Tài liệu Luận văn Phát triển thương mại điện tử toàn cầu: Thương mại điện tử trong khuôn khổ WTO: Luận văn
Đề Tài:
Phát triển thương mại điện tử
toàn cầu - thương mại điện tử trong
khuôn khổ WTO
1
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi nền kinh tế hàng hóa xuất hiện, thương mại tự do và tốc độ lưu
thông hàng hoá luôn là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của sức sản
xuất và từ đó quyết định phương thức sản xuất mới. 1000 năm trước, con
đường tơ lụa xuyên sa mạc qua nhiều quốc gia, nối các đế chế La Mã với đế
chế Trung Hoa không chỉ mang tơ lụa và vàng bạc làm giàu cho nhiều nước
mà còn giúp truyền bá công nghệ và triết lý. Những phát kiến địa lý vào thế
kỷ 14, 15 không chỉ đem lại sự phồn vinh cho các cường quốc hàng hải mà
còn là một tiền đề quan trọng hình thành nên chủ nghĩa tư bản và phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển của công nghệ thông tin toàn cầu ngày nay mà đại diện tiêu biểu
của nó là mạng Internet cũng có thể được nhìn nhận dưới cùng một góc độ với
hai phát kiến trên, nhưng mang tính khác biệt về chất ở chỗ biên giới quốc gia
b...
87 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển thương mại điện tử toàn cầu: Thương mại điện tử trong khuôn khổ WTO, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Phát triển thương mại điện tử
toàn cầu - thương mại điện tử trong
khuôn khổ WTO
1
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi nền kinh tế hàng hóa xuất hiện, thương mại tự do và tốc độ lưu
thông hàng hoá luôn là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của sức sản
xuất và từ đó quyết định phương thức sản xuất mới. 1000 năm trước, con
đường tơ lụa xuyên sa mạc qua nhiều quốc gia, nối các đế chế La Mã với đế
chế Trung Hoa không chỉ mang tơ lụa và vàng bạc làm giàu cho nhiều nước
mà còn giúp truyền bá công nghệ và triết lý. Những phát kiến địa lý vào thế
kỷ 14, 15 không chỉ đem lại sự phồn vinh cho các cường quốc hàng hải mà
còn là một tiền đề quan trọng hình thành nên chủ nghĩa tư bản và phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển của công nghệ thông tin toàn cầu ngày nay mà đại diện tiêu biểu
của nó là mạng Internet cũng có thể được nhìn nhận dưới cùng một góc độ với
hai phát kiến trên, nhưng mang tính khác biệt về chất ở chỗ biên giới quốc gia
bị vượt qua chỉ sau một cú nhấp chuột (mouse click). Ảnh hưởng của Internet
vì thế mang tính toàn cầu và nó trở thành một phần của quá trình toàn cầu
hoá, vốn đã và đang biến đổi sâu sắc mọi mặt xã hội loài người từ kinh tế,
chính trị đến văn hoá, xã hội. Nghiên cứu, dự đoán nhằm mục đích tìm kiếm
các phương thức thích ứng với những tác động từ diễn biến chóng mặt của
quá trình toàn cầu hoá nói chung và của hệ thống thông tin toàn cầu nói riêng
trở thành một đòi hỏi bức thiết của mọi quốc gia để tồn tại và phát triển.
Từ quan điểm lịch sử và biện chứng, có thể thấy được những tác động quyết
định, thách thức và cơ hội lớn nhất Internet đặt ra trong dài hạn nằm trong
lĩnh vực kinh tế-thương mại. Internet đặt nền tảng cho sự hình thành của nền
kinh tế trực tuyến (online economy), trong đó con người cũng như phương
tiện sản xuất và sản phẩm hàng hóa, đều có thể liên lạc trực tiếp với nhau, và
liên tục, không cần đến giấy tờ, càng không phải đối mặt thực thể. Dòng lưu
chuyển thông tin và thương mại hàng hoá, dịch vụ trong không gian không có
biên giới hay thương mại điện tử mở ra khả năng giảm chi phí giao dịch, tiếp
cận thị trường và thúc đẩy tiến bộ công nghệ, từ đó thay đổi cấu trúc của nền
2
kinh tế quốc gia và toàn cầu. Thương mại điện tử do vậy được nhìn nhận như
một lực lượng thúc đẩy tự do hoá thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, chính tính chất phi biên giới ấy của thương mại điện tử lại đặt ra
những yêu cầu điều chỉnh mới đối với những khuôn khổ thương mại quốc tế
hiện tại (trong tổ chức thương mại quốc tế WTO) cũng như chính sách kinh tế
nói chung và chính sách thương mại nói riêng của từng nước. Những điều
chỉnh đó đến lượt mình lại tác động trực tiếp đến sự phát triển của thương mại
điện tử và viễn cảnh kinh tế quốc gia và toàn cầu cũng như quan hệ giữa các
quốc gia trong những năm tới. Trong bối cảnh như vậy, các nước đang phát
triển nhìn thấy ở thương mại điện tử cơ hội phát triển cho tương lai, nhưng
đồng thời lại phải đối mặt với thách thức trong hiện tại không dễ vượt qua về
công nghệ, về tri thức và đặc biệt là những thách thức đến từ những đề xuất
thương mại điện tử toàn cầu của các nước phát triển, trong khi vẫn còn đang
chật vật tìm cách thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo và lạc hậu. Ưu
tiên chính sách của các nước này, vì thế, là làm cách nào bắt kịp với sự phát
triển của thương mại điện tử trên thế giới, đồng thời đối phó hiệu quả với
những nguy cơ đến từ quá trình đó.
Thương mại điện tử là một lĩnh vực khá mới. “Việc dự đoán tương lai phát
triển như thế nào cho chính xác thật khó khăn vì số liệu biến đổi rất mau
chóng và khoa học kỹ thuật mới không ngừng phát triển... Thế nhưng trước
khi tiến vào vùng đất còn nhiều điều chưa biết này, tốt hơn chúng ta nên có
trong tay một bản đồ, tuy không hoàn chỉnh, mà chỉ là một mô hình thô thiển
đơn giản, để dò dẫm từng bước và từng bước sửa đổi tu chỉnh, vẫn hơn là
không có gì trong tay” (Alvin Toffler). Với một quan niệm như vậy, khóa
luận sử dụng phương pháp trừu tượng hóa, và phân tích thống kê để tìm hiểu
trên khía cạnh quan hệ kinh tế quốc tế những vấn đề thương mại điện tử đặt ra
cho hệ thống thương mại quốc tế dưới sự điều chỉnh của tổ chức WTO từ góc
nhìn của các nước đang phát triển. Nội dung của khóa luận được chia làm 3
chương
Chương I “Tổng quan về thương mại điện tử” trình bày các vấn đề cơ
bản nhất về thương mại điện tử như định nghĩa, phương tiện và ứng dụng
3
của thương mại điện tử, lợi ích khi sử dụng thương mại điện tử, thực
trạng phát triển của thương mại điện tử trên thế giới và môi trường hoạt
động của thương mại điện tử.
Chương II “Phát triển thương mại điện tử toàn cầu - thương mại điện tử
trong khuôn khổ WTO” tìm hiểu tác động của thương mại điện tử đối
với thương mại quốc tế; những phản ứng của khu vực và quốc tế trước
thương mại điện tử; những nỗ lực tìm kiếm một khuôn khổ điều chỉnh
thương mại điện tử quốc tế và các vấn đề nảy sinh khi đặt thương mại
điện tử dưới sự điều chỉnh của WTO như mở cửa thị trường, phân loại
giao dịch thương mại điện tử, thuế quan và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Chương III “ Thương mại điện tử toàn cầu và các nước đang phát triển”
phân tích các cơ hội và thách thức mà sự phát triển của thương mại điện
tử toàn cầu đặt ra đối với các nền kinh tế đang phát triển, những khía
cạnh chính sách cần tập trung; một phần trọng tâm sẽ đánh giá tiềm năng
và khả năng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, đề xuất các chính
sách vĩ mô để hội nhập có hiệu quả vào thương mại điện tử toàn cầu.
Bài khóa luận tiếp thu một số các nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới.
Tuy nhiên, do khả năng và kiến thức còn hạn chế, người viết rất mong có
được sự chỉ bảo và góp ý của các thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn
chỉnh hơn.
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Khái niệm thương mại điện tử (TMĐT)
1.1 Định nghĩa TMĐT và "thương mại" trong TMĐT
Là một lĩnh vực tương đối mới, TMĐT được nói đến bằng nhiều tên gọi khác
nhau. Mặc dù tên gọi “thương mại điện tử” (electronic commerce) được sử
dụng nhiều nhất và trở thành quy ước chung, được đưa vào các văn bản quốc
tế, các tên gọi khác như: “thương mại trực tuyến” (online trade), “thương mại
điều khiển học” (cybertrade), “kinh doanh điện tử” (electronic business) hay
4
“thương mại không có giấy tờ” (paperless commerce)... vẫn được sử dụng và
được hiểu với cùng nội dung.
Hiện nay trên thế giới chưa có một định nghĩa nào về TMĐT được chấp nhận
rộng rãi. Tuy nhiên, nhiều chính phủ và tổ chức đã phát triển các khái niệm
khác nhau về TMĐT dựa trên các ứng dụng của nó (xem phụ lục 1) để có thể
thu thập được số liệu hữu íchi. Những cố gắng đó đưa đến một khái niệm tổng
quát về TMĐT, đó là “việc sử dụng rộng rãi các phương pháp điện tử để làm
thương mại” hay “việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương
tiện công nghệ điện tử, mà nói chung không cần phải in ra giấy trong bất cứ
công đoạn nào của quá trình giao dịch”.ii
Thông tin trong khái niệm trên được hiểu là bất cứ gì có thể truyền tải bằng
kỹ thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các tệp văn bản, các cơ sở dữ liệu, các
bảng tính, các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử, các hình đồ hoạ, quảng
cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hoá đơn, biểu giá, hợp đồng, các mẫu đơn, các biểu
báo cáo, hình ảnh động, âm thanh...
Khái niệm “thương mại” trong TMĐT đã được chuẩn hoá trong “Đạo luật
mẫu về TMĐT” do uỷ ban Liên Hiệp Quốc về Luật thương mại quốc tế
(UNCITRAL) ban hành. Thương mại theo đó không chỉ bó hẹp trong việc
mua bán hàng hoá và dịch vụ mà là “mọi vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan
hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng”. Các mối quan
hệ đó hiện nay bao gồm khoảng 1300 lĩnh vựciii bao quát một phạm vi rất
rộng. Do vậy việc áp dụng TMĐT sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu
như các hoạt động kinh tế.
1.2 Phương tiện của TMĐT và tính ưu việt của Internet
Theo định nghĩa trên, các phương tiện kỹ thuật của TMĐT có thể chia làm 6
loại gồm điện thoại, máy fax, truyền hình , hệ thống thanh toán và chuyển tiền
điện tử, mạng nội bộ và mạng liên nội bộ, Internet và Web.iv
Điện thoại là phương tiện được dùng phổ biến nhất. Toàn thế giới có khoảng
1 tỷ đường dây thuê bao điện thoại và 340 triệu người dùng điện thoại di
động.v Một số loại dịch vụ có thể được cung cấp qua điện thoại như bưu điện,
5
ngân hàng, tư vấn, giải trí... Tuy nhiên, hạn chế của công cụ này là chỉ truyền
tải được âm thanh, mọi giao dịch cuối cùng vẫn phải kết thúc bằng việc in ra
giấy. Chi phí sử dụng điện thoại còn phụ thuộc khoảng cách liên lạc.
Fax có thể thay thế dịch vụ đưa thư và gởi công văn truyền thống, nhưng
không truyền tải được âm thanh, hình ảnh động và hình ảnh 3 chiều; chất
lượng truyền tải lại không được tốt.
Truyền hình là công cụ TMĐT rất phổ thông. Trên thế giới hiện có khoảng 1
tỷ máy thu hìnhvi. Do có khả năng tác động tới hàng tỷ người xem, truyền
hình có vai trò rất quan trọng trong thương mại, đặc biệt là quảng cáo (quảng
cáo trên truyền hình chiếm 1/4 tổng chi phí quảng cáo ở Mỹ)vii. Truyền hình
có thể cung cấp nhiều dịch vụ thông tin giải trí nhưng nhược điểm lớn nhất
của công cụ viễn thông này chỉ mang tính 1 chiều, không mang tính tương
tác.
Hệ thống kỹ thuật thanh toán điện tử giúp tiến hành khâu thanh toán trong
giao dịch thương mại và tài chính mà không cần đến tiền mặt, rất phổ biến ở
các nước công nghiệp phát triển. Thanh toán điện tử sử dụng rộng rãi các máy
rút tiền tự động (ATM: Automatic teller machine) thẻ tín dụng (credit card),
thẻ mua hàng (purchasing card), thẻ thông minh (smart card)...
Mạng nội bộ và mạng liên nội bộ là toàn bộ mạng thông tin của một tổ chức
và các liên lạc mọi kiểu giữu các máy tính điện tử trong đó, cộng với các liên
lạc di động. Hệ thống này đòi hỏi tổ chức phải có cơ sở hạ tầng và tiêu chuẩn
thông tin riêng.
Internet và Web có thể thay thế các phương tiện trên với một phạm vi rộng
hơn và một hiệu quả lớn hơn nhiều lần nhờ sử dụng công nghệ hiện đại và có
tính tương tác cao với trong và ngoài hệ thống và giữa nhiều người với nhau.
Đối với nhiều sản phẩm có thể số hoá, tất cả các giai đoạn từ sản xuất đến lưu
thông, phân phối và tiêu dùng có thể thực hiện trực tuyến qua máy tính theo
một quy trình tự động hóa cao độ với thời gian vô cùng nhanh chóng so với
mua hàng theo phương thức truyền thống hay đặt hàng qua điện thoại và
chuyển giao bằng phương tiện hữu hình, như trong mô hình dưới đây:
6
(1)Quảng cáo phần mềm trực tuyến
(2) Đặt hàng theo mẫu (3)Chuyển đơn đặt hảng
(5) Yêu cầu trả tiền
(6) Thẻ tín dụng (4)Tự động tải phẩn mềm
(7)Chuyển phần mềm (7) Chphầ
Ở một khía cạnh khác, Internet và Web là phương tiện truyền dẫn đa chức
năng với khả năng chuyển tải kết hợp nhiều loại dữ liệu khác nhau từ văn bản,
âm thanh đến hình ảnh, đồng thời có khả năng kết hợp với nhiều phương tiện
khác nhau, điều mà không phương tiện nào trước đó làm được.
Internet cũng mở rộng phạm vi của TMĐT đến những lĩnh vực trước đây bị
giới hạn bởi khoảng cách không gian như y tế, giáo dục, dịch vụ pháp lý, kế
Hộp 1 Lịch sử Internet
Internet bắt nguồn từ những năm 60 khi các nh nghiên cứu ở Mỹ tìm kiếm những
cách thức mới để liên lạc với nhau. Năm 1969, mạng ARPANET (Advanced Research
Projects Agency Network ) được thiết lập giữa 4 trường đại học của Mỹ với sự giúp
đỡ của Bộ Quốc phòng. Mạng ARPANET cho phép người sử dụng liên lạc với nhau
qua “Giao thức chuẩn điều khiển mạng” (Network Control Protocol). Theo giao thức
chuẩn n y , một thông tin được phân chia th nh những “gói” (packets) dữ liệu nhỏ tại
nơi gửi đi, hòa v o dòng luân chuyển dữ liệu kết nối giữa các máy tính v được nhập
lại như cũ tại nơi đến.
Trong những năm đầu, mạng ARPANET được sử dụng để gửi e-mail (lần đầu tiên
v o năm 1971), tổ chức thảo luận trực tuyến, khai thác dữ liệu từ xa v giúp truyền
các tệp dữ liệu giữa các cơ quan thuộc chính phủ, các công ty v các trường đại học.
Bộ Quốc phòng Mỹ lúc đầu có ý định sử dụng mạng n y như một công cụ thông tin
trong chiến tranh nhưng cuối cùng đã từ bỏ. Trong thời gian n y, một số mạng khác
sử dụng cho nghiên cứu v giáo dục như BITNET v NSFNET cũng ra đời.
Trong những năm 80, giao thức chuẩn quốc tế TCP/IP (Transmission Control
Protocol/Internet Protocol) được đưa ra, thiết lập những tiêu chuẩn lưu chuyển thông
tin giữa các mạng v cho phép xác định người sử dụng thông qua các địa chỉ Internet
(Internet addresses) hoặc tên miền (domain names). Điều n y l m cho các mạng độc
lập có thể kết nối với nhau. Từ đó, mạng Internet hình th nh v ng y c ng phát
triển. Chỉ tính đến năm 1997, đã có 110 nước kết nối Internet. Ng y nay, việc Internet
đã có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới.
Năm 1990 mạng WWW (World Wide Web) ra đời, lần đầu tiên mở ra khả năng
truyền tải trên mạng các trang web kết hợp giữa đồ họa v văn bản. Với khả năng
chứa đựng v chuyển tải một lượng thông tin khổng lồ v đa dạng, web ng y nay đã
được cả thề giới chấp nhận l m tiêu chuẩn giao tiếp thông tin v được ứng dụng
Khách
h ng
Thụy sĩ
Công ty
Microsoft
ở Mỹ
Ngân
h ng dữ
liệu ở
Canđa của
công ty
7
toán... Một ví dụ đơn giản là ngày nay người ta có thể lấy bằng cử nhân hay
master do các trường đại học nổi tiếng trên thế giới cấp mà không phải ra
nước ngoài bằng cách ghi danh vào các khóa học trên mạng.
TMĐT đã tồn tại trước khi Internet ra đời nhưng sự xuất hiện của Internet và
Web là một bước ngoặt bởi lẽ thương mại đang trong tiến trình toàn cầu hóa
và hiệu quả hóa. Hai xu hướng đó đòi hỏi phải áp dụng Internet và Web như
các phương tiện đã được quốc tế hóa cao độ và có hiệu quả sử dụng cao.
Chính bước ngoặt này đã đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Trên thực tế,
người ta đã và đang nghiên cứu kết hợp các phương tiện thương mại điện tử
truyền thống với Internet. Bài khóa luận vì vậy tập trung vào TMĐT sử dụng
Internet như một công cụ chủ yếu.
1.3 Hình thức hoạt động TMĐTviii
Mặc dù có hơn 1300 lĩnh vực áp dụng nhưng TMĐT có thể được phân làm 5
hình thức chủ yếu là:
Thư điện tử (e-mail).
Thanh toán điện tử (electronic payment).
Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI: electronic data exchange) (chủ yếu).
Giao gửi số hóa các dung liệu (digital delivery of content) tức là mua bán
các sản phẩm có thể số hóa và chuyển giao qua mạng như âm nhạc, phim
ảnh, phần mềm máy tính...
Bán lẻ hàng hóa hữu hình (giao dịch qua mạng nhưng giao hàng theo
phương thức thông thường).
Các hình thức giao dịch này được tiến hành giữc 3 nhóm chủ yếu là: doanh
nghiệp, người tiêu dùng và chính phủ theo mô hình đưới đây, với quan hệ
doanh nghiệp - doanh nghiệp (B2B: Business to business) và doanh nghiệp -
người tiêu dùng (B2C: Business to consumer) là chủ yếu:
Người tiêu
dùng -
công dân
8
Mua bán và thanh toán Thông tin,
trực tuyến, dịch vụ luật pháp,
khách hàng... thuế...
Tiêu dùng chính phủ
trực tuyến, thông tin
pháp luật pháp, quản lý, thuế...
Trao đổi dữ liệu Trao đổi
mua bán, thanh toán thông tin...
hàng hóa và lao vụ...
2. Lợi ích kinh tế từ TMĐT
Những tiến bộ nhanh chóng về công nghệ trong TMĐT đặt ra vấn đề đáng
quan tâm: sự phổ biến của TMĐT và mạng Internet sẽ tác động như thế nào
đến các nhân tố trong nền kinh tế và ảnh hưởng ra sao đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế? Vấn đề này có thể tiếp cận từ 2 góc độ: chi phí và thị
trường. Hầu hết các nghiên cứu đã có về TMĐT đều xác định các công ty vừa
và nhỏ (SMEs: Small and medium enterprises) là đối tượng hưởng lợi nhiều
nhất từ quá trình này.ix Mặc dù vậy, đây chỉ là những đánh giá sơ khởi và có
thể có nhiều yếu tố khác gây hiệu ứng ngược lại chưa được tính đến.
2.1 Phát triển "hệ thống thần kinh" của nền kinh tế
Dòng thông tin được ví như hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Thông tin có
được cung cấp đầy đủ và kịp thời thì doanh nghiệp mới có thể xây dựng được
chiến lược sản xuất - kinh doanh bắt kịp xu thế thị trường, nhà nước mới có
thể đề ra chính sách quản lý đất nước phù hợp, còn người tiêu dùng thì có
nhiều lựa chọn hơn. Internet và Web giống như một thư viện khổng lồ cung
Doanh
nghiệp
Chính
phủ
Doanh
nghiệp
Chính
phủ
9
cấp một nguồn thông tin phong phú và dễ truy nhập với các công cụ tầm cứu
(search) hiệu quả như Google, Infoseek, Webcrawler hay Alta Vista. Qua
mạng Internet, chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng có thể giao tiếp
trực tuyến liên tục với nhau mà không bị hạn chế bởi khoảng cách. Nhờ đó, cả
sự hợp tác lẫn quản lý đều nhanh chóng và liên tục; các bạn hàng mới, các cơ
hội kinh doanh được phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, khu vực
và thế giới. Lợi ích này có ý nghĩa đặc biệt đối với các SMEs, vốn bị hạn chế
về khả năng và tiềm lực trong tiếp cận và khảo sát thông tin thị trường. Hơn
nữa, “khả năng tiếp cận thông tin làm giảm thiểu sự bất ổn và các rủi ro
khó dự đoán trong nền kinh tế".x
2.2 Giảm chi phí sản xuất, tiếp thị, giao dịch và bán hàng
Nhìn từ góc độ kinh tế vi mô, chi phí là một trong các yếu tố quyết định trực
tiếp lợi nhuận của doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng. Chi phí sản
xuất kinh doanh bao gồm nhiều yếu tố từ sản xuất đến lưu thông, phân phối.
Giữ nguyên các điều kiện khác, doanh nghiệp luôn có xu hướng tìm cách
giảm chi phí sản xuất kinh doanh để tăng sức cạnh tranh và tăng lợi nhuận,
còn người tiêu dùng luôn muốn mua hàng hóa với giá rẻ hơn. Suy rộng ra tầm
vĩ mô, chi phí ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của cả nền kinh tế và cơ cấu kinh
tế theo đó mà hình thành. TMĐT qua Internet tác động đến yếu tố chi phí
trong chuỗi giá trị thị trường (value-chain), hướng nền kinh tế đến hiệu quả.
TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn
phòng không có giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm
và chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần, đặc biệt là trong khâu in ấn. Theo số
liệu của hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm trên hướng này đạt tới
30%.xi Từ quan điểm chiến lược, các nhân viên có năng lực được giải phóng
khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể t9ập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ
đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.
TMĐT giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương
tiện Internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều
khách hàng. Catalogue điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường
xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn lỗi
10
thời. Theo số liệu của hãng máy bay Boeing của Mỹ, đã có tới 50% khách
hàng đặt mua 9% phụ tùng qua Internet và các đơn hàng về lao vụ kỹ thuật
theo phương thức này ngày càng tăng lên.xii
Với TMĐT, người tiêu dùng và các doanh nghiệp tiết kiệm đáng kể thời gian
và chi phí giao dịch (quá trình từ quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt
hàng, giao dịch giao hàng, giao dịch thanh toán). thời gian giao dịch qua
Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần
nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện; chi phí cho giao dịch qua Internet chỉ
bằng khoảng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay bưu điện chuyển phát nhanh;
chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% đến 20% chi phí thanh
toán theo lối thông thường.xiii
Bảng 1 Tốc độ và chi phí truyền gửi bộ tài liệu 40 trang
Đường truyền Thời gian Chi phí (USD)
New York đi Tokyo
Qua bưu điện 5 ngày 7.40
Chuyển phát nhanh 24 giờ 26.25
Qua máy Fax 31 phút 28.83
Qua Internet 2 phút 0.10
New York đi Los Angeles
Qua bưu điện 2-3 ngày 3.00
Chuyển phát nhanh 24 giờ 15.50
Qua máy Fax 31 phút 9.36
Qua Internet 2 phút 0.10
Nguồn: ITU, “Challenges to network”, 1997, Geneva
11
Nguồn:
Trong hai yếu tố cắt giảm này, yếu tố thời gian có ý nghĩa lớn hơn vì tốc độ
lưu thông có ý nghĩa sống còn trong kinh doanh và cạnh tranh. Bên cạnh đó,
việc giao dịch nhanh chóng, sớm nắm bắt được nhu cầu còn giúp cắt giảm số
lượng và thời gian hàng nằm lưu kho (inventory), cũng như kịp thời thay đổi
phương án sản phẩm bám sát được nhu cầu của thị trường. Nhiều năm trước
đây, rút ngắn chu thời sản xuất (cycle time) là một trong các nhân tố quan
trọng nhất giúp các công ty Nhật Bản giành được thắng lợi trong cạnh tranh
với các công ty Hoa Kỳ.
2.3 Mở rộng cơ hội gia nhập thị trường và thay đổi cấu trúc thị trường
Khả năng truy cập và phát tán (diffusion) thông tin nhanh chóng qua Internet
với chi phí thấp là cơ hội lớn cho các SMEs gia nhập thị trường. Chi phí lập
một cửa hàng ảo trên Internet (gồm các chi phí đầu tư thiết kế trang web, chi
phí đăng ký và duy trì tên miền (domain name)) chỉ bằng một phần rất nhỏ so
với việc lập một cửa hàng hữu hình nhưng trong nhiều trường hợp, hiệu quả
đem lại có thể lớn hơn nhiều lần.xiv Internet cho phép đưa thông tin đến từng
cá nhân, vì thế chỉ cần một trang web bắt mắt với nhiều ý tưởng sáng tạo,
doanh nghiệp có thể được đông đảo người tiêu dùng biết đến. Cửa hàng bán lẻ
trực tuyến Amazon.com là một điển hình trong nhiều ví dụ. Điều đó cho thấy
so với việc tạo lập danh tiếng trên thị trường theo phương cách truyền thống,
TMĐT qua Internet rõ ràng có những lợi thế nhất định.
Internet §iÖn tho¹i B n¸ lÎ th«ng thêng
S10.35
5
15
USD
biÓu ®å 1 So s¸ nh chi phÝ mua phÇn
mÒm qua c¸ c ph¬ng tiÖn
12
Tính chất cạnh tranh trên thị trường một phần tùy thuộc vào số lượng đối thủ
cạnh tranh có mặt trên thị trường đó. TMĐT không chỉ tạo điều kiện gia nhập
thị trường dễ dàng mà còn tạo áp lực cho mọi doanh nghiệp phải “hiện hữu
trực tuyến” (online presence). Tuy nhiên, khác với thị trường truyền thống,
cạnh tranh trên thị trường TMĐT chủ yếu là cạnh tranh ở khả năng thông tin
nhanh chóng và hiệu quả. Điều này tạo cơ hội đồng đều cho các thành phần
tham gia cạnh tranh. Mặc dù trong môi trường mới, các doanh nghiệp lớn và
danh tiếng có thể có một khởi đầu thuận lợi hơn so với những doanh nghiệp
“sinh sau đẻ muộn” nhưng điều đó không có nghĩa là họ có lợi thế hơn trong
việc nắm bắt thông tin để điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp
với nhu cầu thị trường.xv
Chu thời sản xuất được rút ngắn trên cơ sở tiết kiệm thời gian và chi phí giao
dịch tất yếu dẫn đến những điều chỉnh nhất định trong cách thức tổ chức
doanh nghiệp và những thay đổi mới ở nhiều ngành kinh doanh. Lấy
ngành vận tải du lịch làm một ví dụ; trước đây các công ty hàng không
thường bán vé máy bay qua mạng lưới các đại lý phân phối vé được thiết lập
khắp nơi, nhưng với TMĐT qua Internet, các công ty này có thể bán vé trực
tiếp cho khách hàng và tiết kiệm được khoản hoa hồng phải trả cho đại lý.
Điều này sẽ làm cho các công ty hàng không có xu hướng sáp nhập hoạt động
bán vé vào trong hoạt động của mình, còn các đại lý có thể chuyển sang hình
thức môi giới thông tin, so sánh giá cả và dịch vụ được cung cấp bởi các công
ty khác nhau, vì khách hàng có khả năng sẽ trả một khoản tiền để có được
thông tin theo yêu cầu.xvi
2.4 Thúc đẩy công nghệ thông tin phát triển, tạo điều kiện sớm tiếp cận
"nền kinh tế số hóa"
TMĐT phát triển dựa trên nền tảng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện
đại. Do vậy, phát triển TMĐT sẽ tạo nên những nhu cầu đầu tư mới trong
lĩnh vực hạ tầng cơ sở và dịch vụ công nghệ thông tin. Theo dự báo của
OECDxvii, phần đóng góp của công nghệ thông tin trong nền kinh tế toàn cầu
sẽ đạt mức từ 3-5% thời kỳ 1993-2008. Ở các nước công nghiệp phát triển tỷ
lệ này cao hơn rất nhiều ( ở Mỹ hiện nay khoảng 15% GDP)xviii. Các nhà
13
nghiên cứu dự đoán kinh tế thế giới có xu hướng tiến đến “nền kinh tế số hóa”
hay “nền kinh tế mới” lấy tri thức và thông tin làm nền tảng phát triển. Đây là
khía cạnh mang tính chiến lược đối với các nước đang phát triển vì nó đem lại
cả nguy cơ tụt hậu lẫn cơ hội tạo “bước nhảy vọt“ (leap-frog) bắt kịp xu thế
phát triển của nhân loại.xix
3. Tình hình phát triển TMĐT trên thế giới
3.1 Toàn thế giới
Nền tảng cũng như hạ tầng cơ sở mang tính chất tiên quyết của TMĐT quốc
tế là Internet và các phương tiện truyền thông hiện đại (vệ tinh viễn thông,
cáp, vô tuyến, các khí cụ điện tử...) đang phát triển rất nhanh chóng cả về
phạm vi bao phủ, phạm vi ứng dụng lẫn chất lượng vận hành. Nếu như điện
thoại cần hơn 70 năm để đạt mức 50 triệu người sử dụng thì Internet chỉ cần
khoảng 3 năm.
BIÓU ®å 2
Thêi gian ®¹t ®Õn 50 triÖu ngêi sö dông
0 20 40 60 80
§iÖn tho¹i
R adio
M¸y tÝnh c¸ nh©n
TruyÒn h×nh
Internet
P
h
¬
n
g
ti
Ön
Sè n¨m
Hộp 2 Khó khăn trong thu thập số liệu về TMĐT
Để phân tích tầm quan trọng của TMĐT trên phương diện số lượng, phải có một định
nghĩa cụ thể định hướng việc thu thập số liệu l m cơ sở cho nghiên cứu. Tuy nhiên,
việc n y l rất khó khăn vì TMĐT hiện nay đang ở trong tình trạng “hỗn loạn ngắn
hạn” (short-term turbulence) về định nghĩa. Nếu bao gồm cả thanh toán bằng thẻ tín
dụng, khối lượng TMĐT l rất lớn. Nhưng thanh toán chỉ l một khâu trong một giao
dịch TMĐT, nhân tố quan trong hơn l việc chấp nhận một đề nghị giao kết hợp đồng
qua phương tiện điện tử (ở đây l Internet). Các số liệu thống kê về TMĐT vì vậỵ
phải phản ánh được quyết định mua h ng v doanh thu được thực hiện qua phương
tiện điện tử. Như đã nói ở phần trước, mạng Internet l phương tiện duy nhất cho
phép tiến h nh nhiều loại giao dịch khác nhau trong TMĐT, nhưng hầu hết các giao
dịch TMĐT hiện nay được thực hiện kết hợp với các phương thức thương mại truyền
thống, đặc biệt trong ký kết hợp đồng chính thức (trên giấy tờ) hoặc trong khâu giao
h ng. Chính vì vậy, việc phân loại giao dịch giữa TMĐT với thương mại truyền thống
l rất khó khăn v số liệu thu thập được nhiều khi không thể hiện chính xác tầm
quan trọng của TMĐT.
Một hạn chế khác của số liệu về TMĐT hiện có l tính chủ quan trong các ước đoán.
Hiện nay nhiều tổ chức trên thế giới1 cho ra những ước đoán khá chênh lệch nhau về
TMĐT. Các số liệu n y lại tập trung v o nước Mỹ, nơi TMĐT phát triển nhất, v bỏ
14
Nguồn: ITU, “Internet for development”, 1999
Internet đã đi qua 2 giai đoạn và đang bước vào giai đoạn phát triển thứ 3
Giai đoạn 1 đặc trưng cho giai đoạn hình thành và phát triển từ đầu 1970
đến cuối 1997. Vào thời điểm cuối 1997, tốc độ truy cập trung bình
khoảng 1.5Mbps. Nội dung truyền tải chủ yếu là văn bản và đồ họa.
Giai đoạn 2 nâng cấp hạ tầng kỹ thuật của Internet giai đoạn 1 lên tốc độ
chuẩn 35 Mbps, phát triển công nghệ ATM vào thể hiện nội dung.
Giai đoạn 3 là thời điểm công nghệ mạng di động mở rộng phạm vi hoạt
động của Internet bằng hệ thống vô tuyến sử dụng vệ tinh với mục tiêu
ứng dụng mọi lúc, mọi nơi. Đồng thời, công nghệ “Đường thuê bao số
hóa không đồng bộ” (ASDL: asynchronous digital subscriber line) cho
phép tăng tốc độ tải dữ liệu từ Internet xuống rất nhiều. Các hệ thống
truyền tải băng thông rộng (wide band) được ứng dụng phổ biến ở các
nước công nghiệp phát triển và đang được đưa vào các nước đang phát
triển.xx Theo ước tính của các chuyên gia công nghệ thông tin trên thế
giới, cứ 12 tháng, lượng thông tin qua Internet lại tăng lên gấp ba (định
luật Gilder).xxi Đây là điều kiện lý tưởng cho TMĐT bùng nổ.
Số website cũng như số người sử dụng Internet cũng không ngừng tăng lên.
Nếu như năm 1996 mới có khoảng 12.9 triệu website với số người sử dụng là
67.5 triệu người thì đến cuối năm 2002 con số đó lần lượt là 2.5 tỷ và trên 600
triệu.xxii Năm 2001, số người sử dụng Internet ở các nước đang phát triển
chiếm 1/3 toàn thế giới. Trong đó khu vực Châu Á TBD có mức phát triển
nhanh nhất, tăng thêm 21 triệu người. Trung Quốc trở thành quốc gia có số
người sử dụng Internet nhiều thứ 2 trên thế giới (sau Mỹ) với con số 56 triệu
người. Dự đoán năm 2005 sẽ có hơn 1 tỷ người trên thế giới sử dụng Internet,
70% trong số đó làm những công việc liên quan đến TMĐT.xxiii
15
Nguồn: “ More than 600 millions people have net access”,
November 1, 2002
Với sự kết hợp hữu cơ 3 bộ phận công nghiệp: máy tính ( mạng, máy tính,
thiết bị điện tử, phấn mềm và các dịch vụ khác), truyền thông (điện thoại hữu
tuyến, vô tuyến và vệ tinh) và nội dung thông tin (cơ sở dữ liệu, các sản phẩm
nghe nhìn, vui chơi, giải trí, xuất bản và cung cấp thông tin), TMĐT đã được
ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực có liên quan đến thương mại. Không chỉ
dừng ở đó, TMĐT đụng chạm tới mọi hoạt động giao tiếp xã hội, giải trí...
và đụng chạm đến hầu hết các lĩnh vực kinh doanh. Điều này thể hiện rất rõ
ở Mỹ, nơi TMĐT phát triển điển hình nhất.
Biểu đồ 4: Sử dụng Internet và kinh doanh điện tử ở Mỹ
Kh¶o s¸t ho¹t ®éng trùc tuyÕn/100 ngêi sö dông
Internet ë M ü n¨m 2001
0 20 40 60 80 100
G öi th ® iÖn tö
T ×m th«ng tin v Ó s¶n phÈm , d Þch vô
T in tøc
Ch¬i g am e
M ua b¸n s¶n phÈm , d Þch vô
K h¸m bÖnh, t vÊn søc k háe
Hoµn tÊt thñ tôc hµnh chÝnh
§¨ng k ý nhËp häc
X em TV /Phim /nghe ®µi
T¸n g Éu
DÞch vô ng©n hµng trùc tuy Õn
T ×m viÖc
B u«n b¸n ch øng k h o¸n
G äi ® iÖn tho¹i
Häc qua m ¹ng
H
o¹
t
®
é
n
g
%
BiÓu ®å 3 Sè ngêi sö dông Internet
trªn thÕ giíi qua c¸ c n¨ m (triÖu gêi)
73 116
181
270
385
501
620
0
200
400
600
800
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Th¬ng m¹i B2B cña Mü n¨m
2002 (131.2 tû USD)
DÞch vô
14%
ChÕ t¹o
31%
TiÖn Ých
5%
B¸ n
bu«n,
b n¸ lÎ
50%
16
Nguồn: OECD, “Information Technology Outlook Outlook - ICTs and the Information
Economy”, 2002
Trong những năm gần đây, doanh thu từ TMĐT trên thế giới tăng với tốc độ
200%/năm. Theo thống kê của Gartner, Inc., TMĐT đạt mức doanh thu 433
tỷ USD năm 2000 và dự đoán năm 2004 sẽ đạt mức 6000 tỷ USD.
Nguồn: Gartner Inc. 2003
Trong tổng khối lượng TMĐT toàn thế giới, thương mại B2B chiếm khoảng
50%, dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác khoảng 45%, bán lẻ khoảng 5%.
Tuy nhiên, TMĐT chỉ được áp dụng tương đối rộng rãi ở các nước công
nghiệp phát triển (Mỹ hiện chiếm gần 50% tổng doanh số TMĐT toàn cầu).
Theo biểu đồ 6, các nước đang phát triển mặc dù chiếm 1/3 số người sử dụng
Internet nhưng hoạt động TMĐT ở các nước này là không đáng kể.xxiv
17
Nguồn: UNCTAD, “ E-commerce and Development Report 2002”, Geneva
Mặc dù con số doanh thu của TMĐT những năm qua là khá ấn tượng, tỷ lệ
của TMĐT trong thương mại toàn thế giới vẫn ở mức khiêm tốn, con số đạt
cao nhất là 3.78% tổng khối lượng giao dịch thương mại quốc tế xxv. Theo giải
thích của các tổ chức nghiên cứu về TMĐT, điều này là do các doanh nghiệp
sử dụng Internet như một công cụ marketting nhiều hơn là một công cụ
thương mại, còn người tiêu dùng vẫn chưa mạnh dạn mua hàng qua mạng,
xuất phát từ thực tế những điều kiện về kinh tế kỹ thuật và pháp lý hiện nay
cho TMĐT vẫn chưa hoàn thiện đầy đủ.
3.2 TMĐT ở các khu vựcxxvi
Tình hình kết nối Internet ở Châu Phi đang được cải thiện. Số thuê bao dial-
up tăng 30% năm 2001 và đạt mức 1.3 triệu. Mặc dù vậy, chỉ 1 trong 118
người ở Châu Phi có điều kiện tiếp xúc với Internet. Chi phí thuê đường
truyền vẫn còn là một trở ngại lớn. Thương mại B2B hầu như chỉ diễn ra ở
Nam Phi, tuy nhiên tiềm năng phát triển đã được xác định trong lĩnh vực dịch
vụ trực tuyến và ngoại tuyến. Các sản phẩm thủ công và dịch vụ nhắm đến
khách hàng là người Châu Phi ở hải ngoại đang chiếm ưu thế trong thương
mại B2C.
Ở Châu Mỹ La tinh, TMĐT tập trung ở 4 thị trường Internet phát triển
nhất là Argentina, Brazil, Chile và Mexico. Nhìn chung, khoảng 50-70%
doanh nghiệp ở khu vực này có điều kiện tiếp xúc với Internet. Internet được
18
sử dụng rộng rãi trong thu thập thông tin và tạo lập quan hệ kinh doanh,
nhưng chỉ một số ít các doanh nghiệp thực hiện các giao dịch TMĐT trực
tuyến. Các tập đoàn xuyên quốc gia trong ngành chế tạo ô tô đang đóng vai
trò chủ yếu trong các giao dịch B2B, đặc biệt là ở Brazil và Mexico. B2B
cũng đang phát triển rất tốt trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng. Trong lĩnh
vực B2G, Brazil là nước đang đạt được nhiều thành công trong ứng dụng mô
hình chính phủ điện tử (e-government).
Trong các nước đang phát triển, TMĐT đang mở rộng với tốc độ nhanh nhất
ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Các doanh nghiệp ở khu vực này, nhất
là các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành chế tạo, chịu áp lực từ
khách hàng ở các nước công nghiệp phát triển, đang đầu tư cho công tác ứng
dụng các phương pháp điện tử trong kinh doanh. Trung Quốc đã trở thành
nước có số người sử dụng Internet nhiều thứ 2 trên thế giới, tuy nhiên TMĐT
ở nước này có thể sẽ không phát triển nhanh như vậy. Những khó khăn về hạ
tầng cơ sở như tốc độ đường truyền chậm và chi phí phát triển mạng lưới
truyền thông cao tiếp tục là một khó khăn cho thương mại B2B ở nước này.
TMĐT B2B và B2C được dự báo sẽ phát triển nhanh ở các nền kinh tế
chuyển đổi khu vực Trung và Đông Âu. Tuy nhiên khối lượng TMĐT ở khu
vực này sẽ không vượt quá 1% TMĐT toàn cầu trước năm 2005. Trong khi
các nước Trung Âu và Baltic có nền tảng công nghệ thông tin và khoa học kỹ
thuật khá tốt cho TMĐT, các nước khác ở vùng Balkan, Caucasus và Trung Á
còn tụt lại phía sau một khoảng khá xa.
TMĐT dường như không chịu nhiều tác động trong giai đoạn hạ cánh của
các nền kinh tế thuộc Bắc Mỹ và Tây Âu. TMĐT B2B chỉ chiếm 2% trong
tổng số thương mại giữa các doanh nghiệp ở Mỹ và ít hơn ở Tây Âu, nhưng
phần đóng góp của buôn bán B2B trực tuyến trong tổng khối lượng buôn bán
giữa các công ty đang tăng nhanh ở cả hai bờ Đại Tây Dương, dự kiến sẽ đạt
mức 20% trong từ 2-4 năm nữa. Điều này cho thấy xu hướng chuyển đổi
hàng loạt các hoạt động kinh doanh sang môi trường trực tuyến. Tốc độ phát
triển ổn định của thương mại B2C trong điều kiện tăng trưởng kinh tế chậm
lại cho thấy ngành bán lẻ trực tuyến vẫn còn đang ở trong thời kỳ phát triển
19
mặc dù nó đã có mặt khá sớm. Mặc dù chỉ chiếm hơn 3% tổng số bán lẻ ở
Mỹ, thương mại B2C đã đóng góp đến 18% doanh số của một số ngành như
phần mềm máy tính, dịch vụ du lịch và âm nhạc. Điều này mở ra cơ hội tốt
cho các nhà cung cấp từ các nước đang phát triển.
4. Môi trường phát triển của TMĐT
4.1 Các đòi hỏi của TMĐT
Những lợi ích đã phân tích ở trên là rất to lớn nhưng thực tế còn đang ở dạng
tiềm năng. Những lợi ích tiềm năng đó chỉ được hiện thực hóa và TMĐT chỉ
thực sự phát triển khi các đòi hỏi của nó được đáp ứng. ở đây người viết chỉ
liệt kê một số vấn đề quan trọng nhất thuộc hạ tầng cơ sở kinh tế kỹ thuật và
pháp lý. xxvii
Hạ tầng cơ sở công nghệ: TMĐT hoạt động trên nền tảng một hạ tầng
cơ sở công nghệ thông tin đủ năng lực. Hạ tầng này bao gồm 2 nhánh là
tính toán (computing) và truyền thông (communication). Hai nhánh này
ngoài công nghệ - thiết bị còn cần phải có một nền công nghiệp điện lực
cững mạnh làm nền. Hiện nay đang có xu hướng đưa cả công nghệ bảo
mật và an toàn vào cơ sở hạ tầng công nghệ của TMĐT. Đòi hỏi về hạ
tầng cơ sở công nghệ bao gồm 2 mặt: một là tính tiên tiến, hiện đại về
công nghệ thiết bị, hai là tính phổ cập về kinh tế. Hạ tầng truyền thông
phải đạt được tốc độ 45Mbps để có thể chuyển tải được thông tin dưới
dạng hình ảnh, đồ họa, video. Kế tiếp là các hệ thống thiết bị kỹ thuật
mạng, truy cập từ xa, an toàn kỹ thuật. Thông thường, một quốc gia
muốn phát triển TMĐT thì mạng trục thông tin (backbone) quốc gia
đóng vai trò xương sống. Mạng này đối với trong nước được ví như nơi
mọi con sông đổ vào, đối với quốc tế được ví như cửa sông đổ ra biển
siêu lộ thông tin quốc tế. Thông tin có thông thương được hay không,
một phần quan trọng phụ thuộc vào tốc độ của backbone.
Hạ tầng cơ sở nhân lực: Hoạt động TMĐT liên quan tới mọi con người,
từ người tiêu thụ đến người sản xuất, phân phối, các cơ quan chính phủ,
các nhà công nghệ, nên việc áp dụng TMĐT tất yếu đòi hỏi đa số con
người phải có kỹ năng thực tế ứng dụng công nghệ thông tin một cách có
20
hiệu quả, có thói quen làm việc trên máy tính, trên mạng máy tính và cần
phải có một đội ngũ chuyên gia đủ mạnh về công nghệ thông tin. Nói
trong diện hẹp, đó là những tập thể các doanh nghiệp và các tổ chức dịch
vụ mạng có kỹ năng chuyên ngành về TMĐT và thông thạo tiếng Anh.
Nói trên diện rộng, điều kiện nhân lực bao gồm cả người tiêu dùng.
Bảo mật, an toàn: Giao dịch thương mại qua các phương tiện điện tử,
trong đó mọi dữ liệu đều ở dạng số hóa, đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt
về tính bảo mật, an toàn. Mất tiền, lừa đảo, lấy trộm hoặc thay đổi thông
tin, xâm nhập dữ liệu... là các rủi ro ngày càng lớn không chỉ đối với
người kinh doanh mà cả với người quản lý, với từng quốc gia, vì các hệ
thống điện tử có thể bị các tin tặc (hacker) xâm nhập. Gần đây người ta
đã chứng kiến những vụ hacker lấy trộm các số tài khoản để lấy tiền ở
các ngân hàng lớn trên thế giới hay các virus được tạo ra đã phá hoại
hàng loạt các kho thông tin của nhiều cơ quan, tổ chức, gây ngưng trệ
cho cả hệ thống thông tin toàn cầu; hoặc có nhiều tổ chức cực đoan sử
dụng Internet như phương tiện phổ biến tư tưởng phát xít và kêu gọi
chiến tranh... Thiệt hại từ những hoạt động phá hoại đó không chỉ tính
bằng tiền. Do đó, cần phải có các hệ thống bảo mật, an toàn được thiết
kế trên cơ sở kỹ thuật mã hóa (encryption) hiện đại và một cơ chế an
ninh hữu hiệu. Ngoài ra, nhu cầu bảo vệ bí mật riêng tư cũng ngày càng
tăng.
Hệ thống thanh toán tự động: Phương thức thanh toán là vấn đề quan
trọng và rất nhạy cảm trong giao dịch thương mại. TMĐT chỉ có thể thực
hiện thực tế và có hiệu quả khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài
chính ở mức độ phát triển đủ cao, cho phép tiến hành thanh toán tự động
mà không phải dùng đến tiền mặt. Trong kinh doanh bán lẻ, vai trò của
thẻ thông minh (smart card) là rất quan trọng. Khi chưa có hệ thống này,
TMĐT chỉ giới hạn ở khâu trao đổi tin tức, còn việc buôn bán hàng hóa
và dịch vụ vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc thông qua các
phương tiện thanh toán truyền thống. Hiệu quả quả do đó sẽ thấp và
không đủ bù đắp chi phí trang bị phương tiện TMĐT. Hiện nay, Mỹ là
quốc gia có hệ thống thanh toán điện tử phát triển nhất thế giới.
21
Bảo vệ sở hữu trí tuệ: Do chất xám của con người ngày càng chiếm giá
trị cao trong sản phẩm, bảo vệ tài sản cuối cùng sẽ trở thành bảo vệ sở
hữu trí tuệ. Trong TMĐT vì thế nổi lên vấn đề đăng ký tên miền (domain
name), bảo vệ sở hữu chất xám và bản quyền của các thông tin (hình
thức quảng cáo, nhãn hiệu thương mại, cấu trúc cơ sở dữ liệu các nội
dung truyền gởi), ở các khía cạnh phức tạp hơn nhiều so với việc bảo vệ
sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế vật thể. Một trong các khía cạnh đó là
mâu thuẫn giữa tính phi biên giới của không gian TMĐT và tính chất
quốc gia của quyền sở hữu trí tuệ.
Bảo vệ người tiêu dùng: Mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng quyết
định trực tiếp sự thành bại trong kinh doanh. Do đó vấn đề bảo vệ người
tiêu dùng ngày càng được đề cao trong thương mại. Vì quy cách phẩm
chất hàng hoá và các thông tin có liên quan trong TMĐT đều ở dạng số
hóa nên người mua chịu rủi ro lớn hơn so với giao dịch thương mại vật
thể. Để giải quyết vấn đề đó, cần phải thiết lập một cơ chế trung gian
đảm bảo chất lượng nhằm mục đích tạo niềm tin cho người tiêu dùng,
nhất là ở những nước mà tập quán mua hàng “sờ tận tay, thấy tận mắt”
vẫn còn phổ biến. Một trong các giải pháp cho vấn đề này là xây dựng
một hệ thống tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại quốc tế thống
nhất cho các giao dịch TMĐT .
Hành lang pháp lý: TMĐT là hoạt động thương mại có quy mô toàn
cầu, vì vậy hàng loạt quy định về luật pháp quốc tế và quốc gia về lĩnh
vực phải được đáp ứng. Những nội dung chính của hàng lang pháp lý
này là quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, dịch vụ, quy định về
những điều cấm và được phép thay đổi theo quốc gia, quy định về sở
hữu công nghiệp, bản quyền chế tạo, luật về chữ ký điện tử, luật giải
quyết tranh chấp đối với hợp đồng kinh tế điện tử...
4.2 Các cấp độ môi trường cho TMĐT
Các vấn đề mà TMĐT đặt ra rất phức tạp, đan xen vào nhau trong một mối
quan hệ hữu cơ từ kinh tế, pháp lý đến an ninh, văn hóa xã hội. Do đó chấp
22
nhận TMĐT thì tất yếu phải có những điều chỉnh ở mọi hình thái hoạt động
của cả đất nước, trên mọi cấp độ từ doanh nghiệp đến quốc gia, quốc tế.
Trên bình diện quốc gia, doanh nghiệp được thúc đẩy bởi động cơ lợi nhuận
và hiệu quả kinh doanh đương nhiên sẽ là nhân tố mang tính chủ động và
sáng tạo nhất trong việc ứng dụng TMĐT. Không ai nghi ngờ rằng một môi
trường thông thoáng và an toàn sẽ là một mảnh đất tốt cho TMĐT phát triển.
Vì vậy cần có sự can thiệp của nhà nước với tư cách là người tạo ra luật chơi
và đảm bảo sự phát triển đó là bền vững.
Trên bình diện quốc tế, toàn cầu hóa thương mại tất yếu làm nảy sinh những
giao thoa, tương tác, tương đồng và dị biệt giữa các hệ thống chính trị, kinh
tế, pháp lý và xã hội của các quốc gia khác nhau. Điều này không mới nhưng
với TMĐT, ranh giới địa lý - một trong những nguyên tắc cơ bản xác định các
khuôn khổ điều chỉnh thương mại quốc tế hiện đại - trở nên mờ nhạt dần.
“Con đường tơ lụa mới”xxviii đòi hỏi phải xác định những nguyên tắc mới làm
căn bản. Chương II sẽ tập trung tìm hiểu những nỗ lực tập thể đa biên trong
khuôn khổ WTO nhằm giải quyết vấn đề này.
CHƯƠNG II PHÁT TRIỂN TMĐT TOÀN CẦU - TMĐT TRONG
KHUÔN KHỔ WTO
1. Phát triển TMĐT toàn cầu
1.1 TMĐT thúc đẩy thương mại quốc tế
Chương I đã thảo luận những lợi ích mà TMĐT mang lại dưới góc độ chi phí
và thị trường. Nhìn tổng quát, với TMĐT, khoảng cách không gian và thời
gian giữa người sản xuất và người tiêu thụ được rút ngắn, các rào cản gia
nhập thị trường được dỡ bỏ và cạnh tranh được thúc đẩy. Những hiệu quả này
có thể quan sát được ở cấp độ thị trường quốc gia, song tầm quan trọng của
chúng có thể còn lớn hơn ở phạm vi thương mại quốc tế.
23
Caroline Freund và Diana Weinholdxxix đã phát triển mô hình kinh tế lượng
chứng minh trong thời gian 2 năm 1998 và 1999, 10% gia tăng trong số
lượng các máy chủ Internet (Internet hosts) đã đưa đến kết quả khối lượng
thương mại quốc tế tăng thêm 1%. Forrester Research, một viện nghiên cứu
hàng đầu về TMĐT, cho rằng khoảng 1400 tỷ USD giá trị xuất khẩu sẽ được
thực hiện trực tuyến, tương ứng với 18% xuất khẩu toàn thế giới vào năm
2004. Khối lượng GDP được thực hiện qua TMĐT có thể lên đến 30% giá trị
hàng tiêu dùng và 36% giá trị đầu vào sản xuất. Đồng thời, các giao dịch điện
tử ngày càng tăng trở thành một động lực thúc đẩy tăng trưởng trong ngành
công nghiệp IT (Information Technology: công nghệ thông tin).xxx
Thật vậy, trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều quan tâm đến TMĐT
với chức năng thúc đẩy thương mại quốc tế. Những mất mát trong kinh doanh
xuất nhập khẩu do hàng hóa bị trì hoãn ở cửa khẩu xuất phát từ các yêu cầu
phức tạp về chứng từ cũng như những khúc mắc trong thủ tục thương mại...
đôi khi vượt quá chi phí thuế quan. Nhờ khả năng kết nối trực tiếp giữa cộng
đồng kinh doanh, người tiêu dùng và chính phủ, TMĐT giúp đơn giản hóa và
loại bỏ những khâu không cần thiết trong quá trình này.
Singapore là quốc gia đầu tiên ứng dụng TMĐT vào buôn bán ngoại thương.
Mạng TradeNet kết nối các nhà buôn, các hãng tàu, các đại lý bảo hiểm với
hơn 20 cơ quan nhà nước quản lý xuất nhập khẩu đã được thiết lập từ năm
1989. Thay vì phải mất nhiều lần nộp chứng từ và nhận giấy phép từ các cơ
quan quản lý, người kinh doanh chỉ cần gửi bộ chứng từ điện tử 1 lần qua
mạng TradeNet và nhận được toàn bộ các giấy phép cần thiết chỉ sau 15-30
phút, hiệu quả hơn nhiều so với thời gian chờ đợi trước đó là 2-3 ngày. Hiện
nay, 98% thương mại ở Singapore được thực hiện qua hệ thống này. Nhờ vậy,
50% chi phí mua bán ngoại thương được tiết kiệm. Điều đó giải thích tại sao
Singapore trở thành một trong những trung tâm trung chuyển thương mại lớn
nhất thế giới.xxxi
Việc xuất trình chứng từ thương mại qua TMĐT cũng trở thành thông lệ ở các
nước như Mỹ, Canađa và một số nước trong EU. Ở các nước này, 90% khai
báo thuế quan được thực hiện qua con đường điện tử.xxxii
24
1.2 Thách thức của TMĐT và các nỗ lực tiếp cận TMĐT ở cấp độ toàn
cầu
Internet đặt ra một vấn đề lớn: các mạng thông tin số hóa là một không gian
quốc tế không biên giới, một không gian đa cực mà không tác nhân hay nhà
nước nào có thể kiểm soát hoàn toàn; một không gian không đồng nhất trong
đó mỗi người có thể hoạt động, tự thể hiện, làm việc theo cách riêng. Do đó,
pháp luật - vốn được xây dựng và áp dụng dựa nguyên tắc lãnh thổ, dựa trên
các hành vi, các loại hình đồng nhất - khó có thể đặt ra được. Nhưng quốc gia
- nhân tố cơ bản trong quan hệ quốc tế - đã và vẫn sẽ luôn tồn tại cùng với
quy chế quản lý riêng của mình, cũng như thương mại tự do vẫn phải chịu sự
điều chỉnh của một khuôn khổ nhất định do các quốc gia cùng thiết lập nên.
Xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế đang lôi cuốn các quốc gia vào vòng xoáy
của một hệ thống toàn cầu lệ thuộc lẫn nhau; luật chơi lớn được hình thành
dựa trên sự tương tác của các hệ thống sẵn có. Dấu ấn của quốc gia trong luật
chơi lớn đậm hay nhạt - mà theo đó sẽ quyết định đến vị thế và lợi ích của
quốc gia đó trong môi trường toàn cầu hóa - tùy thuộc vào nhận thức và chiến
lược thích ứng của họ.
Nhìn từ góc độ TMĐT, vấn đề này được thể hiện ở ý nghĩa: nước nào sẽ có
ảnh hưởng và lợi ích lớn nhất trong việc xây dựng một khuôn khổ quốc tế
điều chỉnh TMĐT toàn cầu? Con đường tơ lụa 1000 năm trước tồn tại và vận
hành được là nhờ giới cầm quyền ở tất cả các nước và các địa phương nơi nó
đi qua đồng ý hoặc bị thuyết phục đồng ý tạo điều kiện và bảo vệ cho luồng
vận chuyển xuyên lục địa này. Sự phồn vinh mà con đường tơ lụa mang lại tất
nhiên thuộc về những người đã khởi xướng và tận dụng được các thoả thuận
buôn bán đa biên đó: đế chế Trung Hoa, La Mã và các vương triều Ba Tư.
Cũng như vậy, bản chất quản lý của xã hội đòi hỏi phải có những quy định
điều chỉnh không gian TMĐT. Trên phạm vi quốc tế bản chất đó được thể
hiện ở các hoạt động xúc tiến các luật, các định chế TMĐT trên thế giới bởi
các nhóm lợi ích (quốc gia và tổ chức) khác nhau. Thực chất, đó là cuộc đấu
tranh giành quyền kiểm soát thương mại quốc tế trong tương lai.
1.2.1 Nước Mỹ
25
Mỹ là nước có nền tảng kỹ thuật số tiên tiến, trên thực tế đang nắm quyền
khống chế ba nhánh của hạ tầng công nghệ TMĐT: máy tính, truyền thông, và
bảo mật. Ngành công nghệ thông tin đang đóng vai trò là đầu tàu thúc đẩy
kinh tế Mỹ phát triển, đồng thời hiện nay Mỹ cũng chiếm gần 50% doanh thu
TMĐT toàn cầu (chủ yếu được tạo ra trong nội bộ nước Mỹ)xxxiii. Công ty
Land’End, một công ty bán lẻ sản phẩm nhiều nhất tại Mỹ, đạt 21% của 1.6 tỷ
USD doanh thu trong năm 2002 từ việc kinh doanh theo phương thức điện
tử.xxxiv
Trong bối cảnh đó, TMĐT có ý nghĩa sống còn với nước Mỹ. Là quốc gia
khởi xướng TMĐT, Mỹ đã chủ động đưa ra một hệ thống các nguyên tắc cơ
bản của TMĐT và ra sức cổ vũ cho việc thúc đẩy TMĐT trên bình diện toàn
cầu.
Năm 1997, chính phủ Mỹ đã công bố bản "Khuôn khổ cho TMĐT toàn cầu"
(Framework for Global Electronic Commerce), trong đó nêu ra 5 nguyên tắc
cơ bản phản ánh quan điểm của chính phủ Mỹ về TMĐT (thường được coi là
“thách thức của Mỹ”), mà tư tưởng chủ đạo là: tự do tuyệt đối (kể cả phi
thuế); chính phủ không can thiệp mà chỉ tạo điều kiện cho TMĐT; đề cao vai
trò tiên phong, chủ động của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển TMĐT
ở Mỹ. Quan điểm này phản ánh một thực tế: TMĐT ở Mỹ phát triển là do
nhận thức của khu vực kinh tế tư nhân về lợi ích của nó.
Nguồn: Kenneth L. Kraemer et al, "E-Commerce in the United States: Leader or one of the
pack?", University of California, 2001.
26
Song song với 5 nguyên tắc chỉ đạo, chính phủ Mỹ cũng khuyến nghị với thế
giới 3 nguyên tắc: (i) TMĐT trên Internet cần phải được tự do, phi quan thuế
(ii) Thế giới cần có một luật chung để điều tiết hình thức thương mại này, luật
ấy phải đơn giản, nhất quán và mang tính có thể tiên liệu được (predictability)
(iii) Sở hữu trí tuệ và bí mật riêng tư phải được tôn trọng và bảo vệ trong khi
tiến hành TMĐT.
Trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc và APEC, Mỹ hoạt
động rất tích cực để thúc đẩy, tuyên truyền TMĐT vì chính việc áp dụng
rộng rãi hình thức thương mại này sẽ đem lại lợi ích đa dạng thiết thân và
mang tính chiến lược cho Mỹ. Hiện nay Mỹ tiếp tục các nỗ lực đặt TMĐT
dưới sự điều tiết của WTOxxxv. Trong quan hệ thương mại song phương, Mỹ
đã thành công trong việc ký kết các Hiệp định thương mại tự do Mỹ-Jordani,
Mỹ-Singapore, trong đó bao gồm những điều khoản quy định rõ ràng về việc
duy trì một môi trường tự do và phi quan thuế cho các giao dịch TMĐT. Một
hiệp định tương tự cũng đang được thương thảo giữa Mỹ và Chilê.
1.2.2 Liên minh Châu Âu (EU: European Union)
EU là khu vực có nền công nghệ thông tin phát triển cao cả về phần mềm và
phần cứng. Hiện nay các tập đoàn điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông
của EU tăng cường liên kết với nhau và hợp tác với các tập đoàn Mỹ, Nhật
Bản để phối hợp hoạt động kinh doanh, lập nhóm “Sáng kiến công nghiệp
Châu Âu” (European Industrial Initiative) để phát triển công nghệ cao, đổi
mới cơ cấu tổ chức, tăng chủ động cho các chi nhánh, khuyến khích áp dụng
tiến bộ kỹ thuật và các tiêu chuẩn chung của EU vào sản xuất và thương mại.
Do đó EU có nền tảng vững chắc để phát triển và đi đầu trong TMĐT.
Năm 1994, Uỷ ban Châu Âu phát hành báo cáo nhan đề ”Châu Âu với xã hội
thông tin toàn cầu” (Europe and the Global Information Society). Tiếp đó,
năm 1997, Uỷ ban Châu Âu lại ấn hành tài liệu mang tính chính sách là
“Sáng kiến Châu Âu trong TMĐT" (A European Initiative in Electronic
Commerce) nhằm thúc đẩy sự phát triển của TMĐT ở Châu Âu. Tài liệu này
đưa ra một đề nghị về khuôn khổ phát triển TMĐT không chỉ trong nội bộ EU
mà còn cho cả thế giới. Bốn vấn đề cần thực hiện mà tài liệu này nêu ra là
27
Tạo khả năng tiếp cận công nghệ thông tin và TMĐT rộng rãi và rẻ tiền.
Tạo một khuôn khổ luật pháp thống nhất về TMĐT.
Nâng cao trình độ công nghệ và nhận thức của dân chúng về nền kinh tế
tri thức để tạo môi trường thuận lợi cho TMĐT phát triển.
Bảo đảm các khuôn khổ pháp lý về TMĐT ở EU tương thích với các
khuôn khổ pháp lý toàn cầu.
Năm 2001 EU đưa ra các nguyên tắc chỉ đạo về TMĐT của mình trong tài
liệu “Phương hướng của EU trong TMĐT” (EU’s Directive on Electronic
Commerce). Các đề xuất TMĐT của EU có các nguyên lý cơ bản và những
điểm khác biệt với Mỹ, nhất là trong lĩnh vực thuế quan, và mang tính khu
vực cao (sẽ thảo luận trong phần sau). EU đã xác định hướng ưu tiên hành
động trong triển khai TMĐT là đào tạo và phát huy nhân tố con người kết hợp
với yếu tố văn hoá Châu Âu. Điều này thể hiện ý đồ của EU mong muốn đuổi
kịp Mỹ và thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ về công nghệ thông tin nói chung và
ứng dụng TMĐT nói riêng.
1.2.3 Các tổ chức khu vực
APEC
Được thúc đẩy bởi hoạt động xúc tiến tích cực của Mỹ, tháng 2 năm 1998,
APEC đã thành lập lực lượng đặc nhiệm để lo các công việc về TMĐT.
Chương trình công tác được lực lượng đặc nhiệm này vạch ra và thực hiện
gồm hai bước
Giai đoạn 1: nâng cao nhận thức của các nước thành viên về TMĐT, tác
động của nó đến kinh tế và thương mại của từng nước.
Giai đoạn 2: tiếp tục trao đổi thông tin và thực hiện các công tác hướng
đến xây dựng các nguyên tắc chỉ đạo TMĐT của APEC ; thực hiện mô
hình chính phủ điện tử làm chất xúc tác cho TMĐT; phân tích các trở ngại
và các lĩnh vực có thể hợp tác; lập các phân diễn đàn (sub-forum) bảo trợ
cho các dự án thử nghiệm về TMĐT...
28
Tháng 11 năm 98, APEC công bố “Chương trình hành động APEC về
TMĐT" thừa nhận tiềm năng to lớn của TMĐT đồng thời nhìn nhận sự khác
nhau về trình độ phát triển của các nước thành viên. Bản chương trình hành
động này đề ra các nhiệm vụ hợp tác tổng quát để đạt mục tiêu tất cả các
thành viên sẽ ứng dụng TMĐT muộn nhất vào năm 2010. Nhìn chung tuyên
bố của APEC về TMĐT mang tính lạc quan và ít đề cập đến thách thức phát
triển của TMĐT.
ASEAN
Để đáp lại tuyên bố của tổng thống Mỹ B. Clinton về một khuôn khổ TMĐT
toàn cầu, các nước ASEAN mở Hội nghị bàn tròn về TMĐT năm 1997 với
nội dung xoay quanh việc hợp tác trong lĩnh vực này. Năm 1998 các nước
ASEAN đưa ra bản “Các nguyên tắc chỉ đạo TMĐT", bộc lộ các lo ngại về
trình độ phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém về công nghệ thông tin, pháp lý, tài
chính của mình trước xu thế phát triển của TMĐT trên thế giới. Nhìn chung,
cách tiếp cận của ASEAN đối với TMĐT là khá thận trọng. Các nước này bắt
đầu bằng việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về TMĐT rồi mới đến
khảo sát các điều kiện chấp nhận TMĐT và giúp đỡ nhau qua chuyển giao
công nghệ và hợp tác kỹ thuật. Năm 2000, các nước ASEAN đã ký Hiệp định
E-ASEAN nhằm phát triển TMĐT trong các nước thành viên.
1.2.4 Các tổ chức quốc tế
Nhiều tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc và các tổ chức liên chính phủ cũng như
phi chính phủ đang thực hiện những chương trình tiếp cận, đánh giá các điều
kiện cần thiết để phát triển TMĐT toàn cầu, tuỳ theo chuyên môn và mục đích
mà mỗi tổ chức đó tập trung. Có thể liệt kê một số tổ chức và các vấn đề về
TMĐT mà họ đang tiếp cận như sau:
UNCTAD các biện pháp thúc đẩy TMĐT và các vấn đề về phát
triển.
(Chương trình Trade Point)
ITC phát triển TMĐT trong SMEs và khu vực tư nhân.
29
WIPO tên miền (domain name) và các vấn đề liên quan đến bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ.
ITU các vấn đề về hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin cho
TMĐT.
WTO các nguyên tắc thương mại và đàm phán thương mại
trong TMĐT.
UN/ECE các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho TMĐT.
UNCITRAL khuôn khổ pháp lý cho TMĐT (đã ban hành “Đạo luật
mẫu về TMĐT”).
UNDP TMĐT và các vấn đề phát triển.
World Bank khía cạnh tài chính và cơ sở dữ liệu trong TMĐT.
OECD tiềm năng và cơ hội phát triển TMĐT ở các nước công
nghiệp phát triển và các nước đang phát triển.
Khía cạnh thương mại quốc tế trong TMĐT - vấn đề mà khóa luận đề cập đến
- thuộc phạm vi tiếp cận của WTO. Phần tiếp theo sẽ phân tích các vấn đề
phải giải quyết khi đặt TMĐT dưới sự điều tiết của WTO.
2. Thương mại điện tử trong khuôn khổ WTO
2.1 Vai trò của WTO trong TMĐT toàn cầu và các "diễn viên" chính
Không phải ngẫu nhiên mà bài khóa luận chọn TMĐT trong WTO làm đối
tượng phân tích. Như đã đề cập, số lượng các tổ chức có liên quan đến TMĐT
là khá phong phú và những vấn đề TMĐT đặt ra rất đa dạng. Song xét cho
cùng, cái được chờ đợi nhiều nhất ở TMĐT là một phương thức mới trong
thương mại quốc tế. Hiện tại, 80% khối lượng chu chuyển thương mại quốc tế
đặt dưới sự điều tiết của WTO; tổ chức này hiện có 146 thành viên và là tổ
chức quốc tế lớn nhất điều chỉnh quan hệ kinh tế - thương mại giữa các nước
(hiện đang có hơn 20 nước đệ đơn xin gia nhập tổ chức này, trong đó có Việt
Nam).xxxvi Theo một lôgic hợp lý, TMĐT dẫn đến những mô thức mới trong
quan hệ kinh tế quốc tế, những mô thức đó tất nhiên phải được định hình
30
trong WTO. Do đó, WTO sẽ là nơi diễn ra chủ yếu sự “cọ xát” các quan điểm
về TMĐT để hình thành nên hệ thống TMĐT toàn cầu.
Các quốc gia ngồi vào bàn đàm phán tại WTO để xác định lợi ích của mình
tuỳ theo thực lực sẵn có. Với chính sách đi đầu trong TMĐT toàn cầu, sự
vượt trội về tiềm lực kinh tế và công nghệ thông tin cũng như vị trí thống trị
trong thương mại quốc tế, Mỹ và các nước EU là những nước được chuẩn bị
tốt nhất cho TMĐT tại diễn đàn này. Nhật Bản tuy có trình độ phát triển
ngang bằng với Mỹ và EU nhưng lại chú trọng nhiều hơn đến phát triển
TMĐT trong nước. Trung Quốc và Ấn Độ có tiềm năng rất lớn về TMĐT
nhưng chưa được chuẩn bị đầy đủ. Ngoại trừ Singapore, các nước còn lại hầu
như chỉ mới ở những bước đầu tiên trong phát triển TMĐT. Qua đó, có thể
thấy một khuôn khổ WTO về TMĐT sẽ là kết quả của cuộc chạy đua giữa hai
trung tâm Mỹ và EU (Vị trí của các nước đang phát triển sẽ được thảo luận
trong chương III).
2.2 Quá trình đưa TMĐT vào chương trình nghị sự của WTO
Vào thời điểm vòng đàm phán Urugoay, chủ đề TMĐT còn quá mới nên chưa
được đưa vào chương trình đàm phán thương mại đa phương. Vấn đề liên
quan trực tiếp đến TMĐT xuất hiện trong cuộc họp WTO đầu tiên được tổ
chức ở Singapore năm 1996. Tại cuộc họp này, các nước tham gia đã thông
qua Tuyên bố chung cấp bộ trưởng về thương mại trong lĩnh vực công nghệ
thông tin (Ministerial Declaration on Trade in Information Technology), còn
gọi là Hiệp định công nghệ thông tin (ITA: Information Technology
Agreement). Hiệp định này quy định việc tự do hóa thương mại quốc tế đối
với một số các sản phẩm thiết yếu đối với việc phát triển hạ tầng cơ sở công
nghệ thông tin, kể cả Internet, bắt đầu từ năm 2000. Năm 1997, 69 nước ký
Hiệp định viễn thông cơ bản (Basic Telecommunication Agreement) cam kết
mở cửa thị trường cho các dịch vụ viễn thông Đến thời điểm năm 2000, đã có
50 nước thành viên WTO tham gia ký kết hiệp định ITA, đưa khối lượng
thương mại chịu sự điều tiết của Hiệp định này lên đến 600 tỷ USD.xxxvii
TMĐT chính thức trở thành một lĩnh vực được thảo luận trong WTO vào năm
1998, sau khi nước Mỹ đệ trình kiến nghị giữ nguyên thực tế không đánh thuế
31
các giao dịch qua Internet (WTO Moratorium) trong cuộc họp bộ trưởng
WTO lần thứ 2 ở Geneva. Đề xuất này được cụ thể hóa bằng Tuyên bố về
TMĐT toàn cầu (Declaration on Global Electronic Commerce) sau hội nghị.
Tuyên bố này có 2 điểm chính. Một là, không áp đặt thuế quan đối với các
giao dịch TMĐT. Hai là, Đại hội đồng (General Council) sẽ thiết lập một
chương trình tổng thể về TMĐT nhằm thảo luận các vấn đề đặt ra trong việc
thiết lập một khuôn khổ TMĐT toàn cầu dưới sự điều tiết của WTO. Bốn cơ
quan chính của WTO phụ trách chương trình là (i) Hội đồng thương mại hàng
hóa ( the Council for Trade in Goods), (ii) Hội đồng thương mại dịch vụ (the
Council for Trade in Services), (iii) Hội đồng về các khía cạnh của Quyền sở
hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (the Council for Trade-related
Aspects of Intellectual Property Rights) và (iv) Uỷ ban Thương mại và phát
triển (the Committee on Trade and Development). Những vấn đề đã được
thảo luận gồm việc phân loại các sản phẩm kỹ thuật số (digital products), việc
áp dụng các hiệp định hiện có của WTO để điều chỉnh TMĐT và các vấn đề
khác có liên quan đến thương mại và TMĐT.xxxviii Các cơ quan này định kỳ
nộp báo cáo lên Đại hội đồng về tiến độ thực hiện chương trình và đề xuất các
kiến nghị.
Những thất bại tại kỳ họp lần thứ 3 của WTO tại Seatle (1999) đã làm gián
đoạn các cuộc thảo luận. Tuy nhiên, trong bản thảo tuyên bố của hội nghị lần
này, cũng có một đoạn nói về TMĐT, mặc dù không được sự nhất trí của tất
cả các thành viên. Bản thảo này tuyên bố các dịch vụ thực hiện qua TMĐT
nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp định GATS, đồng thời kéo dài WTO
Moratorium đến kỳ họp sau.
Trong kỳ họp lần thứ tư tại Doha (2001), khoản 34 Tuyên bố cấp bộ trưởng
WTO khẳng định tiếp tục chương trình tổng thể về TMĐT trước đó và gia hạn
WTO Moratorium đến kỳ sau. Các kết quả của vòng đàm phán này (dự định
kéo dài đến 2005), đặc biệt là thuế quan trong thương mại dịch vụ, sẽ có ảnh
hưởng trực tiếp đến TMĐT quốc tế cho dù đến nay vẫn chưa có hiệp định nào
về TMĐT được chính thức ký kết.
2.3 Các vấn đề đặt raxxxix
32
Trên hết, xác định các “sản phẩm”xl được giao dịch trong TMĐT là vấn đề
trung tâm cần được giải quyết trước hết trong mọi cuộc bàn cãi về TMĐT.
Xét từ khía cạnh pháp lý, việc áp dụng văn bản pháp luật nào điều chỉnh
TMĐT phụ thuộc trực tiếp vào cách TMĐT được định nghĩa. Song do tính
phức tạp của giao dịch TMĐT (sẽ được thảo luận trong phần sau), Đại hội
đồng WTO đã cho ra một định nghĩa trung tính nhất vê TMĐT để có cơ sở
thực hiện chương trình nghiên cứu tổng thể về TMĐT. Định nghĩa đó như
sau: ”TMĐT được hiểu là việc sản xuất (production), phân phối
(distribution), marketing, bán (sale) hoặc chuyển giao (delivery) hàng hóa
và dịch vụ bằng phương tiện điện tử”.
Bảng 2 tóm tắt một số quan điểm chính về TMĐT được các nước đưa ra trong
các cuộc thảo luận tại WTO.
Bảng 2 Một các quan điểm chủ yếu về TMĐT trong WTO
Quốc gia/ lãnh thổ Lập trường về TMĐT
Mỹ
(a) Xếp TMĐT vào “Hàng hóa” chịu sự điều chỉnh của GATT là có lợi nhất
vì như vậy TMĐT sẽ được hưởng một quy chế thương mại mang tính tự
do hoá hơn.. Tuy nhiên, WTO Moratorium nên được tiếp tục duy trì.
(b) Xem xét các phương thức giao hàng (modes of delivery) được quy định
trong GATS và đánh giá ảnh hưởng của các dịch vụ số hoá (digitised
services) đối với các phương thức này.
(c) Đánh giá lại các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ quy định trong
GATS để tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch TMĐT quốc tế.
(d) Thực hiện các cam kết mới quy định vấn đề chuyển giao dịch vụ qua
phương tiện TMĐT nhất quán với nguyên tắc dung hoà về mặt kỹ thuật
(Technical Neutrality)xli
EU
(a) Xếp TMĐT vào “Dịch vụ” và vì vậy áp dụng GATS
(b) WTO Moratorium nên được tiếp tục duy trì
Singapore và
Indonesia
(a) Giao dịch TMĐT có thể được xếp vào “Dịchvụ” hay các quyền sở hữu
trí tuệ vô hình
(b) Các cam kết hiện tại vể thương mại dịch vụ nên được xem xét lại trong
trường hợp dịch vụ TMĐT.(e-service)
(c) WTO Moratorium nên được tiếp tục duy trì. Hàng rào thuế quan đối với
hàng hóa hữu hình nên được hạ thấp.
33
Nhật Bản
(a) GATS nên được áp dụng trong trường hợp giao gửi số hoá dung liệu
bằng phương tiện điện tử (supplying digital contents by electronic
means)
(b) Tuy nhiên, việc áp dụng khuôn khổ nào đối với bản thân dung liệu vẫn
chưa rõ ràng và cần có xem xét áp dụng các nguyên tắc của GATT
(c) WTO Moratorium nên được tiếp tục duy trì.
2.3.1 GATT hay GATS
Phân biệt giữa hàng hóa và dịch vụ
Các hiệp định của WTO phân biệt hàng hoá và dịch vụ dựa trên những trường
hợp cụ thể nhưng về cơ bản, thương mại hàng hoá được điều chỉnh bởi GATT
và thương mại dịch vụ đặt dưới sự điều chỉnh của GATS.
Một giao dịch TMĐT có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức: chuyển
đơn đặt hàng về hàng hoá qua phương tiện TMĐT, trả tiền theo phương thức
thanh toán điện tử và nhận hàng theo phương thức chuyển giao hữu hình (như
thương mại truyền thống); các dịch vụ và dung liệu (digitalised content) được
đặt hàng và chuyển giao hoàn toàn qua TMĐT, đồng thời lại có hình thức hữu
hình tương đương (ví dụ như nội dung các bản nhạc, phần mềm, sách... có thể
tải từ mạng xuống nhưng cũng có thể mua được từ các hiệu sách hay các
kiosque CDs. Điều này đặt ra một câu hỏi: liệu các hiệp định thương mại
hiện có của WTO có thể áp dụng cho các giao dịch TMĐT hay không, và
áp dụng như thế nào.
GATS có thể được áp dụng đối với các giao dịch dịch vụ được thực hiện hoàn
toàn qua TMĐT vì các cam kết trong hiệp định này không phân biệt tính kỹ
thuật (technical neutral) trong phương thức chuyển giao. Trong trường hợp
còn lại, việc xếp các giao dịch dung liệu có hình thức hữu hình tương đương
vào hàng hoá hay dịch vụ là một vấn đề không đơn giản. Lấy ví dụ trong
trường hợp một bản nhạc được tải từ mạng xuống, GATS áp dụng đối với hầu
hết các yếu tố của giao dịch đó, bao gồm dịch vụ viễn thông phục vụ cho việc
chuyển tải bản nhạc (dịch vụ Internet), dịch vụ thanh toán điện tử phục vụ cho
việc trả tiền mua bản nhạc, dịch vụ quảng cáo bản nhạc đó trên mạng...
Nhưng bản thân bản nhạc lại có thể là hàng hóa vì một đĩa CD có chứa bản
nhạc đó là hàng hoá và GATT có thể được áp dụng.
34
Thuế quan và bảo hộ thị trường trong TMĐT.
Mặc dù cả GATT và GATS đều có thể được áp dụng, khía cạnh quan trọng
hơn trong việc phân loại TMĐT là nhìn nhận những sự khác nhau trong mức
độ cam kết và các nguyên tắc mà theo đó hai hiệp định này được xây dựng.
Sự khác nhau đó kéo theo hàng loạt các vấn đề về quy chế đãi ngộ, mức độ tự
do hoá trong thương mại.. và nhất là trong lĩnh vực thuế quan. Ở đó, quyền lợi
và lập trường của các nước tham gia đàm phán có nhiều mâu thuẫn nhau.
Bảng 3 Những khác nhau cơ bản giữa GATT và GATS
GATT GATS
Quy chế không phân biệt đối
xử (MFN và đãi ngộ quốc gia)
Nghĩa vụ bắt buộc chung Các cam kết riêng biệt
Các biện pháp hạn chế số
lượng (quota)
Cấm toàn bộ Cho phép trong những
trường hợp cần thiết phải
bảo hộ
Thuế quan nhập khẩu Thấp, cho phép trong đối
với các mặt hàng mà các
thành viên chưa hạ mức
thuế xuống 0%
Ít đề cập
Hiện tại GATT có tầm bao phủ rộng hơn vì các thành viên tham gia WTO đều
phải ký kết hiệp định này khi gia nhập, còn các cam kết cụ thể đạt được trong
GATS chỉ mới được hơn 50% các quốc gia thành viên tham gia ký kết xlii.
Hơn nữa, các quy định của GATT mang tính bắt buộc chung hướng đến tự do
hóa thương mại nhiều hơn do loại bỏ các biện pháp hạn chế số lượng và hạ
thấp thuế quan, trong khi đó GATS cho phép sử dụng quota và ít đề cập đến
vấn đề thuế. Do đó, việc đặt TMĐT dưới sự điều tiết của GATT đưa lại mức
độ tự do hóa nhiều hơn cho các giao dịch TMĐT quốc tế so với việc áp dụng
GATS. Từ đó, có thể hiểu được Mỹ chọn GATT là vì Mỹ muốn đẩy mạnh tự
do hoá TMĐT quốc tế để tận dụng thế mạnh của mình về khả năng xuất khẩu
ròng trong TMĐT hiện nay (xem phần 1.2.1.), chính sách thương mại rõ
35
ràng của Mỹ là mở rộng cơ hội cho hàng hoá, dịch vụ và các quyền sở hữu
trí tuệ từ Mỹ bằng cách loại bỏ mọi rào cản đối với TMĐT.xliii EU chọn
GATS vì muốn có những bước đi thận trọng hơn. EU chiếm hơn 45% doanh
số thương mại các sản phẩm truyền thông (media products, là các sản phẩm
có thể số hóa và buôn bán trong giao dịch TMĐT dưới hình thức giao gửi số
hoá dung liệu) trên thế giới, hầu hết trong số đó được buôn bán trong nội bộ
EU, với sắc thuế đánh vào các sản phẩm nhập khẩu từ bên ngoài là 3.1% (ở
Mỹ là 0%)xliv; đồng thời EU cũng nhập khẩu dịch vụ của Mỹ nhiều nhất.xlv
Chính vì vậy việc áp dụng GATT sẽ buộc EU phải cạnh tranh với các sản
phẩm truyền thông từ Mỹ trên chính thị trường của mình, đồng thời mất đi
nguồn thu thuế quan từ các mặt hàng này và các dịch vụ nhập khẩu từ Mỹ.
Trong tình hình hiện tại khi TMĐT chưa thật sự chiếm tỷ trọng lớn trong
TMĐT, đồng thời các điều kiện kỹ thuật cũng như các cuộc thảo luận đều
chưa đi đến kết luận cuối cùng, hầu hết các nước đều tạm thời ủng hộ đề nghị
kéo dài WTO Moratorium của Mỹ. Theo tính toán của UNCTAD,xlvi việc
không áp đặt thuế quan cho TMĐT gây thất thoát khoảng 1% trong tổng
doanh thu từ thuế quan của cả thế giới. Mặc dù vậy, tỷ lệ này sẽ cao hơn trong
tương lai và vì vậy lập trường của các nước có thể sẽ thay đổi.
2.3.2 Đánh thuế giao dịch TMĐT (thuế nội địa)
TMĐT tạo nên các hình thức hàng hoá và dịch vụ mới, xuất phát từ khả năng
chuyển giao bằng đường điện tử (như đã đề cập). Hình thức thuế nào được áp
dụng và áp dụng như thế nào trong trường hợp này là vấn đề còn chưa rõ ràng
và gây nhiều tranh cãi. Trên thực tế, có những khó khăn trong việc đánh
thuế giao dịch TMĐT
Bản chất phi biên giới của TMĐT khiến cho các cố gắng xác định nơi
diễn ra việc mua bán, chuỗi giá trị gia tăng và nơi thu nhập được thực hiện
trở nên vô ích trong điều kiện công nghệ hiện tại. Trong khi đó điều này
không được tính đến trong các hiệp định song phương về đánh thuế nhiều
năm trước đây.Vì vậy, việc quyết định mức lợi nhuận nào bị đánh thuế và
nước nào được đánh thuế theo quy định của các hiệp định này là chuyện
hết sức nan giải.
36
Thực tế người sử dụng Internet có thể tiếp cận được với sách báo, âm
nhạc phần mềm, phim ảnh... trực tuyến từ bất cứ nơi nào trên thế giới đã
dẫn đến những bất đồng khi lựa chọn luật thuế của quốc gia nào được áp
dụng. Nếu thuế được áp dụng dựa trên nơi tiêu thụ, các doanh nghiệp sẽ
gặp nhiều khó khăn trong việc xác định địa chỉ của người tiêu dùng và
thích ứng với các quy chế quản lý về thuế khác nhau giữa các quốc gia.
Các quan chức Mỹ và EU cho rằng chính sách thuế đối với TMĐT sẽ có tác
động lớn đến luồng thương mại và doanh thu từ hoạt động này trong tương
lai.xlvii Vì thế họ chấp nhận 6 nguyên tắc chính khi tiếp cận vấn đề là: (i) Áp
dụng các hiệp định về thuế đã có đến mức có thể (ii) Không phân biệt về thuế
khi một sản phẩm có thể đồng thời được giao dịch trong cả TMĐT và phương
thức thương mại truyền thống (iii) Giảm thiểu chi phí thích nghi (compliance
cost) (iv) Ra luật thuế minh bạch và đơn giản (v) Ủng hộ việc đánh thuế hiệu
quả và công bằng (vi) Thiết lập các hệ thống thuế có thể thích nghi được với
các tiến bộ khoa học kỹ thuật.xlviii
Mặc dù vậy, giữa Mỹ và EU vẫn có bất đồng trong nhiều trường hợp. Ví dụ
như năm 2000, EU đề nghị rằng các công ty bán các sản phẩm số (digital
product) cho người tiêu dùng trên lãnh thổ EU phải nộp thuế giá trị gia tăng
(VAT: Value Added Tax), như vậy các công ty Mỹ phải đăng ký và gởi
chứng từ giá trị gia tăng cho các chính phủ ở EU khi muốn bán hàng cho
người tiêu dùng EU. Hiện tại, các công ty kinh doanh trên lãnh thổ EU phải
nộp thuế VAT còn các công ty Mỹ thì không. EU cho rằng điều đó đem lại sự
cạnh tranh không bình đẳng. Ngược lại, chính phủ Mỹ viện dẫn các khó khăn
(đã đề cập ở trên) và cho rằng điều đó sẽ buộc các công ty Mỹ phải gánh thêm
chi phí thích nghi. Họ kết luận đề nghị đó là một sự phân biệt đối xử đối với
các công ty Mỹ.
Xem xét ở tầm rộng hơn, có thể thấy lập trường của các bên xuất phát từ
việc muốn duy trì và áp dụng các hệ thống thuế của mình cho TMĐT quốc
tế. Thống kê trong IMF Government Finance Statistics Yearbook 2002xlix cho
thấy 30% thu nhập chính phủ ở các nước EU là từ thuế VAT đánh trên hàng
hóa và dịch vụ nội địa. Thêm vào đó, thuế VAT đánh trên các chi phí tính
37
thêm (VAT on extra charges) đóng góp đến 45% ngân sách Cộng đồng Châu
Âu. Trong khi đó hàng hoá và dịch vụ từ bên ngoài vào EU lại không phải
chịu thuế VAT, do vậy có nhiều khả năng đem lại động cơ cho các nhà đầu tư
chuyển nguồn nhân lực ra bên ngoài, điều mà chính phủ các nước EU không
hề mong muốn. Vì lẽ đó, chính sách của EU là tiếp tục duy trì nguồn đóng
góp của hệ thống thuế VAT dựa trên nơi tiêu thụ và áp dụng nó trong TMĐT
quốc tế. Ngược lại, phần đóng góp của thuế nội địa đánh trên hàng hoá và
dịch vụ trong ngân sách của chính phủ Mỹ không lớn (3.6%). Ngân sách liên
bang phần lớn dựa rên thuế công ty và thuế thu nhập cá nhân. Thêm vào đó,
Mỹ là nước chủ yếu xuất siêu trong TMĐT. Do đó Mỹ có lợi ích lớn trong
việc ủng hộ không đánh thuế giao dịch TMĐT và khuyến khích giới kinh
doanh đầu tư vào Mỹ, nộp thuế trực tiếp cho chính quyền Mỹ.
2.3.3 Mở cửa thị trường công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin là cơ sở hạ tầng trực tiếp của TMĐT. Vì thế, một môi
trường thương mại quốc tế tự do cho các sản phẩm và dịch vụ công nghệ
thông tin sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho TMĐT phát triển. Tuy nhiên, trong thị
trường thương mại công nghệ thông tin quốc tế thường tồn tại các rào cản
dưới hình thức độc quyền nhà nước. Các quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển có xu hướng bảo hộ ngành công nghệ thông tin trong nước vì hai lý do:
đảm bảo an ninh quốc gia và tránh lệ thuộc vào công nghệ của nước ngoài.
Ngược lại, các nước công nghiệp phát triển thường thúc đẩy quá trình tự do
hoá thương mại trong lĩnh vực này để thực hiện chính sách bành trướng ngành
công nghệ thông tin, vốn đã và đang đóng vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế của các nước này. Mục tiêu của WTO là đảm bảo các điều kiện thuận
lợi để TMĐT phát triển nhanh chóng. Do đó, các cuộc đàm phán sẽ hướng
đến việc dỡ bỏ các rào cản thương mại quốc tế đối với các sản phẩm và dịch
vụ công nghệ thông tin. Hiệp định ITA được đưa vào GATT và Hiệp định
Viễn thông cơ bản được đưa vào GATS được đánh giá là một thành công
của Mỹ và EU trong việc "xuất khẩu" các quy chế thương mại của mình
sang các nước khácl. Hiện tại, các nước công nghiệp phát triển đang tiếp tục
đàm phán để mở rộng danh mục sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin
được hưởng quy chế thương mại tự do trong hai hiệp định này, đồng thời gây
38
sức ép buộc các nước đang phát triển loại bỏ độc quyền nhà nước và mở cửa
thị trường công nghệ thông tin cho các công ty nước ngoài tham gia cạnh
tranh.
2.3.4 Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (IPRs)
Phần lớn các giao dịch thương mại TMĐT hiện nay có nội dung liên quan đến
việc mua bán hoặc cho thuê các thông tin, vật phẩm văn hoá hoặc công nghệ
được bảo vệ dưới hình thức quyền sở hữu trí tuệ. Các nước công nghiệp phát
triển, hiện sở hữu hơn 90% các bằng sáng chế và bản quyềnli, xem việc xây
dựng một thể chế bảo vệ và thực thi có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ là điều
tối quan trọng vì nó đảm bảo lợi ích kinh tế và lợi thế về tri thức và công nghệ
của họ so với các nước đang phát triển. Trên thực tế, các lập luận thường
được đưa ra là: (i) Quyền sở hữu trí tuệ bảo vệ thành quả từ việc đầu tư phát
triển các công nghệ trong thông tin và truyền thông, vì vậy tạo động lực thúc
đẩy sự phát triển của công nghệ mới (ii) Một hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ tốt sẽ tạo môi trường an toàn và hiệu quả trong chuyển giao thông tin và
công nghệ quốc tế qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, hợp tác liên doanh và cho
thuê bằng phát minh sáng chế, tri thức và công nghệ mới sẽ có điều kiện phổ
biến nhanh hơn (mặc dù vậy có ít bằng chứng cho thấy điều nàylii).
Hiện tại quyền sở hữu trí tuệ nói chung được điều chỉnh bởi các công ước
trong Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO: World Intellectual Property
Organization), trong WTO cũng có hiệp đinh TRIPS (Trade-Related Aspects
of Intellectual Property Rights) điều chỉnh các hoạt động thương mại có liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, TMĐT đặt ra hai thách thức khi áp
dụng các hiệp định này. Thứ nhất, trong khi quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ
dựa trên lãnh thổ địa lý đã được đăng ký, môi trường TMĐT lại không có
biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ăn cắp bản quyền hoặc sao chép các
sản phẩm số. Thứ hai, mâu thuẫn có thể phát sinh khi tên miền Internet được
do một người sở hữu giống với tên thương mại đã được một người khác đăng
ký bảo hộ.
Trong khi các nước đang phát triển chưa có một lập trường rõ ràng nào về tác
động của quyền sở hữu trí tuệ đối với quá trình phát triển kinh tế của mình,
39
các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là Mỹ đã xúc tiến và vận động thiết
lập một cơ chế WTO bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT. Một cơ chế
được nước này ủng hộ là áp dụng Hiệp định bản quyền của WIPO (WCT:
WIPO Copyright Treaty) cho các giao dịch TMĐT có liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ. Hiệp định này bao gồm cả TRIPS và công ước Berne, đồng thời
có thêm những biện pháp mới được quy định thống nhất và cụ thể nhằm ngăn
chặn nạn ăn cắp bản quyền các sản phẩm số hoá trong môi trường TMĐT.
Thứ nhất, WCT bảo vệ “quyền công bố” sản phẩm (right of making available)
đã đăng ký bản quyền chống lại việc đưa sản phẩm lên Internet và tải sản
phẩm xuống mà không được phép của người sở hữu bản quyền. Thứ hai,
WCT quy định việc bảo vệ các “biện pháp kỹ thuật công nghệ” (technological
measures) chống lại việc ăn cắp mật mã bảo vệ. Thứ ba, hiệp định này cũng
ngăn cấm thay thế, sửa đổi các “thông tin quản lý quyền” (rights management
information), nghĩa là các thông tin, chữ số hoặc các bộ mã cho phép xác định
tác giả, tên sản phẩm số, người sở hữu bản quyền, hoặc các quy định sử dụng.
Tuy nhiên, đến nay chỉ mới có 26 nước chấp nhận tham gia hiệp định này
(cần phải có 30 nước phê chuẩn thì 3hiệp định WCT mới có hiệu lực)liii.
Nguyên nhân là vẫn còn một số bất đồng liên quan đến việc xây dựng các quy
định cụ thể được áp dụng thống nhất cho tất cả các nước, xuất phát ý chí của
các nước muốn áp dụng thực tế bảo vệ bản quyền của mình cho hiệp định
này.
Trong lĩnh vực tên miền và tên thương mại, tranh chấp giữa chủ sở hữu tên
miền và chủ sở hữu tên thương mại được đặt dưới cơ chế giải quyết tranh
chấp của tổ chức ICANN (Internet Corporation for Assigned Names and
Number). Mỹ là nước sở hữu nhiều tên thương mại nổi tiếng nhất, cùng
WIPO vận động đưa ra các quy định xử lý tranh chấp có lợi cho các chủ sở
hữu tên thương mại nổi tiếng hơn. Thực tế cho thấy cơ chế xử lý tranh chấp
của ICANN ngầm ủng hộ quan điểm này: trong 75% trong số 327 trường hợp
tranh chấp, các công ty lớn thường là người thắng kiện.liv Mặc dù cách thức
giải quyết này giúp ngăn chặn nạn “lạm dụng việc đăng ký tên miền” (cyber-
squatting)lv hệ quả đưa lại có thể là sự cạnh tranh không bình đẳng trong
thương mại quốc tế vì các công ty lớn có thể lợi dụng vấn đề này để gây khó
40
khăn cho các công ty nhỏ hơn. McDonald’s, tập đoàn cung cấp thức ăn nhanh
lớn nhất thế giới, đã thắng trong vụ theo kiện một số công ty nhỏ như
McWellness (công ty Thụy Sĩ kinh doanh trong lĩnhvực y tế), McAllen (cửa
hàng xúc xích ở Đan Mạch) và McCaughey (cửa hàng cà phê ở California)
với lý do tên miền đăng ký của các công ty này giống với tên miền của
McDonald’s và làm ảnh hưởng đến danh tiếng của McDonald’s. Trên thực tế,
các công ty nhỏ trên đều ít nhiều có cạnh tranh với McDonald’s trong một số
lĩnh vực liên quan.lvi
Bảo hộ “Bằng sáng chế các phương pháp kinh doanh” (Business method
patent) (hầu hết liên quan đến việc tổ chức các hoạt động kinh doanh TMĐT
trên Internet) chỉ được áp dụng duy nhất ở Mỹ. Luật ở Mỹ quy định nếu một
phương pháp kinh doanh được đăng ký bảo hộ, một công ty áp dụng phương
pháp kinh doanh đó mà không có sự cho phép của người sở hữu bằng sáng
chế là bất hợp pháp. Với TMĐT, việc phổ biến các phương pháp kinh doanh
sẽ nhanh hơn thông thường. Vì vậy Mỹ đang cố gắng áp đặt hình thức này
trong TMĐT quốc tế. Tuy nhiên các nước khác đều ý thức được rằng nếu điều
khoản này này được áp dụng, sẽ chỉ nước Mỹ có lợi vì các nước khác sẽ bị
hạn chế trong việc phát triển, ứng dụng các phương pháp kinh doanh tiên tiến
và phải áp dụng khuôn khổ luật pháp của Mỹ cho nước mình. Do đó, một đề
nghị như vậy có ít khả năng được chấp nhận rộng rãi trong tương lai gần.
3. Nhận xét chung
Tình hình thế giới, các khu vực và các nước cho thấy khối lượng TMĐT đang
tăng nhanh trên thế giới nhưng tập trung chủ yếu vào một số nước tiên tiến, và
chủ yếu là trong nội địa nước Mỹ. TMĐT đang được quan tâm trong từng
nước, từng khối kinh tế và cả thế giới, nhưng mối quan tâm xuất phát chủ yếu
là từ phía các nước đã có hạ tầng cơ sở vững chắc về công nghệ thông tin và
đã vó thực tiễn giao dịch điện tử, còn các nước khác bị cuốn hút theo và bị
buộc phải tiếp cận, do đó nhiều nước đang phát triển tỏ ra dè dặt.
TMĐT là chủ đề được thảo luận rộng rãi trong các diễn đàn về chính sách
thương mại quốc tế. Nước Mỹ khởi đầu cho những nỗ lực đưa chủ đề này vào
các bàn đàm phán thương mại đa phương và TMĐT đã được chấp nhận như
41
một phần trong chương trình nghị sự của WTO. Mặc dù hiện tại các nước
thành viên WTO vẫn chưa đạt được một thoả thuận thống nhất nào về TMĐT,
các cam kết về TMĐT thời gian tới sẽ được xây dựng trên cơ sở những kiến
nghị được đưa ra trong quá trình thảo luận hiện nay, và có nhiều khả năng trở
thành một phần của Hiệp định WTO trong tương lai. Vì thế việc tham gia xây
dựng một khuôn khổ WTO cho TMĐT có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả
các nước là thành viên của WTO và cả các nước muốn gia nhập tổ chức này.
Nhìn chung, tư tưởng thống nhất trong các cuộc đàm phán là cần tạo ra một
môi trường quốc tế thuận lợi nhất để thúc đẩy TMĐT phát triển nhanh chóng.
Những nguyên tắc của tổ chức WTO: không phân biệt đối xử, minh bạch, và
tự do hoá thị trường được quy định trong các hiệp định GATT và GATS là
phù hợp với yêu cầu phát triển của TMĐT toàn cầu. Tuy nhiên, do TMĐT
làm mờ đi ranh giới giữa hàng hoá và dịch vụ, một tiêu chí thống nhất chỉ đạo
việc áp dụng hiệp định nào và như thế nào là cần thiết. Quan trọng hơn, phạm
vi và các mức độ cam kết khác nhau trong các hiệp định này có tác động trực
tiếp đến sự phổ biến TMĐT và lợi ích của các nước trong thương mại quốc tế.
Vì thế cách tiếp cận của các nước tham gia nhiều khi mâu thuẫn nhau. Với ý
đồ vượt lên đi trước trong TMĐT, các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là
Mỹ và EU đang cố gắng áp đặt những tiêu chuẩn của mình trong quá trình
xây dựng một khuôn khổ WTO cho TMĐT. Ngược lại, có rất ít đề nghị đến từ
các nước đang phát triển. Lý do chính là TMĐT còn khá xa vời đối với các
nước này.
Nhiều khả năng các nước phương Bắc vẫn sẽ chi phối thương mại quốc tế
trong tương lai vì hiện nay họ đang chiếm ưu thế trong quá trình hoạch định
chính sách TMĐT toàn cầu. Tuy nhiên, nhìn từ quan điểm phát triển, TMĐT
với tư cách là một lực lượng mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã
hội cần đem lại cơ hội đồng đều cho tất cả các nước. Chính vì vậy, ngày càng
có nhiều tiếng nói từ các tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ và từ chính
ngay trong các nước phát triển kêu gọi sự nỗ lực của các nước đang phát triển
và sự
42
hỗ trợ từ bên ngoài giúp đỡ các nước này bắt kịp với xu thế toàn cầu hoá nói
chung và TMĐT trên thế giới nói riêng để hướng tới một trật tự kinh tế quốc
tế công bằng hơn.
CHƯƠNG III THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TOÀN CẦU VÀ CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1. Lợi ích tiềm năng của TMĐT ở các nước đang phát triển
Sự phát triển công nghệ thông tin ngày nay tạo nên khoảng cách khá lớn giữa
các nước phát triển và các nước đang phát triển. Tuy vậy, số người dùng
Internet ở các nước đang phát triển tăng lên với tốc độ nhanh chóng trong
43
mấy năm gần đây. Điều đó nói lên rằng các nước này có thể bỏ qua một số
giai đoạn, “đi tắt, đón đầu” và ứng dụng công nghệ mới nhất dựa trên thành
tựu khoa học công nghệ mà các nước phát triển đem lại. Việc ứng dụng
TMĐT ở các nước đang phát triển nhờ vậy sẽ tốn phí ít thời gian và chi phí
đầu tư hơn. Ngược lại, một khi việc ứng dụng TMĐT sẽ là một động lực thúc
đẩy các nước đang phát triển tiếp cận công nghệ tiên tiến, thực hiện bước
nhảy vọt thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển với các nước công nghiệp
tiên tiến.
Tuy vậy, việc thực hiện bước nhảy vọt đó đòi hỏi chính phủ các nước đang
phát triển phải có chiến lược tăng cường năng lực nghiên cứu và ứng dụng
khoa học của nguồn nhân lực trong nước, đồng thời dỡ bỏ rào cản độc quyền
nhà nước làm trở ngại đến sức phát triển của ngành công nghệ thông tin để
tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả, cung cấp cơ sở vững chắc cho
Internet và TMĐT.
Trong ngắn hạn, mặc dù các nước đang phát triển chưa thể ứng dụng TMĐT
một cách toàn diện, mạng Internet vẫn có thể đem lại nhiều lợi ích cho công
việc kinh doanh của người dân ở các nước này qua việc kết nối họ với thế giới
bên ngoài. Ấn Độ là một trong các điển hình này. Nhờ chương trình
Gyandoor (“Đại sứ tri thức”) của chính phủ, một triệu người dân vùng Dhar,
một vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh của Ấn Độ, đã có thể biết đến Internet. Ở
những điểm truy cập Internet trong vùng, qua các nhân viên hướng dẫn sử
44
dụng, người nông dân chỉ cần bỏ ra một số tiền rất nhỏ là có thể biết được giá
cả nông sản trên toàn quốc. Nhờ vậy, họ có thể tránh được việc giảm thu nhập
từ việc bán nông sản vì thiếu thông tin giá cả như trước kia. Nhiều người còn
có thể bán đấu giá bò qua mạng và nộp hồ sơ điện tử vay vốn ngân hàng trong
một thời gian ngắn hơn trước kia nhiều lần. Chương trình này cũng giúp cải
thiện các dịch vụ công khi người dân có thể bày tỏ ý kiến của mình với chính
quyền thông qua thư điện tử.lvii Ở Bangladesh, người dân nông thôn cũng có
thể tiếp xúc với các dịch vụ điện thoại miễn phí được đầu tư từ ngân sách địa
phương (village-pay phone). Trong một trường hợp khác, một người phụ nữ
Pakistan đã nhận được đơn đặt hàng thảm dệt tay trị giá hàng nghìn USD qua
việc đăng quảng cáo trên mạng. Ngoài ra, hàng loạt các thông tin buôn bán,
giáo dục, y tế... được chuyển tải miễn phí qua mạng cũng đem lại cơ hội phổ
cập kiến thức và nâng cao trình độ dân trí ở các vùng xa xôi.
Trong dài hạn, nhiều nghiên cứu cho rằng việc tham gia vào TMĐT quốc tế
sẽ đem lại cho các nước đang phát triển cơ hội đẩy mạnh tốc độ hội nhập vào
nền kinh tế thế giới. Việc có được thông tin về các cơ hội buôn bán và đầu tư
ở các nước đang phát triển một cách dễ dàng và khả năng di chuyển vốn
nhanh chóng sẽ thu hút các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia mở rộng
các chi nhánh và nối kết nền kinh tế các nước này vào dây chuyền phân công
lao động quốc tế, giảm dần sự phụ thuộc vào các quan hệ kinh tế truyền thống
dựa trên khoảng cách địa lý. Panagriyalviii dẫn ra trường hợp Mỹ có hơn 100
công ty có mã số phần mềm ở Ấn Độ, nơi mà công việc được hoàn thành và
chuyển về một cách nhanh chóng bằng điện tử nhờ các nhà lập trình có tay
nghề cao với một chi phí lao động thấp hơn ở Mỹ. Người ta ước tính có hơn 4
triệu người trong lực lượng lao động ở Mỹ đang sống ở các nước khác và làm
việc cho các công ty Mỹ thông qua hệ thống điện tử với mức lương thấp hơn
thị trường truyền thống. Các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia... là
những nước có khả năng khai thác tốt nhất lợi ích tiềm năng này trong
TMĐT, nhưng các nước đang phát triển khác vẫn có cơ hội xuất khẩu lao
động trình độ cao trong các lĩnh vực khác. Nhờ vậy, các nước đang phát triển
có thể ngăn chặn được phần nào nạn “chảy máu chất xám”. Các ngành khác
45
như dịch vụ du lịch và xuất bản cũng được chờ đợi sẽ tận dụng được cơ hội
mở rộng trong TMĐT.
2. Thách thức đối với các nước đang phát triển trong TMĐT
2.1 Hố ngăn cách số (digital divide)
Về lý thuyết, không thể phủ nhận rằng TMĐT có tiềm năng rất to lớn. Song
khi nhìn nhận thực trạng phát triển công nghệ thông tin và TMĐT trên thế
giới, ngay cả những chuyên gia lạc quan nhất cũng phải thừa nhận rằng chỉ
nước Mỹ biết cách chuyển hoá tiềm năng đó thành hiện thực.lix Mức độ sẵn
sàng cho TMĐT (e-readiness) được đánh giá qua 3 yếu tố: mức độ phổ cập
Internet, hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và hệ thống luật pháp, trong đó
yếu tố hạ tầng sở công nghệ thông tin là điều kiện tiên quyết.lx Trên thực tế,
giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển tồn tại một
“Hố ngăn cách số”, hệ quả của quá trình phát triển không đồng đều. “Hố ngăn
cách số” được hiểu là sự chênh lệch trong trình độ phát triển hạ tầng cơ sở
công nghệ thông tin.lxi
Mức độ tiếp cận Internet phân bố rất phiến diện giữa các khu vực trên thế
giới. Mặc dù số người sử dụng Internet ở các nước đang phát triển tăng nhanh
trong vài năm trở lại đây, con số này vẫn duy trì ở mức thiểu số tương đối so
với các nước công nghiệp phát triển (xem biểu đồ 6). Kết quả này xuất phát từ
thực trạng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin ở nhiều nước đang phát triển còn
lạc hậu, chi phí cao và dịch vụ nghèo nàn. Ví dụ như số lượng đường thuê bao
điện thoại ở các nước Châu Phi Sahara chỉ bằng 1/70 ở các nước OECD và
1/17 ở các nước Mỹ La Tinh. Chi phí thuê đường truyền ở nhiều nước kém
phát triển cao gấp 20 lần ở nước Mỹlxii. Trong khi công nghệ truyền thông vệ
tinh đã phát triển hàng chục năm, ở nhiều vùng trên thế giới, điện thoại và
máy thu hình vẫn còn là một điều xa xỉ.
46
Nguồn: (2002)
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là các nước đang phát triển không đủ
tiềm lực tài chính để đầu tư cho phát triển. Hơn nữa, việc ứng dụng các thành
tựu khoa học công nghệ thông tin của thế giới đòi hỏi các nước phải có nguồn
nhân lực hiểu biết khoa học công nghệ. Lực lượng lao động ở nhiều nước
đang phát triển không có được điều này. Thêm vào đó, các nước này còn đang
phải đối mặt với nạn “chảy máu chất xám” (brain drain) do các chuyên gia
giỏi không có điều kiện phát triển trong nước bị thu hút sang các nước có nền
công nghệ tiên tiến hơn. Chính sách độc quyền nhà nước loại trừ cạnh tranh
trong ngành công nghệ thông tin cũng đóng góp vào tình trạng lạc hậu đólxiii.
Nếu tình trạng lạc hậu về trình độ công nghệ thông tin và ứng dụng Internet
tiếp tục kéo dài, “hố ngăn cách số” sẽ ngày càng mở rộng vì công nghệ thông
tin không ngừng phát triển. Điều đó sẽ khiến cho việc tận dụng các cơ hội
TMĐT mở ra để phát triển bắt kịp với thế giới trở thành không tưởng.
2.2 Lệ thuộc công nghệ
Hố ngăn cách số tạo nên một nghịch lý trong TMĐT. Bản thân TMĐT tạo nên
một không gian không có biên giới, nhưng không gian không có biên giới ấy
lại nằm trong lòng nước Mỹ. Trên thực tế, nước Mỹ đang không chế toàn bộ
công nghệ thông tin quốc tế, từ phần cứng đến phần mềm. Hệ điều hành
Windows sử dụng rộng rãi trên thế giới là của Mỹ, chuẩn công nghệ Internet
do Mỹ thiết lập, cả các phần mềm tầm cứu được ứng dụng nhiều nhất cũng do
các công ty Mỹ phát minh. Mỹ cũng đi đầu trong kinh tế số hóa và TMĐT
47
(xem mục 1.2.1 chương II). Tên miền .com (đại diện cho website thương mại
của Mỹ) hiện chiếm 50% số lượng website trên Internet, các nhà cung cấp
dịch vụ Internet phổ biến nhất như AOL Time Warner, Yahoo!, MSN,
Microsoft, Excite@Home hay LycosNetwork cũng đều ở nước Mỹ.lxiv
Điểm khác biệt căn bản giữa kinh tế Mỹ và kinh tế các nước đang phát triển là
trong lúc hầu các nước còn lại còn đang chật vật trong nền “kinh tế vật thể “
thì Mỹ đã vượt lên và tiến nhanh vào nền kinh tế tri thức, lấy sở hữu trí tuệ và
giá trị chất xám làm nền tảng, lấy công nghệ thông tin làm động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Sự khác biệt đó bộc lộ càng rõ trong TMĐT. Đó là
nguyên nhân tại sao Mỹ luôn đề cao vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ trong đàm
phán thương mại và là nước cổ vũ, thúc đẩy TMĐT mạnh mẽ nhất. Một khi
TMĐT trở thành phương tiện chính của thương mại quốc tế thì toàn thế giới
sẽ nằm trong tầm chi phối công nghệ của Mỹ. Lúc đó, Mỹ sẽ giữ vai trò người
bán công nghệ cho các nước khác, và đổi lại, các nước khác tiếp tục sản xuất
của cải vật thể phục vụ cho Mỹ. Sự lệ thuộc ấy sẽ ngày càng lớn vì công nghệ
luôn luôn đổi mới, các nước có trình độ công nghệ tiên tiến muốn đuổi kịp
Mỹ phải có những nỗ lực chiến lược lớn lao, trong khi nước Mỹ không đứng
yên. Các nước đang phát triển vốn chậm chân, sẽ có thể mãi mãi ở tầm thấp
hơn về công nghệ và khoảng cách số hóa giữa những nước này và các nước
phát triển sẽ tăng theo cấp số nhân.
Sự phụ thuộc đó không chỉ đem lại những thiệt thòi về kinh tế mà ở một tầm
cao hơn, an ninh quốc gia của các nước đang phát triển bị đe doạ vì các nước
phát triển có thể chi phối trình độ công nghệ và biết hết thông tin của các
nước thuộc đẳng cấp công nghệ thấp hơn. Theo đánh giá của nhiều cơ quan
nghiên cứu chiến lược, đây có thể là một nét đặc trưng của trật tự kinh tế quốc
tế trong thế kỷ 21. Do đó, các nước đang phát triển đã được cảnh báo phải xây
dựng một chiến lược đối phó thích hợp. Đóng cửa trước TMĐT đồng nghĩa
với việc thúc đẩy nhanh hơn quá trình tụt hậu so với xu thế phát triển công
nghệ và thương mại chung trên thế giới. Do đó, sự du nhập TMĐT là việc nên
làm và có cơ hội về lâu dài. Mặc dù vậy, các nước đang phát triển cần phải có
chiến lược tiếp cận TMĐT song song với phát triển năng lực trong nước về
48
khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong công nghệ thông tin để khỏi trở thành
quốc gia thứ cấp về công nghệ.
2.3 Thách thức từ các đề xuất TMĐT toàn cầu
2.3.1 Bị động trong quá trình hoạch định chính sách chung
Trong lúc các nước phát triển đưa ra hàng loạt các đề nghị về TMĐT trong
WTO, các nước đang phát triển bị đặt vào một tình thế bất lợi. Các nước này
phải đối mặt với áp lực phải lập tức tham gia vào quá trình hoạch định chính
sách ở cấp độ quốc tế trong một lĩnh vực mà hiện tại vẫn còn khá mơ hồ, chưa
được định nghĩa rõ ràng. Hơn nữa, hầu hết các nước đang phát triển chưa có
hoặc có rất ít kinh nghiệm, hiểu biết chuyên môn về TMĐT, trình độ kỹ thuật
công nghệ của họ còn rất hạn chế. Nhiều nước chưa lường hết tác động của
TMĐT cả về mặt kinh tế hay mặt xã hội trong quá trình phát triển của mình.
Như thế, họ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và có thể sẽ phải và đưa ra các
cam kết mà không ý thức được đầy đủ các lợi ích và nguy cơ từ việc làm đó.
Nhiều nước phương Nam, bị hấp dẫn bởi viễn cảnh bay cao trên đôi cánh
TMĐT, đã vội vã chấp nhận các tuyên bố và những lời hứa hẹn từ các nước
phát triển mà không tính đến thực lực hiện tại của mình. Trên thực tế, TMĐT
đang nằm trong tay số ít các nước phát triển và các tập đoàn đa quốc gia.
Thiểu số này thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật, các nguyên tắc và những vấn
đề khác trong TMĐT một cách có lợi nhất cho họ và hầu như không chú ý
đến ảnh hưởng đối vớí các nước đang phát triển.
Các chính sách toàn cầu đối với động lực chủ yếu của thương mại quốc tế
trong tương lai được hoạch định như thế sẽ tạo nên những hình thức thống trị
và phụ thuộc mới trong nền kinh tế toàn cầu thế kỷ 21. Vì vậy, các nước đang
phát triển cần nhiều nỗ lực và cần được hỗ trợ về thông tin và kỹ thuật trong
tiếp cận TMĐT một cách kỹ lưỡng ở cả cấp độ quốc gia và toàn cầu, để
TMĐT trở thành công cụ thu hẹp khoảng cách phát triển, công nghệ và tri
thức, hơn là làm sâu thêm hố ngăn cách, lạc hậu và bất bình đẳng giữa các
nước trên thế giới.
2.3.2 Thâm hụt thương mại và bảo hộ thị trường
49
Thâm hụt cán cân thanh toán (nhập siêu) luôn là một thách thức đối với các
nước đang phát triển. Nguồn thu xuất khẩu của các nước này phần lớn đến từ
việc bán các sản phẩm thô (nông sản, khoáng sản), các sản phẩm tiêu dùng
hoặc qua thực hiện các dịch vụ gia công có hàm lượng lao động cao và giá trị
gia tăng thấp ra nước ngoài. Ngược lại họ nhập khẩu các sản phẩm công nghệ
cao, máy móc và các dịch vụ đắt tiền từ các nước công nghiệp phát triển. Do
vậy, cán cân thanh toán của nhiều nước thường thâm hụt và họ thường phải
vay nợ nước ngoài để trang trải. Một khi tham gia vào TMĐT, nhiều khả năng
tình trạng thâm hụt thương mại không những không được cải thiện mà còn
xấu đi. Buôn bán trong TMĐT thường tập trung chủ yếu trong lĩnh vực dịch
vụ có hàm lượng tri thức cao và các sản phẩm công nghệ truyền thông, là
những lĩnh vực các nước phát triển chiếm ưu thế tuyệt đối. Mặt khác trong
tình hình hiện tại, Mỹ đang là nước xuất siêu trong TMĐT và xu hướng đó
còn kéo dài trong nhiều năm nữa. Mặt khác, các biện pháp bảo hộ thị trường
truyền thống như thuế quan hay quota đều khó có thể áp dụng trong TMĐT.
Do đó, ngoại trừ một số nước như Ấn Độ, Malaysia hay Trung Quốc có nhiều
tiềm năng xuất khẩu trong các lĩnh vực sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông
tin, kế toán... ra nước ngoài, cơ hội dành cho hầu hết các nước đang phát triển
khác là ít hơn.
Không liên quan trực tiếp đến hoạt động giao dịch TMĐT nhưng việc mở cửa
thị trường cho các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin là điều kiện để
phát triển cơ sở hạ tầng cho TMĐT. Đây lại là lĩnh vực mà đa số các nước
phát triển thực hiện chính sách bảo hộ để đảm bảo sự an toàn cho ngành công
nghệ thông tin còn non trẻ của nước mình. Chấp nhận TMĐT cũng đồng
nghĩa với việc phải dỡ bỏ rào cản bảo hộ và chấp nhận sự cạnh tranh không
cân sức với sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin từ bên ngoài.
2.3.3 Mất nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ thuế quan
Đánh thuế giao dịch TMĐT như thế nào vẫn còn là một điều gây bất đồng
giữa các nước và rất khó tìm được cơ chế áp dụng, vì thế các nước đã đồng ý
duy trì WTO Moratorium trong hiện tại. Theo tính toán của UNCTAD, việc
không áp đặt thuế quan cho TMĐT chỉ gây thất thoát khoảng hơn 1% nguồn
50
thu từ thuế cho ngân sách chính phủ cả thế giớilxv. Tuy nhiên, con số này chỉ
dựa trên cơ sở thuế quan áp dụng cho các dung liệu có hình thức hữu hình
tương đương và bỏ qua yếu tố khác như doanh thu có thể thu được từ việc
đánh thuế các dịch vụ thực hiện qua TMĐT. Hơn nữa, khi nhìn vào con số
thất thoát tuyệt đối (khoảng hơn 60 tỷ USD) và phần đóng góp của thuế quan
vào tổng thu ngân sách chính phủ các nước trên thế giới, một nghiên cứu của
chính UNCTADlxvi cho thấy các nước đang phát triển sẽ chịu thiệt nhiều hơn.
Nguồn: Susanne Teltscher, “Tariff, taxes and Electronic Commerce: Revenue
Implications for Developing Countries”, UNCTAD, 2001.
Biểu đồ trên cho thấy thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách chính phủ các
nước trên thế giới (khoảng 80%). Thuế nội địa đánh trên hàng hóa và dịch vụ
dóng góp nhiều nhất vào doanh thu từ thuế, doanh thu từ thuế nhập khẩu
chiếm 13.2% ngân sách và 17,5% doanh thu từ thuế. Mặc dù vậy, tỷ lệ này rất
khác nhau giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Thuế nhập
khẩu ở các nước đang phát triển chiếm 15.8% nguồn thu ngân sách (ở Việt
Nam là gần 30%lxvii) trong khi con số đó ở các nước phát triển chỉ là 3%. Hơn
nữa nhiều nước phát triển đã tiến hành tự do hoá thương mại, do đó thuế nhập
khẩu không phải là nguồn thu quan trọng đối với họ. Ngược lại, nhiều nước
đang phát triển không thể đánh thuế vào thu nhập đã quá thấp của người dân,
buộc phải dựa vào thuế nhập khẩu để trang trải một phần lớn chi tiêu chính
phủ. Trong điều kiện khối lượng TMĐT trong thương mại quốc tế tăng
nhanh, việc thất thoát nguồn thu từ thuế nhập khẩu sẽ càng làm cho chính phủ
các nước đang phát triển càng khó khăn hơn.
2.3.4 Đối diện với những bất ổn tài chính quốc tế
51
Thị trường tài chính quốc tế đang là một trong các thị trường mang tính toàn
cầu nhiều nhất với khối lượng hàng nghìn tỷ USD giao dịch mỗi ngày, đồng
thời thị trường này cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng và bất ổn nhất.
TMĐT tạo điều kiện thúc đẩy nhanh hơn luồng tài chính ra vào các nước và
làm vô hiệu hoá các quy định của nhà nước về kiểm soát ngoại hối do người
giao dịch có thể kinh doanh qua thị trường chứng khoáng ảo và ngân hàng
trung ương ở các nước đang phát triển khó có điều kiện kiểm soát luồng tài
chính vô hình này. Đây là cơ hội tốt để thị trường tài chính quốc tế phát triển
thuận lợi nhưng cũng là cơ hội tốt cho các nhà đầu cơ lũng đoạn nền tài chính
dễ bị tổn thương của các nước đang phát triển. Ví dụ điển hình là trong cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á năm 1998, nhà tỷ phú người Mỹ
George Soros chỉ ngồi trước bàn máy vi tính và kiếm lợi hàng triệu USD từ
việc đầu cơ tiền tệ qua thị trường chứng khoáng ảo của Thái Lan và
Indonesia. Hiệu ứng của cuộc khủng hoảng lan truyền rất nhanh chóng qua
nhiều nước khác vì các nhà đầu tư liên tục rút vốn ra khỏi các nước này.
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng có nhiều nhưng một trong số đó là thị
trường chứng khoáng trên mạng và khả năng di chuyển vốn tức thời đã đặt
nền tài chính các nước bị khủng hoảng đối diện trực tiếp với những hoạt động
đầu cơ và các bất ổn tài chính bên ngoài.
2.3.5 Quyền sở hữu trí tuệ gây khó khăn cho việc tiếp cận tiến bộ KHKT
Internet đem lại khả năng phát tán thông tin nhanh hơn bất kỳ phương tiện
nào khác và vì thế mở ra cơ hội cho các nước đang phát triển tiếp cận nhanh
chóng nguồn thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là các phần mềm
ứng dụng công nghệ thông tin và các phương pháp tổ chức kinh doanh. Mặc
dù việc nhân bản các phần mềm tin học mà không được phép của chủ sở hữu
là bất hợp pháp, thực tế này đã tạo điều kiện cho các ứng dụng công nghệ
thông tin và tin học phát triển rộng rãi trong dân chúng ở các nước đang phát
triển. Công bằng mà nói, những người sáng tạo ra tri thức xứng đáng được trả
tiền khi sản phẩm của họ được người khác áp dụng. Điều đó cũng tạo ra động
cơ cho hoạt động sáng chế ra công nghệ mới. Tuy nhiên, phần mềm công
nghệ thông tin liên tục đổi mới buộc người sử dụng phải liên tục cập nhật nếu
không muốn bị lạc hậu so với thế giới. Trong khi đó, người tiêu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài- Phát triển thương mại điện tử toàn cầu - thương mại điện tử trong khuôn khổ WTO.pdf