Tài liệu Luận văn Phát triển và phát huy tiềm lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình Định: LUẬN VĂN:
Phát triển và phát huy tiềm lực của các
DNVVN trên địa bàn tỉnh Bình Định
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) luôn
luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý
kinh tế và quản lý doanh nghiệp (DN) có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại
càng được chú trọng.
ở nước ta, DNVVN cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền
kinh tế quốc dân, do tiềm năng còn lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Trong 16 năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước
ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng
tiến bộ, tăng trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài,... Kết quả đó có sự đóng góp
của các DNVVN. Vì vậy, DNVVN ngày càng được coi trọng. Báo cá...
113 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1059 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển và phát huy tiềm lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình Định, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển và phát huy tiềm lực của các
DNVVN trên địa bàn tỉnh Bình Định
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) luôn
luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý
kinh tế và quản lý doanh nghiệp (DN) có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại
càng được chú trọng.
ở nước ta, DNVVN cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền
kinh tế quốc dân, do tiềm năng còn lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Trong 16 năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước
ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng
tiến bộ, tăng trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài,... Kết quả đó có sự đóng góp
của các DNVVN. Vì vậy, DNVVN ngày càng được coi trọng. Báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương tại Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa chỉ rõ: "Chú trọng
phát triển các DNVVN...". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 cũng
nhấn mạnh: "Phát triển mạnh các DNVVN... ".
Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ năm 1989 sau gần 14 năm hợp nhất
với tỉnh Bình Định (từ 11/1975 đến 7/1989), là một tỉnh nghèo, với gần 90% dân số sống ở
nông thôn, lại chủ yếu sống bằng nghề nông và ở mức sống thấp, lao động nhàn rỗi và dư
thừa nhiều (tỷ lệ thất nghiệp chung khoảng 2,64%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị: 5,74%)...
Song bên cạnh đó Quảng Ngãi lại có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế: về điều kiện tự
nhiên, vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền thống, có khu công nghiệp Dung Quất, có
nhiều nhà máy lớn, có lực lượng lao động dồi dào,... Vì vậy, việc phát triển và phát huy
tiềm lực của các DNVVN trên địa bàn tỉnh là rất cần thiết bởi nó sẽ đóng một vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh. Muốn vậy, đòi hỏi cần phải
nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh để từ đó
tìm ra định hướng, giải pháp phát triển DNVVN trên địa bàn, góp phần thực hiện mục tiêu
tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, những vấn đề liên quan đến mô hình DNVVN luôn
được nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Điều đó có thể thấy rõ qua khối
lượng các tài liệu về chuyên đề này rất dồi dào, đa dạng được công bố hầu như hàng ngày,
hàng tuần, từ các luật lệ của Chính phủ, các chiến lược, chương trình phát triển DNVVN
của quốc gia, đến các sách hướng dẫn, các công trình nghiên cứu và các bài báo về
DNVVN. Có thể nêu một số công trình và tài liệu chủ yếu như sau:
- Định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam đến năm 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Dự án US/VIE/95/007 "Hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam" do UNIDO tài trợ.
- Dự án "Chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" do
PGS.TS Nguyễn Cúc - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ dự án.
- PGS.TS Nguyễn Cúc (chủ biên), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000.
- Vương Liêm - Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà
Nội, 2000.
- Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hà, Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh
nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội, 2001 v.v...
Tuy vậy, vấn đề DNVVN đối với cả nước ta và đối với tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn
là vấn đề mới, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 - 2010 và thực hiện đường lối CNH, HĐH do Đại hội Đảng
lần thứ IX đề ra thì việc nghiên cứu DNVVN vẫn là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn.
Đối với địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chưa có tác giả, chưa có công trình nào đặt vấn đề
nghiên cứu về DNVVN. Đây là vấn đề lớn, mới mẻ và có ý nghĩa thiết thực đối với tỉnh, đang
đòi hỏi cần có những đầu tư nghiên cứu cụ thể, có hệ thống.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn đi sâu
nghiên cứu, học hỏi những vấn đề về lý luận, đồng thời tiến hành tổng hợp số liệu kết hợp
với quá trình khảo sát thực tiễn trên địa bàn, để từ đó đề xuất ý kiến của mình về phát triển
DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích:
Luận văn hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và
phát triển của DNVVN, cũng như luận giải rõ vai trò của DNVVN trong nền kinh tế ở Việt
Nam trong thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
phù hợp nhằm phát triển DNVVN có hiệu quả, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh Quảng Ngãi.
- Nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về DNVVN trong nền kinh tế Việt
Nam, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, phân tích thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Thứ ba, nêu những quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển
DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi nghiên cứu:
Vấn đề DNVVN là vấn đề rộng và phức tạp, tồn tại trong mọi lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung chủ yếu phân
tích thực trạng của các DNVVN trong công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn tỉnh, từ đó đề
xuất các giải pháp để phát triển DNVVN trên địa bàn. Luận văn không đề xuất các giải
pháp để phát triển DNVVN trong từng ngành cụ thể cũng như trong từng DN cụ thể. Thời
gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1996 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kế thừa
một cách có chọn lọc, hợp lý các công trình nghiên cứu có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó chủ yếu sử
dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,... để phân tích đối tượng nhằm đạt
được mục đích luận văn đề ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận của DNVVN, trên cơ sở phân tích
rõ thực trạng của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở nhiều khía cạnh, luận văn sẽ
mang lại một bức tranh tổng quát, toàn diện về DNVVN trên địa bàn, về những kết quả đạt
được, về những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Từ đó đề xuất được các giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển DNVVN trong quá trình CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các cơ quan nghiên
cứu, các ban ngành liên quan của tỉnh Quảng Ngãi tham khảo để hoạch định chính sách và
chỉ đạo thực tiễn trong việc khuyến khích phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo và các lớp tập huấn
cho cán bộ quản lý kinh tế của tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài ra mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn được trình bày trong 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1. Sự phát triển lý luận và quan điểm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam
1.1.1. Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam
- Tính tất yếu khách quan của sự phát triển của DNVVN ở Việt Nam
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, DNVVN ra đời sớm hơn DN lớn.
Tiền thân của các DNVVN là các hộ gia đình sản xuất tự cung tự cấp.
DNVVN không chỉ là một phạm trù phản ánh độ lớn của DN mà là một phạm trù
bao hàm nội dung tổng hợp về kinh tế tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tiến bộ khoa học -
công nghệ. DNVVN tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan phù hợp với yêu cầu của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ, tính chất phát triển của lực lượng sản xuất.
Lịch sử ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa gắn với sự hình thành và
phát triển của các DN. Nền sản xuất hàng hóa xuất hiện khi sự phân công lao động đạt đến
một trình độ nhất định, cùng với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được xác lập.
Trong giai đoạn tiền sử (Các Mác gọi là sản xuất hàng hóa giản đơn) không có sự
phân biệt giữa giới chủ và giới thợ. Người sản xuất hàng hóa vừa là người chủ sở hữu tư liệu
sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của mình
(gia đình mình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi thị trường. Đó là
loại DN cá thể, DN gia đình.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD), có một số người gặp một số vận
may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, biết cách
điều hành tổ chức công việc,... để thành đạt, ngày càng giàu lên, tích lũy vốn, mở rộng
được quy mô SXKD và do đó cần phải thuê thêm người làm và trở thành ông chủ. Ngược
lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hóa nhỏ khác thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư
liệu sản xuất, đi làm thuê cho người khác.
Theo các nhà kinh tế học hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới
trưởng thành đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Bắt đầu sự nghiệp với số vốn
ít ỏi của mình phần lớn họ đều thành lập DN nhỏ chỉ của riêng mình, tự SXKD. Trong quá
trình kinh doanh của mình, một số người thành đạt đã phát triển DN của mình bằng cách
mở rộng quy mô SXKD và như vậy, nhu cầu về vốn đòi hỏi sẽ nhiều hơn. Từ đó, thôi thúc
các nhà DN hoặc là vài ba người cùng nhau góp vốn liên doanh thành lập xí nghiệp liên
doanh, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần (CTCP), bằng cách thành lập
"liên kết dọc", "liên kết ngang"... để phát triển DN. Các DN lớn ra đời phát triển từ các
DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng
thể các DN lớn, nhỏ tạo thành.
Ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão và tác động sâu
sắc tới sự thay đổi của sản xuất, quản lý và đời sống thì DNVVN cũng có sự thay đổi về
chất so với DNVVN của các thế kỷ trước: có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, sản xuất sản
phẩm đạt chất lượng cao,.. DNVVN không phát triển rời rạc mà gắn bó và "nấp dưới
bóng" của các DN lớn.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, mô hình DNVVN ngày càng được
mở rộng và phổ biến không chỉ ở các nước công nghiệp phát triển mà cả ở những nước
đang phát triển và kém phát triển. Vì thế, dù mang cái tên rất khiêm tốn "vừa và nhỏ" song
sức sống và vai trò của nó thật sự không nhỏ.
- Sự ra đời của các DNVVN ở Việt Nam
Theo các tài liệu lịch sử, DNVVN ở Việt Nam đã được hình thành cùng với quá
trình ra đời nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn. Những nghề và làng
nghề thủ công truyền thống quan trọng, nổi tiếng phần lớn đã ra đời từ rất lâu, vài trăm đến
hàng nghìn năm ở đồng bằng sông Hồng rồi sau đó lan ra cả nước. Hình thành tổ chức
SXKD của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia
đình hoặc liên gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa, vừa
mang tính chất sáng tạo nghệ thuật.
Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, nghề thủ công truyền thống vẫn được tiếp
tục tồn tại và phát triển. Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và phương thức kinh
doanh tư bản chủ nghĩa (TBCN), các DNVVN đã được hình thành.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và đất nước bước vào cuộc
trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, các DNVVN vẫn phát triển. Vùng bị tạm
chiếm, nhiều chủ DN chủ yếu ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài
Gòn... bỏ vốn ra kinh doanh. Trong vùng tự do, chính quyền cách mạng thành lập các DN
để sản xuất các mặt hàng phục vụ kháng chiến và đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đồng thời
khuyến khích nhân dân lập xưởng sản xuất sản phẩm phục vụ tiêu dùng. Các DNVVN ở
vùng tự do đã có tác dụng to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bộ đội, nhân
dân và phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đến thắng lợi vẻ vang.
Từ năm 1954 đến năm 1975, các DNVVN ở hai miền Bắc - Nam phát triển theo
hai đường lối, cơ chế khác nhau. ở miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH), hàng loạt xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn ra đời, đồng thời các xí nghiệp
quốc doanh của cấp huyện được phát triển mạnh, còn DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xóa
bỏ. ở miền Nam, một mặt các cơ sở công nghiệp lớn, chủ yếu tập trung ở các thành phố
lớn như Đà Nẵng, Sài Gòn,... được phát triển, mặt khác các DNVVN chủ yếu thuộc sở hữu
tư nhân cũng ra đời và phát triển mạnh.
Từ năm 1975 - 1985, các DNVVN ở miền Nam hoặc là bị quốc hữu hóa, hoặc được
cải tạo, xóa bỏ. DNVVN ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển, phải hoạt
động dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác xã (HTX), công tư hợp doanh,... Nói
chung, ở thời kỳ này các DNVVN ở hai miền được phát triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, số lượng DNVVN chưa nhiều và tồn tại dưới hai loại hình: xí nghiệp quốc doanh,
HTX.
Sau năm 1986, nhờ tác động của các chủ trương và chính sách phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại và lâu dài của các hình thức sở hữu
khác nhau, đã tạo điều kiện cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình ra đời,
phát triển.
- Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam
Nhìn lại quá khứ, chúng ta nhận thấy, trên thực tế các DNVVN ở nước ta đã ra
đời, tồn tại cách đây hàng trăm, nghìn năm. Song trước đây do chúng ta quan niệm và vận
dụng máy móc chế độ sở hữu, chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, coi nhẹ việc sử
dụng kinh tế ngoài quốc doanh, muốn xóa bỏ nhanh kinh tế tư nhân, cá thể (hầu hết là
DNVVN) nên Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp nhằm hạn chế tối đa
sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Có thể nói, về mặt nhận thức, chúng ta không
chính thức thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Từ đó làm cho bộ phận kinh tế ngoài
quốc doanh phát triển rất thấp, không tương xứng với tiềm năng của nó trong nền kinh tế,
làm cho nền kinh tế Việt Nam liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Để khắc phục khủng hoảng kinh tế, bắt nguồn từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trên phạm vi toàn
quốc, trong đó đổi mới kinh tế được chú trọng đặc biệt, sự đổi mới kinh tế này đã tạo ra
những cơ sở pháp lý, chính trị và kinh tế cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại
Việt Nam, bao gồm khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm
kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân). Nhờ đó, hàng loạt các DN (chủ yếu là DNVVN)
đã được hình thành, phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trưởng của nền
kinh tế. Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế thì DNVVN còn gặp nhiều khó
khăn trong SXKD, chưa phát huy được hết tiềm năng của mình bởi nhiều nguyên nhân: do
bản thân của các DN, do hiểu biết về loại hình DN này còn nhiều hạn chế,... Mặt khác, các
chuyên gia cùng nhận định, khu vực DNVVN ở Việt Nam sẽ trở thành một động lực quan
trọng cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Chính vì vậy, đòi hỏi cần phải tiến hành
nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về DNVVN, để từ đó tạo điều kiện cho các
DNVVN phát huy hết khả năng của mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Việc nghiên cứu loại hình DNVVN đã được Nhà nước quan tâm và được các tổ chức
của nhiều nước trên thế giới ủng hộ, hỗ trợ. Nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và
nhiều địa phương đã tiến hành nghiên cứu về DNVVN: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng
Liên minh các HTX Việt Nam, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO),
Trung tâm kinh tế châu á - Thái Bình Dương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh...
Ngay từ những năm 1990, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã tiến
hành hai cuộc hội thảo về DNVVN có sự tài trợ của Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó tiến
hành khảo sát 135 DNVVN ở tỉnh Hà Bắc.
Năm 1991, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội) cùng với Trung tâm xúc tiến việc làm châu á (ARTEP-
ILO) và các cộng tác của trường Đại học kinh tế Stockholm (Thụy Điển) đã tiến hành khảo
sát điều tra 1.000 DN nhỏ ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú,
Quảng Ninh, Long An (theo chương trình của dự án VIE 90/MO).
Năm 1993, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội phối hợp với Viện Khoa
học lao động Nhật Bản thực hiện cuộc khảo sát 300 DNVVN ở Hải Phòng, thành phố Hồ
Chí Minh, Quảng Nam - Đà Nẵng...
Việc nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam cũng được thuận lợi bởi Việt Nam trong
những năm qua liên tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế. Trước hết, Việt Nam
tiếp nhận nhiều dự án phát triển DNVVN của Liên Hợp Quốc như dự án VIE/86-054 về
đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho các DNVVN, Liên minh châu Âu (EU) - Việt Nam xây
dựng "Quỹ phát triển các DNVVN", năm 1996 Viện FRIEDRICH EBERT của Cộng hòa
Liên bang Đức hợp tác với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tài trợ cho dự án:
"Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam", năm 1997 Công ty Tài chính quốc tế
chuyên trách khu vực tư nhân thuộc Ngân hàng Thế giới xây dựng "Chương trình dự án
Mê Kông MPDF" nhằm thành lập và phát triển DNVVN khu vực tư nhân cho ba nước
Việt Nam - Lào - Campuchia. Các nước Vương quốc Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài
Loan,... đã cử chuyên gia, giúp tư vấn cũng như tài trợ về vốn cho khảo sát, lập quỹ bảo
lãnh tín dụng,... để nghiên cứu và phát triển DNVVN ở Việt Nam.
Có thể nói, mặc dù thời gian nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam chưa nhiều song
được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trên thế giới, quá trình
nghiên cứu này đã thu hút được nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia trong nước và ngoài
nước tham gia, do đó hàng loạt các tài liệu, các sách hướng dẫn, các bài báo, các công
trình nghiên cứu về DNVVN được công bố. Các vấn đề về lý luận và thực tế liên quan đến
DNVVN đều được đưa ra nghiên cứu và ngày càng sáng tỏ: khái niệm, tiêu chí xác định, ý
nghĩa của DNVVN ở Việt Nam, các chính sách liên quan đến DNVVN,... Song vì đây là
vấn đề nghiên cứu rất rộng và phức tạp, nên quá trình nghiên cứu về DNVVN vẫn luôn là
vấn đề cấp thiết, luôn cần sự quan tâm của các nhà khoa học để từng bước tháo gỡ những
vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển,
khai thác tốt tiềm năng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
1.1.2. Những vấn đề lý luận đã đạt được về DNVVN ở Việt Nam
Như đã trình bày phần trên, việc nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam mặc dù chỉ mới
thực hiện trong thời gian ngắn so với thực tế tồn tại DNVVN ở Việt Nam, song kết quả đạt
được rất lớn, hàng loạt các vấn đề về DNVVN ở Việt Nam đã được làm sáng tỏ. Cụ thể:
- Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu đã hình thành khái niệm DNVVN,
thuật ngữ DNVVN bước đầu đã đi vào cuộc sống, đi vào các tài liệu khoa học, các văn
kiện của Đảng và Nhà nước.
- Từng bước hoàn chỉnh định nghĩa về DNVVN. Mỗi cơ quan nghiên cứu đều đưa
ra định nghĩa về DNVVN. Trên cơ sở những định nghĩa đó, trong Nghị định số
90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa DNVVN ở Việt Nam: DNVVN là các
cơ sở SXKD, đã ĐKKD theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa thì
DNVVN ở Việt Nam bao gồm:
+ Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DN.
+ Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DNNN.
+ Các HTX thành lập và hoạt động theo Luật HTX.
+ Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03
tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh (ĐKKD).
- Khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN trong sự nghiệp phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
- Phân tích làm rõ những ưu thế, hạn chế cũng như khuyết điểm của các DNVVN.
- Xác định những điều kiện kinh tế - xã hội cũng như vai trò quản lý của Nhà
nước, của các tổ chức phi chính phủ đối với sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả của
các DNVVN.
- Nghiên cứu hình thành và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô cũng như các
chính sách hỗ trợ để phát triển DNVVN.
Với kết quả đạt được của quá trình nghiên cứu, đặc biệt là với sự ra đời của Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN đã làm thay đổi quan
niệm của các cấp ủy Đảng và Nhà nước cũng như nhận thức của mọi người nói chung về
loại hình DNVVN, từ chỗ không chấp nhận sự tồn tại, phân biệt đối xử, kỳ thị,... đến chỗ
thừa nhận, khuyến khích hỗ trợ DNVVN phát triển. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhiều
kiến nghị, giải pháp được trình bày cho các nhà hoạch định chính sách, cho Chính phủ, tạo
cơ sở ban hành những chính sách nhằm khuyến khích phát triển DNVVN.
Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đứng trước tình hình biến đổi
phức tạp và sôi động của đời sống kinh tế - xã hội nhiều vấn đề mới đối với DNVVN tiếp
tục phát sinh, đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH.
1.1.3. Những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về DNVVN
Trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, các DN có quy mô vừa và nhỏ đã
được Đảng và Nhà nước quan tâm, song trong từng giai đoạn khác nhau sự quan tâm, tạo
điều kiện cũng khác nhau bởi sự khác nhau về quan điểm đối với loại hình DN này.
- Giai đoạn từ 1986 trở về trước
Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta quan niệm về chế độ sở hữu XHCN
gồm hai bộ phận quốc doanh và tập thể, còn kinh tế tư nhân thuộc diện cải tạo. Xét về quy
mô, cả quốc doanh và tập thể đều là loại vừa và nhỏ, nhất là các HTX tiểu thủ công
nghiệp, nhưng chưa có khái niệm về DNVVN.
- Giai đoạn từ 1986 đến nay
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết Đại hội VI khẳng định: cùng
với việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cần sử dụng
khả năng tích cực của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, mở rộng
nhiều hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi và bình
đẳng trước pháp luật. Đường lối này lại được củng cố thêm ở Đại hội Đảng VII, VIII, IX,
các văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội này đều nêu rõ chủ trương xuyên suốt là thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là các bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Theo đó các DN thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào kinh
doanh đúng pháp luật, theo định hướng chung của Nhà nước đều được khuyến khích, tạo
điều kiện để phát triển. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ DNVVN bắt đầu
du nhập vào nước ta, cũng có ý kiến cho rằng, đây là loại hình kinh tế của chủ nghĩa tư
bản. Nhưng qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng, sự tồn tại của
DNVVN là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta. Từ đó, đã tác động lớn đến quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với DNVVN.
DNVVN không còn coi là phụ trợ như trước, mà giờ đây là công cụ hữu hiệu, là nhà thầu
phụ quan trọng cho các DN lớn góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nhấn mạnh: "Trong phát triển mới, ưu tiên
quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời
xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả" [10, tr. 28]. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa" [12, tr.
27].
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để từng bước hình
thành hệ thống thể chế chính sách khuyến khích phát triển DNVVN. Có thể kể ra đây
những văn bản quan trọng như:
+ Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo
quy định của pháp luật, công nhận quyền được đối xử của các thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
+ Nghị định 66-HĐBT ngày 2-3-1992 của Hội đồng Bộ trưởng về cá nhân và
nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn mức vốn pháp định quy định trong Nghị định 221-
HĐBT ngày 23-7-1991
+ Luật Công ty và Luật DN tư nhân 1990 quy định khung pháp luật cho các DN
này hoạt động, tham gia thị trường trong nước và ngoài nước.
+ Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998
và năm 2001 đã quy định các DN có quyền hợp pháp về sử dụng đất, có quyền chuyển
nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.
+ Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 quy định rõ những chính sách
ưu đãi cho các dự án kinh doanh thuộc các ngành nghề, các vùng khó khăn, đặc biệt khó
khăn cần được ưu đãi.
+ Luật HTX năm 1996 nhằm để phát huy vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác,
tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX.
+ Nghị định số 15/CP-1997 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển
HTX.
+ Luật Thuế thu nhập DN năm 1997 đơn giản hóa và thực hiện thống nhất một sắc
thuế thu nhập cho các loại hình kinh doanh trong nước.
+ Luật Thuế giá trị gia tăng - một sắc thuế giản đơn, công bằng thay thế Luật Thuế
doanh thu.
+ Luật Thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại của các
DN.
+ Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và Nghị định số 51
(7/1999) cụ thể hóa việc thực hiện luật đó, đã đề ra khá nhiều chính sách cụ thể áp dụng
cho tất cả các loại hình tổ chức SXKD, kể cả cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định
66/HĐBT (nay là Nghị định 02/2000/QĐ-TTg ngày 03-02-2000 của Chính phủ về đăng ký
kinh doanh).
+ Luật DN năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2000) quy định việc tổ
chức hoạt động của bốn loại hình DN: công ty TNHH, CTCP, DNTN, công ty hợp danh,
trên cơ sở hợp nhất Luật Công ty và Luật DNTN trước kia.
+ Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về
một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn.
+ Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về xuất, nhập
khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một cơ chế 5 năm thay cho cơ chế hàng năm trước đây, giảm
bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế.
+ Các chính sách về tín dụng ngân hàng cho đầu tư phát triển như Quyết định
67/1997/QĐ-TTh, Nghị định 43/1999/NĐ-CP...
+ Đặc biệt là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển
DNVVN.
Rõ ràng là, trải qua 16 năm đổi mới của Đảng, thể chế kinh tế nước ta đã từng
bước chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ thống các chính
sách theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành, tuy chưa thật sự hoàn chỉnh,
song hệ thống chính sách hiện hành này đã bao quát hầu hết các lĩnh vực liên quan đến
hoạt động của DNVVN như: chính sách về hành nghề và tạo lập DN, chính sách về thuế,
chính sách về vốn và tín dụng, chính sách thương mại, chính sách đất đai, chính sách công
nghệ,...
Nhờ hệ thống chính sách này mà kinh tế dân doanh bước đầu bùng nổ, mọi lực
lượng sản xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của nền kinh tế nước ta, tạo
thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Một ví dụ nổi bật, là từ khi Luật DN có
hiệu lực thi hành, chỉ riêng năm 2000 đã có thêm 13.891 DN mới ĐKKD, năm 2001 thêm
22.945 DN, 6 tháng đầu năm 2002 thêm khoảng 11.000DN nhưng đáng chú ý nhất là số
DN mới này đã giải quyết được thêm 1 triệu lao động mới có việc làm (khoảng 30% số lao
động mới) (chưa kể hơn 300.000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký thu hút khá nhiều lao
động) [21, tr. 62].
Song, như trên đã trình bày, đây là hệ thống chính sách chung cho DN chứ chưa
phải là hệ thống chính sách riêng đối với DNVVN (trừ Nghị định 90), vì thế mà cơ chế,
chính sách đối với DNVVN còn nhiều sơ hở, chồng chéo, thậm chí thiếu nhất quán. Trong
hệ thống chính sách đã đưa ra các quan điểm bình đẳng nhưng trong thực tế điều hành thì
vẫn còn có sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các loại hình DN. Vì vậy cần
phải tiếp tục nghiên cứu và ban hành các chính sách phù hợp với đặc điểm DNVVN, nhất
là trong tình hình hiện nay.
1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta
1.2.1. Tình hình phát triển DNVVN trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Trước năm 1986, DNVVN ngoài quốc doanh nói chung, DNTN, cá thể nói riêng
chưa thật sự được quan tâm khuyến khích phát triển, do vậy họ phải tổ chức hoạt động núp
bóng dưới các hình thức như tổ hợp, hộ gia đình, HTX, xí nghiệp công tư hợp doanh...
Từ năm 1986 đến nay, quan điểm, đường lối, chủ trương mới về chính sách cơ cấu
kinh tế và cơ chế quản lý dẫn đến sự thay đổi cơ bản hệ thống DN trong nền kinh tế quốc
dân. Các thành phần kinh tế được chính thức thừa nhận và khuyến khích phát triển. Từ đó
hàng loạt các DN, nhất là các DN ngoài quốc doanh (trong đó phần lớn là DNVVN) đã ồ
ạt ra đời và phát triển. Trong thời kỳ đổi mới số lượng DN của các thành phần kinh tế có
sự biến động rất lớn: số lượng DNNN giảm liên tục, từ 12.300 DN năm 1990 sau ba đợt
sắp xếp, đổi mới đã giảm xuống còn 5.655 DN (tháng 5/2001), giảm 55% về số lượng, chủ
yếu là các DN nhỏ và do địa phương quản lý, số lượng DNVVN thuộc DNNN giảm từ
90% xuống còn 75% trong tổng số DNNN [2, tr. 7]. Trong khi đó thì số lượng DN trong
khu vực kinh tế tư nhân tăng mạnh, nếu như năm 1991 chỉ có 123 DN (bao gồm DNTN,
công ty TNHH, CTCP) đăng ký theo Luật, thì đến năm 1992 có 4.347 DN, năm 1993 là
12.131 DN, năm 1994 có 18.412 DN, năm 1998 có 28.708 DN, năm 1999 có 37.557 DN,
đặc biệt từ khi Luật DN ra đời (01/01/2000) số lượng DN khu vực kinh tế tư nhân tăng
nhanh cả về tốc độ và vốn ĐKKD, năm 2000 có 51.448 DN (tăng 36,9%), năm 2001 có
74.393 DN (tăng 44,6%) và tính đến cuối tháng 6/2002 tổng số DN thuộc khu vực này đã
lên đến 85.393 DN với số vốn ĐKKD bình quân là 970 triệu đồng/DN (năm 2000), 1,25 tỷ
đồng/DN (năm 2001), 1,5 tỷ đồng/DN (6 tháng đầu năm 2002) [30, tr. 91] [21, tr. 62].
Hiện nay, qua các cuộc điều tra cho thấy DNVVN chiếm đến 95-98% số DN cả
nước. DNVVN có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân, trong đó phần lớn tập
trung vào các lĩnh vực chính: thương mại, dịch vụ sửa chữa, vận tải, công nghiệp chế biến,
xây dựng,... và được phân bổ rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, thành thị đến
vùng nông thôn.
Hiện nay, DNNN đang trong giai đoạn tiếp tục xử lý, củng cố lại và tiến hành cổ
phần hóa, cho thuê, bán cho các thành phần kinh tế khác theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 3 (khóa IX), đồng thời thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về việc tiếp tục
đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân,
DNVVN sẽ có xu hướng và điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa.
1.2.2. Vai trò của các DNVVN trong thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta
Về tiêu chí phân loại DNVVN, có những ý kiến khác nhau nhưng trong đánh giá
về vai trò của DNVVN có thể nói là khá tập trung và thống nhất: DNVVN có vai trò đặc
biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thể
hiện qua các mặt sau đây:
- Đóng góp vào việc tăng trưởng nền kinh tế
Theo số liệu thống kê và đánh giá của các chuyên gia thì mỗi năm DNVVN đóng
góp 25% - 26% GDP của cả nước [41]. Song trong những năm gần đây với sự phát triển
mạnh mẽ của loại hình DNVVN này khả năng đóng góp vào GDP của cả nước ngày càng
tăng. Trong năm 2000, tỷ trọng của khu vực kinh tế tập thể trong GDP là 8,5%, khu vực kinh
tế tư nhân 32%, khu vực kinh tế hỗn hợp 3,9%, như vậy tổng của 3 khu vực trên chiếm
khoảng 44,2% GDP của cả nước (mà đây là các khu vực DN tồn tại chủ yếu là DNVVN) [12,
tr. 229]. Theo Tổng cục thống kê, năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân nộp Ngân sách 11.003 tỷ
đồng, năm 2001 là 11.075 tỷ đồng, chiếm 14,8% tổng thu Ngân sách [21, tr. 62].
Do số lượng DNVVN tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu xã hội. DNVVN góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh
tế, đặc biệt trong việc phát triển ngành nghề truyền thống, thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn. Việc phát triển DNVVN trong các ngành nghề truyền thống trong nông
thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các
nghệ nhân mà hiện đang có xu hướng mai một dần, thu hút lao động nông thôn, phát huy
lợi thế từng vùng để phát triển kinh tế, đồng thời đang là một thế mạnh của ta trong quá
trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
- Tạo việc làm cho người lao động
Khu vực DNVVN thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút một lượng lao động
khá lớn, chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và bằng 22,5% lực lượng
lao động cả nước, nhưng so với các nước trong khu vực (chiếm 50-60%) thì còn quá thấp
[3, tr. 6]. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2000, cả nước có tới 1.447.000 người
đang trong độ tuổi lao động không có việc làm, trong đó khu vực thành thị có 692.000
người, chiếm 48% và khu vực nông thôn có 755.000 người, chiếm 52%. Theo dự báo, từ
năm 2000 đến năm 2010, mặc dù dân số có thể tăng chậm lại (từ 1,43% năm 1999 xuống
1,17% năm 2010) [48, tr. 247], nhưng nguồn lao động của nước ta vẫn tăng (đến năm 2010
có khoảng 56,8 triệu người trong độ tuổi lao động, tăng
11 triệu người so với năm 2000) [12, tr. 210]. Đây là cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng
là thách thức rất lớn về giải quyết việc làm. Các DNVVN đang là nơi có triển vọng thu hút
lao động rất lớn, là nơi có nhiều thuận lợi để tiếp nhận số lao động, nhất là lao động ở nông
thôn tăng thêm mỗi năm, vì vậy, để thực hiện mục tiêu giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp
đến năm 2010 còn 50% thì phải phát triển mạnh DNVVN. Đồng thời, DNVVN còn là nơi
tiếp nhận số lao động từ các DNNN và DN có vốn đầu tư nước ngoài. Sở dĩ DNVVN có
khả năng thu hút lao động lớn là vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở DNVVN thấp hơn
rất nhiều so với DN lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác
trong dân.
- Nâng cao thu nhập cho dân cư.
Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp, do nền kinh tế phát triển chậm. Thu nhập
của dân cư nông thôn (chiếm trên 80% tổng dân số) lại chủ yếu phụ thuộc vào nền nông
nghiệp thuần nông, mà trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh nhưng nếu
không có công nghiệp chế biến thì không thể làm giàu. Kết quả điều tra của các nhà nghiên
cứu cho thấy, thu nhập của vùng dân cư có các DN phát triển gấp 4 lần thu nhập của các
vùng dân cư thuần nông; thu nhập bình quân của lao động trong các DNVVN là 300.000đ
- 400.000đ/tháng so với thu nhập của lao động nông thôn thuần nông là 100.000đ -
200.000đ/tháng. Do đó việc phát triển DNVVN là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa
dạng hóa thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp ở các vùng trong nước.
- Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn.
Với sự góp mặt của các DNVVN làm cho số lượng các DN trong nền kinh tế tăng
lên rất lớn, kéo theo sự tăng lên về chủng loại, mặt hàng, dịch vụ, phương thức phục vụ,...
quá trình này làm tăng thêm mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế, người tiêu dùng được
hưởng phần sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt hơn, giá cả rẻ hơn, phương thức phục vụ
văn minh, tiện lợi hơn. Với quy mô nhỏ, vốn ít, sự thích nghi nhanh, các DNVVN có nhiều
khả năng thay đổi mặt hàng, đổi mới công nghệ,... làm cho nền kinh tế năng động hơn.
Ngoài ra các DNVVN còn có tác dụng hỗ trợ, làm chân rết cho các DN lớn kinh doanh có
hiệu quả thông qua các hoạt động như làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp
vật tư đầu vào, thâm nhập vào hết các ngóc ngách của thương trường mà các DN lớn
không với tới được.
- Thu hút vốn.
Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình SXKD, nó có vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng DN. Nhưng thực tế hiện nay đang có một
nghịch lý là hầu hết các DN của ta đang thiếu vốn trầm trọng trong khi đó vốn nhàn rỗi
trong dân cư còn rất lớn nhưng không thể huy động được cho SXKD. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường kinh doanh
chưa ổn định, tính pháp lý chưa cao. Trong tình hình đó, chính các DNVVN với đặc điểm
hình thành của nó gắn liền với các điều kiện thực tế của các dân cư nên dễ tiếp xúc trực
tiếp với các nguồn vốn này để huy động vốn hoặc chính người chủ sở hữu vốn đầu tư vốn
để trực tiếp kinh doanh. Thực tế cho thấy, các DNVVN đã huy động ngày càng nhiều vốn
trong xã hội đầu tư vào SXKD. Năm 2000, chỉ tính riêng khu vực kinh tế tư nhân, vốn
ĐKKD tăng gấp hơn 4,5 lần so với năm 1995, vốn đầu tư tăng 13% so với năm 1999,
chiếm khoảng 24,3% tổng số vốn đầu tư xã hội. Tính đến tháng 3/2002 vốn đăng ký của
khu vực kinh tế tư nhân đã lên tới 55.000 - 60.000 tỷ đồng, tương ứng 4 tỷ USD.
- Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
Các DNVVN có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc
biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng
thời thúc đẩy các ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNVVN ở
thành thị cũng góp phần làm cho tỷ trọng dịch vụ tăng thêm và làm cho tỷ trọng khu vực
nông nghiệp thu hẹp lại trong cơ cấu kinh tế quốc dân, làm dịch chuyển từ một nền kinh tế
sản xuất nhỏ thuần nông sang một nền kinh tế đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn
minh, hiện đại, thể hiện trên các mặt:
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: Chuyển hướng theo đúng các quy luật của cơ cấu
kinh tế hàng hóa theo định hướng XHCN, các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên
nhanh chóng, phát huy được tiềm năng cho tăng trưởng đất nước, các DNNN được sắp
xếp, củng cố lại, kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
+ Cơ cấu ngành: Phát triển nhiều ngành, nghề đa dạng và phong phú theo hướng
lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
Thực tế qua 16 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế ở nước ta thay đổi theo hướng tiến bộ,
tỷ trọng giá trị nông nghiệp giảm liên tục, còn tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng
lên, trong đó có sự đóng góp của DNVVN.
+ Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Các DN được phân bổ rộng khắp trên mọi vùng lãnh
thổ: cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay, các DNVVN
vẫn chủ yếu tập trung ở thành thị. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính
sách.
- Góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh nhân
mới trong kinh tế thị trường
Các DNVVN là nơi đào tạo, rèn luyện cho các nhà quản lý DN. Với quy mô vừa
và nhỏ là môi trường thuận lợi cho các nhà quản lý DN làm quen với môi trường kinh
doanh. Bắt đầu từ đây một số nhà quản lý DN đã trưởng thành lên những nhà quản lý DN
lớn, tài ba, biết đưa DN của mình nhanh chóng phát triển. Đây là vấn đề rất quan trọng bởi
ở Việt Nam trong nhiều năm đội ngũ các nhà quản lý DN gắn liền với cơ chế bao cấp nên
chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường.
Tóm lại, DNVVN có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước
và vai trò này ngày càng được tăng lên cùng với quá trình CNH, HĐH, bởi DNVVN đang
là động lực cho phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, huy động vốn trong nước, chuyển
dịch cơ sở kinh tế,... Do tầm quan trọng của các DNVVN đang ngày càng tăng và tiềm
năng của DNVVN trong nền kinh tế, nên quyết định của Chính phủ về xây dựng chiến
lược phát triển cho các DNVVN, theo Công văn số 681/CP-KTH và Nghị định số
90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN, rõ ràng là những quyết định kịp thời.
1.2.3. Khái quát những vướng mắc và hạn chế của DNVVN
Bên cạnh những ưu thế vốn có của bản thân DNVVN, những thuận lợi do chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự phát triển của các DNVVN đang gặp phải những
hạn chế và vướng mắc sau:
- Quan điểm của xã hội về DNVVN
Cho đến nay, tư duy cũ của cơ chế kế hoạch hóa tập trung không công nhận thị
trường, không công nhận kinh tế dân doanh vẫn đang còn là rào cản khá lớn để đưa doanh
nhân thời kinh tế thị trường trở về với vị trí của họ, vẫn còn sự kỳ thị phân biệt đối xử đối
với doanh nhân, nhất là doanh nhân trong khu vực ngoài quốc doanh kể cả trong cán bộ,
công chức nhà nước (mà DNVVN chủ yếu là khu vực ngoài quốc doanh). Nhiều người vẫn
còn thích làm việc trong các DNNN hơn, bởi họ quan niệm làm việc trong DNNN mới được
coi là có việc làm, có trong biên chế. Hơn nữa, trong khu vực tư nhân bảo hiểm xã hội và
những vấn đề phúc lợi xã hội khác chưa được đảm bảo đầy đủ.
- Vốn và tín dụng.
Hiện nay, 75% số DNVVN có số vốn dưới 50 triệu đồng, thiếu vốn đang là khó khăn
phổ biến, nhưng số DNVVN được vay vốn của ngân hàng rất ít. Theo báo cáo của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư về việc thực hiện cấp tín dụng từ quỹ trợ giúp đầu tư theo Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước từ 1/12/1999 đến 30/6/2000, đã có 164 dự án với tổng số vốn vay ưu
đãi 424 tỷ đồng, trong đó 61 dự án thuộc khu vực quốc doanh (39% tổng dự án) được vay
294 tỷ đồng (69% tổng giá trị khoản tín dụng ưu đãi); có 103 dự án thuộc khu vực dân
doanh được vay ưu đãi 130 tỷ đồng. Nếu nghiên cứu sâu hơn nữa, phần lớn tín dụng tập
trung chủ yếu vào các DNTN lớn, chứ không phải là các DNVVN [41, tr. 102].
Do vậy để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNVVN thường phải vay vốn
chủ yếu từ các tổ chức phi chính thức, cụ thể là từ thân nhân và bạn bè, với lãi suất đôi khi
cao gấp 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong việc
tiếp cận các khoản tín dụng từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Mặt
khác, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNVVN. Lý do: thủ tục vay
phức tạp, chi phí giao dịch cao, việc phải trả hoa hồng là phổ biến, những quy định khắt
khe về tài sản thế chấp,...
- Đất đai.
Hiện nay, hầu hết các DNVVN đều thiếu đất đai làm mặt bằng SXKD, để lập cơ
sở mới hoặc mở rộng SXKD. Đó là do các quy định về quyền sử dụng đất đai thường
không rõ ràng, các quyền mua bán, thế chấp, chuyển nhượng đất công nghiệp vẫn chưa
được thừa nhận.
- Trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ.
Phần lớn công nghệ các DNVVN sử dụng đã trở nên lạc hậu. Do DN thiếu vốn,
do thiếu thông tin về thị trường công nghệ lại không được tiếp cận đầy đủ với những dịch
vụ tư vấn để có sự hỗ trợ, việc chuyển giao công nghệ còn gặp nhiều khó khăn và tốn
kém,...
- Sức cạnh tranh và khả năng tiếp cận với thị trường thế giới.
Thị trường của DNVVN đang bị thu hẹp bởi sức mua quá thấp của nông dân, do
hàng hóa nhập lậu qua biên giới không thể nào kiểm soát được, do khả năng cạnh tranh
của hàng hóa của DN này càng yếu nên lại càng khó khăn hơn khi xuất khẩu. Ngoài ra sức
cạnh tranh trên thị trường trong nước của DNVVN bị suy giảm còn bởi do phải gánh chịu
những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng như nhãn hiệu, bản quyền... chưa
được thực hiện nghiêm túc, chưa có luật cạnh tranh, nạn tham nhũng, vụ lợi của một số
cán bộ quản lý thị trường chưa được ngăn chặn triệt để,...
- Trình độ tay nghề của lao động và đội ngũ quản lý thấp.
Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo. Đội
ngũ các nhà quản lý DN có trình độ và khả năng quản trị kinh doanh yếu so với nhu cầu, do
đó rất lúng túng trước sự biến động của thị trường. Số liệu điều tra cho thấy có đến 48,4% số
chủ DN ngoài quốc doanh không có bằng cấp chuyên môn.
Sở dĩ các DNVVN có những hạn chế và vướng mắc đối với sự phát triển như trên
do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể khái quát thành ba nguyên nhân chính:
- Do bản thân DN: Do quy mô vừa và nhỏ nên vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ
tay nghề kém, trình độ quản lý kinh doanh hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật và đạo đức
trong kinh doanh còn nhiều yếu kém.
- Môi trường kinh doanh: Thị trường còn sơ khai, chưa đầy đủ lại thiếu ổn định và
lành mạnh; cơ chế chính sách và cả luật pháp chưa thật thuận lợi cho sự hoạt động và phát
triển của DNVVN.
- Tác động quản lý của Nhà nước: Ngoài cơ chế chính sách còn nhiều vướng mắc
thì quản lý nhà nước đối với DNVVN còn nhiều hạn chế: chưa có chiến lược rõ ràng, chưa
có hệ thống chính sách riêng áp dụng cho DNVVN, thủ tục phiền hà, quan liêu còn nặng
nề gây khó khăn cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của DNVVN.
Cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của DNVVN, việc xác định được
những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế vướng mắc mà DNVVN gặp phải, Nhà nước,
các cơ quan chức năng có liên quan và cả bản thân các DNVVN sẽ sớm có những giải pháp
thích hợp để khắc phục, tạo điều kiện thuận lợi để các DNVVN phát triển theo đúng tiềm
năng sẵn có của mình.
1.3. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.3.1. Kinh nghiệm một số nước về phát triển DNVVN
ở hầu hết các nước trên thế giới, dù là nước phát triển cũng như đang phát triển,
họ đều dành sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt cho loại hình DNVVN. Loại hình DN này
được đánh giá là những "hạt nhân" của những hoạt động có tính chất đổi mới và đóng vai
trò quan trọng trong một cơ cấu kinh tế năng động. Chính vì vậy, các chính sách và biện
pháp của Nhà nước đều nhằm vào thúc đẩy quá trình ra đời và phát triển loại hình DN này.
Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm thành công của một số nước trên thế giới.
1.3.1.1. Cộng hòa Liên bang Đức
ở CHLB Đức, DNVVN tập trung chủ yếu trong ngành tiểu thủ công nghiệp có
truyền thống lâu đời, hiện nay có khoảng 700.000 DN, tổng số lao động khoảng 4,8 triệu
người, tạo ra giá trị tổng sản phẩm bằng khoảng 10% GDP của cả nước [5, tr. 36].
Mặc dầu CHLB Đức đã có một nền công nghiệp phát triển mạnh, với nhiều DN
lớn nhưng DNVVN vẫn có vai trò quan trọng như góp phần tăng trưởng kinh tế; tạo việc
làm, giải quyết nạn thất nghiệp; bảo vệ và phát huy các ngành nghề thủ công truyền
thống… Mặc dù có vai trò không nhỏ nhưng các DNVVN gặp không ít khó khăn và bất lợi
cho chính qui mô nhỏ gây ra. Do đó DNVVN cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Sự hỗ
trợ các DNVVN ở CHLB Đức được quan tâm từ rất lâu, thể hiện từ các mặt:
Thứ nhất, Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho DNVVN hoạt động. Do DNVVN
ở Cộng hòa liên bang Đức chủ yếu thuộc ngành tiểu thủ công nghiệp, nên năm 1953 Quốc
hội CHLB Đức đã thông qua quy chế tiểu thủ công nghiệp, quy định về mặt pháp lý từ khái
niệm, nội dung hoạt động, các điều khoản liên quan quy định những ngành nghề gì được
coi là tiểu thủ công nghiệp. Năm 1976, Chính phủ Đức đã thông qua "Các nguyên tắc
trong chính sách cơ cấu đối với kinh doanh vừa và nhỏ". Năm 1980, một số văn bản pháp
quy cho phép DNVVN được hưởng hơn 180 loại ưu đãi ra đời,....
Thứ hai, tổ chức hoạt động tư vấn cho DNVVN như tư vấn về quản lý kinh doanh,
tư vấn về pháp lý, tư vấn về thuế, về đào tạo nghề, về kỹ thuật,...
Thứ ba, hỗ trợ về tài chính, Nhà nước giúp DNVVN bằng chính sách tài chính
thông qua con đường tín dụng và trợ cấp; hình thành hoạt động bảo lãnh vay tín dụng; hỗ
trợ kinh phí cho tư vấn và đào tạo; áp dụng ưu đãi về thuế,... để tạo cho các DNVVN tự
chủ tài chính.
Thứ tư, hỗ trợ về đào tạo, ở CHLB Đức có hệ thống dạy nghề dưới hình thức liên
doanh nhà máy với trường học. Các DN có chức năng và nghĩa vụ đào tạo miễn phí cho
công nhân. Kinh phí cho dạy nghề một phần nhỏ do Ngân sách của Chính phủ liên bang
chi, phần lớn do các DN đóng góp.
1.3.1.2. Đài Loan
Đài Loan được coi là vương quốc của các DNVVN. Sự tăng trưởng kinh tế siêu tốc
của Đài Loan trong những thập kỷ vừa qua gắn liền với những đóng góp to lớn về mọi mặt của
DNVVN, đặc biệt trong lĩnh vực tạo việc làm và xuất khẩu.
Với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, các DNVVN ở Đài Loan luôn được sự
quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước để phát triển. Các cơ quan, tổ chức hỗ trợ phát triển được
thành lập như: Thiết lập các cơ cấu chuyên trách để thúc đẩy sự phát triển của DNVVN
(1954); thành lập các ngân hàng chuyên nghiệp cung cấp vốn và tín dụng cho các DNVVN
(1964); thành lập Bộ Kinh tế của các DNVVN (1970), thành lập Trung tâm dịch vụ
DNVVN ở các địa phương, Trung tâm giải pháp nhanh, Trung tâm đào tạo DNVVN,...
Qua gần nửa thế kỷ đến nay, Đài Loan đã hình thành được một hệ thống chính
sách và biện pháp trợ giúp DNVVN tương đối ổn định và có tính ổn định cao. Hệ thống
này đã được thể chế hóa bởi văn bản "Đại cương các chính sách và biện pháp nhằm vào
các DNVVN" do Cục quản lý DNVVN phát hành. Theo văn bản này, khuôn khổ chính
sách và biện pháp trợ giúp DNVVN của Đài Loan tập trung vào ba nhóm lớn. Đó là:
- Xây dựng môi trường kinh doanh tối ưu: Duy trì sự cạnh tranh công bằng hợp lý,
cải thiện hệ thống tài chính, giúp DNVVN cải thiện điều kiện lao động và môi trường,....
- Thúc đẩy sự hợp tác giữa các DNVVN và giữa các DNVVN với các DN lớn.
- Thúc đẩy sự tăng trưởng độc lập của DN: Trợ giúp các DN tối ưu hóa quản lý,
thành lập DN mới, thúc đẩy các hãng hoạt động ở nước ngoài,...
Mỗi chính sách lớn trên đều được thực hiện bởi nhiều biện pháp cụ thể. Một số
biện pháp nổi bật đang được Chính phủ Đài Loan thực hiện để trợ giúp các DNVVN hiện
hành là:
+ Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý trợ giúp cho sự phát triển của các
DNVVN, thành lập "Nhóm đặc trách thúc đẩy DNVVN" có chức năng soát xét và kiến
nghị sửa đổi luật lệ để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
các DNVVN,...
+ Thành lập các quỹ trợ giúp tài chính cho các DNVVN gồm Quỹ bảo lãnh tín
dụng cho DNVVN, Quỹ bảo lãnh tương hỗ, Quỹ phát triển DNVVN và tập đoàn phát triển
DNVVN. Ngoài ra các DNVVN còn được nhận các khoản vay đặc biệt nhằm vào các mục
đích như giảm ô nhiễm, giảm chi phí hoạt động,... thông qua nhiều quỹ đặc biệt của Chính
phủ.
+ Hình thành hệ thống tư vấn DN cho các DNVVN, bao gồm: Hệ thống hướng dẫn
tài chính và tín dụng, hệ thống hướng dẫn quản lý,…
Với bối cảnh mới của nền kinh tế Đài Loan hiện nay đang dần chuyển sang một
giai đoạn phát triển dựa trên các ngành sử dụng nhiều vốn và tri thức, tầm quan trọng
tương đối của các DNVVN trong nền kinh tế Đài Loan có phần suy giảm, sức mạnh cạnh
tranh giảm. Song với tính chất linh hoạt, cùng với hệ thống chính sách trợ giúp thích hợp
của Chính phủ, các DNVVN Đài Loan hoàn toàn có khả năng thính ứng và tiếp tục phát
triển.
1.3.1.3. Nhật Bản
Hình thức tổ chức DN của Nhật Bản ra đời cách đây 100 năm với hai loại chính:
Hình thức tổ chức kiểu "cái ô" và hình thức tổ chức "mắt xích". Cả hai hình thức tổ chức
DN này rất phù hợp với loại hình DNVVN. Do vậy loại hình này phát triển rất sớm ở Nhật
Bản và đã khẳng định được vai trò của mình trong đời sống kinh tế - xã hội Nhật Bản.
Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế, Nhà nước Nhật Bản
đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển DNVVN. Có thể phân chia chính sách phát
triển DNVVN thành hai nhóm chính:
Một là, hỗ trợ để tăng cường năng lực kinh doanh của DNVVN: cho vay vốn qua tín
dụng nhà nước, cải thiện về vốn qua các CTCP, định thuế ưu đãi,...
Hai là, hỗ trợ thay đổi cơ cấu, bao gồm các biện pháp hỗ trợ cho việc tạo ra kinh
doanh mới; hỗ trợ phát triển kỹ thuật;...
Toàn bộ việc thực hiện các chính sách giúp đỡ DNVVN được thực hiện bởi hoạt
động của Liên đoàn các DN nhỏ của Nhật Bản (JSBC).
Từ đầu năm 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào suy thoái. Đặc biệt gần
đây, với sự phát triển nhanh của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, sự phát triển kinh tế tri
thức,... đã làm cho DNVVN gặp không ít khó khăn, song khu vực DN này với những ưu
việt vốn có cộng với các chính sách trợ giúp của Chính phủ sẽ tiếp tục phát triển mạnh và
sẽ trở thành một nguồn lực năng động tạo đà cho sự phục hồi và tăng trưởng mới của nền
kinh tế Nhật Bản.
1.3.2. Kinh nghiệm một số địa phương về phát triển DNVVN
1.3.2.1. Tỉnh Bình Dương
Bình Dương là một tỉnh ở miền Đông Nam Bộ, là một trong những tỉnh có tăng
trưởng kinh tế cao vào loại bậc nhất của cả nước; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai
đoạn 1991-1995 là 17,52%, giai đoạn 1996-2000 là 13,5%. Những thành tựu Bình Dương
đạt được là nhờ sự đóng góp đáng kể của loại hình DNVVN (chiếm trên 98% tổng số DN
của cả tỉnh). Tác động to lớn của các DNVVN đối với kinh tế - xã hội của tỉnh được thể
hiện:
+ Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH, HĐH, giảm mạnh
tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ;
+ Phát huy mọi tiềm năng về đất đai, lao động, ngành nghề truyền thống và nguồn
vốn trong dân để phát triển kinh tế của tỉnh: thu hút được 813,83 tỷ đồng, chiếm 37% tổng
số vốn đầu tư kinh doanh của tỉnh (năm 2000); các DNVVN trong công nghiệp, dịch vụ đã
tạo việc làm cho hơn 73.000 người (tính đến cuối năm 1999); năm 1999, lực lượng kinh tế
ngoài quốc doanh trong nước, trong đó chủ yếu là các DNVVN đóng góp khoảng 50%
GDP của tỉnh; đóng góp vào ngân sách nhà nước 156,3 tỷ đồng.
+ DNVVN góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Thu
nhập bình quân đầu người năm 1997 đạt 5,6 triệu đồng thì năm 2000 đạt 8 triệu đồng; năm
1997 còn 8% số hộ nghèo thì năm 2000 còn 6% hộ nghèo, không có hộ đói.
Mặc dù có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhưng
các DNVVN ở Bình Dương cũng gặp không ít khó khăn như hoạt động tự phát, phân tán,
sức cạnh tranh yếu nên khó thích ứng với sự biến động của thị trường; thiết bị công nghệ
còn lạc hậu vừa gây hạn chế chất lượng sản phẩm, vừa gây ô nhiễm môi trường, tỷ lệ đầu
tư đổi mới công nghệ chưa quá 15% doanh thu; trình độ quản lý kinh doanh của các chủ
DN nhìn chung còn nhiều hạn chế, có đến 32% chủ DN chưa qua đào tạo hoặc chỉ qua một
lớp học quản lý ngắn hạn;...
Nhận thấy được tầm quan trọng của DNVVN cũng như những khó khăn mà các
DNVVN gặp phải, lãnh đạo tỉnh Bình Dương đã có sự quan tâm thích đáng đối với sự phát
triển của DNVVN:
+ Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã có nhiều chủ trương và chính sách thông thoáng nhằm
phát huy nội lực, thu hút ngoại lực để phục vụ chiến lược phát triển của tỉnh với khẩu hiệu
"Trải thảm đỏ mời khách đầu tư" như xây dựng các khu công nghiệp tập trung để kêu gọi
đầu tư; tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo mô hình"một cửa", tập trung đầu mối xét
và cấp giấy phép đầu tư cho Sở Kế hoạch và Đầu tư với thủ tục nhanh, gọn; tạo điều kiện
thuận lợi để các DN được tiếp xúc dễ dàng với các nhà lãnh đạo chủ chốt của tỉnh để trình
bày các khó khăn trong quá trình đầu tư và nhờ đó khó khăn được tháo gỡ kịp thời.
+ Từ những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của lãnh
đạo tỉnh, các sở, ban ngành đã cụ thể hóa nội dung quản lý của mình để thực hiện các biện
pháp hỗ trợ phát triển DNVVN thông qua các chính sách đất đai, tín dụng, khoa học - công
nghệ... như tiến hành cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân và các DN (đến cuối
năm 2000 đã hoàn thành thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được 90% và cấp
đến tay người dân được 77%); thực hiện chủ trương "đổi đất lấy kết cấu hạ tầng" vừa thu
hút được vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, vừa sử dụng đất có hiệu quả; hoạt động tín
dụng thực hiện nhiều biện pháp tích cực để thu hút tiền gửi của các tổ chức kinh tế và của
dân cư, kịp thời cung ứng vốn cho các thành phần kinh tế để phát triển SXKD; hệ thống
ngân hàng hướng vào phục vụ hoạt động kinh doanh của các DN, trong đó có DNVVN;
quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển ưu tiên cho vay DNVVN ở nông thôn để sản xuất gốm, sứ,
hàng mỹ nghệ, cho vay dự án sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, hỗ trợ di
dời các DN ra khỏi khu dân cư; hoạt động của ngành thuế với mục tiêu không chỉ tăng
nguồn thu ngân sách nhà nước mà quan trọng hơn là kích thích phát triển SXKD của các
DN, đặc biệt là DNVVN;...
1.3.2.2. Tỉnh Bắc Ninh
Cũng như nhiều địa phương khác, DNVVN ở Bắc Ninh chiếm tỷ trọng rất lớn
trong tổng số DN của tỉnh, gần 97% số DN và Công ty tư nhân, 93% DNNN địa phương,
100% HTX... thuộc loại DNVVN và có mặt trong nhiều ngành, nghề khác nhau. Vai trò
của các DNVVN thể hiện trên các mặt:
+ Tạo thêm nhiều việc cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, trên cơ sở đó
góp phần tăng thu nhập dân cư, đa dạng hóa các nguồn thu nhập.
+ Thu hút vốn vào SXKD: Theo số liệu của tỉnh, vốn đầu tư của các DNVVN
ngoài quốc doanh và đầu tư của dân cư năm 1999 chiếm 58,2% tổng số vốn đầu tư trên địa
bàn tỉnh.
+ Các DNVVN đóng góp không nhỏ vào GDP, tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Chỉ
tính riêng trong công nghiệp, các DNVVN chiếm trên 40% giá trị sản xuất công nghiệp
toàn tỉnh. Các cơ sở sản xuất trong các làng nghề của tỉnh hàng năm đã tạo ra của cải trị
giá trên 200 tỷ đồng.
+ Các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế của tỉnh,
trong những năm qua, các cấp chính quyền từ tỉnh đến các huyện, xã đã có nhiều nỗ lực
nhằm tạo điều kiện cho các DN nói chung, đặc biệt là các DNVVN khắc phục khó khăn và
phát triển. Những nỗ lực đó thể hiện trên nhiều mặt:
+ Trên cơ sở các luật và chính sách có liên quan đến hoạt động của các DN nói
chung, DNVVN nói riêng được ban hành từ Trung ương như chính sách đất đai, chính
sách vốn - tín dụng, chính sách thuế, chính sách đào tạo,... các cơ quan chức năng của tỉnh
đã triển khai thực hiện tốt, tạo ra điều kiện, cơ hội thuận lợi nhất cho các DN phát triển
như tạo điều kiện để các DN tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn, đất đai, mặt bằng sản
xuất như cấp đất và cho thuê đất một cách thuận lợi cho các DN, xây dựng các khu công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng các khu tập trung cho các làng nghề, thực hiện cơ
chế giá cả đền bù và cho thuê đất tương đối thông thoáng, chẳng hạn thực hiện phương
châm "đền bù thì áp dụng giá cao, cho thuê thì áp dụng giá tối thiểu"; hỗ trợ về vốn cho
các DN dưới nhiều hình thức trong đó chú ý tới vấn đề tích tụ và tập trung vốn cho DN;…
+ Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ DNVVN của Hội đồng liên minh HTX: hình thành
trung tâm tư vấn cung cấp thông tin và dịch vụ tư vấn cho các DN, đào tạo nghề cho các
DN, tổ chức hội thảo, tổ chức các đoàn đi nghiên cứu kinh nghiệm và tìm thị trường...
Bên cạnh những thuận lợi, những kết quả đạt được, trong quá trình phát triển các
DNVVN còn gặp phải nhiều khó khăn trở ngại. Ngoài những khó khăn, trở ngại từ phía
bản thân, các DNVVN còn gặp phải khó khăn, trở ngại từ phía môi trường, từ phía các cơ
quan nhà nước như chưa thật sự bình đẳng giữa các DN; việc cung cấp thông tin cho các
DNVVN chưa được chú trọng; việc quy hoạch các khu công nghiệp chưa tính đến vấn đề
môi trường trong dài hạn nên có thể xảy ra tình trạng ô nhiễm; việc định hướng, hướng dẫn
các DN của một số cơ quan chức năng còn lúng túng và còn yếu; sự hỗ trợ cho các
DNVVN từ phía các cấp chính quyền có lúc, có nơi còn chưa được chú trọng đúng mức;
sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý chưa ăn khớp;... Do đó, để thúc đẩy phát triển
DNVVN tỉnh Bắc Ninh, các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành của tỉnh đã quán triệt
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) tiếp tục đổi mới chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận
lợi cho các DNVVN phát triển.
Chương 2
thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên địa bàn tỉnh quảng ngãi
2.1. Những đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi
2.1.1. Khái quát chung về tình hình tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ tháng 7/1989 từ tỉnh Nghĩa Bình cũ.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Quảng Ngãi tiếp giáp với tỉnh Quảng
Nam ở phía Bắc, tỉnh Bình Định ở phía Nam, phía Tây Nam ngăn cách với tỉnh Kon Tum
bởi chi nhánh của dãy núi Trường Sơn, phía Đông giáp Biển Đông với 130 km bờ biển.
Trung tâm của tỉnh là thị xã Quảng Ngãi. Về hành chính, hiện tại tỉnh có 1 thị xã, 5 huyện
miền núi, 6 huyện đồng bằng ven biển và huyện đảo Lý Sơn.
Diện tích tự nhiên của Quảng Ngãi là 5.131,51 km², bằng 1,52% diện tích cả
nước, với gần 2/3 diện tích là núi rừng và đồi trọc. Địa hình nghiêng từ Tây sang Đông,
chia làm 4 khu vực: đồng bằng, trung du, miền núi, hải đảo. Đồng bằng có độ cao 8 độ so
với mực nước biển.
Quảng Ngãi nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, nền nhiệt độ cao và ít
biến động (trung bình 25,70 C). Lượng mưa trung bình năm là 2504 mm, cực đại lên đến
3500 mm. Độ ẩm tương đối trung bình 86%. Tổng lượng bức xạ trung bình năm là 143,3
Kcal/cm2 [7, tr. 10]. Với lượng bức xạ lớn rất thuận lợi về phơi sấy, sử dụng năng lượng
mặt trời trong công nghệ chế biến nông lâm sản, hải sản, làm muối và sản xuất điện năng.
Trong lòng đất Quảng Ngãi có nhiều tích tụ khoáng sản như: Graphic trữ lượng khoảng 4
triệu tấn, hàm lượng cacbon trung bình 20%, siliminat trữ lượng 1 triệu tấn, than bùn trữ
lượng 476 nghìn m³, cao lanh trữ lượng khoảng 4 triệu tấn... Nơi đây còn nhiều vùng đất
của những chứng tích văn hóa lâu đời như khu di chỉ văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chàm; có
nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Ba Tơ, Sơn Mỹ, Vạn Tường; nhiều cảnh đẹp như Thiên
ấn - Niêm Hà, bãi biển Mỹ Khê... là điều kiện để phát triển du lịch [6, tr. 12].
Dân số Quảng Ngãi đến cuối năm 2000 là 1.223.390 người, trong đó gần 90%
sống ở nông thôn. Lực lượng lao động của Quảng Ngãi tính đến tháng 7/2001 có 571.650
người trong đó 556.568 người có việc làm chiếm 97,36% lực lượng lao động (trong đó có
67,83% đủ việc làm và 37,17% thiếu việc làm). Lực lượng lao động có việc làm được cơ
cấu theo ngành kinh tế: nông - lâm - ngư nghiệp - 71,65%, công nghiệp - xây dựng - 8,9%,
thương mại - dịch vụ - 19,45%, lao động không có việc làm thường xuyên là 15.082 người,
chiếm 2,64% lực lượng lao động, lao động thất nghiệp khu vực thành thị thời điểm tháng
7/2001 là 5,74%. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp, chỉ đạt
13,15% lực lượng lao động (bình quân cả nước là 20%). Cơ cấu tỷ lệ đào tạo: 1 - 1,11 - 2,63
(trong khi đó cơ cấu hợp lý là 1 - 4 - 10). Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh là 1,4%.
Hệ thống giáo dục tương đối phát triển, toàn tỉnh đã hoàn thành xóa mù chữ và
phổ cập tiểu học (10/1997), 90/179 xã phổ cập trung học cơ sở.
Về y tế, đến nay toàn tỉnh có 177/179 xã, phường có trạm y tế. Tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng giảm từ 50% (1995) xuống còn 39,8% (2001).
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên, số hộ giàu, hộ
khá tăng; số hộ nghèo, hộ đói giảm từ 37,53% năm 1995 xuống còn 15,6% năm 2000, trong
đó hộ đói còn 3,4% và hộ nghèo còn 12,2%. GDP bình quân đầu người tăng từ 140USD
năm 1996 lên 192USD năm 2001 [13, tr. 14].
2.1.1.2. Đặc điểm và tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi
Lịch sử phát triển kinh tế của Quảng Ngãi gắn liền lịch sử phát triển kinh tế của
Duyên hải miền Trung nói riêng và cả nước nói chung, cho tới nay hoạt động chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp. Chiến tranh đi qua để lại cho Quảng Ngãi một nền kinh tế nghèo nàn, kết
cấu hạ tầng yếu kém, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu. Một thời gian dài của cơ chế quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp đã để lại cho Quảng Ngãi một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu. Từ ngày tách tỉnh đến nay, Quảng Ngãi luôn là một trong những tỉnh nghèo của cả
nước.
Tuy còn nhiều khó khăn trắc trở phải vượt qua, nhưng dưới sự chỉ đạo đúng đắn
của các cấp ủy Đảng, Nhà nước và tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân dân trong
tỉnh, những năm gần đây, nền kinh tế của tỉnh đã có những bước tăng trưởng khá rõ rệt, thể
hiện giá trị tổng sản phẩm tăng liên tục.
Bảng 2.1: Giá trị tổng sản phẩm và tốc độ tăng GDP 1996-2000
1996 1997 1998 1999 2000
Tổng sản phẩm:
- Theo giá thực tế (tr. đ) 2.184.05
3
2.430.03
8
2.748.42
1
2.920.17
9
3.229.74
5
- Theo giá so sánh 1994 (tr. đ) 1.701.74
9
1.855.48
5
2.004.98
6
2.141.38
4
2.323.21
0
Tốc độ tăng GDP (%) 12,5 9 8,1 6,8 8,5
GDP bình quân đầu người (tr.
đ)
1,875 2,066 2,315 2,414 2,640
Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Ngãi 1996-2000.
Như vậy trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đã tiệm
cận hoặc cao hơn mức tăng trưởng bình quân chung cả nước. Đây thật sự là tín hiệu vui thể
hiện những bước chuyển mình đầu tiên của kinh tế Quảng Ngãi, nếu biết rằng từ 1993 trở
về trước, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Quảng Ngãi rất thấp so với tốc độ tăng trưởng của
cả nước. Cùng với sự tăng trưởng là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, song vẫn chưa rõ nét và
thiếu
ổn định. Khu vực nông - lâm - thủy sản vẫn còn chiếm tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế
của tỉnh. Tỷ trọng của sản xuất công nghiệp - xây dựng tuy đã được nâng lên dần nhưng
vẫn còn thấp hơn nhiều so với tỷ trọng bình quân của cả nước.
Bảng 2.2: Tỷ trọng GDP theo khu vực kinh tế 1996-2000
Đơn vị tính: 100%
1996 1997 1998 1999 2000
Cả
nước
Quản
g
Ngãi
Cả
nước
Quản
g
Ngãi
Cả
nước
Quản
g
Ngãi
Cả
nước
Quản
g
Ngãi
Cả
nước
Quản
g
Ngãi
Nông - lâm -
thủy sản
Công nghiệp
- xây dựng
Thương mại -
dịch vụ
27,8
29,7
42,5
47,9
16,7
35,5
25,8
32,1
42,1
43,7
18,1
38,2
25,8
32,5
41,7
44,4
18,6
37
25,4
34,5
40,1
43,2
20,2
36,6
24,5
36,8
38,7
40,2
23
36,8
Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Ngãi 1996-2000.
Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2000 đạt 1.283.699 triệu đồng (theo giá cố định
1994). Trồng trọt là ngành chủ yếu, chiếm 71,3% giá trị sản xuất nông nghiệp. Trong trồng
trọt, cây lương thực chiếm tới 63,6%, cây công nghiệp chiếm 20,4%. Ngành chăn nuôi
chiếm 24%. Các hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất thấp, chỉ đạt
4,7%.
Sản xuất công nghiệp đã có bước khởi sắc, đã từng bước đổi mới cơ chế quản lý,
chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ mới để nâng cao chất lượng. Tỷ
trọng công nghiệp trong GDP từ 12,5% năm 1990 lên 21,5% năm 2000, đạt 1.098.026
triệu đồng (theo giá cố định 1994). Trong đó chủ yếu là công nghiệp chế biến chiếm
94,8%. Nhiều nhà máy, xí nghiệp chế biến ra đời và hoạt động có hiệu quả. Các ngành
nghề truyền thống như sản xuất gạch ngói, đồ gỗ, chế biến thực phẩm,... được phục hồi và
phát triển. Sự phát triển công nghiệp đã tạo ra nhiều cơ hội cho các DNVVN trong nông
thôn phát triển. Tuy vậy, công nghiệp Quảng Ngãi quy mô còn nhỏ, MMTB còn lạc hậu
nên hiệu quả thấp, khả năng cạnh tranh yếu,....
Ngành xây dựng cơ bản, vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm qua không
ngừng tăng lên, bình quân trong giai đoạn 1995-2000, mỗi năm tăng 37,2%. Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội trong 5 năm qua khoảng 5.075 tỷ đồng, gấp 4 lần thời kỳ 1991-1995. Đặc biệt,
trong 2 năm 1998 và 1999, do nhà máy lọc dầu số I và các công trình kết cấu hạ tầng của
khu công nghiệp Dung Quất được khởi công xây dựng nên vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng
lên khá cao (chỉ riêng phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong hai năm đã là 2.535,8 tỷ đồng) [6,
tr. 102]. Tuy nhiên, mức vốn đầu tư của Quảng Ngãi so với cả nước hiện nay vẫn còn thấp
(thường chỉ chiếm 0,48% tổng vốn đầu tư của cả nước, đến nay chiếm khoảng 1%). Nhìn
chung các DN xây dựng đều có quy mô vừa và nhỏ nên chủ yếu chỉ xây dựng các công
trình nhỏ hoặc nhận lại hạng mục công trình từ các công ty lớn nên cơ cấu ngành xây dựng
chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP của tỉnh (cao nhất là năm 2000 nhưng cũng chỉ chiếm
8,57%).
Thương mại - dịch vụ phát triển đa dạng trong các thành phần kinh tế, đáp ứng cơ
bản nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Giá trị ngành thương mại - dịch vụ năm 2000
đạt 1.911tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994, gấp 1,67 lần năm 1995). Các dịch vụ ngân
hàng, bưu chính viễn thông phát triển có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các
dịch vụ vận tải, sửa chữa phát triển thu hút nhiều lao động. Về kinh doanh ngoại thương của
Quảng Ngãi còn khá nhỏ bé so với cả nước. Năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của Quảng Ngãi là 8,283 triệu USD, tổng kim ngạch nhập khẩu là 9,72 triệu USD [6, tr.
102].
Về kết cấu hạ tầng kinh tế, Quảng Ngãi có hệ thống giao thông khá thuận lợi với
nhiều tuyến giao thông quốc gia đi qua quốc lộ 1A, quốc lộ 24,... Có
7 tuyến đường tỉnh lộ với tổng chiều dài 149 km và cùng với 891 tuyến đường liên xã với tổng
chiều dài 247,9 km đã tạo điều kiện cho việc thông thương giao lưu văn hóa giữa các địa
phương trong tỉnh cũng như với các tỉnh lân cận. Đến nay đã có 177/179 xã có đường ô tô đến
trung tâm xã, đạt 98,88% [13, tr. 22]. Tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy song song với quốc lộ
1A qua địa phận Quảng Ngãi dài 96 km. Ngoài ra, phía Đông của tỉnh là bờ biển dài 130 km,
về phía Đông có vịnh Dung Quất với tổng diện tích khoảng 30 km², có độ sâu 13- 20 m, khá kín
gió đang được đầu tư xây dựng một hệ thống cảng biển sâu có quy mô lớn tầm cỡ quốc tế.
Về điện, hoàn thành quy hoạch cải tạo lưới điện Quảng Ngãi đến năm 2005, xây
dựng mới các trạm biến áp 35 kv ở hầu hết các huyện, mạng lưới điện nông thôn phát
triển. Toàn tỉnh có 131/179 xã có lưới điện (73,2%), mức tiêu thụ điện bình quân là 127
kwh/người/năm.
2.1.2. Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Quảng Ngãi
- Những thuận lợi ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Quảng Ngãi
+ Nằm ở vị trí trung độ cả nước, trên trục đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc -
Nam, nằm trên trục quốc lộ 24 nối thị xã Quảng Ngãi với Tây Nguyên và trong tương lai
quốc lộ 24 nối với Lào - Đông bắc Thái Lan. Vị trí như trên tạo điều kiện cho sự phát triển
kinh tế hàng hóa và giao lưu quốc tế.
+ Có vịnh nước sâu Dung Quất gắn với bờ là vùng đất có diện tích mặt bằng rộng,
dân cư thưa thớt, gần sân bay Chu Lai, gần đường sắt, đường bộ và đường điện quốc gia,
lại không xa nguồn nước ngọt. Nơi đây hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển cảng
nước sâu quốc gia: Xây dựng khu công nghiệp lọc dầu, khu công nghiệp tập trung mà mở
đầu là Nhà máy lọc dầu số I - Trung tâm lọc hóa dầu đầu tiên của cả nước, đã được xây
dựng và sau đó sẽ là hàng loạt các công trình khác được nối liền xây dựng sẽ ảnh hưởng
lớn đến sự tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Quảng Ngãi và sự phát triển đối
với cả khu vực miền Trung.
+ Có tài nguyên tổng hợp về biển, khoáng sản, rừng để phát triển du lịch, thủy sản,
công nghiệp đường, khai thác khoảng sản,... nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH.
+ Đã hình thành một hệ thống đô thị như thị xã Quảng Ngãi, các thị trấn, hình
thành các khu công nghiệp và kết cấu hạ tầng khác. Từ đó hình thành các trung tâm kinh tế
có sức lan tỏa và thu hút phát triển kinh tế của tỉnh.
+ Con người Quảng Ngãi năng động sáng tạo, cần cù, chịu khó, có truyền thống cách
mạng, nếu được đào tạo và có chính sách sử dụng tốt sẽ là động lực lớn đến sự phát triển
của tỉnh. Nguồn lao động của tỉnh dồi dào, giá cả lao động rẻ là điểm đáng quan tâm của các
nhà đầu tư.
- Những hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Quảng Ngãi
+ Là một trong những tỉnh kinh tế chậm phát triển, nền kinh tế chưa có tích lũy, cơ
cấu kinh tế chuyển đổi chậm và chưa dựa trên nền sản xuất ổn định; kết cấu hạ tầng còn
yếu và chưa đồng bộ.
+ Đời sống của đại bộ phận dân cư còn thấp, nhất là dân cư vùng nông thôn và các
dân tộc ít người ở miền núi, sức mua của 80% dân cư nông thôn quá thấp chưa trở thành
thị trường kích thích sản xuất phát triển. Chưa có thị trường ổn định trong việc tiêu thụ sản
phẩm, công nghiệp chế biến chưa theo kịp yêu cầu của việc phát triển vùng nguyên liệu.
+ Thời tiết khắc nghiệt, bão lũ, hạn hán thường xuyên xảy ra, môi trường diễn biến
theo xu thế ngày một xấu đi.
+ Đại bộ phận dân cư còn nặng về tập quán sản xuất tự túc, chưa thích ứng cơ chế
thị trường. Tính bảo thủ trì trệ trong một bộ phận cán bộ và người lao động còn nặng - là
một cản trở lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
+ Cơ chế quản lý chưa thích ứng với kinh tế thị trường, chưa tạo được môi trường
thuận lợi và hấp dẫn để phát huy các thành phần kinh tế trong tỉnh và đầu tư nước ngoài.
Các chính sách thu hút nhân tài, tạo lập môi trường thông thoáng cho đầu tư chưa được
chú trọng, quan tâm đúng mức.
+ Bước sang thế kỷ XXI, có nhiều điều kiện phát triển nhưng cũng đứng trước
nguy cơ tụt hậu nếu không có sự thích ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra từ thực tiễn. Đây
thật sự là một thách thức to lớn không chỉ đối với kinh tế Quảng Ngãi mà cả nền kinh tế
Việt Nam nói chung [45, tr. 31].
2.2. Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi
2.2.1. Quá trình lịch sử phát triển DNVVN tỉnh Quảng Ngãi
Theo các tài liệu lịch sử, DNVVN ở Quảng Ngãi được hình thành cùng với các làng
nghề truyền thống. Người dân Quảng Ngãi ngoài nghề trồng lúa còn có nghề làm đường
phèn, đường phổi rất công phu và tinh xảo. Các cơ sở chế biến đường có mặt khắp mọi nơi
trong tỉnh. Các huyện trong tỉnh đều có các làng nghề truyền thống như nghề dệt ở Chánh
Lộ, ở làng Thạch Bi, nghề làm đồ gốm ở Bình Sơn, Sơn Tịnh, nghề thợ đúc ở Mộ Đức, nghề
thợ mộc ở Tư Nghĩa, nghề làm ngói ở Sông Vệ,... Hình thức tổ chức SXKD của nghề thủ
công và làng nghề trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên gia đình. Công nghệ
phần lớn là công nghệ thủ công trong gia đình. Sản phẩm làm ra tiêu thụ chủ yếu ở địa
phương trong tỉnh (chỉ có đường được xuất tiêu thụ ngoài tỉnh).
ở thời kỳ trước giải phóng, cũng như các tỉnh khác trong vùng duyên hải miền
Trung, Quảng Ngãi gần như không được chú trọng để phát triển kinh tế nên hầu hết các cơ
sở chỉ sản xuất cầm chừng không phát triển.
Sau ngày giải phóng, chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được một vài cơ sở sản
xuất công nghiệp, còn một số nhỏ hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp tiếp tục hoạt động kinh
doanh.
Trước thời kỳ đổi mới, Quảng Ngãi xây dựng được một số xí nghiệp quốc doanh.
Do hạn chế về vốn nên các xí nghiệp này chỉ có quy mô nhỏ và chủ yếu do huyện quản lý
(51%). Các HTX tiểu thủ công nghiệp, HTX mua bán,... được hình thành nhanh chóng và
được hưởng nhiều ưu đãi. Đối với các DNVVN thuộc kinh tế tư nhân hầu như không phát
triển do tâm lý "trọng nông, ức thương" của xã hội tiểu nông gắn với tâm lý "ghét nhà
giàu" đã thực sự gieo vào xã hội những định kiến nặng nề về kinh tế tư nhân; do cơ chế,
chính sách của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương chưa phù hợp nên không khuyến
khích các tầng lớp nhân dân bỏ vốn vào SXKD.
Đến năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều
hình thức sở hữu khác nhau. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt các
cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình ra đời và phát triển. Đồng thời khi chuyển sang
cơ chế thị trường, hầu hết các xí nghiệp quốc doanh, các HTX đều không thích nghi được
với cơ chế mới, làm ăn thua lỗ nên dần dần tan rã, giải thể. Chỉ tính riêng ngành công
nghiệp, năm 1990 toàn tỉnh có 43 cơ sở công nghiệp quốc doanh, 419 cơ sở công nghiệp
tập thể, 6 cơ sở tư nhân và 7.648 cơ sở công nghiệp cá thể thì đến năm 2000 toàn tỉnh có
17DNNN, 9HTX, 30DNTN, 11 công ty TNHH và CTCP và 11.887 hộ kinh doanh cá thể
[6, tr. 74]. So sánh số liệu qua 10 năm (năm 2000 so với năm 1990) của ngành công nghiệp ta
thấy xí nghiệp quốc doanh giảm 26 xí nghiệp, tỷ lệ giảm 60%; hợp tác xã giảm 410 cơ sở,
tỷ lệ giảm 97,8%; cơ sở tư nhân tăng 35 cơ sở, tỷ lệ tăng 583%; hộ kinh doanh cá thể tăng
4.239 hộ, tỷ lệ tăng 55,4%. Như vậy từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, kinh tế
quốc doanh, kinh tế tập thể giảm mạnh, đồng thời kinh tế tư nhân có những bước phát triển
nhảy vọt, các DNVVN ngoài quốc doanh được phát triển mạnh. Sau khi có Luật Công ty
và Luật DNTN (1991), đặc biệt là khi có Luật DN (1999) DNVVN ngoài quốc doanh tăng
nhanh về số lượng, mở rộng ngành nghề, quy mô ngày càng lớn.
Bảng 2.3: Sự phát triển của DNVVN (DNTN, CTTNHH, CTCP)
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi (số liệu từ năm 1996 đến 2001)
Đến
năm
Tổng cộng D.N tư nhân Công ty TNHH Công ty cổ
phần
Số
DN
Mức
tăng
trưởng
(%)
Vốn đăng
ký
(tr.
đồng)
Số
DN
Vốn đăng
ký
(tr.
đồng)
Số
DN
Vốn đăng
ký
(tr.
đồng)
Số
DN
Vốn đăng
ký
(tr.
đồng)
199
6
87 26,1 37.367,7 71 26.664,7 16 10.703
199
7
10
4
19,5 107.445,
7
83 29.638,7 20 28.807 1 49.000
199
8
11
3
8,65 121.609,
7
87 31.274,7 24 40.460 2 49.875
199
9
13
7
21,24 144.045,
8
10
1
39.662,5 33 53.807,3 3 50.576
200
0
19
0
38,69 209.769,
8
13
8
65.124,5 46 89.223,3 6 55.422
200
1
28
4
49,47 322.307 19
6
120.932 81 134.165 7 67.210
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi.
Với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX, với sự ra đời của Nghị định 90/2001/NĐ-CP, Nghị quyết của Đại hội đại
biểu Đảng bộ Quảng Ngãi lần thứ XVI, các DNVVN Quảng Ngãi sẽ có xu hướng và điều
kiện phát triển mạnh hơn nữa.
2.2.2. Thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay
2.2.2.1. Số lượng và phân bổ ngành nghề, địa bàn hoạt động
- Về số lượng doanh nghiệp
Căn cứ vào định nghĩa về DNVVN theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP thì đến thời
điểm cuối năm 2001 toàn tỉnh Quảng Ngãi có 15.509 DN thuộc loại hình DNVVN. Trong
đó:
+ 8 DNNN Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh, chiếm tỷ lệ 72,7% tổng DNNN
Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh.
+ 37 DNNN địa phương, chiếm tỷ lệ 94,87% tổng DNNN địa phương.
+ 49 HTX phi nông nghiệp, chiếm tỷ lệ 100% HTX phi nông nghiệp.
+ 196 DNTN, chiếm tỷ lệ 100% DNTN.
+ 81 Công ty TNHH, chiếm tỷ lệ 97,6% tổng Công ty TNHH.
+ 7 CTCP, chiếm tỷ lệ 87,5% tổng CTCP.
+ 15.131 hộ kinh doanh cá thể.
Các DNVVN thuộc kinh tế ngoài quốc doanh như: DNTN, Công ty TNHH, CTCP
có xu hướng tăng dần qua các năm về mặt số lượng cơ sở, quy mô kinh doanh, ngành nghề
kinh doanh ngày càng đa dạng, thị trường tiêu thụ vươn ra ngoài tỉnh, ngoài nước (năm
1992: 19 DN, năm 1996: 87 DN đến năm 1999: 137 DN). Đặc biệt, qua tác động của Luật
DN có hiệu lực từ ngày 01-01-2000 số lượng DN năm 2000 tăng so với năm 1999 là 53 DN
(mức tăng trưởng: 38,69%), vốn đăng ký tăng so với năm 1999 là 45,63%; Năm 2001 tăng so
với năm 2000: 94 DN (mức tăng trưởng: 49,47%), vốn đăng ký tăng so với năm 2000 là
53,65% (xem bảng 2.3). Bên cạnh đó DNVVN thuộc DNNN thì hầu như không có sự biến
động đáng kể về số lượng song có sự thay đổi về chất. Trước sự tác động của cơ chế thị
trường một loạt các DN bị phá sản, giải thể như: XN xay xát 15 tấn/ ca, XN mộc dân dụng
Đức Phổ, Nhà máy sứ,... Đồng thời một loạt các DN mới được xây dựng với dây chuyền
công nghệ tiên tiến, tạo nên những sản phẩm mới có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu
của thị trường như Nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu, nhà máy sản xuất tinh bột mì
Tịnh Phong,...
- Về phân bố ngành nghề và địa bàn hoạt động
Theo Luật DNTN, Luật Công ty (1990), Luật DN (1999) quy định DN được phát
triển đa ngành nghề tùy theo khả năng của DN (trừ những ngành nghề bị pháp luật cấm). Các
DNVVN ở Quảng Ngãi được mở ra với các ngành nghề tương đối đa dạng trong các lĩnh
vực xây dựng, chế biến nông lâm thủy sản, vận tải, y dược, may mặc, dịch vụ khách sạn,
du lịch, tin học, xăng dầu,...đã góp phần đáp ứng nhu cầu SXKD, nhu cầu tiêu dùng cho
nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Cụ thể:
Bảng 2.4: Phân bổ DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
theo ngành nghề hoạt động năm 2001
Loại hình
doanh
nghiệp
Tổng số
Công
nghiệp, khai
thác chế
biến lâm hải
sản
Xây dựng
Thương
mại
Dịch vụ
Số
lượn
g
%
Số
lượn
g
%
Số
lượn
g
%
Số
lượn
g
%
Số
lượn
g
%
Tổng số 15.50
9
100 5.047 32,54 134 0,86 5.879 37,91 4.449 28,69
DNNNTW 8 100 4 50 2 25 2 25
DNNNĐP 37 100 15 40,54 3 8,1 7 18,9 12 32,46
Hợp tác xã 49 100 12 24,49 3 6,12 1 2,04 33 67,65
DN tư nhân 196 100
44
15,49
126
44,37
78
27,46
36
12,68 C. ty TNHH 81 100
CTCP 7 100
Hộ KD cá
thể
15.13
1
100 4.972 32,86 5.793 38,29 4.366 28,85
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi.
Nhìn chung các DNVVN chủ yếu đầu tư vào các ngành thương mại - dịch vụ, chế
biến, xây dựng dân dụng. Đó là những lĩnh vực giàu tiềm năng về tài nguyên khai thác hay
các ngành nghề truyền thống hoặc các ngành ít vốn, sinh lời khá cao, khả năng thu hồi vốn
nhanh.
Về địa bàn hoạt động, DNVVN Quảng Ngãi phân bố không đều, chủ yếu tập
trung ở các trung tâm hoặc các nơi có đường quốc lộ đi qua và các khu công nghiệp đang
triển khai như thị xã Quảng Ngãi: 3.421 cơ sở, Sơn Tịnh: 2.389 cơ sở, trong khi đó ở
huyện Sơn Tây chỉ có 27 cơ sở, huyện Lý Sơn: 224 cơ sở. So sánh về số cơ sở giữa nơi
đông nhất và nơi thấp nhất gấp nhau 126 lần. Hầu hết các DNNN, các HTX đều tập trung ở
thị xã Quảng Ngãi (7/8 DNNN Trung ương, 27/37 DNNN địa phương, 19/49HTX).
Bảng 2.5: Phân bổ DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
theo địa bàn hoạt động năm 2001
ST
T
Địa bàn hoạt
động
Tổng
số
Công nghiệp,
khai thác chế
biến lâm hải sản
Xây
dựng
Thươn
g mại
Dịch
vụ
1 Thị xã Quảng
Ngãi
3.421 413 76 1.596 1.336
2 Huyện Đức Phổ 2.075 914 11 614 536
3 Huyện Mộ Đức 1.355 458 8 457 432
4 Huyện Tư Nghĩa 1.722 927 10 501 284
5 Huyện Sơn Tịnh 2.389 831 12 825 721
6 Huyện Bình Sơn 2.097 717 7 868 505
7 Huyện Nghĩa
Hành
940 285 2 456 197
8 Huyện Ba Tơ 251 67 2 76 106
9 Huyện Minh Long 120 57 1 32 30
10 Huyện Trà Bồng 296 51 1 138 106
11 Huyện Sơn Hà 592 212 4 228 148
12 Huyện Sơn Tây 27 5 13 9
13 Huyện Lý Sơn 224 110 75 39
Tổng số 15.50 5.047 134 5.879 4.449
9
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Quảng Ngãi.
Với sự phân bố này nhận thấy, trong những năm qua các DNVVN thường được
hình thành một cách tự phát, thường tập trung trong nội thị, đan xen vào các khu dân cư, từ
đó đã gây ra những bất hợp lý về quy hoạch ngành nghề, về vận tải, về tiêu thụ và gây ô
nhiễm môi trường. Việc di dời các DN này ra các vùng ngoại thị cần được đặt ra một cách
khẩn trương. Việc bố trí lại DN trên địa bàn lãnh thổ không chỉ là để tránh gây ô nhiễm
môi trường mà quan trọng hơn là để tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong tỉnh,
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.2.2.2. Tiềm lực DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi
- Vốn.
Tiềm lực về vốn của một DN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của DN. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, nếu tiềm lực vốn DN càng
lớn thì DN càng có khả năng cạnh tranh trên thương trường. Trong điều kiện một tỉnh mới
được chia tách, ngân sách tỉnh có nhiều khó khăn, vốn đầu tư của các DN ở mức quá thấp.
Tại thời điểm năm 1995 tỷ lệ DNNN địa phương không đủ vốn pháp định là 76%, năm
1998: 62,79% đến năm 2001 tỷ lệ DN không đủ vốn pháp định đã giảm xuống còn 33%,
quy mô DN từ khi sắp xếp đổi mới đến nay đã tăng lên rõ rệt, vốn bình quân 1 DN từ 1,8
tỷ đồng năm 1995 đã tăng lên 3 tỷ đồng năm 2001. Song số DN có vốn dưới 5 tỷ đồng còn
chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 60%, thậm chí có DN vốn dưới 500 triệu đồng [27, tr. 10].
Đối với DN thuộc kinh tế tư nhân, với sự thông thoáng của môi trường pháp lý, với
cơ chế chính sách phù hợp, khu vực kinh tế này đã thu hút một lượng vốn lớn trong dân cư
để đầu tư vào SXKD, số cơ sở SXKD, quy mô vốn đầu tư ngày càng tăng lên. So với thời
điểm năm 1996, năm 2001 vốn ĐKKD bình quân 1 DN tăng gấp 2,6 lần.
Bảng 2.6: Tổng số vốn kinh doanh của các DNVVN
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2001
Loại
hình
doanh
nghiệp
Tổng số
Công nghiệp,
khai thác chế
biến lâm hải
sản
Xây dựng
Thương
mại
Dịch vụ
Số
DN
Số
tiền
(tr.đ)
Vốn
bình
quân
(tr.đ/
DN)
Số
DN
Số tiền
(tr.đ)
Số
DN
Số
tiền
(tr.đ)
Số
DN
Số
tiền
(tr.đ)
Số
DN
Số
tiền
(tr.đ)
Tổng số 15.5
09
5.047 134 5.87
9
4.44
9
DNNN
TƯ
8 37.48
9
4.686 4 15.096 2 14.57
5
2 7.818
DNNN
ĐP
37 108.9
88
2.945,
6
15 41.713 3 20.93
3
7 13.56
8
12 32.774
HTX 49 26.65
0
543,9 12 5.461 3 600 1 575 33 20.014
DNTN 196 120.9
32
617
44 41.190 126
148.2
61
78
56.79
2
36 76.064
CT
TNHH
81 134.1
65
1.656,
4
CTCP 7 67.21
0
9.601,
4
Hộ KD
cá thể
15.1
31
329.8
56
21,8 4.972 5.79
3
4.36
6
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi.
Mặc dù có sự tăng lên đáng kể về luợng vốn được đầu tư và kinh doanh so với nhu
cầu vốn thực tế cần thiết để đơn vị có đủ điều kiện mua sắm trang thiết bị hiện đại, cải tiến
công nghệ... thì lượng vốn như trên còn quá thấp. Trong khu vực kinh tế tư nhân có đến
gần 50% DN có số vốn dưới 500 triệu đồng, 70% DN có số vốn dưới 1 tỷ đồng. Nguyên
nhân:
+ Đối với các DNTN bất lợi nhất và trước hết là chế độ chịu trách nhiệm vô hạn
của cá nhân chủ sở hữu tài sản. Có nghĩa là, tài sản cá nhân của các chủ sở hữu tài sản
không đầu tư vào kinh doanh đều có thể bị bên thứ ba thu giữ để thực hiện nghĩa vụ cam
kết. Điều đó làm cho DN sợ đầu tư mở rộng để phát triển DN với quy mô lớn hơn.
+ Khi chủ DNTN bị ốm hoặc mất khả năng làm việc thì DN hoạt động kinh doanh
kém hiệu quả, có thể bị giải thể hoặc xảy ra phá sản. Nếu chủ DNTN bị chết thì sự tồn tại
của DN cũng chấm dứt; sự bất ổn này cũng là yếu tố gây khó khăn trong việc vay, mượn
tiền từ nhiều người khác.
+ Là một tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người rất thấp (khoảng 192
USD/người/năm) nên tiềm lực vốn nhàn rỗi trong dân cư không lớn.
+ Khả năng tiếp cận các nguồn vốn của DNTN rất hạn chế, ngoài nguồn vốn tự có,
kinh tế tư nhân trong tỉnh chủ yếu là vay tín dụng qua ngân hàng để đầu tư vào sản xuất và
mở rộng SXKD. Đối với các nguồn vốn như: vốn vay ưu đãy từ Quỹ hỗ trợ phát triển, các
dự án Chính phủ, các nguồn vốn từ nước ngoài,... chưa được tiếp cận.
+ Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ chủ DN chưa qua đào tạo đầy đủ
nên khả năng liên doanh, liên kết trong kinh doanh còn nhiều hạn chế.
+ Do khả năng kinh doanh thấp, lợi nhuận thấp nên tích lũy vốn của các DNVVN
còn hạn chế.
- Về trình độ công nghệ.
Đối với các DNVVN là DNNN, nhìn chung từ khi thực hiện Nghị định 388/NĐ-
CP, các DN làm ăn kém hiệu quả đã bị giải thể hoặc sát nhập, những DN còn lại trong quá
trình sắp xếp lại đã bắt đầu quan tâm đến việc đầu tư đổi mới thiết bị bằng nhiều nguồn
vốn khác. Đồng thời một số DN mới xây dựng đã đầu tư dây chuyền công nghệ tiên tiến,
tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao. Song do hạn chế thông tin về công nghệ nên hầu
hết các dây chuyền sản xuất mới đầu tư xây dựng đều khá lạc hậu so với công nghệ tiên
tiến hiện thời của thế giới. Mặt khác, do kinh doanh kém hiệu quả, khả năng tích lũy chưa
có nên nguồn vốn đầu tư, cải tiến trang thiết bị còn rất hạn chế, nhìn chung MMTB và
công nghệ ở các DN còn lạc hậu, chậm đổi mới. Qua kết quả khảo sát về thực trạng công
nghệ, MMTB của các DNNN thuộc tỉnh quản lý (năm 2000) chỉ có 1/28 DN có công nghệ
tiên tiến, 25/28 DN có công nghệ trung bình và 2/28 DN có công nghệ lạc hậu. Hệ số đổi
mới thiết bị bình quân của các DN là 27,8%, thậm chí có đến 10/28 DN không hề đổi mới
thiết bị, công nghệ mặc dù MMTB đã lạc hậu, TSCĐ đã cũ.
Đối với các DNVVN ngoài quốc doanh, phần lớn các DN này trước khi thành lập
thiếu sự chuẩn bị về kiến thức kinh doanh, công nghệ, thị trường cộng thêm vào là số vốn
ít ỏi nên trang thiết bị sản xuất hầu hết là sản xuất trong nước, mà trước hết là mua lại
trang thiết bị của các DNNN. Song với tính linh hoạt, nhanh nhẹn của thành phần kinh tế
này, để đáp ứng nhu cầu của kinh doanh trong cơ chế thị trường, các DN đã tìm mọi cách
xoay xở để đổi mới, cải tạo trang thiết bị phục vụ sản xuất, song tuyệt đại đa số cũng chỉ ở
trình độ công nghệ trung bình. Năm 2000 trong 190 DN có 6 DN (3,2%) có trình độ kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến, trung bình có 177 DN (93,2%), lạc hậu có 7 DN (68%).
Bảng 2.7: Trình độ kỹ thuật và công nghệ của các DNVVN
(DNTN, CT TNHH, CTCP) trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2000
TT
Loại hình
doanh nghiệp
Tổng số Trình độ kỹ thuật và công nghệ
Số
lượng
%
Tiên tiến Trung bình Lạc hậu
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
1 DN tư nhân 138 100 3 2,17 129 93,48 6 4,35
2 Công ty TNHH 46 100 3 6,52 43 93,48
3 Công ty cổ
phần
6 100 5 83,3 1 16,6
Tổng cộng 190 100 6 3,2 177 93,2 7 3,68
Nguồn: Cục Thống kê Quảng Ngãi.
Nhận thức được sự cần thiết của vấn đề, các DN càng đặc biệt quan tâm đổi mới
công nghệ để đáp ứng yêu cầu sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường, nhất là các
DN chế biến thủy sản và lâm sản xuất khẩu. Qua kết quả khảo sát kinh tế tư nhân trong
tỉnh (khảo sát ở 27 DN vào thời điểm cuối năm 2001), bản thân các chủ DN tự đánh giá về
trình độ công nghệ sản xuất của DN mình vào thời điểm năm 2000: khá: 7, trung bình: 19,
kém: 1, nhưng đến tháng 6/2001 thì khá: 9, trung bình: 18 (xem phụ lục 3).
DN khu vực sản xuất cá thể, hầu hết MMTB, công nghệ lạc hậu, lao động thủ
công là chủ yếu. Giá trị MMTB chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của cơ
sở sản xuất. Điều đó dẫn đến năng suất lao động thấp, mẫu mã sản phẩm xấu, giá thành sản
phẩm cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường là rất yếu.
- Về nhân lực
Về số lượng, tổng số lao động trong các DNVVN tính đến thời điểm ngày
31/12/2001 là 104.176 người, chiếm 18,24% lực lượng lao động, bằng 14,92% nguồn nhân
lực của cả tỉnh. Với 15.131 hộ kinh doanh cá thể và 284 DN tư nhân và 49 HTX đã thu hút
gần 100.000 lao động thuộc các ngành nghề khác. Các DNNN thuộc loại hình vừa và nhỏ
do tỉnh quản lý có 37 đơn vị và số lao động là 2.915 người. DNVVN do Trung ương quản
lý có 8 đơn vị và số lượng lao động là 1.686 người (xem phụ lục 1). Đó là số lao động
thường xuyên trong các DN. Ngoài ra số lao động thời vụ có đến hàng ngàn, đặc biệt là
các DN của ngành xây lắp.
Phương pháp tuyển dụng lao động ở các DN này chủ yếu thông qua giới thiệu của
bạn bè, người thân và qua tiếp xúc cá nhân. Việc đào tạo lao động trong DN chưa được chú
trọng, trình độ lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo,
trình độ văn hóa thấp, thiếu kỹ năng lao động (xem phụ lục 2). Số lao động qua đào tạo bình
quân chỉ đạt 12% tổng số lao động nhưng chủ yếu là trong các DNNN, CTCP, TNHH hoặc
DNTN, còn trong các hộ kinh doanh cá thể thì hầu hết lao động chưa qua đào tạo [15, tr. 2].
Về việc ký kết hợp đồng lao động và thực hiện chế độ bảo hiểm cho người lao
động, mặc dù trong năm qua đã được chủ DN quan tâm song chiếm tỷ lệ còn khá khiêm
tốn. Qua kết quả khảo sát tình hình SXKD của 27 DN cho thấy: số người có ký hợp đồng
lao động tính đến tháng 6/2001 là 174/813 chiếm tỷ lệ 21,4% (tăng 5,4% so với thời điểm
năm 2000). Số người có bảo hiểm xã hội là 94/813 chiếm tỷ lệ 11,57% (tăng 4,47% so với
thời điểm năm 2000) (xem phụ lục 3).
- Về trình độ quản lý SXKD
Trong nền kinh tế thị trường, thiết yếu đòi hỏi cần phải có một đội ngũ những
người quản lý DN có kinh nghiệm, có bản lĩnh đồng thời phải nắm vững lý thuyết quản trị
DN, hiểu biết luật pháp,... Nhận thức được sự cần thiết đó những năm qua tỉnh đã chú trọng
trong việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ quản lý DN, nhất là đối với DNNN. Đến nay thực
trạng trình độ chuyên môn của đội ngũ quản lý DNVVN trên địa bàn Quảng Ngãi như sau:
Giám đốc các DNNN Trung ương 100% có trình độ đại học, giám đốc các DNNN địa phương
100% có trình độ trung cấp trở lên. Trong các HTX, trình độ chuyên môn của đội ngũ quản
lý: Đại học, cao đẳng chỉ có 8 người (5,4%), trung cấp: 41 người (27,89%), sơ cấp: 20 người
(13,6%), chưa qua đào tạo: 78 người (53,06%) (xem phụ lục 4). Rất nhiều DNTN, công ty
TNHH, CTCP được hình thành trên cơ sở sắp xếp lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý
DNNN và HTX nên nhiều chủ DN là CBCNV nhà nước do vậy số có trình độ đại học, cao
đẳng chiếm 24,7%, song cũng còn đến 64,75% chủ DN chưa có bằng cấp (xem phụ lục 5).
Đối với chủ cơ sở sản xuất cá thể, phần lớn các chủ cơ sở sản xuất này được kèm cặp qua
thực tế, được gia đình truyền nghề, tự học hoặc nâng cao kiến thức qua các lớp bồi dưỡng
ngắn,... Nhìn chung có thể nói, phần lớn các chủ DNVVN rất ít được trang bị kiến thức
quản lý một cách hệ thống, nhiều chủ DN chưa qua đào tạo, kiến thức quản lý thông qua
kinh nghiệm là chủ yếu. Chính vì vậy mà khả năng quản lý kinh doanh còn nhiều hạn chế,
tiếp cận thị trường chưa được mở rộng, khả năng liên doanh, liên kết chưa được mạnh dạn.
Thêm vào đó tình trạng khá phổ biến trong các DNVVN là các chủ DN ít hiểu biết về pháp
luật, chính sách kinh tế, chế độ kế toán,... đó là những trở ngại không nhỏ đối với DNVVN
trong hoạt động SXKD trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
2.2.2.3. Thị trường và sức cạnh tranh của DNVVN
Cùng với sự phát triển về số lượng DN, ngành nghề kinh doanh ngày càng đa
dạng, các sản phẩm, dịch vụ do các DNVVN thực hiện ngày càng tăng về số lượng, đa
dạng về chủng loại, làm phong phú thêm thị trường.
Một số DN đã có một số loại sản phẩm đạt chất lượng được thị trường trong và
ngoài nước chấp nhận như sản phẩm đặc sản (đường phổi, đường phèn,...), các sản phẩm đông
lạnh xuất khẩu: mực, tôm, cá,... Trong một số lĩnh vực như xây dựng, làm đường giao thông
quy mô vừa và nhỏ, chế biến nông lâm sản thực phẩm,... các DN ngoài quốc doanh đã từng
bước chiếm lĩnh được thị trường, khẳng định vị trí của mình nhờ cơ chế quản lý linh hoạt,
mềm dẻo, chủ động tìm và khai thác thị trường, huy động vốn nhanh, chủ động, giữ chữ tín
trong kinh doanh.
Song do kỹ thuật công nghệ lạc hậu cùng với trình độ quản lý và khả năng tài
chính hạn chế nên nhìn chung các DNVVN gặp khó khăn về thị trường, hạn hẹp thị phần, sản
phẩm chủ yếu chỉ tiêu thụ tại địa phương, sức cạnh tranh kém. Theo số liệu năm 2000 chỉ
có khoảng 26,32% DN có ưu thế chiếm lĩnh thị trường, 62,1% DN kinh doanh trong thế
chưa vững chắc và 11,58% không có khả năng cạnh tranh để có thị trường trong nước
(xem phụ lục 6). Về khả năng xuất khẩu thì dự đoán chỉ có khoảng 18% DN có triển vọng
xuất khẩu trong những năm tới.
2.2.2.4. Hiệu quả kinh doanh của các DNVVN
Với quy mô vừa và nhỏ, các DNVVN dễ dàng phát huy những lợi thế của mình:
tính linh hoạt cao, thích ứng với sự biến động của thị trường, khả năng thay đổi mặt hàng,
mẫu mã nhanh theo thị hiếu của khách hàng, sử dụng nguyên liệu, vật liệu sẵn có ở địa
phương,... để từ đó dẫn đến hoạt động SXKD đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với DN thuộc kinh
tế tư nhân, xét trên giác độ quản lý cá nhân chủ DN có toàn quyền quyết định độc lập, do
đó có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, mọi hoạt động SXKD tiến hành một
cách linh hoạt ứng phó nhanh và có hiệu quả thiết thực. Cá nhân chủ sở hữu được quyền
hưởng tất cả lợi nhuận tạo ra, điều đó thúc đẩy và tạo động lực cho người chủ làm việc
chăm chỉ, cần cù hơn. Phần lớn DNTN đều có quy mô nhỏ, giữa người chủ và người thợ
có mối quan hệ bà con, họ hàng, bạn bè, quen biết tin cậy nhau, có thiên hướng tạo ra sự
hòa hợp trong DN. Vì vậy đa số các DN đều có những điều kiện thuận lợi để kinh doanh
có hiệu quả, tốc độ chu chuyển của vốn nhanh, điển hình như DN Kim Chung trong năm
2001 có doanh thu 17.107 triệu đồng tương ứng với số vốn đầu tư: 600 triệu đồng, Công ty
tư vấn cầu đường có doanh thu 2.134 triệu đồng trong khi vốn đầu tư chỉ có 198 triệu
đồng... Gần đây, một số DNTN ngành thủy sản và chế biến lâm sản đã tham gia làm hàng
xuất khẩu, tạo hướng đi mới, nhằm khai thác lợi thế, góp phần tăng trưởng kinh tế địa
phương. Song với thực trạng khó khăn hiện tại (vốn, công nghệ, trình độ lao động, quản lý
kinh doanh...) nên hầu hết các đơn vị mới chỉ có khả năng tồn tại được trong thị trường
cạnh tranh, số lãi đạt được ở từng DN còn thấp, hiệu quả sinh lời của đồng vốn chưa cao.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục thuế Quảng Ngãi, trong số 200/284 DN kinh tế
tư nhân gửi báo cáo năm 2001, tổng số doanh thu thuần các DN đạt được là 557.690 triệu
đồng, số DN hoạt động hòa vốn và có lãi là 161/200 DN với số lãi 5.957 triệu đồng, số DN
hoạt động còn bị lỗ là 39/200 DN với số lỗ là 1.552 triệu đồng, hiệu suất sinh lời của đồng
vốn là 0,0269.
Đối với HTX, theo báo cáo của Hội đồng Liên minh các HTX Quảng Ngãi trong
năm 2001 toàn tỉnh có 21/49 HTX loại khá (là HTX hoạt động SXKD có hiệu quả, thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi ròng hàng năm đạt từ 50 triệu đồng trở lên); có
25/49 HTX loại trung bình (là HTX hoạt động SXKD không ổn định, phương án SXKD vẫn
như trước khi chuyển đổi, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước chưa đầy đủ và lãi ròng hàng năm
đạt dưới 50 triệu đồng); 3/49 HTX yếu kém (là HTX trong hoạt động SXKD còn gặp nhiều
khó khăn, các nguyên tắc của HTX và nghĩa vụ đối với Nhà nước không được thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ, thu nhập của HTX chỉ đủ nuôi bộ máy quản lý). Tổng doanh thu các
HTX phi nông nghiệp thực hiện được trong năm 2001 là 25.940 triệu đồng, tổng số lãi thực
hiện là 1.534 triệu đồng, tổng số lỗ là 12 triệu đồng [18, tr. 3].
Đối với các DNNN, qua sắp xếp, đổi mới phần lớn các DN đã khai thông được bế tắc
trong SXKD, hoạt động có hiệu quả hơn, lợi nhuận và nộp ngân sách đều tăng hơn trước.
Số DN kinh doanh có hiệu quả từ 17% (năm 1995) tăng lên 54% năm 2001, số kinh doanh
thua lỗ từ 30% (năm 1995) giảm còn 20% (năm 2001). Số DN hoạt động cầm chừng tuy
có lãi nhưng không đáng kể còn chiếm 26% tổng số DNNN địa phương [46, tr. 2].
Về khả năng đóng góp vào ngân sách nhà nước của các DNVVN thì chỉ tính đóng
góp của DNVVN thuộc DNNN địa phương trong những năm qua (1996-2000) có xu
hướng giảm: năm 1996 là 15,389 tỷ đồng; 1997 là 12,599 tỷ đồng; 1998 là 9,849 tỷ đồng;
1999 là 9,245 tỷ đồng; 2000 là 11,829 tỷ đồng nhưng số thu thuế công thương ngoài quốc
doanh có xu thế tăng lên: 1996 là 33,101 tỷ đồng; 1997 là 28,901 tỷ đồng; 1998 là 30,095
tỷ đồng; 1999 là 32,538 tỷ đồng; 2000 là 48,594 tỷ đồng; 2001 là 42,609 tỷ đồng. So với
số thu cả tỉnh chỉ tính riêng số thuế của kinh tế tư nhân thì năm 2001 đã chiếm gần 25%
tổng thu thuế trên địa bàn.
2.2.2.5. Tác động đối với kinh tế - xã hội của tỉnh
DNVVN có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trong giai đoạn
hiện nay. Đặc biệt là đối với tỉnh Quảng Ngãi khi việc đầu tư hình thành các DN quy mô
lớn đang có nhiều hạn chế về vốn, về kết cấu hạ tầng, về trình độ công nghệ, trình độ quản
lý,... thì việc phát triển DNVVN có ý nghĩa quyết định để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế
năng động và bền vững.
Thực tế đã kiểm nghiệm điều đó, nền kinh tế Quảng Ngãi từ khi đổi mới đến nay
tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát triển và phát huy tiềm lực của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Bình Định.pdf