuối cuộc chiến tranh, thắng lợi
gần như chắc chắn, thì chủ trương của Người là bảo vệ các thành phố, các cơ sở
công nghiệp trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Sở dĩ có điều đó là do mục
đích cuộc chiến tranh chi phối. Hồ Chí Minh chủ trương bồi dưỡng sức dân ngay
trong kháng chiến. Tiến hành giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất, đẩy mạnh sản
xuất trong vùng giải phóng và giúp đỡ các gia đình chính sách, gia đình nghèo là
nhằm mục đích đó. Những việc làm như vậy trong thực tế tuy chưa cải thiện và
nâng cao đời sống rõ rệt, nhưng ảnh hưởng và hiệu quả rất lớn, làm cho nhân dân và
bộ đội, đặc biệt là nông dân hết sức phấn khởi, hăng hái tham gia kháng chiến.
Thực hiện chủ trương bồi dưỡng sức dân ngay trong kháng chiến, Hồ Chí
Minh kêu gọi thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí và trong điều kiện có thể,
giảm bớt sự đóng góp cho nhân dân. Theo đó, Người yêu cầu các cơ quan Đảng,
Nhà nước đẩy mạnh sản xuất tự túc. Riêng với quân đội, Người giành tình cảm và
chăm lo đặc biệt, đảm bảo ăn no, mặc ấm, trang bị vũ khí đầy đủ để chiến đấu.
Người còn yêu cầu các cấp ủy Đảng, Nhà nước chăm lo hậu phương quân đội để họ
yên lòng đánh giặc. Nhưng Người cũng yêu cầu quân đội phải làm tốt ba chức năng:
đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất. Điều đó cũng có hàm ý,
quân đội trong điều kiện có thể được cần phải tham gia sản xuất, làm kinh tế, góp
phần giúp đỡ nhân dân. Như vậy, tư tưởng bồi dưỡng sức dân trong quá trình kháng
chiến và “kháng chiến đi đôi kiến quốc” là những vấn đề hết sức đặc biệt, nó xuất
hiện ở tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta, bởi tư duy quân sự của Người luôn luôn
được đặt trong phương hướng thực hiện mục tiêu cách mạng.
Tư duy bảo vệ Tổ quốc ở Hồ Chí Minh phát triển trong điều kiện miền Bắc
tiến lên CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong hoàn cảnh lịch sử đó,
Người chỉ rõ: bất kể tình hình nào miền Bắc cũng phải xây dựng CNXH, đó không
chỉ là xây dựng căn cứ địa hậu phương vững chắc nhất cho cách mạng miền Nam
mà còn là đời sống của nhân dân miền Bắc, vì tiền đồ, tương lai của dân tộc. Quá
trình tiến lên CNXH Người lại căn dặn: phải thường xuyên nêu cao cảnh giác; xây
dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; phải luôn luôn nắm vững và giải
quyết tốt mối quan hệ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường tiềm lực quốc
phòng trên cơ sở phát triển nền kinh tế ... Những vấn đề đặt ra nêu trên thể hiện rõ
ràng tư duy bảo vệ Tổ quốc của Người hướng vào thực hiện mục tiêu cách mạng.
Suy nghĩ, xem xét vấn đề quân sự theo yêu cầu thực hiện mục tiêu cách
mạng là một đặc điểm nổi bật trong phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh. Đó là
tư duy không chỉ dựa vào ý chí, tình cảm cách mạng, mà trên cơ sở khách quan
khoa học, tư duy biện chứng triết học Mác – Lênin.
1.3.2. Tính biện chứng trong nhận thức và giải quyết các vấn đề quân sự
Biện chứng, Học thuyết về các mối quan hệ phổ biến và sự phát triển, hay là
khoa học về các qui luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng học thuyết đó vào việc nhận thức và
giải quyết những vấn đề quân sự của cách mạng Việt Nam.
Trước hết là sự kế thừa với tinh thần sáng tạo và để sáng tạo. Từ tư duy này
Hồ Chí Minh cho rằng kế thừa mang tính tất yếu và cần thiết trên tất cả mọi lĩnh
vực. Trong quân sự, lý luận, truyền thống, kinh nghiệm là những vấn đề lưu truyền
từ đời này sang đời khác, nước này sang nước khác, do vậy cần được nghiên cứu,
khai thác để vận dụng vào công cuộc giữ nước. Vì vậy, Người cho rằng các thế hệ
người Việt Nam phải học tập và phát huy lý luận, truyền thống, kinh nghiệm không
những của nước ta mà cả của các quốc gia trên thế giới. Đối với Hồ Chí Minh, kế
thừa phải đáp ứng yêu cầu sáng tạo và để sáng tạo. Với tinh thần đó, Người chủ
động nghiên cứu, tổng kết, chủ động tuyên truyền, tổ chức, nhằm thực hiện mục
đích của khởi nghĩa và chiến tranh . Người nói: “Tinh thần yêu nước cũng như các
thứ của quý. Có khi được trưng
bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất
dấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho
những của quý kín đáo âý đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là ra sức giải
thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả
mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng
chiến” [42, tr.172]. Như vậy đã rõ, trong tư duy của
Người, kế thừa có chủ định và thiết thực phục vụ cho sự nghiệp giữ nước.
Kế thừa sáng tạo, nghĩa là sự kế thừa âý không phải là sao chép câu chữ, dập
theo nguyên mẫu, cứ thế mà thực hiện. Theo Hồ Chí Minh, những vấn đề kế thừa
phải đựơc vận dụng tuỳ theo hoàn cảnh, điều kiện cụ thể với tinh thần độc lập, tự
chủ. Người cho rằng học tập lý luận, kinh nghiệm không phải là giáo điều, mà là
kim chỉ nam cho hành động, nên phải cụ thể hoá cho thích hợp với điều kiện hoàn
cảnh từng lúc, từng nơi. Cũng như học tập chủ nghĩa Mác Lênin, đó là “học tập cái
tinh thần xử trí mọi công việc, đối với mọi người, đối với bản thân mình; là học tập
chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh thực tiễn nước ta...” [45, tr.292].Thước đo kết quả sự kế thừa sáng tạo, theo Hồ
Chí Minh là lý luận, kinh nghiệm đó phát triển đến đâu, có phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh nơi thực hiện không, kết quả thu được cao hay thấp. Giải quyết các
nhiệm vụ quân sự theo tư duy đó nên chiến tranh nhân dân ở nước ta đã phát triển
về mọi mặt cả về huy động lực lượng, tổ chức chiến tranh và nghệ thuật quân sự.
Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh do vượt qua những hạn chế của
các triều đại phong kiến trước đây, khẳng định quần chúng nhân dân là người làm
nên lịch sử, sức mạnh quần chúng là vô địch và nêu cao khẩu hiệu suốt đời vì hạnh
phúc của nhân dân, nên đã tập hợp được mọi lực lượng vào cứu nước và giữ nước,
không bỏ sót một ai. Lời kêu gọi, “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp cứu nước” [40, tr.480], thực sự là bài “hịch cứu nước” của Người đứng
đầu Nhà nước trong thời kỳ mới. Lời văn vừa có sức kêu gọi thống thiết, vừa là
mệnh lệnh mà mọi người phải tuân theo, vừa khuyến khích tất cả công dân cùng
tham gia đồng thời tạo điều kiện, tạo chỗ đứng cho họ góp phần vào công việc
kháng chiến. Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng, Nhà nước ta xây
dựng các tổ chức chính trị, xã hội và kế thừa, phát triển nghệ thuật quân sự lên một
bước mới, phù hợp với cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc có tiềm lực quân
sự mạnh hơn ta nhiều lần.
Hồ Chí Minh kế thừa sáng tạo và để sáng tạo, đó cũng là quan điểm phát
triển trong phép biện chứng. Để làm rõ vấn đề này ta hãy lấy việc tổ chức, xây dựng
lực lượng vũ trang làm thí dụ. Thời nhà Trần đã xuất hiện lực lượng vũ trang ba thứ
quân: quân triều đình, quân các lộ, quân hương binh, thổ binh. Đến thời đại Hồ Chí
Minh cũng vẫn là ba thứ quân, nhưng có bước tiến vượt bậc về cách tổ chức và mối
quan hệ giữa các lực lượng âý. Để chuẩn bị cho công cuộc giành chính quyền (8 –
1945), phải có đội quân chủ lực làm nòng cốt, Người đã chỉ thị phải tuyển lựa
những người tiêu biểu trong các đội du kích. Vì vậy, ngay từ đầu đã đảm bảo cho
đội hoàn thành nhiệm vụ tác chiến của mình và xứng đáng là đội quân đàn anh, có
khả năng dìu dắt, giúp đỡ các đội ở địa phương và dân quân, du kích. Bước vào
chiến đấu, các lực lượng này có sự phối hợp nhịp nhàng do một tổ chức chung điều
khiển trên một chiến trường hay một hướng nhất định. Giải thích vì sao phải tiến
hành như vậy, Hồ Chí Minh viết: “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến
của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong
khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực
lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về
mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ
trang địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm
cho các đội này trưởng thành lên mãi” [39, tr.507].
Như vậy, tuy là ba thứ quân nhưng mối liên hệ giữa các đội quân này rất chặt chẽ,
có trách nhiệm đối với nhau và cùng làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Đó là
một yếu tố rất quan trọng đưa chiến tranh nhân dân Việt Nam lên chất lượng mới và
minh chứng rõ ràng sự kế thừa sáng tạo và để sáng tạo.
Hồ Chí Minh luôn luôn phát huy vai trò chủ quan trong việc giải quyết các
vấn đề quân sự, dựa trên cơ sở mối quan hệ khách quan và chủ quan của phép biện
chứng. Trong khởi nghĩa và chiến tranh chống đế quốc xâm lược, kẻ thù ban đầu
thường mạnh hơn ta nhiều lần về quân sự, chúng hết sức chủ quan, muốn thắng
nhanh, giải quyết nhanh, chúng thực hiện chính sách bao vây, cấm vận làm cho ta bị
cô lập. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta nêu cao tinh thần
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết chiến đấu, lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ
thắng lớn, lấy thô sơ đương đầu với hiện đại... để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Tinh
thần đó không phải là sự liều lĩnh, duy ý chí, mà là biết phát huy nỗ lực chủ quan, tận
dụng thuận lợi khách quan và hạn chế những khó khăn do địch gây nên, thực chất là
sử dụng các qui luật chuyển hoá và và vận động trong mâu thuẫn để giải quyết các
vấn đề quân sự.
Đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, kháng chiến lâu dài là chủ trương
phát huy cao độ nỗ lực của nhân dân ta, huy động sức mạnh của cả quốc gia, dân
tộc lên trận tuyến đấu tranh, đánh lại kẻ thù xâm lược có sức mạnh và tiềm lực quân
sự mạnh nhất trong phe đế quốc. Với chiến lựơc này, ta đã huy động được sức mạnh
tổng hợp của toàn dân, sức mạnh cả vật chất và tinh thần, sức mạnh của quá khứ và
hiện tại, buộc địch phải căng lực lượng ra để đối phó với ta ở khắp nơi, ta tận dụng
được mọi thứ vũ khí có trong tay và có điều kiện sẵn sàng đánh lâu dài với chúng.
Với tư duy biện chứng đó, sức mạnh của nhân dân ta được phát huy cao độ, còn sức
mạnh của địch ngày càng hạn chế và suy yếu.
Trong nghệ thuật quân sự, Hồ Chí Minh cũng vận dụng phương pháp xây
dựng lực lượng và sử dụng cách đánh phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Việc xây
dựng lực lượng phải từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, vừa chiến đấu, vừa xây dựng,
vừa trưởng thành. Cách đánh phải phong phú “thiên biến vạn hoá”, “lai vô ảnh, khứ
vô tung”, ba thứ quân phải phối hợp chặt chẽ trong tác chiến và cùng làm nòng cốt
cho toàn dân đánh giặc. Với phương pháp xây dựng lực lượng và cách đánh đó, đã
làm cho mọi người dân, mọi lực lượng đều thể hiện được ý chí quyết tâm của mình,
đồng thời tạo điều kiện khơi dậy mọi nỗ lực sáng tạo, tự lực, tự cường của quần
chúng nhân dân.
Đường lối và nghệ thuật quân sự nêu trên chứng tỏ, Hồ Chí Minh có phương
pháp tư duy biện chứng, luôn luôn nhấn mạnh phát huy nỗ lực chủ quan, kiên trì
xây dựng lực lượng, không bị choáng ngợp bởi sức mạnh ban đầu của đối phương.
Đó là cách nhìn thấu suốt từ quá khứ đến hiện tại, dự đoán được tương lai, vững tin
ở lực lượng quần chúng nhân dân, nên đã làm chuyển hoá so sánh lực lượng: ta dần
mạnh lên, địch ngày càng suy yếu. Đúng như Người đã nhận định: “lực lượng địch
trước to sau nhỏ, trước mạnh sau yếu. Tình hình của địch như mặt trời xế tà gần tắt.
Lực lượng của ta trước nhỏ, sau to, trước yếu, sau mạnh. Thanh thế của ta cũng như
những nguồn nước nhỏ nhớn dần thành một đại dương” [42, tr.531]. Đó là nhận
định rất biện chứng trên cơ sở phát huy cao độ nỗ lực chủ quan, hạn chế những khó
khăn khách quan đem lại.
Đối lập với quan điểm quân sự đơn thuần, Hồ Chí Minh chủ trương giải
quýêt các vấn đề quân sự trong mối liên hệ vận động các mặt của xã hội.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Quân sự là việc chủ chốt trong kháng chiến”
[42, tr.163], điều đó không có nghĩa là quân sự đơn thuần , mà là nhấn mạnh nhiệm
vụ trọng tâm, mắt xích quan trọng chủ yếu của cuộc kháng chiến. Đẩy mạnh kháng
chiến tất yếu có tác động đến các nhiệm vụ chính trị, xã hội khác và ngược lại, mọi
nhiệm vụ chính trị đặt ra lúc này là nhằm đưa kháng chiến đến thắng lợi. Người nêu
rõ: “Chiến tranh là thủ đoạn để đạt đựơc mục đích chính trị” [42, tr.252] và “kháng
chiến là tiếp tục công việc cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng” [43,
tr.146], vì thế phải đặt nhiệm vụ quân sự trong mối quan hệ tổng thể, thống nhất,
toàn diện, với các lĩnh vực, và trong phạm vi toàn cuộc để giải quyết.
Phải đặt nhiệm vụ quân sự trong mối quan hệ chặt chẽ qua lại với mọi mặt xã
hội như kinh tế, văn hoá, tư tưởng bởi “Chiến tranh ngày nay, đánh ở mặt sau, đánh
về kinh tế, về chính trị, về tinh thần cũng không kém phần quan trọng như đánh giặc
ngoài mặt trận. Phải biết phối hợp mọi phương pháp ấy mới có thể đi tới thắng lợi
hoàn toàn” [42, tr.251].
Riêng mối quan hệ chính trị quân sự , Người coi đó là mối quan hệ chủ chốt
cần phải có quan niệm đúng đắn. “Quân sự mà không có chính trị như cây không có
gốc, vô dụng lại có hại” [42, tr.318]. Như vậy, hành động quân sự không phải chỉ vì
quân sự, mà là xuất phát từ mục tiêu chính trị. Lý tưởng cách mạng, ý chí bảo vệ Tổ
quốc thể hiện ở mục tiêu kháng chiến của dân tộc, là hành động của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, không phi chính trị trong các hoạt động quân sự, nghĩa là mỗi hoạt
động quân sự phải chứa đựng ý nghĩa chính trị. Điều này nói rõ bản chất chiến
tranh, bản chất lực lượng vũ trang của ta khác xa chiến tranh đế quốc và quân đội đế
quốc. Trong thực tiễn có lúc, có nơi nhiệm vụ này, hay nhiệm vụ khác nổi lên phải
hoàn thành trong một thời gian nhất định, nhưng dù hoàn cảnh nào thì nhiệm vụ
quân sự cũng phải phục tùng nhiệm vụ chính trị. Sự phục tùng âý là khách quan, bởi
tất cả các nhiệm vụ quân sự đặt ra đều nhằm thực hiện mục đích chính trị. Sự gắn
bó đó đòi hỏi phải được quán triệt sâu sắc ở tất cả các lực lượng, các tổ chức, đặc
biệt là lực lượng vũ trang. Phải đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng đối với quân đội, phải làm cho các lực lượng vũ trang luôn luôn nắm
vững mục tiêu chiến đấu. Người nói: “Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích
không nên chỉ biết đánh. Biết đánh là cái tốt, nhưng chỉ biết đánh mà coi nhẹ chính
trị, kinh tế, tuyên truyền giáo dục nhân dân tức là chỉ biết có một mặt, vì đánh
không thể tách rời được chính trị và kinh tế” [42, tr.523].
1.3.3. Thống nhất giữa lý luận quân sự và thực tiễn quân sự
“Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác Lênin”, Hồ Chí Minh đã khẳng định điều đó và chính Người luôn luôn
trung thành với nguyên tắc này, đưa nó trở thành như một đặc điểm nổi bật trong
phong cách tư duy quân sự. Hồ Chí Minh coi lý luận và thực tiễn là hai yếu tố song
hành, có quan hệ mật thiết với nhau như hình với bóng không thể chia cắt. “Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông” [42, tr.496]. Với phương pháp tư duy đó, Người đã
giải quyết thành công hàng loạt vấn đề quân sự ở nước ta theo phương hướng lý
luận quân sự gắn liền với thực tiễn quân sự, bởi “lý luận cốt để áp dụng vào thực
tiễn”.
Người đã tiếp thu Học thuyết quân sự Mác Lênin, chọn lọc tinh hoa quân sự
cổ, kim, Đông, Tây và vận dụng truyền thống, kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của
tổ tiên để hình thành Học thuyết quân sự Việt Nam – tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh. Đó là Học thuyết và đường lối quân sự đáp ứng yêu cầu chống kẻ thù xâm
lược có sức mạnh quân sự hơn mình gấp nhiều lần của một nước không rộng, người
không đông. Do vậy, học thuyết quân sự chủ trương huy động sức mạnh toàn dân
đánh giặc với mọi thứ vũ khí có trong tay để chống lại đội quân xâm lược nhà nghề,
có vũ khí tối tân, hiện đại và được trang bị đầy đủ về mọi mặt. Học thuyết quân sự
chỉ cho nhân dân Việt Nam biết, phải xây dựng lực lượng từ không đến có, từ nhỏ
đến lớn, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, dần dần chuyển hoá lực lượng ngang bằng
đối phương, tiến tới mạnh hơn chúng và có khả năng đè bẹp ý chí xâm lược của
chúng. Học thuyết quân sự nêu quan điểm đánh giá, so sánh lực lượng đôi bên là
sức mạnh tổng hợp, chứ không thiên về quan điểm “vũ khí luận”, đó là sức mạnh cả
con người và vũ khí, cả vật chất và tinh thần... Trong mối quan hệ con người, vũ
khí, học thuyết đặt con người là yếu tố quyết định, bởi con người với ý chí quyết
tâm cao, trí tuệ thông minh sáng tạo, lòng dũng cảm sẽ quyết định sử dụng vũ khí
nào, có thể tự tạo ra vũ khí và phát huy hiệu quả của vũ khí.
Cũng như Học thuyết quân sự Mác Lênin, Học thuyết quân sự Việt Nam đề
cao nhân tố chính trị tinh thần. Hồ Chí Minh viết: “Dù địch có vũ khí
tối tân, hùng binh ác tướng, nhưng chúng ta lại có những thứ vũ khí mạnh mẽ
hơn, bền bỉ hơn chúng. Chúng ta có cái lòng hy sinh cảm tử của chiến sĩ ở
tiền tuyến. Chúng ta có cái sức kiên quyết nhẫn nại của đồng bào ở hậu
phương. Đó là những vũ khí luôn luôn chiến thắng quân thù, chứ không lực
lượng nào chiến thắng được những vũ khí đó”
[41, tr.188]. Chúng ta có sức mạnh tinh thần, bởi cuộc chiến đấu chống xâm lược
của ta là chính nghĩa, còn quân xâm lược là phi nghĩa, chúng không thể có sức
mạnh đó. Ban đầu binh lính có thể hăng hái do bị lừa gạt về mục đích chiến tranh,
nhưng khi họ nhận ra thì ý chí chiến đấu của đội quân xâm lược mất dần.
Phát huy sức mạnh chính trị tinh thần trong khởi nghĩa và chiến tranh cách
mạng là vấn đề hết sức thực tế. Với nhân tố này ta có thể huy động được sức mạnh
của truyền thống và sức mạnh của hiện tại, sức mạnh mà vốn có sẵn từ yếu tố chính
nghĩa của cuộc khởi nghĩa và chiến tranh, tinh thần yêu nước lại có sẵn trong nhân
dân ta. Với sức mạnh này nhân dân ta đã sáng tạo ra nhiều cách đánh, tạo ra nhiều
thứ vũ khí, luôn luôn gây bất ngờ cho đối phương. Với nhân tố này, không những ta
quan tâm làm tốt công tác chính trị, tư tưởng trong nội bộ, làm cho nhân tố này trở
thành nhân tố hàng đầu trong mọi tình huống quân sự, mà còn quan tâm làm tốt
công tác ngoại giao, công tác địch vận, làm cho nhân dân nước đối phương và kẻ
thù trên nước ta hiểu điều phi nghĩa họ đang làm. Đó là thể hiện tư tưởng quân sự
Hồ Chí Minh “đánh vào lòng người là hơn hết, đánh vào thành trì là thứ hai” [40,
tr.187]. Sức mạnh tinh thần theo tư tưởng Hồ Chí Minh không phải chỉ trong nhân
dân, trong hệ thống chính trị mà sức mạnh tinh thần nằm ngay trong các lực lượng
vũ trang. Vì thế các lực lượng vũ trang “phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị,
quân sự ... Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có
hại” [42, tr.319].
Theo tinh thần đó, Người không ngừng tăng cường công tác Đảng, công tác
chính trị trong các lực lượng vũ trang, bằng công tác tư tưởng và công tác tổ chức.
Hệ thống cấp uỷ Đảng các cấp và hệ thống công tác chính trị toàn quân luôn luôn
được tăng cường, củng cố đã chứng tỏ điều đó. Thực tế xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành của Quân đội ta, chứng minh vai trò cực kỳ quan trọng của nhân tố chính
trị tinh thần trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi và trong mọi lĩnh vực của khởi
nghĩa và chiến tranh, kể cả chiến tranh hiện đại.
Hồ Chí Minh coi trọng tính thực tiễn và tổng kết thực tiễn, đó là cơ sở để vận
dụng, phát triển lý luận quân sự và kiểm nghiệm tính đúng đắn của lý luận quân sự.
Tinh thần đó thể hiện qua các tác phẩm quân sự, và tổng kết chiến tranh của Người.
Viết tác phẩm “Chiến thuật du kích”, trả lời câu hỏi “Du kích là gì?” Người
viết: “Du kích là đánh úp hay đánh lén, đánh lúc kẻ thù không ngờ,
không phòng. Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế
quốc. Đế quốc có khí giới tốt, có quân đội đàng hoàng; quân du kích không
có khí giới tốt, chưa thành quân đội đàng hoàng; nhưng quân du kích được
dân ủng hộ, thuộc địa hình địa thế, khéo lợi dụng đêm tối, mưa nắng, khéo
xếp đặt kế hoạch, nên quân du kích vẫn có thể đánh được đế quốc. Chuyến
này chúng ta khởi nghĩa đánh Tây – Nhật, chính dùng lối du kích mà
đánh. Biết đánh du kích thế nào cũng thắng lợi”
[39, tr.469]. Cách viết về du kích của Người phản ánh đúng thực tiễn tổ chức du
kích, so sánh lực lượng và trình độ kỹ, chiến thuật của đôi bên, trên cơ sở đó Người
chỉ rõ những thuận lợi và triển vọng của loại hình chiến tranh này. Chính thực tiễn
đó đã có sức thuyết phục cao, gây niềm tin trong lực lượng du kích và quần chúng
nhân dân, họ hăng hái thực hiện lối đánh du kích.
Trong các tác phẩm dịch về quân sự cũng vậy, mỗi nguyên lý lý luận của các
nhà kinh điển, các danh tướng, Người đều bám sát hoàn cảnh lịch sử, liên hệ sát tình
hình cách mạng, sát yêu cầu đấu tranh vũ trang ở nước ta. Tôn Tử nêu ra những tiêu
chí để một cuộc chiến tranh giành thắng lợi như: “Ai được lòng dân, được thiên thời
địa lợi, có tướng giỏi.... thì bên ấy sẽ thắng”, khi dịch đến yêu cầu này, Người chú
thích ngay: “Cán bộ là tướng của đoàn thể. Cán bộ làm đúng kế hoạch của đoàn thể,
có mưu trí, được quần chúng tin yêu, kiên quyết, gan góc, giữ đúng kỷ luật, biết làm
cho dân chúng cùng đoàn thể sống mà không sợ nguy hiểm như thế mới là tướng
giỏi của đoàn thể. Như thế thì cách mạng chóng thành công” [39, tr.515]. Vậy là từ
một yêu cầu phải có tướng giỏi, một nhân tố quyết định thắng lợi của chiến tranh
theo Tôn Tử, Người đã chỉ dẫn cán bộ là tướng của đoàn thể và những yêu cầu cần
phải có của đội ngũ này. Sự chỉ dẫn đó là phương hướng phấn đấu của các cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy quân sự và Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ như thế thì
cách mạng mới chóng thành công.
Hồ Chí Minh quan tâm tổng kết công tác lãnh đạo, chỉ huy quân sự đặc biệt
là sau mỗi chiến dịch. Nhân dịp tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong II (Biên giới)
1950 Người nói: “Tự phê bình, phê bình, tổng kết, phổ biến và học tập kinh nghiệm,
đó là việc rất hay, nên gây thành một tác phong chung trong quân đội, chính quyền
và đoàn thể” [42, tr.108]. Chính Người đã gửi thư động viên quân và dân chiến đấu,
Người tham dự các hội nghị tổng kết quân sự và đưa ra những kết luận hướng dẫn
hành động. Trong mỗi bức thư, mỗi dịp tổng kết sau một chiến dịch hoặc sau một
thời gian chiến đấu, Người đều nêu lên những ưu điểm, thành tích động viên, khích
lệ tinh thần chiến đấu đồng thời chân tình, thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm và
rút ra bài học cho trận chiến đấu mới.
Năm 1951, nói chuyện tại Hội nghị kiểm thảo Chiến dịch đường 18 (Phả Lại
– Uông Bí), sau khi đã nêu những ưu điểm về tinh thần phê bình, tự phê bình,
Người nhắc nhở cán bộ ta phải có tinh thần phụ trách, dám chịu trách nhiệm; phải
thương yêu đội viên, từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống đều phải
làm như vậy; phải quan hệ tốt với dân, thương yêu và giúp đỡ họ. Người nhắc nhở
một số cán bộ, chiến sĩ còn doạ nạt dân, mượn không trả, mua rẻ của dân..., những
khuyết điểm đó phải sửa chữa ngay.
Tại Hội nghị tổng kết chiến tranh du kích (7 – 1952), sau khi nêu rõ những
ưu điểm chịu khó, gan dạ, đoàn kết... Người nêu một số khuyết điểm chính: chưa
nghiên cứu rõ ràng, tỷ mỷ, sâu sắc, chỉ thị mệnh lệnh của Trung ương; chỉ lo đánh
giặc mà chưa quan tâm đến các mặt khác như chính trị, kinh tế, như vậy rồi đây sẽ
không đánh được; trong tác chiến vẫn còn ham đánh to, chưa quán triệt phương
châm đánh chắc thắng; chưa phối hợp chặt chẽ cán bộ quân sự với cán bộ đảng và
chính quyền cùng lo nhiệm vụ đánh giặc... Từ những khuyết điểm đó Người chỉ
dẫn: cán bộ, quân, dân, chính, Đảng phải đoàn kết, thống nhất, giúp đỡ lẫn nhau;
phải nghiên cứu kỹ mọi chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên để thi hành cho chính xác;
phải nắm vững vấn đề trọng yếu là bám sát dân, “rời dân ra nhất định thất bại”; bộ
đội chủ lực phải giúp đỡ bộ đội địa phương và dân quân du kích, nhưng không bao
biện làm thay; phải nắm vững mục đích của du kích chiến không phải ăn to, đánh
lớn mà làm cho chúng không được ăn ngon, ngủ yên, luôn luôn trong tình trạng
căng thẳng, mệt mỏi, thực hiện tiêu hao lực lượng của chúng.
Đến Hội nghị tổng kết chiến dịch Tây Bắc (1 – 1953), cũng đi theo qui trình
tổng kết từ ưu điểm đến khuyết điểm của chiến dịch, lần này Hồ Chí Minh nhấn
mạnh đến nguyên nhân của những khuyết điểm như “còn nhiều tính chất quan liêu
đại khái, kế hoạch sơ sài, chủ quan khinh địch, những cái ấy sẽ đưa đến thất bại”.
Người căn dặn cán bộ phải tin tưởng vào Trung ương, điều này đã được chứng minh
trong thực tế chỉ đạo chiến tranh. Về phương pháp tổng kết Người nhắc: “không nên
tách riêng chiến dịch Tây Bắc mà xem”, phải đặt trong tổng thể quá trình chiến đấu
thì mới đúc kết được những kinh nghiệm lớn hơn.
Nghiên cứu sự chỉ đạo tổng kết một số chiến dịch của Người, ta nhận thấy
trong tư duy Hồ Chí Minh lý luận và thực tiễn luôn luôn gắn liền nhau, đúng như
Người đưa ra hình ảnh “lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng
như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có
tên” [41, tr.235].
1.3.4. Phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động quân sự
Phát huy sức mạnh tổng hợp là một đặc điểm của phong cách tư duy quân sự
Hồ Chí Minh trong việc giải quyết những vấn đề quân sự. Người nhận định: “Chiến
tranh ngày càng phức tạp vô cùng. Trước kia chỉ quân đội đánh
nhau ở tiền tuyến và trên mặt đất hoặc mặt nước, nên người ta gọi là bình
diện chiến tranh. Ngày nay đánh nhau cả trên không và cả tiền tuyến cũng
như hậu phương, nên người ta gọi là lập thể chiến tranh. Trước kia đánh
nhau về một mặt quân sự, nhưng ngày nay đánh nhau về đủ mặt quân sự,
kinh tế, chính trị tư tưởng, nên người ta gọi là toàn diện chiến tranh... Không
dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào
thắng được” [40, tr.296, 298]. Như vậy, phát huy
sức mạnh tổng hợp là yêu cầu khách quan, bởi tính chất phức tạp của chiến tranh
trong thời kỳ mới và còn do sức mạnh tổng hợp là sức mạnh to lớn nhất, nhờ đó mà
một dân tộc nhỏ yếu bị xâm lược có thể đánh bại đối phương có sức mạnh to lớn
hơn. Vì thế, nghệ thuật sử dụng sức mạnh tổng hợp trong quân sự đòi hỏi phải huy
động được mọi lực lượng của toàn dân; phải xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ
quân và phối hợp chiến đấu giữa ba thứ quân ấy, phải phối hợp nhiều cách đánh,
phối hợp các chiến trường, chiến đấu hợp đồng binh, quân chủng, thực hiện quân
dân một ý chí và nhất thiết phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện.
Trong khi khẳng định “quân sự là chủ chốt trong kháng chiến” thì đồng thời phải
mở các mặt trận chính trị tư tưởng, kinh tế, ngoại giao... để phối hợp hành động, đè
bẹp ý chí xâm lược của đối phương.
Hồ Chí Minh nhận định: “Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưởng so với
những mặt khác cũng không kém phần quan trọng. Mục đích của nó làm ly gián
quân địch, làm nhụt ý chí chiến đấu của bên địch” [40, tr.319]. Hình thức chiến
tranh này đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử. Trong “Phép dùng binh của Tôn Tử”,
Ông đã nói rõ những việc phải làm như: chia rẽ quân địch; làm cho chúng không
hợp sức được với nhau; phao tin để quân địch hoang mang; làm cho địch nghi kỵ
nhau; gieo rắc sự chán ghét chiến tranh... Trên cơ sở ý tưởng đó, Hồ Chí Minh đã
đưa nghệ thuật chiến tranh tư tưởng lên tầm cao mới, đó là chia ra hai tính chất
tuyên truyền: tuyên truyền để tấn công và tuyên truyền để phòng ngự và đối tượng
tuyên truyền chú trọng vào nước địch, nước trung lập và dân chúng nước mình. Đối
với nước địch phải làm cho dân chúng phản đối chiến tranh, tìm cách phá hoại hậu
cần tiếp tế cho đội quân xâm lược. Đối với các nước trung lập làm cho họ có thiện
cảm với nước mình, không có thiện cảm với nước địch. Với dân chúng nước mình,
gây chí căm thù, quyết tâm chiến đấu, trên dưới một lòng, tin tưởng vào thắng lợi.
Tác dụng của cuộc chiến này, Người viết: “Ngày nay về quân sự, người ta coi
phương pháp tuyên truyền là một lợi khí sắc bén” [40, tr.320]. Thực tế trong chiến
tranh công tác dân vận, binh vận được đẩy mạnh đã góp phần quan trọng vào nâng
cao hiệu quả của chiến thắng quân sự.
Chiến tranh về kinh tế cũng xuất phát từ thực tế khách quan: Đối phương
đánh ta về kinh tế nhằm làm cho ta không đủ sức chống lại chúng, còn ta rất cần
nền kinh tế ổn định vững vàng mới kháng chiến được lâu dài, nên cũng phải phá
hoại kinh tế địch làm cho chúng suy yếu. Vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương phá hoại,
phong toả, bất hợp tác về kinh tế với địch đồng thời tổng động viên mọi lực lượng
vật chất để giữ lấy nguồn lợi của ta, chăm lo bồi dưỡng sức dân [40, tr.297]. Theo
đó, kháng chiến về mặt kinh tế có hai phần: phá hoại kinh tế địch và xây dựng kinh
tế của ta. Phá hoại kinh tế địch nghĩa là đánh phá mạnh vào nơi dự trữ hậu cần,
chống chính sách ăn cướp của địch, không cho chúng “lấy chiến tranh, nuôi chiến
tranh”, thực hiện vườn không, nhà trống, không để cho chúng vơ vét. Về xây dựng
kinh tế, ta nhằm vào hai nguyên tắc: kháng chiến, kiến quốc và tự cung tự cấp.
Kháng chiến đi đôi với kiến quốc nghĩa là kiến thiết trong kháng chiến, kiến thiết để
kháng chiến. Tự cung, tự cấp về mọi mặt đòi hỏi ta phải có hậu phương vững chắc,
nâng cao mức sản xuất, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của kháng chiến và
chăm lo bồi dưỡng sức dân. Kháng chiến về kinh tế là làm cho đối phương không
dựa vào được hậu cần tại chỗ, khó khăn tiếp tế cho chiến trường, binh sĩ thiếu ăn,
thiếu mặc, nản lòng trong chiến tranh xâm lược, còn ta “thực túc, binh cường”, càng
đánh lực lượng dự trữ càng dồi dào, nhân dân và bộ đội đủ ăn, đủ mặc, sức khoẻ tốt,
chi viện ngày càng đầy đủ cho kháng chiến. Chín năm kháng chiến (1945 – 1954) ta
đã làm cho thực dân Pháp khốn đốn, và cuối cuộc chiến tranh chi phí cho Đông
Dương 78% là của Mỹ, còn ta thì vùng giải phóng mở rộng, đủ sức mở những trận
chiến đấu quyết định như Điện Biên Phủ. Hai mốt năm cả nước đánh Mỹ (1954 –
1975), kẻ thù giầu có vào loại bậc nhất phe đế quốc. Nhưng ta đã làm cho “Mỹ giầu,
nhưng không mạnh”. Ngoài việc đánh mạnh những căn cứ hậu cần làm suy yếu,
tiêu hao lực lượng vật chất của chúng, ta đã xây dựng một hệ thống căn cứ địa hậu
phương bao gồm hậu phương tại chỗ ở miền Nam và hậu phương XHCN ở miền
Bắc. Vì vậy, mặc dầu viện trợ của các nước anh em có hạn chế hơn trước nhưng ta
vẫn huy động vượt các chỉ tiêu cho trận chiến đấu cuối cùng mùa xuân năm 1975.
Toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có sự đóng góp quyết định
của mặt trận kinh tế mà trong đó nổi bật là xây dựng căn cứ địa, hậu phương miền
Bắc.
Cần nhấn mạnh là Hồ Chí Minh rất chăm lo đến dự trữ dồi dào của chiến
tranh, đặc biệt là bồi dưỡng và giữ gìn sức dân để đánh lâu dài. Người không cho
rằng cần phải giành thắng lợi quân sự bằng mọi giá, mà phải trên cơ sở điều tra,
nghiên cứu cẩn thận, phải giữ gìn sức dân, “người của kiệt thì quân nhiều cũng
không đánh được” [5, tr.291]. Quan điểm đó là biểu hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa
quân sự và kinh tế, đồng thời cũng là tinh thần rất nhân văn Hồ Chí Minh về sự quí
trọng nguồn lực con người mà các nhà cầm quân cần phải quán triệt.
Ngoại giao cũng là một mặt trận phối hợp chặt chẽ với mặt trận quân sự để
giành thắng lợi trong chiến tranh. Hồ Chí Minh xếp ngoại giao, nội chính, tuyên
truyền, trong hình thức chiến tranh chính trị. Người nêu rõ: Đấu tranh ngoại giao có
nhiệm vụ nêu cao chính nghĩa và kêu gọi dư luận tán đồng lập trường của mình; làm
cho nước mình không bị cô lập; đề phòng nước thứ ba đi về phe địch; đấu tranh
ngoại giao phải khôn khéo và dùng rất nhiều hình thức đấu tranh mới giành được
thắng lợi [40, tr.297]. Mặt trận ngoại giao, mặt trận quân sự có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, thắng lợi của quân sự là thực lực của ngoại giao và đấu tranh ngoại
giao khuếch trương chiến quả đấu tranh quân sự. Đó là mối quan hệ nhân, quả giữa
thực lực và ngoại giao. “Thực lực mạnh, ngoại giao mới thắng lợi. Thực lực là cái
chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn” [40, tr.126]. Vì vậy,
trong chiến tranh, thắng lợi của đấu tranh ngoại giao phụ thuộc vào thắng lợi quân
sự mà ta thu được. Điều này biểu hiện trước hết là kéo địch ngồi vào bàn đàm phán,
nhưng không phải lúc nào ta cũng thực hiện được, mà phải đánh cho đối phương
những đòn đau đớn, thất bại thảm hại, ý chí xâm lược bị đánh bại. Hồ Chí Minh đã
khẳng định điều này từ cuộc chiến tranh cách mạng ở Triều Tiên. Người nói: “Kinh
nghiệm là phải đánh bao giờ cho đế quốc quỵ, nó không thể đánh được nữa, nó mới
chịu đàm phán... Ta cũng phải đánh cho Pháp quỵ. Lúc âý có đàm phán nó mới đàm
phán, chứ không phải đưa đàm phán ra là nó đã đàm phán ngay đâu. Đừng có ảo
tưởng. Mục đích của nó là xâm lược. Nó mất 99% còn 1% hy vọng nó vẫn đánh.
Phải đánh cho nó quỵ nó mới chịu” [43, tr.113].
Thực tế hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược của nhân dân
ta đã diễn biến đúng như vậy. Pháp bị thất thủ ở Điện Biên Phủ 7 – 5 – 1954 thì
8 – 5 – 1954 mới chịu ngồi vào họp phiên toàn thể đầu tiên về Đông Dương tại
Giơnevơ (Thụy Sĩ). Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thì phức tạp, khó khăn
hơn nhiều. Sau thắng lợi Mậu Thân (1968), Mỹ chịu ngồi đàm phán với ta ở Pari
(Pháp), nhưng đến năm 1972 sau thất bại thảm hại ở Quảng Trị và một số chiến
trường khác chúng mới hứa ký tắt với ta Hiệp định đình chiến. Nhưng chưa kịp ký,
chúng đã bội ước, Kitxinhgiơ không đến Hà Nội ký tắt như đã thoả thuận, đồng thời
chúng mở cuộc không kích vào Hà Nội, Hải Phòng hòng làm nhụt ý chí từ đầu não
lãnh đạo đến quân và dân ta. Bằng thắng lợi chiến đấu 12 ngày đêm của trận “Điện
Biên Phủ trên không”, ta buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (1 – 1973). Tuy vậy ta
mới chỉ giành được thắng lợi quyết định “quân Mỹ rút ra, quân ta ở lại”. Phải tiếp
tục chiến đấu hơn hai năm nữa (1973 – 1975), bằng tổng cuộc tấn công và nổi dậy,
ta mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Sử dụng sức mạnh tổng hợp trong quân sự để chiến thắng kẻ thù xâm lược là
một đặc điểm nổi bật của phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh. Người rất quan
tâm đến vấn đề này, bởi nó triệt để huy động và phối hợp được mọi lực lượng, mọi
cách đánh, thực hiện được chiến tranh toàn dân, toàn diện, huy động được sức mạnh
chính trị, tinh thần và vật chất, huy động được sức mạnh trong nước và sức mạnh
quốc tế, sức mạnh thời đại, đó là phương thức chiến tranh cách mạng phù hợp với
đất nước, dân tộc ta.
1.3.5. Quyết tâm lớn, sáng tạo cao trong các tình huống quân sự
Vấn đề hàng đầu mà Hồ Chí Minh quan tâm là tư tưởng tiến công trong
quân sự , bởi chỉ có tiến công, chủ động tiến công mới giành được thắng lợi. Đó là ý
chí quyết tâm của toàn quân, toàn dân, nên mọi người phải gắng sức, tiến công liên tục,
chỉ có tiến, không có thoái, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và phòng ngự và ngay cả
khi buộc phải phòng ngự thì cũng phòng ngự ở thế công.
Để thực hiện tư tưởng tiến công, trước hết phải có tinh thần gan dạ, chiến
đấu kiên cường, dũng cảm, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh. “Vũ khí tốt mà
tinh thần hèn cũng vô dụng”. Theo đó, ý chí quyết tâm là cơ sở để tạo ra sự bình
tĩnh, mưu trí, sáng tạo trong xử trí các tình huống quân sự. Hồ Chí Minh luôn luôn
là người tiêu biểu cho ý chí quyết tâm đó, nhất là trước những bước ngoặt khó khăn
củ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 136_0509.pdf